SlideShare a Scribd company logo
1 of 101
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ ……
Téi l¹m dông tÝn nhiÖm chiÕm ®o¹t tµi s¶n trong ph¸p luËt
h×nh sù ViÖt Nam
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..
HÀ NỘI – NĂM 2017
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận trong
luận văn chưa được công bố trong một công trình khoa học nào khác. Các ví dụ, trích
dẫn, đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực./.
TÁC GIẢ
3
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
BLHS : Bộ luật hình sự
CTTP : Cấu thành tội phạm
TNHS : Trách nhiệm hình sự
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 : KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 7
1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 9
1.2.1.Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ
năm 1945 đến năm 1985 9
1.2. 2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ
năm 1986 đến năm 2015 18
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 29
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG PHÁP LÝ CỦA TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM
ĐOẠT TÀI SẢN
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 31
2.1.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 31
2.1.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 33
2.1.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 40
2.1.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 42
2.2. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 43
2.2.1. Khung cơ bản đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 43
2.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản..............................................................................47
2.2.3. Khung tăng nặng thứ hai đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 49
2.2.4. Khung tăng nặng thứ ba đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 50
2.2.5. Hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 51
5
2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm và hành vi vi
phạm pháp luật dân sự, kinh tế 51
2.3.1 Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm 52
2.3.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi vi phạm pháp luật
dân sự, kinh tế 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 60
CHƯƠNG 3 . MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ KIẾN NGH ÁP DỤNG ĐIỀU 175
BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
3.1. Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 62
3.1.1. Vướng mắc trong định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 62
3.1.2. Vướng mắc trong áp dụng khung hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
77
3.2. Kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 86
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đưa đất nước ta từ một nước
kém phát triển thành một nước đang phát triển, kinh tế đã có bước chuyển mình rõ rệt, từ
nền kinh tế thuần nông đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp, đời sống nhân dân đã từng
bước được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì mặt trái của nền
kinh tế thị trường cũng làm phát sinh những yếu tố tiêu cực cho đời sống xã hội; tình hình
tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có chiều hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn
tinh vi xảo quyệt. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định về
tội phạm này tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng đa dạng và phức tạp dẫn đến
việc xét xử loại tội này trong thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc xác định tội
danh, quyết định hình phạt và vấn đề hình sự hóa các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế. Mặt
khác, về phương diện lập pháp, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
hình sự Việt Nam cũng đã qua nhiều lần sửa đổi, do đó việc nghiên cứu làm sáng rõ nội
dung pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là điều rất quan trọng. Qua đó,
nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thống nhất khi xử lý người phạm
tội, từng bước ngăn ngừa và loại bỏ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong đời
sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được nhiều tác giả nghiên cứu
dưới các góc độ, phương diện khác nhau trong nhiều công trình nghiên cứu như: Luận văn
thạc sĩ luật học: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và đấu tranh phòng chống tội
phạm này ở Việt Nam hiện nay của tác giả Hoàng Văn Lập, Tiến sĩ Trương Quang Vinh
hướng dẫn năm 2004.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được đề cập trong: Giáo trình luật hình sự
Việt Nam (phần các tội phạm), Lê Cảm (chủ biên) NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001;
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể, Trường Đại học Luật Hà Nội.
NXB. Công an nhân dân, 2015; Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm, tập II, Các
tội xâm phạm sở hữu, Đinh Văn Quế NXB. Thànhphố Hồ Chí Minh, 2003; Sách chuyên
khảo các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, Cao Thị Oanh (chủ biên).
NXB Tư pháp, 2015. Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu, trao đổi dưới dạng bài viết tạp
chí như:
- Sự khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS) với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS), Lê Đăng Doanh, Tạp chí Tòa án nhân dân
nhân số 24/2005.
7
- Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trong trường hợp liên quan đến vi phạm hợp đồng, Trần Công Phàn, Tạp chí Kiểm sát
20/2006;
- Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Nguyễn
Văn Trượng, Tạp chí Tòa án nhân dân nhân số 03/2008;
- Bàn về yếu tố “chiếm đoạt tài sản” trong các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Nguyễn Thị Phương Thảo, Tạp chí Kiểm sát số 09/2012;
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản- một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến
nghị hoàn thiện, Trần Duy Bình, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 11, 2012.
Qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy, việc nghiên cứu tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là mới; một số công trình nghiên cứu với phạm vi
rộng và chung cho cả nhóm tội, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ là
một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong giáo trình, sách chuyên khảo
và bình luận Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được
nghiên cứu trao đổi dưới dạng bài viết tạp chí, các bài viết đã đi vào phân tích một vài khía
cạnh cụ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ nghiên cứu tội phạm
này ở những khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng quát về tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách đầy đủ có hệ thống trong thời kỳ hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài“Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
pháp luật hình sự Việt Nam” là rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong
thời kì hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ nội dung khoa học của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), có so sánh
với quy định của tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 2015. Từ đó, tìm ra những bất
cập trong quy định của luật hình sự và thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản. Trên cơ sở đó có những kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và
nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn xét xử.
4. Câu hỏi nghiên cứu luận văn
- Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
- Chế tài áp dụng đối với người phạm tội như thế nào?
- Những vướng mắc trong quá trình áp dụng như thế nào và hướng khắc phục những vướng
mắc đó?
8
- Khác biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009) so với quy định của tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 2015
như thế nào?
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,trong đó tập trung nghiên cứu chủ yếu vào quy
định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), và so sánh với quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này.
* Phạm vi nghiên cứu luận văn: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự, tác
giả tập trung nghiên cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đồng thời phân tích, so sánh với quy
định Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, từ việc nghiên cứu thực tiễn xét xử
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tác giả đưa ra một số kiến nghị áp dụng Điều
175 Bộ luật hình sự năm 2015 trong thời gian tới.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Trên nền tảng phương pháp luận ấy, khi nghiên cứu
từng vấn đề cụ thể tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử
- Phương pháp so sánh luật học
- Phương pháp phân tích, đánh giá
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt khoa học: Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sử lập pháp hình sự về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 1945 đến nay và làm sáng rõ quá trình
phát triển trong kỹ thuật lập pháp về tội phạm này. Luận văn đã phân tích đầy đủ, toàn diện
sâu sắc các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định
của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có đối chiếu so sánh với quy
định của Bộ luật hình sự năm 2015. Đồng thời, Luận văn đã đưa ra kiến nghị trong thời
gian tới trong việc áp dụng Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Về mặt thực tiễn: Góp phần thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách
chính xác khi xử lý người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đề tài có thể
được dùng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
8. Kết cấu của Luận văn
9
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm
3 chương:
Chương 1: Khái niệm và lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản.
Chương 2: Nội dung pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Chương 3: Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản và kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế dẫn đến các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại phát sinh ngày càng
phong phú và đa dạng. Do đó, việc nhận diện đúng ranh giới giữa các quan hệ này với hành
vi phạm tội để áp dụng áp dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, khách quan, đầy đủ
và chính xác. Trên cơ sở đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân, từng bước loại bỏ tình trạng được gọi là “hình sự hóa” các giao dịch dân sự,
kinh doanh, thương mại hay ngược lại “dân sự hóa” các hành vi phạm tội. Đồng thời,
10
nghiên cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn là cơ sở phân biệt tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt với một số tội phạm khác.
Theo từ điển Tiếng Việt lạm dụng có nghĩa là “sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được
quy định”; tín nhiệm có nghĩa là “tin cậy trong một nhiệm vụ cụ thể nào đó” 1 . Theo nghĩa
Hán - Việt, tài sản có nghĩa là dùng để “chỉ chung tiền bạc, của cải”2 hay “tiền của, của cải
nói chung”3. Hoặc là“của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng”4.
Theo Điều 105 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015, tài sản được hiểu bao gồm: “Vật, tiền,
giấy tờ có giá và quyền tài sản”, trong đó quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao
gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền
tài sản khác (Điều 115 BLDS).
Tuy nhiên, từ góc độ Luật hình sự, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một
trong những tội phạm có tính chất chiếm đoạt tài sản thì tài sản theo quan niệm của BLDS
không phải tài sản nào cũng được coi là đối tượng của tội phạm này. Bởi lẽ, không phải tài
sản nào người phạm tội cũng có thể lạm dụng tín nhiệm lấy được từ chủ tài sản.
Ví dụ như các quyền tài sản như: Quyền của chủ nợ, quyền sở hữu đối với các giấy tờ có
giá ghi danh… Đây là một dạng tài sản vô hình, không nhìn thấy được, nó gắn liền với
quyền nhân thân và cố định với một chủ thể cụ thể được pháp luật công nhận. Mọi trình tự,
thủ tục thực hiện các quyền này đều tuân theo quy định của pháp luật. Do vậy, tội phạm
không thể chiếm đoạt được loại tài sản nêu trên nên nó không thể là đối tượng tác động của
tội lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản.
Chiếm đoạt theo nghĩa Hán - Việt, “chiếm” là “lấy làm của mình”5 hay chiếm đoạt là
“dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình” 6 chiếm đoạt còn được hiểu là“chiếm của
người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực”7.
Dưới góc độ pháp luật hình sự chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật
tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình hoặc“hành vi cố ý
chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc,
của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm” 8 .
Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý có thể đưa
ra định nghĩa khoa học về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của người được người khác tin tưởng
giao tài sản trên cơ sở hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng đã lạm dụng lòng tin đó để chiếm
đoạt tài sản.
1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.2. 1 Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn
từ năm 1945 đến năm 1985
11
Quan hệ sở hữu là một trong những nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan
hệ sở hữu chính là mối quan hệ giữa con người với con người đối với đối tượng của quyền
sở hữu đó chính là tài sản.
Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các quy phạm pháp luật trong
đó có quy phạm pháp luật hình sự để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về quyền tài sản của
con người.
Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Đối với nước ta
đây là thời kỳ hết sức khó khăn bởi chính quyền non trẻ, đồng thời đối phó với thù trong
giặc ngoài. Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của
công dân Việt Nam được đảm bảo”. Vì vậy, cùng với việc giải quyết các nhiệm vụ cách
mạng, Nhà nước ta đã quan tâm tới việc bảo vệ các quan hệ sở hữu, bằng việc ban hành các
văn bản pháp luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt trừng trị đối với người có hành vi
xâm phạm sở hữu.
Trong giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam tuy có nhiều văn bản liên quan đến bảo vệ
quyền sở hữu nhưng những văn bản này chưa quy định về hành vi lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Ví dụ như:
- Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa về các tội phá hủy công sản.
Theo Sắc lệnh sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể xử tử những người phạm một
trong những tội kể sau đây, bất cứ là chánh phạm hay tùng phạm:
1. Cố ý phá hoại một phần hay toàn thể các cầu cống, kênh hay sông đào, vận hà, nông
giang thuộc công ích, đường xe lửa và những kiến trúc thuộc về xe lửa, cùng các đường
giao thông công hay tư, đường bộ hay đường thuỷ, đê đập, các công sở, kho tàng hoặc các
nhà máy điện, máy nước;
2. Cố ý huỷ hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại hay điện tín, cùng các cột dây điện và dây
thép;
3. Đặt ở các nơi nói trên, những cơ giới, khí cụ có thể dùng để giết người, đốt phá hay tác
liệt.
- Sắc lệnh số 233/SL ngày 27/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa về các tội phù lạm, biển thủ công quỹ; Theo Sắc lệnh tội đưa hối lộ cho
công chức, tội công chức nhận hối lộ, hoặc phù lạm, hoặc biển thủ công quỹ hay của công
dân đều bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm
hay biển thủ, tang vật hối lộ bị tịch thu sung công quỹ, người phạm tội còn có thể bị xử tịch
thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản.
- Sắc lệnh số 12/SL ngày 12/3/1948 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa về tội
ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh trong thời bình và trong thời kì chiến tranh.
Theo Sắc lệnh, trong thời bình, tội ăn cắp, lấy trộm các đồ quân giới, quân trang, quân
12
dụng nói tóm lại các vật dụng nhà binh, bị phạt theo điều khoản của hình luật chung; Trong
thời kỳ chiến tranh các tội phạm ấy phạt như sau: Trộm cắp thường: từ 2 năm đến 10 năm
tù; Nếu có tình trạng gia trọng: có thể phạt khổ sai hay tử hình.
- Sắc lệnh số 68/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, về
bảo vệ các công trình thủy nông… Theo Sắc lệnh, người nào có hành vi đào đất, trồng cây,
cắm cọc, làm nhà, cho súc vật dẫm phá gần đê, đập, kênh và cầu cống phụ thuộc, trong một
địa phận bảo vệ, do Bộ giao thông Công chính ấn định; hoặc làm hư hỏng, bằng một cách
nào khác, các công trình thuỷ nông; thì sẽ bị phạt như sau:
- Phạt tiền từ 100đ đến 100.000đ
- Phạt tù:
+ Từ 10 ngày đến 2 năm, nếu việc phạm pháp gây thiệt hại cho nhân dân trong một xã;
+ Từ 3 tháng đến 5 năm, nếu thiệt hại cho nhân dân một huyện;
+ Từ 1 năm đến chung thân, nếu thiệt hại cho nhân dân trong một tỉnh;
+ Từ 3 năm đến tử hình, nếu thiệt hại cho nhân dân nhiều tỉnh;
- Hoặc một trong hai hình phạt trên.
Ngoài ra, can phạm còn phải bồi thường để sửa chữa những sự hư
hỏng đã làm ra. Số tiền bồi thường sẽ do sở Công chính ấn định.
Qua nghiên cứu các quy định trên cho thấy, đây là những văn bản
đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định về tội xâm phạm sở hữu sau
này. Tuy nhiên, những Sắc lệnh này vẫn còn nhiều những hạn chế.
Trước hết nó mới là những quy định sơ lược, chưa khái quát hết được
những hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu đặc biệt là hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các nhà lập pháp chưa đề cập đến
với tư cách là một tội phạm độc lập, mà mới chỉ tập trung vào một số
hành vi: Trộm cắp, phá hoại hoặc gắn với các đối tượng của các hành vi
xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, bên cạnh những
13
thuận lợi đạt được, Nhà nước ta lại đứng trước hàng loạt các vấn đề cần
phải giải quyết để khôi phục lại nền hòa bình. Để bảo vệ tài sản quốc
gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân, Nhà nước ta đã ban hành một số
văn bản như:
- Thông tư 442/TTg ngày 19/11/1955 của Thủ tướng chính phủ về
trừng trị một số tội phạm đã nhận định: "...Vì về mặt bảo vệ tài sản
quốc gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân luật cũ có nhiều khoản
không thích hợp nên Chính phủ lại ban bố một số Sắc lệnh trừng trị tội
tham ô, tội tống tiền, bắt cóc, ám sát, tội đánh bạc như là Sắc lệnh số
27/SL, ngày 28-2- 1946, số 223/SL ngày 27-11- 1946... Kinh nghiệm xét
xử về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ...Lừa gạt, bội tín:
phạt tù từ ba tháng đến năm năm…”.
Có thể nói đây chính là quy định đầu tiên của Nhà nước ta về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tên gọi “ Bội tín”. Tuy
nhiên, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm tài sản trong giai đoạn này
chưa được quy định cụ thể, chủ yếu xét xử theo đường lối chung bảo vệ
quyền sở hữu hoặc theo án lệ. Trong quy định này hình phạt của tội lừa
gạt, bội tín là như nhau từ ba tháng đến năm năm. Quy định này còn
mang tính quy định tội danh mà không xác định hành vi cụ thể của từng
tội phạm, cho nên việc xử lý phụ thuộc nhiều vào cơ quan xét xử.
- Ngày 15/06/1956 Chủ tịch nước ký lệnh công bố Sắc lệnh số
267/SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm
14
cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hóa.
Điều 7 Sắc lệnh 267 quy định: “Kẻ nào vì tham lam, tư lợi mà phạm tội
trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của nhà nước,
của nhân dân thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm".
Sắc lệnh số 267 đã có sự phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản
của công dân, giúp việc xử lý tội phạm được chính xác và hiệu quả hơn.
- Ngày 24/06/1957 Bộ tư pháp cũng đã ra Thông tư 72-VVH-HS
hướng dẫn thi hành sắc lệnh 267. Sắc lệnh này cũng không quy định về
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà cho phép áp dụng những
nguyên tắc tương tự khi xét xử những hành vi phạm tội phá hoại khác.
Theo đó nếu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra, Tòa
án căn cứ theo đường lối xử lý các tội phạm khác để xét xử. Như vậy,
cũng như Thông tư 442/TTg Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng nguyên
tắc tương tự trong xét xử. Điều đó cho thấy hành vi phạm tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn chưa được xác định cụ thể, đặt ra một
yêu cầu rất lớn đối với công tác xây dựng và thực thi pháp luật.
Đến thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, Nhà nước ta
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng XHCN ở miền
Bắc và đấu tranh thống nhất miền Nam thì công việc xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trọng tâm. Việc bảo
vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề cấp bách được đặc biệt
coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 đã ghi nhận: “Tài sản công cộng
của nước Việt nam dân chủ cộng hòa; là thiêng liêng không thể xâm
phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng".
15
Để củng cố thành quả mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đạt
được ở miền Bắc, bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn
lực, tập trung phát triển sản xuất để chi viện sức người, sức của cho
miền Nam. Nhà nước ta ban hành các quy định pháp luật về kinh tế, tài
chính, dân sự, lao động, hình sự từng bước được hoàn thiện đáp ứng
yêu cầu của quản lý đất nước trong tình hình mới. Ngày 21/10/1970, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm
phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN) và Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản riêng của công dân. Góp phần tăng cường tiềm lực
kinh tế, quốc phòng, bảo vệ, nâng cao đời sống của nhân dân. Hai pháp
lệnh này là sự tiếp nối và hoàn thiện các văn bản về các tội xâm phạm
sở hữu trước đây.
Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy
định:
1. Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa
chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt,
bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm;
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a, Tái phạm nguy hiểm;
b, Có tổ chức;
c, Có móc ngoặc;
d, Dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm;
16
đ, Chiếm đoạt tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc
biệt;
e, Dùng tài sản chiếm đoạt vào mục đích kinh doanh, bóc lột, đầu
cơ, đút lót; hoặc những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba năm đến
mười hai năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc
có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm.
Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của
công dân quy định:
1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển, gia
công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì bị phạt tù từ ba
tháng đến hai năm.
2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây:
a, Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp nhà nước, đơn vị bộ đội,
đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm
khác.
b, Gây hậu quả nghiểm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ một năm đến bảy
năm”.
Theo như quy định trên cho thấy, đối tượng của hai tội phạm là
khác nhau. Đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản
XHCN là tài sản của nhà nước XHCN còn đối tượng của tội lạm dụng
17
tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân là tài sản của công
dân. Nhưng hành vi khách quan là giống nhau; hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt là đều hành vi “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm
đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp
đồng gửi giữ, vận chuyển… Hình phạt được áp dụng đối với người
phạm tội tương đối nghiêm khắc: Hình phạt tù tối thiểu là 3 tháng, tối
đa là 20 năm.
Qua quy định của hai Pháp lệnh cho thấy, về mặt kỹ thuật lập
pháp đã có sự tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý để trừng trị hành vi lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, nội dung của hai Pháp lệnh đã
phản ánh khá đầy đủ nội dung chính sách hình sự của nhà nước ta đối
với các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản. Do tính chất của tài sản khác nhau mà chính sách xử lý của
nhà nước cũng khác nhau. Tài sản XHCN được đặc biệt coi trọng nên
Nhà nước đã quy định chính sách xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản riêng của công dân.
Có thể nói, quy định trong hai Pháp lệnh năm 1970 lần đầu tiên
nội dung tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được xác định cụ
thể, những dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm này đã được quy định
trong luật hình sự.
Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền
Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm
18
và hình phạt được áp dụng ở miền Nam Việt Nam, trong đó có quy định
về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “Bội
tín”.
"b. Phạm các tội khác như: Trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín,
cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng
đến bẩy năm " .
Những quy định trong Sắc luật này về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản cũng như các tội phạm khác rất sơ lược, chỉ nêu tên
tội phạm mà không xác định các dấu hiệu pháp lý cụ thể và quy định
các tội xâm phạm sở hữu như lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt…
trong cùng một điều luật. Việc quy định như vậy dẫn đến việc xử lý tội
phạm không có sự phân hóa trách nhiệm hình sự (TNHS). Có những tội
xâm phạm đến một khách thể như tội lừa đảo, bội tín xâm phạm đến
quan hệ sở hữu nhưng có tội xâm phạm đến nhiều khách thể như tội
cướp giật, cưỡng đoạt cùng một lúc xâm phạm đến quan hệ sở hữu và
quan hệ nhân thân. Cách quy định như vậy đòi hỏi phải có văn bản
hướng dẫn thi hành để xử lý từng loại tội phạm cho chính xác. Tháng
04/1976 Bộ tư pháp đã ra Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành
Sắc luật trên.
1.2. 2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2015
Trước khi BLHS năm 1985 được ban hành, tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản đều căn cứ theo Điều 11 Pháp lệnh trừng trị
19
các tội phạm xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội
phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970 áp dụng thi hành
cho đến khi BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật.
BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 tại kỳ
họp thứ 9, Quốc hội khóa VII và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây
là Bộ luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp
luật hình sự của Nhà nước ta được ban hành từ những năm đầu của
chính quyền cách mạng đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cũng
như thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước ta trong thời kỳ cả
nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. BLHS năm 1985 ra đời là
bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta.
Kể từ khi có BLHS năm 1985 tài sản của Nhà nước, tập thể và
công dân được bảo vệ một cách hữu hiệu bằng các quy phạm pháp luật
hình sự. BLHS năm 1985 đã chia quy định về tội xâm phạm sở hữu
thành hai chương: Chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”;
chương VI “ các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó, tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại hai Điều: Điều
135 - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và Điều 158 -
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân.
Điều 135 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm
hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.
Điều 158 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
20
tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm
hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm".
Với điều luật trên cho thấy quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản không mô tả cụ thể hành vi phạm tội mà chỉ quy định tên
tội danh là “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” điều này phần nào
gây khó khăn cho quá trình áp dụng và sự thiếu thống nhất giữa các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp
luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. BLHS năm 1985 đã được sửa đổi,
bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991,1992 và 1997. Qua các lần sửa
đổi đã đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh, phòng chống
tội phạm trong điều kiện đổi mới. Tuy nhiên, các lần sửa đổi này đối
với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ sửa đổi, bổ sung
khung tăng nặng mà không sửa đổi bổ sung cấu thành cơ bản, chưa
khắc phục được thiếu sót trong quy định về mặt khách quan của hành vi
phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Như vậy, việc dành riêng hai điều luật quy định về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS 1985 đã khẳng định mức độ
nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong
thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp lý thống
nhất để xử lý hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hạn chế của hai điều luật là
không mô tả cụ thể hành vi phạm tội. Hiện tượng này cũng rất phổ biến
trong BLHS 1985, đòi hỏi phải có văn bản hướng dẫn thi hành nếu
không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng luật hình sự và thực tiễn xét
21
xử. Và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm vẫn dựa trên quy định của hai Pháp lệnh năm 1970.
Sau 14 năm thi hành BLHS năm 1985 đã bộc lộ những bất cập,
xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế. Do đó, việc ban hành một bộ luật mới là rất cần thiết.
Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua BLHS năm 1999 và
cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi hành
BLHS. Bộ luật này đã kế thừa và phát huy BLHS 1985 trên cơ sở tiếp
thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội
phạm và những thay đổi của nền kinh tế. BLHS năm 1999 đã có sự đổi
mới toàn diện về cả nội dung và hình thức so với BLHS năm 1985. Các
tội trong chương tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương xâm phạm sở
hữu của công dân được nhập lại thành một chương “Các tội xâm phạm
sở hữu”. Việc nhập hai chương thành một chương hữu nói chung và
nhập hai tội danh (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân) trong cùng một
điều luật nói riêng là cần thiết bởi lẽ: Thứ nhất, hai điều (Điều 135 và
Điều 158) trong BLHS năm 1985 giống nhau về các dấu hiệu khách
quan và chủ quan, chỉ khác nhau về đường lối xử lý nên việc tách thành
hai điều luật ở hai chương là không cần thiết. Thứ hai, trong nền kinh tế
hiện nay, Nhà nước chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế theo
các hình thức sở hữu khác nhau nhưng đều bình đẳng trước pháp luật,
22
đều được Nhà nước bảo hộ như nhau. Đồng thời thực tiễn cho thấy,
trong nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau
nên khó có thể xác định, thậm chí không xác định được đâu là tài sản
XHCN và đâu là tài sản của công dân. Thứ ba, sự ra đời của Hiến pháp
1992 với thay đổi cơ bản lớn nhất đó là Nhà nước ta đã chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa thị
trường, có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN với nhiều thành
phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư bản tư nhân… và bảo đảm sự bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu.
Như vậy, trong trường hợp hành vi xâm phạm đến tài sản của chủ
sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất
kinh doanh thì việc áp dụng các quy định của BLHS năm 1985 sẽ gặp
những khó khăn và vướng mắc nhất là trong việc định tội danh. Sự thay
đổi trên đây nhằm tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế khác nhau và đồng thời tạo điều kiện thuận tiện cho việc áp
dụng pháp luật trong thực tiễn. Trên tinh thần đó, tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 ra đời
là kết quả của sự sửa đổi một cách căn bản từ hai điều luật riêng rẽ ở
hai chương khác nhau trong BLHS năm 1985; là hoàn toàn phù hợp.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều
140 BLHS 1999 như sau:
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đọat tài
sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến năm mươi triệu
đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
23
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba
năm.
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào
mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù
từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh
nghĩa cơ quan, tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Chiếm đoạt tài
sản từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Tái
phạm nguy hiểm; e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới
năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân;
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b)
24
Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến
một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một
phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.
Nghiên cứu điều luật cho thấy, so với quy định tương ứng trong
BLHS năm 1985, Điều 140 đã mô tả được chi tiết hơn các dấu hiệu
pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là về
mặt khách quan của tội phạm đó là:
Người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận
được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi:
+ Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt.
+ Bỏ trốn để chiếm đoạt.
+ Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có
khả năng trả lại tài sản.
Khoản 1 Điều 140 cũng ghi nhận việc định lượng tài sản bị chiếm
đoạt như: Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một triệu đồng trở lên hoặc
dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử
phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị truy cứu
trách nhiệm hình sự (TNHS).
Sau 10 năm thi hành BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập,
đứng trước tình hình mới, nhiệm vụ mới, do sự phát triển của kinh tế xã
hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp.
25
Năm 2009, Quốc hội đã thông qua và sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLHS nhằm hoàn thiện pháp luật về phòng chống tội phạm và tăng
cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 1999 đã
được sửa đổi, bổ sung một số điều trong đó có Điều 140. Theo đó Điều
140 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 về cơ bản kế
thừa Điều 140 BLHS năm 1999 chỉ thay đổi khoản 1 và điểm d khoản 2
Điều 140 BLHS năm 1999 như sau:
Khoản 1 điều luật quy định: Người nào có một trong những hành
vi sau đây chiếm đọat tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu
đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến ba năm.
Như vậy, điều luật đã sửa đổi giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ mức
một triệu đồng lên thành bốn triệu đồng.
Điểm d, khoản 2 quy định: Chiếm đoạt tài sản từ năm mươi triệu
đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.
Điều luật đã bỏ từ “trên” trước từ “năm mươi triệu đồng”. Việc
sửa đổi này đã khắc phục được vướng mắc trong việc xác định khung,
khoản đối với trường hợp giá trị tài sản bằng năm mươi triệu đồng thì
xử lý theo khoản 1 hay khoản 2 Điều 140 BLHS năm 1999. Trong
trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không biết áp dụng
26
điều khoản nào. Nếu có áp dụng khoản 1 hoặc khoản 2 cũng là sự khiên
cưỡng suy đoán mà không có căn cứ pháp luật. Việc thay đổi này là
hoàn toàn phù hợp giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng điều
khoản một cách đúng đắn.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định Điều
140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) giúp ta nhận diện và
phân biệt được với các hành vi không phải là tội phạm như các hành vi
vi phạm trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, phân biệt được với một số tội
phạm khác như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản. Điều
này có ý nghĩa rất nhiều cho công tác áp dụng pháp luật.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và tiến hành cải cách tư pháp và yêu cầu
đặt ra là phải xây dựng BLHS mới tiến bộ, minh bạch, có tính khả thi
và tính dự báo cao. Đây là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu
tranh, phòng chống tội phạm có hiệu quả góp phần bảo vệ chế độ, bảo
vệ quyền con người và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trên tinh thần
đó, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm
2015 có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung mang tính đột phá, đổi mới về
chính sách hình sự, về vấn đề tội phạm và hình phạt, thể hiện sâu sắc
chính sách hình sự nhân đạo. Đồng thời khắc phục tình trạng hình sự
hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản cũng đã có sự sửa đổi, bổ sung và được quy định tại Điều
175 BLHS năm 2015:
"1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm
27
đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi
phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này
hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172,
173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại
hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì
bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến
03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối
chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài
sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng
thủ đoạn xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
28
từ 05 năm đến 12 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng; b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn
xã hội.
4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì
bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc
làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản"
Qua nghiên cứu điều luật cho thấy tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 đã thay đổi một số nội dung, cụ thể
nội dung này tác giả sẽ phân tích ở phần tiếp theo.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1 tác giả đã nghiên cứu và phân tích đưa ra khái niệm tội
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận
mà còn có ý nghĩa rất lớn từ thực tiễn xét xử hình sự đối với tội phạm này.
Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua đó, cho thấy từ năm 1945
đến trước khi có Pháp lệnh ngày 21/10/1970 luật hình sự Việt Nam
chưa đưa ra được khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản mà chỉ sử dụng với tội danh “bội tín” và áp dụng theo hướng dẫn
của Tòa án nhân dân tối cao.
29
Từ giai đoạn năm 1970 cho đến trước khi có năm 1985 thì tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được nêu rõ trong hai pháp lệnh đó là
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản của công dân. BLHS năm 1985 ra đời thì
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 135
và Điều 158. Mặc dù hai điều luật quy định về hành vi phạm tội và hình
phạt nhưng hạn chế của hai điều luật không mô tả cụ thể hành vi khách
quan của tội phạm này. Hạn chế này đã được BLHS năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009) khắc phục sửa đổi, mô tả cụ thể về hành vi khách
quan của tội này. Mặc dù vậy, các hành vi khách quan được mô tả trong
điều luật còn gây nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử. BLHS năm
2015 trên cơ sở kế thừa và tiếp thu các hạt nhân hợp lý của quy định
trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đến nay có sự sửa đổi, bổ sung
về hành vi khách quan và các tình tiết định khung giúp cho việc quy
định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hoàn thiện hơn.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, qua đó không chỉ thấy được sự chuyển biến trong
nhận thức của các nhà làm luật về tội phạm này, mà còn thấy được quá
trình phát sinh, phát triển các quy định của pháp luật hình sự về tội
phạm này. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã trải qua nhiều
giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau. Ở mỗi thời kỳ, những quy
định về tội phạm này cũng được thay đổi ngày càng hoàn thiện hơn để
đáp ứng được yêu cầu của tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm
30
trong giai đoạn mới.
CHƯƠNG 2
NỘI DUNG PHÁP LÝ CỦA TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản
Việc nghiên cứu các yếu tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý
của loại tội phạm này từ đó là cơ sở khoa học cho việc nhận thức trong
31
định tội và truy cứu TNHS.
2.1.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của
khoa học luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính
giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng,
khẳng định: “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình
sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”9.
Nghiên cứu về khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì
một hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể bị coi là tội phạm nếu như
nó không xâm hại đến quan hệ xã hội được bảo vệ bằng pháp luật hình
sự; nó còn là yếu tố bắt buộc và là cơ sở để đặt ra vấn đề TNHS của
một người.
Phân tích quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
năm 2009) và Điều 175 BLHS năm 2015 cho thấy, khách thể của tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu. Hành vi gây
thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền:
Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở
hữu.
Nghiên cứu khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản không thể không nghiên cứu đến đối tượng tác động của tội phạm
9 Trường đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, NXB. Công
an nhân
dân, Tr 86;
35
32
vì đây“là các vật thể của thế giới vật chất mà người phạm tội tác động
đến khi thực hiện sự xâm hại các khách thể xã hội do pháp luật hình sự
bảo vệ”10.
Cũng như các hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến quan hệ sở
hữu thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng
phải tác động đến tài sản. Tài sản theo quy định của Điều 105 BLDS
2015 gồm: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản”. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại tài sản đều là đối tượng tác
động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Về nguyên tắc tài sản thuộc đối tượng tác động của tội phạm này
phải là vật có thực tức là vật hữu hình, có giá trị sử dụng. Ngoài ra, vật
đó phải đáp ứng một số đặc điểm như: Phải là sản phẩm lao động của
con người, đồng thời phải thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần
của con người, tài sản không có tính năng đặc biệt tức là không có công
dụng đặc biệt và có giá trị sử dụng chung.
- Tiền là đối tượng tác động của tội phạm này. Tuy nhiên, tiền giả
không phải là đối tượng tác động của tội phạm này.
- Giấy tờ có giá thì có hai loại vô danh (không ghi tên chủ sở hữu)
và hữu danh (có ghi tên chủ sở hữu). Chỉ những giấy tờ vô danh mới là
đối tượng tác động của tội phạm này. Ví dụ như trái phiếu vô danh, cổ
phiếu vô danh.... vì khi chiếm đoạt các loại giấy tờ này người chiếm
đoạt thực hiện các quyền sở hữu đối với tài sản đó như có quyền mua
bán, chuyển nhượng, tặng cho… Còn những tài sản hữu danh như cổ
33
phiếu ghi danh, trái phiếu ghi danh... không phải là đối tượng tác động
của tội phạm này vì khi chiếm đoạt các loại giấy tờ này người chiếm
đoạt chỉ thực hiện được quyền chiếm hữu nhưng không thực hiện được
hai quyền còn lại là quyền sử dụng và quyền định đoạt.
10 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB.
Đại học quốc gia Hà Nội, Tr. 354.
36
Một số tài sản không thuộc đối tượng tác động của tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như:
- Một số vật do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định
nên những tài sản đó đã trở thành đối tượng của một số tội phạm riêng.
Ví dụ: Các loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng, hầm mỏ, chầt phóng
xạ, chất cháy, chất nổ, công trình, phương tiện giao thông vận tải,
thông tin liên lạc…
- Những tài sản mà Nhà nước cấm tư nhân mua bán, trao đổi như
thuốc phiện, vũ khí, chất nổ… cũng không phải là đối tượng của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
2.1.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là “mặt
bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện ra của tội phạm diễn
ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan”11. Đó còn là “mặt bên
ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được
bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính
34
chất tội phạm trong thực thế khách quan”12.
2.1.2.1 Hành vi khách quan
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
mang ba đặc điểm, đó là: Hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở
hữu, nguy hiểm cho xã hội, và hành vi đã được tính toán cân nhắc là
hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức
hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội.
Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản được quy tại Điều 140 như sau:
11 Trường đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB.
Công an nhân dân, Tr 99;
12 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB.
Đại học quốc gia Hà Nội, Tr 356
37
Thứ nhất: Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 140 BLHS:
"Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian
dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó".
Như vậy, đặc điểm hành vi khách quan của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện trước hết ở dấu hiệu: Người
phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc
người quản lý hợp pháp trên cơ sở hợp đồng dân sự, kinh tế như: Hợp
35
đồng vay, mượn, thuê tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể có được tài sản của người
khác bằng các hình thức hợp đồng khác như: Hợp đồng gửi giữ tài sản,
hợp đồng gia công, dịch vụ, hợp đồng vận chuyển…
Sau khi đã nhận được tài sản người phạm tội mới thực hiện những
hành vi khác nhau nhằm chiếm đoạt tài sản được giao. Sự chiếm đoạt
đó có thể là tiếp tục chiếm giữ không chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu
biến tài sản thành của riêng, hoặc tự ý sử dụng, định đoạt tài sản không
đúng với nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng với ý định không muốn trả
lại tài sản khi thời hạn hợp đồng đã hết.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản có thể được biểu hiện qua các hành vi khách quan: Thủ
đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.
- Thủ đoạn gian dối: Thủ đoạn gian dối thường biểu hiện ở các
dạng như người phạm tội giả tạo bị mất, hoặc đánh tráo tài sản, rút bớt
tài sản trong giấy tờ giao kết hoặc tài liệu, chứng từ khống; người phạm
tội tạo dựng bị người khác chiếm đoạt để chứng minh với chủ sở hữu về
việc không trả lại tài sản vì lý do khách quan; có trường hợp người
phạm tội thông đồng với người khác tạo lập hợp đồng giả về việc giao
nhận tài sản sau đó yêu cầu công chứng hoặc Ủy ban nhân dân chứng
38
thực. Phần lớn trong các trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian
dối để che giấu mục đích chiếm đoạt.
36
- Hành vi bỏ trốn: Nếu người phạm tôi không dùng thủ đoạn gian
dối mà sau khi nhận được tài sản một cách hợp pháp đã bỏ trốn với ý
thức cố tình không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu
hoặc người quản lý hợp pháp. Bỏ trốn để trốn tránh việc trả nợ là
trường hợp người vay, mượn hoặc nhận tài sản từ các hình thức hợp
đồng khác nhưng khi hết thời hạn thanh toán họ lại bỏ đi khỏi nơi cư
trú, cố tình giấu địa chỉ không cho chủ nợ biết cho đến khi bị phát hiện
và bắt giữ. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem
xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc
tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác
thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 175 BLHS năm 2015 thì
hành vi khách quan của tội phạm này được quy định như sau:
"Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian
dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả".
Như vậy, điều luật đã bỏ tình tiết bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản,
không quy định tình tiết này là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản thay vào đó là bổ sung hành vi khách quan
trong cấu thành cơ bản “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều
kiện, khả năng nhưng cố tình không trả tài sản”. Điều luật đã hình sự
hóa hành vi của một người nhận được tài sản thông qua hợp đồng ngay
37
thẳng sau đó đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện nhưng cố
tình không trả. Việc hành vi này trước đây không được quy định là
hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là
một bất cập của Điều 140 BLHS năm 1999. Đến nay, Điều 175 BLHS
đã bổ sung hành vi này không chỉ là một bước hoàn thiện quy định của
39
pháp luật về tội phạm này mà còn tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh với
thực trạng hiện nay như cố tình quỵt nợ, hoặc cố tình không giao lại tài
sản khi có điều kiện.
Thứ hai: Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 140 BLHS
"Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó
vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản".
Hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp: Hiểu như thế
nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không hề
đơn giản. Nếu theo khái niệm thông thường bất hợp pháp là không đúng
với pháp luật, không phân biệt pháp luật gì và nếu hiểu như vậy thì hầu
hết các trường hợp mất khả thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người
quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Theo điểm b, khoản 1, Điều 175 BLHS năm 2015 thì hành vi khách
quan được quy định: "Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc
nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã
sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
38
năng trả lại tài sản".
Như vậy, điều luật giữ nguyên như điểm b, khoản 1, Điều 140
BLHS không thay đổi về hành vi khách quan .
2.1.2.2. Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của những tội phạm có
cấu thành vật chất. Theo luật hình sự Việt Nam hậu quả của tội phạm là
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách
thể bảo vệ của luật hình sự. Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt được tài sản của chủ sở
hữu đã giao cho mình. Theo quy định tại Điều 140 BLHS 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009), chỉ xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn triệu đồng
40
trở lên hoặc giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nhưng gây ra hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt (như
hành vi lừa đảo, trộm cắp, cướp, cướp giật… hoặc đã bị kết án về tội
chiếm đoạt (trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản… chưa được xoá án tích mà
còn vi phạm thì mới cấu thành tội này.
- Đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng:
Theo thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-
BCA-BTP ngày 25/12/2001hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
chương XIV "các tội xâm phạm sở hữu" của BLHS năm 1999. Nếu gây
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản thì thuộc các trường hợp sau
39
đây là gây hậu quả nghiêm trọng:
a.1) Làm chết một người;
a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến
hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;...
a.6) Hoặc gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến
dưới 500 triệu đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế rất ít trường hợp phạm tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lại gây thương tích hoặc gây chết người và
trong thực tiễn xét xử hầu như chưa có vụ án nào xảy ra.
- Đối với trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt:
Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP tại điểm 1 mục I, xác định như sau:
+ Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính;
+ Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệnh, Điều lệ
của lực lượng vũ trang nhân dân;
+ Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm
quyền. Hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý là hết thời hạn do pháp
luật quy định, điều lệnh hoặc điều lệ quy định. Đối với các trường hợp
41
bị xử lý mà chưa có quy định về thời hạn để hết thời hạn đó, người bị
xử lý được coi là chưa bị xử lý, thì thời hạn đó là một năm, kể từ ngày
bị xử lý.
40
Tóm lại, bị coi là “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm
đoạt” nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi
như: Hành vi cướp tài sản, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản,
hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Nếu
trước đó đã bị xử phạt hành chính về một hành vi khác mà không phải
về hành vi chiếm đoạt tài sản như: Đã bị xử phạt hành chính về hành vi
gây rối trật tự công cộng hoặc về hành vi sử dụng trái phép chất ma
túy… mà chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt mà có hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng
thì không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc
nắm vững những quy định này rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc xác
định có tội hay không có tội.
- Đối với tình tiết đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản:
Theo hướng dẫn của thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP quy định như sau: Đã bị kết án về tội
chiếm đoạt tài sản nếu trước đó đã bị kết án về một trong các tội quy
định tại các điều: Từ Điều 133 (Tội cướp tài sản) đến Điều 140 (Tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản), Điều 278 (Tội tham ô tài sản)
và Điều 280 (Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản)
BLHS năm 1999.
So sánh với quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 thì
điều luật cũng quy định chỉ xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn triệu đồng
41
trở lên. Tuy nhiên, đối với tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng thì những
điều kiện kèm theo đã có sự thay đổi. Điều luật quy định: “hoặc dưới
4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy
42
định tại điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện
kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về
tinh thần đối với người bị hại”. Như vậy, Điều 175 đã bỏ trường hợp bị
xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi tham ô tài sản (Điều 353
BLHS năm 2015) và lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
(Điều 355). Đối với trường hợp này nếu tiếp tục lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản dưới 4 triệu đồng sẽ không coi là tội phạm. Ngoài ra,
điều luật bỏ điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng và bổ sung thêm điều
kiện hai điều kiện là: Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người
bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về tinh thần đối với người bị hại.
2.1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội
phạm; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội.
Nếu hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội là yếu tố thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ ba
của mặt khách quan của tội phạm chính là mối quan hệ nhân quả của
hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật
chất nghĩa là trong mặt khách quan của tội phạm phải xác định và làm
42
rõ được các yếu tố như hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi và hậu quả.
Điều 140 đã đưa vấn đề định lượng để xác định mức độ hậu quả
xảy ra và phản ánh mức độ nguy hiểm được coi là tội phạm, đồng thời
tội phạm hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản từ 4
triệu đồng trở lên hoặc dưới 4 triệu đồng mà kèm theo một trong các
điều kiện như gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính
về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm.
Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản các điều kiện bên
ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như địa điểm, thời gian, công
43
cụ, phương tiện phạm tội… không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt
khách quan của CTTP này.
2.1.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tội phạm được thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi của con người.
Do đó, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi
phạm tội. Theo luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là người
có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm
tội cụ thể hay “Là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài
ra, trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể còn phải có một số dấu hiệu
43
bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định”13
.
Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chủ thể
thường, chỉ cần có đủ hai dấu hiệu: Người đó có năng lực TNHS và đạt
độ tuổi luật định chịu TNHS, không thuộc tình trạng không có năng lực
TNHS quy định tại Điều 13 BLHS. Ở nước ta căn cứ vào thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước
khác trên thế giới và trong khu vực.
Điều 12 BLHS 1999 quy định:
1. Người nào từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
2. Người nào từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi
hành vi phạm tội được quy định tại Điều 140 BLHS. Người phạm tội từ
13 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB.
Đại học quốc gia Hà Nội, Tr 343-344
44
đủ 14 tuổi đến dưới16 tuổi không phải chịu TNHS về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều 140 BLHS. Nếu thực hiện hành vi phạm tội
quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 140 BLHS thì phải chịu TNHS.
Quy định của pháp luật hình sự như vậy, nhưng thực tiễn đấu tranh,
44
phòng chống tội phạm này trong thời gian qua, tác giả chưa gặp vụ án
nào mà chủ thể có độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Chính vì vậy,
đến nay BLHS năm 2015 quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 như
sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi
tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người
dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội
cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong
các điều sau đây:
"a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều
151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài
sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản);...".
Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi hành
vi phạm tội được quy định tại Điều 175 BLHS, còn người đủ 14 tuổi
đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội phạm này.
Ngoài ra, khi xem xét chủ thể của tội phạm này cũng cần phải chú
ý tới nhân thân của người phạm tội đó là tổng hợp những đặc điểm
45
riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng
đắn vấn đề TNHS của họ, đó là các yếu tố như nghề nghiệp, tuổi, giới
45
tính, trình độ văn hoá, nhận thức chính trị... Qua việc nghiên cứu nhân
thân của người phạm tội các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử có thể
làm sáng tỏ một số tình tiết về các yếu tố CTTP như lỗi, mục đích,
động cơ của người phạm tội.
2.1.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Mặt chủ quan của tội phạm, bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích
phạm tội, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP. Lỗi là dấu
hiệu không thể thiếu được của bất cứ CTTP nào. Mục đích và động cơ
phạm tội tuy cũng là những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
nhưng không phải luôn là dấu hiệu bắt buộc của mọi CTTP. Người thực
hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có đủ điều kiện khách
quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội.
Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người
phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp khi thực hiện hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Về mặt lý trí người phạm tội nhận thức rõ về hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản của mình là nguy hiểm cho xã hội (nhận thức
được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi, là chiếm đoạt tài
46
sản của người khác).
Về mặt ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh, nghĩa
là hậu quả của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà người
phạm tội thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích là chiếm đoạt
được tài sản của người khác. Người phạm tội biết tài sản mà mình
chiếm đoạt là của người khác, không phải là tài sản của mình nhưng
vẫn muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình.
Việc xác định lỗi trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
điều cần chú ý là: Ban đầu, khi nhận được tài sản theo hợp đồng, người
46
phạm tội mong muốn thực hiện hợp đồng đó. Chỉ sau khi đã giao kết
hợp đồng và nhận được tài sản đó, người phạm tội mới nảy sinh ý định
chiếm đoạt tài sản và có hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, ta chỉ xét đến lỗi
của họ tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không phải tại
thời điểm nhận tài sản.
Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội
thực hiện hành vi phạm tội. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản, động cơ vì vụ lợi và mục đích phạm tội là nội dung mặt chủ
quan của tội phạm. Điều 175 BLHS năm 2015 quy định lỗi của tội
phạm này cũng là lỗi cố ý trực tiếp như Điều 140 BLHS năm 1999.
Tóm lại, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là cơ sở pháp lý
để truy cứu TNHS và để định tội danh. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố
47
tụng phải nắm rõ được các dấu hiệu trên, phải đánh giá chúng một cách
khách quan, toàn diện, lôgic, biện chứng trong quá trình xử lý tội phạm.
Đồng thời các dấu hiệu phản ánh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản còn là cơ sở phân biệt với một số tội phạm khác. Qua đó, khắc phục
hiện tượng sai lầm trong việc định tội danh, hiện tượng “hình sự hoá”,
các quan hệ kinh tế, dân sự, để từ đó có cách xử lý phù hợp, tránh xét
xử oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo tính pháp chế XHCN.
2.2. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản.
Điều 26 BLHS 1999 quy định "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi
ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do
Toà án quyết định".
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định gồm bốn
khung hình phạt: Khung cơ bản và các khung tăng nặng TNHS, ngoài ra
còn quy định hình phạt bổ sung.
47
2.2.1. Khung cơ bản đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản
Người phạm tội tại khoản 1 có thể bị phạt cải tạo không giam giữ
đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Khung hình phạt này được áp dụng đối với trường hợp phạm tội
thông thường, không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, áp
dụng với các hành vi khi chiếm đoạt tài sản trị giá từ bốn triệu đồng
48
đến dưới năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, khung hình phạt này cũng
được áp dụng đối với trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới bốn
triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng mỗi lần giá trị tài sản
bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS theo quy định của
BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu
TNHS (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; nếu tổng
giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để
truy cứu TNHS theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần
cùng loại hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải bị truy
cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo tổng giá
trị tài sản của các lần bị xâm phạm. Đây là những trường hợp: Các hành
vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên
tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian do điều kiện, hoàn cảnh khách quan
nên việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện
nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 4 triệu đồng.
Tuy nhiên, khi đã áp dụng tình tiết này thì không được áp dụng tình tiết
tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần”quy định tại điểm g, khoản 1
Điều 48 BLHS.
48
49
Theo Điều 175 BLHS năm 2015 thì khung cơ bản của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã có sự thay đổi về mức hình phạt
tù là 06 tháng đến 03 năm tù (Điều 140 BLHS năm 1999 hình phạt tù từ
03 tháng đến 03 năm).
2.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm nếu có thực hiệc hành vi phạm tội
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 BLHS:
2.2.2.1 Phạm tội có tổ chức
Theo Điều 20 BLHS: “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng
phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội
phạm”.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu
kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có
người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Các
yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20
BLHS năm 1999. Tuy nhiên, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
có tổ chức cũng có những đặc điểm riêng như người thực hành trong vụ
án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện
hành vi, những thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc
người quản lý tài sản. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có
tính chất nguy hiểm cao cho xã hội, những người phạm tội có tổ chức
50
trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thường gây ra những
thiệt hại rất lớn về tài sản, vì vậy phải xử lý thật nghiêm khắc.
Ví dụ: Doanh nghiệp M chuyên sản xuất rượu. A là giám đốc của
công ty vận tải X, ký kết hợp đồng vận chuyển lâu dài với doanh
nghiệp M. A bàn bạc với ông K làm một số rượu giả để đánh tráo số
rượu thật của của doanh nghiệp M khi vận chuyển đến các đại lý. A
49
giao cho B và C mỗi khi vận chuyển đều ghé qua nhà ông K để đánh
tráo số rượu thật, mỗi lần đánh tráo 05 thùng. Từ năm 2012 đến năm
2014 khi vụ việc bị phát hiện A, B, C đã chiếm đoạt của doanh nghiệp
M gần 100 triệu đồng.
2.2.2.2 . Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức.
Tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội, người phạm tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc
lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức có được lòng tin thực sự đối với
chủ sở hữu tài sản, qua đó mới ký kết được hợp đồng, vì lý do nào đó
không thực hiện được hợp đồng và đã chiếm đoạt một phần hoặc toàn
bộ tài sản đó.
Ví dụ: A là chủ nhiệm của một hợp tác xã, nhân danh hợp tác xã
vay 150 triệu đồng của ngân hàng để sản xuất nhưng thực chất là vay
tiền cho cá nhân mình để kinh doanh và cho người khác vay với lãi xuất
51
cao hơn. Nhưng do làm ăn thua lỗ nên đã mất khả năng chi trả cho ngân
hàng. A bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
với tình tiết lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức.
2.2.2.3 Dùng thủ đoạn xảo quyệt
Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã có những mánh khoé,
cách thức để che giấu hành vi chiếm đoạt làm cho người bị hại và
những người khác khó lường trước để đề phòng hoặc gây khó khăn khi
điều tra phát hiện.
Ví dụ: A ký kết hợp đồng nhận gia công cho một công ty nước
ngoài, tổng số là 12 tỷ đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng A đã
nảy sinh chiếm đoạt tài sản nên đã đem bán hết số hàng hóa rồi cố ý tạo
ra hỏa hoạn để trốn tránh trách nhiệm hoàn trả lại tài sản.
50
Cũng có trường hợp người phạm tội có thể sử dụng thủ đoạn gian
dối có tính tinh vi xảo quyệt nhưng chỉ nhằm ký kết hợp đồng để vay
tiền ngân hàng người phạm tội không có ý định chiếm đoạt. Như vậy,
sẽ không coi tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt là tình tiết định khung
tăng nặng. Bởi bản chất của tình tiết này là dùng thủ đoạn xảo quyệt để
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong khi trường hợp này người
phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt.
2.2.2.4. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới
200 triệu đồng
Đây là trường hợp định lượng tuyệt đối, trước đây khi chưa ban
52
hành BLHS 1999 thì giá trị tài sản bị thiệt hại được quy ra gạo hoặc các
vật tư hàng hoá thiết yếu khác như xăng, dầu, đường… điều này gây
khó khăn rất nhiều cho việc xác định giá trị tài sản vì điều kiện kinh tế
ở mỗi vùng miền là khác nhau. Nay việc xác định giá trị tài sản sẽ căn
cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, trong các trường hợp cơ
quan tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải yêu
cầu hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự.
2.2.2.5. Tái phạm nguy hiểm
Đây là tình tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội. Theo quy
định tại khoản 2, Điều 49 BLHS, tái phạm nguy hiểm là:
“…a. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc
biệt nghiêm trọng do cố ý.
b. Đã tái phạm chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”.
Quy định tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung
hình phạt là phù hợp với tư tưởng đấu tranh phòng ngừa xu hướng
phạm tội chuyên nghiệp. Kẻ phạm tội khi đã bị kết án tức là đã biết rõ
sự lên án nghiêm khắc của Nhà nước và xã hội đối với hành vi phạm
pháp, kẻ phạm tội đã chấp hành hình phạt, đã được giáo dục cải tạo qua
lao động mà lại tiếp tục phạm tội điều đó chứng tỏ rằng ý thức phạm tội
51
rất sâu sắc, coi thường pháp luật, tính nguy hiểm cho xã hội cao, rất
khó cải tạo và phải nghiêm khắc trừng trị.
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...
Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...
Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 

What's hot (20)

Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...
Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...
Đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp h...
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAYLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng NaiLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Đồng Nai
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCMLuận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện tội trộm cắp tài sản tại TPHCM
 
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội mua bán người theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tình hình tội trộm cắp tài sản tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo LuậtLuận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
Luận văn: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo Luật
 
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng NinhLuận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
Luận văn: Tội giết người theo pháp luật hình sự tại Quảng Ninh
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOTLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy, HOT
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túyLuận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy
 
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAYLuận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
Luận văn: Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội, HAY
 

Similar to Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật

Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...HanaTiti
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...hieu anh
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...hieu anh
 
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...nataliej4
 
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...
Luận văn:  Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...Luận văn:  Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...Viết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 

Similar to Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật (20)

Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thự...
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ... Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ...
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp hoàn thiệ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp hoàn thiệ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp hoàn thiệ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản – thực trạng và giải pháp hoàn thiệ...
 
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam từ ...
 
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sảnLuận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Luận văn: Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
 
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH S...
 
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sảnĐề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Đề tài: Hình sự hóa trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...
Tội Tham Ô Tài Sản Trong Luật Hình Sự Việt Nam - Một Số Vấn Đề Lý Luận Và Thự...
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
 
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...
Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thự...
 
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀNSO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
SO SÁNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI RỬA TIỀN
 
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình PhướcLuận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Bình Phước
 
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAYLuận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...
Luận văn:  Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...Luận văn:  Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, 9...
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, HOT
Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, HOTTài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, HOT
Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất để bảo đảm tiền vay, HOT
 

More from Dịch Vụ Viết Thuê Báo Cáo Khóa luận ZALO 0909232620

More from Dịch Vụ Viết Thuê Báo Cáo Khóa luận ZALO 0909232620 (20)

Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quyền Trẻ Em, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quyền Trẻ Em, 9 ĐiểmTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quyền Trẻ Em, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quyền Trẻ Em, 9 Điểm
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quản Lý Thuế, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quản Lý Thuế, 9 ĐiểmTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quản Lý Thuế, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Quản Lý Thuế, 9 Điểm
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nghĩa Vụ Quân Sự, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nghĩa Vụ Quân Sự, 9 ĐiểmTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nghĩa Vụ Quân Sự, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nghĩa Vụ Quân Sự, 9 Điểm
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Khiếu Nại, Tố Cáo, Điểm Cao
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Khiếu Nại, Tố Cáo, Điểm CaoTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Khiếu Nại, Tố Cáo, Điểm Cao
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Khiếu Nại, Tố Cáo, Điểm Cao
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh, Điểm Cao.
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh, Điểm Cao.Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh, Điểm Cao.
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh, Điểm Cao.
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh Bất Động Sản, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh Bất Động Sản, 9 ĐiểmTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh Bất Động Sản, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Doanh Bất Động Sản, 9 Điểm
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hôn Nhân Gia Đình, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hôn Nhân Gia Đình, 9 ĐiểmTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hôn Nhân Gia Đình, 9 Điểm
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hôn Nhân Gia Đình, 9 Điểm
 
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Cơ Sở Ngành Kế Toán, Từ Sinh Viên Giỏi
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Cơ Sở Ngành Kế Toán, Từ Sinh Viên GiỏiTrọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Cơ Sở Ngành Kế Toán, Từ Sinh Viên Giỏi
Trọn Bộ 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Cơ Sở Ngành Kế Toán, Từ Sinh Viên Giỏi
 
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Nấu Ăn, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Nấu Ăn, Từ Sinh Viên Khá GiỏiTrọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Nấu Ăn, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Nấu Ăn, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Mầm Non, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Mầm Non, Từ Sinh Viên Khá GiỏiTrọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Mầm Non, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Trọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Ngành Mầm Non, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Tham Khảo Danh Sách Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Xây Dựng Mới Nhất
Tham Khảo Danh Sách Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Xây Dựng Mới NhấtTham Khảo Danh Sách Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Xây Dựng Mới Nhất
Tham Khảo Danh Sách Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Xây Dựng Mới Nhất
 
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thương Mại 2005, Điểm Cao
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thương Mại 2005, Điểm CaoTham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thương Mại 2005, Điểm Cao
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thương Mại 2005, Điểm Cao
 
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt, 9 Điểm
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt, 9 ĐiểmTham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt, 9 Điểm
Tham Khảo Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Thuế Tiêu Thụ Đặc Biệt, 9 Điểm
 
Tham Khảo 204 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Chứng Khoán Bảo Vệ Thành Công
Tham Khảo 204 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Chứng Khoán Bảo Vệ Thành CôngTham Khảo 204 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Chứng Khoán Bảo Vệ Thành Công
Tham Khảo 204 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Chứng Khoán Bảo Vệ Thành Công
 
Tham Khảo 202 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Từ Các Khóa Trước Đây
Tham Khảo 202 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Từ Các Khóa Trước ĐâyTham Khảo 202 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Từ Các Khóa Trước Đây
Tham Khảo 202 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Từ Các Khóa Trước Đây
 
Tham Khảo 201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Sinh Học Bảo Vệ Thành Công
Tham Khảo 201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Sinh Học Bảo Vệ Thành CôngTham Khảo 201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Sinh Học Bảo Vệ Thành Công
Tham Khảo 201 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Sinh Học Bảo Vệ Thành Công
 
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Mới Nhất Cho Học Viên
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Mới Nhất Cho Học ViênTham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Mới Nhất Cho Học Viên
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Mới Nhất Cho Học Viên
 
Tham khảo 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành may, từ sinh viên khá giỏi
Tham khảo 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành may, từ sinh viên khá giỏiTham khảo 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành may, từ sinh viên khá giỏi
Tham khảo 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành may, từ sinh viên khá giỏi
 
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế Vận Tải Biển
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế Vận Tải BiểnTham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế Vận Tải Biển
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kinh Tế Vận Tải Biển
 
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Chuyên Ngành Marketing
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Chuyên Ngành MarketingTham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Chuyên Ngành Marketing
Tham Khảo 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Chuyên Ngành Marketing
 

Recently uploaded

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietNguyễn Quang Huy
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxTrnHiYn5
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 

Recently uploaded (20)

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net VietKiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
Kiến thức cơ bản về tư duy số - VTC Net Viet
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 

Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật

  • 1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI NGUYỄN THỊ …… Téi l¹m dông tÝn nhiÖm chiÕm ®o¹t tµi s¶n trong ph¸p luËt h×nh sù ViÖt Nam LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật Mã số : 60380101 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. …………….. HÀ NỘI – NĂM 2017
  • 2. 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết luận trong luận văn chưa được công bố trong một công trình khoa học nào khác. Các ví dụ, trích dẫn, đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực./. TÁC GIẢ
  • 3. 3 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự BLHS : Bộ luật hình sự CTTP : Cấu thành tội phạm TNHS : Trách nhiệm hình sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa
  • 4. 4 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 : KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 7 1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 9 1.2.1.Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985 9 1.2. 2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2015 18 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 29 CHƯƠNG 2: NỘI DUNG PHÁP LÝ CỦA TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 31 2.1.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 31 2.1.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 33 2.1.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 40 2.1.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 42 2.2. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 43 2.2.1. Khung cơ bản đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 43 2.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản..............................................................................47 2.2.3. Khung tăng nặng thứ hai đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 49 2.2.4. Khung tăng nặng thứ ba đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 50 2.2.5. Hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 51
  • 5. 5 2.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế 51 2.3.1 Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với một số tội phạm 52 2.3.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với hành vi vi phạm pháp luật dân sự, kinh tế 57 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 60 CHƯƠNG 3 . MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ KIẾN NGH ÁP DỤNG ĐIỀU 175 BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 3.1. Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 62 3.1.1. Vướng mắc trong định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 62 3.1.2. Vướng mắc trong áp dụng khung hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 77 3.2. Kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 80 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 86 KẾT LUẬN 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  • 6. 6 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đưa đất nước ta từ một nước kém phát triển thành một nước đang phát triển, kinh tế đã có bước chuyển mình rõ rệt, từ nền kinh tế thuần nông đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp, đời sống nhân dân đã từng bước được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì mặt trái của nền kinh tế thị trường cũng làm phát sinh những yếu tố tiêu cực cho đời sống xã hội; tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội xâm phạm sở hữu có chiều hướng gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt. Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định về tội phạm này tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý người có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, trên thực tế tội phạm xảy ra vô cùng đa dạng và phức tạp dẫn đến việc xét xử loại tội này trong thực tiễn vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc xác định tội danh, quyết định hình phạt và vấn đề hình sự hóa các quan hệ dân sự, quan hệ kinh tế. Mặt khác, về phương diện lập pháp, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng đã qua nhiều lần sửa đổi, do đó việc nghiên cứu làm sáng rõ nội dung pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là điều rất quan trọng. Qua đó, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn và thống nhất khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn ngừa và loại bỏ tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong đời sống xã hội hiện nay. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Cho đến nay, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc độ, phương diện khác nhau trong nhiều công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ luật học: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam hiện nay của tác giả Hoàng Văn Lập, Tiến sĩ Trương Quang Vinh hướng dẫn năm 2004. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng được đề cập trong: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Lê Cảm (chủ biên) NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, 2001; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm cụ thể, Trường Đại học Luật Hà Nội. NXB. Công an nhân dân, 2015; Bình luận khoa học BLHS, phần các tội phạm, tập II, Các tội xâm phạm sở hữu, Đinh Văn Quế NXB. Thànhphố Hồ Chí Minh, 2003; Sách chuyên khảo các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, Cao Thị Oanh (chủ biên). NXB Tư pháp, 2015. Ngoài ra, còn có một số nghiên cứu, trao đổi dưới dạng bài viết tạp chí như: - Sự khác nhau giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS) với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS), Lê Đăng Doanh, Tạp chí Tòa án nhân dân nhân số 24/2005.
  • 7. 7 - Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong trường hợp liên quan đến vi phạm hợp đồng, Trần Công Phàn, Tạp chí Kiểm sát 20/2006; - Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Nguyễn Văn Trượng, Tạp chí Tòa án nhân dân nhân số 03/2008; - Bàn về yếu tố “chiếm đoạt tài sản” trong các tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Nguyễn Thị Phương Thảo, Tạp chí Kiểm sát số 09/2012; - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản- một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện, Trần Duy Bình, Tạp chí Tòa án nhân dân, kỳ II tháng 11, 2012. Qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy, việc nghiên cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không phải là mới; một số công trình nghiên cứu với phạm vi rộng và chung cho cả nhóm tội, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong giáo trình, sách chuyên khảo và bình luận Bộ luật hình sự. Ngoài ra, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được nghiên cứu trao đổi dưới dạng bài viết tạp chí, các bài viết đã đi vào phân tích một vài khía cạnh cụ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, các công trình trên mới chỉ nghiên cứu tội phạm này ở những khía cạnh khác nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu tổng quát về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản một cách đầy đủ có hệ thống trong thời kỳ hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài“Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam” là rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn trong thời kì hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu luận văn Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ nội dung khoa học của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), có so sánh với quy định của tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 2015. Từ đó, tìm ra những bất cập trong quy định của luật hình sự và thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trên cơ sở đó có những kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và nâng cao hiệu quả xử lý tội phạm này trong thực tiễn xét xử. 4. Câu hỏi nghiên cứu luận văn - Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản? - Chế tài áp dụng đối với người phạm tội như thế nào? - Những vướng mắc trong quá trình áp dụng như thế nào và hướng khắc phục những vướng mắc đó?
  • 8. 8 - Khác biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) so với quy định của tội phạm này trong Bộ luật hình sự năm 2015 như thế nào? 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,trong đó tập trung nghiên cứu chủ yếu vào quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), và so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội phạm này. * Phạm vi nghiên cứu luận văn: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự, tác giả tập trung nghiên cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đồng thời phân tích, so sánh với quy định Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, từ việc nghiên cứu thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tác giả đưa ra một số kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 trong thời gian tới. 6. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Trên nền tảng phương pháp luận ấy, khi nghiên cứu từng vấn đề cụ thể tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: - Phương pháp nghiên cứu lịch sử - Phương pháp so sánh luật học - Phương pháp phân tích, đánh giá 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về mặt khoa học: Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ năm 1945 đến nay và làm sáng rõ quá trình phát triển trong kỹ thuật lập pháp về tội phạm này. Luận văn đã phân tích đầy đủ, toàn diện sâu sắc các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có đối chiếu so sánh với quy định của Bộ luật hình sự năm 2015. Đồng thời, Luận văn đã đưa ra kiến nghị trong thời gian tới trong việc áp dụng Điều 175 của Bộ luật hình sự năm 2015. Về mặt thực tiễn: Góp phần thuận lợi cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách chính xác khi xử lý người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đề tài có thể được dùng làm tư liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và học tập. 8. Kết cấu của Luận văn
  • 9. 9 Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Khái niệm và lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 2: Nội dung pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chương 3: Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và kiến nghị áp dụng Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015. CHƯƠNG 1 KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế dẫn đến các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại phát sinh ngày càng phong phú và đa dạng. Do đó, việc nhận diện đúng ranh giới giữa các quan hệ này với hành vi phạm tội để áp dụng áp dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, khách quan, đầy đủ và chính xác. Trên cơ sở đó góp phần bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, từng bước loại bỏ tình trạng được gọi là “hình sự hóa” các giao dịch dân sự, kinh doanh, thương mại hay ngược lại “dân sự hóa” các hành vi phạm tội. Đồng thời,
  • 10. 10 nghiên cứu tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn là cơ sở phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt với một số tội phạm khác. Theo từ điển Tiếng Việt lạm dụng có nghĩa là “sử dụng quá mức hoặc quá giới hạn đã được quy định”; tín nhiệm có nghĩa là “tin cậy trong một nhiệm vụ cụ thể nào đó” 1 . Theo nghĩa Hán - Việt, tài sản có nghĩa là dùng để “chỉ chung tiền bạc, của cải”2 hay “tiền của, của cải nói chung”3. Hoặc là“của cải vật chất dùng để sản xuất hoặc tiêu dùng”4. Theo Điều 105 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015, tài sản được hiểu bao gồm: “Vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”, trong đó quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác (Điều 115 BLDS). Tuy nhiên, từ góc độ Luật hình sự, đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một trong những tội phạm có tính chất chiếm đoạt tài sản thì tài sản theo quan niệm của BLDS không phải tài sản nào cũng được coi là đối tượng của tội phạm này. Bởi lẽ, không phải tài sản nào người phạm tội cũng có thể lạm dụng tín nhiệm lấy được từ chủ tài sản. Ví dụ như các quyền tài sản như: Quyền của chủ nợ, quyền sở hữu đối với các giấy tờ có giá ghi danh… Đây là một dạng tài sản vô hình, không nhìn thấy được, nó gắn liền với quyền nhân thân và cố định với một chủ thể cụ thể được pháp luật công nhận. Mọi trình tự, thủ tục thực hiện các quyền này đều tuân theo quy định của pháp luật. Do vậy, tội phạm không thể chiếm đoạt được loại tài sản nêu trên nên nó không thể là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín chiếm đoạt tài sản. Chiếm đoạt theo nghĩa Hán - Việt, “chiếm” là “lấy làm của mình”5 hay chiếm đoạt là “dùng sức mạnh, thế lực mà lấy làm của mình” 6 chiếm đoạt còn được hiểu là“chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực”7. Dưới góc độ pháp luật hình sự chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình hoặc“hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc, của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm” 8 . Từ những phân tích trên đây, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý có thể đưa ra định nghĩa khoa học về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi của người được người khác tin tưởng giao tài sản trên cơ sở hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng đã lạm dụng lòng tin đó để chiếm đoạt tài sản. 1.2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản 1.2. 1 Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1985
  • 11. 11 Quan hệ sở hữu là một trong những nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ sở hữu chính là mối quan hệ giữa con người với con người đối với đối tượng của quyền sở hữu đó chính là tài sản. Trong các hình thái xã hội khác nhau, Nhà nước đều sử dụng các quy phạm pháp luật trong đó có quy phạm pháp luật hình sự để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp về quyền tài sản của con người. Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Đối với nước ta đây là thời kỳ hết sức khó khăn bởi chính quyền non trẻ, đồng thời đối phó với thù trong giặc ngoài. Sau khi Hiến pháp 1946 được thông qua, ghi nhận “quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được đảm bảo”. Vì vậy, cùng với việc giải quyết các nhiệm vụ cách mạng, Nhà nước ta đã quan tâm tới việc bảo vệ các quan hệ sở hữu, bằng việc ban hành các văn bản pháp luật hình sự quy định tội phạm và hình phạt trừng trị đối với người có hành vi xâm phạm sở hữu. Trong giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam tuy có nhiều văn bản liên quan đến bảo vệ quyền sở hữu nhưng những văn bản này chưa quy định về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ví dụ như: - Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về các tội phá hủy công sản. Theo Sắc lệnh sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể xử tử những người phạm một trong những tội kể sau đây, bất cứ là chánh phạm hay tùng phạm: 1. Cố ý phá hoại một phần hay toàn thể các cầu cống, kênh hay sông đào, vận hà, nông giang thuộc công ích, đường xe lửa và những kiến trúc thuộc về xe lửa, cùng các đường giao thông công hay tư, đường bộ hay đường thuỷ, đê đập, các công sở, kho tàng hoặc các nhà máy điện, máy nước; 2. Cố ý huỷ hoại hoặc ăn trộm các dây điện thoại hay điện tín, cùng các cột dây điện và dây thép; 3. Đặt ở các nơi nói trên, những cơ giới, khí cụ có thể dùng để giết người, đốt phá hay tác liệt. - Sắc lệnh số 233/SL ngày 27/11/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về các tội phù lạm, biển thủ công quỹ; Theo Sắc lệnh tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ, hoặc phù lạm, hoặc biển thủ công quỹ hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ, tang vật hối lộ bị tịch thu sung công quỹ, người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. - Sắc lệnh số 12/SL ngày 12/3/1948 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa về tội ăn cắp lấy trộm các vật dụng của nhà binh trong thời bình và trong thời kì chiến tranh. Theo Sắc lệnh, trong thời bình, tội ăn cắp, lấy trộm các đồ quân giới, quân trang, quân
  • 12. 12 dụng nói tóm lại các vật dụng nhà binh, bị phạt theo điều khoản của hình luật chung; Trong thời kỳ chiến tranh các tội phạm ấy phạt như sau: Trộm cắp thường: từ 2 năm đến 10 năm tù; Nếu có tình trạng gia trọng: có thể phạt khổ sai hay tử hình. - Sắc lệnh số 68/SL ngày 18/6/1949 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, về bảo vệ các công trình thủy nông… Theo Sắc lệnh, người nào có hành vi đào đất, trồng cây, cắm cọc, làm nhà, cho súc vật dẫm phá gần đê, đập, kênh và cầu cống phụ thuộc, trong một địa phận bảo vệ, do Bộ giao thông Công chính ấn định; hoặc làm hư hỏng, bằng một cách nào khác, các công trình thuỷ nông; thì sẽ bị phạt như sau: - Phạt tiền từ 100đ đến 100.000đ - Phạt tù: + Từ 10 ngày đến 2 năm, nếu việc phạm pháp gây thiệt hại cho nhân dân trong một xã; + Từ 3 tháng đến 5 năm, nếu thiệt hại cho nhân dân một huyện; + Từ 1 năm đến chung thân, nếu thiệt hại cho nhân dân trong một tỉnh; + Từ 3 năm đến tử hình, nếu thiệt hại cho nhân dân nhiều tỉnh; - Hoặc một trong hai hình phạt trên. Ngoài ra, can phạm còn phải bồi thường để sửa chữa những sự hư hỏng đã làm ra. Số tiền bồi thường sẽ do sở Công chính ấn định. Qua nghiên cứu các quy định trên cho thấy, đây là những văn bản đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định về tội xâm phạm sở hữu sau này. Tuy nhiên, những Sắc lệnh này vẫn còn nhiều những hạn chế. Trước hết nó mới là những quy định sơ lược, chưa khái quát hết được những hành vi xâm phạm đến quan hệ sở hữu đặc biệt là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, các nhà lập pháp chưa đề cập đến với tư cách là một tội phạm độc lập, mà mới chỉ tập trung vào một số hành vi: Trộm cắp, phá hoại hoặc gắn với các đối tượng của các hành vi xâm phạm là tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN). Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, bên cạnh những
  • 13. 13 thuận lợi đạt được, Nhà nước ta lại đứng trước hàng loạt các vấn đề cần phải giải quyết để khôi phục lại nền hòa bình. Để bảo vệ tài sản quốc gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản như: - Thông tư 442/TTg ngày 19/11/1955 của Thủ tướng chính phủ về trừng trị một số tội phạm đã nhận định: "...Vì về mặt bảo vệ tài sản quốc gia, tính mệnh và tài sản của nhân dân luật cũ có nhiều khoản không thích hợp nên Chính phủ lại ban bố một số Sắc lệnh trừng trị tội tham ô, tội tống tiền, bắt cóc, ám sát, tội đánh bạc như là Sắc lệnh số 27/SL, ngày 28-2- 1946, số 223/SL ngày 27-11- 1946... Kinh nghiệm xét xử về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ...Lừa gạt, bội tín: phạt tù từ ba tháng đến năm năm…”. Có thể nói đây chính là quy định đầu tiên của Nhà nước ta về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tên gọi “ Bội tín”. Tuy nhiên, quy định về tội lạm dụng tín nhiệm tài sản trong giai đoạn này chưa được quy định cụ thể, chủ yếu xét xử theo đường lối chung bảo vệ quyền sở hữu hoặc theo án lệ. Trong quy định này hình phạt của tội lừa gạt, bội tín là như nhau từ ba tháng đến năm năm. Quy định này còn mang tính quy định tội danh mà không xác định hành vi cụ thể của từng tội phạm, cho nên việc xử lý phụ thuộc nhiều vào cơ quan xét xử. - Ngày 15/06/1956 Chủ tịch nước ký lệnh công bố Sắc lệnh số 267/SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm
  • 14. 14 cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế, văn hóa. Điều 7 Sắc lệnh 267 quy định: “Kẻ nào vì tham lam, tư lợi mà phạm tội trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của nhà nước, của nhân dân thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm". Sắc lệnh số 267 đã có sự phân biệt tài sản của nhà nước và tài sản của công dân, giúp việc xử lý tội phạm được chính xác và hiệu quả hơn. - Ngày 24/06/1957 Bộ tư pháp cũng đã ra Thông tư 72-VVH-HS hướng dẫn thi hành sắc lệnh 267. Sắc lệnh này cũng không quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà cho phép áp dụng những nguyên tắc tương tự khi xét xử những hành vi phạm tội phá hoại khác. Theo đó nếu hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra, Tòa án căn cứ theo đường lối xử lý các tội phạm khác để xét xử. Như vậy, cũng như Thông tư 442/TTg Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng nguyên tắc tương tự trong xét xử. Điều đó cho thấy hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản vẫn chưa được xác định cụ thể, đặt ra một yêu cầu rất lớn đối với công tác xây dựng và thực thi pháp luật. Đến thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp năm 1959, Nhà nước ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng XHCN ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất miền Nam thì công việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ trọng tâm. Việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề cấp bách được đặc biệt coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 đã ghi nhận: “Tài sản công cộng của nước Việt nam dân chủ cộng hòa; là thiêng liêng không thể xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng".
  • 15. 15 Để củng cố thành quả mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đạt được ở miền Bắc, bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực, tập trung phát triển sản xuất để chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Nhà nước ta ban hành các quy định pháp luật về kinh tế, tài chính, dân sự, lao động, hình sự từng bước được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của quản lý đất nước trong tình hình mới. Ngày 21/10/1970, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa (XHCN) và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Góp phần tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, bảo vệ, nâng cao đời sống của nhân dân. Hai pháp lệnh này là sự tiếp nối và hoàn thiện các văn bản về các tội xâm phạm sở hữu trước đây. Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định: 1. Kẻ nào nhận tài sản XHCN để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm; 2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây: a, Tái phạm nguy hiểm; b, Có tổ chức; c, Có móc ngoặc; d, Dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm;
  • 16. 16 đ, Chiếm đoạt tài sản có số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt; e, Dùng tài sản chiếm đoạt vào mục đích kinh doanh, bóc lột, đầu cơ, đút lót; hoặc những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm. 3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm. Điều 11 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy định: 1. Kẻ nào nhận tài sản của người khác để giữ, vận chuyển, gia công, sửa chữa hoặc để làm một việc gì khác mà lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bớt xén hoặc đánh tráo tài sản đó thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây: a, Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, xí nghiệp nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể nhân dân, hợp tác xã hoặc dùng thủ đoạn xảo quyệt nguy hiểm khác. b, Gây hậu quả nghiểm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm”. Theo như quy định trên cho thấy, đối tượng của hai tội phạm là khác nhau. Đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản XHCN là tài sản của nhà nước XHCN còn đối tượng của tội lạm dụng
  • 17. 17 tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân là tài sản của công dân. Nhưng hành vi khách quan là giống nhau; hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt là đều hành vi “bớt xén” hoặc “đánh tráo” chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản được giao ngay thẳng trên cơ sở hợp đồng gửi giữ, vận chuyển… Hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội tương đối nghiêm khắc: Hình phạt tù tối thiểu là 3 tháng, tối đa là 20 năm. Qua quy định của hai Pháp lệnh cho thấy, về mặt kỹ thuật lập pháp đã có sự tiến bộ, tạo cơ sở pháp lý để trừng trị hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, nội dung của hai Pháp lệnh đã phản ánh khá đầy đủ nội dung chính sách hình sự của nhà nước ta đối với các tội xâm phạm sở hữu trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do tính chất của tài sản khác nhau mà chính sách xử lý của nhà nước cũng khác nhau. Tài sản XHCN được đặc biệt coi trọng nên Nhà nước đã quy định chính sách xử lý tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN nghiêm khắc hơn so với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản riêng của công dân. Có thể nói, quy định trong hai Pháp lệnh năm 1970 lần đầu tiên nội dung tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được xác định cụ thể, những dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội phạm này đã được quy định trong luật hình sự. Ngày 15/03/1976 Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam ban hành Sắc luật số 03/SL-1976 quy định các tội phạm
  • 18. 18 và hình phạt được áp dụng ở miền Nam Việt Nam, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sở hữu, trong đó tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại điểm b Điều 4 cũng với tên gọi “Bội tín”. "b. Phạm các tội khác như: Trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bẩy năm " . Những quy định trong Sắc luật này về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như các tội phạm khác rất sơ lược, chỉ nêu tên tội phạm mà không xác định các dấu hiệu pháp lý cụ thể và quy định các tội xâm phạm sở hữu như lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt… trong cùng một điều luật. Việc quy định như vậy dẫn đến việc xử lý tội phạm không có sự phân hóa trách nhiệm hình sự (TNHS). Có những tội xâm phạm đến một khách thể như tội lừa đảo, bội tín xâm phạm đến quan hệ sở hữu nhưng có tội xâm phạm đến nhiều khách thể như tội cướp giật, cưỡng đoạt cùng một lúc xâm phạm đến quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Cách quy định như vậy đòi hỏi phải có văn bản hướng dẫn thi hành để xử lý từng loại tội phạm cho chính xác. Tháng 04/1976 Bộ tư pháp đã ra Thông tư số 03/BTP/TT hướng dẫn thi hành Sắc luật trên. 1.2. 2. Lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2015 Trước khi BLHS năm 1985 được ban hành, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều căn cứ theo Điều 11 Pháp lệnh trừng trị
  • 19. 19 các tội phạm xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân năm 1970 áp dụng thi hành cho đến khi BLHS năm 1985 có hiệu lực pháp luật. BLHS năm 1985 được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VII và có hiệu lực từ ngày 01/01/1986. Đây là Bộ luật được ban hành trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản pháp luật hình sự của Nhà nước ta được ban hành từ những năm đầu của chính quyền cách mạng đến giữa những năm 80 của thế kỷ XX, cũng như thể chế hóa chính sách hình sự của nhà nước ta trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. BLHS năm 1985 ra đời là bước ngoặt rất quan trọng trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta. Kể từ khi có BLHS năm 1985 tài sản của Nhà nước, tập thể và công dân được bảo vệ một cách hữu hiệu bằng các quy phạm pháp luật hình sự. BLHS năm 1985 đã chia quy định về tội xâm phạm sở hữu thành hai chương: Chương IX “các tội xâm phạm sở hữu XHCN”; chương VI “ các tội xâm phạm sở hữu của công dân”. Trong đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại hai Điều: Điều 135 - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và Điều 158 - Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân. Điều 135 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”. Điều 158 quy định: “1. Người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
  • 20. 20 tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm". Với điều luật trên cho thấy quy định tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không mô tả cụ thể hành vi phạm tội mà chỉ quy định tên tội danh là “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” điều này phần nào gây khó khăn cho quá trình áp dụng và sự thiếu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp. BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991,1992 và 1997. Qua các lần sửa đổi đã đáp ứng được phần nào đòi hỏi của cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm trong điều kiện đổi mới. Tuy nhiên, các lần sửa đổi này đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ sửa đổi, bổ sung khung tăng nặng mà không sửa đổi bổ sung cấu thành cơ bản, chưa khắc phục được thiếu sót trong quy định về mặt khách quan của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Như vậy, việc dành riêng hai điều luật quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS 1985 đã khẳng định mức độ nghiêm trọng của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thực tiễn cũng như sự cần thiết phải xác lập một cơ sở pháp lý thống nhất để xử lý hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hạn chế của hai điều luật là không mô tả cụ thể hành vi phạm tội. Hiện tượng này cũng rất phổ biến trong BLHS 1985, đòi hỏi phải có văn bản hướng dẫn thi hành nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng luật hình sự và thực tiễn xét
  • 21. 21 xử. Và trên thực tế việc xác định các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm vẫn dựa trên quy định của hai Pháp lệnh năm 1970. Sau 14 năm thi hành BLHS năm 1985 đã bộc lộ những bất cập, xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Do đó, việc ban hành một bộ luật mới là rất cần thiết. Ngày 22/11/1999 Quốc Hội khóa X đã thông qua BLHS năm 1999 và cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH-10 về việc thi hành BLHS. Bộ luật này đã kế thừa và phát huy BLHS 1985 trên cơ sở tiếp thu những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm và những thay đổi của nền kinh tế. BLHS năm 1999 đã có sự đổi mới toàn diện về cả nội dung và hình thức so với BLHS năm 1985. Các tội trong chương tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương xâm phạm sở hữu của công dân được nhập lại thành một chương “Các tội xâm phạm sở hữu”. Việc nhập hai chương thành một chương hữu nói chung và nhập hai tội danh (tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân) trong cùng một điều luật nói riêng là cần thiết bởi lẽ: Thứ nhất, hai điều (Điều 135 và Điều 158) trong BLHS năm 1985 giống nhau về các dấu hiệu khách quan và chủ quan, chỉ khác nhau về đường lối xử lý nên việc tách thành hai điều luật ở hai chương là không cần thiết. Thứ hai, trong nền kinh tế hiện nay, Nhà nước chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế theo các hình thức sở hữu khác nhau nhưng đều bình đẳng trước pháp luật,
  • 22. 22 đều được Nhà nước bảo hộ như nhau. Đồng thời thực tiễn cho thấy, trong nền kinh tế nhiều thành phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau nên khó có thể xác định, thậm chí không xác định được đâu là tài sản XHCN và đâu là tài sản của công dân. Thứ ba, sự ra đời của Hiến pháp 1992 với thay đổi cơ bản lớn nhất đó là Nhà nước ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa thị trường, có sự quản lý nhà nước theo định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư bản tư nhân… và bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu. Như vậy, trong trường hợp hành vi xâm phạm đến tài sản của chủ sở hữu thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh thì việc áp dụng các quy định của BLHS năm 1985 sẽ gặp những khó khăn và vướng mắc nhất là trong việc định tội danh. Sự thay đổi trên đây nhằm tạo mặt bằng pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác nhau và đồng thời tạo điều kiện thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trên tinh thần đó, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 ra đời là kết quả của sự sửa đổi một cách căn bản từ hai điều luật riêng rẽ ở hai chương khác nhau trong BLHS năm 1985; là hoàn toàn phù hợp. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS 1999 như sau: 1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đọat tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
  • 23. 23 đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tổ chức; b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; d) Chiếm đoạt tài sản từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng; đ) Tái phạm nguy hiểm; e) Gây hậu quả nghiêm trọng. 3. Phạm tội một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân; a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; b)
  • 24. 24 Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này. Nghiên cứu điều luật cho thấy, so với quy định tương ứng trong BLHS năm 1985, Điều 140 đã mô tả được chi tiết hơn các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là về mặt khách quan của tội phạm đó là: Người phạm tội vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi: + Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt. + Bỏ trốn để chiếm đoạt. + Sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Khoản 1 Điều 140 cũng ghi nhận việc định lượng tài sản bị chiếm đoạt như: Tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một triệu đồng trở lên hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS). Sau 10 năm thi hành BLHS năm 1999 đã bộc lộ nhiều bất cập, đứng trước tình hình mới, nhiệm vụ mới, do sự phát triển của kinh tế xã hội có nhiều thay đổi đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi cho phù hợp.
  • 25. 25 Năm 2009, Quốc hội đã thông qua và sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS nhằm hoàn thiện pháp luật về phòng chống tội phạm và tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều trong đó có Điều 140. Theo đó Điều 140 BLHS năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 về cơ bản kế thừa Điều 140 BLHS năm 1999 chỉ thay đổi khoản 1 và điểm d khoản 2 Điều 140 BLHS năm 1999 như sau: Khoản 1 điều luật quy định: Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đọat tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Như vậy, điều luật đã sửa đổi giá trị tài sản bị chiếm đoạt từ mức một triệu đồng lên thành bốn triệu đồng. Điểm d, khoản 2 quy định: Chiếm đoạt tài sản từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Điều luật đã bỏ từ “trên” trước từ “năm mươi triệu đồng”. Việc sửa đổi này đã khắc phục được vướng mắc trong việc xác định khung, khoản đối với trường hợp giá trị tài sản bằng năm mươi triệu đồng thì xử lý theo khoản 1 hay khoản 2 Điều 140 BLHS năm 1999. Trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ không biết áp dụng
  • 26. 26 điều khoản nào. Nếu có áp dụng khoản 1 hoặc khoản 2 cũng là sự khiên cưỡng suy đoán mà không có căn cứ pháp luật. Việc thay đổi này là hoàn toàn phù hợp giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng điều khoản một cách đúng đắn. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) giúp ta nhận diện và phân biệt được với các hành vi không phải là tội phạm như các hành vi vi phạm trong lĩnh vực dân sự, kinh tế, phân biệt được với một số tội phạm khác như tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội tham ô tài sản. Điều này có ý nghĩa rất nhiều cho công tác áp dụng pháp luật. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và tiến hành cải cách tư pháp và yêu cầu đặt ra là phải xây dựng BLHS mới tiến bộ, minh bạch, có tính khả thi và tính dự báo cao. Đây là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu nhằm đấu tranh, phòng chống tội phạm có hiệu quả góp phần bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trên tinh thần đó, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua BLHS năm 2015 có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung mang tính đột phá, đổi mới về chính sách hình sự, về vấn đề tội phạm và hình phạt, thể hiện sâu sắc chính sách hình sự nhân đạo. Đồng thời khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng đã có sự sửa đổi, bổ sung và được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015: "1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm
  • 27. 27 đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; e) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
  • 28. 28 từ 05 năm đến 12 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản" Qua nghiên cứu điều luật cho thấy tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong BLHS năm 2015 đã thay đổi một số nội dung, cụ thể nội dung này tác giả sẽ phân tích ở phần tiếp theo. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong chương 1 tác giả đã nghiên cứu và phân tích đưa ra khái niệm tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa rất lớn từ thực tiễn xét xử hình sự đối với tội phạm này. Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Qua đó, cho thấy từ năm 1945 đến trước khi có Pháp lệnh ngày 21/10/1970 luật hình sự Việt Nam chưa đưa ra được khái niệm về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà chỉ sử dụng với tội danh “bội tín” và áp dụng theo hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.
  • 29. 29 Từ giai đoạn năm 1970 cho đến trước khi có năm 1985 thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được nêu rõ trong hai pháp lệnh đó là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân. BLHS năm 1985 ra đời thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 135 và Điều 158. Mặc dù hai điều luật quy định về hành vi phạm tội và hình phạt nhưng hạn chế của hai điều luật không mô tả cụ thể hành vi khách quan của tội phạm này. Hạn chế này đã được BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) khắc phục sửa đổi, mô tả cụ thể về hành vi khách quan của tội này. Mặc dù vậy, các hành vi khách quan được mô tả trong điều luật còn gây nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử. BLHS năm 2015 trên cơ sở kế thừa và tiếp thu các hạt nhân hợp lý của quy định trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đến nay có sự sửa đổi, bổ sung về hành vi khách quan và các tình tiết định khung giúp cho việc quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hoàn thiện hơn. Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó không chỉ thấy được sự chuyển biến trong nhận thức của các nhà làm luật về tội phạm này, mà còn thấy được quá trình phát sinh, phát triển các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã trải qua nhiều giai đoạn hình thành và phát triển khác nhau. Ở mỗi thời kỳ, những quy định về tội phạm này cũng được thay đổi ngày càng hoàn thiện hơn để đáp ứng được yêu cầu của tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm
  • 30. 30 trong giai đoạn mới. CHƯƠNG 2 NỘI DUNG PHÁP LÝ CỦA TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 2.1. Các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Việc nghiên cứu các yếu tố của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ bản chất pháp lý của loại tội phạm này từ đó là cơ sở khoa học cho việc nhận thức trong
  • 31. 31 định tội và truy cứu TNHS. 2.1.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Khách thể của tội phạm là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học luật hình sự. Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thừa nhận tính giai cấp của pháp luật nói chung cũng như của luật hình sự nói riêng, khẳng định: “Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại”9. Nghiên cứu về khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng vì một hành vi nguy hiểm cho xã hội không thể bị coi là tội phạm nếu như nó không xâm hại đến quan hệ xã hội được bảo vệ bằng pháp luật hình sự; nó còn là yếu tố bắt buộc và là cơ sở để đặt ra vấn đề TNHS của một người. Phân tích quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và Điều 175 BLHS năm 2015 cho thấy, khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là quan hệ sở hữu. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền: Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Nghiên cứu khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản không thể không nghiên cứu đến đối tượng tác động của tội phạm 9 Trường đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập 1, NXB. Công an nhân dân, Tr 86; 35
  • 32. 32 vì đây“là các vật thể của thế giới vật chất mà người phạm tội tác động đến khi thực hiện sự xâm hại các khách thể xã hội do pháp luật hình sự bảo vệ”10. Cũng như các hành vi phạm tội khác, để xâm phạm đến quan hệ sở hữu thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng phải tác động đến tài sản. Tài sản theo quy định của Điều 105 BLDS 2015 gồm: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Tuy nhiên, không phải tất cả các loại tài sản đều là đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. - Về nguyên tắc tài sản thuộc đối tượng tác động của tội phạm này phải là vật có thực tức là vật hữu hình, có giá trị sử dụng. Ngoài ra, vật đó phải đáp ứng một số đặc điểm như: Phải là sản phẩm lao động của con người, đồng thời phải thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, tài sản không có tính năng đặc biệt tức là không có công dụng đặc biệt và có giá trị sử dụng chung. - Tiền là đối tượng tác động của tội phạm này. Tuy nhiên, tiền giả không phải là đối tượng tác động của tội phạm này. - Giấy tờ có giá thì có hai loại vô danh (không ghi tên chủ sở hữu) và hữu danh (có ghi tên chủ sở hữu). Chỉ những giấy tờ vô danh mới là đối tượng tác động của tội phạm này. Ví dụ như trái phiếu vô danh, cổ phiếu vô danh.... vì khi chiếm đoạt các loại giấy tờ này người chiếm đoạt thực hiện các quyền sở hữu đối với tài sản đó như có quyền mua bán, chuyển nhượng, tặng cho… Còn những tài sản hữu danh như cổ
  • 33. 33 phiếu ghi danh, trái phiếu ghi danh... không phải là đối tượng tác động của tội phạm này vì khi chiếm đoạt các loại giấy tờ này người chiếm đoạt chỉ thực hiện được quyền chiếm hữu nhưng không thực hiện được hai quyền còn lại là quyền sử dụng và quyền định đoạt. 10 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, Tr. 354. 36 Một số tài sản không thuộc đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như: - Một số vật do có những đặc điểm, tính chất quan trọng nhất định nên những tài sản đó đã trở thành đối tượng của một số tội phạm riêng. Ví dụ: Các loại vũ khí quân dụng, tài nguyên rừng, hầm mỏ, chầt phóng xạ, chất cháy, chất nổ, công trình, phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc… - Những tài sản mà Nhà nước cấm tư nhân mua bán, trao đổi như thuốc phiện, vũ khí, chất nổ… cũng không phải là đối tượng của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. 2.1.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là “mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện ra của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan”11. Đó còn là “mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là sự thể hiện cách xử sự có tính
  • 34. 34 chất tội phạm trong thực thế khách quan”12. 2.1.2.1 Hành vi khách quan Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mang ba đặc điểm, đó là: Hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội, và hành vi đã được tính toán cân nhắc là hoạt động có ý thức và ý chí của chủ thể, được thực hiện dưới hình thức hành động phạm tội hoặc không hành động phạm tội. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy tại Điều 140 như sau: 11 Trường đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 1, NXB. Công an nhân dân, Tr 99; 12 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, Tr 356 37 Thứ nhất: Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 140 BLHS: "Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó". Như vậy, đặc điểm hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thể hiện trước hết ở dấu hiệu: Người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp từ chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp trên cơ sở hợp đồng dân sự, kinh tế như: Hợp
  • 35. 35 đồng vay, mượn, thuê tài sản, hoặc các hình thức hợp đồng khác. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể có được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng khác như: Hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng gia công, dịch vụ, hợp đồng vận chuyển… Sau khi đã nhận được tài sản người phạm tội mới thực hiện những hành vi khác nhau nhằm chiếm đoạt tài sản được giao. Sự chiếm đoạt đó có thể là tiếp tục chiếm giữ không chịu trả lại tài sản cho chủ sở hữu biến tài sản thành của riêng, hoặc tự ý sử dụng, định đoạt tài sản không đúng với nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng với ý định không muốn trả lại tài sản khi thời hạn hợp đồng đã hết. Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể được biểu hiện qua các hành vi khách quan: Thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. - Thủ đoạn gian dối: Thủ đoạn gian dối thường biểu hiện ở các dạng như người phạm tội giả tạo bị mất, hoặc đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản trong giấy tờ giao kết hoặc tài liệu, chứng từ khống; người phạm tội tạo dựng bị người khác chiếm đoạt để chứng minh với chủ sở hữu về việc không trả lại tài sản vì lý do khách quan; có trường hợp người phạm tội thông đồng với người khác tạo lập hợp đồng giả về việc giao nhận tài sản sau đó yêu cầu công chứng hoặc Ủy ban nhân dân chứng 38 thực. Phần lớn trong các trường hợp người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối để che giấu mục đích chiếm đoạt.
  • 36. 36 - Hành vi bỏ trốn: Nếu người phạm tôi không dùng thủ đoạn gian dối mà sau khi nhận được tài sản một cách hợp pháp đã bỏ trốn với ý thức cố tình không thanh toán, không trả lại tài sản cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp. Bỏ trốn để trốn tránh việc trả nợ là trường hợp người vay, mượn hoặc nhận tài sản từ các hình thức hợp đồng khác nhưng khi hết thời hạn thanh toán họ lại bỏ đi khỏi nơi cư trú, cố tình giấu địa chỉ không cho chủ nợ biết cho đến khi bị phát hiện và bắt giữ. Khi đánh giá hành vi bỏ trốn của người phạm tội phải xem xét một cách khách quan, toàn diện, nếu người phạm tội bỏ trốn hoặc tránh mặt chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản vì nguyên nhân khác thì không coi là bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 175 BLHS năm 2015 thì hành vi khách quan của tội phạm này được quy định như sau: "Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả". Như vậy, điều luật đã bỏ tình tiết bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản, không quy định tình tiết này là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thay vào đó là bổ sung hành vi khách quan trong cấu thành cơ bản “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả tài sản”. Điều luật đã hình sự hóa hành vi của một người nhận được tài sản thông qua hợp đồng ngay
  • 37. 37 thẳng sau đó đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện nhưng cố tình không trả. Việc hành vi này trước đây không được quy định là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là một bất cập của Điều 140 BLHS năm 1999. Đến nay, Điều 175 BLHS đã bổ sung hành vi này không chỉ là một bước hoàn thiện quy định của 39 pháp luật về tội phạm này mà còn tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh với thực trạng hiện nay như cố tình quỵt nợ, hoặc cố tình không giao lại tài sản khi có điều kiện. Thứ hai: Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 140 BLHS "Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản". Hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp: Hiểu như thế nào là dùng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là một vấn đề không hề đơn giản. Nếu theo khái niệm thông thường bất hợp pháp là không đúng với pháp luật, không phân biệt pháp luật gì và nếu hiểu như vậy thì hầu hết các trường hợp mất khả thanh toán nợ cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản đều là hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo điểm b, khoản 1, Điều 175 BLHS năm 2015 thì hành vi khách quan được quy định: "Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả
  • 38. 38 năng trả lại tài sản". Như vậy, điều luật giữ nguyên như điểm b, khoản 1, Điều 140 BLHS không thay đổi về hành vi khách quan . 2.1.2.2. Hậu quả của tội phạm Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của những tội phạm có cấu thành vật chất. Theo luật hình sự Việt Nam hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho những quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Hậu quả của hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là việc chiếm đoạt được tài sản của chủ sở hữu đã giao cho mình. Theo quy định tại Điều 140 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), chỉ xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn triệu đồng 40 trở lên hoặc giá trị tài sản dưới bốn triệu đồng nhưng gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt (như hành vi lừa đảo, trộm cắp, cướp, cướp giật… hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt (trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản… chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội này. - Đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng: Theo thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC- VKSNDTC- BCA-BTP ngày 25/12/2001hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIV "các tội xâm phạm sở hữu" của BLHS năm 1999. Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản thì thuộc các trường hợp sau
  • 39. 39 đây là gây hậu quả nghiêm trọng: a.1) Làm chết một người; a.2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;... a.6) Hoặc gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. Tuy nhiên, trên thực tế rất ít trường hợp phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà lại gây thương tích hoặc gây chết người và trong thực tiễn xét xử hầu như chưa có vụ án nào xảy ra. - Đối với trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt: Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP tại điểm 1 mục I, xác định như sau: + Đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định của pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; + Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của Điều lệnh, Điều lệ của lực lượng vũ trang nhân dân; + Đã bị xử lý kỷ luật theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền. Hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý là hết thời hạn do pháp luật quy định, điều lệnh hoặc điều lệ quy định. Đối với các trường hợp 41 bị xử lý mà chưa có quy định về thời hạn để hết thời hạn đó, người bị xử lý được coi là chưa bị xử lý, thì thời hạn đó là một năm, kể từ ngày bị xử lý.
  • 40. 40 Tóm lại, bị coi là “đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt” nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong các hành vi như: Hành vi cướp tài sản, hành vi bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, hành vi cưỡng đoạt tài sản, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Nếu trước đó đã bị xử phạt hành chính về một hành vi khác mà không phải về hành vi chiếm đoạt tài sản như: Đã bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng hoặc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy… mà chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt mà có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng thì không cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Việc nắm vững những quy định này rất quan trọng, có ý nghĩa trong việc xác định có tội hay không có tội. - Đối với tình tiết đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản: Theo hướng dẫn của thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC- BCA-BTP quy định như sau: Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nếu trước đó đã bị kết án về một trong các tội quy định tại các điều: Từ Điều 133 (Tội cướp tài sản) đến Điều 140 (Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản), Điều 278 (Tội tham ô tài sản) và Điều 280 (Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản) BLHS năm 1999. So sánh với quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 thì điều luật cũng quy định chỉ xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn triệu đồng
  • 41. 41 trở lên. Tuy nhiên, đối với tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng thì những điều kiện kèm theo đã có sự thay đổi. Điều luật quy định: “hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy 42 định tại điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về tinh thần đối với người bị hại”. Như vậy, Điều 175 đã bỏ trường hợp bị xử phạt hành chính hoặc bị kết án về hành vi tham ô tài sản (Điều 353 BLHS năm 2015) và lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 355). Đối với trường hợp này nếu tiếp tục lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản dưới 4 triệu đồng sẽ không coi là tội phạm. Ngoài ra, điều luật bỏ điều kiện gây hậu quả nghiêm trọng và bổ sung thêm điều kiện hai điều kiện là: Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về tinh thần đối với người bị hại. 2.1.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm; các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội. Nếu hành vi khách quan là nội dung biểu hiện thứ nhất và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là yếu tố thứ hai thì nội dung biểu hiện thứ ba của mặt khách quan của tội phạm chính là mối quan hệ nhân quả của hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất nghĩa là trong mặt khách quan của tội phạm phải xác định và làm
  • 42. 42 rõ được các yếu tố như hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Điều 140 đã đưa vấn đề định lượng để xác định mức độ hậu quả xảy ra và phản ánh mức độ nguy hiểm được coi là tội phạm, đồng thời tội phạm hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản từ 4 triệu đồng trở lên hoặc dưới 4 triệu đồng mà kèm theo một trong các điều kiện như gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội như địa điểm, thời gian, công 43 cụ, phương tiện phạm tội… không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của CTTP này. 2.1.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Tội phạm được thể hiện ra bên ngoài bằng hành vi của con người. Do đó, chủ thể của tội phạm là con người cụ thể thực hiện hành vi phạm tội. Theo luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể hay “Là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể, chủ thể còn phải có một số dấu hiệu
  • 43. 43 bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định”13 . Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, chỉ cần có đủ hai dấu hiệu: Người đó có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định chịu TNHS, không thuộc tình trạng không có năng lực TNHS quy định tại Điều 13 BLHS. Ở nước ta căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực. Điều 12 BLHS 1999 quy định: 1. Người nào từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người nào từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội được quy định tại Điều 140 BLHS. Người phạm tội từ 13 Lê Cảm (2005), Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (phần chung), NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, Tr 343-344 44 đủ 14 tuổi đến dưới16 tuổi không phải chịu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 140 BLHS. Nếu thực hiện hành vi phạm tội quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 140 BLHS thì phải chịu TNHS. Quy định của pháp luật hình sự như vậy, nhưng thực tiễn đấu tranh,
  • 44. 44 phòng chống tội phạm này trong thời gian qua, tác giả chưa gặp vụ án nào mà chủ thể có độ tuổi từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Chính vì vậy, đến nay BLHS năm 2015 quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 như sau: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây: "a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);...". Như vậy, người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi hành vi phạm tội được quy định tại Điều 175 BLHS, còn người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội phạm này. Ngoài ra, khi xem xét chủ thể của tội phạm này cũng cần phải chú ý tới nhân thân của người phạm tội đó là tổng hợp những đặc điểm
  • 45. 45 riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề TNHS của họ, đó là các yếu tố như nghề nghiệp, tuổi, giới 45 tính, trình độ văn hoá, nhận thức chính trị... Qua việc nghiên cứu nhân thân của người phạm tội các cơ quan điều tra, truy tố và xét xử có thể làm sáng tỏ một số tình tiết về các yếu tố CTTP như lỗi, mục đích, động cơ của người phạm tội. 2.1.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Mặt chủ quan của tội phạm, bao gồm: Lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả các CTTP. Lỗi là dấu hiệu không thể thiếu được của bất cứ CTTP nào. Mục đích và động cơ phạm tội tuy cũng là những dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm nhưng không phải luôn là dấu hiệu bắt buộc của mọi CTTP. Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lỗi của người phạm tội luôn là lỗi cố ý trực tiếp khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Về mặt lý trí người phạm tội nhận thức rõ về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của mình là nguy hiểm cho xã hội (nhận thức được tính chất gây thiệt hại cho xã hội của hành vi, là chiếm đoạt tài
  • 46. 46 sản của người khác). Về mặt ý chí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh, nghĩa là hậu quả của hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mà người phạm tội thấy trước hoàn toàn phù hợp với mục đích là chiếm đoạt được tài sản của người khác. Người phạm tội biết tài sản mà mình chiếm đoạt là của người khác, không phải là tài sản của mình nhưng vẫn muốn biến tài sản đó thành tài sản của mình. Việc xác định lỗi trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, điều cần chú ý là: Ban đầu, khi nhận được tài sản theo hợp đồng, người 46 phạm tội mong muốn thực hiện hợp đồng đó. Chỉ sau khi đã giao kết hợp đồng và nhận được tài sản đó, người phạm tội mới nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản và có hành vi chiếm đoạt. Vì vậy, ta chỉ xét đến lỗi của họ tại thời điểm thực hiện hành vi chiếm đoạt chứ không phải tại thời điểm nhận tài sản. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, động cơ vì vụ lợi và mục đích phạm tội là nội dung mặt chủ quan của tội phạm. Điều 175 BLHS năm 2015 quy định lỗi của tội phạm này cũng là lỗi cố ý trực tiếp như Điều 140 BLHS năm 1999. Tóm lại, các dấu hiệu pháp lý của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng là cơ sở pháp lý để truy cứu TNHS và để định tội danh. Vì vậy, các cơ quan tiến hành tố
  • 47. 47 tụng phải nắm rõ được các dấu hiệu trên, phải đánh giá chúng một cách khách quan, toàn diện, lôgic, biện chứng trong quá trình xử lý tội phạm. Đồng thời các dấu hiệu phản ánh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản còn là cơ sở phân biệt với một số tội phạm khác. Qua đó, khắc phục hiện tượng sai lầm trong việc định tội danh, hiện tượng “hình sự hoá”, các quan hệ kinh tế, dân sự, để từ đó có cách xử lý phù hợp, tránh xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm, đảm bảo tính pháp chế XHCN. 2.2. Hình phạt đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Điều 26 BLHS 1999 quy định "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định". Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định gồm bốn khung hình phạt: Khung cơ bản và các khung tăng nặng TNHS, ngoài ra còn quy định hình phạt bổ sung. 47 2.2.1. Khung cơ bản đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Người phạm tội tại khoản 1 có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm. Khung hình phạt này được áp dụng đối với trường hợp phạm tội thông thường, không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt, áp dụng với các hành vi khi chiếm đoạt tài sản trị giá từ bốn triệu đồng
  • 48. 48 đến dưới năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, khung hình phạt này cũng được áp dụng đối với trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu TNHS theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu TNHS (gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử phạt hành chính; nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu TNHS theo quy định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm phạm. Đây là những trường hợp: Các hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian do điều kiện, hoàn cảnh khách quan nên việc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản phải được thực hiện nhiều lần cho nên giá trị tài sản bị xâm phạm mỗi lần dưới 4 triệu đồng. Tuy nhiên, khi đã áp dụng tình tiết này thì không được áp dụng tình tiết tăng nặng TNHS “phạm tội nhiều lần”quy định tại điểm g, khoản 1 Điều 48 BLHS. 48
  • 49. 49 Theo Điều 175 BLHS năm 2015 thì khung cơ bản của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đã có sự thay đổi về mức hình phạt tù là 06 tháng đến 03 năm tù (Điều 140 BLHS năm 1999 hình phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm). 2.2.2. Khung tăng nặng thứ nhất đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm nếu có thực hiệc hành vi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 140 BLHS: 2.2.2.1 Phạm tội có tổ chức Theo Điều 20 BLHS: “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có tổ chức cũng có những đặc điểm riêng như người thực hành trong vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người trực tiếp thực hiện hành vi, những thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có tính chất nguy hiểm cao cho xã hội, những người phạm tội có tổ chức
  • 50. 50 trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thường gây ra những thiệt hại rất lớn về tài sản, vì vậy phải xử lý thật nghiêm khắc. Ví dụ: Doanh nghiệp M chuyên sản xuất rượu. A là giám đốc của công ty vận tải X, ký kết hợp đồng vận chuyển lâu dài với doanh nghiệp M. A bàn bạc với ông K làm một số rượu giả để đánh tráo số rượu thật của của doanh nghiệp M khi vận chuyển đến các đại lý. A 49 giao cho B và C mỗi khi vận chuyển đều ghé qua nhà ông K để đánh tráo số rượu thật, mỗi lần đánh tráo 05 thùng. Từ năm 2012 đến năm 2014 khi vụ việc bị phát hiện A, B, C đã chiếm đoạt của doanh nghiệp M gần 100 triệu đồng. 2.2.2.2 . Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức. Tương tự như các trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức để phạm tội, người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức có được lòng tin thực sự đối với chủ sở hữu tài sản, qua đó mới ký kết được hợp đồng, vì lý do nào đó không thực hiện được hợp đồng và đã chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Ví dụ: A là chủ nhiệm của một hợp tác xã, nhân danh hợp tác xã vay 150 triệu đồng của ngân hàng để sản xuất nhưng thực chất là vay tiền cho cá nhân mình để kinh doanh và cho người khác vay với lãi xuất
  • 51. 51 cao hơn. Nhưng do làm ăn thua lỗ nên đã mất khả năng chi trả cho ngân hàng. A bị truy cứu TNHS về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với tình tiết lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức. 2.2.2.3 Dùng thủ đoạn xảo quyệt Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã có những mánh khoé, cách thức để che giấu hành vi chiếm đoạt làm cho người bị hại và những người khác khó lường trước để đề phòng hoặc gây khó khăn khi điều tra phát hiện. Ví dụ: A ký kết hợp đồng nhận gia công cho một công ty nước ngoài, tổng số là 12 tỷ đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng A đã nảy sinh chiếm đoạt tài sản nên đã đem bán hết số hàng hóa rồi cố ý tạo ra hỏa hoạn để trốn tránh trách nhiệm hoàn trả lại tài sản. 50 Cũng có trường hợp người phạm tội có thể sử dụng thủ đoạn gian dối có tính tinh vi xảo quyệt nhưng chỉ nhằm ký kết hợp đồng để vay tiền ngân hàng người phạm tội không có ý định chiếm đoạt. Như vậy, sẽ không coi tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt là tình tiết định khung tăng nặng. Bởi bản chất của tình tiết này là dùng thủ đoạn xảo quyệt để lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong khi trường hợp này người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt. 2.2.2.4. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng Đây là trường hợp định lượng tuyệt đối, trước đây khi chưa ban
  • 52. 52 hành BLHS 1999 thì giá trị tài sản bị thiệt hại được quy ra gạo hoặc các vật tư hàng hoá thiết yếu khác như xăng, dầu, đường… điều này gây khó khăn rất nhiều cho việc xác định giá trị tài sản vì điều kiện kinh tế ở mỗi vùng miền là khác nhau. Nay việc xác định giá trị tài sản sẽ căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, trong các trường hợp cơ quan tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải yêu cầu hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự. 2.2.2.5. Tái phạm nguy hiểm Đây là tình tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội. Theo quy định tại khoản 2, Điều 49 BLHS, tái phạm nguy hiểm là: “…a. Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do cố ý. b. Đã tái phạm chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý”. Quy định tái phạm nguy hiểm là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là phù hợp với tư tưởng đấu tranh phòng ngừa xu hướng phạm tội chuyên nghiệp. Kẻ phạm tội khi đã bị kết án tức là đã biết rõ sự lên án nghiêm khắc của Nhà nước và xã hội đối với hành vi phạm pháp, kẻ phạm tội đã chấp hành hình phạt, đã được giáo dục cải tạo qua lao động mà lại tiếp tục phạm tội điều đó chứng tỏ rằng ý thức phạm tội 51 rất sâu sắc, coi thường pháp luật, tính nguy hiểm cho xã hội cao, rất khó cải tạo và phải nghiêm khắc trừng trị.