TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
Khóa Luận Tốt Nghiệp Chuyển Nhượng Vốn Góp Ở Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
1. 1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
VẤN ĐỀ PHÁP LÍ VỀ CHUYỂN NHƯỢNG VỐN
GÓP Ở CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
Tham Khảo Thêm Tài Liệu Tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận, Báo Cáo, Khoá Luận, Luận Văn
Zalo/Telegram Hỗ Trợ : 0932.091.562
2. 2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty là một loại hình doanh nghiệp do các thành viên góp vốn thành lập
nhằm mục đích kinh doanh. Muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh bất cứ ngành
nghề, loại dịch vụ nào đều phải cần có vốn. Vốn này do các thành viên góp vào
để cùng nhau thực hiện các hoạt động kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, “vốn góp” và
“phần vốn góp” của thành viên góp vốn sẽ gắn liền với sự tồn tại của công ty cho
đến khi công ty giải thể hoặc bị phá sản. Bất cứ cá nhân, tổ chức nào muốn trở
thành thành viên của công ty đều phải đóng góp tiền, tài sản, trí tuệ, v.v.. của
mình. Nói cách khác việc một thành viên chuyển quyền sở hữu tài sản của mình
vào công ty đã làm phát sinh tư cách thành viên công ty của người đó.
Mặt khác, ta nhận thấy giữa ba loại mô hình công ty tồn tại ở Việt Nam
hiện nay, bao gồm: công ty TNHH, CTCP (hai loại hình công ty đối) và kể cả đối
với CTHD (loại hình công ty đối nhân) tồn tại một điểm chung. Đó là, tư cách
thành viên công ty chỉ chấm dứt khi thành viên công ty (hoặc cổ đông) đó chuyển
nhượng phần vốn góp của mình cho người khác hoặc chết, hay công ty đó bị giải
thể hoặc phá sản. Như vậy, “phần vốn góp” đóng vai trò quan trọng quyết định vị
trí, quyền lợi của thành viên góp vốn trong công ty. Điều này khác hoàn toàn so
với các mô hình hợp tác xã (tổ chức kinh tế tập thể) hay với loại hình doanh
nghiệp tư nhân do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm tài sản vô hạn.
Xét ở góc độ kinh tế, việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty là
hoạt động mua bán, đầu tư kiếm lời. Còn dưới góc độ pháp lý, việc chuyển
nhượng phần vốn góp của thành viên công ty là một loại giao dịch dân sự, được
điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật chuyên ngành và các quy định chung
khác. Tuy nhiên, pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện hành còn chưa quy định
rõ bản chất của “thế nào là vốn góp”, “phần vốn góp”, “hành vi chuyển nhượng
vốn góp”, cũng như việc quản lý của nhà nước về việc chuyển nhượng phần vốn
góp trong công ty là điều hết sức cần thiết. Do đó, trong phạm vi chuyên đề thực
tập của mình, em xin phép chọn đề tài: “Vấn đề pháp lí về chuyển nhượng vốn
góp ở công ty Trách nhiệm hữu hạn”.
3. 3
2. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như:
phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp diễn giải
và quy nạp…Dưới đây là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình
nghiên cứu đề tài:
Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập các quy định, các văn bản quy
phạm pháp luật và các tài liệu liên quan về chuyển nhượng vốn góp ở công ty
TNHH.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: Dựa trên cơ sở các tài liệu đã thu thập
được, phân tích và đánh giá nội dung các quy định của pháp luật hoạt động
chuyển nhượng vốn góp và thực tiễn chuyển nhượng vốn góp qua một số vụ việc
cụ thể tại công ty Luật TNHH Cabas. Từ đó, tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ,
đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về chuyển nhượng vốn góp ở công ty
TNHH.
3. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi, chuyên đề tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề pháp
lý liên quan đến hoạt động chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH:
về cơ sở pháp lí về chuyển nhượng vốn góp theo quy định pháp luật hiện hành,
quy trình, thủ tục, chuyển nhượng vốn góp ở công ty TNHH, thực tiễn chuyển
nhượng vốn góp của doanh nghiệp từ đó đưa ra đánh giá và đề xuất đối với việc
chuyển nhượng vốn của doanh nghiệp nhìn từ thực tiễn cung cấp dịch vụ pháp lý
cho khách hàng của công ty Luật Cabas.
4. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được kết cấu thành 03 chương, cụ thể
như sau:
Chương 1: Cơ sở pháp lí về chuyển nhượng vốn góp ở công ty TNHH theo
quy định pháp luật hiện hành.
Chương 2: Thực tiễn chuyển nhượng vốn góp của công ty trách nhiệm hữu
hạn thông qua một số vụ việc điển hình.
4. 4
Chương 3: Một số đề xuất đối với việc chuyển nhượng vốn của doanh
nghiệp nhìn từ thực tiễn khách hàng của công ty Luật Cabas.
5. 5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ PHÁP LÍ VỀ CHUYỂN
NHƯỢNG VỐN GÓP THEO QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT HIỆN HÀNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn góp và phần vốn góp
1.1.1. Khái niệm vốn góp
Công ty là một loại hình doanh nghiệp do các thành viên góp vốn thành lập
nhằm mục đích kinh doanh. Muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh bất cứ ngành
nghề, loại dịch vụ nào đều phải cần có vốn. Vốn này do các thành viên góp vào
để cùng nhau thực hiện các hoạt động kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, "vốn góp" và
"phần vốn góp" của thành viên góp vốn sẽ gắn liền với sự tồn tại của công ty cho
đến khi công ty giải thể hoặc bị phá sản. Bất cứ cá nhân, tổ chức nào muốn trở
thành thành viên của công ty đều phải đóng góp tiền, tài sản, trí tuệ... của mình.
Nói cách khác, việc một thành viên chuyển quyền sở hữu tài sản của mình vào
công ty đã làm phát sinh tư cách thành viên công ty của người đó. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn là điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự phát triển
của hoạt động kinh doanh. Vào thời điểm mới thành lập doanh nghiệp, vốn nói
chung cũng như vốn góp nói riêng là vấn đề tiên quyết đối với sự tồn tại của bản
thân doanh nghiệp. Vì vậy, việc làm rõ khái niệm vốn của công ty là tiền đề giúp
chúng ta hiểu được thế nào là vốn góp và phần vốn góp trong công ty. Ở Việt
Nam, khái niệm vốn được nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Xét từ góc độ ngôn ngữ học, vốn là “toàn bộ những yếu tố được sử dụng
vào việc sản xuất ra của cải…Vốn tạo nên sự đóng góp quan trọng đối với sự
tăng trưởng của nền kinh tế…Về mặt pháp luật, vốn của một doanh nghiệp là
toàn bộ những tài sản của mọi người (chủ sở hữu, thành viên…); nó tượng trưng
các quyền, nhất là quyền sở hữu” [6, tr. 926]. Định nghĩa này đã cho ta hình
dung bước đầu về vốn, hình dung được nguồn gốc của vốn là tổng thể những tài
sản bỏ ra ban đầu (thường là tiền) và có chức năng dùng trong sản xuất kinh
doanh.
Xét từ góc độ kinh tế, “vốn là toàn bộ lượng tiền cần thiết nhất định để bắt
đầu, duy trì sự hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục của các chủ thể kinh
doanh”. Cũng có thể hiểu vốn theo cách khác, đó là “toàn bộ lượng tiền ứng ra
6. 6
ban đầu cho kinh doanh sẽ vận động và chuyển hóa hình thái biểu hiện trong quá
trình kinh doanh” [7, tr.10-15]. Cách hiểu đó đã khái quát được khái niệm vốn
khá rõ ràng, giúp ta hình dung được quy trình lưu chuyển cũng như sự biến đổi từ
hình thái tiền tệ sang hình thái phi tiền tệ của vốn.
Xét theo góc độ pháp lý, vốn được hiểu là “tiền, tài sản, quyền tài sản trị
giá được thành tiền có thể sử dụng được trong kinh doanh”. Ta thấy luật pháp
quy định đối với tiền phải tích tụ đến mức nhất định thì mới có thể sử dụng được
trong kinh doanh với tư cách là vốn. Đối với tài sản nếu chỉ thuần túy có giá trị
và giá trị sử dụng mà không có khả năng chuyển đổi thành tiền và sử dụng trong
kinh doanh thì cũng không có giá trị là vốn. Đối với các quyền tài sản, nếu không
có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt để hạch toán trong kinh doanh thì không
thể dùng để đầu tư và cũng không được xem là vốn.
Ở các nước phát triển, quan điểm của họ về vốn được nghiên cứu dựa trên
hai phương diện, hai phương diện là phương diện kinh tế và phương diện pháp
lý. Chính vì vậy, nó có hai tính chất: về mặt pháp lý, vốn là số tiền để đảm bảo
cho việc trả nợ của công ty; về mặt kinh tế, vốn là phương tiện kinh doanh. [8,
tr.123]
Vốn trong công ty nói chung được hiểu là giá trị tính bằng tiền của những
tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của công ty và được công ty sử
dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, lưu thông mà nó là một chỉnh thể bao
gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ qua lại với nhau phản ánh cấu trúc
nội tại của đồng vốn trong công ty.
Cấu trúc vốn trong một công ty có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau, dựa trên các tiêu chí nhất định. Đặc biệt nếu căn cứ vào nguồn gốc hình
thành, vốn trong công ty được chia thành vốn chủ sở hữu (vốn góp) – hay còn gọi
là vốn tự có và vốn tín dụng (vốn vay). Xem xét vốn của công ty từ phương diện
này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về phương diện sở hữu cũng như phương
diện pháp lý. Mặc dù pháp luật quy định các phương thức huy động vốn khác
nhau tương ứng với mỗi loại hình công ty, nhưng vào thời điểm mới thành lập,
vốn góp là nguồn tài chính chủ yếu quan trọng nhất đối với mọi loại hình công
ty. Vốn góp chính là hình thức đầu tư của chủ sở hữu. Nó là điều kiện tiền đề để
thành lập công ty ở giai đoạn mới thành lập, còn trong quá trình sản xuất kinh
doanh nó biểu hiện khả năng tài chính của chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, Luật
7. 7
Doanh nghiệp năm 2020 lại chưa có khái niệm cụ thể về “vốn góp” mà chỉ nếu ra
khái niệm “góp vốn”. Có thể thấy “vốn góp” chính là kết quả của việc thực hiện
“hành vi góp vốn” vào công ty.
Tại Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định:
“Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm
góp vốn để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được
thành lập.”
Với định nghĩa này, có thể giải thích hành vi góp vốn theo nghĩa hẹp với
nội hàm là hoạt động có chủ ý của người có tài sản, trực tiếp chuyển tài sản của
mình sang cho công ty để sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để tăng vốn
hoặc bù đắp phần vồn đã thất thoát hoặc thua lỗ trong quá trình công ty sản xuất,
kinh doanh. Người góp vốn sẽ trờ thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của
công ty đó. Chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu này được gọi là thành viên công
ty. Tài sản được đem góp vốn trở thành vốn góp của công ty và thuộc quyền sở
hữu của chính công ty đó. Đồng thời, định nghĩa trên còn chỉ ra bản chất của vốn
góp chính là tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền.
Tuy nhiên, sẽ rất hạn chế nếu chúng ta chỉ coi bản chất của vốn góp là tài
sản được phép góp vốn vào công ty theo quy địnnh Luật Doanh nghiệp mà quên
mất rằng bên cạnh đó cón những thứ không phải tài sản như: kinh nghiệm quản
lý, hệ thống mạng lưới khách hàng, thương hiệu... Bởi, các tài sản do các chủ thể
kinh doanh cùng nhau hùn vốn và góp vào các loại hình công ty khác nhau tuy có
cùng chung bản chất là vốn góp nhưng lại có sự khác biệt về tính chất. Khác với
công ty TNHH cũng như CTCP với tính chất là công ty đối vốn, phần vốn góp
vào công ty chỉ đơn thuần mang tính chất vật chất thì đối với CTHD ngoài các
yếu tố vật chất còn bao gồm cả yếu tố phi vật chất đó chính là danh tiếng, là uy
tín chuyên môn nghề nghiệp cá nhân của các thành viên hợp danh. Nói cách
khác, vốn góp của các thành viên hợp danh trong CTHD không chỉ bảo gồm tài
sản góp vốn với nguyên nghĩa mà còn cả yếu tố nhân thân của các thành viên hợp
danh.
Qua nghiên cứu cho thấy, vốn góp đóng vai trò quan trọng đối với hoạt
động tài chính của công ty. Bởi quá trình sản xuất kinh doanh sẽ được diễn ra khi
có ba yếu tố: yếu tố vốn, yếu tố lao động và yếu tố công nghệ. Trong ba yếu tố
8. 8
đó thì yếu tố vốn là điều kiện tiền đề và có vai trò rất quan trọng. Nó là yếu tố
đầu tiên quyết định việc sản xuất kinh doanh của công ty có thành công hay
không. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần
phải có một lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào, thuê nhân công, mua thông
tin trên thị trường, mua bằng phát minh sáng chế... Nếu thiếu vốn việc kinh
doanh của doanh nghiệp rất dễ thất bại. Đặc biệt, trong giai đoạn mới thành lập
việc huy động vốn thông qua các hình thức khác như đi vay tín dụng thường rất
khó khăn, cần phải có uy tín hoặc sự bảo lãnh của một chủ thể khác;, còn việc
phát hành trái phiếu thì tùy thuộc vào pháp luật từng nước, cũng như quy định
đối với từng loại hình công ty có cho phép hay không, nên vốn góp là nguồn kinh
phí duy nhất chi trả cho các hoạt động và dịch vụ mà công ty sử dụng. Vậy nên,
vốn góp trong công ty đóng vai trò thực hiện mục đích sinh lời, vốn luôn thay đổi
hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình nhưng
kết thúc vòng tuần hoàn bao giờ cũng tồn tại dưới hình thái biểu hiện là tiền.
Từ những vấn đề trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: “Vốn góp
là toàn bộ lượng tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền cũng như
những tài sản khác không trị giá được thành tiền mà các chủ thể kinh doanh thỏa
thuận đóng góp để phục vụ sản xuất kinh doanh sẽ vận động và chuyển hóa hình
thái biểu hiện trong quá trình sản xuất, kinh doanh”.
1.1.2. Khái niệm phần vốn góp
Trong thời gian qua, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách
nhiệm hữu hạn; cổ phần trong công ty cổ phần đã trở thành những tài sản có giá
trị lớn trong tài sản kinh doanh của chủ sở hữu. Phần vốn góp là một dạng “tài
sản đặc biệt”. Qua quá trình làm ăn kinh doanh, việc làm ăn của công ty thuận
lợi, làm ăn có lãi thì giá trị phần vốn góp hay cổ phần càng tăng lên và ngược lại.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định như sau: “Phần vốn góp là tỷ lệ vốn
mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ”. Luật
Doanh nghiệp 2005 đã tiếp tục kế thừa quy định này. Theo quy định của hai đạo
luật này, có thể hiểu phần vốn góp trong công ty chính là mức độ, tỷ lệ vốn góp
của thành viên góp vốn trong tổng số vốn của công ty. Tuy nhiên, từ Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đến Luật Doanh nghiệp 2020 hiện hành đã định nghĩa cụ thể và
chính xác về khái niệm này khi tách biệt cách hiểu phần vốn góp chính là tổng
giá trị tài sản vốn góp của từng thành viên vào công ty, chứ không coi nó là tỷ lệ
9. 9
vốn của các chủ sở hữu trong công ty. Theo đó được quy định tại khoản 21 Điều
4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và khoản 27 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm
2020, phần vốn góp được định nghĩa như sau:
“Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam
kết góp vào công ty TNHH, CTHD. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn
góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty TNHH, CTHD”.
Như vậy, qua nhiều lần sửa đổi, Luật doanh nghiệp hiện hành đã thu hẹp
phạm vi khái niệm “phần vốn góp” khái niệm phần vốn góp chỉ được áp dụng
cho hai loại hình công ty TNHH và CTHD, định nghĩa này không liệt kê cổ phần
trong công ty cổ phần là phần vốn góp. Trong khi về mặt bản chất, số cổ phần mà
cổ đông CTCP sở hữu cũng chính là tổng giá trị tài sản mà thành viên CTCP góp
hoặc cam kết góp vào công ty. Theo ý kiến cá nhân của tác giả luận văn, đã được
trình bày ở phần phạm vi nghiên cứu của đề tài thì cổ phần của cổ đông công ty
cổ phần cũng chính là phần vốn góp của chủ sở hữu công ty trong CTCP. Vì vậy,
định nghĩa phần vốn góp trong chuyên đề này xin được hiểu và đề cập dưới góc
độ sau đây:
“Phần vốn góp chính là tổng giá trị tài sản của một thành viên hoặc cổ
đông đã góp hoặc cam kết góp vào công ty TNHH, CTHD, CTCP. Tỷ lệ phần vốn
góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty
TNHH, CTHD, CTCP”.
Qua khái niệm này ta thấy được, phần vốn góp là khái niệm biểu hiện tỷ lệ
vốn góp giữa các chủ sở hữu trong công ty, biểu hiện mức độ sở hữu và quy mô
giá trị vốn góp khác nhau giữa các chủ sở hữu trong công ty. Giả sử A, B, C cùng
góp vốn thành lập công ty TNHH:
A góp 50 triệu, B góp 100 triệu và C góp 200 triệu. Sau một thời gian công
ty làm ăn phát đạt, tổng giá trị tài sản của công ty ABC lúc này tăng gấp đôi được
xác định là 700 triệu. Ta thấy, tuy vốn góp của A vào công ty là 50 triệu, nhưng
tỷ lệ phần vốn góp của A tương ứng lúc này là 1/7. Vốn góp của A là 50 triệu,
nhưng giá trị chuyển nhượng phần vốn góp này có thể là 90 hay 100 triệu căn cứ
vào giá trị tài sản của công ty tại thời điểm chuyển nhượng. Một thành viên sẽ
được xác định cụ thể một mức độ quyền sở hữu nhất định đối với công ty căn cứ
10. 10
vào tỷ lệ phần vốn của họ trong tổng số vốn điều lệ là bao nhiêu. Đó chính là
phần vốn góp của mỗi thành viên trong công ty.
Mặt khác, công ty chính là một pháp nhân kinh doanh, đặc biệt là đối với
các loại hình công ty đối vốn thì chúng hoàn toàn có tư cách pháp lý độc lập so
với chủ đầu tư (người góp vốn). Do đó, bản thân công ty có quyền sở hữu tài sản
một cách độc lập, đó chính là các tài sản do các thành viên công ty đóng góp và
sau khi công ty ra đời thì quyền sở hữu đối với các tài sản đem góp vốn được
dịch chuyển từ các thành viên sang cho công ty. Cũng từ đó chúng ta khẳng định:
các thành viên không phải là chủ sở hữu một phần tài sản của công ty mà họ là
người sở hữu công ty thông qua việc sở hữu “phần vốn góp” trong công ty.
Vì vậy, phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt của chủ sở hữu công ty,
loại tài sản này cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ đặc biệt cho chủ sở
hữu. Điều này xuất phát từ bản chất của quan hệ góp vốn là “sự hùn vốn” giữa
các thành viên với nhau và dẫn đến sự chi phối, chia sẻ lợi ích giữa những người
cùng góp vốn. Khi thực hiện góp vốn, các chủ sở hữu vốn chuyển giao quyền sở
hữu tài sản của mình cho công ty để trở thành thành viên công ty và nhận được
phần quyền lợi tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản đã đem vào góp vốn trong công
ty. Mức độ quyền lợi của họ trong công ty tùy thuộc vào tỷ lệ phần vốn góp,
năng lực, trình độ quản lý, khả năng kinh doanh và uy tín của họ trong công việc.
Một điểm cần lưu ý nữa là, trên thực tế chúng ta thường hay nhầm lẫn giữa
nội hàm khái niệm “phần vốn góp” với các khái niệm có liên quan như “vốn
góp”, “tài sản góp vốn” trong công ty. Thực chất đây là những khái niệm độc
lập và thuộc sở hữu của các chủ thể khác nhau. Ví dụ: “Vốn góp” là khái niệm
nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của những tài sản mà một thành viên
nào đó đóng góp vào công ty. Do đó, vốn góp được định lượng bằng giá trị, bằng
tiền (Việt Nam đồng). Còn “phần vốn góp”là tổng giá tài sản của thành viên đã
góp hoặc cam kết góp vào công ty nhưng phải đặt trong tương quan với các phần
vốn góp của các thành viên còn lại trong công ty. Như vậy, phần vốn góp thường
biểu thị mức độ, tỷ lệ vốn góp của một thành viên trong tổng số vốn góp của
công ty, nó được xác định bằng các đại lượng số học như 1,2…hay %.
Thực chất “phần vốn góp” là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn,
còn “tài sản góp vốn” là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty. Tài sản của một
chủ thể khi đã góp vào công ty (đã chuyển quyền sở hữu hợp pháp) thì trở thành
11. 11
“tài sản góp vốn”, lúc này thuộc sở hữu của công ty, còn chủ thể góp vốn thì trở
thành thành viên của công ty và sở hữu “phần vốn góp”. Do đó, thành viên là
đồng chủ sở hữu của công ty, còn công ty thì sở hữu tài sản góp vốn.
Sự phân biệt này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó ảnh hưởng tới việc quản
trị công ty, sử dụng đồng vốn và các giao dịch khác liên quan đến tài sản góp
vốn, vốn góp và phần vốn góp của công ty. “Tài sản góp vốn” thuộc sở hữu của
công ty nên chỉ công ty mới có quyền định đoạt, còn thành viên chỉ có quyền
định đoạt “phần vốn góp” của mình trong công ty, chứ không có quyền định đoạt
tài sản đã góp nữa. “Vốn góp” là tài sản thuộc sở hữu của công ty với tư cách
pháp nhân độc lập, còn thành viên công ty chỉ có quyền sở hữu công ty thông qua
việc sở hữu “phần vốn góp” mà thôi.
1.1.3. Đặc điểm của phần vốn góp
Từ những phân tích ở trên về khái niệm phần vốn góp, có thể thấy bản thân
phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt. Dưới góc độ sở hữu, chủ sở hữu hoàn
toàn có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với phần vốn góp này như: tặng
cho, chuyển nhượng phần vốn góp, sử dụng phần vốn góp để trả nợ hay để lại
thừa kế... Vì vậy, phần vốn góp trong công ty luôn tồn tại và xác lập các quyền
và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho chủ sở hữu phần vốn góp đó. Với tư cách là
một loại quyền tài sản chứ không phải là một loại tài sản thông thường, “phần
vốn góp” trong công ty có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt – quyền tài sản thuộc sở
hữu của thành viên góp vốn trong công ty.
Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn. Nó không phải
là các loại tài sản góp vốn được hình thành từ thế giới vật chất như những tài sản
hữu hình khác (tiền, vàng, nhà xưởng...). Cũng như không phải hình thành từ
khối óc, sức sáng tạo của con người như các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ
(tài sản phi vật chất). Mà phần vốn góp, sau khi được chuyển sở hữu từ tài sản
của thành viên góp vốn sang tài sản thuộc sở hữu của công ty, đã trở thành một
loại quyền về tài sản của thành viên công ty. Các thành viên góp vốn trong công
ty có quyền đối với phần vốn góp của mình nằm trong khối tài sản góp vốn sở
hữu của công ty. Khi một người góp vốn vào công ty thì tài sản đó thuộc sở hữu
của công ty nhưng đổi lại người góp vốn đó lại trở thành thành viên của công ty
12. 12
và có quyền quyền đối với phần vốn góp. Do xuất phát từ hành vi pháp lý của
chủ sở hữu (chuyển giao quyền sở hữu tài sản vào công ty) đã làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ luật định của người góp vốn đối với phần vốn góp của mình
trong công ty. Tuy người góp vốn có quyền đối với phần vốn góp nhưng tùy
thuộc vào mỗi loại hình công ty nhất định mà việc thực hiện các quyền năng của
chủ sở hữu có một số hạn chế.
Hơn nữa, ta thấy có sự khác biệt nếu xem xét khái niệm phần vốn góp dưới
phương diện kinh tế và phương diện pháp lý:
(i) Về phương diện kinh tế, phần vốn góp là sản nghiệp của người góp vốn
vào công ty;
(ii) Về phương diện pháp lý, thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà người góp
vốn đã góp vào công ty. Nếu không có sự phân biệt giữa số vốn góp vào công ty
thì sẽ không có sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn
trong công ty có nhiều thành viên góp vốn.
Vì vậy, phần vốn góp chính là một loại tài sản đặc biệt, vô hình, không thể
cầm, nắm hay thấy được bằng các xúc giác của con người, được hình thành thông
qua việc góp vốn vào công ty và tồn tại song song với sự tồn tại của công ty.
Trên thực tế việc góp vốn vào những loại hình công ty khác nhau sẽ tạo nên
những quy chế pháp lý khác nhau đối với người sở hữu phần vốn góp trong công
ty.
Thứ hai, phần vốn góp là tài sản có thể chuyển nhượng, tặng cho hoặc thừa
kế.
Phần vốn góp với tư cách là một loại quyền tài sản trị giá được thành tiền.
Xét theo quy định tại Điều 115 Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”. Từ định nghĩa trên, ta
có thể khẳng định quyền tài sản cần phải đáp ứng được hai yêu cầu: Một là,
quyền tài sản phải trị giá được bằng tiền; Hai là, có thể chuyển giao cho người
khác trong giao dịch dân sự. Điều này có nghĩa, do phần vốn góp vốn là một loại
quyền tài sản nên chủ sở hữu có quyền chuyển giao trong giao dịch dân sự.
13. 13
Việc định đoạt số phận pháp lý của phần vốn góp là chuyển giao quyền sở
hữu đối với phần vốn góp từ thành viên công ty sang cho người khác. Các hình
thức pháp lý định đoạt cũng rất đa dạng, có thể là việc định đoạt với phần vốn
góp như: bán, trao đổi, tặng cho, để lại thừa kế... Hoặc thông qua các hình thức
định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật. Ví dụ như: định đoạt việc
chia lợi nhuận của công ty theo tỷ lệ vốn góp của Điều lệ công ty...
Hơn nữa, chủ sở hữu có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác định
đoạt phần vốn góp của mình. Việc chủ sở hữu hoặc chủ thể khác được ủy quyền
định đoạt phần vốn góp thực hiện quyền định đoạt đối với phần vốn góp sẽ làm
chấm dứt hoặc thay đổi các quan hệ pháp luật liên quan đến phần vốn góp đó.
Tuy nhiên, việc chuyển giao này cần phải tuân thủ các điều kiện nhất định và bị
hạn chế bởi một số quy định theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, nhằm đảm bảo
sự hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Thứ ba, phần vốn góp là cơ sở để xác định quyền hạn và nghĩa vụ của các
thành viên trong công ty
Vì phần vốn góp của các thành viên góp vốn tỷ lệ thuận với số vốn mà họ
đã góp vào công ty. Nên các thành viên tiến hành góp vốn để đổi lấy quyền lợi
trong công ty có giá trị tương ứng với phần vốn góp. Dựa trên phần vốn góp mà
ta cũng có thể xác định được quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn.
Theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu phần vốn góp (người góp vốn) có các
quyền sau:
Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận của công ty tương ứng với tỷ lệ
giá trị phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ tương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp
nếu công ty làm ăn thua lỗ khi đang hoạt động cũng như khi công ty kết thúc hoạt
động; nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp sau khi đã
thanh toán hết các nghĩa vụ của công ty khi công ty bị giải thể, phá sản.
Quyền phi tài chính: như quyền được biểu quyết trong công ty khi có các
vấn đề cần lấy ý kiến biểu quyết, quyền thông tin các vấn đề liên quan đến hoạt
động kinh doanh và quản lý của công ty như xem sổ sách kế toán và hồ sơ khác
của công ty.
14. 14
Mặt khác, xem xét dưới khía cạnh nghĩa vụ, khoản 2 Điều 47 Luật doanh
nghiệp năm 2020 đã quy định rõ nghĩa vụ góp vốn của thành viên công ty:
“ Thành viên phải góp vốn cho công ty đủ và đúng loại tài sản đã cam kết khi
đăng ký thành lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, không kể thời gian vận chuyển, nhập
khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển quyền sở hữu tài
sản. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tỷ lệ
phần vốn góp đã cam kết. Thành viên công ty chỉ được góp vốn cho công ty bằng
loại tài sản khác với tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của trên 50% số
thành viên còn lại.”. Và khoản 3 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020 xác định rõ số
vốn chưa góp được coi là nợ của thành viên với công ty: “Sau thời hạn quy định
tại khoản 2 Điều này mà vẫn có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã
cam kết thì được xử lý như sau:a) Thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương
nhiên không còn là thành viên của công ty; b) Thành viên chưa góp vốn đủ phần
vốn góp như đã cam kết có các quyền tương ứng với phần vốn góp đã góp;c)
Phần vốn góp chưa góp của các thành viên được chào bán theo quyết định của
Hội đồng thành viên.”
Cam kết với bản chất là nghĩa vụ của thành viên với công ty. Chính vì vậy,
thành viên không góp đủ và đúng hạn phần vốn đã cam kết góp thì thành viên đó
sẽ phải chịu trách nhiệm tương ứng với phần vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ
tài chính của công ty phát sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay
đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của thành viên công ty.
1.2. Nội dung quy định pháp luật về chuyển nhượng vốn góp ở công ty
Trách nhiệm hữu hạn
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của chuyển nhượng vốn góp
Theo qgiáo qsư qMichael qBlackeney qcủa qViện qnghiên qcứu qsở qhữu qtrí qtuệ
qQueen qMary q– qĐại qhọc qLondon qthì qkhái qniệm qchuyển qnhượng qđược qhiểu qnhư
qsau:qChuyểnqnhượngqlàqviệcqchủqsởqhữuqbánqtấtqcảqcácqquyềnqsởqhữuqtríqtuệqđộc
qquyền qcủa qmình qvà qđược qmột qcá qnhân qkhác qhoặc qpháp qnhân qkhác qmua qlại qcác
qquyềnqđó.qKhiqtấtqcảqcácqquyềnqđộcqquyềnqđốiqvớiqmộtqsángqchếqđãqđượcqbảoqhộ
qđược qchủ qsở qhữu qcủa qnó qchuyển qgiao qcho qmột qcá qnhân qhoặc qmột qpháp qnhân
qkhácqmàqkhôngqcóqmộtqgiớiqhạnqbấtqkỳqvềqthờiqgianqhoặcqcácqđiềuqkiệnqkhácqthì
qviệcqchuyểnqnhượngqcácqquyềnqđóqxemqnhưqđãqđượcqthựcqhiệnq[9].