SlideShare a Scribd company logo
1 of 109
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐOÀN HỮU VĂN
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT
MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đoàn Hữu Văn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC
NGOÀI VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ........................ 7
1.1. Các Điều ước quốc tế đa phương quy định về hoạt động trợ
giúp pháp lý........................................................................................ 7
1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động trợ giúp pháp lý...................11
1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý
trên thế giới.......................................................................................11
1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về trợ giúp pháp lý...............14
Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ..........31
2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý ở
Việt Nam ..........................................................................................31
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1987.................................................................31
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997 .............................................36
2.1.3. Giai đoạn từ năm 1997 đến nay.........................................................41
2.2. Một số quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về trợ giúp
pháp lý ..............................................................................................50
2.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý................................................................50
2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện trợ giúp pháp lý.....52
2.2.3. Hình thức, lĩnh vực và kinh phí trợ giúp pháp lý..............................65
2.2.4. Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý...............................................73
2.3. Các Hiệp định tương trợ tư pháp ký kết giữa Việt Nam với
một số quốc gia liên quan đến vấn đề trợ giúp pháp lý...............77
Chương 3: SO SÁNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP
PHÁP LÝ GIỮA VIỆT NAM VỚI NƯỚC NGOÀI. MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP........................................................83
3.1. So sánh tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý giữa Việt
Nam với nước ngoài.........................................................................83
3.1.1. Những điểm tương đồng....................................................................83
3.1.2. Những điểm khác biệt .......................................................................84
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện tổ chức, hoạt động
trợ giúp pháp lý ở Việt Nam...........................................................85
KẾT LUẬN....................................................................................................98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................100
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT Viết tắt Nội dung từ
1. CHXH Cộng hòa xã hội
2. CTV Cộng tác viên
3. ĐDNTT Đại diện ngoài tố tụng
4. ĐƯQT Điều ước quốc tế
5. LHQ Liên hợp quốc
6. QPPL Quy phạm pháp luật
7. TGTT Tham gia tố tụng
8. TGPL Trợ giúp pháp lý
9. TVPL Tư vấn pháp luật
10. UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới, TGPL được hình thành khá sớm, khởi nguồn từ thành cổ
A-then vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Tiếp đến là Anh (thế kỷ
XV), Na Uy (thế kỷ XVII), Pháp (thế kỷ XVIII), Mỹ (nửa cuối thế kỷ XIX).
Sau đó, phát triển rộng khắp ở nhiều quốc gia trên thế giới kể từ sau đại chiến
thế giới lần thứ 2: Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Hàn Quốc (1972), Đức
(1981), Trung Quốc (1996)... Ở khu vực Đông Nam Á, TGPL đã xuất hiện ở
Singgapore, Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Philippine và Campuchia. Cùng
với tiến trình mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác kinh tế- quốc tế giữa các
quốc gia, TGPL đã được quy định trong nhiều Công ước quốc tế như Tuyên
ngôn nhân quyền của LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị
và dân sự năm 1976, Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953… và trong
nhiều ĐƯQT song phương được ký kết giữa các quốc gia liên quan đến vấn
đề tương trợ tư pháp.
Ở Việt Nam, TGPL ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia trong khu
vực và trên thế giới và còn là một khái niệm tương đối mới mẻ.
Việc thành lập mô hình tổ chức thực hiện TGPL miễn phí cho người
nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt ở
Việt Nam xuất phát từ chủ trương: “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp
nghĩa”, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất
của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu, tình hình thực tế đặt ra trong
xã hội gắn liền với nhu cầu tìm hiểu pháp luật, TGPL của người dân và trên
cơ sở nghiên cứu sâu rộng hoạt động của mô hình TGPL các nước trên thế
giới, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện TGPL thí điểm ở thành phố Cần
2
Thơ và tỉnh Hà Tây (cũ). Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 734/QĐ-TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo
và đối tượng chính sách, theo đó, Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và các Trung
tâm TGPL nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố ra đời với
chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động TGPL và quản lý nhà
nước về TGPL.
Trải qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, mô hình TGPL nước ta đã
có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu, tổ
chức cơ bản đi vào ổn định, đang từng bước thể hiện tính chuyên nghiệp, hiện
đại. Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL đã giải quyết trên 1,5 triệu vụ, việc
cho gần 1,4 triệu lượt đối tượng được TGPL có nhu cầu, qua đó khẳng định
vai trò, ý nghĩa của chính sách TGPL đối với đời sống xã hội, đặc biệt là vấn
đề “xóa đói, giảm nghèo”, nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân, hỗ trợ
bảo đảm quyền con người trong xã hội qua việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp,
đóng góp ý nghĩa vào việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam, pháp luật Việt Nam về chính trị- kinh tế- văn hóa- xã
hội- an ninh- quốc phòng và vào công tác thực thi, thi hành pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Đi cùng với sự thành công trong hoạt động TGPL thời gian qua là sự
quyết tâm cao của của Đảng và Nhà nước ta trong công tác hoàn thiện thể
chế, chính sách điều chỉnh hoạt động này. Với một khối lượng văn bản khá
đồ sộ, đặc biệt quan trọng phải kể đến là Luật TGPL được Quốc hội khóa
XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, Quyết định số 792/QĐ-TTg
ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án: "Quy hoạch
mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai
đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015" và Quyết định số 678/QĐ-
TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát
3
triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã tạo
hành lang, cơ sở pháp lý vững chắc cho TGPL Việt Nam không ngừng lớn
mạnh và phát triển ở hiện tại và trong tương lai, là nền tảng định hướng quan
trọng để đáp ứng đầy đủ, đạt chất lượng, hiệu quả mọi nhu cầu, nguyện
vọng, vướng mắc cần được TGPL của người dân đặc biệt là của người nghèo
và các đối tượng chính sách.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì TGPL Việt Nam vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ thực trạng tổ chức, bộ máy, nguồn lực
phục vụ đến thực tiễn hoạt động. Vì vậy, để TGPL nước ta thực sự thể hiện
tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao, theo kịp với xu thế phát triển
TGPL trên thế giới nhất là với các nước có mô hình TGPL tiên tiến, hiện đại
để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu TGPL của người dân với chất lượng cao thì
còn nhiều việc phải làm, nhiều biện pháp phải giải quyết liên quan đến yêu
cầu tăng cường hợp tác quốc tế về TGPL, đẩy mạnh kiện toàn bộ máy tổ chức
thực hiện, đổi mới cách thức hoạt động, đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất,
nguồn kinh phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc cùng sự quan
tâm ủng hộ, đóng góp tích cực, mạnh mẽ của đông đảo nguồn lực trong xã hội
dành cho TGPL.
Từ những vấn đề trên, để nhận thức đầy đủ, sâu sắc về một chính sách
xã hội nhân đạo, nhân văn gắn với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
và các quốc gia trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn, từ đó xây dựng những
luận điểm, giải pháp, kiến nghị khoa học, xác đáng nhằm đẩy mạnh hiệu quả
tổ chức, hoạt động TGPL nước ta. Tôi chọn đề tài: “Pháp luật quốc tế, pháp
luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động TGPL” làm luận
văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của Đề tài
Trước khi nghiên cứu, xây dựng đề tài này đã có một số công trình
4
nghiên cứu khoa học cấp bộ và luận văn thạc sĩ chuyên ngành nghiên cứu về
thể chế, chính sách, mô hình tổ chức, hoạt động TGPL như: Luận văn thạc sĩ
luật học của tác giả Vũ Hồng Tuyến về hoàn thiện pháp luật về người thực
hiện TGPL ở Việt Nam (năm 2004), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Nguyễn
Huỳnh Huyện về thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách ở Việt Nam (năm 2006), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Đỗ Xuân
Lân về hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt
Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa
học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp về mô hình tổ chức và hoạt động TGPL,
phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay (năm 1999), Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ cùng Viện về luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng
Pháp lệnh TGPL (năm 2004)…
Nội dung của các luận văn, công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân
tích, làm rõ một số nội dung quan trọng, thiết yếu trong quá trình tổ chức,
hoạt động TGPL, cơ bản, trọng tâm là tổng hợp, đánh giá thực trạng, đưa ra
giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách TGPL ở Việt Nam. Tuy nhiên, xét
trên phương diện khách quan, hiện vẫn chưa có công trình, luận văn nào tập
trung nghiên cứu khái quát, bao trùm hoạt động TGPL trên diện rộng, từ
những quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia cho đến
pháp luật Việt Nam cùng việc chứng minh thực tiễn tổ chức, hoạt động và tìm
hiểu quá trình hình thành, phát triển.
Vì vậy, việc xây dựng Luận văn thạc sĩ này sẽ có nhiều điểm mới, mở
rộng hơn so với các đề tài nghiên cứu, luận văn thạc sĩ trước đó. Nội dung
luận văn là những tổng hợp, nghiên cứu các ĐƯQT đa phương và song
phương, cơ bản và chủ yếu là các văn bản mà Việt Nam là thành viên ký kết
hoặc gia nhập liên quan đến TGPL, những quy định cơ bản trong chính sách,
pháp luật và thực tiễn tổ chức, hoạt động TGPL ở một số quốc gia trên thế
5
giới và ở tại Việt Nam. Trên cơ sở xác định những điểm tương đồng và khác
biệt trong cách thức tổ chức, bộ máy, tác giả đưa ra những giải pháp tích cực
với mong muốn đóng góp một phần sức nhỏ vào công cuộc đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL Việt Nam ở giai đoạn hiện nay và các
giai đoạn kế tiếp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn thạc sĩ tập trung nghiên cứu đối tượng chính là TGPL, một
chính sách nhân đạo, từ thiện, mang đậm bản chất nhân văn đang được các quốc
gia đầu tư phát triển. Xoay quanh đối tượng chính là những nội dung được quy
định trong pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam,
cùng với việc tổng hợp, đánh giá tiến trình hình thành, phát triển, cách thức xây
dựng, quá trình tổ chức, hoạt động ở một số nước và ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi rộng, bao gồm: Các
ĐƯQT đa phương về TGPL mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập;
Hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam với các quốc gia có
đề cập đến vấn đề này; Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia quy định về
khái niệm, mô hình TGPL, người thực hiện TGPL, đối tượng thuộc diện
TGPL, hình thức, lĩnh vực, kinh phí dành cho TGPL và quản lý nhà nước về
TGPL. Với những điểm tương đồng và khác biệt về TGPL giữa Việt Nam với
một số quốc gia, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động là những vấn đề trọng tâm,
cần thiết theo phương diện cá nhân để hoàn thiện tổ chức, đẩy mạnh hoạt
động TGPL ở Việt Nam trong tiến trình bảo vệ quyền lợi của người nghèo và
các đối tượng chính sách.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa khoa học
biện chứng và chủ nghĩa khoa học lịch sử trong mối quan hệ tổng hòa, tương
hỗ chặt chẽ lẫn nhau để làm sáng tỏ các vấn đề từ góc độ lý luận và thực tiễn.
6
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng trong quá trình
viết Luận văn là: Phương pháp tư duy trừu tượng; phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương
pháp so sánh và phương pháp hệ thống.
5. Kết cấu của Luận văn
Không bao gồm mục lục, phần mở đầu, kết luận và nguồn tài liệu tham
khảo, Luận văn được xây dựng với bố cục gồm 03 Chương:
Chương 1. Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL.
Chương 2. Pháp luật Việt Nam về TGPL.
Chương 3. So sánh tổ chức và hoạt động TGPL giữa Việt Nam với
nước ngoài. Một số kiến nghị, giải pháp.
7
Chương 1
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
1.1. Các ĐƯQT đa phương quy định về hoạt động TGPL
Để tăng cường bảo vệ quyền con người, các quốc gia đều quan tâm đến
việc xây dựng nhà nước pháp quyền cùng với việc đặt tổ chức và hoạt động
của công quyền trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, quyền
con người cũng gắn liền với các trào lưu tiến bộ xã hội của nhân loại để
không ngừng mở rộng và nâng cao giá trị dân chủ, xác lập vị thế, vai trò quan
trọng của các cá thể- con người, chủ thể của mọi hành vi trong xã hội. Pháp
luật trở thành một trong các công cụ quan trọng của nhà nước pháp quyền
điều chỉnh xã hội để bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia. Trong đó, pháp
luật với công chúng, nhất là những bộ phận dân nghèo, yếu thế, dễ bị tổn
thương trong xã hội là một vấn đề mà các chế độ chính trị khác nhau ở tất cả
các nước đều quan tâm nghiên cứu và giải quyết theo cách riêng sao cho hiệu
quả, phù hợp với truyền thống pháp luật, điều kiện kinh tế-xã hội.
Từ yêu cầu và trong xu thế hội nhập quốc tế, vấn đề bảo vệ quyền con
người được ghi nhận trong nhiều ĐƯQT, mà ở đó TGPL được khẳng định
như một quyền độc lập của con người, đồng thời là công cụ để bảo vệ các
quyền công dân khác.
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo
Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng LHQ) đã trịnh
trọng tuyên bố:
…Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về
nhân phẩm và quyền . Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý
trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau tro ng tình bằng hữu…
8
và … Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền
được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự
phân biệt đối xử nào…[21].
Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng LHQ đã đưa ra tuyên bố về nguyên tắc
và những hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự, trong
đó TGPL được thừa nhận:
…Là một thành tố cơ bản của một hệ thống tư pháp hình sự
dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các
quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là
một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và
niềm tin của công chúng đối với tiến bộ của hệ thống tư pháp hình
sự… và Nhà nước cần bảo đảm quyền được TGPL trong hệ thống
pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể [27].
Đồng thời, Tuyên bố xác định rõ nguyên tắc TGPL dành cho các đối
tượng cụ thể như: người bị tình nghi hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự, nạn
nhân của tội phạm, nhân chứng, trẻ em, phụ nữ và nhóm người có yêu cầu đặc
biệt cùng sự bảo đảm, bảo vệ người thực hiện TGPL, thẩm quyền, trách
nhiệm của họ trong quá trình thực thi công vụ. Từ những nguyên tắc, nội
dung mang tính định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện chính sách TGPL với
tư cách một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống tư pháp hình
sự ở các quốc gia, từ đó khẳng định, phát huy giá trị mạnh mẽ của TGPL cho
các đối tượng trong quá trình tố tụng.
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị được thông qua và để
ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200
(XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực ngày 23/3/1976
(Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) đã đặt ra quy định khi xét xử về một tội
hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng việc
9
có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự TGPL theo sự
lựa chọn của mình, được thông báo về quyền này nếu chưa có sự TGPL và
được nhận sự TGPL theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi
hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả.
Ngoài ra, Công ước này còn quy định về quyền giúp đỡ khi bị bắt hoặc giam
giữ mà bị tước tự do; quyền bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán;
quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc
lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; thủ tục đặc biệt đối với
người chưa thành niên; quyền được xem xét lại vụ việc, mức án tại Tòa án
cao hơn; quyền được công nhận ở bất kỳ đâu là một con người trước pháp
luật; quyền và cơ hội tiếp cận nói chung các dịch vụ công cộng ở đất nước
mình; quyền của người dân tộc thiểu số; quyền suy đoán vô tội trước khi có
bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án [23]… Đây là những quyền cơ bản
của con người trong hoạt động tố tụng, rộng hơn là ở đời sống xã hội liên
quan trực tiếp hay gián tiếp đến quyền TGPL.
Công ước quốc tế về quyền trẻ em thông qua và để ngỏ cho các quốc
gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 44-25 ngày 20/11/1989 của
Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực từ ngày 2/9/1990 (Việt Nam phê chuẩn
ngày 20/2/1990), theo điều 49 của Công ước thì trẻ em phải được đặc biệt trao
cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc
hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại
diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc
thủ tục trong pháp luật quốc gia và các quốc gia thành viên phải bảo đảm trẻ
em bị tước tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận sự TGPL và những trợ
giúp thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của
việc tước tự do đó trước một Tòa án hay cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô
tư khác và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ
hành động nào như vậy [24].
10
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại
phụ nữ được thông qua và để mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập
theo Nghị quyết 34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu
lực từ ngày 3/9/1981 (Việt Nam phê chuẩn ngày 18/12/1982) đã quy định
các quyền cơ bản của người phụ nữ được sự bảo vệ của luật pháp nhằm
chống lại nạn phân biệt đối xử, bảo đảm bình đằng giới, trong đó cũng đề
cập đến vấn đề TGPL.
Công ước quốc tế về người khuyết tật được Đại Hội đồng LHQ thông
qua ngày 13/12 /2006 (Việt Nam là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước
vào ngày 22/10/2007) quy định các quốc gia thành viên của Công ước này
cam kết thực hiện những biện pháp phù hợp để tạo sự tiếp cận cho người
khuyết tật đối với những hỗ trợ pháp lý mà họ cần khi thực hiện năng lực
pháp lý và đảm bảo khả năng tiếp cận có hiệu quả đối với các dịch vụ tư pháp
cho người khuyết tật [26].
Như vậy, các Tuyên bố, ĐƯQT đa phương mà Việt Nam là thành viên
ký kết hoặc gia nhập đã quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp quyền được
TGPL nằm trong các quyền cơ bản của con người và là cơ sở để các quốc gia
thành viên cụ thể hóa phù hợp trong các văn bản QPPL nước mình.
Tuy nhiên, tổng hợp tính đến thời điểm hiện tại, nội dung các ĐƯQT
đa phương quy định về TGPL mới chỉ điều chỉnh vấn đề theo cách chung,
khái quát cho một số đối tượng nhất định và hiện chưa có văn bản quy định
tập trung, thống nhất, đầy đủ về vấn đề này. Điều này gây ra khó khăn không
nhỏ trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm vững các quy định về TGPL trong
các văn bản pháp luật quốc tế cũng như việc pháp điển hóa vào pháp luật các
quốc gia thành viên.
Từ thực trạng trên, tác giả nhận thấy các tổ chức quốc tế, các quốc gia
cần hợp tác nghiên cứu, xây dựng một ĐƯQT thống nhất điều chỉnh toàn diện,
11
đầy đủ về vấn đề này, tránh những mâu thuẫn, trồng chéo giữa các văn bản đã
đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề TGPL. Nội dung của ĐƯQT chung cần
xác định chính xác, hướng trọng tâm vào khái niệm TGPL, các đối tượng được
TGPL, quyền và nghĩa vụ của họ, hình thức, lĩnh vực thực hiện, trình tự, thủ
tục khi có yêu cầu và cách thức hợp tác quốc tế giữa các quốc gia về TGPL.
1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL
1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của TGPL trên thế giới
Hình thành bắt đầu từ thành cổ A- then vào khoảng thế kỷ thứ X trước
Công nguyên. Đến năm 224, Nhà nước Lã Mã ban hành đạo luật cấm những
người biện hộ nhận tiền công. Ở nước Anh, từ thế kỷ XV pháp luật Anh quốc
đã có quy định: “cần dành cho người nghèo khổ sự giúp đỡ để họ được hưởng
quyền lợi mà pháp luật ban cho”. Năm 1495, vua Henry VII trong một nghị
án đã có quy định cụ thể hơn về vấn đề này: “Chính nghĩa cần được dành
chung cho người nghèo để thực hiện quyền tự do họ được hưởng- điều đó là
tự nhiên không gì thay thế”.
Ở Châu Âu lục địa, TGPL có nguồn gốc từ quyền được tư vấn và xét
xử công bằng của công dân trước pháp luật. Theo đó, người nghèo được miễn
án phí, được cung cấp luật sư miễn phí khi không có đủ khả năng tài chính để
chi trả thù lao thuê luật sư. Những năm đầu thế kỷ XX, một số nước Châu Âu
chưa coi TGPL là trách nhiệm của mình mà dựa vào hoạt động TGPL mang
tính từ thiện của luật sư. Nhà nước sẽ chi trả một khoản thù lao nhất định cho
luật sư khi thực hiện TGPL. Tuy nhiên, để hạn chế việc chi trả thù lao cho
luật sư miễn phí trong các vụ việc tố tụng, một số nước đã quy định nghĩa vụ
TGPL bắt buộc của luật sư trong các văn bản pháp luật.
Giữa các nước theo truyền thống pháp luật thành văn và các nước theo
truyền thống án lệ có cách tiếp cận khác nhau về quyền có luật sư miễn phí.
Các nước theo truyền thống pháp luật thành văn thường nhấn mạnh về quyền
12
có luật sư trong tố tụng dân sự và đương sự được cung cấp dịch vụ TGPL
thông qua một luật sư do khách hàng yêu cầu, trong khi các nước theo truyền
thống án lệ thường nhấn mạnh đến quyền được tư vấn và cung cấp TGPL chủ
yếu liên quan đến thủ tục tố tụng pháp luật hình sự.
Tại Na Uy, từ thế kỷ XVII đã xuất hiện loại hình tranh tụng miễn phí.
Trong thời gian này, nhà vua đã ban hành một số Sắc lệnh cho người nghèo
nộp đơn xin luật sư TGPL tại Tòa án để tránh sự bất công đối với người
nghèo và sự bất bình của công chúng. Những luật sư (hoặc công tố viên) được
nhà vua chỉ định thực hiện những vụ việc TGPL này sẽ được nhận một khoản
thù lao theo mức quy định.
Tại Mỹ, ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX, khi các bang của Mỹ thành lập
Hiệp hội luật sư và các tổ chức tương tự đã quy định rõ quy phạm hành vi đạo
đức của luật sư, trong đó có một số nội dung tương đối đầy đủ là: “Quy tắc
hành vi TGPL của luật sư”. Sau đó không lâu, để làm nổi bật hơn nội dung
TGPL, một Hiệp hội luật sư của Mỹ đã chuyển hướng tập trung sáng lập một
hình thức mới để giải quyết vấn đề TGPL cho người nghèo. Hình thức này có
tổ chức hơn và mang tính quy phạm hơn, coi đây là một thiên chức của luật sư.
Tại Pháp- một nước tiêu biểu trong số các nước theo hệ thống pháp luật
lục địa, sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, ở các hiệp hội luật sư
dần dần hình thành một tập quán là trước Tòa án, luật sư biện hộ cho người
nghèo không thu phí. Đến năm 1851, tập quán này trở thành một chính sách
trong các quy định pháp luật gọi là “Luật luật sư trợ giúp”. Đối với vụ án bị
xử tội danh nặng thì phải chỉ định luật sư biện hộ cho bị cáo, còn những vụ án
xử tội danh nhẹ, Chánh án Tòa án cũng có thể chỉ định biện hộ nếu bị cáo yêu
cầu và chứng minh được mình thực sự nghèo khó. Ngoài ra, đối với các vụ án
tranh chấp liên quan đến tiền dưỡng lão, tội phạm vị thành niên, tai nạn nghề
nghiệp, tiền công lao động, thất nghiệp… pháp luật cũng quy định đều phải có
13
sự trợ giúp khi tiến hành xét xử.
Sau đại chiến thế giới lần thứ II, sự tăng trưởng về kinh tế cùng với
quan niệm tư tưởng xã hội hóa phúc lợi, các nhà nước đã thúc đẩy TGPL
phát triển lên giai đoạn mới. Trong giai đoạn này, hệ thống TGPL tương đối
đầy đủ, chính thức đã được thành lập như: Tại Anh (Năm 1949), Ontario-
Canada (1951), Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Đức (1981), Hàn Quốc
(1972), Trung Quốc (1996)… Trong khu vực Đông Nam Á, cùng với Việt
Nam, TGPL đã xuất hiện tại Singgapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia,
Philippine, Cămpuchia. Bên cạnh đó, TGPL đã trở thành quy phạm chịu sự
điều chỉnh của pháp luật quốc tế thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền của
LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị và dân sự năm 1976,
Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953 và nhiều văn bản pháp luật
quốc tế khác.
Gần đây, dưới sức ép của công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực thi dân
chủ, bảo đảm quyền con người, nhiều Chính phủ đã quan tâm hơn đến việc
cung cấp dịch vụ pháp lý thiết yếu cho người nghèo và đối tượng đặc biệt để
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là quyền đại diện,
quyền bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng.
Cùng với sự phát triển của nghề luật sư và mạng lưới tổ chức dân sự,
ngày càng có nhiều luật sư, tổ chức xã hội cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn
phí cho người nghèo và một số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Vì thế, hầu
hết pháp luật các nước đều ghi nhận trách nhiệm của nhà nước và xã hội, đặc
biệt là luật sư trong việc TGPL.
Nhiều nước đã thiết lập mô hình TGPL hỗn hợp mà ở đó có sự kết hợp
chặt chẽ giữa TGPL của nhà nước với TGPL mang tính xã hội. Các hình thức
TGPL cũng đa dạng, phong phú như gặp trực tiếp, qua thư, điện thoại...Người
được TGPL không chỉ là người nghèo mà còn bao gồm trẻ em, phụ nữ là nạn
14
nhân của nạn buôn bán phụ nữ và bạo lực gia đình, người già cô đơn, người tị
nạn, người dân tộc thiểu số. Khái niệm TGPL được phát triển theo nghĩa rộng
hơn: “tiếp cận công lý”- tiếp cận có hiệu quả nhu cầu pháp luật, không chỉ đại
diện, bào chữa, TVPL mà còn là phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải nhằm
nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Trước nhu cầu phát triển của TGPL trong đặc điểm, tình hình mới,
pháp luật về TGPL ở các nước trên thế giới đã có nhiều chỉnh sửa, hoàn thiện
phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước và trở thành công cụ, hình thức
hữu hiệu trong việc giúp đỡ, hỗ trợ những người nghèo, đối tượng đặc thù cần
được quan tâm trong xã hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, góp phần đảm
bảo được sự bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội và vào việc giữ gìn trật tự trị
an, thực hiện chính sách an sinh xã hội ở mỗi quốc gia.
1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về TGPL
1.2.2.1. Khái niệm TGPL
Với thuật ngữ khởi đầu bằng tiếng Anh là: “legail aid”, thì TGPL ở
mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau. Giới hạn Luận văn này tập trung
nghiên cứu khái niệm trong quy định của một số nước.
Theo Luật TGPL của Bang Victoria năm 1978 thuộc Australia thì
TGPL là: Giáo dục, tư vấn, thông tin pháp luật; Bất cứ dịch vụ pháp luật nào
do luật sư cung cấp; Các dịch vụ khác trong phạm vi thẩm quyền của TGPL,
bao gồm dịch vụ của luật sư theo nghĩa vụ, TVPL và hỗ trợ pháp luật [2].
Là đại diện cho khách hàng trước Tòa án nhằm giúp đỡ những người
không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý (Đạo luật về đại diện và tư
vấn pháp lý năm 1995 của Singgapore) [43].
Là việc tư vấn và đưa ra ý kiến; soạn thảo các hợp đồng; cung cấp cách
dịch vụ pháp lý phục vụ cho hoạt động tranh tụng cho những người nghèo và
người bị đối xử bất công (Đạo luật về hành nghề luật B.E 2528 năm 1985 của
15
Thái Lan) [44].
TGPL bao gồm TVPL, việc đại diện trước Tòa án và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác, các biện pháp cần thiết và việc miễn trừ các chi phí
cụ thể cho những người không đủ điều kiện chi trả chi phí dịch vụ pháp lý
(Đạo luật TGPL của Phần Lan năm 2001) [37].
Sự trợ giúp trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có
thể sử dụng, gồm cả biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp
dụng pháp luật (Luật về TGPL năm 1988 của Anh) [1].
Là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân không thể
thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp (Luật về
công ty dịch vụ pháp lý của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1977) [29].
Tại Đức: TGPL là giúp đỡ một phần hay toàn bộ tài chính cho những
người không có khả năng thanh toán các chi phí về TVPL, đại diện hoặc bào
chữa trước Toà án…
Tuy mỗi nước có cách quy định rộng hay mở về TGPL, song đặc điểm
chung trong quy định khái niệm về TGPL đều thể hiện rõ nét bản chất nhân
đạo, từ thiện, chính là: Giúp đỡ miễn phí cho những người không có khả năng
thanh toán dịch vụ pháp lý được hưởng các hình thức TGPL theo quy định.
Điều này là điểm khác biệt giữa TGPL miễn phí cho đối tượng có hoàn cảnh
khó khăn với hoạt động hành nghề có thu phí từ khách hàng của luật sư.
1.2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện TGPL
* Mô hình tổ chức TGPL
Mô hình tổ chức TGPL là các thiết chế được lập ra để thực hiện TGPL
cho những người thuộc diện được thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Các thiết
chế đó có thể do Nhà nước hoặc một tổ chức xã hội thành lập hoặc cũng có
thể do một cá nhân đảm nhiệm.
Do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội chi phối nên các nước đã hình
16
thành nhiều mô hình TGPL khác nhau với những hoạt động rất đặc thù. Sự
khác nhau được thể hiện ở chỗ, đối với các Nhà nước đơn nhất có một hệ
thống pháp luật và việc phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ
thống nhất trong toàn quốc như Philippine, Trung Quốc, Nepal, Nam Phi,
Singapore… thì tổ chức thực hiện TGPL về cơ bản là thống nhất. Tuy nhiên,
ở các quốc gia liên bang với sự tồn tại của hai hệ thống pháp luật: liên bang
và bang, với sự độc lập tương đối của chính quyền bang như Hoa Kỳ, Canada,
Anh, Thụy Sỹ, Australia… thì mỗi bang có một mô hình tổ chức TGPL riêng
biệt của mình.
Nghiên cứu pháp luật về TGPL ở một số nước cho thấy, trên thế
giới hiện nay tồn tại ba mô hình tổ chức TGPL phổ biến là: mô hình từ
thiện, mô hình luật sư trợ giúp được trả lương từ ngân sách nhà nước và
mô hình hỗn hợp [28].
Thứ nhất, mô hình từ thiện
Đây là mô hình sơ khai nhất, hình thành sớm nhất vào giữa thế kỷ 19 ở
Đức, Hà Lan, Anh và sau này phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo
mô hình này, hoạt động TGPL chủ yếu do các luật sư tư hành nghề tự do thực
hiện trên cơ sở tự nguyện, không bắt buộc, mang tính chất từ thiện. Hiện nay,
ở hầu hết các nước trên thế giới đều kết hợp duy trì mô hình này cùng với các
mô hình khác, nhưng có tính tổ chức hơn và được pháp luật quy định.
Mô hình này có những đặc điểm sau: Hoạt động TGPL hoàn toàn miễn
phí, người được trợ giúp không phải đóng góp bất cứ khoản chi phí nào; Hoạt
động TGPL mang tính tự phát, không phải là nghĩa vụ bắt buộc mà xuất phát
từ ý chí của mỗi luật sư, do luật sư hành nghề tự do thực hiện trên cơ sở tự
nguyện; Phụ thuộc vào lòng từ thiện của luật sư và các tổ chức tư vấn.
Hạn chế của mô hình này không mang tính thường xuyên, liên tục,
không giúp đỡ được nhiều người, không đáp ứng được tất cả các nhu cầu
TGPL trong xã hội, chỉ được thực hiện khi có luật sư tình nguyện giúp đỡ
17
miễn phí. Chất lượng vụ việc đôi khi hạn chế do các vụ việc chủ yếu do luật
sư trẻ, luật sư tập sự, chưa có nhiều kinh nghiệm thực hiện.
Thứ hai, mô hình luật sư trợ giúp được trả lương từ ngân sách nhà nước
Đây là mô hình TGPL do Nhà nước tài trợ và hoạt động được thực hiện
chủ yếu do đội ngũ luật sư công và luật sư tư thực hiện. Nhà nước tuyển dụng
các luật sư làm việc thường xuyên cho tổ chức TGPL và trả lương họ theo
tháng mà không theo vụ việc. Các tổ chức TGPL được thành lập và hàng năm
được Nhà nước cấp một khoản kinh phí theo dự toán và được phép sử dụng,
quản lý nguồn kinh phí này một cách độc lập để thực hiện các hoạt động liên
quan đến TGPL. Theo mô hình này, tổ chức TGPL có thể chủ động đến gặp
đối tượng cần trợ giúp mà không cần chờ họ đến gặp mình. Hiện nay, mô
hình này được áp dụng ở Mỹ và bang Quebec (Canada) và một số nước khác.
Mô hình này có đặc điểm sau: Hoạt động TGPL được thực hiện miễn
phí, toàn bộ chi phí cho hoạt động TGPL do ngân sách nhà nước cấp, đối
tượng trợ giúp không phải đóng góp một khoản tiền nào; đội ngũ luật sư công
và luật sư tư thực hiện TGPL được Nhà nước trả lương cố định mà không
hưởng lương theo vụ việc; đương sự được lựa chọn trong số các luật sư của tổ
chức TGPL; số vụ việc TGPL rất hạn chế, một số tổ chức TGPL bó hẹp phạm
vi trợ giúp trong lĩnh vực tư vấn, kiến nghị, nếu là đại diện bào chữa thì phải
mời luật sư tư.
Điểm yếu có bản của mô hình này là nguồn kinh phí hoàn toàn phụ
thuộc vào Chính phủ, do vậy không thể đáp ứng được nhu cầu TGPL ngày
càng tăng của xã hội.
Thứ ba, mô hình hỗn hợp
Là một mô hình hữu hiệu và phổ biến nhất hiện nay do kết hợp được tất
cả các điểm mạnh của các mô hình khác nhau. Đó là sự kết hợp giữa hoạt
động TGPL của Nhà nước (luật sư công) với tổ chức luật sư tư được Nhà
18
nước tài trợ hoặc do các luật sư tư thực hiện trên cơ sở tự nguyện mang tính
từ thiện, nhưng được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Mô hình này
được áp dụng phổ biến ở các nước: Anh, Nhật, Hà Lan, Australia, Nam Phi,
Thụy Điển, Trung Quốc. Theo mô hình này, ở các nước đều có một Ủy ban
TGPL Trung ương điều hành. Dưới Ủy ban có các Ban hỗ trợ pháp lý (Thụy
Điển) hoặc Văn phòng TGPL (Anh, Nam Australia). Dưới Văn phòng TGPL
là Trung tâm TGPL. Hoạt động TGPL chủ yếu do luật sư công (Australia,
Philipine, Trung Quốc) và luật sư tư hành nghề tự do thực hiện. Đây là mô
hình trợ giúp được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng.
Mô hình này có các đặc điểm sau đây: Cơ quan nhà nước đóng vai trò
chủ đạo như một cơ quan trung gian giữa khách hàng và luật sư, do vậy tiết
kiệm được thời gian và thuận lợi cho khách hàng vì các luật sư không phải
làm các công việc hành chính hàng ngày, đối tượng TGPL được tự do lựa
chọn luật sư theo nguyện vọng; được Nhà nước tài trợ một phần kinh phí để
giúp đỡ cho các đối tượng được trợ giúp miễn phí, một phần kinh phí do đối
tượng nộp, nghĩa là đối tượng phải nộp một phần chi phí trợ giúp khoảng 10,
20 hoặc 30% chi phí, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh khó khăn của đối tượng;
trợ giúp được nhiều loại vụ việc khác nhau; việc đưa ra ý kiến sẽ dễ dàng hơn
vì khách hàng không nhất thiết phải đến luật sư mà vẫn nhận được sự tư vấn;
những người không phải làm chuyên môn có nhiều cơ hội tiếp cận pháp luật
khi làm việc ở các tổ chức của Nhà nước.
Như vậy, dù theo bất kỳ mô hình nào, đặc trưng mang tính bản chất của
TGPL là một loại nghề nghiệp đặc biệt vừa mang tính chính trị - pháp lý, vừa
mang tính nhân đạo, từ thiện: “giúp đỡ pháp lý cho những người không có
khả năng thanh toán chi phí khi tiếp cận công lý”. Hoạt động này trở thành
một trong những chức năng xã hội của bất kỳ Nhà nước nào.
* Đối tượng TGPL
Do sự khác biệt về chế độ chính trị, tình hình kinh tế- xã hội nên pháp
19
luật mỗi nước đều có những quy định khác nhau về điều kiện, tiêu chuẩn
được TGPL, song đều dựa trên một số tiêu chí cơ bản.
Đầu tiên phải kể đến, đối tượng được TGPL là những người nghèo,
không có hoặc không đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý.
Chính vì vậy, khi gặp phải những vướng mắc pháp luật hay khi TGTT, họ
thường phải chịu thiệt thòi vì không có tiền mời luật sư. Bản thân họ lại
không hiểu biết đầy đủ về pháp luật nên không tự bảo vệ được quyền lợi cho
mình. Người nghèo là đối tượng trợ giúp phổ biến ở tất cả các nước, thậm chí
là đối tượng duy nhất được TGPL theo pháp luật một số nước như Mỹ, Hà
Lan, Nam Phi, Nê-pan.
Bên cạnh người nghèo, đối tượng được TGPL là những người không có
khả năng tự bảo vệ như người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần,
người tàn tật, người chưa thành niên, người già, nạn nhân của bạo lực gia
đình, người đòi bồi thường trong các vụ án hình sự… cần được TGPL về
pháp luật (áp dụng ở Trung Quốc, Đức, Singgapore).
Hay là những người có vụ việc liên quan đến cơ quan tiến hành tố tụng
như người bị tạm giữ, tạm giam, người bị truy tố theo mức hình phạt chung
thân hoặc tử hình,… cần được giúp đỡ để thực hiện các quyền của bị can, bị
cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng và bảo đảm rằng các cơ quan này
không lạm dụng quyền hạn để có những xử sự bất lợi cho họ (như Anh, Thụy
Điển, Úc…).
Ngoài ra, còn một số đối tượng khác được thụ hưởng chính sách TGPL
như: người tị nạn, công dân nước ngoài làm thuê, người dân tộc thiểu số,
người nước ngoài, người không có quốc tịch (như Trung Quốc, Cămpuchia).
Tuy nhiên, ở một số quốc gia như Thụy Điển, Nam Phi thì đối tượng
được TGPL là tất cả công dân.
Theo quy định trong pháp luật của đa số các nước thì để được TGPL,
20
đối tượng phải chứng minh được mình thuộc diện được trợ giúp. Chẳng hạn,
đối với những người nghèo, họ phải chứng minh được điều kiện kinh tế của
họ nằm dưới mức quy định. Một số nước có quy định tổ chức TGPL phải thực
hiện việc xác minh về khả năng kinh tế của đối tượng để biết họ có thuộc diện
được trợ giúp pháp hay không.
Về tiêu chí xác định người nghèo, ở mỗi nước đều quy định một mức
thu nhập nhất định để làm tiêu chí xác định một người có thuộc diện nghèo
hay không. Mức quy định này có thể khác nhau giữa các vùng, miền trong
cùng một quốc gia.
Còn đối với các đối tượng khác là những giấy tờ tùy thân, văn bản của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà căn cứ vào đó có thể chứng minh là
người thuộc diện được TGPL.
* Người thực hiện TGPL
Tùy từng mô hình TGPL khác nhau mà người thực hiện TGPL sẽ được
quy định khác nhau, điều đó phụ thuộc vào thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, sự phát triển của nghề luật, đặc biệt là sự can thiệp và quan tâm của
nhà nước đối với hoạt động TGPL. Tuy vậy, người thực hiện TGPL dù ở bất
kỳ quốc gia nào cũng đều có những tiêu chí nhất định.
Điểm chung trong pháp luật của các nước đều xác định người thực hiện
TGPL phải đáp ứng được những điều kiện về kiến thức hiểu biết pháp luật
hoặc chí ít là những người có tri thức pháp luật do đặc thù của TGPL là một
nghề nghiệp chuyên môn sâu gắn với pháp luật.
Hầu hết các nước khi xác định người thực hiện TGPL đều dựa trên sự
phát triển của nghề luật, đặc biệt là nghề luật sư và đều thừa nhận luật sư là
người thực hiện TGPL và hoạt động TGPL chủ yếu dựa trên đội ngũ luật sư.
Sở dĩ như vậy, vì luật sư là người có tính chất, hoạt động nghề nghiệp thường
xuyên tiếp xúc với pháp luật, hành nghề pháp luật và có đủ kiến thức pháp
21
luật nên thường là người có điều kiện nhất để có thể cung ứng dịch vụ TGPL.
Ngoài luật sư thì người thực hiện TGPL cũng có thể là cán bộ chuyên trách
của nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện TGPL. Họ có thể là
viên chức trong bộ máy nhà nước, được nhà nước tuyển dụng hoặc ký hợp
đồng vào làm việc TGPL có trả lương theo vụ việc hoặc trả lương theo tháng.
Mặt khác, người thực hiện TGPL phải đáp ứng được những tiêu chuẩn
nhất định về phẩm chất đạo đức, công tâm khi thực hiện TGPL xuất phát từ
đặc thù của TGPL là việc cung ứng dịch vụ pháp luật cho những người không
có điều kiện kinh tế bằng việc miễn phí hoặc giảm phí.
Qua nghiên cứu pháp luật các nước có thể khái quát những đối tượng
sau đây được thực hiện TGPL:
Luật sư công: Là công chức nhà nước hoặc được nhà nước tuyển dụng
vào làm việc tại tổ chức TGPL để trực tiếp thực hiện TGPL, hưởng lương từ
ngân sách nhà nước và thực hiện vụ việc theo sự phân công của tổ chức
TGPL. Luật sư công hiện có ở các nước như: Philippine, Hà Lan, Mỹ, Litva,
Israel, Hàn Quốc, Canada, Bang New South Wales của Australia, Phần Lan…
Luật sư hành nghề tự do theo pháp luật về luật sư: Các luật sư là thành
viên của Hiệp hội luật sư (hoặc Đoàn luật sư) tự nguyện tham gia thực hiện
TGPL theo yêu cầu của khách hàng hoặc thực hiện TGPL theo yêu cầu của
Chính phủ và được Chính phủ chi trả một phần thù lao như: Hàn Quốc, Mỹ,
Nê-pan, Hà Lan, Mỹ, Singapore, Malaysia, Ailen, Thái Lan, Trung Quốc,
Hồng Kông, Đức…
Các cán bộ nhà nước không phải là luật sư nhưng có trình độ tương
đương luật sư: Những cán bộ này là viên chức nhà nước, ăn lương từ ngân
sách nhà nước và chủ yếu làm TVPL theo phân công của tổ chức, không tham
gia tranh tụng, không được tự do lựa chọn khách hàng và thực hiện TGPL đối
với các vụ việc TGPL đơn giản, mang tính hành chính như: Nam Phi, Hàn
22
Quốc, Nê-pan, bang Ontari của Canada…
Và một số đối tượng khác như: Sinh viên luật, người làm việc trong
các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về luật như: Trung Quốc, Hà Lan, Canada…;
Người tự nguyện làm việc trong các tổ chức đoàn thể xã hội để thực hiện
TGPL: Trung Quốc; Thành viên của tổ chức TGPL cộng đồng: Australia, Hà
Lan, Philippine, Mỹ…; Các công chứng viên: Nhật Bản…
1.2.2.3. Hình thức, lĩnh vực và kinh phí TGPL
* Hình thức TGPL
Để giúp đỡ cho các đối tượng TGPL giải quyết được các vướng mắc
pháp luật, các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL phải sử dụng một số hình
thức TGPL nhất định. Tùy thuộc vào loại đối tượng trợ giúp, chủ thể thực
hiện trợ giúp, điều kiện, chính sách trợ giúp của mỗi quốc gia… mà pháp luật
mỗi nước có quy định những hình thức TGPL khác nhau. Song nhìn chung,
có một số hình thức TGPL cơ bản gồm: Đại diện pháp lý, TVPL, phổ biến,
giáo dục pháp luật và hòa giải.
Đại diện pháp lý là việc tổ chức TGPL cử người thực hiện đại diện, bào
chữa cho đối tượng TGPL trước cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là hình thức
TGPL cơ bản nhất, được quy định trong công ước quốc tế và tất cả chế định
TGPL của các nước. Về thời điểm đại diện, nhìn chung các nước đều cho
phép thực hiện đại diện TGPL cho đối tượng trong mọi giai đoạn của quá
trình tố tụng. Tuy nhiên, phạm vi đại diện và việc bảo đảm đại diện có thể
khác nhau tùy theo pháp luật tố tụng của từng nước.
TVPL là hình thức TGPL được áp dụng ở hầu hết các nước có hoạt
động TGPL như: Trung Quốc, Phần Lan, Litva, Slovania, Ạnh…TVPL được
coi là một loại dịch vụ pháp luật nhằm giải thích pháp luật và hướng dẫn việc
thực hiện pháp luật cho các đối tượng TGPL. TVPL được thực hiện bằng lời
nói (tư vấn miệng) hoặc bằng văn bản; có thể tư vấn trực tiếp hoặc gián tiếp
23
(qua thư tín, thư điện tử, fax, điện thoại…). TVPL bao gồm nhiều nội dung
khác nhau: Phân tích tình huống, đưa ra các giải pháp lựa chọn và kết quả dự
kiến của các giải pháp đó; giải đáp pháp luật; hướng dẫn soạn thảo, đóng góp
ý kiến vào đơn từ, hướng dẫn những thủ tục cần thiết; cung cấp địa chỉ cơ
quan có thẩm quyền giải quyết vụ, việc.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động giới thiệu, thông tin về các
văn bản pháp luật, giải thích nội dung, cơ chế hoạt động và đào tạo, nâng cao
nhận thức pháp luật cho cộng đồng của TGPL. Đây là hoạt động nhận được
sự tham gia của nhiều tổ chức, đoàn thể, thành phần xã hội, đặc biệt tiêu biểu
như các sinh viên luật, các tổ chức TGPL cộng đồng. Hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật chủ yếu là diễn thuyết, cấp phát tờ gấp pháp luật,…
Hòa giải là việc TGPL thực hiện dàn xếp giữa các bên tham gia tranh
chấp để các bên đạt được thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Hòa giải là hình
thức TGPL được áp dụng ở một số nước như: Anh, Ấn Độ, Mỹ, Bỉ…
Trong quá trình thụ lý vụ việc TGPL về giải quyết tranh chấp giữa các
bên, nếu thấy vụ việc có thể hòa giải được thì tổ chức TGPL cử người thực
hiện hòa giải. Việc hòa giải có hiệu quả lớn là tôn trọng sự định đoạt của các
bên, nâng cao hiệu quả tự thực hiện các quyết định hòa giải, giảm bớt chi phí
tranh tụng. Về phạm vi hòa giải, tại một số nước (Ấn Độ), hòa giải được thực
hiện trên tất cả các lĩnh vực, tuy nhiên, một số nước như: Anh, Bỉ, hòa giải
chỉ được thực hiện đối với tranh chấp hôn nhân- gia đình. Một số lãnh thổ
như: Canbera, Australia, đối với các tranh chấp hôn nhân- gia đình, tổ chức
TGPL bắt buộc phải tổ chức hội nghị hòa giải giữa các bên, trên cơ sở đó các
bên tự thương lượng, thỏa thuận về việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp.
* Lĩnh vực TGPL
Lĩnh vực TGPL là một trong những chế định quan trọng của hệ thống
TGPL các nước. Trong khi tại một số quốc gia chỉ chấp nhận việc TGPL
24
trong lĩnh vực hình sự thì hầu hết các nước lại thực hiện TGPL trên cả hai lĩnh
vực: Dân sự và hình sự. Trên cơ sở lĩnh vực TGPL, một số nước xây dựng hệ
thống TGPL chung, nhưng một số nước khác lại xây dựng hai bộ phận TGPL
dân sự và hình sự độc lập.
TGPL trong lĩnh vực hình sự: Hầu hết các nước đều thực hiện TGPL
đối với tất cả các vụ việc trong lĩnh vực hình sự vì đây là vấn đề cơ bản, gắn
liền với quyền chính trị, nhân thân của đối tượng. Đặc biệt, các nước đều có
quy định về những vụ việc có mức án tử hình, đối với trẻ vị thành niên, cơ
quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải thuê luật sư đại diện cho bị cáo trong
trường hợp bị cáo không có người đại diện hợp pháp cho mình.
TGPL trong lĩnh vực dân sự: Khái niệm dân sự trong pháp luật TGPL
các nước được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực như hôn nhân-gia
đình, đất đai, lao động, việc làm, di cư, kinh doanh thương mại. Từ khái niệm
thì phạm vi TGPL trong lĩnh vực dân sự tại chế định TGPL các nước có nhiều
điểm khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa của từng
nước. Theo truyền thống, TGPL của Anh tập trung chủ yếu vào luật sư tư và
các vấn đề hôn nhân gia đình, tuy nhiên, trong cải cách hệ thống TGPL của
mình, TGPL của Anh đã hướng sang lĩnh vực luật phúc lợi xã hội. Tại các
nước khác, đặc biệt là những nước thiết lập hệ thống trung tâm pháp luật cộng
đồng thì lĩnh vực phúc lợi xã hội được quan tâm, chú trọng. Điều đó có thể dễ
dàng nhận thấy tại Hà Lan, Australia và bang Ontaria. Vấn đề bạo lực gia đình
được hầu hết các quốc gia chấp nhận TGPL, trong khi đó, một số nước lại
chuyển sang Tòa hình sự, luật sư bắt buộc tham gia trong những vụ việc này.
TGPL trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại: Đa số các nước không
TGPL trong vụ việc kinh doanh thương mại bởi đối tượng tham gia kinh
doanh thương mại là những người giàu có, đủ khả năng chi phí cho dịch vụ
pháp lý có thu phí, trong khi bản chất của hoạt động TGPL mang tính nhân
25
đạo, dành cho một số đối tượng đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên,
trên thực tế, một số nước vẫn chấp nhận thực hiện TGPL đối với các vụ việc
phá sản. Tại Nhật Bản, năm 2003, số vụ việc trợ giúp đại diện pháp lý dân sự
là 27.814 vụ việc, chiếm 68,5% tổng số vụ việc được thực hiện. Trong tổng số
vụ việc hỗ trợ soạn thảo văn bản, số vụ việc hỗ trợ liên quan đến phá sản lên
tới 95,7% (2.267 vụ việc)[28].
Việc TGPL được thực hiện trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở
một số nước vì những lý do sau:
Một là, trong pháp luật nội dung của đa số các nước, lĩnh vực kinh
doanh, thương mại nằm trong lĩnh vực dân sự. Các quan hệ thương mại
vẫn được điều chỉnh bởi các QPPL dân sự, do đó, các yêu cầu TGPL trong
lĩnh vực kinh doanh, thương mại được nằm trong nội dung TGPL trong
lĩnh vực dân sự.
Hai là, xuất phát từ bản chất TGPL nhằm hỗ trợ cho các đối tượng yếu
thế để đạt được sự bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền và lợi ích trong lĩnh vực dân sự,
kinh doanh, thương mại. Đối với những đối tượng này, đặc biệt là những
người nghèo, việc TGPL trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại còn đặc biệt
có ý nghĩa nhằm giúp họ thoát khỏi điều kiện kinh tế khó khăn để vươn lên
thoát nghèo.
* Kinh phí TGPL
Chế độ TGPL của các nước trên thế giới tồn tại hai mô hình cơ bản:
loại thứ nhất là chế độ TGPL do luật sư tư cung ứng dịch vụ pháp lý dựa trên
việc lấy quỹ công cộng để chi trả các chi phí; loại thứ hai là chế độ TGPL do
đội ngũ luật sư chuyên trách được hưởng thù lao cung cấp dịch vụ pháp lý, có
cơ quan chuyên môn công cộng quản lý và thực hiện TGPL. Cho dù hình thức
nào thì nguồn gốc chính của loại kinh phí này vẫn là do Chính phủ đầu tư tài
chính. Ngoài ra, nguồn kinh phí từ các quỹ chuyên TGPL do nhân dân quyên
26
góp và có nguồn gốc khác cũng do tác dụng hỗ trợ quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của chế độ TGPL.
Thứ nhất, kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước
Đại đa số các nước kinh tế phát triển, kinh phí TGPL do nhà nước đầu
tư tài chính. Đó là do cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nâng cao về
trình độ dân chủ hóa chế độ chính trị của đất nước, TGPL lấy việc phục vụ
quần chúng là nội dung chính, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm nhân
quyền, giúp đỡ những người bị tước đoạt quyền lợi xã hội cơ bản đã trở thành
một trong những trách nhiệm của nhà nước mà các quốc gia phúc lợi đều phải
gánh vác. Vì vậy, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp kinh phí cho các hoạt động
TGPL để đáp ứng nhu cầu về TGPL ngày càng tăng.
Tại nhiều quốc gia, Luật Tố tụng dân sự đã xác lập quyền được luật sư
giúp đỡ của đương sự, đồng thời quyền này còn được quy định trong Hiến
pháp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với số lượng lớn về tài chính để đảm
bảo cho những người nghèo trong xã hội được hưởng quyền lợi này.
Sự cấp phát về tài chính đã chiếm một phần lớn trong tổng kim ngạch
về TGPL của các nước và đã phát huy vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy việc
mở rộng quy mô sự nghiệp TGPL ở các nước, đa dạng hóa hình thức và tăng
cường mở rộng các tập đoàn kiếm lời, từ đó trở thành nguồn gốc quan trọng
nhất của kinh phí TGPL ở các nước.
Ở các nước đang phát triển do hạn chế về điều kiện kinh tế và xã hội khó
có thể đáp ứng toàn bộ sự chi trả cần thiết cho kế hoạch TGPL mà nhà nước phải
đầu tư kinh phí, từ đó việc cấp phát của nhà nước cũng rất có hạn. Phương thức
cấp phát của nhà nước bao gồm 02 cách thức chủ yếu: Trực tiếp trích tiền từ
ngân sách nhà nước và gián tiếp thông qua việc miễn, giảm chi phí tố tụng.
Trực tiếp cấp kinh phí từ ngân sách: Đại đa số các quốc gia đã thiết lập chế
độ TGPL đều tự liệt kê ra hạng mục chi phí ngân sách TGPL trong dự án Luật
27
Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, kinh phí tài chính đã được đưa vào dự toán ngân
sách nhà nước, được pháp luật bảo đảm và cơ quan quyền lực giám sát, việc đầu
tư và sử dụng mang tính ổn định, đáng tin cậy và có thể kiểm nghiệm, điều này
khiến cho việc đầu tư kinh phí có nguồn gốc khác không thể so sánh nổi.
Đầu tư gián tiếp bằng phương thức miễn trừ phí tố tụng: Phí tố tụng
bao gồm chi phí Tòa án và chi phí luật định trong quá trình tố tụng. Chi phí
luật định trong quá trình tố tụng bao gồm chi phí tư pháp, chi phí nhân chứng,
chi phí giám định, chi phí đăng ký xét xử và trong một số trường hợp đặc biệt,
người đưa đơn cần phải chi các khoản phí cho người thứ ba đứng ra bảo lãnh.
Quy định về điều kiện và phạm vi miễn trừ chi phí tố tụng ở mỗi nước một
khác, đa số đều quy định trong Bộ luật Tố tụng (như Nhật Bản, Đan Mạch…)
hoặc trong “Luật Miễn phí tố tụng” chuyên môn (như Phần Lan). Đầu tư gián
tiếp bằng phương thức miễn trừ phí tố tụng có ưu điểm là chi phí tương đối
thấp mà lại hiệu quả, những nước thi hành chế độ này gồm Thụy Sỹ, Áo, Tây
Ban Nha, Nhật Bản, Đan Mạch, Na uy, Phần Lan, các nước Đông Âu và thậm
chí cả các nước Châu Phi như Ruanđa, Namibia… Điều cần chỉ ra là trong
chế độ miễn phí tố tụng ở các nước Đông Âu, do cách xử lý chi phí pháp lý
khác nhau, trong một số trường hợp miễn phí tố tụng với điều kiện tiên quyết
là do tranh chấp đặc biệt (như lao động, phí cấp dưỡng, tiền bồi thường tai
nạn lao động…) mà không liên quan đến tình hình kinh tế của đương sự.
Thứ hai, kinh phí từ Quỹ TGPL
Để thích ứng với nhu cầu pháp lý ngày càng tăng của người nghèo và
bổ sung những thiếu sót trong hoạt động đầu tư của nhà nước và để thể hiện ý
nghĩa của TGPL với tư cách là một sự nghiệp công ích. Một số quốc gia và
khu vực đã thành lập Quỹ TGPL, đồng thời dùng thu nhập của Quỹ làm
nguồn quan trọng của kinh phí TGPL. Nguồn thu nhập của quỹ không thống
nhất, có số thu được từ lợi tức trong khoản mục quỹ tín dụng luật sư như Quỹ
28
tín dụng luật sư tranh tụng của Australia và kế hoạch quỹ ủy thác dịch vụ
pháp lý của Hiệp hội luật sư Mỹ; có số thu được từ một phần tiền do đương sự
được trợ giúp bồi hoàn lại theo nguyên tắc chia sẻ chi phí và cả chi phí bồi
thường từ phía đương sự đối phương thua kiện như Quỹ kế hoạch TGPL ở
Anh; còn một số có nguồn gốc từ kinh phí công cộng, các khoản tiền phạt của
nhà nước… Nhà nước thường có những chính sách ưu đãi như miễn thuế đối
với loại quỹ riêng này.
Thứ ba, từ sự ủng hộ, quyên góp của nhân dân
TGPL vừa là một nhiệm vụ của nhà nước và là sự nghiệp công ích xã
hội, ngoài đầu tư nhà nước và lợi nhuận thu được từ quỹ chuyên ngành ra, sự
quyên góp của nhân dân cũng là một trong những nguồn kinh phí quan trọng
đối với sự nghiệp TGPL. Sự quyên góp chủ yếu từ hiệp hội luật sư, cá nhân
luật sư chuyên nghiệp, quỹ, tập đoàn từ thiện công cộng, các tổ chức nhân dân
và cá nhân khác.
Thứ tư, một số nguồn khác
Chế độ bảo hiểm tố tụng với hình thức bảo hiểm công cộng hoặc tư
nhân được tiến hành ở Ý và các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Đan Mạch,
Phần Lan, Na – uy… được coi là chế độ dịch vụ pháp lý trả trước và là một
nguồn mới của kinh phí TGPL.
Trong chế độ bảo hiểm tố tụng các nước, quy định về điều kiện áp dụng
và phạm vi trách nhiệm bảo hiểm đối với mỗi vụ án đều khác nhau nhưng
nhìn chung do phải chi trả một số lượng tiền bảo hiểm nhất định, chế độ này
chỉ phù hợp với những người thuộc tầng lớp có thu nhập ở mức trung bình,
cảm thấy mình có đủ khả năng tham gia vào các vụ tranh chấp pháp lý, chứ
không thể thỏa mãn nhu cầu pháp lý chính đáng của dân nghèo, cho nên mặt
bằng phổ cập tương đối hẹp. Ngoài ra, chế độ bảo hiểm tố tụng làm cho luật
sư ỷ lại vào công ty bảo hiểm để nhận được tiền thù lao, dễ gây ra hậu quả
xấu là việc công ty bảo hiểm thao túng vụ án.
29
Bảo hiểm tố tụng không phải là một loại bảo hiểm độc lập, theo quy
định không thể tự mua một mình mà phải mua kèm cùng với các loại bảo
hiểm khác như: Ở Thụy Sỹ, bảo hiểm tố tụng thường đi liền với bảo hiểm nhà
ở, phương tiện giao thông và bảo hiểm thương mại. Ở Thụy Điển, bảo hiểm tố
tụng mua kèm bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm gia đình. Ở Đan Mạch, bảo
hiểm tố tụng được coi là một bộ phận của các loại bảo hiểm khác như bảo
hiểm gia đình hoặc bảo hiểm ô tô. Loại thường gặp nhất là kết hợp với bảo
hiểm gia đình, bảo hiểm tố tụng được cung cấp cho người mua bảo hiểm.
1.2.2.4. Quản lý nhà nước về TGPL
Nghiên cứu TGPL các nước cho thấy, TGPL đều giao cho một cơ quan
trung ương thuộc Chính phủ đảm nhận. Tuy tên gọi của cơ quan quản lý nhà
nước có khác nhau những tựu chung lại, việc quản lý nhà nước giao cho Bộ
Tư pháp thực hiện.
Ở Trung Quốc, Phiippine, Trung tâm TGPL nhà nước và Văn phòng
Luật sư công là một đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
Ở Hàn Quốc, trước năm 1987, Hiệp hội TGPL đặt trụ sở tại Bộ Tư
pháp, Chủ tịch Hiệp hội là Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Hiệp hội bao gồm các
nhân viên chuyên trách và một số nhân viên kiêm nhiệm. Từ năm 1987 trở lại
đây, Cục TGPL Hàn Quốc được thành lập thay thế cho Hiệp hội nói trên. Tuy
Cục TGPL có trụ sở riêng tách khỏi Bộ Tư pháp nhưng tổ chức và hoạt động
vẫn chịu sự giám sát, quản lý của Bộ Tư pháp.
Ở Canada, trước năm 1998, hoạt động TGPL do Hội Luật gia quản lý.
Sau khi đạo luật mới về TGPL ra đời năm 1998, Cục TGPL được thành lập để
thay thế các chức năng quản lý và thực hiện TGPL của Hội Luật gia. Theo
quy định của đạo luật thì Cục TGPL là một tổ chức độc lập nhưng chịu trách
nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của mình và Bộ trưởng Bộ Tư pháp có
chức năng, nhiệm vụ bổ nhiệm hoặc đề cử thành viên trong Ban lãnh đạo Cục
30
TGPL, phê duyệt kế hoạch hoạt động, kế hoạch tài chính của Cục. Cục TGPL
có trách nhiệm báo cáo hoạt động hàng năm lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Ở Anh, Văn phòng Tổng chưởng lý quản lý nhà nước về TGPL. Tại
Singgapore, giao cho Bộ Pháp luật quản lý. Các nước: Pháp, Mỹ, Nhật
Bản…đều giao quyền quản lý tổ chức, hoạt động TGPL cho Bộ Tư pháp:
Nội dung quản lý nhà nước về TGPL nói chung bao gồm: Lập kế hoạch
TGPL theo từng năm và qua các giai đoạn; Quản lý việc xây dựng, tổ chức,
đào tạo đội ngũ những người làm công tác TGPL; Tập trung quản lý và sử
dụng ngân sách TGPL, đồng thời chịu trách nhiệm duy trì và tăng ngân sách
TGPL, kiểm tra tình hình sử dụng ngân sách và lợi ích xã hội; Triển khai việc
nghiên cứu lý luận về TGPL, đề xuất ý kiến cải cách và hoàn thiện chế định
TGPL; Chịu trách nhiệm kiểm tra pháp luật có liên quan đến công tác TGPL,
tổ chức soạn thảo xây dựng pháp luật về TGPL, đưa ra ý kiến đề nghị để xây
dựng hoàn thiện pháp luật về TGPL; Chịu trách nhiệm thẩm tra các vụ án về
TGPL, tổ chức kiểm tra hành chính đối với các vụ về TGPL có kiến nghị; Thu
thập tài liệu, thông tin về công tác TGPL, cung cấp dịch vụ thông tin cho cơ
cấu TGPL trong nước hoặc địa phương; Chịu trách nhiệm liên lạc đối ngoại
về công tác TGPL của Nhà nước hoặc khu vực, triển khai rộng rãi việc giao
lưu TGPL giữa khu vực và quốc tế…
Qua quá trình nghiên cứu các chế định TGPL ở một số nước, mặc dù
tùy đặc điểm, tình hình mỗi nước có cách thức xây dựng mô hình khác nhau,
diện người thực hiện, hình thức, lĩnh vực, nguồn kinh phí bảo đảm hoạt động
TGPL, chế độ quản lý nhà nước về TGPL có những nét khác biệt. Song,
TGPL đều thể hiện bản chất nhân đạo, nhân văn, không vì mục đích lợi nhuận
và hướng đến đối tượng được thụ hưởng dịch vụ chủ yếu là người nghèo, đối
tượng chính sách và những đối tượng khác cần được xã hội quan tâm. Và
TGPL đã và đang khẳng định vai trò sâu sắc trong tính xã hội ở nhiều quốc
gia, dù ở quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển.
31
Chương 2
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ
2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển TGPL ở Việt Nam
TGPL ở nước ta ra đời và phát triển gắn với sự ra đời của chế định tư
pháp bảo trợ của nền tư pháp nhân dân dưới chế độ mới, gắn liền với yêu cầu
bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm thực thi tốt nhất các
quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, cùng với sự
phát triển của điều kiện kinh tế-xã hội, chế định này từng bước hoàn thiện gắn
với nhận thức mới về sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý và nghề luật
sư cũng như thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với người nghèo và các
đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác. Có thể khái quát quá trình hình thành,
phát triển như sau:
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1987
Dưới chế độ phong kiến, vấn đề giúp đỡ, hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của
những người nghèo khổ đã được nhiều triều đại quan tâm giải quyết và tổ
chức thực hiện khá tốt, đặc biệt là các chế độ gần dân, thân dân.
“Quốc triều hình luật” đã có những quy định về việc phải quan tâm,
giúp đỡ người nghèo, đồng thời đưa ra đường lối xử lý đối với quan lại không
thực hiện tốt chính sách đối với người nghèo. Chương Hộ hôn quy định quan
sở tại có trách nhiệm thu nuôi, bảo vệ người góa vợ, góa chồng, mồ côi và
người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân tích để nương tự, không
thể tự mình mưu sống được, nếu không thực hiện sẽ bị xử phạt; ưu tiên người
nghèo, kẻ yếu thế trong đánh thuế hay bắt đi sau dịch (trước phải phân bổ
người giàu, người khỏe, sau đến người nghèo, người yếu), nếu không thực
hiện hoặc thực hiện không công bằng, quan sở tại sẽ bị phạt.
Bên cạnh đó, các quy định về cứu tế, tương bần, thành lập phường, hội
để hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo khi khó khăn đột xuất do thiên tai, địch họa,
32
đói kém, mất mùa đã được thể hiện và trở thành truyền thống “lá lành đùm lá
rách”, “tương thân, tương ái” của dân tộc ta.
Đáng tiếc sau đó, chính quyền và pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc
lại là công cụ chính trị để đế quốc Pháp duy trì chế độ thuộc địa nửa phong
kiến; tư bản và đế quốc chủ nghĩa “lấy tôn giáo và văn hóa làm cho ngu dân,
lấy pháp luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho
dân tham”. Vì thế, pháp luật không còn là công cụ để duy trì trật tự pháp luật
có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân mà là công cụ để trấn áp, cai trị. Vì vậy,
những tư tưởng về giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo gần như không được đề cập
theo tinh thần dân chủ, tiến bộ.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa ra đời, với phương châm: “Muốn giữ vững nền độc lập,
muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết
quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể
tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. Vì vậy, Nhà nước ta rất chú
trọng nâng cao dân chí, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho
nhân dân về quyền làm chủ, trách nhiệm của người làm chủ đất nước và
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nhân dân trực tiếp thực hiện được quyền
làm chủ, tham gia kiến quốc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nước nhà. Cùng
với việc diệt giặc đói, diệt giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính
phủ rất quan tâm diệt giặc dốt, bởi: “Nạn dốt là một trong những phương
pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”; “Phải làm sao cho
mọi người dân ai cũng ăn no, mặc ấm, ai cũng được học hành”; “Làm cho
người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu
thêm” và “Phải giáo dục lại nhân dân chúng ta”.
Trong bối cảnh đó, các quy định về bảo trợ tư pháp gắn với quyền bào
chữa và bảo đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận trong Hiến pháp để thực
33
hiện tốt nhất các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không phân biệt giàu
nghèo. Theo Hiến pháp năm 1946: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy
hoặc mượn luật sư”.
Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời về
việc tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán (được sửa đổi bởi Sắc lệnh số
111 ngày 28/6/1946 và Sặc lệnh số 88/SL ngày 22/5/1950) quy định: “Trong
việc đại hình, nếu trước Tòa Thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực,
ông Chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho hắn”; “Các Luật sư có
quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ những Tòa sơ cấp”. Đồng thời,
Hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ:
Giáo dục nhân dân tham dự chính quyền nói chung và tư
pháp nói riêng; tuyên truyền giải thích chính sách của Chính phủ
cho dân trong xã và gửi cho Tòa án nhân dân…vì Hội thẩm nhân
dân có điều kiện gần dân hơn…sát dân, hiểu biết dư luận, nguyện
vọng, tình hình của dân làng thì mới giúp được cho Tòa án nhận
định và chủ trương sát với quyền lợi nhân dân địa phương” [17].
Theo Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch lâm thời về việc
quy định tổ chức các đoàn thể luật sư: “Các luật sư có quyền bào chữa ở
trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa quân sự” [16] và
quyền bào chữa này được mở rộng cho công dân theo quy định tại Sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949.
Một công dân muốn được “tư pháp bảo trợ” thì phải làm đơn. Nếu
“người đương sự” được kiện thì việc được hưởng “tư pháp bảo trợ” có hiệu
lực cho đến khi thi hành xong hẳn bản án mà “người đương sự” không phải
nộp một khoản lệ phí nào, kể cả việc cấp trích lục án, phí tổn này sẽ do công
khố chịu. Các quy định này đã thể hiện nhận thức đúng đắn của chế độ ta về
vị trí của quyền tự do bào chữa của công dân là “thành trì cần thiết cho các
34
quyền tự do khác”. Nhà nước ta đã ghi nhận quyền bào chữa và bảo đảm thực
hiện quyền bào chữa cho bị cáo không phân biệt họ giàu hay nghèo khi cho
phép họ được nhờ luật sư hoặc người công dân khác không phải luật sư đứng
ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và coi đây là nguyên tắc Hiến
pháp. Nó giúp cho công tác xét xử được tiến hành toàn diện và khách quan,
bênh vực được các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị can, đồng thời bảo
vệ pháp luật của Nhà nước, hơn nữa, trong chế độ dân chủ nhân dân, “nếu bị
can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là có công lý”.
Thực hiện tốt quyền bào chữa không chỉ nâng cao ý thức tôn trọng pháp
luật của Nhà nước ta mà còn bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng của tố
tụng là: “trước khi tuyên án, bị can phải được coi như người vô tội”. Sắc lệnh số
69/SL ngày 18/6/1949 và Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 về việc mở rộng
tổ chức bào chữa, cho phép người công dân không phải là luật sư có thể bào
chữa cho đương sự trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại cho bị can
trước các Tòa án xử việc hình.
Ngày 12/01/1950, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ-VY ấn
định điều kiện để làm bào chữa viên nhân dân và phụ cấp của bào chữa viên
nhân dân và Thông tư số 101/HCTP ngày 28/9/1957 của Bộ Tư pháp quy
định về việc tổ chức bào chữa viên nhân dân. Thông tư số 101/HCTP nêu rõ:
“Trong lúc chưa có sự sửa đổi gì về chế định bào chữa viên nhân dân của ta,
thì vẫn phải thi hành các Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và Nghị định số
1/NĐ-VY ngày 12/01/1950 quy định về tổ chức bào chữa viên nhân dân” [3].
Năm 1951, vì nhu cầu kháng chiến, đoàn thể luật sư tạm ngừng hoạt
động. Sau ngày tiếp quản thủ đô, đoàn thể luật sư đã hoạt động trở lại với một
Hội đồng luật sư ở Hà Nội.
Năm 1963, Văn phòng Luật sư thí điểm được thành lập và có nhiệm vụ:
“giải đáp pháp luật cho nhân dân và cán bộ; làm giúp cho đương sự những
35
đơn từ và các văn kiện pháp luật như hợp đồng, khế ước”. Lúc đầu, Văn
phòng Luật sư nhận bào chữa những vụ án do Tòa án yêu cầu.
Năm 1972, Ủy ban pháp chế của Chính phủ được thành lập. Ngày
22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143-HĐBT quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo văn bản
này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý hoạt động hành chính tư pháp trong đó
có nhiệm vụ quản lý công tác Luật sư, TVPL.
Trên nền tảng Hiến pháp năm 1946, ở các bản Hiến pháp năm 1959,
1980, vấn đề “tư pháp bảo trợ” được tiếp tục thể hiện gắn với nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
Năm 1982, Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị. Theo Điều 14, điểm 3 phần d Công ước, quá trình xét xử một tội
hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng những
bảo đảm tối thiểu như là:
Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc
nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ
về pháp lý thì phải được thông báo về quyền này; trong trường
hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một
sự giúp đỡ pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu không có
đủ điều kiện trả” [23].
Việc tham gia Công ước này đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy
về quyền được tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật của mọi công
dân không phân biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn
thiện chế định tư pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ
dừng lại ở bảo đảm quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và
sử dụng pháp luật của công dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt
(không có đủ điều kiện trả tiền) nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
36
Như vậy, trong giai đoạn này, TGPL chưa ra đời với tư cách là chế
định pháp luật, chưa gắn với người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc
biệt mà nằm chung trong cơ chế bao cấp pháp lý của Nhà nước. Ngân sách
nhà nước chi trả mọi chi phí cho hoạt động TVPL, đại diện, bào chữa trong
các vụ án hình sự, dân sự… Các đương sự hầu như không phải bỏ một khoản
chi nào (kể cả chi phí cho luật sư). Những hoạt động mang tính chất TGPL đã
ra đời dưới hình thức: “tư pháp bảo trợ”, gắn liền với yêu cầu bảo đảm quyền
bào chữa của người bị can, bị cáo. Còn trong các lĩnh vực như hành chính, lao
động, việc làm và một số lĩnh vực pháp luật khác ít được đề cập đến. Thời kỳ
này, chưa có hệ thống cơ quan TGPL chuyên trách cho người nghèo và các
đối tượng chính sách. Hoạt động này chủ yếu do luật sư, cán bộ, công chức
nhà nước và các công dân khác không phải là luật sự thực hiện để bảo đảm
quyền bào chữa cho bị can, bị cáo mà chưa được mở rộng quyền tiếp cận
pháp luật cho các đối tượng đặc thù như một số nước, đặc biệt là người nghèo
và đồng bào dân tộc thiểu số.
2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997
Thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế tập trung, bao cấp từng bước bị
xóa bỏ, nền kinh tế thị trường được hình thành, phát triển. Hoạt động luật sư,
TVPL được coi là một hoạt động nghề nghiệp.
Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số 15/HĐBT ngày
21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế Đoàn Luật sư đã xác
định một số vụ việc Luật sư thực hiện giúp đỡ cho đối tượng mà không được
thu phí như bào chữa cho bị can, bị cáo theo chỉ định của các cơ quan tiến
hành tố tụng (trường hợp này luật sư được nhận thù lao do Tòa án chỉ định
thanh toán). Quy chế xác định rõ các đối tượng được miễn trả thù lao khi nhờ
luật sư giúp đỡ pháp lý, đó là: Nguyên đơn ở các Tòa án trong các vụ việc đòi
tiền cấp dưỡng nuôi con, đòi bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động, bồi
37
thường thiệt hại do tai nạn làm chết người trụ cột của gia đình, khiếu nại về
việc bầu cử Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật Bầu cử Hội đồng nhân
dân; thương binh hạng nặng (loại 1, 2/4); đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
khi nhờ luật sư giải thích pháp luật, hướng dẫn cho cử tri; thành viên của tổ
hòa giải khi nhờ luật sư giải thích pháp luật những vấn đề có liên quan đến
hoạt động xã hội của họ. Ngoài ra, với những công dân có hoàn cảnh kinh tế
khó khăn hoặc các trường hợp đặc biệt khác nếu có đơn yêu cầu thì Ban chủ
nhiệm Đoàn Luật sư có thể xét miễn hoặc giảm thù lao cho họ.
Do luật sư quá ít nên việc TVPL miễn phí của những người không phải
là luật sư cũng được đề cập tại Thông tư số 1119/QLTPK ngày 24/12/1987 và
Công văn số 870/CV-LSTV ngày 23/10/1989 của Bộ tư pháp cho phép Hội
luật gia và các Đoàn luật sư được mở Văn phòng TVPL nhằm giúp đỡ pháp
luật cho các đối tượng, trong đó có một số vụ việc giúp đỡ miễn phí.
Sự ra đời của các văn bản trên đây về cơ bản đã tạo lập cơ sở pháp lý
tương đối cụ thể cho sự ra đời và phát triển của dịch vụ pháp lý miễn phí ở
Việt Nam. Giai đoạn này, yếu tố “dịch vụ” chỉ mang tính chất của hoạt động
phục vụ mà chưa có yếu tố “thị trường” của “cung” và “cầu”. Các văn bản
này đã tạo cơ chế pháp lý cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động
TGPL xã hội do luật sư thực hiện theo nghĩa vụ theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước (do ngân sách nhà nước chi trả) và tự nguyện, miễn phí với một số đối
tượng có hoàn cảnh đặc biệt.
Theo thống kê, đến năm 1996, ở nước ta đã có 61 Hội luật gia cấp tỉnh
với 37 Văn phòng TVPL (tại thành phố Hồ Chí Minh có 15 Văn phòng; tại
Hà Nội có 11 văn phòng); 61 Đoàn luật sư cấp tỉnh với 46 Chi nhánh Đoàn
luật sư; 12 Văn phòng hoặc Trung tâm TVPL của các tổ chức chính trị- xã
hội; 04 Văn phòng TVPL của Liên đoàn Lao động Việt Nam; 03 Văn phòng
TVPL của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ; 02 Văn phòng TVPL của Trung
38
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và 24 Công ty Luật hoạt động dưới hình
thức Công ty trách nhiệm hữu hạn. Các tổ chức này đã trực tiếp hoặc phối hợp
với các Trung tâm TGPL được thành lập thí điểm để thực hiện TGPL mang
tính nhân đạo, từ thiện.
Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với nước ngoài đòi hỏi phải
phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của Luật sư. Yêu cầu đó đặt ra vấn đề
cần phải tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của tổ
chức luật sư nước ngoài vào hành nghề tại Việt Nam nhằm góp phần thúc đẩy
đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Ngày 18/5/1995,
tại phiên họp Ban Bí thư, Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
Chúng ta cần chú ý các biện pháp để tăng cường hoạt động
pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng
cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân,
mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác
này chưa được quan tâm đúng mức. Đây là vấn đề cần được nghiên
cứu và làm ngay trong thời gian tới” [44].
Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII đã chỉ đạo cần phải tổ
chức hình thức TVPL cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho
người nghèo được hưởng dịch vụ TVPL miễn phí.
Ngày 31/5/1995, Văn phòng Trung ương Đảng có Công văn số 485/CV-
VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán sự Đảng Chính
phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị: “xác định phạm vi thích hợp hoạt
động TVPL của tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, trước hết chú
trọng tổ chức TVPL của nhà nước…; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ TVPL
không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”[48].
Trong thư ngày 20/12/1995 gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân
39
dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn
mạnh: “Nhà nước phải nghiên cứu sớm thành lập một hệ thống các tổ chức
TVPL không mất tiền dành cho người nghèo; các gia đình thuộc diện chính
sách và đồng bào dân tộc thiểu số”[34]. Chỉ đạo này đã định hướng để đổi
mới tư duy về công tác cung ứng dịch vụ pháp lý, đặt mốc cho quá trình
chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của
đời sống pháp luật, tạo tiền đề về mặt chính trị- pháp lý cho sự ra đời và phát
triển của công tác TGPL.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Tư pháp đã chủ động
nghiên cứu, tham mưu giúp Chính phủ triển khai thí điểm thành lập các Trung
tâm TGPL của nhà nước tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(Cần Thơ ngày 13/7/1996, Hà Tây ngày 28/01/1997). Hoạt động TGPL thí
điểm ở 02 tỉnh đã được nhân dân Cần Thơ và Hà Tây đón nhận như một chính
sách xã hội rộng lớn. Do được UBND các cấp nhiệt tình hưởng ứng, nhân dân
biết đến nhanh nên hoạt động TGPL đã thu được một số kết quả đáng khích lệ
(trên 700 vụ/02 địa phương), số vụ việc ngày càng tăng, nhiều đối tượng đã
gửi thư cảm ơn. Lãnh đạo hai tỉnh đánh giá cao và coi đây là một trong những
loại hình đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi
vào cuộc sống hiệu quả nhất. Kết quả thí điểm là tiền đề quan trọng cho sự ra
đời của hệ thống TGPL nhà nước.
Ngày 13/3/1997, tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp, đồng chí Võ
Văn Kiệt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã
nhấn mạnh:
Chúng ta không sợ dân đi kiện, vấn đề là làm sao để dân kiện
đúng, kiện đúng người, đúng việc, đúng chỗ nếu họ bị oan, giúp nhà
nước phát hiện những vi phạm công vụ, những “con sâu làm dầu
nồi canh”, khắc phục bất cập của nhà nước đối với những vướng
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY
Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY

More Related Content

What's hot

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...PinkHandmade
 
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nayLuận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nayViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

What's hot (20)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
Luận văn: Các biện pháp phòng vệ thương mại trên thế giới và các giải pháp ph...
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việcLuận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài vụ việc
 
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...
Luận án: Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người - Gửi miễn phí qua...
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Luật Kinh Tế
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Luật Kinh TếDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Luật Kinh Tế
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Luật Kinh Tế
 
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt NamLuận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
Luận án: Hoạt động trợ giúp pháp lý theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sựLuận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
Luận văn: Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú ThọLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Phòng Tư pháp tại Phú Thọ
 
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam, HAY
 
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOTPháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
Pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công về lĩnh vực tư pháp, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hộiĐề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
Đề tài: Bảo đảm quyền của nhóm người yếu thế trong xã hội
 
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đPhổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOTĐề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý về phòng chống bạo lực gia đình tại TPHCM, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOTLuận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề về quyền xét xử công bằng ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Việc làm cho người khuyết tật theo pháp luật, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nayLuận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
Luận án: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân ở Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ theo pháp luật Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY

Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...hieu anh
 
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docx
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docxPL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docx
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docxHoaMai738887
 
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfNuioKila
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiViết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 

Similar to Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY (20)

Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia LaiTổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
Tổ chức và hoạt động của trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Gia Lai
 
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đLuận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
Luận văn: Hoạt động trợ giúp pháp lý tại Hà Nội, HAY, 9đ
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật từ thực tiễn Thị xã Sơn Tây, Thành p...
 
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn TâyTuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật tại Thị xã Sơn Tây
 
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docx
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docxPL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docx
PL Giáo-dục-pháp-luật-đối-với-thanh-niên-từ-thực-tiễn-Thành-Phố-Đà-Nẵng.docx
 
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đLuận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
Luận văn: Trợ giúp pháp lý từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình, HAY, 9đ
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà NẵngLuận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Giáo dục pháp luật đối với thanh niên tại Tp Đà Nẵng
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAYLuận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật tại tỉnh Thanh Hoá, HAY
 
Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Quản Lý Về Hộ Tịch.docx
Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Quản Lý Về Hộ Tịch.docxBảo Đảm Quyền Con Người Trong Quản Lý Về Hộ Tịch.docx
Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Quản Lý Về Hộ Tịch.docx
 
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdfPháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về Quỹ trợ giúp pháp lý ở Việt Nam.pdf
 
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con ngườiBÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
BÀI MẪU tiểu luận Chủ nghĩa hiến pháp và vấn đề bảo vệ quyền con người
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịchLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý về hộ tịch, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý hộ tịch tại TPHCM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý hộ tịch tại TPHCMLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý hộ tịch tại TPHCM
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong quản lý hộ tịch tại TPHCM
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho thanh niên tỉnh Quảng Bình, 9đ
 
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
Luận văn: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên, HAY!
 
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng BìnhĐề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
Đề tài: Phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh niên từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sựQuyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
Quyền con người của người bị buộc tội theo luật Tố tụng Hình sự
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Pháp luật quốc tế, Việt Nam về trợ giúp pháp lí, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐOÀN HỮU VĂN PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Chuyên ngành: Luật Quốc tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH HÀ NỘI – 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đoàn Hữu Văn
  • 3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ........................ 7 1.1. Các Điều ước quốc tế đa phương quy định về hoạt động trợ giúp pháp lý........................................................................................ 7 1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động trợ giúp pháp lý...................11 1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của trợ giúp pháp lý trên thế giới.......................................................................................11 1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về trợ giúp pháp lý...............14 Chương 2: PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ ..........31 2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam ..........................................................................................31 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1987.................................................................31 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997 .............................................36 2.1.3. Giai đoạn từ năm 1997 đến nay.........................................................41 2.2. Một số quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về trợ giúp pháp lý ..............................................................................................50 2.2.1. Khái niệm trợ giúp pháp lý................................................................50 2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện trợ giúp pháp lý.....52 2.2.3. Hình thức, lĩnh vực và kinh phí trợ giúp pháp lý..............................65
  • 4. 2.2.4. Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý...............................................73 2.3. Các Hiệp định tương trợ tư pháp ký kết giữa Việt Nam với một số quốc gia liên quan đến vấn đề trợ giúp pháp lý...............77 Chương 3: SO SÁNH TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ GIỮA VIỆT NAM VỚI NƯỚC NGOÀI. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP........................................................83 3.1. So sánh tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý giữa Việt Nam với nước ngoài.........................................................................83 3.1.1. Những điểm tương đồng....................................................................83 3.1.2. Những điểm khác biệt .......................................................................84 3.2. Một số kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp lý ở Việt Nam...........................................................85 KẾT LUẬN....................................................................................................98 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................100
  • 5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TT Viết tắt Nội dung từ 1. CHXH Cộng hòa xã hội 2. CTV Cộng tác viên 3. ĐDNTT Đại diện ngoài tố tụng 4. ĐƯQT Điều ước quốc tế 5. LHQ Liên hợp quốc 6. QPPL Quy phạm pháp luật 7. TGTT Tham gia tố tụng 8. TGPL Trợ giúp pháp lý 9. TVPL Tư vấn pháp luật 10. UBND Ủy ban nhân dân
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên thế giới, TGPL được hình thành khá sớm, khởi nguồn từ thành cổ A-then vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Tiếp đến là Anh (thế kỷ XV), Na Uy (thế kỷ XVII), Pháp (thế kỷ XVIII), Mỹ (nửa cuối thế kỷ XIX). Sau đó, phát triển rộng khắp ở nhiều quốc gia trên thế giới kể từ sau đại chiến thế giới lần thứ 2: Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Hàn Quốc (1972), Đức (1981), Trung Quốc (1996)... Ở khu vực Đông Nam Á, TGPL đã xuất hiện ở Singgapore, Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Philippine và Campuchia. Cùng với tiến trình mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác kinh tế- quốc tế giữa các quốc gia, TGPL đã được quy định trong nhiều Công ước quốc tế như Tuyên ngôn nhân quyền của LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị và dân sự năm 1976, Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953… và trong nhiều ĐƯQT song phương được ký kết giữa các quốc gia liên quan đến vấn đề tương trợ tư pháp. Ở Việt Nam, TGPL ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới và còn là một khái niệm tương đối mới mẻ. Việc thành lập mô hình tổ chức thực hiện TGPL miễn phí cho người nghèo, người có công với cách mạng và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam xuất phát từ chủ trương: “xóa đói, giảm nghèo”, “đền ơn, đáp nghĩa”, đảm bảo công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, thể hiện bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Xuất phát từ yêu cầu, tình hình thực tế đặt ra trong xã hội gắn liền với nhu cầu tìm hiểu pháp luật, TGPL của người dân và trên cơ sở nghiên cứu sâu rộng hoạt động của mô hình TGPL các nước trên thế giới, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện TGPL thí điểm ở thành phố Cần
  • 7. 2 Thơ và tỉnh Hà Tây (cũ). Ngày 06/9/1997, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 734/QĐ-TTg về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách, theo đó, Cục TGPL thuộc Bộ Tư pháp và các Trung tâm TGPL nhà nước trực thuộc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố ra đời với chức năng, nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện các hoạt động TGPL và quản lý nhà nước về TGPL. Trải qua hơn 15 năm xây dựng và phát triển, mô hình TGPL nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cơ cấu, tổ chức cơ bản đi vào ổn định, đang từng bước thể hiện tính chuyên nghiệp, hiện đại. Mạng lưới tổ chức thực hiện TGPL đã giải quyết trên 1,5 triệu vụ, việc cho gần 1,4 triệu lượt đối tượng được TGPL có nhu cầu, qua đó khẳng định vai trò, ý nghĩa của chính sách TGPL đối với đời sống xã hội, đặc biệt là vấn đề “xóa đói, giảm nghèo”, nâng cao nhận thức pháp luật cho người dân, hỗ trợ bảo đảm quyền con người trong xã hội qua việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp, đóng góp ý nghĩa vào việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật Việt Nam về chính trị- kinh tế- văn hóa- xã hội- an ninh- quốc phòng và vào công tác thực thi, thi hành pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đi cùng với sự thành công trong hoạt động TGPL thời gian qua là sự quyết tâm cao của của Đảng và Nhà nước ta trong công tác hoàn thiện thể chế, chính sách điều chỉnh hoạt động này. Với một khối lượng văn bản khá đồ sộ, đặc biệt quan trọng phải kể đến là Luật TGPL được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, Quyết định số 792/QĐ-TTg ngày 23/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án: "Quy hoạch mạng lưới Trung tâm TGPL nhà nước và Chi nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008 - 2010, định hướng đến năm 2015" và Quyết định số 678/QĐ- TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát
  • 8. 3 triển TGPL ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 đã tạo hành lang, cơ sở pháp lý vững chắc cho TGPL Việt Nam không ngừng lớn mạnh và phát triển ở hiện tại và trong tương lai, là nền tảng định hướng quan trọng để đáp ứng đầy đủ, đạt chất lượng, hiệu quả mọi nhu cầu, nguyện vọng, vướng mắc cần được TGPL của người dân đặc biệt là của người nghèo và các đối tượng chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đạt được thì TGPL Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ thực trạng tổ chức, bộ máy, nguồn lực phục vụ đến thực tiễn hoạt động. Vì vậy, để TGPL nước ta thực sự thể hiện tính chuyên nghiệp và chuyên môn hóa cao, theo kịp với xu thế phát triển TGPL trên thế giới nhất là với các nước có mô hình TGPL tiên tiến, hiện đại để đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu TGPL của người dân với chất lượng cao thì còn nhiều việc phải làm, nhiều biện pháp phải giải quyết liên quan đến yêu cầu tăng cường hợp tác quốc tế về TGPL, đẩy mạnh kiện toàn bộ máy tổ chức thực hiện, đổi mới cách thức hoạt động, đầu tư mạnh mẽ về cơ sở vật chất, nguồn kinh phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm việc cùng sự quan tâm ủng hộ, đóng góp tích cực, mạnh mẽ của đông đảo nguồn lực trong xã hội dành cho TGPL. Từ những vấn đề trên, để nhận thức đầy đủ, sâu sắc về một chính sách xã hội nhân đạo, nhân văn gắn với việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam và các quốc gia trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn, từ đó xây dựng những luận điểm, giải pháp, kiến nghị khoa học, xác đáng nhằm đẩy mạnh hiệu quả tổ chức, hoạt động TGPL nước ta. Tôi chọn đề tài: “Pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về hoạt động TGPL” làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu và tính mới của Đề tài Trước khi nghiên cứu, xây dựng đề tài này đã có một số công trình
  • 9. 4 nghiên cứu khoa học cấp bộ và luận văn thạc sĩ chuyên ngành nghiên cứu về thể chế, chính sách, mô hình tổ chức, hoạt động TGPL như: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Hồng Tuyến về hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam (năm 2004), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện về thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam (năm 2006), Luận văn thạc sĩ luật của tác giả Đỗ Xuân Lân về hoàn thiện các hình thức tiếp cận pháp luật của người nghèo ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp về mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay (năm 1999), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ cùng Viện về luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL (năm 2004)… Nội dung của các luận văn, công trình nghiên cứu chủ yếu đi sâu phân tích, làm rõ một số nội dung quan trọng, thiết yếu trong quá trình tổ chức, hoạt động TGPL, cơ bản, trọng tâm là tổng hợp, đánh giá thực trạng, đưa ra giải pháp hoàn thiện thể chế, chính sách TGPL ở Việt Nam. Tuy nhiên, xét trên phương diện khách quan, hiện vẫn chưa có công trình, luận văn nào tập trung nghiên cứu khái quát, bao trùm hoạt động TGPL trên diện rộng, từ những quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia cho đến pháp luật Việt Nam cùng việc chứng minh thực tiễn tổ chức, hoạt động và tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển. Vì vậy, việc xây dựng Luận văn thạc sĩ này sẽ có nhiều điểm mới, mở rộng hơn so với các đề tài nghiên cứu, luận văn thạc sĩ trước đó. Nội dung luận văn là những tổng hợp, nghiên cứu các ĐƯQT đa phương và song phương, cơ bản và chủ yếu là các văn bản mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập liên quan đến TGPL, những quy định cơ bản trong chính sách, pháp luật và thực tiễn tổ chức, hoạt động TGPL ở một số quốc gia trên thế
  • 10. 5 giới và ở tại Việt Nam. Trên cơ sở xác định những điểm tương đồng và khác biệt trong cách thức tổ chức, bộ máy, tác giả đưa ra những giải pháp tích cực với mong muốn đóng góp một phần sức nhỏ vào công cuộc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động TGPL Việt Nam ở giai đoạn hiện nay và các giai đoạn kế tiếp. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn thạc sĩ tập trung nghiên cứu đối tượng chính là TGPL, một chính sách nhân đạo, từ thiện, mang đậm bản chất nhân văn đang được các quốc gia đầu tư phát triển. Xoay quanh đối tượng chính là những nội dung được quy định trong pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia và pháp luật Việt Nam, cùng với việc tổng hợp, đánh giá tiến trình hình thành, phát triển, cách thức xây dựng, quá trình tổ chức, hoạt động ở một số nước và ở Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi rộng, bao gồm: Các ĐƯQT đa phương về TGPL mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập; Hiệp định tương trợ tư pháp được ký kết giữa Việt Nam với các quốc gia có đề cập đến vấn đề này; Pháp luật Việt Nam và một số quốc gia quy định về khái niệm, mô hình TGPL, người thực hiện TGPL, đối tượng thuộc diện TGPL, hình thức, lĩnh vực, kinh phí dành cho TGPL và quản lý nhà nước về TGPL. Với những điểm tương đồng và khác biệt về TGPL giữa Việt Nam với một số quốc gia, qua thực tiễn tổ chức, hoạt động là những vấn đề trọng tâm, cần thiết theo phương diện cá nhân để hoàn thiện tổ chức, đẩy mạnh hoạt động TGPL ở Việt Nam trong tiến trình bảo vệ quyền lợi của người nghèo và các đối tượng chính sách. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa khoa học biện chứng và chủ nghĩa khoa học lịch sử trong mối quan hệ tổng hòa, tương hỗ chặt chẽ lẫn nhau để làm sáng tỏ các vấn đề từ góc độ lý luận và thực tiễn.
  • 11. 6 Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được vận dụng trong quá trình viết Luận văn là: Phương pháp tư duy trừu tượng; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và phương pháp hệ thống. 5. Kết cấu của Luận văn Không bao gồm mục lục, phần mở đầu, kết luận và nguồn tài liệu tham khảo, Luận văn được xây dựng với bố cục gồm 03 Chương: Chương 1. Pháp luật quốc tế và pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL. Chương 2. Pháp luật Việt Nam về TGPL. Chương 3. So sánh tổ chức và hoạt động TGPL giữa Việt Nam với nước ngoài. Một số kiến nghị, giải pháp.
  • 12. 7 Chương 1 PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI VỀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 1.1. Các ĐƯQT đa phương quy định về hoạt động TGPL Để tăng cường bảo vệ quyền con người, các quốc gia đều quan tâm đến việc xây dựng nhà nước pháp quyền cùng với việc đặt tổ chức và hoạt động của công quyền trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Bên cạnh đó, quyền con người cũng gắn liền với các trào lưu tiến bộ xã hội của nhân loại để không ngừng mở rộng và nâng cao giá trị dân chủ, xác lập vị thế, vai trò quan trọng của các cá thể- con người, chủ thể của mọi hành vi trong xã hội. Pháp luật trở thành một trong các công cụ quan trọng của nhà nước pháp quyền điều chỉnh xã hội để bảo vệ quyền con người ở mỗi quốc gia. Trong đó, pháp luật với công chúng, nhất là những bộ phận dân nghèo, yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội là một vấn đề mà các chế độ chính trị khác nhau ở tất cả các nước đều quan tâm nghiên cứu và giải quyết theo cách riêng sao cho hiệu quả, phù hợp với truyền thống pháp luật, điều kiện kinh tế-xã hội. Từ yêu cầu và trong xu thế hội nhập quốc tế, vấn đề bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong nhiều ĐƯQT, mà ở đó TGPL được khẳng định như một quyền độc lập của con người, đồng thời là công cụ để bảo vệ các quyền công dân khác. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (được thông qua và tuyên bố theo Nghị quyết số 217A (III) ngày 10/12/1948 của Đại hội đồng LHQ) đã trịnh trọng tuyên bố: …Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền . Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau tro ng tình bằng hữu…
  • 13. 8 và … Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào…[21]. Ngày 20/12/2012, Đại hội đồng LHQ đã đưa ra tuyên bố về nguyên tắc và những hướng dẫn về tiếp cận TGPL trong hệ thống tư pháp hình sự, trong đó TGPL được thừa nhận: …Là một thành tố cơ bản của một hệ thống tư pháp hình sự dựa trên nguyên tắc pháp quyền, là cơ sở cho việc thụ hưởng các quyền khác, bao gồm quyền có phiên toà xét xử công bằng và là một sự bảo đảm quan trọng để bảo đảm sự công bằng cơ bản và niềm tin của công chúng đối với tiến bộ của hệ thống tư pháp hình sự… và Nhà nước cần bảo đảm quyền được TGPL trong hệ thống pháp luật quốc gia ở mức độ cao nhất có thể [27]. Đồng thời, Tuyên bố xác định rõ nguyên tắc TGPL dành cho các đối tượng cụ thể như: người bị tình nghi hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự, nạn nhân của tội phạm, nhân chứng, trẻ em, phụ nữ và nhóm người có yêu cầu đặc biệt cùng sự bảo đảm, bảo vệ người thực hiện TGPL, thẩm quyền, trách nhiệm của họ trong quá trình thực thi công vụ. Từ những nguyên tắc, nội dung mang tính định hướng này sẽ góp phần hoàn thiện chính sách TGPL với tư cách một bộ phận quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống tư pháp hình sự ở các quốc gia, từ đó khẳng định, phát huy giá trị mạnh mẽ của TGPL cho các đối tượng trong quá trình tố tụng. Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị được thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 2200 (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực ngày 23/3/1976 (Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982) đã đặt ra quy định khi xét xử về một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng việc
  • 14. 9 có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự TGPL theo sự lựa chọn của mình, được thông báo về quyền này nếu chưa có sự TGPL và được nhận sự TGPL theo chỉ định trong trường hợp lợi ích của công lý đòi hỏi và không phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu không có đủ điều kiện trả. Ngoài ra, Công ước này còn quy định về quyền giúp đỡ khi bị bắt hoặc giam giữ mà bị tước tự do; quyền bình đẳng trước Tòa án và cơ quan tài phán; quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một toà án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật; thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên; quyền được xem xét lại vụ việc, mức án tại Tòa án cao hơn; quyền được công nhận ở bất kỳ đâu là một con người trước pháp luật; quyền và cơ hội tiếp cận nói chung các dịch vụ công cộng ở đất nước mình; quyền của người dân tộc thiểu số; quyền suy đoán vô tội trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án [23]… Đây là những quyền cơ bản của con người trong hoạt động tố tụng, rộng hơn là ở đời sống xã hội liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến quyền TGPL. Công ước quốc tế về quyền trẻ em thông qua và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết số 44-25 ngày 20/11/1989 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực từ ngày 2/9/1990 (Việt Nam phê chuẩn ngày 20/2/1990), theo điều 49 của Công ước thì trẻ em phải được đặc biệt trao cơ hội nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người đại diện hay một cơ quan thích hợp, theo cách thức phù hợp với những quy tắc thủ tục trong pháp luật quốc gia và các quốc gia thành viên phải bảo đảm trẻ em bị tước tự do có quyền được nhanh chóng tiếp cận sự TGPL và những trợ giúp thích hợp khác, cũng như quyền được chất vấn tính chất hợp pháp của việc tước tự do đó trước một Tòa án hay cơ quan có thẩm quyền, độc lập, vô tư khác và có quyền đòi hỏi một quyết định nhanh chóng liên quan đến bất kỳ hành động nào như vậy [24].
  • 15. 10 Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ được thông qua và để mở cho các nước ký, phê chuẩn và gia nhập theo Nghị quyết 34/180 ngày 18/12/1979 của Đại hội đồng LHQ và có hiệu lực từ ngày 3/9/1981 (Việt Nam phê chuẩn ngày 18/12/1982) đã quy định các quyền cơ bản của người phụ nữ được sự bảo vệ của luật pháp nhằm chống lại nạn phân biệt đối xử, bảo đảm bình đằng giới, trong đó cũng đề cập đến vấn đề TGPL. Công ước quốc tế về người khuyết tật được Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 13/12 /2006 (Việt Nam là thành viên thứ 118 tham gia ký Công ước vào ngày 22/10/2007) quy định các quốc gia thành viên của Công ước này cam kết thực hiện những biện pháp phù hợp để tạo sự tiếp cận cho người khuyết tật đối với những hỗ trợ pháp lý mà họ cần khi thực hiện năng lực pháp lý và đảm bảo khả năng tiếp cận có hiệu quả đối với các dịch vụ tư pháp cho người khuyết tật [26]. Như vậy, các Tuyên bố, ĐƯQT đa phương mà Việt Nam là thành viên ký kết hoặc gia nhập đã quy định một cách trực tiếp hay gián tiếp quyền được TGPL nằm trong các quyền cơ bản của con người và là cơ sở để các quốc gia thành viên cụ thể hóa phù hợp trong các văn bản QPPL nước mình. Tuy nhiên, tổng hợp tính đến thời điểm hiện tại, nội dung các ĐƯQT đa phương quy định về TGPL mới chỉ điều chỉnh vấn đề theo cách chung, khái quát cho một số đối tượng nhất định và hiện chưa có văn bản quy định tập trung, thống nhất, đầy đủ về vấn đề này. Điều này gây ra khó khăn không nhỏ trong việc nghiên cứu, tìm hiểu, nắm vững các quy định về TGPL trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như việc pháp điển hóa vào pháp luật các quốc gia thành viên. Từ thực trạng trên, tác giả nhận thấy các tổ chức quốc tế, các quốc gia cần hợp tác nghiên cứu, xây dựng một ĐƯQT thống nhất điều chỉnh toàn diện,
  • 16. 11 đầy đủ về vấn đề này, tránh những mâu thuẫn, trồng chéo giữa các văn bản đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề TGPL. Nội dung của ĐƯQT chung cần xác định chính xác, hướng trọng tâm vào khái niệm TGPL, các đối tượng được TGPL, quyền và nghĩa vụ của họ, hình thức, lĩnh vực thực hiện, trình tự, thủ tục khi có yêu cầu và cách thức hợp tác quốc tế giữa các quốc gia về TGPL. 1.2. Pháp luật nước ngoài về hoạt động TGPL 1.2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển của TGPL trên thế giới Hình thành bắt đầu từ thành cổ A- then vào khoảng thế kỷ thứ X trước Công nguyên. Đến năm 224, Nhà nước Lã Mã ban hành đạo luật cấm những người biện hộ nhận tiền công. Ở nước Anh, từ thế kỷ XV pháp luật Anh quốc đã có quy định: “cần dành cho người nghèo khổ sự giúp đỡ để họ được hưởng quyền lợi mà pháp luật ban cho”. Năm 1495, vua Henry VII trong một nghị án đã có quy định cụ thể hơn về vấn đề này: “Chính nghĩa cần được dành chung cho người nghèo để thực hiện quyền tự do họ được hưởng- điều đó là tự nhiên không gì thay thế”. Ở Châu Âu lục địa, TGPL có nguồn gốc từ quyền được tư vấn và xét xử công bằng của công dân trước pháp luật. Theo đó, người nghèo được miễn án phí, được cung cấp luật sư miễn phí khi không có đủ khả năng tài chính để chi trả thù lao thuê luật sư. Những năm đầu thế kỷ XX, một số nước Châu Âu chưa coi TGPL là trách nhiệm của mình mà dựa vào hoạt động TGPL mang tính từ thiện của luật sư. Nhà nước sẽ chi trả một khoản thù lao nhất định cho luật sư khi thực hiện TGPL. Tuy nhiên, để hạn chế việc chi trả thù lao cho luật sư miễn phí trong các vụ việc tố tụng, một số nước đã quy định nghĩa vụ TGPL bắt buộc của luật sư trong các văn bản pháp luật. Giữa các nước theo truyền thống pháp luật thành văn và các nước theo truyền thống án lệ có cách tiếp cận khác nhau về quyền có luật sư miễn phí. Các nước theo truyền thống pháp luật thành văn thường nhấn mạnh về quyền
  • 17. 12 có luật sư trong tố tụng dân sự và đương sự được cung cấp dịch vụ TGPL thông qua một luật sư do khách hàng yêu cầu, trong khi các nước theo truyền thống án lệ thường nhấn mạnh đến quyền được tư vấn và cung cấp TGPL chủ yếu liên quan đến thủ tục tố tụng pháp luật hình sự. Tại Na Uy, từ thế kỷ XVII đã xuất hiện loại hình tranh tụng miễn phí. Trong thời gian này, nhà vua đã ban hành một số Sắc lệnh cho người nghèo nộp đơn xin luật sư TGPL tại Tòa án để tránh sự bất công đối với người nghèo và sự bất bình của công chúng. Những luật sư (hoặc công tố viên) được nhà vua chỉ định thực hiện những vụ việc TGPL này sẽ được nhận một khoản thù lao theo mức quy định. Tại Mỹ, ngay từ nửa cuối thế kỷ XIX, khi các bang của Mỹ thành lập Hiệp hội luật sư và các tổ chức tương tự đã quy định rõ quy phạm hành vi đạo đức của luật sư, trong đó có một số nội dung tương đối đầy đủ là: “Quy tắc hành vi TGPL của luật sư”. Sau đó không lâu, để làm nổi bật hơn nội dung TGPL, một Hiệp hội luật sư của Mỹ đã chuyển hướng tập trung sáng lập một hình thức mới để giải quyết vấn đề TGPL cho người nghèo. Hình thức này có tổ chức hơn và mang tính quy phạm hơn, coi đây là một thiên chức của luật sư. Tại Pháp- một nước tiêu biểu trong số các nước theo hệ thống pháp luật lục địa, sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, ở các hiệp hội luật sư dần dần hình thành một tập quán là trước Tòa án, luật sư biện hộ cho người nghèo không thu phí. Đến năm 1851, tập quán này trở thành một chính sách trong các quy định pháp luật gọi là “Luật luật sư trợ giúp”. Đối với vụ án bị xử tội danh nặng thì phải chỉ định luật sư biện hộ cho bị cáo, còn những vụ án xử tội danh nhẹ, Chánh án Tòa án cũng có thể chỉ định biện hộ nếu bị cáo yêu cầu và chứng minh được mình thực sự nghèo khó. Ngoài ra, đối với các vụ án tranh chấp liên quan đến tiền dưỡng lão, tội phạm vị thành niên, tai nạn nghề nghiệp, tiền công lao động, thất nghiệp… pháp luật cũng quy định đều phải có
  • 18. 13 sự trợ giúp khi tiến hành xét xử. Sau đại chiến thế giới lần thứ II, sự tăng trưởng về kinh tế cùng với quan niệm tư tưởng xã hội hóa phúc lợi, các nhà nước đã thúc đẩy TGPL phát triển lên giai đoạn mới. Trong giai đoạn này, hệ thống TGPL tương đối đầy đủ, chính thức đã được thành lập như: Tại Anh (Năm 1949), Ontario- Canada (1951), Hà Lan (1970), Thụy Sỹ (1972), Đức (1981), Hàn Quốc (1972), Trung Quốc (1996)… Trong khu vực Đông Nam Á, cùng với Việt Nam, TGPL đã xuất hiện tại Singgapore, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippine, Cămpuchia. Bên cạnh đó, TGPL đã trở thành quy phạm chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế thể hiện trong Tuyên ngôn nhân quyền của LHQ năm 1948, Công ước Châu Âu về quyền chính trị và dân sự năm 1976, Công ước Châu Âu về nhân quyền năm 1953 và nhiều văn bản pháp luật quốc tế khác. Gần đây, dưới sức ép của công cuộc xóa đói, giảm nghèo, thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người, nhiều Chính phủ đã quan tâm hơn đến việc cung cấp dịch vụ pháp lý thiết yếu cho người nghèo và đối tượng đặc biệt để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, đặc biệt là quyền đại diện, quyền bào chữa tại các cơ quan tiến hành tố tụng. Cùng với sự phát triển của nghề luật sư và mạng lưới tổ chức dân sự, ngày càng có nhiều luật sư, tổ chức xã hội cung ứng các dịch vụ pháp lý miễn phí cho người nghèo và một số đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Vì thế, hầu hết pháp luật các nước đều ghi nhận trách nhiệm của nhà nước và xã hội, đặc biệt là luật sư trong việc TGPL. Nhiều nước đã thiết lập mô hình TGPL hỗn hợp mà ở đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa TGPL của nhà nước với TGPL mang tính xã hội. Các hình thức TGPL cũng đa dạng, phong phú như gặp trực tiếp, qua thư, điện thoại...Người được TGPL không chỉ là người nghèo mà còn bao gồm trẻ em, phụ nữ là nạn
  • 19. 14 nhân của nạn buôn bán phụ nữ và bạo lực gia đình, người già cô đơn, người tị nạn, người dân tộc thiểu số. Khái niệm TGPL được phát triển theo nghĩa rộng hơn: “tiếp cận công lý”- tiếp cận có hiệu quả nhu cầu pháp luật, không chỉ đại diện, bào chữa, TVPL mà còn là phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Trước nhu cầu phát triển của TGPL trong đặc điểm, tình hình mới, pháp luật về TGPL ở các nước trên thế giới đã có nhiều chỉnh sửa, hoàn thiện phù hợp với đặc điểm tình hình của mỗi nước và trở thành công cụ, hình thức hữu hiệu trong việc giúp đỡ, hỗ trợ những người nghèo, đối tượng đặc thù cần được quan tâm trong xã hội bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, góp phần đảm bảo được sự bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội và vào việc giữ gìn trật tự trị an, thực hiện chính sách an sinh xã hội ở mỗi quốc gia. 1.2.2. Quy định cơ bản của một số quốc gia về TGPL 1.2.2.1. Khái niệm TGPL Với thuật ngữ khởi đầu bằng tiếng Anh là: “legail aid”, thì TGPL ở mỗi quốc gia có cách định nghĩa khác nhau. Giới hạn Luận văn này tập trung nghiên cứu khái niệm trong quy định của một số nước. Theo Luật TGPL của Bang Victoria năm 1978 thuộc Australia thì TGPL là: Giáo dục, tư vấn, thông tin pháp luật; Bất cứ dịch vụ pháp luật nào do luật sư cung cấp; Các dịch vụ khác trong phạm vi thẩm quyền của TGPL, bao gồm dịch vụ của luật sư theo nghĩa vụ, TVPL và hỗ trợ pháp luật [2]. Là đại diện cho khách hàng trước Tòa án nhằm giúp đỡ những người không có khả năng chi trả cho các dịch vụ pháp lý (Đạo luật về đại diện và tư vấn pháp lý năm 1995 của Singgapore) [43]. Là việc tư vấn và đưa ra ý kiến; soạn thảo các hợp đồng; cung cấp cách dịch vụ pháp lý phục vụ cho hoạt động tranh tụng cho những người nghèo và người bị đối xử bất công (Đạo luật về hành nghề luật B.E 2528 năm 1985 của
  • 20. 15 Thái Lan) [44]. TGPL bao gồm TVPL, việc đại diện trước Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác, các biện pháp cần thiết và việc miễn trừ các chi phí cụ thể cho những người không đủ điều kiện chi trả chi phí dịch vụ pháp lý (Đạo luật TGPL của Phần Lan năm 2001) [37]. Sự trợ giúp trong việc sử dụng bất kỳ biện pháp nào mà một người có thể sử dụng, gồm cả biện pháp đối với thủ tục tố tụng, liên quan đến việc áp dụng pháp luật (Luật về TGPL năm 1988 của Anh) [1]. Là tạo sự công bằng khi tiếp cận pháp luật của các cá nhân không thể thuê mướn luật sư, tạo cơ hội cho những người có thu nhập thấp (Luật về công ty dịch vụ pháp lý của Hoa Kỳ sửa đổi năm 1977) [29]. Tại Đức: TGPL là giúp đỡ một phần hay toàn bộ tài chính cho những người không có khả năng thanh toán các chi phí về TVPL, đại diện hoặc bào chữa trước Toà án… Tuy mỗi nước có cách quy định rộng hay mở về TGPL, song đặc điểm chung trong quy định khái niệm về TGPL đều thể hiện rõ nét bản chất nhân đạo, từ thiện, chính là: Giúp đỡ miễn phí cho những người không có khả năng thanh toán dịch vụ pháp lý được hưởng các hình thức TGPL theo quy định. Điều này là điểm khác biệt giữa TGPL miễn phí cho đối tượng có hoàn cảnh khó khăn với hoạt động hành nghề có thu phí từ khách hàng của luật sư. 1.2.2.2. Mô hình tổ chức, đối tượng và người thực hiện TGPL * Mô hình tổ chức TGPL Mô hình tổ chức TGPL là các thiết chế được lập ra để thực hiện TGPL cho những người thuộc diện được thụ hưởng loại hình dịch vụ này. Các thiết chế đó có thể do Nhà nước hoặc một tổ chức xã hội thành lập hoặc cũng có thể do một cá nhân đảm nhiệm. Do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội chi phối nên các nước đã hình
  • 21. 16 thành nhiều mô hình TGPL khác nhau với những hoạt động rất đặc thù. Sự khác nhau được thể hiện ở chỗ, đối với các Nhà nước đơn nhất có một hệ thống pháp luật và việc phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ thống nhất trong toàn quốc như Philippine, Trung Quốc, Nepal, Nam Phi, Singapore… thì tổ chức thực hiện TGPL về cơ bản là thống nhất. Tuy nhiên, ở các quốc gia liên bang với sự tồn tại của hai hệ thống pháp luật: liên bang và bang, với sự độc lập tương đối của chính quyền bang như Hoa Kỳ, Canada, Anh, Thụy Sỹ, Australia… thì mỗi bang có một mô hình tổ chức TGPL riêng biệt của mình. Nghiên cứu pháp luật về TGPL ở một số nước cho thấy, trên thế giới hiện nay tồn tại ba mô hình tổ chức TGPL phổ biến là: mô hình từ thiện, mô hình luật sư trợ giúp được trả lương từ ngân sách nhà nước và mô hình hỗn hợp [28]. Thứ nhất, mô hình từ thiện Đây là mô hình sơ khai nhất, hình thành sớm nhất vào giữa thế kỷ 19 ở Đức, Hà Lan, Anh và sau này phát triển ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo mô hình này, hoạt động TGPL chủ yếu do các luật sư tư hành nghề tự do thực hiện trên cơ sở tự nguyện, không bắt buộc, mang tính chất từ thiện. Hiện nay, ở hầu hết các nước trên thế giới đều kết hợp duy trì mô hình này cùng với các mô hình khác, nhưng có tính tổ chức hơn và được pháp luật quy định. Mô hình này có những đặc điểm sau: Hoạt động TGPL hoàn toàn miễn phí, người được trợ giúp không phải đóng góp bất cứ khoản chi phí nào; Hoạt động TGPL mang tính tự phát, không phải là nghĩa vụ bắt buộc mà xuất phát từ ý chí của mỗi luật sư, do luật sư hành nghề tự do thực hiện trên cơ sở tự nguyện; Phụ thuộc vào lòng từ thiện của luật sư và các tổ chức tư vấn. Hạn chế của mô hình này không mang tính thường xuyên, liên tục, không giúp đỡ được nhiều người, không đáp ứng được tất cả các nhu cầu TGPL trong xã hội, chỉ được thực hiện khi có luật sư tình nguyện giúp đỡ
  • 22. 17 miễn phí. Chất lượng vụ việc đôi khi hạn chế do các vụ việc chủ yếu do luật sư trẻ, luật sư tập sự, chưa có nhiều kinh nghiệm thực hiện. Thứ hai, mô hình luật sư trợ giúp được trả lương từ ngân sách nhà nước Đây là mô hình TGPL do Nhà nước tài trợ và hoạt động được thực hiện chủ yếu do đội ngũ luật sư công và luật sư tư thực hiện. Nhà nước tuyển dụng các luật sư làm việc thường xuyên cho tổ chức TGPL và trả lương họ theo tháng mà không theo vụ việc. Các tổ chức TGPL được thành lập và hàng năm được Nhà nước cấp một khoản kinh phí theo dự toán và được phép sử dụng, quản lý nguồn kinh phí này một cách độc lập để thực hiện các hoạt động liên quan đến TGPL. Theo mô hình này, tổ chức TGPL có thể chủ động đến gặp đối tượng cần trợ giúp mà không cần chờ họ đến gặp mình. Hiện nay, mô hình này được áp dụng ở Mỹ và bang Quebec (Canada) và một số nước khác. Mô hình này có đặc điểm sau: Hoạt động TGPL được thực hiện miễn phí, toàn bộ chi phí cho hoạt động TGPL do ngân sách nhà nước cấp, đối tượng trợ giúp không phải đóng góp một khoản tiền nào; đội ngũ luật sư công và luật sư tư thực hiện TGPL được Nhà nước trả lương cố định mà không hưởng lương theo vụ việc; đương sự được lựa chọn trong số các luật sư của tổ chức TGPL; số vụ việc TGPL rất hạn chế, một số tổ chức TGPL bó hẹp phạm vi trợ giúp trong lĩnh vực tư vấn, kiến nghị, nếu là đại diện bào chữa thì phải mời luật sư tư. Điểm yếu có bản của mô hình này là nguồn kinh phí hoàn toàn phụ thuộc vào Chính phủ, do vậy không thể đáp ứng được nhu cầu TGPL ngày càng tăng của xã hội. Thứ ba, mô hình hỗn hợp Là một mô hình hữu hiệu và phổ biến nhất hiện nay do kết hợp được tất cả các điểm mạnh của các mô hình khác nhau. Đó là sự kết hợp giữa hoạt động TGPL của Nhà nước (luật sư công) với tổ chức luật sư tư được Nhà
  • 23. 18 nước tài trợ hoặc do các luật sư tư thực hiện trên cơ sở tự nguyện mang tính từ thiện, nhưng được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Mô hình này được áp dụng phổ biến ở các nước: Anh, Nhật, Hà Lan, Australia, Nam Phi, Thụy Điển, Trung Quốc. Theo mô hình này, ở các nước đều có một Ủy ban TGPL Trung ương điều hành. Dưới Ủy ban có các Ban hỗ trợ pháp lý (Thụy Điển) hoặc Văn phòng TGPL (Anh, Nam Australia). Dưới Văn phòng TGPL là Trung tâm TGPL. Hoạt động TGPL chủ yếu do luật sư công (Australia, Philipine, Trung Quốc) và luật sư tư hành nghề tự do thực hiện. Đây là mô hình trợ giúp được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Mô hình này có các đặc điểm sau đây: Cơ quan nhà nước đóng vai trò chủ đạo như một cơ quan trung gian giữa khách hàng và luật sư, do vậy tiết kiệm được thời gian và thuận lợi cho khách hàng vì các luật sư không phải làm các công việc hành chính hàng ngày, đối tượng TGPL được tự do lựa chọn luật sư theo nguyện vọng; được Nhà nước tài trợ một phần kinh phí để giúp đỡ cho các đối tượng được trợ giúp miễn phí, một phần kinh phí do đối tượng nộp, nghĩa là đối tượng phải nộp một phần chi phí trợ giúp khoảng 10, 20 hoặc 30% chi phí, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh khó khăn của đối tượng; trợ giúp được nhiều loại vụ việc khác nhau; việc đưa ra ý kiến sẽ dễ dàng hơn vì khách hàng không nhất thiết phải đến luật sư mà vẫn nhận được sự tư vấn; những người không phải làm chuyên môn có nhiều cơ hội tiếp cận pháp luật khi làm việc ở các tổ chức của Nhà nước. Như vậy, dù theo bất kỳ mô hình nào, đặc trưng mang tính bản chất của TGPL là một loại nghề nghiệp đặc biệt vừa mang tính chính trị - pháp lý, vừa mang tính nhân đạo, từ thiện: “giúp đỡ pháp lý cho những người không có khả năng thanh toán chi phí khi tiếp cận công lý”. Hoạt động này trở thành một trong những chức năng xã hội của bất kỳ Nhà nước nào. * Đối tượng TGPL Do sự khác biệt về chế độ chính trị, tình hình kinh tế- xã hội nên pháp
  • 24. 19 luật mỗi nước đều có những quy định khác nhau về điều kiện, tiêu chuẩn được TGPL, song đều dựa trên một số tiêu chí cơ bản. Đầu tiên phải kể đến, đối tượng được TGPL là những người nghèo, không có hoặc không đủ khả năng tài chính để chi trả cho các dịch vụ pháp lý. Chính vì vậy, khi gặp phải những vướng mắc pháp luật hay khi TGTT, họ thường phải chịu thiệt thòi vì không có tiền mời luật sư. Bản thân họ lại không hiểu biết đầy đủ về pháp luật nên không tự bảo vệ được quyền lợi cho mình. Người nghèo là đối tượng trợ giúp phổ biến ở tất cả các nước, thậm chí là đối tượng duy nhất được TGPL theo pháp luật một số nước như Mỹ, Hà Lan, Nam Phi, Nê-pan. Bên cạnh người nghèo, đối tượng được TGPL là những người không có khả năng tự bảo vệ như người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, người tàn tật, người chưa thành niên, người già, nạn nhân của bạo lực gia đình, người đòi bồi thường trong các vụ án hình sự… cần được TGPL về pháp luật (áp dụng ở Trung Quốc, Đức, Singgapore). Hay là những người có vụ việc liên quan đến cơ quan tiến hành tố tụng như người bị tạm giữ, tạm giam, người bị truy tố theo mức hình phạt chung thân hoặc tử hình,… cần được giúp đỡ để thực hiện các quyền của bị can, bị cáo trước các cơ quan tiến hành tố tụng và bảo đảm rằng các cơ quan này không lạm dụng quyền hạn để có những xử sự bất lợi cho họ (như Anh, Thụy Điển, Úc…). Ngoài ra, còn một số đối tượng khác được thụ hưởng chính sách TGPL như: người tị nạn, công dân nước ngoài làm thuê, người dân tộc thiểu số, người nước ngoài, người không có quốc tịch (như Trung Quốc, Cămpuchia). Tuy nhiên, ở một số quốc gia như Thụy Điển, Nam Phi thì đối tượng được TGPL là tất cả công dân. Theo quy định trong pháp luật của đa số các nước thì để được TGPL,
  • 25. 20 đối tượng phải chứng minh được mình thuộc diện được trợ giúp. Chẳng hạn, đối với những người nghèo, họ phải chứng minh được điều kiện kinh tế của họ nằm dưới mức quy định. Một số nước có quy định tổ chức TGPL phải thực hiện việc xác minh về khả năng kinh tế của đối tượng để biết họ có thuộc diện được trợ giúp pháp hay không. Về tiêu chí xác định người nghèo, ở mỗi nước đều quy định một mức thu nhập nhất định để làm tiêu chí xác định một người có thuộc diện nghèo hay không. Mức quy định này có thể khác nhau giữa các vùng, miền trong cùng một quốc gia. Còn đối với các đối tượng khác là những giấy tờ tùy thân, văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà căn cứ vào đó có thể chứng minh là người thuộc diện được TGPL. * Người thực hiện TGPL Tùy từng mô hình TGPL khác nhau mà người thực hiện TGPL sẽ được quy định khác nhau, điều đó phụ thuộc vào thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, sự phát triển của nghề luật, đặc biệt là sự can thiệp và quan tâm của nhà nước đối với hoạt động TGPL. Tuy vậy, người thực hiện TGPL dù ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều có những tiêu chí nhất định. Điểm chung trong pháp luật của các nước đều xác định người thực hiện TGPL phải đáp ứng được những điều kiện về kiến thức hiểu biết pháp luật hoặc chí ít là những người có tri thức pháp luật do đặc thù của TGPL là một nghề nghiệp chuyên môn sâu gắn với pháp luật. Hầu hết các nước khi xác định người thực hiện TGPL đều dựa trên sự phát triển của nghề luật, đặc biệt là nghề luật sư và đều thừa nhận luật sư là người thực hiện TGPL và hoạt động TGPL chủ yếu dựa trên đội ngũ luật sư. Sở dĩ như vậy, vì luật sư là người có tính chất, hoạt động nghề nghiệp thường xuyên tiếp xúc với pháp luật, hành nghề pháp luật và có đủ kiến thức pháp
  • 26. 21 luật nên thường là người có điều kiện nhất để có thể cung ứng dịch vụ TGPL. Ngoài luật sư thì người thực hiện TGPL cũng có thể là cán bộ chuyên trách của nhà nước được nhà nước giao nhiệm vụ thực hiện TGPL. Họ có thể là viên chức trong bộ máy nhà nước, được nhà nước tuyển dụng hoặc ký hợp đồng vào làm việc TGPL có trả lương theo vụ việc hoặc trả lương theo tháng. Mặt khác, người thực hiện TGPL phải đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định về phẩm chất đạo đức, công tâm khi thực hiện TGPL xuất phát từ đặc thù của TGPL là việc cung ứng dịch vụ pháp luật cho những người không có điều kiện kinh tế bằng việc miễn phí hoặc giảm phí. Qua nghiên cứu pháp luật các nước có thể khái quát những đối tượng sau đây được thực hiện TGPL: Luật sư công: Là công chức nhà nước hoặc được nhà nước tuyển dụng vào làm việc tại tổ chức TGPL để trực tiếp thực hiện TGPL, hưởng lương từ ngân sách nhà nước và thực hiện vụ việc theo sự phân công của tổ chức TGPL. Luật sư công hiện có ở các nước như: Philippine, Hà Lan, Mỹ, Litva, Israel, Hàn Quốc, Canada, Bang New South Wales của Australia, Phần Lan… Luật sư hành nghề tự do theo pháp luật về luật sư: Các luật sư là thành viên của Hiệp hội luật sư (hoặc Đoàn luật sư) tự nguyện tham gia thực hiện TGPL theo yêu cầu của khách hàng hoặc thực hiện TGPL theo yêu cầu của Chính phủ và được Chính phủ chi trả một phần thù lao như: Hàn Quốc, Mỹ, Nê-pan, Hà Lan, Mỹ, Singapore, Malaysia, Ailen, Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông, Đức… Các cán bộ nhà nước không phải là luật sư nhưng có trình độ tương đương luật sư: Những cán bộ này là viên chức nhà nước, ăn lương từ ngân sách nhà nước và chủ yếu làm TVPL theo phân công của tổ chức, không tham gia tranh tụng, không được tự do lựa chọn khách hàng và thực hiện TGPL đối với các vụ việc TGPL đơn giản, mang tính hành chính như: Nam Phi, Hàn
  • 27. 22 Quốc, Nê-pan, bang Ontari của Canada… Và một số đối tượng khác như: Sinh viên luật, người làm việc trong các cơ sở nghiên cứu và đào tạo về luật như: Trung Quốc, Hà Lan, Canada…; Người tự nguyện làm việc trong các tổ chức đoàn thể xã hội để thực hiện TGPL: Trung Quốc; Thành viên của tổ chức TGPL cộng đồng: Australia, Hà Lan, Philippine, Mỹ…; Các công chứng viên: Nhật Bản… 1.2.2.3. Hình thức, lĩnh vực và kinh phí TGPL * Hình thức TGPL Để giúp đỡ cho các đối tượng TGPL giải quyết được các vướng mắc pháp luật, các tổ chức, cá nhân thực hiện TGPL phải sử dụng một số hình thức TGPL nhất định. Tùy thuộc vào loại đối tượng trợ giúp, chủ thể thực hiện trợ giúp, điều kiện, chính sách trợ giúp của mỗi quốc gia… mà pháp luật mỗi nước có quy định những hình thức TGPL khác nhau. Song nhìn chung, có một số hình thức TGPL cơ bản gồm: Đại diện pháp lý, TVPL, phổ biến, giáo dục pháp luật và hòa giải. Đại diện pháp lý là việc tổ chức TGPL cử người thực hiện đại diện, bào chữa cho đối tượng TGPL trước cơ quan tiến hành tố tụng. Đây là hình thức TGPL cơ bản nhất, được quy định trong công ước quốc tế và tất cả chế định TGPL của các nước. Về thời điểm đại diện, nhìn chung các nước đều cho phép thực hiện đại diện TGPL cho đối tượng trong mọi giai đoạn của quá trình tố tụng. Tuy nhiên, phạm vi đại diện và việc bảo đảm đại diện có thể khác nhau tùy theo pháp luật tố tụng của từng nước. TVPL là hình thức TGPL được áp dụng ở hầu hết các nước có hoạt động TGPL như: Trung Quốc, Phần Lan, Litva, Slovania, Ạnh…TVPL được coi là một loại dịch vụ pháp luật nhằm giải thích pháp luật và hướng dẫn việc thực hiện pháp luật cho các đối tượng TGPL. TVPL được thực hiện bằng lời nói (tư vấn miệng) hoặc bằng văn bản; có thể tư vấn trực tiếp hoặc gián tiếp
  • 28. 23 (qua thư tín, thư điện tử, fax, điện thoại…). TVPL bao gồm nhiều nội dung khác nhau: Phân tích tình huống, đưa ra các giải pháp lựa chọn và kết quả dự kiến của các giải pháp đó; giải đáp pháp luật; hướng dẫn soạn thảo, đóng góp ý kiến vào đơn từ, hướng dẫn những thủ tục cần thiết; cung cấp địa chỉ cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ, việc. Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động giới thiệu, thông tin về các văn bản pháp luật, giải thích nội dung, cơ chế hoạt động và đào tạo, nâng cao nhận thức pháp luật cho cộng đồng của TGPL. Đây là hoạt động nhận được sự tham gia của nhiều tổ chức, đoàn thể, thành phần xã hội, đặc biệt tiêu biểu như các sinh viên luật, các tổ chức TGPL cộng đồng. Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu là diễn thuyết, cấp phát tờ gấp pháp luật,… Hòa giải là việc TGPL thực hiện dàn xếp giữa các bên tham gia tranh chấp để các bên đạt được thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Hòa giải là hình thức TGPL được áp dụng ở một số nước như: Anh, Ấn Độ, Mỹ, Bỉ… Trong quá trình thụ lý vụ việc TGPL về giải quyết tranh chấp giữa các bên, nếu thấy vụ việc có thể hòa giải được thì tổ chức TGPL cử người thực hiện hòa giải. Việc hòa giải có hiệu quả lớn là tôn trọng sự định đoạt của các bên, nâng cao hiệu quả tự thực hiện các quyết định hòa giải, giảm bớt chi phí tranh tụng. Về phạm vi hòa giải, tại một số nước (Ấn Độ), hòa giải được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, tuy nhiên, một số nước như: Anh, Bỉ, hòa giải chỉ được thực hiện đối với tranh chấp hôn nhân- gia đình. Một số lãnh thổ như: Canbera, Australia, đối với các tranh chấp hôn nhân- gia đình, tổ chức TGPL bắt buộc phải tổ chức hội nghị hòa giải giữa các bên, trên cơ sở đó các bên tự thương lượng, thỏa thuận về việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp. * Lĩnh vực TGPL Lĩnh vực TGPL là một trong những chế định quan trọng của hệ thống TGPL các nước. Trong khi tại một số quốc gia chỉ chấp nhận việc TGPL
  • 29. 24 trong lĩnh vực hình sự thì hầu hết các nước lại thực hiện TGPL trên cả hai lĩnh vực: Dân sự và hình sự. Trên cơ sở lĩnh vực TGPL, một số nước xây dựng hệ thống TGPL chung, nhưng một số nước khác lại xây dựng hai bộ phận TGPL dân sự và hình sự độc lập. TGPL trong lĩnh vực hình sự: Hầu hết các nước đều thực hiện TGPL đối với tất cả các vụ việc trong lĩnh vực hình sự vì đây là vấn đề cơ bản, gắn liền với quyền chính trị, nhân thân của đối tượng. Đặc biệt, các nước đều có quy định về những vụ việc có mức án tử hình, đối với trẻ vị thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải thuê luật sư đại diện cho bị cáo trong trường hợp bị cáo không có người đại diện hợp pháp cho mình. TGPL trong lĩnh vực dân sự: Khái niệm dân sự trong pháp luật TGPL các nước được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực như hôn nhân-gia đình, đất đai, lao động, việc làm, di cư, kinh doanh thương mại. Từ khái niệm thì phạm vi TGPL trong lĩnh vực dân sự tại chế định TGPL các nước có nhiều điểm khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa của từng nước. Theo truyền thống, TGPL của Anh tập trung chủ yếu vào luật sư tư và các vấn đề hôn nhân gia đình, tuy nhiên, trong cải cách hệ thống TGPL của mình, TGPL của Anh đã hướng sang lĩnh vực luật phúc lợi xã hội. Tại các nước khác, đặc biệt là những nước thiết lập hệ thống trung tâm pháp luật cộng đồng thì lĩnh vực phúc lợi xã hội được quan tâm, chú trọng. Điều đó có thể dễ dàng nhận thấy tại Hà Lan, Australia và bang Ontaria. Vấn đề bạo lực gia đình được hầu hết các quốc gia chấp nhận TGPL, trong khi đó, một số nước lại chuyển sang Tòa hình sự, luật sư bắt buộc tham gia trong những vụ việc này. TGPL trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại: Đa số các nước không TGPL trong vụ việc kinh doanh thương mại bởi đối tượng tham gia kinh doanh thương mại là những người giàu có, đủ khả năng chi phí cho dịch vụ pháp lý có thu phí, trong khi bản chất của hoạt động TGPL mang tính nhân
  • 30. 25 đạo, dành cho một số đối tượng đặc biệt, có hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, trên thực tế, một số nước vẫn chấp nhận thực hiện TGPL đối với các vụ việc phá sản. Tại Nhật Bản, năm 2003, số vụ việc trợ giúp đại diện pháp lý dân sự là 27.814 vụ việc, chiếm 68,5% tổng số vụ việc được thực hiện. Trong tổng số vụ việc hỗ trợ soạn thảo văn bản, số vụ việc hỗ trợ liên quan đến phá sản lên tới 95,7% (2.267 vụ việc)[28]. Việc TGPL được thực hiện trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở một số nước vì những lý do sau: Một là, trong pháp luật nội dung của đa số các nước, lĩnh vực kinh doanh, thương mại nằm trong lĩnh vực dân sự. Các quan hệ thương mại vẫn được điều chỉnh bởi các QPPL dân sự, do đó, các yêu cầu TGPL trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại được nằm trong nội dung TGPL trong lĩnh vực dân sự. Hai là, xuất phát từ bản chất TGPL nhằm hỗ trợ cho các đối tượng yếu thế để đạt được sự bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, trong đó có quyền và lợi ích trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại. Đối với những đối tượng này, đặc biệt là những người nghèo, việc TGPL trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại còn đặc biệt có ý nghĩa nhằm giúp họ thoát khỏi điều kiện kinh tế khó khăn để vươn lên thoát nghèo. * Kinh phí TGPL Chế độ TGPL của các nước trên thế giới tồn tại hai mô hình cơ bản: loại thứ nhất là chế độ TGPL do luật sư tư cung ứng dịch vụ pháp lý dựa trên việc lấy quỹ công cộng để chi trả các chi phí; loại thứ hai là chế độ TGPL do đội ngũ luật sư chuyên trách được hưởng thù lao cung cấp dịch vụ pháp lý, có cơ quan chuyên môn công cộng quản lý và thực hiện TGPL. Cho dù hình thức nào thì nguồn gốc chính của loại kinh phí này vẫn là do Chính phủ đầu tư tài chính. Ngoài ra, nguồn kinh phí từ các quỹ chuyên TGPL do nhân dân quyên
  • 31. 26 góp và có nguồn gốc khác cũng do tác dụng hỗ trợ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chế độ TGPL. Thứ nhất, kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước Đại đa số các nước kinh tế phát triển, kinh phí TGPL do nhà nước đầu tư tài chính. Đó là do cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự nâng cao về trình độ dân chủ hóa chế độ chính trị của đất nước, TGPL lấy việc phục vụ quần chúng là nội dung chính, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm nhân quyền, giúp đỡ những người bị tước đoạt quyền lợi xã hội cơ bản đã trở thành một trong những trách nhiệm của nhà nước mà các quốc gia phúc lợi đều phải gánh vác. Vì vậy, nhà nước có nghĩa vụ cung cấp kinh phí cho các hoạt động TGPL để đáp ứng nhu cầu về TGPL ngày càng tăng. Tại nhiều quốc gia, Luật Tố tụng dân sự đã xác lập quyền được luật sư giúp đỡ của đương sự, đồng thời quyền này còn được quy định trong Hiến pháp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp với số lượng lớn về tài chính để đảm bảo cho những người nghèo trong xã hội được hưởng quyền lợi này. Sự cấp phát về tài chính đã chiếm một phần lớn trong tổng kim ngạch về TGPL của các nước và đã phát huy vai trò quan trọng nhằm thúc đẩy việc mở rộng quy mô sự nghiệp TGPL ở các nước, đa dạng hóa hình thức và tăng cường mở rộng các tập đoàn kiếm lời, từ đó trở thành nguồn gốc quan trọng nhất của kinh phí TGPL ở các nước. Ở các nước đang phát triển do hạn chế về điều kiện kinh tế và xã hội khó có thể đáp ứng toàn bộ sự chi trả cần thiết cho kế hoạch TGPL mà nhà nước phải đầu tư kinh phí, từ đó việc cấp phát của nhà nước cũng rất có hạn. Phương thức cấp phát của nhà nước bao gồm 02 cách thức chủ yếu: Trực tiếp trích tiền từ ngân sách nhà nước và gián tiếp thông qua việc miễn, giảm chi phí tố tụng. Trực tiếp cấp kinh phí từ ngân sách: Đại đa số các quốc gia đã thiết lập chế độ TGPL đều tự liệt kê ra hạng mục chi phí ngân sách TGPL trong dự án Luật
  • 32. 27 Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, kinh phí tài chính đã được đưa vào dự toán ngân sách nhà nước, được pháp luật bảo đảm và cơ quan quyền lực giám sát, việc đầu tư và sử dụng mang tính ổn định, đáng tin cậy và có thể kiểm nghiệm, điều này khiến cho việc đầu tư kinh phí có nguồn gốc khác không thể so sánh nổi. Đầu tư gián tiếp bằng phương thức miễn trừ phí tố tụng: Phí tố tụng bao gồm chi phí Tòa án và chi phí luật định trong quá trình tố tụng. Chi phí luật định trong quá trình tố tụng bao gồm chi phí tư pháp, chi phí nhân chứng, chi phí giám định, chi phí đăng ký xét xử và trong một số trường hợp đặc biệt, người đưa đơn cần phải chi các khoản phí cho người thứ ba đứng ra bảo lãnh. Quy định về điều kiện và phạm vi miễn trừ chi phí tố tụng ở mỗi nước một khác, đa số đều quy định trong Bộ luật Tố tụng (như Nhật Bản, Đan Mạch…) hoặc trong “Luật Miễn phí tố tụng” chuyên môn (như Phần Lan). Đầu tư gián tiếp bằng phương thức miễn trừ phí tố tụng có ưu điểm là chi phí tương đối thấp mà lại hiệu quả, những nước thi hành chế độ này gồm Thụy Sỹ, Áo, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Đan Mạch, Na uy, Phần Lan, các nước Đông Âu và thậm chí cả các nước Châu Phi như Ruanđa, Namibia… Điều cần chỉ ra là trong chế độ miễn phí tố tụng ở các nước Đông Âu, do cách xử lý chi phí pháp lý khác nhau, trong một số trường hợp miễn phí tố tụng với điều kiện tiên quyết là do tranh chấp đặc biệt (như lao động, phí cấp dưỡng, tiền bồi thường tai nạn lao động…) mà không liên quan đến tình hình kinh tế của đương sự. Thứ hai, kinh phí từ Quỹ TGPL Để thích ứng với nhu cầu pháp lý ngày càng tăng của người nghèo và bổ sung những thiếu sót trong hoạt động đầu tư của nhà nước và để thể hiện ý nghĩa của TGPL với tư cách là một sự nghiệp công ích. Một số quốc gia và khu vực đã thành lập Quỹ TGPL, đồng thời dùng thu nhập của Quỹ làm nguồn quan trọng của kinh phí TGPL. Nguồn thu nhập của quỹ không thống nhất, có số thu được từ lợi tức trong khoản mục quỹ tín dụng luật sư như Quỹ
  • 33. 28 tín dụng luật sư tranh tụng của Australia và kế hoạch quỹ ủy thác dịch vụ pháp lý của Hiệp hội luật sư Mỹ; có số thu được từ một phần tiền do đương sự được trợ giúp bồi hoàn lại theo nguyên tắc chia sẻ chi phí và cả chi phí bồi thường từ phía đương sự đối phương thua kiện như Quỹ kế hoạch TGPL ở Anh; còn một số có nguồn gốc từ kinh phí công cộng, các khoản tiền phạt của nhà nước… Nhà nước thường có những chính sách ưu đãi như miễn thuế đối với loại quỹ riêng này. Thứ ba, từ sự ủng hộ, quyên góp của nhân dân TGPL vừa là một nhiệm vụ của nhà nước và là sự nghiệp công ích xã hội, ngoài đầu tư nhà nước và lợi nhuận thu được từ quỹ chuyên ngành ra, sự quyên góp của nhân dân cũng là một trong những nguồn kinh phí quan trọng đối với sự nghiệp TGPL. Sự quyên góp chủ yếu từ hiệp hội luật sư, cá nhân luật sư chuyên nghiệp, quỹ, tập đoàn từ thiện công cộng, các tổ chức nhân dân và cá nhân khác. Thứ tư, một số nguồn khác Chế độ bảo hiểm tố tụng với hình thức bảo hiểm công cộng hoặc tư nhân được tiến hành ở Ý và các nước Bắc Âu như Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Na – uy… được coi là chế độ dịch vụ pháp lý trả trước và là một nguồn mới của kinh phí TGPL. Trong chế độ bảo hiểm tố tụng các nước, quy định về điều kiện áp dụng và phạm vi trách nhiệm bảo hiểm đối với mỗi vụ án đều khác nhau nhưng nhìn chung do phải chi trả một số lượng tiền bảo hiểm nhất định, chế độ này chỉ phù hợp với những người thuộc tầng lớp có thu nhập ở mức trung bình, cảm thấy mình có đủ khả năng tham gia vào các vụ tranh chấp pháp lý, chứ không thể thỏa mãn nhu cầu pháp lý chính đáng của dân nghèo, cho nên mặt bằng phổ cập tương đối hẹp. Ngoài ra, chế độ bảo hiểm tố tụng làm cho luật sư ỷ lại vào công ty bảo hiểm để nhận được tiền thù lao, dễ gây ra hậu quả xấu là việc công ty bảo hiểm thao túng vụ án.
  • 34. 29 Bảo hiểm tố tụng không phải là một loại bảo hiểm độc lập, theo quy định không thể tự mua một mình mà phải mua kèm cùng với các loại bảo hiểm khác như: Ở Thụy Sỹ, bảo hiểm tố tụng thường đi liền với bảo hiểm nhà ở, phương tiện giao thông và bảo hiểm thương mại. Ở Thụy Điển, bảo hiểm tố tụng mua kèm bảo hiểm hỏa hoạn và bảo hiểm gia đình. Ở Đan Mạch, bảo hiểm tố tụng được coi là một bộ phận của các loại bảo hiểm khác như bảo hiểm gia đình hoặc bảo hiểm ô tô. Loại thường gặp nhất là kết hợp với bảo hiểm gia đình, bảo hiểm tố tụng được cung cấp cho người mua bảo hiểm. 1.2.2.4. Quản lý nhà nước về TGPL Nghiên cứu TGPL các nước cho thấy, TGPL đều giao cho một cơ quan trung ương thuộc Chính phủ đảm nhận. Tuy tên gọi của cơ quan quản lý nhà nước có khác nhau những tựu chung lại, việc quản lý nhà nước giao cho Bộ Tư pháp thực hiện. Ở Trung Quốc, Phiippine, Trung tâm TGPL nhà nước và Văn phòng Luật sư công là một đơn vị thuộc Bộ Tư pháp. Ở Hàn Quốc, trước năm 1987, Hiệp hội TGPL đặt trụ sở tại Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hiệp hội là Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Hiệp hội bao gồm các nhân viên chuyên trách và một số nhân viên kiêm nhiệm. Từ năm 1987 trở lại đây, Cục TGPL Hàn Quốc được thành lập thay thế cho Hiệp hội nói trên. Tuy Cục TGPL có trụ sở riêng tách khỏi Bộ Tư pháp nhưng tổ chức và hoạt động vẫn chịu sự giám sát, quản lý của Bộ Tư pháp. Ở Canada, trước năm 1998, hoạt động TGPL do Hội Luật gia quản lý. Sau khi đạo luật mới về TGPL ra đời năm 1998, Cục TGPL được thành lập để thay thế các chức năng quản lý và thực hiện TGPL của Hội Luật gia. Theo quy định của đạo luật thì Cục TGPL là một tổ chức độc lập nhưng chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động của mình và Bộ trưởng Bộ Tư pháp có chức năng, nhiệm vụ bổ nhiệm hoặc đề cử thành viên trong Ban lãnh đạo Cục
  • 35. 30 TGPL, phê duyệt kế hoạch hoạt động, kế hoạch tài chính của Cục. Cục TGPL có trách nhiệm báo cáo hoạt động hàng năm lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ở Anh, Văn phòng Tổng chưởng lý quản lý nhà nước về TGPL. Tại Singgapore, giao cho Bộ Pháp luật quản lý. Các nước: Pháp, Mỹ, Nhật Bản…đều giao quyền quản lý tổ chức, hoạt động TGPL cho Bộ Tư pháp: Nội dung quản lý nhà nước về TGPL nói chung bao gồm: Lập kế hoạch TGPL theo từng năm và qua các giai đoạn; Quản lý việc xây dựng, tổ chức, đào tạo đội ngũ những người làm công tác TGPL; Tập trung quản lý và sử dụng ngân sách TGPL, đồng thời chịu trách nhiệm duy trì và tăng ngân sách TGPL, kiểm tra tình hình sử dụng ngân sách và lợi ích xã hội; Triển khai việc nghiên cứu lý luận về TGPL, đề xuất ý kiến cải cách và hoàn thiện chế định TGPL; Chịu trách nhiệm kiểm tra pháp luật có liên quan đến công tác TGPL, tổ chức soạn thảo xây dựng pháp luật về TGPL, đưa ra ý kiến đề nghị để xây dựng hoàn thiện pháp luật về TGPL; Chịu trách nhiệm thẩm tra các vụ án về TGPL, tổ chức kiểm tra hành chính đối với các vụ về TGPL có kiến nghị; Thu thập tài liệu, thông tin về công tác TGPL, cung cấp dịch vụ thông tin cho cơ cấu TGPL trong nước hoặc địa phương; Chịu trách nhiệm liên lạc đối ngoại về công tác TGPL của Nhà nước hoặc khu vực, triển khai rộng rãi việc giao lưu TGPL giữa khu vực và quốc tế… Qua quá trình nghiên cứu các chế định TGPL ở một số nước, mặc dù tùy đặc điểm, tình hình mỗi nước có cách thức xây dựng mô hình khác nhau, diện người thực hiện, hình thức, lĩnh vực, nguồn kinh phí bảo đảm hoạt động TGPL, chế độ quản lý nhà nước về TGPL có những nét khác biệt. Song, TGPL đều thể hiện bản chất nhân đạo, nhân văn, không vì mục đích lợi nhuận và hướng đến đối tượng được thụ hưởng dịch vụ chủ yếu là người nghèo, đối tượng chính sách và những đối tượng khác cần được xã hội quan tâm. Và TGPL đã và đang khẳng định vai trò sâu sắc trong tính xã hội ở nhiều quốc gia, dù ở quốc gia phát triển hay quốc gia đang phát triển.
  • 36. 31 Chương 2 PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ 2.1. Khái quát sự hình thành và phát triển TGPL ở Việt Nam TGPL ở nước ta ra đời và phát triển gắn với sự ra đời của chế định tư pháp bảo trợ của nền tư pháp nhân dân dưới chế độ mới, gắn liền với yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nhằm thực thi tốt nhất các quyền tự do, dân chủ của công dân. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, cùng với sự phát triển của điều kiện kinh tế-xã hội, chế định này từng bước hoàn thiện gắn với nhận thức mới về sự phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý và nghề luật sư cũng như thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khác. Có thể khái quát quá trình hình thành, phát triển như sau: 2.1.1. Giai đoạn trước năm 1987 Dưới chế độ phong kiến, vấn đề giúp đỡ, hỗ trợ, bảo vệ quyền lợi của những người nghèo khổ đã được nhiều triều đại quan tâm giải quyết và tổ chức thực hiện khá tốt, đặc biệt là các chế độ gần dân, thân dân. “Quốc triều hình luật” đã có những quy định về việc phải quan tâm, giúp đỡ người nghèo, đồng thời đưa ra đường lối xử lý đối với quan lại không thực hiện tốt chính sách đối với người nghèo. Chương Hộ hôn quy định quan sở tại có trách nhiệm thu nuôi, bảo vệ người góa vợ, góa chồng, mồ côi và người tàn tật nặng, nghèo khổ không có người thân tích để nương tự, không thể tự mình mưu sống được, nếu không thực hiện sẽ bị xử phạt; ưu tiên người nghèo, kẻ yếu thế trong đánh thuế hay bắt đi sau dịch (trước phải phân bổ người giàu, người khỏe, sau đến người nghèo, người yếu), nếu không thực hiện hoặc thực hiện không công bằng, quan sở tại sẽ bị phạt. Bên cạnh đó, các quy định về cứu tế, tương bần, thành lập phường, hội để hỗ trợ, giúp đỡ người nghèo khi khó khăn đột xuất do thiên tai, địch họa,
  • 37. 32 đói kém, mất mùa đã được thể hiện và trở thành truyền thống “lá lành đùm lá rách”, “tương thân, tương ái” của dân tộc ta. Đáng tiếc sau đó, chính quyền và pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc lại là công cụ chính trị để đế quốc Pháp duy trì chế độ thuộc địa nửa phong kiến; tư bản và đế quốc chủ nghĩa “lấy tôn giáo và văn hóa làm cho ngu dân, lấy pháp luật buộc dân lại, lấy sức mạnh làm cho dân sợ, lấy phú quý làm cho dân tham”. Vì thế, pháp luật không còn là công cụ để duy trì trật tự pháp luật có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân mà là công cụ để trấn áp, cai trị. Vì vậy, những tư tưởng về giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo gần như không được đề cập theo tinh thần dân chủ, tiến bộ. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, với phương châm: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”. Vì vậy, Nhà nước ta rất chú trọng nâng cao dân chí, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cho nhân dân về quyền làm chủ, trách nhiệm của người làm chủ đất nước và chuẩn bị các điều kiện cần thiết để nhân dân trực tiếp thực hiện được quyền làm chủ, tham gia kiến quốc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng nước nhà. Cùng với việc diệt giặc đói, diệt giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ rất quan tâm diệt giặc dốt, bởi: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta”; “Phải làm sao cho mọi người dân ai cũng ăn no, mặc ấm, ai cũng được học hành”; “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” và “Phải giáo dục lại nhân dân chúng ta”. Trong bối cảnh đó, các quy định về bảo trợ tư pháp gắn với quyền bào chữa và bảo đảm quyền bào chữa đã được ghi nhận trong Hiến pháp để thực
  • 38. 33 hiện tốt nhất các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân không phân biệt giàu nghèo. Theo Hiến pháp năm 1946: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời về việc tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán (được sửa đổi bởi Sắc lệnh số 111 ngày 28/6/1946 và Sặc lệnh số 88/SL ngày 22/5/1950) quy định: “Trong việc đại hình, nếu trước Tòa Thượng thẩm một bị can không có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật sư để bào chữa cho hắn”; “Các Luật sư có quyền biện hộ trước tất cả các Tòa án, trừ những Tòa sơ cấp”. Đồng thời, Hội thẩm nhân dân có nhiệm vụ: Giáo dục nhân dân tham dự chính quyền nói chung và tư pháp nói riêng; tuyên truyền giải thích chính sách của Chính phủ cho dân trong xã và gửi cho Tòa án nhân dân…vì Hội thẩm nhân dân có điều kiện gần dân hơn…sát dân, hiểu biết dư luận, nguyện vọng, tình hình của dân làng thì mới giúp được cho Tòa án nhận định và chủ trương sát với quyền lợi nhân dân địa phương” [17]. Theo Sắc lệnh số 46 ngày 10/10/1945 của Chủ tịch lâm thời về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư: “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa quân sự” [16] và quyền bào chữa này được mở rộng cho công dân theo quy định tại Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949. Một công dân muốn được “tư pháp bảo trợ” thì phải làm đơn. Nếu “người đương sự” được kiện thì việc được hưởng “tư pháp bảo trợ” có hiệu lực cho đến khi thi hành xong hẳn bản án mà “người đương sự” không phải nộp một khoản lệ phí nào, kể cả việc cấp trích lục án, phí tổn này sẽ do công khố chịu. Các quy định này đã thể hiện nhận thức đúng đắn của chế độ ta về vị trí của quyền tự do bào chữa của công dân là “thành trì cần thiết cho các
  • 39. 34 quyền tự do khác”. Nhà nước ta đã ghi nhận quyền bào chữa và bảo đảm thực hiện quyền bào chữa cho bị cáo không phân biệt họ giàu hay nghèo khi cho phép họ được nhờ luật sư hoặc người công dân khác không phải luật sư đứng ra bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và coi đây là nguyên tắc Hiến pháp. Nó giúp cho công tác xét xử được tiến hành toàn diện và khách quan, bênh vực được các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị can, đồng thời bảo vệ pháp luật của Nhà nước, hơn nữa, trong chế độ dân chủ nhân dân, “nếu bị can không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là có công lý”. Thực hiện tốt quyền bào chữa không chỉ nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật của Nhà nước ta mà còn bảo đảm thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng của tố tụng là: “trước khi tuyên án, bị can phải được coi như người vô tội”. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và Sắc lệnh số 144/SL ngày 22/12/1949 về việc mở rộng tổ chức bào chữa, cho phép người công dân không phải là luật sư có thể bào chữa cho đương sự trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại cho bị can trước các Tòa án xử việc hình. Ngày 12/01/1950, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 1/NĐ-VY ấn định điều kiện để làm bào chữa viên nhân dân và phụ cấp của bào chữa viên nhân dân và Thông tư số 101/HCTP ngày 28/9/1957 của Bộ Tư pháp quy định về việc tổ chức bào chữa viên nhân dân. Thông tư số 101/HCTP nêu rõ: “Trong lúc chưa có sự sửa đổi gì về chế định bào chữa viên nhân dân của ta, thì vẫn phải thi hành các Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 và Nghị định số 1/NĐ-VY ngày 12/01/1950 quy định về tổ chức bào chữa viên nhân dân” [3]. Năm 1951, vì nhu cầu kháng chiến, đoàn thể luật sư tạm ngừng hoạt động. Sau ngày tiếp quản thủ đô, đoàn thể luật sư đã hoạt động trở lại với một Hội đồng luật sư ở Hà Nội. Năm 1963, Văn phòng Luật sư thí điểm được thành lập và có nhiệm vụ: “giải đáp pháp luật cho nhân dân và cán bộ; làm giúp cho đương sự những
  • 40. 35 đơn từ và các văn kiện pháp luật như hợp đồng, khế ước”. Lúc đầu, Văn phòng Luật sư nhận bào chữa những vụ án do Tòa án yêu cầu. Năm 1972, Ủy ban pháp chế của Chính phủ được thành lập. Ngày 22/11/1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 143-HĐBT quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo văn bản này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ quản lý hoạt động hành chính tư pháp trong đó có nhiệm vụ quản lý công tác Luật sư, TVPL. Trên nền tảng Hiến pháp năm 1946, ở các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, vấn đề “tư pháp bảo trợ” được tiếp tục thể hiện gắn với nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo. Năm 1982, Việt Nam tham gia Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. Theo Điều 14, điểm 3 phần d Công ước, quá trình xét xử một tội hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi một cách hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như là: Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về pháp lý thì phải được thông báo về quyền này; trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu không có đủ điều kiện trả” [23]. Việc tham gia Công ước này đòi hỏi Nhà nước ta phải đổi mới tư duy về quyền được tiếp cận luật sư, người có kiến thức pháp luật của mọi công dân không phân biệt giàu nghèo, tạo tiền đề cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định tư pháp bảo trợ với nội dung và phương thức mới, không chỉ dừng lại ở bảo đảm quyền bào chữa mà còn gắn với quyền được tiếp cận và sử dụng pháp luật của công dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt (không có đủ điều kiện trả tiền) nhằm đảm bảo công bằng xã hội.
  • 41. 36 Như vậy, trong giai đoạn này, TGPL chưa ra đời với tư cách là chế định pháp luật, chưa gắn với người nghèo và các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt mà nằm chung trong cơ chế bao cấp pháp lý của Nhà nước. Ngân sách nhà nước chi trả mọi chi phí cho hoạt động TVPL, đại diện, bào chữa trong các vụ án hình sự, dân sự… Các đương sự hầu như không phải bỏ một khoản chi nào (kể cả chi phí cho luật sư). Những hoạt động mang tính chất TGPL đã ra đời dưới hình thức: “tư pháp bảo trợ”, gắn liền với yêu cầu bảo đảm quyền bào chữa của người bị can, bị cáo. Còn trong các lĩnh vực như hành chính, lao động, việc làm và một số lĩnh vực pháp luật khác ít được đề cập đến. Thời kỳ này, chưa có hệ thống cơ quan TGPL chuyên trách cho người nghèo và các đối tượng chính sách. Hoạt động này chủ yếu do luật sư, cán bộ, công chức nhà nước và các công dân khác không phải là luật sự thực hiện để bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo mà chưa được mở rộng quyền tiếp cận pháp luật cho các đối tượng đặc thù như một số nước, đặc biệt là người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. 2.1.2. Giai đoạn từ năm 1987 đến năm 1997 Thực hiện đường lối đổi mới, cơ chế tập trung, bao cấp từng bước bị xóa bỏ, nền kinh tế thị trường được hình thành, phát triển. Hoạt động luật sư, TVPL được coi là một hoạt động nghề nghiệp. Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 và Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quy chế Đoàn Luật sư đã xác định một số vụ việc Luật sư thực hiện giúp đỡ cho đối tượng mà không được thu phí như bào chữa cho bị can, bị cáo theo chỉ định của các cơ quan tiến hành tố tụng (trường hợp này luật sư được nhận thù lao do Tòa án chỉ định thanh toán). Quy chế xác định rõ các đối tượng được miễn trả thù lao khi nhờ luật sư giúp đỡ pháp lý, đó là: Nguyên đơn ở các Tòa án trong các vụ việc đòi tiền cấp dưỡng nuôi con, đòi bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động, bồi
  • 42. 37 thường thiệt hại do tai nạn làm chết người trụ cột của gia đình, khiếu nại về việc bầu cử Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật Bầu cử Hội đồng nhân dân; thương binh hạng nặng (loại 1, 2/4); đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khi nhờ luật sư giải thích pháp luật, hướng dẫn cho cử tri; thành viên của tổ hòa giải khi nhờ luật sư giải thích pháp luật những vấn đề có liên quan đến hoạt động xã hội của họ. Ngoài ra, với những công dân có hoàn cảnh kinh tế khó khăn hoặc các trường hợp đặc biệt khác nếu có đơn yêu cầu thì Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư có thể xét miễn hoặc giảm thù lao cho họ. Do luật sư quá ít nên việc TVPL miễn phí của những người không phải là luật sư cũng được đề cập tại Thông tư số 1119/QLTPK ngày 24/12/1987 và Công văn số 870/CV-LSTV ngày 23/10/1989 của Bộ tư pháp cho phép Hội luật gia và các Đoàn luật sư được mở Văn phòng TVPL nhằm giúp đỡ pháp luật cho các đối tượng, trong đó có một số vụ việc giúp đỡ miễn phí. Sự ra đời của các văn bản trên đây về cơ bản đã tạo lập cơ sở pháp lý tương đối cụ thể cho sự ra đời và phát triển của dịch vụ pháp lý miễn phí ở Việt Nam. Giai đoạn này, yếu tố “dịch vụ” chỉ mang tính chất của hoạt động phục vụ mà chưa có yếu tố “thị trường” của “cung” và “cầu”. Các văn bản này đã tạo cơ chế pháp lý cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động TGPL xã hội do luật sư thực hiện theo nghĩa vụ theo yêu cầu của cơ quan nhà nước (do ngân sách nhà nước chi trả) và tự nguyện, miễn phí với một số đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt. Theo thống kê, đến năm 1996, ở nước ta đã có 61 Hội luật gia cấp tỉnh với 37 Văn phòng TVPL (tại thành phố Hồ Chí Minh có 15 Văn phòng; tại Hà Nội có 11 văn phòng); 61 Đoàn luật sư cấp tỉnh với 46 Chi nhánh Đoàn luật sư; 12 Văn phòng hoặc Trung tâm TVPL của các tổ chức chính trị- xã hội; 04 Văn phòng TVPL của Liên đoàn Lao động Việt Nam; 03 Văn phòng TVPL của Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ; 02 Văn phòng TVPL của Trung
  • 43. 38 ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, và 24 Công ty Luật hoạt động dưới hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn. Các tổ chức này đã trực tiếp hoặc phối hợp với các Trung tâm TGPL được thành lập thí điểm để thực hiện TGPL mang tính nhân đạo, từ thiện. Trước bối cảnh Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, việc mở rộng quan hệ đầu tư, hợp tác với nước ngoài đòi hỏi phải phát triển thị trường dịch vụ pháp lý của Luật sư. Yêu cầu đó đặt ra vấn đề cần phải tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài vào hành nghề tại Việt Nam nhằm góp phần thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Ngày 18/5/1995, tại phiên họp Ban Bí thư, Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: Chúng ta cần chú ý các biện pháp để tăng cường hoạt động pháp lý mang tính kinh doanh, dịch vụ phục vụ đầu tư nhưng cũng cần chú trọng công tác tư vấn, hướng dẫn pháp luật cho nhân dân, mà đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc ít người. Công tác này chưa được quan tâm đúng mức. Đây là vấn đề cần được nghiên cứu và làm ngay trong thời gian tới” [44]. Tiếp đó, Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII đã chỉ đạo cần phải tổ chức hình thức TVPL cho các cơ quan, tổ chức và nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng dịch vụ TVPL miễn phí. Ngày 31/5/1995, Văn phòng Trung ương Đảng có Công văn số 485/CV- VPTW thông báo ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư gửi Ban cán sự Đảng Chính phủ, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đề nghị: “xác định phạm vi thích hợp hoạt động TVPL của tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân, trước hết chú trọng tổ chức TVPL của nhà nước…; cần nghiên cứu lập hệ thống dịch vụ TVPL không lấy tiền để hướng dẫn nhân dân sống và làm việc theo pháp luật”[48]. Trong thư ngày 20/12/1995 gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân
  • 44. 39 dịp kỷ niệm 50 năm thành lập ngành, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười nhấn mạnh: “Nhà nước phải nghiên cứu sớm thành lập một hệ thống các tổ chức TVPL không mất tiền dành cho người nghèo; các gia đình thuộc diện chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số”[34]. Chỉ đạo này đã định hướng để đổi mới tư duy về công tác cung ứng dịch vụ pháp lý, đặt mốc cho quá trình chuyển biến sâu sắc, mạnh mẽ và toàn diện trong nhận thức và hoạt động của đời sống pháp luật, tạo tiền đề về mặt chính trị- pháp lý cho sự ra đời và phát triển của công tác TGPL. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Ban Bí thư, Bộ Tư pháp đã chủ động nghiên cứu, tham mưu giúp Chính phủ triển khai thí điểm thành lập các Trung tâm TGPL của nhà nước tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Cần Thơ ngày 13/7/1996, Hà Tây ngày 28/01/1997). Hoạt động TGPL thí điểm ở 02 tỉnh đã được nhân dân Cần Thơ và Hà Tây đón nhận như một chính sách xã hội rộng lớn. Do được UBND các cấp nhiệt tình hưởng ứng, nhân dân biết đến nhanh nên hoạt động TGPL đã thu được một số kết quả đáng khích lệ (trên 700 vụ/02 địa phương), số vụ việc ngày càng tăng, nhiều đối tượng đã gửi thư cảm ơn. Lãnh đạo hai tỉnh đánh giá cao và coi đây là một trong những loại hình đưa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đi vào cuộc sống hiệu quả nhất. Kết quả thí điểm là tiền đề quan trọng cho sự ra đời của hệ thống TGPL nhà nước. Ngày 13/3/1997, tại buổi làm việc với Bộ Tư pháp, đồng chí Võ Văn Kiệt, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh: Chúng ta không sợ dân đi kiện, vấn đề là làm sao để dân kiện đúng, kiện đúng người, đúng việc, đúng chỗ nếu họ bị oan, giúp nhà nước phát hiện những vi phạm công vụ, những “con sâu làm dầu nồi canh”, khắc phục bất cập của nhà nước đối với những vướng