Cơ sở pháp lí về chuyển nhượng vốn góp theo quy định pháp luật hiện hành. Vốn trong công ty nói chung được hiểu là giá trị tính bằng tiền của những tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của công ty và được công ty sử dụng trong quá trình sản xuất, kinh doanh, lưu thông mà nó là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu thành có mối quan hệ qua lại với nhau phản ánh cấu trúc nội tại của đồng vốn trong công ty.
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
Cơ sở pháp lí về chuyển nhượng vốn góp theo quy định pháp luật hiện hành.docx
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
CƠ SỞ PHÁP LÍ VỀ CHUYỂN NHƯỢNG VỐN GÓP
THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm vốn góp và phần vốn góp
1.1.1. Khái niệm vốn góp
Công ty là một loại hình doanh nghiệp do các thành viên góp vốn thành lập nhằm
mục đích kinh doanh. Muốn tiến hành sản xuất, kinh doanh bất cứ ngành nghề, loại dịch
vụ nào đều phải cần có vốn. Vốn này do các thành viên góp vào để cùng nhau thực hiện
các hoạt động kinh doanh kiếm lời. Vì vậy, "vốn góp" và "phần vốn góp" của thành viên
góp vốn sẽ gắn liền với sự tồn tại của công ty cho đến khi công ty giải thể hoặc bị phá sản.
Bất cứ cá nhân, tổ chức nào muốn trở thành thành viên của công ty đều phải đóng góp tiền,
tài sản, trí tuệ... của mình. Nói cách khác, việc một thành viên chuyển quyền sở hữu tài sản
của mình vào công ty đã làm phát sinh tư cách thành viên công ty của người đó. Trong nền
kinh tế thị trường, vốn là điều kiện đầu tiên có ý nghĩa quyết định sự phát triển của hoạt
động kinh doanh. Vào thời điểm mới thành lập doanh nghiệp, vốn nói chung cũng như vốn
góp nói riêng là vấn đề tiên quyết đối với sự tồn tại của bản thân doanh nghiệp. Vì vậy,
việc làm rõ khái niệm vốn của công ty là tiền đề giúp chúng ta hiểu được thế nào là vốn
góp và phần vốn góp trong công ty. Ở Việt Nam, khái niệm vốn được nghiên cứu tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau:
Xét từ góc độ ngôn ngữ học, vốn là “toàn bộ những yếu tố được sử dụng vào việc sản
xuất ra của cải…Vốn tạo nên sự đóng góp quan trọng đối với sự tăng trưởng của nền kinh
tế…Về mặt pháp luật, vốn của một doanh nghiệp là toàn bộ những tài sản của mọi người
(chủ sở hữu, thành viên…); nó tượng trưng các quyền, nhất là quyền sở hữu” [6, tr. 926].
Định nghĩa này đã cho ta hình dung bước đầu về vốn, hình dung được nguồn gốc của vốn
là tổng thể những tài sản bỏ ra ban đầu (thường là tiền) và có chức năng dùng trong sản
xuất kinh doanh.
Xét từ góc độ kinh tế, “vốn là toàn bộ lượng tiền cần thiết nhất định để bắt đầu, duy
trì sự hoạt động sản xuất, kinh doanh liên tục của các chủ thể kinh doanh”. Cũng có thể
hiểu vốn theo cách khác, đó là “toàn bộ lượng tiền ứng ra ban đầu cho kinh doanh sẽ vận
động và chuyển hóa hình thái biểu hiện trong quá trình kinh doanh” [7, tr.10-15]. Cách
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hiểu đó đã khái quát được khái niệm vốn khá rõ ràng, giúp ta hình dung được quy trình lưu
chuyển cũng như sự biến đổi từ hình thái tiền tệ sang hình thái phi tiền tệ của vốn.
Xét theo góc độ pháp lý, vốn được hiểu là “tiền, tài sản, quyền tài sản trị giá được
thành tiền có thể sử dụng được trong kinh doanh”. Ta thấy luật pháp quy định đối với tiền
phải tích tụ đến mức nhất định thì mới có thể sử dụng được trong kinh doanh với tư cách
là vốn. Đối với tài sản nếu chỉ thuần túy có giá trị và giá trị sử dụng mà không có khả năng
chuyển đổi thành tiền và sử dụng trong kinh doanh thì cũng không có giá trị là vốn. Đối
với các quyền tài sản, nếu không có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt để hạch toán trong
kinh doanh thì không thể dùng để đầu tư và cũng không được xem là vốn.
Ở các nước phát triển, quan điểm của họ về vốn được nghiên cứu dựa trên hai phương
diện, hai phương diện là phương diện kinh tế và phương diện pháp lý. Chính vì vậy, nó có
hai tính chất: về mặt pháp lý, vốn là số tiền để đảm bảo cho việc trả nợ của công ty; về mặt
kinh tế, vốn là phương tiện kinh doanh. [8, tr.123]
Vốn trong công ty nói chung được hiểu là giá trị tính bằng tiền của những tài sản
thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của công ty và được công ty sử dụng trong quá
trình sản xuất, kinh doanh, lưu thông mà nó là một chỉnh thể bao gồm các bộ phận cấu
thành có mối quan hệ qua lại với nhau phản ánh cấu trúc nội tại của đồng vốn trong công
ty.
Cấu trúc vốn trong một công ty có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau, dựa trên
các tiêu chí nhất định. Đặc biệt nếu căn cứ vào nguồn gốc hình thành, vốn trong công ty
được chia thành vốn chủ sở hữu (vốn góp) – hay còn gọi là vốn tự có và vốn tín dụng (vốn
vay). Xem xét vốn của công ty từ phương diện này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về
phương diện sở hữu cũng như phương diện pháp lý. Mặc dù pháp luật quy định các phương
thức huy động vốn khác nhau tương ứng với mỗi loại hình công ty, nhưng vào thời điểm
mới thành lập, vốn góp là nguồn tài chính chủ yếu quan trọng nhất đối với mọi loại hình
công ty. Vốn góp chính là hình thức đầu tư của chủ sở hữu. Nó là điều kiện tiền đề để thành
lập công ty ở giai đoạn mới thành lập, còn trong quá trình sản xuất kinh doanh nó biểu hiện
khả năng tài chính của chủ sở hữu công ty. Tuy nhiên, Luật Doanh nghiệp năm 2020 lại
chưa có khái niệm cụ thể về “vốn góp” mà chỉ nếu ra khái niệm “góp vốn”. Có thể thấy
“vốn góp” chính là kết quả của việc thực hiện “hành vi góp vốn” vào công ty.
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tại Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định:
“Góp vốn là việc góp tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty, bao gồm góp vốn
để thành lập công ty hoặc góp thêm vốn điều lệ của công ty đã được thành lập.”
Với định nghĩa này, có thể giải thích hành vi góp vốn theo nghĩa hẹp với nội hàm là
hoạt động có chủ ý của người có tài sản, trực tiếp chuyển tài sản của mình sang cho công
ty để sử dụng vào mục đích kinh doanh hoặc để tăng vốn hoặc bù đắp phần vồn đã thất
thoát hoặc thua lỗ trong quá trình công ty sản xuất, kinh doanh. Người góp vốn sẽ trờ thành
chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu của công ty đó. Chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu này
được gọi là thành viên công ty. Tài sản được đem góp vốn trở thành vốn góp của công ty
và thuộc quyền sở hữu của chính công ty đó. Đồng thời, định nghĩa trên còn chỉ ra bản chất
của vốn góp chính là tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền.
Tuy nhiên, sẽ rất hạn chế nếu chúng ta chỉ coi bản chất của vốn góp là tài sản được
phép góp vốn vào công ty theo quy địnnh Luật Doanh nghiệp mà quên mất rằng bên cạnh
đó cón những thứ không phải tài sản như: kinh nghiệm quản lý, hệ thống mạng lưới khách
hàng, thương hiệu... Bởi, các tài sản do các chủ thể kinh doanh cùng nhau hùn vốn và góp
vào các loại hình công ty khác nhau tuy có cùng chung bản chất là vốn góp nhưng lại có
sự khác biệt về tính chất. Khác với công ty TNHH cũng như CTCP với tính chất là công
ty đối vốn, phần vốn góp vào công ty chỉ đơn thuần mang tính chất vật chất thì đối với
CTHD ngoài các yếu tố vật chất còn bao gồm cả yếu tố phi vật chất đó chính là danh tiếng,
là uy tín chuyên môn nghề nghiệp cá nhân của các thành viên hợp danh. Nói cách khác,
vốn góp của các thành viên hợp danh trong CTHD không chỉ bảo gồm tài sản góp vốn với
nguyên nghĩa mà còn cả yếu tố nhân thân của các thành viên hợp danh.
Qua nghiên cứu cho thấy, vốn góp đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động tài chính
của công ty. Bởi quá trình sản xuất kinh doanh sẽ được diễn ra khi có ba yếu tố: yếu tố vốn,
yếu tố lao động và yếu tố công nghệ. Trong ba yếu tố đó thì yếu tố vốn là điều kiện tiền đề
và có vai trò rất quan trọng. Nó là yếu tố đầu tiên quyết định việc sản xuất kinh doanh của
công ty có thành công hay không. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, bất cứ doanh nghiệp
nào cũng cần phải có một lượng vốn để mua nguyên liệu đầu vào, thuê nhân công, mua
thông tin trên thị trường, mua bằng phát minh sáng chế... Nếu thiếu vốn việc kinh doanh
của doanh nghiệp rất dễ thất bại. Đặc biệt, trong giai đoạn mới thành lập việc huy động
vốn thông qua các hình thức khác như đi vay tín dụng thường rất khó khăn, cần phải có uy
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tín hoặc sự bảo lãnh của một chủ thể khác;, còn việc phát hành trái phiếu thì tùy thuộc vào
pháp luật từng nước, cũng như quy định đối với từng loại hình công ty có cho phép hay
không, nên vốn góp là nguồn kinh phí duy nhất chi trả cho các hoạt động và dịch vụ mà
công ty sử dụng. Vậy nên, vốn góp trong công ty đóng vai trò thực hiện mục đích sinh lời,
vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện vừa tồn tại dưới hình thái vật tư hoặc tài sản vô hình
nhưng kết thúc vòng tuần hoàn bao giờ cũng tồn tại dưới hình thái biểu hiện là tiền.
Từ những vấn đề trình bày, phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: “Vốn góp là toàn
bộ lượng tiền, tài sản và quyền tài sản trị giá được thành tiền cũng như những tài sản khác
không trị giá được thành tiền mà các chủ thể kinh doanh thỏa thuận đóng góp để phục vụ
sản xuất kinh doanh sẽ vận động và chuyển hóa hình thái biểu hiện trong quá trình sản
xuất, kinh doanh”.
1.1.2. Khái niệm phần vốn góp
Trong thời gian qua, phần vốn góp trong công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu
hạn; cổ phần trong công ty cổ phần đã trở thành những tài sản có giá trị lớn trong tài sản
kinh doanh của chủ sở hữu. Phần vốn góp là một dạng “tài sản đặc biệt”. Qua quá trình làm
ăn kinh doanh, việc làm ăn của công ty thuận lợi, làm ăn có lãi thì giá trị phần vốn góp hay
cổ phần càng tăng lên và ngược lại. Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định như sau:
“Phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn
điều lệ”. Luật Doanh nghiệp 2005 đã tiếp tục kế thừa quy định này. Theo quy định của hai
đạo luật này, có thể hiểu phần vốn góp trong công ty chính là mức độ, tỷ lệ vốn góp của
thành viên góp vốn trong tổng số vốn của công ty. Tuy nhiên, từ Luật Doanh nghiệp năm
2014 đến Luật Doanh nghiệp 2020 hiện hành đã định nghĩa cụ thể và chính xác về khái
niệm này khi tách biệt cách hiểu phần vốn góp chính là tổng giá trị tài sản vốn góp của
từng thành viên vào công ty, chứ không coi nó là tỷ lệ vốn của các chủ sở hữu trong công
ty. Theo đó được quy định tại khoản 21 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 và khoản 27
Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020, phần vốn góp được định nghĩa như sau:
“Phần vốn góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp
vào công ty TNHH, CTHD. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn góp của một thành
viên và vốn điều lệ của công ty TNHH, CTHD”.
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Như vậy, qua nhiều lần sửa đổi, Luật doanh nghiệp hiện hành đã thu hẹp phạm vi
khái niệm “phần vốn góp” khái niệm phần vốn góp chỉ được áp dụng cho hai loại hình
công ty TNHH và CTHD, định nghĩa này không liệt kê cổ phần trong công ty cổ phần là
phần vốn góp. Trong khi về mặt bản chất, số cổ phần mà cổ đông CTCP sở hữu cũng chính
là tổng giá trị tài sản mà thành viên CTCP góp hoặc cam kết góp vào công ty. Theo ý kiến
cá nhân của tác giả luận văn, đã được trình bày ở phần phạm vi nghiên cứu của đề tài thì
cổ phần của cổ đông công ty cổ phần cũng chính là phần vốn góp của chủ sở hữu công ty
trong CTCP. Vì vậy, định nghĩa phần vốn góp trong chuyên đề này xin được hiểu và đề
cập dưới góc độ sau đây:
“Phần vốn góp chính là tổng giá trị tài sản của một thành viên hoặc cổ đông đã góp
hoặc cam kết góp vào công ty TNHH, CTHD, CTCP. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần
vốn góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty TNHH, CTHD, CTCP”.
Qua khái niệm này ta thấy được, phần vốn góp là khái niệm biểu hiện tỷ lệ vốn góp
giữa các chủ sở hữu trong công ty, biểu hiện mức độ sở hữu và quy mô giá trị vốn góp khác
nhau giữa các chủ sở hữu trong công ty. Giả sử A, B, C cùng góp vốn thành lập công ty
TNHH:
A góp 50 triệu, B góp 100 triệu và C góp 200 triệu. Sau một thời gian công ty làm ăn
phát đạt, tổng giá trị tài sản của công ty ABC lúc này tăng gấp đôi được xác định là 700
triệu. Ta thấy, tuy vốn góp của A vào công ty là 50 triệu, nhưng tỷ lệ phần vốn góp của A
tương ứng lúc này là 1/7. Vốn góp của A là 50 triệu, nhưng giá trị chuyển nhượng phần
vốn góp này có thể là 90 hay 100 triệu căn cứ vào giá trị tài sản của công ty tại thời điểm
chuyển nhượng. Một thành viên sẽ được xác định cụ thể một mức độ quyền sở hữu nhất
định đối với công ty căn cứ vào tỷ lệ phần vốn của họ trong tổng số vốn điều lệ là bao
nhiêu. Đó chính là phần vốn góp của mỗi thành viên trong công ty.
Mặt khác, công ty chính là một pháp nhân kinh doanh, đặc biệt là đối với các loại
hình công ty đối vốn thì chúng hoàn toàn có tư cách pháp lý độc lập so với chủ đầu tư
(người góp vốn). Do đó, bản thân công ty có quyền sở hữu tài sản một cách độc lập, đó
chính là các tài sản do các thành viên công ty đóng góp và sau khi công ty ra đời thì quyền
sở hữu đối với các tài sản đem góp vốn được dịch chuyển từ các thành viên sang cho công
ty. Cũng từ đó chúng ta khẳng định: các thành viên không phải là chủ sở hữu một phần tài
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sản của công ty mà họ là người sở hữu công ty thông qua việc sở hữu “phần vốn góp” trong
công ty.
Vì vậy, phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt của chủ sở hữu công ty, loại tài sản
này cũng làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ đặc biệt cho chủ sở hữu. Điều này xuất
phát từ bản chất của quan hệ góp vốn là “sự hùn vốn” giữa các thành viên với nhau và dẫn
đến sự chi phối, chia sẻ lợi ích giữa những người cùng góp vốn. Khi thực hiện góp vốn,
các chủ sở hữu vốn chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho công ty để trở thành
thành viên công ty và nhận được phần quyền lợi tương ứng với tỷ lệ giá trị tài sản đã đem
vào góp vốn trong công ty. Mức độ quyền lợi của họ trong công ty tùy thuộc vào tỷ lệ phần
vốn góp, năng lực, trình độ quản lý, khả năng kinh doanh và uy tín của họ trong công việc.
Một điểm cần lưu ý nữa là, trên thực tế chúng ta thường hay nhầm lẫn giữa nội hàm
khái niệm “phần vốn góp” với các khái niệm có liên quan như “vốn góp”, “tài sản góp
vốn” trong công ty. Thực chất đây là những khái niệm độc lập và thuộc sở hữu của các chủ
thể khác nhau. Ví dụ: “Vốn góp” là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị
của những tài sản mà một thành viên nào đó đóng góp vào công ty. Do đó, vốn góp được
định lượng bằng giá trị, bằng tiền (Việt Nam đồng). Còn “phần vốn góp”là tổng giá tài
sản của thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty nhưng phải đặt trong tương quan
với các phần vốn góp của các thành viên còn lại trong công ty. Như vậy, phần vốn góp
thường biểu thị mức độ, tỷ lệ vốn góp của một thành viên trong tổng số vốn góp của công
ty, nó được xác định bằng các đại lượng số học như 1,2…hay %.
Thực chất “phần vốn góp” là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn, còn “tài
sản góp vốn” là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty. Tài sản của một chủ thể khi đã góp
vào công ty (đã chuyển quyền sở hữu hợp pháp) thì trở thành “tài sản góp vốn”, lúc này
thuộc sở hữu của công ty, còn chủ thể góp vốn thì trở thành thành viên của công ty và sở
hữu “phần vốn góp”. Do đó, thành viên là đồng chủ sở hữu của công ty, còn công ty thì sở
hữu tài sản góp vốn.
Sự phân biệt này có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nó ảnh hưởng tới việc quản trị công
ty, sử dụng đồng vốn và các giao dịch khác liên quan đến tài sản góp vốn, vốn góp và phần
vốn góp của công ty. “Tài sản góp vốn” thuộc sở hữu của công ty nên chỉ công ty mới có
quyền định đoạt, còn thành viên chỉ có quyền định đoạt “phần vốn góp” của mình trong
công ty, chứ không có quyền định đoạt tài sản đã góp nữa. “Vốn góp” là tài sản thuộc sở
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
hữu của công ty với tư cách pháp nhân độc lập, còn thành viên công ty chỉ có quyền sở hữu
công ty thông qua việc sở hữu “phần vốn góp” mà thôi.
1.1.3. Đặc điểm của phần vốn góp
Từ những phân tích ở trên về khái niệm phần vốn góp, có thể thấy bản thân phần vốn
góp là một loại tài sản đặc biệt. Dưới góc độ sở hữu, chủ sở hữu hoàn toàn có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với phần vốn góp này như: tặng cho, chuyển nhượng phần vốn
góp, sử dụng phần vốn góp để trả nợ hay để lại thừa kế... Vì vậy, phần vốn góp trong công
ty luôn tồn tại và xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định cho chủ sở hữu phần vốn
góp đó. Với tư cách là một loại quyền tài sản chứ không phải là một loại tài sản thông
thường, “phần vốn góp” trong công ty có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phần vốn góp là một loại tài sản đặc biệt – quyền tài sản thuộc sở hữu của
thành viên góp vốn trong công ty.
Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn. Nó không phải là các
loại tài sản góp vốn được hình thành từ thế giới vật chất như những tài sản hữu hình khác
(tiền, vàng, nhà xưởng...). Cũng như không phải hình thành từ khối óc, sức sáng tạo của
con người như các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ (tài sản phi vật chất). Mà phần vốn
góp, sau khi được chuyển sở hữu từ tài sản của thành viên góp vốn sang tài sản thuộc sở
hữu của công ty, đã trở thành một loại quyền về tài sản của thành viên công ty. Các thành
viên góp vốn trong công ty có quyền đối với phần vốn góp của mình nằm trong khối tài
sản góp vốn sở hữu của công ty. Khi một người góp vốn vào công ty thì tài sản đó thuộc
sở hữu của công ty nhưng đổi lại người góp vốn đó lại trở thành thành viên của công ty và
có quyền quyền đối với phần vốn góp. Do xuất phát từ hành vi pháp lý của chủ sở hữu
(chuyển giao quyền sở hữu tài sản vào công ty) đã làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
luật định của người góp vốn đối với phần vốn góp của mình trong công ty. Tuy người góp
vốn có quyền đối với phần vốn góp nhưng tùy thuộc vào mỗi loại hình công ty nhất định
mà việc thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu có một số hạn chế.
Hơn nữa, ta thấy có sự khác biệt nếu xem xét khái niệm phần vốn góp dưới phương
diện kinh tế và phương diện pháp lý:
(i) Về phương diện kinh tế, phần vốn góp là sản nghiệp của người góp vốn vào công
ty;
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
(ii) Về phương diện pháp lý, thì phần vốn góp là tỷ lệ vốn mà người góp vốn đã góp
vào công ty. Nếu không có sự phân biệt giữa số vốn góp vào công ty thì sẽ không có sự
khác nhau về quyền và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn trong công ty có nhiều thành
viên góp vốn.
Vì vậy, phần vốn góp chính là một loại tài sản đặc biệt, vô hình, không thể cầm, nắm
hay thấy được bằng các xúc giác của con người, được hình thành thông qua việc góp vốn
vào công ty và tồn tại song song với sự tồn tại của công ty. Trên thực tế việc góp vốn vào
những loại hình công ty khác nhau sẽ tạo nên những quy chế pháp lý khác nhau đối với
người sở hữu phần vốn góp trong công ty.
Thứ hai, phần vốn góp là tài sản có thể chuyển nhượng, tặng cho hoặc thừa kế.
Phần vốn góp với tư cách là một loại quyền tài sản trị giá được thành tiền. Xét theo
quy định tại Điều 115 Bộ Luật Dân sự năm 2015 thì: “Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng
đất và các quyền tài sản khác.”. Từ định nghĩa trên, ta có thể khẳng định quyền tài sản cần
phải đáp ứng được hai yêu cầu: Một là, quyền tài sản phải trị giá được bằng tiền; Hai là, có
thể chuyển giao cho người khác trong giao dịch dân sự. Điều này có nghĩa, do phần vốn
góp vốn là một loại quyền tài sản nên chủ sở hữu có quyền chuyển giao trong giao dịch
dân sự.
Việc định đoạt số phận pháp lý của phần vốn góp là chuyển giao quyền sở hữu đối
với phần vốn góp từ thành viên công ty sang cho người khác. Các hình thức pháp lý định
đoạt cũng rất đa dạng, có thể là việc định đoạt với phần vốn góp như: bán, trao đổi, tặng
cho, để lại thừa kế... Hoặc thông qua các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định
của pháp luật. Ví dụ như: định đoạt việc chia lợi nhuận của công ty theo tỷ lệ vốn góp của
Điều lệ công ty...
Hơn nữa, chủ sở hữu có thể tự mình hoặc ủy quyền cho người khác định đoạt phần
vốn góp của mình. Việc chủ sở hữu hoặc chủ thể khác được ủy quyền định đoạt phần vốn
góp thực hiện quyền định đoạt đối với phần vốn góp sẽ làm chấm dứt hoặc thay đổi các
quan hệ pháp luật liên quan đến phần vốn góp đó. Tuy nhiên, việc chuyển giao này cần
phải tuân thủ các điều kiện nhất định và bị hạn chế bởi một số quy định theo Luật Doanh
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nghiệp năm 2020, nhằm đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế.
Thứ ba, phần vốn góp là cơ sở để xác định quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên
trong công ty
Vì phần vốn góp của các thành viên góp vốn tỷ lệ thuận với số vốn mà họ đã góp vào
công ty. Nên các thành viên tiến hành góp vốn để đổi lấy quyền lợi trong công ty có giá trị
tương ứng với phần vốn góp. Dựa trên phần vốn góp mà ta cũng có thể xác định được
quyền hạn và nghĩa vụ của các thành viên góp vốn. Theo quy định của pháp luật, chủ sở
hữu phần vốn góp (người góp vốn) có các quyền sau:
Quyền tài chính: được phân chia lợi nhuận của công ty tương ứng với tỷ lệ giá trị
phần vốn góp; gánh chịu phần lỗ tương ứng với tỷ lệ giá trị phần vốn góp nếu công ty làm
ăn thua lỗ khi đang hoạt động cũng như khi công ty kết thúc hoạt động; nhận phần tài sản
còn lại tương ứng với tỷ lệ phần vốn góp sau khi đã thanh toán hết các nghĩa vụ của công
ty khi công ty bị giải thể, phá sản.
Quyền phi tài chính: như quyền được biểu quyết trong công ty khi có các vấn đề cần
lấy ý kiến biểu quyết, quyền thông tin các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh và
quản lý của công ty như xem sổ sách kế toán và hồ sơ khác của công ty.
Mặt khác, xem xét dưới khía cạnh nghĩa vụ, khoản 2 Điều 47 Luật doanh nghiệp năm
2020 đã quy định rõ nghĩa vụ góp vốn của thành viên công ty: “ Thành viên phải góp vốn
cho công ty đủ và đúng loại tài sản đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh nghiệp trong
thời hạn 90 ngày kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, không kể
thời gian vận chuyển, nhập khẩu tài sản góp vốn, thực hiện thủ tục hành chính để chuyển
quyền sở hữu tài sản. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương ứng
với tỷ lệ phần vốn góp đã cam kết. Thành viên công ty chỉ được góp vốn cho công ty bằng
loại tài sản khác với tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của trên 50% số thành viên
còn lại.”. Và khoản 3 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2020 xác định rõ số vốn chưa góp được
coi là nợ của thành viên với công ty: “Sau thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này mà vẫn
có thành viên chưa góp hoặc chưa góp đủ số vốn đã cam kết thì được xử lý như sau:a)
Thành viên chưa góp vốn theo cam kết đương nhiên không còn là thành viên của công ty;
b) Thành viên chưa góp vốn đủ phần vốn góp như đã cam kết có các quyền tương ứng với
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
phần vốn góp đã góp;c) Phần vốn góp chưa góp của các thành viên được chào bán theo
quyết định của Hội đồng thành viên.”
Cam kết với bản chất là nghĩa vụ của thành viên với công ty. Chính vì vậy, thành viên
không góp đủ và đúng hạn phần vốn đã cam kết góp thì thành viên đó sẽ phải chịu trách
nhiệm tương ứng với phần vốn đã cam kết đối với các nghĩa vụ tài chính của công ty phát
sinh trong thời gian trước ngày công ty đăng ký thay đổi vốn điều lệ và phần vốn góp của
thành viên công ty.
1.2. Nội dung quy định pháp luật về chuyển nhượng vốn góp ở công ty Trách
nhiệm hữu hạn
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của chuyển nhượng vốn góp
TheoqgiáoqsưqMichaelqBlackeneyqcủaqViệnqnghiênqcứuqsởqhữuqtríqtuệqQueenqMaryq–
qĐại qhọc qLondon qthì qkhái qniệm qchuyển qnhượng qđược qhiểu qnhư qsau: qChuyển qnhượng qlà
qviệcqchủqsởqhữuqbánqtấtqcảqcácqquyềnqsởqhữuqtríqtuệqđộcqquyềnqcủaqmìnhqvàqđượcqmộtqcá
qnhânqkhácqhoặcqphápqnhânqkhácqmuaqlạiqcácqquyềnqđó.qKhiqtấtqcảqcácqquyềnqđộcqquyền
qđốiqvớiqmộtqsángqchếqđãqđượcqbảoqhộqđượcqchủqsởqhữuqcủaqnóqchuyểnqgiaoqchoqmộtqcá
qnhânqhoặcqmộtqphápqnhânqkhácqmàqkhôngqcóqmộtqgiớiqhạnqbấtqkỳqvềqthờiqgianqhoặcqcác
qđiềuqkiệnqkhácqthìqviệcqchuyểnqnhượngqcácqquyềnqđóqxemqnhưqđãqđượcqthựcqhiệnq[9].
TheoqgiáoqtrìnhqLuậtqDânqsựqcủaqĐạiqhọcqLuậtqHàqNộiqthìqkháiqniệmqchuyểnqnhượng
qquyềnqsửqdụngqđấtqlàqsựqthỏaqthuậnqcủaqcácqbên,qtheoqđóqngườiqsửqdụngqđấtqchuyểnqgiao
qđất qvà qquyền qsử qdụng qđất qcho qngười qđược qchuyển qnhượng, qcòn qngười qđược qchuyển
qnhượngqtrảqmộtqkhoảnqtiềnqnhấtqđịnh,qtươngqứngqvớiqgiáqtrịqquyềnqsửqdụngqđó.
Qua qphân qtích qở qtrên qta qthấyqrằng qchuyển qnhượng qlà qviệc qchủ qsở qhữu qgiao qtài qsản
qthuộc qsở qhữu qcủa qmình qcho qngười qnhận qchuyển qnhượng qvà qnhận qđược qtừ qngười qnhận
qchuyểnqnhượngqmộtqkhoảnqtiềnqtươngqđươngqvớiqgiáqtrịq qtàiqsảnqđó.qỞqđâyqtaqthấyqcóqsự
qthỏaqthuậnqgiữaqcácqbênqvềqviệcqxácqlập,qthayqđổiqhoặcqchấmqdứtqquyềnqvàqnghĩaqvụ.
Cùngqmangqbảnqchấtqlàq“chuyểnqnhượng”qtuyqnhiênqviệcqchuyểnqnhượngqphầnqvốn
qgópqtrongqcôngqtyqlạiqđượcqhiểuqmộtqcáchqcụqthểqnhưqsau:qViệcqchuyểnqnhượngqvốnqtrong
qcôngqtyqlàqviệcqchuyển qgiaoqquyềnqsởqhữuqcủa qmộtqthànhqviênqđốiqvới qcôngqtyqchoqmột
qngườiqkhácq(cóqthểqlàqthànhqviênqhoặcqkhôngqphảiqlàqthànhqviênqcủaqcôngqty).qNhưqvậy,