bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
Đề tài: Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU TRANG
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2015
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU TRANG
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
THEO PHÁP LUẬT CỦA MỘT SỐ NƯỚC
TRÊN THẾ GIỚI
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Xuân Nhự
Hà Nội – 2015
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ THU TRANG
4. MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
5
1.1. Khái niệm ngân hàng nước ngoài và địa vị pháp lý của ngân hàng
nước ngoài
5
1.1.1. Khái niệm ngân hàng nước ngoài và ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài 5
1.1.2. Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài 10
1.2. Cơ sở pháp lý xây dựng địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài 14
1.2.1. Các nguyên tắc thương mại quốc tế 15
1.2.1.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử 15
1.2.1.2. Nguyên tắc tự do hóa thương mại (mở cửa thị trường) 17
1.2.1.3. Nguyên tắc minh bạch hóa 18
1.2.1.4. Nguyên tắc khác 18
1.2.2. Sự tham gia của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về lĩnh vực tài
chính ngân hàng
19
CHƯƠNG 2: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI
23
2.1. Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật của Trung Quốc 23
2.1.1. Khái quát quá trình cải cách hệ ngân hàng tại Trung Quốc 23
2.1.2. Một số quy định về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài ở
Trung Quốc
25
2.1.3. Một số cam kết hội nhập của Trung Quốc trong lĩnh vực ngân hàng 32
2.1.4. Một số thuận lợi và thách thức của ngân hàng Trung Quốc sau khi
mở cửa hoàn toàn
37
2.2. Địa vị pháp lý của Ngân hàng nước ngoài theo pháp luật Mỹ 38
2.2.1. Tổng quan về pháp luật điều chỉnh ngân hàng Mỹ 39
5. 2.2.2. Một số quy định về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo
pháp luật Mỹ
41
2.3. Pháp luật Việt Nam về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài 46
2.3.1. Nguồn điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng nước ngoài 46
2.3.2. Quy định pháp luật về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài ở
Việt Nam
47
2.3.2.1. Hình thức hiện diện thương mại 47
2.3.2.2. Điều kiện cấp giấy phép và hoạt động 50
2.3.2.3. Trình tự thủ tục cấp phép thành lập, hoạt động đối với ngân hàng
nước ngoài
56
2.3.2.4. Điều kiện hoạt động 58
2.3.2.5. Chấm dứt hoạt động, giải thể 60
2.3.2.6. Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại Việt Nam 61
2.3.3. Những cam kết của Việt Nam về lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân
hàng theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
62
2.3.3.1. Các chế độ đối xử theo Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ (BTA)
62
2.3.3.2. Các cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính ngân hàng theo Hiệp
định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
65
2.3.4. Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GATS) của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO)
70
2.3.4.1. Cam kết cụ thể của Việt Nam với WTO về lĩnh vực Ngân hàng 71
2.3.4.2. Cam kết về chính sách thương mại dịch vụ liên quan đến ngân hàng 74
2.3.4.3. Nghĩa vụ và quyền lợi của các ngân hàng sau khi Việt Nam gia
nhập WTO
75
2.3.5. Đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và thách thức khi
Việt Nam tham gia TPP
77
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
79
3.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 79
3.2. Định hướng về pháp luật ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 80
6. 3.3. Giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam
84
3.3.1. Về cấp phép thành lập và hoạt động 84
3.3.2. Về hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 85
3.3.3. Quy định về mua bán, sáp nhập ngân hàng 86
3.3.4. Hoàn thiện các quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng tại
Việt Nam
87
3.3.5. Giám sát hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam 87
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
PHỤ LỤC SỐ 01 98
PHỤ LỤC SỐ 02 99
7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TỪ TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
AFTA ASEAN Free Trade Area Hiệp định khung về thành lập và
phát triển khu vực mậu dịch tự do
Đông Nam Á
BCC Business Cooperation Contract Hợp đồng hợp tác kinh doanh
BOT Build Operate Transfer Hợp đồng xây dựng - kinh doanh -
chuyển giao
BT Build Transfer Hợp đồng xây dựng - chuyển giao
BTA US-VietNam Bilateral Trade
Agreement
Hiệp định thương mại Việt Nam –
Hoa Kỳ
FED Federal Reserve System Ngân hàng Dự trữ liên bang Mỹ
GATS Genaral Agreement on Trade in
Services
Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ
GATT Genaral Agreement of Tariffs and
Trade
Hiệp định chung về thuế quan và
mậu dịch
IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ quốc tế
OCC Office of the Comptroller of
Currency
Văn phòng Kiểm soát tiền tệ, một
cơ quan thuộc Bộ Tài chính Mỹ
OPEC Organization of Petroleum
Exporting Countries
Tổ chức các nước xuất khẩu dầu
lửa
OECD Organization for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế
WB World bank Ngân hàng thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại Thế giới
8. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thực tế kinh nghiệm quốc tế cho thấy hệ thống tài chính – ngân hàng cạnh
tranh và mở cửa là hệ thống hỗ trợ hiệu quả cho phát triển và tăng trưởng kinh tế. Do
vậy, các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng đều mong muốn hội
nhập quốc tế, phát triển và cải cách hệ thống ngân hàng nhằm tạo ra một môi trường
kinh doanh tốt và một nền kinh tế phát triển. Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân
hàng được thể hiện thông qua: Mức độ sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng trong
nước; thị phần dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng nước ngoài…Sự hiện diện của
các ngân hàng nước ngoài có vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính của quốc gia
bởi các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, là kênh truyền dẫn công
nghệ ngân hàng hiện đại, có kinh nghiệm quản trị tiên tiến và bổ sung nguồn tài chính
không nhỏ cho thị trường tài chính
Trong xu hướng toàn cầu hóa, việc các ngân hàng nước ngoài phát triển mạng
lưới hoạt động của mình tại các quốc gia sở tại thông qua việc thành lập các văn phòng
đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, liên doanh với các ngân hàng của các quốc
gia sở tại hay việc thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại các quốc gia sở
tại để mở rộng thị trường, nâng cao cạnh tranh là xu hướng tất yếu. Để xây dựng một
nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng hội nhập và bền mạnh,
một trong những vấn đề đặt ra là các quốc gia cần có một môi trường pháp lý lành
mạnh, rõ ràng đảm bảo khuôn khổ pháp lý cho hoạt các ngân hàng trong nước cũng
như các ngân hàng nước ngoài phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội, đồng thời cũng
phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia đó (song phương, đa phương) đã
ký kết, gia nhập và thông thệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng.
Cùng với xu hướng hội nhập, Việt Nam đã tham gia ký kết một số hiệp định về
thương mại dịch vụ (bao gồm cả lĩnh vực tài chính ngân hàng) như: Hiệp định thương
mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 13/7/2000, Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ
(GATS), Hiệp định khung về thiết lập khu vực đầu tư ASEAN (AIA – năm 1988),
Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ… và đang trong quá trình tham gia đàm phán
9. 2
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic
Parnership Agreement - viết tắt TPP); Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-châu Âu
(EVFTA) ….
Hiện nay, sự hiện diện và hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
ngày càng gia tăng (tính đến năm 2011, có 5 ngân hàng thương mại liên doanh, 5 ngân
hàng thương mại 100% vốn nước ngoài và 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt
động tại Việt Nam – Theo Phụ lục số 01). Nhằm đáp ứng các cam kết quốc tế của Việt
Nam trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng, Nhà nước cũng đã ban hành một số
các văn bản điều chỉnh hoạt động của các loại hình ngân hàng này. Tuy nhiên, ở nước
ta, pháp luật quốc gia điều chỉnh về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài chưa
thực sự hoàn thiện. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và có hệ thống pháp luật
điều chỉnh về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật một số nước trên
thế giới và pháp luật Việt Nam, từ đó góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về ngân
hàng ở Việt Nam, thúc đẩy phát triển thị trường tài chính tiền tệ và phát triển hợp tác
quốc tế là rất quan trọng.
Xuất phát từ thực tế đó, đề tài “Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo
pháp luật của một số nước trên thế giới” đã được tác giả lựa chọn làm đề tài nghiên
cứu luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, quy định về hoạt động của
các ngân hàng nước ngoài là nội dung quan trong được điều chỉnh trong các văn bản
pháp luật như: Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; Luật đầu tư 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành; Luật thương mại 2005; Luât doanh nghiệp 2005; Nghị định số
22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 của Chính Phủ về tổ chức và hoạt động của chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn
phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; Thông tư số 40/2011/TT-
NHNN ngày 15/12/2011 của Ngân hàng nhà nước về việc cấp giấy phép tổ chức và
hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại
diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân
hàng tại Việt Nam; Thông tư số 34/2011/TT-NHNN ngày 28/10/2011 về trình tự, thủ
10. 3
tục thu hồi giấy phép và thanh lý tài sản của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, trình tự, thủ tục thu hồi giấy phép văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng
nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam; Thông tư
số 44/2011/TT-NHNN ngày 29/12/2011 Quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và
kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư số
04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 cuả Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định
việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại tổ chức tín dụng; Thông tư 05/2013/TT-BTC của
Bộ Tài chính về việc hướng dẫn chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; Thông tư 21/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam hướng dẫn về phạm vi hoạt động ngoại hối, điều kiện, trình tự, thủ tục chấp thuận
hoạt động ngoại hối của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; Thông tư
19/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn về quản lý ngoại
hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam …
Trên một số tạp chí và website các tác giả cũng đã đề cầp đến vấn đề liên quan
đến hoạt động của ngân hàng nước ngoài như: “Hoạt động của ngân hàng nước ngoài
tại Việt Nam” của tác giả Văn Thanh đăng trên Cổng thông tin điện tử Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam ngày 23/12/2009; “Sân chơi nào cho các ngân hàng thương mại Việt
Nam trong hội nhập” của tác giả ThS. Trịnh Thanh Huyền đăng trên cổng thông tin
điện tử của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam; “Hội nhập và mở
cửa trong lĩnh vực ngân hàng” của tác giả Nguyệt Anh đăng trên cổng thông tin điện
tử của Ngân hàng nhà nước Việt Nam; “Năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương
mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Thanh
Phong được đăng tải trên trang thongtinphapluatdansu.edu.vn ngày 10/4/2010; “Ngân
hàng nước ngoài tại Việt Nam: Âm thầm, quyết liệt cạnh tranh” của tác giả Trường
Giang được đăng tin trên cổng tin báo lao động;…
Tuy nhiên, các bài viết trên đây chỉ mang tíng chất phản ánh sự việc, bước đầu
phân tích, bình luận một số vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt của ngân hàng nước
ngoài trong bối cảnh nền kinh tế, thị trường tài chính – tiền tệ của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay. Các bài viết nhìn chung chỉ dừng lại ở việc đề cập thông tin cơ bản về
việc ngân hàng nước ngoài đầu tư hoạt động tại Việt Nam mà chưa có một bài viết nào
11. 4
đi sâu vào vấn đề pháp luật về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật
một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam.
Như vậy, theo hiểu biết của cá nhân tác giả, ở nước ta chưa có một công trình
nghiên cứu nào viết hệ thống và chuyên sâu về địa vị pháp lý của ngân hàng ngân hàng
nước ngoài theo pháp luật một số nước trên thế giới và theo pháp luật Việt Nam theo
cách tiếp cận của Luật Quốc tế. Do đó, tác giả đã chọn đề tài này để nghiên cứu và bảo
vệ Luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là tìm hiểu cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của ngân hàng
nước ngoài cũng như quy định pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt
Nam về loại hình ngân hàng này, từ đó góp phần đề ra phương hướng hoàn thiện pháp
luật Việt Nam nhằm tạo ra một môi trường pháp lý đầy đủ, rõ ràng cho các ngân hàng
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cũng góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác
kinh tế Việt Nam với các nước trên thế giới.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau
đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và quy định pháp luật một số nước trên thế giới về
địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về địa vị pháp
lý ngân hàng nước ngoài.
- Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp có tính khả thi, các kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định pháp lý điều chỉnh địa vị pháp lý của các ngân hàng nước ngoài ở Việt
Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Là một đề tài thuộc chuyên ngành luật quốc tế, tác giả nghiên cứu một số vấn
đề mang tính lý luận về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài (hình thức đầu tư,
hiện diện thương mại của ngân hàng nước ngoài tại nước sở tại; điều kiện cấp phép
12. 5
thành hoạt động; các hoạt động, dịch vụ cung cấp; chấm dứt hoạt động…). Trọng tâm
những vấn đề được nêu ra trong luận văn được tiếp cận thông qua việc phân tích tổng
hợp các quy định pháp luật một số nước trên trên thế giới, pháp luật Việt Nam và các
cam kết quốc tế (song phương, đa phương) mà Việt Nam đã tham gia có liên quan đến
hoạt động của ngân hàng nước ngoài; đồng thời đánh giá thực trạng pháp luật Việt
Nam nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, kiến nghị hoàn thiện các quy
định của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng nói chung và quy
định về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên những cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng một số phương
pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích, quy nạp, diễn giải, so sánh, tổng hợp… để
đưa ra nhận xét đánh giá vấn đề một cách đầy đủ nhất.
6. Ý nghĩa và những đóng góp của đề tài
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của ngân hàng nước
ngoài theo pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam.
Hai là, đánh giá quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam, pháp luật một số
nước trên thế giới về đia vị pháp luật của ngân hàng nước ngoài.
Ba là, luận văn đã bước đầu đề xuất những phương hướng và giải pháp, góp
phần hoàn thiện cơ sở pháp lý về địa vị pháp lý của các ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn được
cấu trúc gồm ba chương với nội dung như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài.
Chương 2: Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật một số nước
trên thế giới.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt
Nam về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài.
13. 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
1.1 Khái niệm ngân hàng nước ngoài và địa vị pháp lý của ngân hàng nước
ngoài
1.1.1. Khái niệm ngân hàng nước ngoài và ngân hàng có vốn đầu tư nước
ngoài
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng
sâu rộng về nội dung và quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong điều kiện nền kinh tế mở,
mỗi quốc gia không chỉ có ngân hàng nước sở tại mà còn tồn tại nhiều ngân hàng có
vốn nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài xâm nhập vào thị trường tài chính thông
qua nhiều hình thức đầu tư như: góp vốn liên doanh với ngân hàng trong nước, mua cổ
phẩn của ngân hàng trong nước và tham gia trực tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp
trong nước, mua cổ phần ngân hàng trong nước nhưng không tham gia hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, mở chi nhánh,
văn phòng đại diện của mình tại nước sở tại,...
Trên thế giới, sự ra đời và phát triển của các loại hình ngân hàng gắn liền với sự
phát triển của nền kinh tế thế giới. Từ những năm 1990, nhiều quốc gia trên thế giới đã
mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường ngân hàng của họ dưới
hình thức ngân hàng con, trong việc đáp ứng nhu cầu hệ thống tài chính và nâng cao
hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng. Theo thời gian, sự hiện diện của ngân hàng
nước ngoài ở các quốc gia sở tại ngày càng gia tăng trên thế giới, đặc biệt ở các nước
Đông Âu. Đây là kết quả của xu hướng toàn cầu hóa và tự do tài chính. Ở Nga, cơ
quan điều hành cho phép sự đầu tư vốn nước ngoài trực tiếp hoặc gián tiếp vào lĩnh
vực ngân hàng từ những năm 1990, đến cuối năm 2000 đã có 22 ngân hàng ở Nga có
100% vốn nước ngoài bên cạnh 31 ngân hàng có vốn nước ngoài và hơn 150 ngân
hàng có tỷ lệ vốn nước ngoài nhất định [52,206].
Đến cuối năm 2007, có 205 ngân hàng từ 59 quốc gia hoạt động ở Hoa Kỳ dưới
hình thức văn phòng đại diện, đại lý, chi nhánh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài
[55]. Ở Trung Quốc, với việc gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, nước này đã thực
14. 7
hiện tự do hóa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng trong thời hạn 05 năm theo cam kết, vì
vậy, Trung Quốc đã thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Đến năm 2008, có 20 ngân hàng nước ngoài nhận được giấy phép thành lập ngân hàng
con ở Trung Quốc và có số này có thể tăng lên 50 ngân hàng vào năm 2011[53]. Ở
Việt Nam, đến năm 2011 đã có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, cùng với 5 ngân
hàng thương mại Liên doanh và 48 chi nhánh ngân hàng nước ngoài được cấp phép và
hoạt động tại Việt Nam [48].
Như vậy, có thể thấy, hoạt động đầu tư của ngân hàng nước ngoài ở các quốc
gia sở tại ra đời và không ngừng gia tăng ở các nước trên thế giới và ở Việt Nam. Sự
hiện diện và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài tại nước sở tại phản ánh trình độ
phát triển của nền kinh tế quốc gia cũng như nền kinh tế thế giới.
Theo Luật ngân hàng có vốn nước ngoài của Trung Quốc thì ngân hàng nước
ngoài (foreign bank) là ngân hàng thương mại đã được đăng ký thành lập bên ngoài
lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và được sự chấp thuận hoặc cấp phép
của cơ quan giám sát tài chính của đất nước mình hoặc khu vực. Ngân hàng có vốn
nước ngoài (foreign-funded bank) được hiểu là bất kỳ tổ chức nào dưới đây được chấp
thuận để thành lập trong lãnh thổ nước Công hòa dân chủ nhân dân Trung Quốc, phù
hợp với quy định của pháp luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc:
1. Ngân hàng có toàn bộ vốn nước ngoài được làm chủ bởi ngân hàng nước ngoài
hoặc có sự liên doanh với bất kỳ một tổ chức tài chính nước ngoài khác;
2. Ngân hàng liên doanh Trung Quốc – nước ngoài, với vốn có sự liên doanh
giữa một tổ chức tài chính trong nước với một công ty Trung Quốc;
3. Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài [57].
Theo quy định của pháp luật Mỹ, ngân hàng nước ngoài là tổ chức được tổ chức
theo pháp luật của quốc gia nước ngoài và có sự tham gia trực tiếp trong việc kinh
doanh của ngân hàng bên ngoài nước Mỹ. Theo đó, các ngân hàng nước ngoài có thể
thực hiện đầu tư vào Mỹ và thực hiện hoạt động ngân hàng tại Mỹ dưới hình thức văn
phòng đại diện, chi nhánh, đại lý, ngân hàng con [55,1].
Ở Việt Nam, năm 1990, cơ chế đổi mới ngân hàng được thực hiện thông qua
việc công bố hai Pháp lệnh ngân hàng vào ngày 24/05/1990 (Pháp lệnh ngân hàng Nhà
15. 8
nước Việt Nam và Pháp lệnh ngân hàng hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã
chính thức chuyển cơ chế hoạt đồng của ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp.
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã đánh dấu sự ra đời và phát triền từ năm
1990. Đến nay, để thực hiện các cam kết quốc tế, Việt Nam từng bước mở cửa dịch vụ
ngân hàng, nhằm hướng đến xây dựng hệ thống ngân hàng cạnh tranh bình đẳng trên
bình diện quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù hợp và thống nhất.
Không nằm ngoài xu thế chung của thế giới, các ngân hàng nước ngoài hoạt
động sôi nổi ở Việt Nam với nhiều hình thức hiện diện thương mại. Các ngân hàng
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam luôn là một bộ phận quan trọng trong hệ thống
Ngân hàng Việt Nam.
Theo Nghị định 22/2006/NĐ-CP ngày 28 tháng 02 năm 2006 về tổ chức và hoạt
động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100%
vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam: “Ngân
hàng nước ngoài” là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài, có hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là hoạt động ngân hàng. Theo đó:
1. Ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam dưới các hình thức
tổ chức sau đây:
a)Chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
b)Ngân hàng liên doanh;
c) Ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
2. Tổ chức tín dụng nước ngoài thực hiện việc góp vốn, mua cổ phần của tổ
chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Khác với hình thức ngân hàng khác, ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài có
những đặc điểm riêng mang tính chất riêng biệt ở chỗ nó là doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài theo quy định của Luật đầu tư, vì vậy nó không chỉ chịu sự điều chỉnh
của pháp luật ngân hàng mà còn chị sự điều chỉnh của pháp luật về đầu tư, pháp luật
về doanh nghiệp.
16. 9
Theo quy định của Luật đầu tư, doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
(bao gồm cả lĩnh vực ngân hàng) thông qua hình thức đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp:
- Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia
quản lý hoạt động đầu tư;
- Đầu tư gián tiếp: là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế
tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư.
Điều 21 Luật đầu tư 2005 quy định các hình thức đầu tư trực tiếp gồm:
1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của
nhà đầu tư nước ngoài;
2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài;
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, Hợp đồng BOT, Hợp đồng BT;
4. Đầu tư phát triển kinh doanh;
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư;
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp;
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Theo Điều 26 Luật Đầu tư 2005 thì các hình thức đầu tư gián tiếp bao gồm:
1. Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau
đây:
a) Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
b) Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
c) Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
2. Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy
định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
17. 10
Theo điểm b khoản 1 Điều 22 Luật Đầu tư thì nhà đầu tư nước ngoài được đầu
tư trực tiếp để thành lập tổ chức tín dụng (bao gồm các ngân hàng) tại Việt Nam nếu
đáp ứng đầy đủ các điều kiện, quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy theo quy định của pháp luật Việt Nam, địa vị pháp lý của
ngân hàng nước ngoài chủ yếu sẽ thực hiện thông qua việc thành lập ngân hàng liên
doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam hay hoạt động góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam.
1.1.2. Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài
Theo thực tiễn quốc tế, pháp nhân được thành lập theo quy định của một nước
nhất định. Nói cách khác, việc công nhận một tổ chức có tư cách pháp nhân phải dựa
trên cơ sở của một nước nhất định. Thông thường một tổ chức được công nhận có tư
cách pháp nhân ở nước nó được thành lập cũng được công nhận có tư cách pháp nhân
ở nước khác. Pháp nhân mang quốc tịch của một nước nhất định và được tổ chức và
hoạt động theo pháp luật của nước đó. Nói cách khác, năng lực pháp luật dân sự, điều
kiện và thủ tục thành lập, hợp nhất, chia, tách, giải thể pháp nhân, thanh lý tài sản khi
giải thể pháp nhân ...do pháp luật của nước pháp nhân mang quốc tịch. Khi hoạt động
với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở một nước nào đó, năng lực pháp luật dân sự của
pháp nhân trên lãnh thổ nước sở tại lại tùy thuộc vào quy định của pháp luật nước sở
tại. Tuy nhiên, những vấn đề về tổ chức, giải thể, thanh lý tài sản khi giải thể vẫn theo
quy định của pháp luật nước pháp nhân mang quốc tịch. Như vậy, đặc điểm quy chế
pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài thể hiện trước hết ở chỗ cùng một lúc pháp
nhân nước ngoài phải tuân thủ hai hệ thống pháp luật là pháp luật của nước mà pháp
nhân mang quốc tích và pháp luật của nước pháp nhân đang hoạt động. Ngoài ra, đặc
điểm quy chế pháp lý dân sự của pháp nhân nước ngoài còn thể hiện ở chỗ nếu các
quyền lợi và nghĩa vụ trên lãnh thổ nước sở tại bị xâm phạm thì pháp nhân đó được
Nhà nước của mình bảo hộ về mặt ngoại giao.
Ngân hàng nước ngoài ngoài được hiểu pháp nhân nước nước ngoài, ngân hàng
mang quốc tịch nước ngoài, được thành lập, tổ chức và hoạt động theo pháp luật của
nước đó. Theo định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ pháp lý, địa vị pháp lý là: "Tổng
hợp các quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho một chủ thể pháp luật, tạo cho
18. 11
chủ thể đó có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Do đó, địa vị
pháp lý của Ngân hàng nước ngoài được xác định là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
pháp lý mà pháp luật nước nguyên xứ và pháp luật nước sở nơi ngân hàng nước ngoài
hoạt động quy định cho chủ thể này trong việc tổ chức, hoạt động và thực hiện đầu tư
ở nước ngoài. Ngoài việc tuân thủ hai hệ thống pháp luật là pháp luật của nước ngân
hàng nước ngoài mang quốc tịch và pháp luật của nước nơi ngân hàng nước ngoài
hoạt động, ngân hàng nước ngoài còn phải tuân thủ các điều ước quốc tế (song phương
và đa phương) mà hai quốc gia đã ký kết hoặc là thành viên trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng.
Như đã phân tích ở trên, pháp luật một số nước trên thế giới và pháp luật Việt
Nam đều quy định ngân hàng nước ngoài là ngân hàng được đăng ký thành lập theo
quy định của pháp luật nước ngoài, theo đó, ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện quyền
và nghĩa vụ của mình qua việc xin cấp phép và thực hiện hoạt động của ngân hàng liên
doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước sở
tại.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Điều 7 Nghị định số 22/2006/NĐ-CP
về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại
Việt Nam và Điều 2 Thông tư số 40/2011/TT-NHNN ngày 15/12/2011 về việc cấp
giấy phép tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mai, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác
có hoạt động ngân hàng tại Việt Nam, các hình thức hiện diện của Ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam được định nghĩa như sau:
Ngân hàng liên doanh là ngân hàng được thành lập tại Việt Nam, bằng vốn góp
của Bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và Bên nước ngoài
(gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh, là pháp
nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. Ngân hàng liên doanh được thành lập
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nhưng không quá
năm thành viên trong đó một thành viên và người có liên quan không được sở hữu
vượt quá 50% vốn điều lệ.
19. 12
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là ngân hàng thương mại được thành lập tại
Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu của tổ chức tín dụng nước ngoài; là pháp
nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được
thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên có chủ
sở hữu là một ngân hàng nước ngoài hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên trong đó phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu 50% vốn điều lệ.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước
ngoài, không có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam, được ngân hàng nước
ngoài bảo đảm chịu trách nhiệm về mọi nghĩa vụ, cam kết của chi nhánh tại Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự 2005 thì một tổ chức được công nhận
là pháp nhân khi: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc
lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Ngân hàng liên doanh, ngân hàng
100% vốn nước ngoài cũng như các ngân hàng thương mại khác của Việt Nam là
doanh nghiệp thành lập tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam và có đầy đủ các tiêu
chí của một pháp nhân theo quy định của tại Điều 84 Bộ luật dân sự.
Ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài cũng như các ngân
hàng khác đều chịu điều chỉnh trực tiếp của pháp luật ngân hàng, chịu sự điều chỉnh
gián tiếp của Luật doanh nghiệp và chị sự điều chỉnh của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Với ngân hàng 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư đầu tư toàn bộ vốn và có
quyền tham gia quản lý doanh nghiệp do mình lập ra, chính nguồn vốn và tư cách pháp
lý của ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã tạo cho nó những đặc thù riêng so với ngân
hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài và ngân hàng liên doanh đều là
doanh nghiệp Việt Nam có tư cách pháp nhân, có trụ sở chính tại Việt Nam và được
thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Điểm khác giữa hai loại hình
ngân hàng này là ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài có 100% vốn điều lệ
thuộc sở hữu của doanh nghiệp nước ngoài trong khi đó ngân hàng liên doanh có sự
góp vốn của bên Việt Nam (một hoặc nhiều ngân hàng Việt Nam) và bên nước ngoài
(một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
20. 13
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài đều
có vốn sở hữu của ngân hàng nước ngoài, tuy nhiên địa vị pháp lý và phạm vi hoạt
động của hai hình thức này là khác nhau, cụ thể:
- Ngân hàng 100% vốn nước ngoài là pháp nhân Việt Nam, tuân thủ theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
- Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đơn vị phụ thuộc ngân hàng mẹ ở nước
ngoài (ngân hàng mẹ là ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ của ngân
hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hoặc có chi nhánh hoạt động tại
Việt Nam, theo khoản 2 Điều 7 Nghị đính số số 22/2006/NĐ-CP), không có tư cách
pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam vì thế hoạt động của nó phụ thuộc
vào hoạt động của ngân hàng mẹ, phù hợp với pháp luật của nước nguyên xứ (Nước
nguyên xứ đối với một tổ chức tín dụng nước ngoài là nước nơi tổ chức tín dụng nước
ngoài được thành lập, theo khoản 3 Điều 7 Nghị đính số số 22/2006/NĐ-CP), nó được
ngân hàng mẹ bảo đảm về việc chịu trách nhiệm đối với mọi nghĩa vụ và cam kết của
Chi nhánh tại Việt Nam.
Chính vì phụ thuộc vào ngân hàng mẹ nên hoạt động của Chi nhánh ít nhiều bị
hạn chế. Chi nhánh chỉ được thực hiện hoạt động nào mà ngân hàng mẹ thực hiện và
cho phép. Ở Mỹ, Chi nhánh không là thực thể pháp lý riêng biệt theo pháp luật Mỹ.
Nó là sự mở rộng hoạt động của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng mẹ). Một chi nhánh
có thể thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng. Đối với việc thành lập, ở Mỹ, việc
thành lập một chi nhánh ít tốn kém hơn thành lập một ngân hàng con riêng lẻ. Ngoài
ra, một chi nhánh ở đây có thể có những khoản vay lớn hơn một ngân hàng con bởi lẽ
giới hạn cho vay của nó dựa trên vốn của ngân hàng mẹ [55,25]
* Hoạt động của ngân hàng nước ngoài và sự tác động đối với sự phát triển
nguồn lực tài chính và nền kinh tế:
Việc cho phép các ngân hàng nước ngoài xâm nhậm và thực hiện hoạt động tại
nước sở tại có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nền tài chính, kinh tế quốc gia.
- Việc cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh, ngân hàng
100% vốn nước ngoài, liên doanh với ngân hàng trong nước giúp cho thị trường tài
21. 14
chính quốc gia tăng thêm thành viên, gia tăng yếu tố cạnh tranh, thúc đẩy thị trường tài
chính phát triển và tăng cường hợp tác quan hệ quốc tế.
- Sự hiện diện của các ngân hàng nước ngoài tại quốc gia sở tại sẽ làm gia tăng
nguồn vốn tài chính trong nước bởi các ngân hàng này không chỉ có vốn góp mà có thể
hoạt động như những người dẫn nguồn vốn nước ngoài bổ sung, giúp tạo sự ổn định
cho nguồn vay trong nước.
- Việc mở cửa thị trường tài chính trong nước, sự hiện diện và của các ngân
hàng nước ngoài thông qua hoạt động của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân
hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng tạo nên những thách thức
không nhỏ đối với thị trường tài chính trong nước. Sự có mặt của hiện diện mới sẽ làm
tăng rủi ro tác động từ thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt là ở những nước đang
phát triển...
Như vậy, có thể thấy sự hiện diện và hoạt động các ngân hàng nước ngoài tại
quốc gia sở tại có tác động không nhỏ đến hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính và
kinh tế của đất nước. Việc này đã có những tác động tích cực đồng thời cũng đặt ra
thách thức đối với các ngân hàng và nền kinh tế trong nước. Do đó, đòi hỏi các quốc
gia luôn luôn phải không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực ngân
hàng tạo điều kiện cho nền tài chính phát triển ổn định và phù hợp với xu hướng chung
trên toàn thế giới.
1.2. Cơ sở pháp lý xây dựng địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài
Sự xuất hiện và hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại các quốc gia sở tại là
sự tất yếu và khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá
trình chủ động gắn kết nền kinh tế thị trường của từng nước với nền kinh tế khu vực và
thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song
phương và đa phương. Như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là sự chủ động
tham vào quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa.
Để xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của ngân hàng nước ngoài phù
hợp với sân chơi chung và thông lệ quốc tế, các quốc gia trên thế giới và Việt Nam
phải dựa trên những nguyên tắc chung của thương mại quốc tế, các nguyên tắc chung
trong thương mại dịch vụ cũng như tuân thủ các cam kết quốc tế song phương và đa
22. 15
phương mà mình đã tham gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Đó là nguyên tắc bất
di bất dịch để các nước có thể đạt được mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và xây
dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với xu thế chung của cộng đồng thế giới
1.2.1. Các nguyên tắc thương mại quốc tế
Những nguyên tắc cơ bản trong thương mại quốc tế là những nguyên lý, tư
tưởng chủ đạo có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến các quy định về địa vị pháp lý
của thương nhân nước ngoài nói chung và đại vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài tại
Việt Nam nói riêng. Theo đó, các quy định về địa vị pháp lý ngân hàng nước ngoài
được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.2.1.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thiết lập trên cơ sở của hai nguyên tắc
hợp thành: nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) và nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT).
- Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Tối huệ quốc, viết tắt theo tiếng anh là MFN (Most favoured nation), là nguyên
tắc pháp lý quan trọng nhất trong thương mại quốc tế. Nguyên tắc MFN được hiểu là
nếu một quốc gia cho phép các thương nhân của một quốc gia khác được hưởng ưu đãi
thuế quan hay các ưu đãi khác đối với hàng hóa hay dịch vụ nào thì ngay lập tức và vô
điều kiện, quốc gia này cũng phải cho phép thương nhân của quốc gia khác hưởng ưu
đãi như thế đối với sản phẩm, dịch vụ tương tự.
Chế độ tối huệ quốc đưa lại các điều kiện và cơ hội như nhau cho pháp nhân
nước ngoài khi tiến hành các hoạt động kinh tế, thương mại trên lãnh thổ của nước sở
tại. Chế độ tối huệ quốc thể hiện mối liên hệ giữa các pháp nhân nước ngoài với nhau
trên lãnh thổ quốc gia nước sở tại. Khi thỏa thuận nguyên tắc tối huệ quốc, các quốc
gia cam kết không được phân biệt đối xử với các thương nhân giữa các nước và không
được đối xử đối với thương nhân của một nước kém ưu đãi hơn một nước khác trong
mọi vấn đề liên quan đến hoạt động thương mại.
Việc áp dụng chế độ tối huệ quốc không phải là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của
quốc gia nếu nó không được ghi nhận trong pháp luật quốc gia hoặc trong các điều ước
quốc tế mà quốc gia đó tham gia, ký kết. Pháp lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH của Ủy
23. 16
ban thường vụ Quốc hội ngày 25/2/2002 về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia
trong thương mại quốc tế quy định Việt Nam sẽ áp dụng một phần hoặc toàn bộ đối xử
tối huệ quốc và đối xử quốc gia khi:
- Pháp luật Việt Nam có quy định;
- Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định;
- Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng đối xử quốc gia và đối
xử tối huệ quốc đối với Việt Nam;
- Các trường hợp khác do Chính Phủ quyết định.
Trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc đối xử tối huệ quốc nói chung trong
thương mại quốc tế và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng cũng có những ngoại lệ, việc
áp dụng ngoại lệ về Đối xử tối huệ quốc nhà đầu tư của một nước phù hợp với pháp
luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập (Điều 12 Pháp
lệnh số 41/2002/PL-UBTVQH).
Theo pháp luật về đầu tư của Việt Nam (Điều 4 Luật Đầu tư 2005), Nhà đầu tư
được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ
và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà nước đối
xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế,
giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho hoạt động đầu tư; công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập
và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển
lâu dài của các hoạt động đầu tư; cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến
đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT)
Đãi ngộ quốc gia, viết tắt theo tiếng Anh là NT (National Treatment), nguyên
tắc đối xử quốc gia nhằm đảm bảo những sản phẩm nước ngoài và đôi khi là nhà cung
cấp những sản phẩm đó được đối xử trong thị trường nội địa không kém ưu đãi hơn
các sản phẩm nội địa hay các nhà cung cấp sản phẩm đó. Trong một số tài liệu cũ,
nguyên tắc này còn được gọi là “sự ngang bằng nội địa”.
24. 17
Thực tiễn quan hệ quốc tế và để bảo đảm quan hệ bình đẳng, các bên cùng có
lợi, chế độ đối xử tối huệ quốc và chế độ đối xử quốc gia là nội dung cốt lõi của tư
tưởng “không phân biệt đối xử” (Non – discriminatory) trong quan hệ thương mại
quốc tế, xuất phát từ sự bình đẳng và tự nguyện cam kết trên cơ sở chấp thuận hoàn
cảnh cụ thể của mỗi quốc gia. Nếu MFN được áp dụng để chống phân biệt đối xử trên
thị trường quốc tế thì NT được áp dụng để chống phân biệt trên thị trường quốc gia.
Trước GATT 1947, không có hiệp ước quốc tế đa phương nào quy định về NT,
sau khi được đưa và GATT, NT đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong các hiệp định
thương mại song phương và đa phương.
Trong tuyên bố của OECD năm 1976 về đầu tư quốc tế và các công ty đa quốc
gia đã đề cập đến nguyên tắc đối xử quốc gia. Văn kiện này đã thiết lập một tiêu chuẩn
quốc tế công nhận về sự đối xử nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử đối với các nhà đầu
tư nước ngoài trong thành viên OEDC (Organization for Economic Cooperation and
Development - là tên viết tắt của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, thành lập năm
1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp tác Kinh tế Châu Âu – OEEC, hoạt động của OECD tập
trung vào thảo luận và trao đổi giữa các nước về nghiên cứu và phân tích chính sách,
chú trọng vào các vấn đề về chính sách kinh tế, kinh tế và phát triển, tiền tệ và hối
đoái, chính sách môi trường, hóa chất, viện trợ phát triển, quản lý công, thương mại,
đầu tư quốc tế và công ty đa quốc gia, lưu chuyển vốn, bảo hiểm, thị trường tài chính,
ngân hàng….).
1.2.1.2. Nguyên tắc tự do hóa thương mại (mở cửa thị trường)
Theo nguyên tắc này, các thương nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật
được tiến hành các hoạt động thương mại trong các lĩnh vực, tại các địa bàn và với các
chủ thể mà pháp luật không cấm.
Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi phải không ngừng giảm bớt các rào cản
đối với hoạt động của ngân hàng nước ngoài tại quốc gia nước sở tại. Việc mở cửa thị
trường chỉ có thể đạt được thông qua các cam kết giữa các nước. Như vậy, nguyên tắc
này có tính bao trùm, thể hiện tính mục tiêu và tính chính trị. Hiện nay, việc mở cửa
thị trường, tham gia tích cực vào quá trình thương mại hóa toàn cầu nhìn chung đã
được các nước thừa nhận là khuynh hướng tất yếu.
25. 18
1.2.1.3. Nguyên tắc minh bạch hóa
Theo nguyên tăc này, mọi chính sách pháp luật về thương mại nói chung và
thương mại quốc tế nói riêng phải được công bố công khai, dễ tiếp cận.
Tính bạch hóa pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Để tăng sự hiểu biết lẫn nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế quốc tế, các nước trong quan hệ kinh tế quốc tế không nên “bí mật” pháp luật
bởi vì việc không công khai pháp luật sẽ làm cho những nhà đầu tư nước ngoài thiếu
tin tưởng thậm chí nghi ngờ chính sách, pháp luật của nước này và hậu quả của nó là
khó thu hút được đầu tư nước ngoài. Nói cách khác, việc minh bạch pháp luật sẽ tạo ra
môi trường pháp lý rõ ràng, công khai giúp cho hoạt động kinh tế thương mại quốc tế
phát triển.
1.2.1.4. Nguyên tắc khác
Trong lĩnh vực ngân hàng, ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc chung trong
thương mại quốc tế đã phân tích ở trên thì việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt
động của các ngân hàng nước ngoài còn phải thuân thủ những nguyên tắc, chuẩn mực
mang tính quốc tế khác. Theo đó, trong hoạt động ngân hàng, không thể không nhắc
đến các nguyên tắc của hiệp ước Basel được thông qua bởi 10 ngân hàng trung ương
của 10 quốc gia trên thế giới. Để giám sát hoạt động của ngân hàng, Ủy ban Basel đã
đưa ra 25 nguyên tắc cốt lõi về giám sát một ngân hàng có hiệu quả.
Ủy ban Basel được thành lập vào năm 1974 bởi thống đốc Ngân hàng Trung
ương của nhóm 10 nước. Thành viên của Ủy ban gồm: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan,
Hoa Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Ý. Ủy ban
Basel sẵn sàng đưa ra những lời tư vấn cho các cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng
ở tất cả các nước. Theo đó, mục tiêu quan trọng của Ủy ban là thu hẹp khoảng cách
giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản: (1) Không ngân hàng nước ngoài nào được
thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; (2) Việc giám sát phải tương xứng với mỗi quốc
gia cũng như trên toàn hệ thống.
Mặc dù về pháp lý, Basel không trực tiếp ảnh hưởng đến các quy định hoạt
động của các ngân hàng của các quốc gia không ký Hiệp ước Basel nhưng lại gián tiếp
ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng các nước hội nhập thông qua việc các tổ
26. 19
chức quốc tế như (WB, IMF) sử dụng Basel như chuẩn mực và yêu cầu các nước ngoài
khối áp dụng hoặc các nước khi ký hiệp ước quốc tế cũng sử dụng các chuẩn mực đó
trong việc các nguyên tắc hoạt động của ngân hàng.
1.2.2. Sự tham gia của Việt Nam trong các điều ước quốc tế về lĩnh vực tài
chính ngân hàng
Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu và đang diễn ra ngày càng
sâu rộng về nội dung và qui mô trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, Việt Nam đã gia nhập
khối ASEAN năm 1995, tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm
1995, gia nhập APEC năm 1998, ký Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ năm
2000 và ký kết nhiều hiệp định thương mại, đầu tư khác. Đáng chú ý là từ năm 2007,
Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), tham gia Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS).
Tháng 10 năm 1993, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hội nhập
quốc tế về tài chính, tiền tệ là Việt Nam đã nối lại quan hệ tín dụng với các tổ chức tài
chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB. Việt Nam đã ký Hiệp định tài chính đa phương
với Ngân hàng Đầu tư châu Âu, Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu, Quỹ OPEC. Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) là thành viên của diễn đàn ngân hàng trung ương
ASEAN, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các ngân hàng
ASEAN… Ngoài ra, NHNN đã ký nhiều thỏa thuận hợp tác ngân hàng với nhiều ngân
hàng trung ương lớn trên thế giới như: Ngân hàng trung ương Pháp, Nhật Bản, Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc,…
Việt Nam tham gia nhiều hiệp định hợp tác song phương về lĩnh vực ngân hàng
đã được ký kết thành công với Chính phủ, ngân hàng trung ương, các tổ chức song
phương trong khu vực Đông Á – Thái Bình Dương, Đông Âu, Bắc Mỹ như Hiệp định
khung về kết nối kinh tế Việt Nam – Singapore trong lĩnh vực ngân hàng, tham gia xây
dựng chiến lược đối tác kinh tế chung Việt Nam – Thái Lan, Hiệp định khung về tăng
cường hợp tác kinh tế ASEAN Singapore, ngày 28 tháng 01 năm 1992, ký các thỏa
thuận hợp tác trao đổi thông tin trong lĩnh vực thanh tra ngân hàng với các cơ quan
thanh tra giám sát ngân hàng của Australia, Hồng Kông, Malaysia, Singapore, Hoa Kỳ.
27. 20
Đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt Mỹ và các cam kết của Việt nam khi gia
nhập WTO trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Nội dung của các hiệp định này chủ
yếu là các thỏa thuận hợp tác của các nước trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, các cam
kết về việc hoàn thiện môi trường pháp luật về ngân hàng và lộ trình hiện diện thương
mại và đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Hiệp định Thương mại
song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) được đại diện hai chính phủ ký ngày
13/7/2000 và có hiệu lực vào ngày 10-12-2001 đánh dấu bước phát triển quan trọng
của Việt Nam trong tiến trình từng bước hội nhập khu vực và quốc tế, chuẩn bị các
điều kiện và tiền đề cần thiết để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Cam
kết của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng được đề cập chủ yếu tại Chương
III: thương mại dịch vụ (cam kết chung). Cam kết cụ thể về ngành dịch vụ tài chính
ngân hàng được thể hiện tại phụ lục F và G. Theo đó, Việt Nam cam kết mở cửa thị
trường dịch vụ tài chính – ngân hàng theo lộ trình nới lỏng dần và tiến tới xoá bỏ các
hạn chế đối với hoạt động của các ngân hàng Mỹ tại Việt Nam. Lộ trình này đồng
nghĩa với việc xoá bỏ dần nhiều lợi thế của các định chế trong nước.
Một sự kiện quốc tế quan trọng đối với Việt Nam đánh dấu bước ngoặt trong
tiến trình phát triển kinh tế là việc nước ta gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO
ngày 11/01/2007. Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) - văn bản pháp lý
điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên WTO - đã quy định
những nghĩa vụ và nguyên tắc hoạt động trong thương mại dịch vụ. Các nghĩa vụ của
GATS có thể được phân theo hai nhóm: Các nghĩa vụ chung được áp dụng cho tất cả
các nước thành viên và nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử
quốc gia trong các ngành và phân ngành của mỗi nước. Theo đó, gia nhập WTO, Việt
Nam phải tiến hành hàng loạt các thay đổi về chính sách và pháp luật để tuân thủ các
nguyên tắc và quy định của tổ chức này, ngành Ngân hàng sẽ phải tuân thủ những
nghĩa vụ quy định trong GATS, cụ thể như sau:
Đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) là nghĩa vụ chung bắt buộc trong GATS. Theo
nguyên tắc MFN, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau với tất cả các nước hoặc nếu
Việt Nam dành ưu đãi cho một nước thì phải dành ưu đãi đó cho tất cả các nước thành
viên, trừ khi Việt Nam có những miễn trừ MFN được nêu trong Danh mục cam kết của
mình khi gia nhập WTO. Như vậy, các ưu đãi áp dụng hạn chế trên cơ sở song phương
28. 21
sẽ được dành cho tất cả các nước thành viên WTO. Chẳng hạn như, khi Việt Nam
dành ưu đãi cho Hoa Kỳ trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng theo Hiệp định thương mại
song phương với Hoa Kỳ (BTA) thì Việt Nam cũng phải dành những ưu đãi tương tự
trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng cho tất cả các nước thành viên còn lại trong WTO.
Theo nguyên tắc Đãi ngộ Quốc gia (NT), Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như
nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể trong
lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng
nước ngoài được hưởng những ưu đãi ngang bằng với nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng
và dịch vụ ngân hàng của Việt Nam hoặc các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép
hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử với các tổ chức tín dụng trong
nước. Trong thương mại dịch vụ, các nước thành viên thường quan tâm nhiều hơn tới
đãi ngộ quốc gia bởi lẽ trong thương mại dịch vụ, bên cạnh sự di chuyển dịch vụ còn
có sự di chuyển của nhà cung cấp dịch vụ vào Việt Nam.
Liên quan tới lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, các nước thành viên phải thực hiện
nghĩa vụ “Thanh toán và chuyển tiền” quy định tại Điều XI của GATS. Theo đó, các
nước thành viên không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển khoản và thanh toán
quốc tế trong các giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết cụ thể của GATS, ngoại
trừ trường hợp cán cân thanh toán gặp khó khăn thì khi đó một số hạn chế sẽ được áp
dụng mang tính tạm thời và căn cứ vào các điều kiện cụ thể. Khi Việt Nam cam kết
tiếp cận thị trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức cung cấp qua biên giới
và nếu di chuyển vốn qua biên giới là một phần thiết yếu của dịch vụ này thì Việt Nam
sẽ cam kết cho phép sự di chuyển vốn này; và khi Việt Nam cam kết tiếp cận thị
trường đối với cung cấp dịch vụ theo phương thức hiện diện thương mại, Việt Nam sẽ
cho phép chuyển khoản vốn liên quan vào lãnh thổ của mình…
Hiện nay, Đàm phán Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang là một trong
những đàm phán thương mại quan trọng nhất của Việt Nam, bao gồm không chỉ các
vấn đề về mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả những vấn đề phi thương.
Về phạm vi, so với các hiệp định BTA, AFTA và trong WTO, Hiệp định thương
mại xuyên Thái Bình Dương mở rộng hơn cả về thương mại hàng hoá, thương mại
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ và còn cả những vấn đề phi thương mại như môi
trường, lao động, hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mua sắm của chính phủ,
29. 22
trong đó thương mại hàng hoá giữ vị trí hàng đầu. Đối với 12 nước tham gia đàm phán
TPP, Việt Nam đã ký các hiệp định đa phương trong đó có các nội dung liên quan đến
lĩnh vực dịch vụ tài chính như: Hiệp định Thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân
thiện toàn diện ASEAN - Australia - New Zealand (AANZCERTA, thực hiện từ năm
2010), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản (AJCEP, thực hiện từ
năm 2008) và các FTA song phương: Hiệp định Đối tác Việt Nam – Nhật Bản
(VJEPA, thực hiện từ năm 2009) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chile
(ký tháng 10/2011). Khi là thành viên đầy đủ của Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có
những cơ hội tốt trong các quan hệ thương mại, đầu tư đặc biệt là trong lĩnh vực tài
chính, ngân hàng, giữa Việt Nam và các thành viên TPP sẽ phát triển vừa theo chiều
rộng và vừa theo chiều sâu, tạo thêm nguồn lực phát triển cho Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của Luận văn, tắc giả đã tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về
địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài. Đồng thời, chỉ ra những nguyên tắc cơ bản
cho việc xây dựng các quy định pháp luật về hoạt động của ngân hàng nước ngoài
cũng như sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật đảm bảo cơ sở pháp lý rõ
ràng cho hoạt động của ngân hàng nước ngoài ngoài trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay. Nội dung nghiên cứu tại Chương 1 của luận văn cũng tạo tiền đề về
cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu Chương 2 tiếp theo.
30. 23
CHƯƠNG 2: ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC
NGOÀI THEO PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài theo pháp luật của Trung
Quốc
Năm 2010, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới. Hiện
nay, Trung Quốc đứng thứ 5 thế giới về đầu tư ra nước ngoài. Đến 2020, Trung Quốc
có nhiều khả năng trở thành nhà đầu tư dẫn đầu thế giới. Trung Quốc là một nước lớn
trên thế giới và là một nước có ảnh hưởng quan trong ở châu Á. Giữa Việt Nam và
Trung Quốc cũng có nhiều điểm tương đồng như: cùng là những nước chuyển đổi từ
cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp cũ sang cơ chế thị trường, cùng là
những nước kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, và có nhiều điểm tương đồng về lịch
sử, văn hóa, xã hội.
Vì vậy, tác giả đã lựa chọn nghiên cứu quy định về pháp luật điều chỉnh hoạt
động của ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc thđể đúc rút kinh nghiệm cho Việt
Nam tham vấn.
2.1.1. Khái quát quá trình cải cách hệ ngân hàng tại Trung Quốc
Các ngân hàng nước ngoài đã có lịch sử hiện diện tại Trung Quốc từ hàng trăm
năm trước. Sau khi nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949,
bốn ngân hàng nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì văn phòng đại diện tại thành phố
Thượng Hải là: HSBC, Ngân hàng Đông Á, Tập đoàn Ngân hàng Hoa Kiều và Ngân
hàng Standard Chattered.
Trung Quốc là trường hợp điển hình thực hiện hội nhập quốc tế khu vực ngân
hàng thông qua các cam kết trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Tiến trình hội
nhập quốc tế của Trung Quốc được tiến hành từng bước và được hỗ trợ bằng các
chương trình cải cách nhằm củng cố khu vực ngân hàng và các khu vực tài chính khác,
đồng thời với quá trình cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Phương pháp hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng của Trung Quốc bao gồm tự do hoá các hạn chế
đối với sự tham gia và hoạt động của các ngân hàng nước ngoài thông qua việc cho
phép thành lập “ mới” các ngân hàng 100% vốn nước ngoài và cho phép mua các cổ
31. 24
phần thiểu số mang tính chất đối tác chiến lược trong các ngân hàng thương mại quốc
doanh trung bình hoặc lớn hơn nhưng không được quyền chi phối. Các ngân hàng
thương mại quốc doanh lớn sẽ thu hút các luồng vốn quốc tế thông qua việc phát hành
cổ phiếu lần đầu trên các thị trường quốc tế và có thể bán cho các đối tác chiến lược.
Quá trình cải cách này được tiến hành đồng thời với các biện pháp tăng cường công
tác thanh tra, giám sát (thiết lập một cơ quan thanh tra ngân hàng độc lập) nhằm phát
triển các thị trường vốn, cải thiện các công cụ và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
Trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc không ngừng cải thiện môi trường đầu
tư, Chính phủ Trung Quốc đã thông qua một loạt các chính sách và sửa đổi các luật,
quy định có liên quan. Năm 1994 Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một văn bản
pháp lý toàn diện điều chỉnh các hoạt động của các ngân hàng có vốn đầu tư nước
ngoài trên toàn lãnh thổ Trung Quốc với tên gọi là: Quy chế của nước Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa về quản lý các định chế tài chính có vốn nước ngoài. Quy chế này
được phát triển từ quy định được ban hành từ 1985 mang tên Quy chế của nước Công
hòa Nhân dân Trung Hoa về quản lý các ngân hàng có vốn nước ngoài và ngân hàng
liên doanh hoạt động tại các đặc khu kinh tế. Quy định mới đã cung cấp các hướng
dẫn pháp lý đối với việc gia nhập thị trường và hoạt động thanh tra các ngân hàng có
vốn nước ngoài.
Với việc Trung Quốc chính thức gia nhập WTO vào ngày 11/12/2001, ngành
Ngân hàng của Trung Quốc đã chứng kiến những thay đổi sâu sắc trong giai đoạn này.
Trong thời gian 5 năm ân hạn theo quy định trong thoả thuận gia nhập, Chính phủ
Trung Quốc đã tôn trọng các cam kết và mở cửa thêm các lĩnh vực kinh doanh cho các
ngân hàng có vốn nước ngoài tham gia. Những nỗ lực mở cửa và điều chỉnh hợp lý,
nhanh chóng về mặt chính sách đã tạo điều kiện cho các ngân hàng nước ngoài mở
rộng hoạt động.
Tôn trọng các cam kết WTO: Những hạn chế về đối tượng khách hàng đối với
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng có vốn nước ngoài đã được dỡ bỏ
ngay sau khi gia nhập WTO. Ngoài ra, hoạt động kinh doanh bằng đồng nhân dân tệ
của các ngân hàng nước ngoài cũng đã được mở rộng từ bốn thành phố lớn là Thượng
Hải, Thâm Quyến, Thiên Tân và Đại Liên ra toàn quốc, đối tượng khách hàng cũng
được mở rộng từ các cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài sang các doanh nghiệp và
32. 25
người dân Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, các hạn chế khác đối với các ngân
hàng có vốn nước ngoài từng bước được nới lỏng, như hạn chế về tài sản nợ bằng
đồng nhân dân tệ được dỡ bỏ; giới hạn về tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ từ nguồn trong nước
đối với các ngân hàng có vốn nước ngoài đã được bãi bỏ tuân theo nguyên tắc đối xử
quốc gia được thoả thuận trong cam kết gia nhập WTO.
Thực hiện các cam kết gia nhập WTO và dựa trên sự phân tích những điều kiện
thực tiễn của Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi, ban hành nhiều luật và
quy định mới. Những văn bản pháp luật quan trọng gồm: Luật Quản lý và Giám sát
Ngân hàng của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Quy định của nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa về Quản lý các định chế tài chính có vốn nước ngoài và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Những quy định tại các văn bản này đã cung cấp cơ sở vững
chắc để tiếp tục tiến trình mở cửa khu vực ngân hàng Trung Quốc. Tháng 12/2003,
Chính phủ Trung Quốc đã ban hành Quy chế mua cổ phần tại các định chế tài chính
Trung Quốc của các định chế tài chính nước ngoài. Trong đó, quy định các tiêu chuẩn
về quy mô tài sản, mức vốn và khả năng sinh lời cũng như giới hạn tối đa được mua cổ
phần đối với nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, Điều Luật này đã thúc đẩy hơn nữa sự hợp
tác giữa các ngân hàng Trung Quốc và các ngân hàng nước ngoài.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng mở rộng sự hiện diện của các ngân hàng nước
ngoài, tăng cường công tác thanh tra trên cơ sở rủi ro. Uỷ ban Giám sát Ngân hàng đã
tăng cường năng lực giám sát và phân tích từ xa, cải thiện việc lập kế hoạch và thanh
tra tại chỗ. Nhờ đó, chất lượng thanh tra đã được tăng cường đáng kể, góp phần lành
mạnh các ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc [47].
2.1.2. Một số quy định về địa vị pháp lý của ngân hàng nước ngoài ở Trung
Quốc
Theo quy định tại Điều 2 và Điều 3 Luật ngân hàng có vốn nước ngoài của
Trung Quốc thì ngân hàng nước ngoài là ngân hàng thương mại đã được đăng ký thành
lập bên ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và được sự chấp thuận
hoặc cấp phép của cơ quan giám sát tài chính của đất nước mình hoặc khu vực. Ngân
hàng có vốn nước ngoài là bất kỳ tổ chức nào dưới đây được chấp thuận để thành lập
33. 26
trong lãnh thổ nước Công hòa dân chủ nhân dân Trung Quốc, phù hợp với quy định
của pháp luật của nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc:
(1) Ngân hàng có toàn bộ vốn nước ngoài hoặc có sự liên doanh với bất kỳ một
tổ chức tài chính nước ngoài khác;
(2) Ngân hàng liên doanh Trung Quốc – nước ngoài, với vốn có sự liên doanh
giữa một tổ chức tài chính trong nước với một công ty Trung Quốc;
(3) Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài;
(4) Văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài.
Các tổ chức được liệt kê từ (1) đến mục (3) được gọi chung là ngân hàng có vốn
nước ngoài.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Trung Quốc, các ngân hàng nước ngoài
có thể tiến hành hoạt động kinh doanh của mình tại Trung Quốc thông qua việc thành
lập ngân hàng 100%vốn nước ngoài (tự mình bỏ 100% vốn hoặc liên doanh với tổ
chức tài chính nước ngoài khác), ngân hàng liên doanh với tổ chức Trung Quốc, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài. Theo đó, một ngân hàng có vốn nước ngoài phải tuân
thủ các quy định của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc, và sẽ không làm tổn hại đến lợi
ích quốc gia, xã hội và công cộng của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc. Quyền và lợi
ích hợp pháp ngân hàng có vốn nước ngoài được bảo vệ bởi pháp luật của Cộng hòa
Nhân dân Trung Quốc [57].
Văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài không tham gia hoạt động kinh
doanh ngân hàng, nhưng có thể tham gia vào những hoạt động khác không phải là hoạt
động kinh doanh của ngân hàng, không giới hạn bởi việc thực hiện dịch vụ liên lạc,
nghiên cứu thị trường và tư vấn. Trách nhiệm dân sự của văn phòng đại diện sẽ do
ngân hàng nước ngoài bảo đảm (theo Điều 33 Luât ngân hàng có vốn nước ngoài của
Trung Quốc).
- Về điều kiện và thủ tục xin cấp phép thành lập ngân hàng có vốn nước
ngoài
Việc thành lập một ngân hàng có vốn nước ngoài và chi nhánh của nó phải chịu
sự kiểm tra, chấp thuận của cơ quan quản lý ngân hàng .Cơ quan quản lý của Hội đồng
34. 27
Nhà nước và các văn phòng ở địa phương của nó (sau đây gọi chung là cơ quan điều
hành ngân hàng) có trách nhiệm thực hiện giám sát sự hoạt động của các ngân hàng có
vốn nước ngoài.
Để thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng 100% vốn nước
ngoài, ngân hàng liên doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài
tại Trung Quôc thì cổ đông của ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, ngân hàng nước ngoài nộp đơn thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện phải
đáp ứng các yêu cầu chung được quy định tại Điều 9 của luật về ngân hàng có vốn
nước ngoài tại Trung Quốc là:
(1) Có khả năng kiếm lợi nhuận liên tục, danh tiếng tốt và không vi phạm
pháp luật và các quy định;
(2) Có kinh nghiệm trong hoạt động tài chính quốc tế;
(3) Có hệ thống phòng, chống rửa tiền hiệu quả;
(4) Chịu sự giám sát hiệu quả bởi cơ quan có thẩm quyền tài chính của quốc
gia hoặc vùng nơi có quốc tịch và chịu sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền tài
chính đó, và
(5) Các yêu cầu thận trọng được quy định bởi cơ quan có thẩm quyền về ngân
hàng của Hội đồng Nhà nước.
Để thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài, cổ đông sáng lập, cổ đông quản
lý của ngân hàng sẽ phải đáp ứng các yêu cầu quy định tại Điều 10 của luật về ngân
hàng có vốn nước ngoài tại Trung Quốc:
(1) Là một ngân hàng thương mại;
(2) Có một văn phòng đại diện đã duy trì hoạt động trong phạm vi lãnh thổ
Trung Quốc ít nhât là 02 năm;
(3) Có tổng tài sản không ít hơn 10 tỷ USD và cuối năm nộp đơn và;
(4) Có tỷ lệ tương ưng vốn phù hợp với yêu cầu được quy định bở cơ quan
giám sát tài chính của nước hoặc vùng lãnh thổ mà nó mang quốc tịch và cơ quan có
thẩm quyền về ngân hàng của Hội đồng Nhà nước.
35. 28
Đối với các ngân hàng liên doanh thành lập ở Trung Quốc, ngoài các điều kiện
quy định tại Điều 9 trên đây thì các cổ đông sáng lập, cổ đông quản lý cũng phải đáp
ứng các điều kiện như đối với ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chỉ khác, có văn
phòng đại diện đang duy trì hoạt động ở Trung Quốc mà không giới hạn tối thiểu là
bao nhiêu năm.
Đối với việc thành lập chi nhánh, ngoài các quy định tại Điều 9, ngân hàng
nước ngoài ở Trung Quốc phải đáp ứng các điều kiện sau:
(1) Có tổng tài sản không ít hơn 20 tỷ USD vào cuối năm nộp đơn;
(2) Có tỷ lệ vốn tương ứng đáp ứng các yêu cầu của cơ quan giám sát tài chính
của nước hoặc vùng lãnh thổ nơi nó mang quốc tịch hoặc cơ quan có thẩm quyền ngân
hàng của Hội đồng Nhà nước;
(3) Có một văn phòng đại diện đang tồn tại trong lãnh thổ Trung Quốc ít nhất 2
năm nơi mà ngân hàng nước ngoài thành lập chi nhánh đầu tiên của nó [58].
Ở Trung Quốc, để thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài yêu cầu phải nộp
cho cơ quan có thẩm quyền về ngân hàng những tài liệu sau:
(a) Đơn xin thành lập gồm tên, địa điểm, vốn đăng ký hoặc vốn hoạt động,
phạm vi kinh doanh;
(b) Bản giải trình về tính khả thi;
(c) Bản dự thảo điều lệ;
(d) Hợp đồng kinh doanh được ký bở các cổ đông của ngân hàng 100% vốn
nước ngoài;
(e) Các điều khoản liên kết của cổ đông;
(f) Sơ đổ tổ chức, danh sách của các cổ đông chính;
(g) Báo cáo tài chính và thông báo hoạt động hàng năm cho ba năm gần nhất
của các cổ đông của ngân hàng 100% vốn nước ngoài;
(h) Hệ thống chống rửa tiền được thông qua bở cổ đông của ngân hàng 100%
vốn nước ngoài;
36. 29
(i) Bản sao giấy phép kinh doanh hoặc giấy phép dịch vụ tài chính và các ý
kiến về việc thành lập ngân hàng 100 vốn nước ngoài của cơ quan có thẩm quyền tài
chính nơi cổ đông ngân hàng có quốc tịch;
(j) Những tài liệu khác.
Cơ quan có thẩm quyền ngân hàng ở địa phương – nơi ngân hàng 100% vốn
nước ngoài dự định thành lập sẽ nộp tài liệu đơn cùng quan điểm xem xét cơ quan này
lên cơ quan có thẩm quyền ngân hàng của Hội đồng Nhà nước.
Tiếp đó cơ quan có thâm quyền về ngân hàng của Hội đồng Nhà nước, trong
thời hạn 6 tháng kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu thành lập ngân hàng, quyết định
chấp thuận hoặc không chấp thuận và thông báo cho người nộp đơn bằng văn bản.
Trong trường hợp không chấp thuận thì phải giải thích rõ lý do. Trong trường hợp đặc
biệt, cơ quan này có thể kéo dài thời gian thẩm định đơn và thông báo cho người nộp
đơn về việc này bằng văn bản. Tuy nhiên, thời hạn kéo dài không quá 3 tháng.
Kể từ ngày đạt được sự chấp thuận trên, ngân hàng xin cấp phép phải hoàn tất
thành lập trong thời hạn nêu trên, nếu ngân hàng không hoàn tất thành lập trong thời
hạn nói trên thì phải nêu rõ lý do và được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền
ngân hàng mà nó thiết lập để mở rộng thêm một khoảng thời gian là 3 tháng. Nếu
trong thời hạn trên mà ngân hàng không thành lập thì quyết định chấp thuận thành lập
của cơ quan có thẩm quyền ngân hàng của Hội đồng nhà nước sẽ hết hiệu lực.
Sau khi hoàn tất việc thành lập hoạt động, ngân hàng sẽ nộp những tài liệu sau
đây về cơ quan có thẩm quyền ngân hàng tại nơi ngân hàng được thành lập:
(a) Danh sách tên, sơ yếu lý lịch của Ban lãnh đạo ngân hàng;
(b) Giấy ủy quyền của những người trên;
(c) Văn bản thẩm tra vốn được ban hành bở cơ quan có thẩm quyền thẩm tra
vốn có thẩm quyền;
(d) Các tài liệu về dự phòng an ninh và các điều kiện thuân lợi liên quan đến
kinh doanh khác;
(e) Các tài liệu khác được yêu cầu bởi có quan có thẩm quyền ngân hàng
của Hội đồng Nhà nước.
37. 30
Riêng đối với việc thành lập chi nhánh của ngân hàng nước ngoài, thì phải có
thêm giấy tờ bảo lãnh của ngân hàng nước ngoài thiết lập chi nhánh về việc nó sẽ có
trách nhiệm đối với khoản thuế, khoản nợ của chi nhánh xin thành lập [58].
- Về hoạt động của ngân hàng có vốn nước ngoài
Điều 29 và Điều 30 của Luật ngân hàng có vốn nước ngoài của Trung Quốc
quy định:
Hoạt động của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Trung Quốc, ngân
hàng liên doanh thực hiện hoạt động theo phạm vi kinh doanh được chấp thuận bởi cơ
quan ngân hàng của Hội đồng Nhà nước, tham gia một phần hoặc toàn bộ hoạt động
kinh doanh bằng đồng nhân dân tệ như:
(1) Nhận tiền gửi từ công chúng;
(2) Cung cấp tín dụng ngắn, trung và dài hạn;
(3) Mua và bán các trái phiếu chính phủ và trái phiếu tài chính;
(4) Cung cấp dịch vụ thư tín dụng và bảo lãnh;
(5) Thanh toán trong nước và nước ngoài;
(6) Mua bán ngoại hối; hoạt động đại lý mua, bán ngoại tệ;
(7) Đại diện cho công ty bảo hiểm;
(8) Tham gia trong quan hệ cho vay liên ngân hàng;
(9) Kinh doanh thẻ ngân hàng;
(10) Cung cấp dịch vụ kết gửi an toàn;
(11) Cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng và dịch vụ tư vấn tín dụng;
(12) Các hoạt động kinh doanh khác được chấp thuận bởi cơ quan ngân hàng
của Hội đồng nhà nước.
Trường hợp ngân hàng 100% vốn nước ngoài có dự định tiến hành bất kỳ hoạt
động kinh doanh bằng đồng nhân dân tệ trong phạm vi kinh doanh được phép, nó phải
được sự chấp thuận của cơ quan quản lý của Hội đồng Nhà nước và đáp ứng các yêu
cầu sau đây:
38. 31
(1) Đã mở hoạt động kinh doanh trên lãnh thổ nước Cộng Hòa nhân dân
Trung Quốc ít nhất 03 năm trước khi áp dụng;
(2) Có được lợi nhuận trong 02 năm kế tiếp trước khi áp dụng;
(3) Các yêu cầu đảm bảo an toàn khác theo quy định của Hội đồng Nhà nước.
Một chi nhánh ngân hàng 100% nước ngoài hoặc hoặc của ngân hàng liên
doanh sẽ tiến hành hoạt động kinh doanh trong phạm vi kinh doanh có thẩm quyền của
ngân hàng mẹ của nó, và trách nhiệm dân sự của chi nhánh sẽ do ngân hàng mẹ đảm
bảo.
Theo Điều 31 Luật ngân hàng có vốn nước ngoài của Trung Quốc quy định thì
một chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh theo sự chấp
thuận cuả cơ quan quản lý của Hội đồng Nhà nước tham gia một phần hoặc toàn bộ
hoạt động kinh doanh ngoại hối hoặc bằng nhân dân tệ bao gồm:
(1) Nhận tiền gửi từ công chúng;
(2) Cấp các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;
(3) Chiết khấu công cụ chuyển nhượng;
(4) Mua và bán trái phiếu chính phủ và trái phiếu tài chính;
(5) Cung cấp các dịch vụ thư tín dụng và bảo lãnh;
(6) Thanh toán trong nước và nước ngoài;
(7) Mua bán ngoại hối và hoạt động như một đại lý cho việc mua, bán ngoại
tệ;
(8) Làm đại lý cho các công ty bảo hiểm;
(9) Tham gia vào cho vay liên ngân hàng;
(10) Cung cấp dịch vụ kết gửi an toàn;
(11) Cung cấp dịch vụ thông tin tín dụng và dịch vụ tư vấn tín dụng; và
(12) Các hoạt động kinh doanh khác được chấp thuận bởi cơ quan ngân hàng
của Hội đồng nhà nước.
- Về giám sát hoạt động
39. 32
Một ngân hàng có vốn nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc được thực hiện
theo các quy tắc kế toán thống nhất của Nhà nước và quy định của cơ quan quản lý
ngân hàng của Hội đồng Nhà nước về công bố thông tin. Các hoạt động khác cũng
phải đảm bảo phù hợp với quy định khác có liên quan theo pháp luật của Trung Quốc.
Ngân hàng nước ngoài tài trợ toàn bộ (ngân hàng 100% vốn nước ngoài) hoặc
một ngân hàng liên doanh Trung Quốc - nước ngoài được thực hiện theo quy định của
cơ quan quản lý ngân hàng của Hội đồng Nhà nước về quản trị doanh nghiệp.
Một ngân hàng nước ngoài thành lập hai hoặc nhiều chi nhánh trong phạm vi
lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc và ủy quyền cho một trong các chi
nhánh để thực hiện quản lý thống nhất của tất cả các chi nhánh khác; 30% của vốn
hoạt động của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải được duy trì trong các loại tài
sản chịu lãi suất theo yêu cầu của cơ quan quản lý ngân hàng của Hội đồng Nhà nước.
- Chấm dứt và thanh lý
Trường hợp ngân hàng có vốn nước ngoài chấm dứt hoạt động kinh doanh của
mình theo cách riêng của nó, nó sẽ được áp dụng bằng văn bản của cơ quan quản lý
ngân hàng của Hội đồng Nhà nước 30 ngày trước khi chấm dứt và, sau khi xem xét,
phê duyệt.
Trường hợp ngân hàng có vốn nước ngoài rơi vào phá sản, cơ quan quản lý
ngân hàng của Hội đồng Nhà nước có thể yêu cầu nó đình chỉ kinh doanh của mình và
làm rõ trách nhiệm của mình trong một thời gian giới hạn quy định.
Trường hợp ngân hàng có vốn nước ngoài chấm dứt như một kết quả của giải thể,
đóng cửa, xoá đăng ký theo quy định của pháp luật hoặc tuyên bố phá sản, các vấn đề liên
quan đến thanh lý sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật và các quy định có liên quan của
Cộng hòa nhân dân Cộng hòa Trung Quốc.
2.1.3. Một số cam kết hội nhập của Trung Quốc trong lĩnh vực ngân hàng
Cuối năm 1999, trước khi gia nhập WTO, đã có nhiều tổ chức tài chính nước
ngoài có mặt tại Trung Quốc dù quy mỗ vẫn còn hạn chế. Luật Ngân hàng thương mại
cũng áp dụng đối với Ngân hàng nước ngoài tại Trung Quốc. Việc thành lập và hoạt
động của các tổ chức tài chính nước ngoài chủ yếu dự trên Luật của nước Công hòa
40. 33
nhân dân Trung Hoa về các tổ chức tài chính nước ngoài. Theo Luật này, một ngân
hàng nước ngoài được phép kinh doanh ngoại hối, nhận tiền giử, cho vay, môi giới và
thanh toán nhưng chủ yếu cho các công ty có vốn nước ngoài. Cuối năm 1999, có 13
ngân hàng nước ngoài thành lập dưới hình thức 100% vốn nước ngoài hay liên doanh
tại Trung Quốc. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài đã thành lập 157 chi nhánh ở
trong nước. Yêu cầu tối thiểu để một ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng 100%
vốn nước ngoài hay liên doanh p hải có tổng tài sản 10 tỷ USD để mở chi nhánh là 20
tỷ USD.
Ngày 11/12/2001, Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của WTO.
Nhìn chung, mức độ về cam kết mở cửa và tư do hóa dịch vụ ngân hàng của Trung
Quốc là cao. Trung Quốc đưa ra lộ trình tự do hóa đầy đủ trong vòng 5 năm. Theo đó,
từ năm 2006 trở đi sẽ không còn sự phân biệt đối xử nào giữa các ngân hàng trong
nước và ngân hàng nước ngoài, không có hạn chế về loại hình ngân hàng, về kinh
doanh ngoại tệ và hạn chế theo vùng địa lý.
Các cam kết về lĩnh vực dịch vụ ngân hàng của Trung Quốc về cơ bản liên quan
đến hình thức hiện diện thương mại, bao gồm:
- Bãi bỏ các hạn chế theo địa lý đối với kinh doanh ngoại tệ; giảm dần từng
bước trong vòng 5 năm đối với các hạn chế về kinh doanh bằng đồng nội tệ; và tất cả
các hạn chế về địa lý sẽ được dỡ bỏ trước 11/12/2006.
- Bãi bỏ các hạn chế đối với khách hàng trong các giao dịch bằng ngoại tệ; cho
phép các ngân hàng nước ngoài giao dịch bằng đồng nội tệ với các doanh nghiệp
Trung Quốc từ ngày 11/12/2003 và với cá nhân người Trung Quốc từ ngày
11/12/2006. Các ngân hàng nước ngoài được phép kinh doanh bằng đồng nội tệ trong
một khu vực thì có thể phục vụ khách hàng ở bất kỳ khu vực nào không hạn chế về
mặt địa lý. Tuy nhiên, để được cấp phép kinh doanh bằng nội tệ, các ngân hàng nước
ngoài phải có thời gian hoạt động ở Trung Quốc ít nhất 3 năm và phải kinh doanh có
lãi trong hai năm liên tiếp trước khi nộp đơn xin phép.
- Đảm bảo rằng các tiêu chí cấp giấy phép cung cấp dịch vụ ngân hàng sẽ hoàn
toàn thận trọng. Không áp dụng những quy định kiểm tra nhu cầu kinh tế và không có
hạn chế về mặt số lượng đối với các giấy phép. Các biện pháp không phải là biên pháp
41. 34
an toàn hiện đang hạn chế quyền sở hữu, hoạt động và hình thức pháp nhân (bao gồm
cả vấn đề mở chi nhánh và giấy phép) sẽ được xóa bỏ trước 11/12/2006.
Căn cứ theo Hiệp định cam kết gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ từng bước xóa bỏ
hạn chế với các ngân hàng nước ngoài trên các phương diện: nghiệp vụ quốc tế, nghiệp vụ
đồng nhân dân tệ và giấy phép kinh doanh, cụ thể:
(1) Mở rộng phạm vi nghiệp vụ ngoại tệ đối với Ngân hàng nước ngoài
- Khi chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc sẽ xóa bỏ hạn chế về đối tượng
khách hàng trong việc kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng nước ngoài. ngân hàng nước
ngoài có thể cung cấp ngay dịch vụ ngoại tệ cho các doanh nghiệp Trung Quốc và cư
dân Trung Quốc;
- Khi chính thức gia nhập WTO, trên cơ sở phạm vi nghiệp vụ đã có, cho phép
ngân hàng nước ngoài tăng thêm các nghiệp vụ như: hoán đổi ngoại tệ, vay liên ngân hàng,
phát hành thẻ tín dụng, đại lý thẻ tín dụng của nước ngoài.
(2) Từng bước mở rộng phạm vi nghiệp vụ đồng nhân dân tệ cho các ngân
hàng nước ngoài. Theo đó, trong 2 năm sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc cho phép
các ngân hàng nước ngoài cung cấp nghiệp vụ đồng Nhân dân tệ cho doanh nghiệp
Trung Quốc, sau 5 năm sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc cho phép ngân hàng nước
ngoài cung cấp nghiệp vụ đồng nhân dân tệ cho tất cả các khách hàng Trung Quốc.
Điều này cho thấy, trong 5 năm sau khi gia nhập WTO, ngân hàng nước ngời sẽ được
hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia.
(3) Kiên trì thực hiện nguyên tắc thận trong trong việc cấp giấy phép kinh
doanh. Bộ phận giám sát quản lý tiền tệ Trung Quốc khi cấp giấy phép kinh doanh
kiên trì thực hiện nguyên tắc thận trọng, tức là giấy phép kinh doanh không có dự đoán
về nhu cầu kinh tế hay hạn chế về số lượng.
Cuối năm 2006, ngành Ngân hàng Trung Quốc bắt đầu bước vào giai đoạn mới.
Trung Quốc thúc đẩy quá trình mở cửa, nâng cao mức độ mở cửa, tăng cường năng lực
quản lý rủi ro của khu vực ngân hàng, bảo vệ sự ổn định chung của hệ thống ngân
hàng, qua đó thúc đẩy sự phát triển ổn định và lành mạnh của nền kinh tế. Để xây
dựng chiến lược mở cửa trong thời kỳ mới, ngành Ngân hàng Trung Quốc đã tuân thủ
4 nguyên tắc sau: (i) Đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế trong khuôn khổ tối ưu