6. đó thu thập các tư liệu khoa học để giải quyết các đề tài khoa học có liên quan,
có thể sử dụng hệ thống phương pháp nghiên cứu khoa học tâm lý dưới đây.
$1. Phương pháp quan sát.
Phương pháp quan sát dụng để thu thập những tư liệu mang tính chất bên
ngoài của đối tượng nghiên cứu, từ đó nhận biết được nguyên nhân tâm lý .
Quan sát trở thành phương pháp nghiên cứu khoa học khi nó được tiến hành
đúng yêu cầu sau đây: quan sát có chủ định những hành vi, cử chỉ hành động,
hoạt động của đối tượng nghiên cứu có liên quan tới mục đích phân tích làm
sáng tỏ hiện tượng tâm lý. Quan sát phải tiến hành thường xuyên liên tục cho
đến khi có thể rút ra được nhận định kết luận khách quan về bản chất tâm lý của
hiện tượng. Khi vận dụng phương pháp quan sát để nghiên cứu đặc điểm riêng
về nhân cách học sinh, vđv – giáo viên – hlv phải tuân thủ những quy định sau
đây:
- Quan sát tâm lý học sinh phải tiến hành trong điều kiện tự nhiên
của hoạt động giảng dạy huấn luyện.
- Phải quan sát những đặc điểm chủ yếu của tâm lý lứa tuổi học sinh.
Các đặc điểm nhân cách đó phải xem xét trong khuôn khổ phạm vi nhân cách
chung của con người ở lứa tuổi nghiên cứu.
- Phải quan sát những đặc tính tốt của học sinh nhièu hơn để căn cứ
vào đó mà tiến hành giáo dục nhân cách. Tất nhiên là không loại bỏ quan sát
hiện tượng xấu.
- Giáo viên GDTC, huấn luyện viên không nên vội vàng và thiếu
thận trọng đánh giá phẩm chất tâm lý học sinh khi chưa có cứ liệu và kết quả
nghiên cứu nội tâm của họ. Nên hiểu rằng hành vi và biểu hiện bên ngoài đôi lúc
lại không như nội tâm vốn có.
- Quan sát những đạc tính tâm lý xấu của học sinh cần chú ý, tìm
nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn tới nét riêng tâm lý đó.
- Cần thiết phải làm sáng rõ khuynh hướng tiến bộ và phát triển các
yếu tố nhân cách của học sinh.
- Nghiên cứu quan sát tâm lý học sinh nên tiến hành trong điều kiện
sinh hoạt, hoạt động tập thể vì ở đó nhân cách mới biểu hiện một cách xác thực.
- Cần phải hiểu ý nghĩ và tình cảm bao giờ cũng là yếu tố thúc đẩy,
học sinh hành động tốt hoặc xấu. Vì vậy khi nghiên cứu quan sát tâm lý học sinh
cần thiết phải làm sáng tỏ động cơ hành động của chủ thể.
$2. Phương pháp đàm thoại
Đó là cách đặt ra những câu hỏi cho đối tượng và đưa vào trả lời của họ
để trao đổi, hỏi thêm nhằm thu thập những thông tin về vấn đề cần nghiên cứu.
Đàm thoại trong một không khí thân mật chân thành, tin cậy, thoải mái,
không gò bó, giữ kẽ và giả tạo. Qua đàm thoại có thể hiếu được tâm trạng, cảm
xúc, tính cách, khí chất, hứng thú và năng lực của con người.
6
7. Có thể đàm thoại trực tiếp hoặc gián tiếp tùy sự liên quan của đối tượng
với điều cần biết. Có thể hởi thẳng hay hỏi đường vòng để đặt vấn đề cần biết.
Muốn đàm thoại thu được tài liệu tốt nên:
- Xác định rõ mục đích yêu cầu nghiên cứu tâm lý để đàm thoại đi
đúng phương hướng nghiên cứu, tránh lan man.
- Trước khi đàm thoại, nên tìm hiểu đầy đủ đặc điểm tâm lý của đối
tượng.
- Phải chủ động dẫn dắt câu chuyện đến chỗ cần tìm hiểu.
- Tránh lối đặt câu hỏi sẵn kiểu vấn đáp, tránh những câu hỏi có thể
dẫn đến đối tượng đến chỗ trả lời máy móc có hoặc không.
- Làm cho câu chuyện mang sắc thái tranh luận khi cần thiết.
$3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động của con người.
Qua nghiên cứu sản phẩm hoạt động nhà nghiên cứu có thể biết được mức
độ hiểu một vấn đề, cách suy nghĩ, xúc cảm, kỹ năng, kỹ xảo, tài nghệ và sở
thích… thậm chí cả tính nết, quan điểm, thói quen và nhân cách của họ. Muốn
sử dụng tốt phương pháp này, người nghiên cứu cần:
- Tìm cách “dựng lại” càng đầy đủ càng tốt quá trình hoạt động đưa
đến sản phẩm nghiên cứu.
- Tìm cách “phụ hiện” lại hoàn cảnh trong đó sản phẩm được làm ra
bằng đàm thoại với đối tượng nghiên cứu.
$4. Phương pháp Anket
Đó là phương pháp dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn
đối tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào
đó. Có thể trả lời viết, nhưng cũng có thể trả lời miệng và có người ghi lại
Có thể phỏng vấn để thăm dò chung hoặc điều tra chuyên đề để ghi sâu
vào một số khía cạnh. Câu hỏi dùng để điều tra có thể là câu hỏi đóng, tức là có
nhiều đáp án để đối tượng chọn một, hay hai, cũng có thể là câu hỏi mở, để họ
tự do trả lời.
Dùng phương pháp này có thể trong một thời gian ngắn thu thập được
một số ý kiến của rất nhiều người nhưng là ý kiến chủ quan. Để có tư liệu tương
đối chính xác, cần soạn kỹ hơn, hướng dẫn điều tra viên (người sẽ phổ biến bản
câu hỏi điều tra cho các đối tượng) vì nếu những người này phố biến một cách
tùy tiện thì kết quả nghiên cứu không cao.
$5. Phương pháp thực nghiệm.
Thực nghiệm tâm lý là công cụ để tìm tòi những hiện tượng tâm lý mới.
Đây là phương pháp thu được các cứ liệu để kết luận khoa học có tính khách
quan. Đặc điểm cơ bản của phương pháp thực nghiệm là người nghiên cứu tạo
7
8. ra trạng huống để những hiện tượng tâm lý của đối tượng nghiên cứu xuất hiện
một cách khách quan và tự nhiên.
Để có được kết luậnn khoa học về vấn đề nghiên cứu cần thiết phải đo
đạc, thực nghiệm nhiều lần và trong nhiều trạng huống khác nhau.
Thực nghiệm để nghiên cứu tâm lý TD, TT có thể tiến hành trong điều
kiện tự nhiên hoặc trong phòng thi nghiệm.
Thực nghiệm trong điều kiện tự nhiên của giảng dạy huấn luyện là
phương pháp hay dùng trong nghiên cứu tâm lý giáo dục và tâm lý TD, TT.
Chẳng hạn, thông qua một giờ giảng trên lớp có thể nghiên cứu khả năng tiếp
thu của học sinh. Tổ chức cho trẻ chơi một trò chơi vận động có thể đo đạc được
những chỉ số về mức độ xúc động.
Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành nhờ các phượng tiện
máy móc, dụng cụ nghiên cứu. Khi vận dụng phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm trong điều kiện phòng thí nghiệm, người nghiên cứu cần chú ý bảo đảm
tính tự nhiên trong quan hệ với phương tiện và người điều khiển. Cần thiết phải
truyền đạt hiểu biết và kỹ năng thao tác để khi đo đạc chính thức bảo đảm độ
chuẩn xác.
$6. Dùng test trắc nghiệm tâm lý:
Test là những bài tập thử nghiệm được thực hiện trong điều kiện quy định
chặt chẽ để qua đó đo đạc một số biểu hiện tâm lý người nghiên cứu có thể
khẳng định có hay không khả năng, kỹ năng, kỹ xảo của một vận động viên.
Test tâm lý cũng cho phép nhà nghiên cứu khảo sát phù hợp hay không thuộc
tính tâm lý của cá nhân với một loại hình hoạt động. Chẳng hạn, test phản xạ
phức hợp có thể cho biết khả năng phối hợp vận động của vận đônngj viên. Tính
khách quan về độ chuẩn xác trong thử nghiệm tâm lý bằng test phụ thuộc vào
mức độ tổ chức thực hiện test một chách khoa học và sự hiểu biết của đối tượng.
Vì vậy quy định test tâm lý cần căn cứ vào mục đích thử nghiệm và cần phù hợp
với trình độ của đối tượng làm thử để họ nắm vững thao tác trước khi chính thức
tiến hành test tâm lý.
Ngoài các phương pháp nghiên cứu của tâm lý trên đây hiện nay khi
nghiên cứu các đề tài khoa học về tâm lý học TD, TT có cơ sở khoa học để thu
thập các cứ liệu khoa học tâm lý trên lĩnh vực này một cách khách quan.
Ví dụ: *Các phương pháp nghiên cứu về cảm giác, tri giác vận động như:
- Đo cảm giác thời gian bằng đánh dấu trên giấy theo khoảng 10 giây
trong thời gian 1 phút.
- Đo cảm giác trương lực cơ bằng bóp lực kế tay theo mức độ quy
định của thử nghiệm.
- Đo cảm giác không gian theo phương pháp veber (gạt kim đồng hồ
đo độ trên thước đo độ)
8
9. - Đo phản xạ vận động đơn và phản xạ phức, dưới tác động của tín
hiệu âm thanh, ánh sáng hoặc màu sắc để phân loại hình thần kinh.
- Đo mức độ xhuẩn xác của cảm giác và trí tuệ vận động bằng phản
ứng lựa chọn tín hiệu luôn thay đổi hoặc di động (của D.V Rodionôp)
- Đo năng lực điều chỉnh nhịp điệu vận động bằng phương tiện
temping – test của giáo sư tiến sĩ O.A Trernhicôva.
- Đo trí nhớ thị giác và trí nhớ thao tác bằng phương pháp ghi nhớ
màu sắc hoặc biểu hình mẫu trong bảng quan sát khi không xuất hiện lại vật ghi
nhớ, và phương pháp đọc và cộng các dãy số trong khoảng thời gian quy định.
* Các phương pháp nghiên cứu ý chí và xúc động trong hoạt động thể dục
thể thao .
- Đo độ rung bằng dụng cụ đo Tơremor để xác định trạng thái xúc
động (của O.A Trernhicôva)
- Đo nỗ lực ý chí bằng bốn thử nghiệm thực thi các bài tập thể chất,
ném bóng rổ, bật xoay người 3600
, thử nghiệm Step – test và bài tập trên cầu
thăng bằng cao 1,5m (của PGS.TS Phạm Ngọc Viễn).
*. Các phương pháp nghiên cứu tâm lý tập thể hoạt động trong hoạt động
TD, TT.
- Phương pháp nghiên cứu tâm lý hoạt động tập thể của đội thể thao bằng
hình thức đánh giá và lựa chọn người cùng hoạt động để khảo sát các yếu tố ăn
ý, đồng cảm, uy tín và vai trò đầu đàn trong hoạt động chuyên môn của đội thể
thao.
Với lượng kiến thức khoa học đồ sộ và hệ thống phương pháp nghiên cứu
có đủ độ tin cậy, cùng những thành tựu ứng dụng hướng dẫn thực tiễn hoạt động
TD,TT trên đây, tâm lý học TD,TT đã thực sự trở thành môn khoa học tâm lý về
loại hình hoạt động đặc biệt này của con người. Đồng thời được thừa nhận là
một môn học cơ sở trong nội dung học tập, đào tào giáo viên GDTC, huấn luyện
viên ở các khoa, trường cao Đẳng, Đại học, sau đại học chuyên ngành TD, TT ở
nước ta và nhiều nước trên thế giới.
Môn học tâm lý học TD,TT có nhiệm vụ:
- Góp phần hình thành thế giới quan và nhân cách người giáo viên
GDTC, huấn luyện viên tương lai.
- Trang bị cho sinh viên hệ thống kiến thức cơ bản về phương pháp
luận khoa học tâm lý chuyên ngành về quy luật diễn biến tâm lý, sự biến đổi
của các hiện tượng tâm lý, hinh thành phẩm chất và năng lực tâm lý đảm bảo
họat động TD,TT có kết quả.
- Hình thành ở sinh viên hiểu biết phân tích và xử lý các trạng huống
sư phạm do nguyên nhân tâm lý gây nên trong quá trình giảng dạy, giáo dục và
huấn luyện.
9
12. - Hoạt động trong lĩnh vực DGTC tăng cường sức khỏe là một trong
những loại hình hoạt động tự ý thức cao. Nếu không tự ý thức được ý nghĩa sức
khỏe, phát triển thể chất là hạnh phúc của cuộc sống, là động lực của mọi hoạt
động và sáng tạo của nhân cách thì con người không thể thực thi thường xuyên
những lượng vận động nặng nhọc để có thể củng cố tăng cường sức khỏe và
hoàn thiện, phát triển thể chất toàn diện, theo quy luật khoa học, chứ chưa nói
đến phát triển con người toàn diện theo yêu cầu của phát triển xã hội và đất nước
- Hoạt động trong lĩnh vực rèn luyện sức khỏe thể chất nhằm đạt tới
3 mục đích chủ yếu có liên quan tơi hoàn thiện và phát triển mặt sinh học và mặt
xã hội của nhân cách. Cụ thể là:
+Hoàn thiện phát triển chất lượng về mặt hình thái và thể trạng của cơ thể.
+ Phát triển hoàn thiện các quá trình tâm lý trong vận động thể lực cũng
như nâng cao hoạt tính và năng lực tâm lý trong hoạt động vận động nói chung
của con người.
+ Góp phần hình thành con người phát triển toàn diện để học tập, lao
động xây dựng bảo vệ tổ quốc có hiệu quả cao.
- Đối tượng hoạt động giáo dục thể chất là học sinh, sinh viên trong
các trường phổ thông, cao đẳng, đại học và trung học chuyên nghiệp. Nội dung
của hoạt động GDTC mang tính thống nhất toàn diện, kết hợp tự nguyện với bắt
buộc trong toàn quốc. Quá trình GDTC phải tuân thủ các nguyên tắc GDTC:
phù hợp lứa tuổi, giới tính, trình độ thể chất và sức khỏe học sinh.
Hoạt động GDTC tăng cường sức khỏe có một số khác biệt tương đối về
mặt nội dung và hình thức so với hoạt động thể thao, vui chơi giải trí và lao
động chân tay ở chỗ:
+ Định hướng GDTC là nhằm củng cố tăng cường sức khỏe về thể chất,
sức khỏe về tinh thần và xã hội, cũng như làm phát triển cân đối, toàn diện nhân
cách của con người.
+ Mục đích của hoạt động rèn luyện thể chất là đạt được mức độ phân loại
sức khỏe tốt; mức độ phát triển năng lực vận động thể chất tối ưu để học tập,
12
13. công tác, lao động sản xuất và sẵn sàng chiến đấu để xây dựng và bảo vệ tổ
quốc; đồng thời hình thành được lối sống khỏe mạnh, tích cực vận động cũng
như làm phong phú thêm đời sống tinh thần của cá nhân cũng như tạo tiền đề
cho tài năng thể thao phát triển.
+ Trong hoạt động rèn luyện thân thể tuy có yêu cầu nỗ lực tâm lý là thể
lực cao song chưa tới mức độ tối đa như hoạt động thể thao.
+ Hoạt động GDTC, rèn luyện thân thể được Hiến pháp và Luật giáo dục;
bảo vệ sức khỏe nhân dân, cũng như pháp lệnh TD,TT nước ta quy định là nghĩa
vụ và quyền lợi của công dân. Trong đó có học sinh, sinh viên. Như vậy hoạt
động rèn luyện thân thể mang tính chất phổ cập bắt buộc kết hợp với tính tự giác
cao của người tập trong quá trình hoạt động. Hoạt động rèn luyện thân thể của
học sinh, sinh viên được thực hiện trong hệ thống trường học và các tổ chức tự
nguyện TDTT được chính phủ bảo đảm các điều kiện: Tài chính, cơ sở vật chât,
giáo viên và các chính sách khuyến khích xã hội hóa TDTT để mặt giáo dục
quan trọng này được thực hiện đúng pháp luật, cũng như làm thỏa mãn được nhu
cầu thiết yếu nàycủa con người. Chính vì vậy đòi hỏi nhận thức trách nhiệm,
nghĩa vụ cao ở chủ thể hoạt động GDTC.
- Trong giáo dục thể chất cũng có hoạt động thi đấu nhưng định
hướng mục đích thi đấu là để nâng cao chất lượng hiệu quả học tập, tập luyện là
chủ yếu.
Về môi trường và điều kiện để GDTC:
- Để tiến hành có kết quả công tác GDTC học sinh, ngoài yếu tố con
người còn phải đảm bảo về cơ sở vật chất, sân bãi, dụng cụ tập luyện cũng như
công cụ đo lường TT và các yếu tố sinh học cơ thể nhất định.
- Theo kết quả nghiên cứu về quy luật ảnh hưởng của môi trường tới
việc thực hiện lượng vận động và trạng thái tâm lý của người tập nói riêng, tơi
kết quả GDTC nói chung của tác giả I.F.Ratôp thì yếu tố môi trường rất chi phối
tới hiệu quả GDTC. Chẳng hạn nếu tập luyện ở phòng tập hoặc sân bãi không
hợp tiêu chuẩn vệ sinh môi trường về lý, hóa (ánh sáng, độ ẩm, áp suất không
khí, nhiệt độ thời tiết, tia bức xạ, phóng xạ, sóng điện từ…) học sinh rất nhanh
chóng mệt mỏi khi thực hiện lượng vận động, căng thẳng tâm lý và xuất hiện
trạng thái buồn chán tập luyện, sao nhãng chú ý và sa sút về ý thức kỷ luật trong
lớp học, dẫn đến chấn thương trong tập luyện.
13
15. độngnhất định, chiến thắng kẻ thù, săn bắn chim thú…) mà là vì cảm giác thoả
mãn đó, con người cảm thấy đựoc khi thực hiện chính các động tác và kèm theo
ý thức đậm màu cảm xúc cho việc hoàn thiện thực hiện động tác đó. Các động
tác đã luôn được sự đánh giá mang tính chất xã hội, bởi vì thành tích về động tác
đó đã chứnh minh trình độ ưu việt của các đại biểu ở nhóm xã hội này so với các
nhóm khác. Đó chính là những vấn đề có liên quan tới tính chất thi đấu và sự
Các môn thể thao cơ bản luôn gắn liền với các bài tập thê chất. Đặc điểm của
chúng là xu huớng chuyênn môn hoá nhừm giải quyết các nhiệm vụ GDTC.
Đồng thời các bài tập thể chất thúc đẩy cả việc hoàn thiện cá phẩm chất đạo đức
ý chí của con người. Do vậy các BTTC đã trở thành những phuơng tiện chuyên
môn để thực hiện và nghiên cứu tâm lý học. Không có sự phân tích đúng đắn
những cơ sở tâm lý của các bài tập thể chất thì không thể đề ra những phương
pháp hợp lý để giảng dạy và huấn luyện thể thao.
điều chỉnh các hành vi vận động theo những luật lệ tương đối phức tạp.
1. Kh¸i niÖm vµ ®Æc ®iÓm cña ho¹t ®éng ThÓ dôc thÓ thao ?
1/ Kh¸i niÖm ho¹t ®éng thÓ thao:
Ho¹t ®éng thÓ thao lµ mét tËp hîp c¸c ph¬ng ph¸p vµ thñ ph¸p nh»m gi¶i
quyÕt c¸c nhiÖm vô cô thÓ cña hµnh ®éng.
2/ §Æc ®iÓm cña ho¹t ®éng thÓ thao
+ Trong ho¹t ®éng thÓ thao, vËn ®éng viªn võa lµ ®èi tîng l¹i võa lµ chñ
thÓ cña ho¹t ®éng.
- TÝnh ®èi tîng thÓ hiÖn ë chç:
Trong ho¹t ®éng thÓ thao vËn ®éng viªn chÞu t¸c ®éng, ®iÒu kiÖn cña huÊn
luyÖn viªn, ®ång thêi khi hä thùc hiÖn bµi tËp thÓ chÊt lµ t¸c ®éng lªn chÝnh c¬
thÓ m×nh, cho nªn hä lµ ®èi tîng cña ho¹t ®éng.
- TÝnh chñ thÓ biÓu hiÖn ë chç:
VËn ®éng viªn lµ ngêi trùc tiÕp thùc hiÖn c¸c bµi tËp thÓ chÊt mét c¸ch
tÝch cùc tù gi¸c vµ hiÓu râ môc ®Ých, ý nghÜa c¸c ho¹t ®éng cña m×nh.
15
17. Để nhận biết và sử dụng một cách hợp lý các BTTC ta phải xem xét cả về
hình thức và nội dung của nó. Về nội dung của các bài tập thể chất bao gồm các
cử động tạo nên nó và các quá trình cơ bản xảy ra trong cơ thể khi thực hiện bài
tập ấy và chính các quá trình cơ thể khi thực hiện bài tập ấy và chính các quá
trình này quyết định sự tác động của bài tập đối với người tập. Các quá trình đó
rất đa dạng và được xem xét về tất cả các mặt tâm lý, sinh lý, sinh cơ…
Hình thức các bài tập thể chất là cấu trúc bên trong và bên ngoài của nó.
Cấu trúc bên trong thể hiện ở các quá trình khác nhau của hoạt động chức năng
của cơ thể, các quá trình phối hợp thần kinh cơ, các quá trình chuyển hoá năng
lượng…Cấu trúc bên ngoai của BTTC là hình dáng của nó có thể nhìn
thấy được và đặc trưng của các quan hệ giữa các thông số không gian, thời gian,
động lực của động tác.
Các động tác TDTT khác nhau về mặt tâm lý trước hết là theo mức độ
phức tạp của các quá trình tâm lý thứ 2 la ftheo mức đọ và tính chất lôi cuốn các
yếu tố bên ngoài của môi trường vào hoạt động đó. Trên cơ sở ấy người ta có thể
chia ra thành các nhóm BTTC sau:
1- Các động tác đơn giản của các phần riêng lẻ của thânn thể con
người, động tác tay, chân, mình, đầu cúi nghiêng người, duỗi thẳng, quay
người…( thí dụ nhiều bài tập thể dục vệ sinh, thể dục buổi sáng, 1 số bài liên
hợp tương đối phức tạp gồm các động tác ấy được đưa vào các bài tập thể dục tự
do. Các động tác này có cấu trúc đơn giản. Về mặt tâm lý, các bài tập đó dựa
trên cơ sở các cảm giác cảm thụ bản thể chính xác và cảm giác vận động cơ.
2- Các động tác di chuyển toàn bộ thân thể khi tập luyện trên các
dụng cụ ( thí dụ các bài tập trên các dụng cụ thể dục: xà kép, vòng treo, ngựa tay
quay, xà đơn, xà lệnh…). Các bài tập nhóm này có đặc điểm là các cử động của
các bộ phận thân thể người tập được liên kết với nhau thành một cơ cấu phức tạp
đảm bảo sự di chuyển của toàn bộ thân thể nói chung do đòi hỏi của tính chất
bài tập. Ngoài ra không thể thực hiện được các động tác trong các bài tập đó nếu
17
18. không tính toán đến các yếu tố bên ngoài nhờ trạng thái của dụng cụ, kích thứơc
và sự đàn hồi… của chúng. Về mặt tâm lý, các bài tập này dựa trên cơ sở tính
chính xác không chỉ của các cảm thụ bản thể mà cả các cảm giác thị giác và xúc
giác liên kết với nhau..
3- Các động tác di chuyển trong không gian có khi phải vượt qua các
vật chướng ngại bên ngoài. Nhóm này bao gồm các BTTC như đi bộ thể thao,
chạy leo đềo, trượt tuyết, trượt băng, nhảy vượt chướng ngại vật…Tất cả các
loại bài tập ấy đều đòi hỏi phải vượt một khoảng không gian nhất định trong một
quãng thời gian ngắn nhất có thể được. Ngoài ra, chúng đòi hỏi quá trình tâm lý
phức tạp ở mức cao, tri giác chính xác các quan hệ không gian và thời gian, nắm
vững đựoc nhịp độ và nhịp điệu của các hành động của bản thân mình biểu hiện
các nỗ lực ý chí tưong ứng những khó khăn do các chưóng ngại vật gây lên.
4- Các bài tập với những dụng cụ khác nhau ( nâng tạ, ném, bài tập
với gậy…). Mặc dù các dụng cụ đựoc dùng trong bài tập này được thực hiện rất
khác nhau ( do đặc điểm cảu kỹ thuật xác định) nhưng chúng đều có đặc điểm
tâm lý chung là các tri giác phức tạp về độ lớn, trọng lượng, trọng tâm, của dụng
cụ cũng như các nỗ lực cơ bắp được phối hợp chặt chẽ với các tri giác đó theo
mức cần thiết để uốn nắn chắc dụng cụ, giữ dụng cụ, ném…
5- Các bài tập thể chất ở các môn thể thao đối kháng gữa các đối thủ.
Nhóm này gồm các môn thí dụ vật, quyền anh, đấu kiếm. Nét tiêu biểu của bài
tập này là phải chống lại những động tác rất khác nhau ( và luôn luôn biến dạng
về sức lực cũng như hình thức ) hoạt động của đối thủ, do đó phải tính toán rất
cẩn thận không chỉ đến các đặc điểm kỹ thuật mà cả những đặc điểm chiến thuật
cảu các đôngj tác đó và làm cho các động tác của mình thích ứng với chúng. Bên
cạnh các tri giác có độ nhạy bén rất lớn, cấu trúc tâm lý của các động tác đó còn
bao gồm độ nhanh và độ chính xác của tư duy và cả tốc độ tính toán chính xác
của sự dự tính đến các hành động của đối thủ.
6- Các bài tập trong các môn bóng. Nhóm này rất đa dạng, mang một
dấu hiệu chung tiêu biểu là tính tập thể của hoạt động TT và cần phải giải quyết
những nhiệm vụ nảy sinh trong các tình huống thi đấu khác nha không phải
riêng lẻ là một mình là chung với các thành viên khác. Đó là những động tác TT
có cấu trúc tâm lý rất phức tạp. Chúng đòi hỏi VĐV phải tri giác nhanh chóng
và chính xác về các đối tượng có liên quan đến cuộc thi đấu, phải hoạt động tư
duy nhạy cảm để đánh giá đúng tình huống, hiểu được ý của đồng đội cũng như
18
19. của đối thủ, phải biết phối hợp có hiệu quả hoật động của mình với hoạt động
của các cầu thủ khác.
3. Đặc điểm tâm lý cơ bản của hoạt động TT:
Hoạt động TT là một trong những hoạt động của con người, nó có đầy đủ
các đặc điểm chung của hoạt động mà ta đã xét ở trên, đồng thời nó cũng có 1
loạt các đặc điểm tiêu biểu sau:
1- Biểu hiện hoạt tính cơ bắp dưới các hình thức rất khác nhau khi
người VĐV thực hiện các động tác TT. Hoạt động thể thao đòi hỏi VĐV ( và về
phần mình, bảo đảm cho VĐV ) sự rèn luyện thể lực và đạt trình độ cao về
chuẩn bị thể lực chung mà cơ sở của nó là sự phát triển thể lực toàn diện.
2- Nắm vững kỹ thuật ở trình độ cao để thực hiện các BTTC ở môn
thể thao được lựa chọn. Trong hoạt động TT đòi hỏi người tập phải qua huấn
luyện chuyên môn có hệ thống và lâu dài. Trong quá trình huấn luyện này người
tập sẽ nẵm vững và hoàn thiện những kỹ xảo vận động nhất định, phát triển
những tố chất thể lực cần thiết ( sức mạnh, sức nhanh, bền, khéo léo ) và các nét
tính cách, phẩm chất ý chí ( lòng can đảm, quyết tâm, tính sáng tạo, ý chí giành
chiến thắng…)
3- Cố gắng hoàn thiện môn thể thao lựa chọn, nhàm đạt những thành
tích cao nhất về môn thể thao đó. Vận động viên không bao giờ thoả mãn với
các thành tích mà mình đạt đựoc. Đối với họ đặc điểm tiêu biểu là cố gắng
thường xuyên và không ngừng tiến lên phía trứoc, nhàm đạt thành tích ngày
càng ở mức cao hơn.
4- Sự tranh đấu TT mang tính tính chất đặc biệt gay gắt trong thời
gian thi đấu cũng như trong huấn luyện có hệ thống, là một bộ phận bắt buộc
phải có của hoạt động TT. Thi đấu TT đòi hỏi sự phát triển ở VĐV khả năng cố
sức tối đa về tất cả các tiềm nămg thể lực kỹ thuật… của mình, đồng thời cũng
đòi hỏi sự rung động cảm xúc, tính căng thẳng của các quá trình thần kinh.
5- Tính chất có ý thức thể hiện rất rõ ở ý thức trách nhiệm cao và sự
cố gắng đạt thành tích cao nhất, cố gắng lập kỷ lục ở từng tình huống thi đấu cụ
thể điều đó nó đòi hỏi các phẩm chất và chức năng tâm lý của VĐV phải đựoc
rèn luyện và phát triển ở mức độ cao. Hoạt động TT đề ra những yêu cầu to lớn
đối với các quá trình thông tin và xử lý thông tin, đối với trí nhớ của VĐV, đối
với các phẩm chất ý chí, các trạng thái cảm xúc của họ.
19
20. 4. Động cơ của hoạt động thể thao:
Đặc điểm tâm lý nổi bật và cũng là cơ bản nhất của động cơ kích thích
người ta tập luyện thể thao là cảm giác được thoả mãn do việc tập luyện ở môn
thể thao nào đó gây ra. Đồng thời các động cơ ấy mang tính chất phức tạp ứng
với tính phức tạp và tính đa dạng của chính bản thân hoạt động thể thao. Người
ta đã chia ra các loại hoạt động thể thao như sau:
a. Các động cơ trực tiếp của ho¹t động thể thao gồm:
+ Cảm giác thoả mãn đặc biệt mà VĐV khi được tham gia vận động cơ bắp.
+ Thấy được các giá trị về thẩm mỹ, nghệ thuật của hoạt động TDTT ( vẻ đẹp,
tính chính xác, sự khéo lứo…của dộng tác mà mình thực hiện).
+ Cố gắng tự thể hiện sự can đảm, quyết tâm của mình khi thực hiện các bài tập
khó và nguy hiểm.
+ Các cảm xúc thoả mãn đó đựoc tham gia thi đấu gây ra.
+ Sự cố gắng đạt các thành tích, kỷ lục, cố gắng thể hiện tài nghệ thể thao của
mình, cố gắng giành thắng lợi, dù khó khăn đến mức độ nào đi nữa…
b. Các động cơ gián tiếp của hoạt động thể thao:
+ Do hiểu đựoc ý nghĩa, tác dụng của tâp luyện TDTT ( tập TDTT để củng cố
tăng cường sức khoẻ, rèn luyện các phẩm chất, dung cảm, ý chí…).
+ Thấy được các tác dụng của TDTT nhân cách để tham gia vào các hoạt động
thực tế của nghề nghiệp, chiến dấu…
+ Do nhận thức ra nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc chấp hành các quy
định, quy chế. Ví dụ: giờ học TDTT bắt buộc học sinh phải tham gia hoặc hoạt
động TDTT là một cầu của nội dung thi đấu…
+ Do nhận thức đựoc tầm quan trọng và ý nghĩa xã hội của hoạt động thể thao”
Mỗi người dân yếu ớt thì làm cho cả nứoc yếu ớt 1 phần. Mỗi người dân mạnh
khoẻ tức là làm cho cả nứoc mạnh khoẻ một phần” hoặc tôi tập luyện để trở
thành VĐV xuất sắc đem lại vinh quang cho Tổ Quốc, cho tập thể.
20
21. c. Trên cơ sở nghiên cứu về các động cơ của hoạt động thể thao
A.X.Panhi đã xác định đîc sự diễn biến và phát triển của các động cơ đó của
các giai đoạn tập luyện của V§V như sau:
* Giai đoạn bắt đầu tập luyện: ở thời kỳ này VĐV thể hiện các cố gắng đầu tiên
để tham gia hoạt động thể thao. Các động cơ kích thích việc đó có các đặc
trưng: Thứ nhất là sự phânn tán hứng thú đối với các bài tập thể chất( thanh
niên, bắt đầu tập luyện không phỉa với 1 số môn, thứ hai là tính trực tiếp( tôi tập
luyện bởi vì tôi thích thể thao), thứ ba là sự liên quan tới điều kiện của môi
trường thuận tiện cho việc tập luyện 1 môn thể thao nào đó( sống ở gần sông,
sao lại không biết bơi, khi mà mọi người xung quanh đều bơi, lặn rất tốt): thứ tư
là có yếu tố bắt buộc( cần phải hoàn thành nghĩa vụ học tập môn TDTT quy
định).
* Giai đoạn chuyên sâu về một số môn thể thao đã đựoc lựa chọn, ở giai đoạn
này các động cơ của hoạt động thể thao là:
- Kích thích và phát triển hứng thú chuyên môn về một môn thể thao nhất định.
- Biểu hiện có khả năng về môn thể thao và cố gắng phát triển các khả năng đó.
- Rung động cảm xúc mạnh về thành tích thể thao và cố gắng cũng có thành tích
đó.
- Mở rộng các kiến thức chuyên môn, hoàn thiện kỹ thuật thể thao, đạt trình độ
điêu luyện ngày càng cao.
* Giai đoạn tài nghệ thể thao: ở giai đoạn này những động cơ cơ bản của hoạt
động thể thao là:
- Sự cố g¾ng duy trì tài nghệ thể thao của mình ở trình độ cao và cố gắng đạt
thành tích ngày càng cao hơn.
- Cố gắng phục vụ Tổ Quốc bằng các thành tích thể thao của mình, cố gắng giứ
gìn vinh quang về thể thao của Tổ Quốc mình qua các đợt thi đấu thế giới. Cố
gắng lập các kỷ lục mới để đóng góp vào thành tích thể thao của Tổ Quốc.
- Cố gắng tác động đến sự phát triển môn thê thao mà mình lực chọn, làm phong
phú và hoàn thiện kỹ thuật và chiến thuật môn đó, có nhu cầu truyền đạt kinh
nghiệm của mình cho các VĐV trẻ.
Các dạng cơ bản của hoạt động thể thao ở giai đoạn này biểu hiện tiêu
biểu ở xu hướng xã hội rõ nét và ở những khát vọng mang tính chất sư phạm.
21
25. qua thực hiện động tác vận động nhiều lần, biểu tượng vận động đó được lưu lại
trong trí nhớ rất lâu trong cuộc sống. Ví dụ: trẻ em học và biết đi xe đạp xe đạp
từ nhỏ xong sau một thời gian không sử dụng xe đạp, nhưng kỹ năng hoạt động
đó vẫn tồn tại trong trí nhớ và trong thực hành ở tuổi trưởng thành.
Nên nhớ rằng trong lúc thiết lập chương trình hành động vận động tổng
thể nhất thiết phải có tư duy hình dung và tư duy trìu tượng về cách thức thực
hiện động tác vận động. Điều đó đảm bảo về mặt ý thức cho hành động, vận
động cũng như giúp học sinh hiểu sâu sắc các mối quan hệ của các yếu lĩnh
động tác, khi thực hiện một mặt kỹ thuật vận động cụ thể. Thực tiễn giảng dạy
kỹ thuật động tác thể thao cho thấy: nếu học sinh không hiểu và không nhận
thức được tổng thể một động tác hay bài tập thể chất thì kết quả thực hiện chúng
sẽ rất thấp và thời gian tập luyện để tiếp thu chúng sẽ bị kéo dài.
Trong khi thực hiện một hành động vận động thể lực. Vai trò điều khiển
của ý thức được thực hiện ở hai khía cạnh: kiểm tra và kiểm soát hành động và
nhận xét đối chiếu kết quả hành động qua kênh liên hệ ngược thông tin về các
điều kiện bên ngoài cũng như các biểu hiện bên trong (cảm giác – cơ, tiền đình)
Nếu thiếu hoạt động kiểm tra và điều chỉnh của ý thức, chương trình vận
động sẽ bị sai lệch và mất phương hướng do thiếu sự tham gia của ý thức.
Như vậy xét về cơ chế tâm lý, chương trình hành động vận động được cấu
trúc theo sơ đồ dưới đây:
Tóm lại một hành động vận động thể lực (trong đó có kỹ thuật động tác
thể thao và bài tập thể chất) theo quy luật tâm lý vận động bao giờ cũng thực
hiện theo một chương trình hành động trọn vẹn có sự tham gia điều khiển, điều
chỉnh của ý thức. Để có phương an chuyển động sinh cơ phù hợp mục đích hành
động, chủ thể phải hình dung thị giá, thính giác và trực giác khác về hình thức
và nội dung động tác. Qua đố, xác lập biểu tượng về hành động hoàn chỉnh và
điều khiển thực hiện chúng theo các thông số kỹ thuật. Trong quá trình thực hiện
vận động nhất thiết phải có sự can thiệpcủa ý thức để đnáh giá đối chiếu điều
chỉnh nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hành động vận động.
2. Quy luật tâm lý trong hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động trong
hoạt động TD, TT.
Theo khái niệm tâm lý học đại cương, kỹ năng, kỹ xảo, kỹ thuật, vận động
thuộc phạm trù trong phương thức và trình độ thao tác hành động để thực hiện
các nhiệm vụ hoạt động của con người.
25
26. + Kỹ năng được hiểu là sự hiểu biết và thao tác hành động đạt tới mức độ
điêu luyện (tự động hóa) một số bộ phận hoặc một kỹ thuật hoạt động hoàn
thiện.
+ Kỹ xảo được hiểu là kỹ năng thao tác hành động đạt tới mức độ tự động
háo cao, không đòi hỏi sự chi phối của ý thức trong thực hiện và điều khiển hoạt
động.
Trong thực tiễn hoạt động GDTC và thể thao mức độ hoàn thiện kỹ năg,
kỹ xảo vận động chỉ đạt được khi tập luyện có hệ thống liên tục kéo dài. công
việc này được phân chia thành từng phần nhỏ phụ thuộc vào nhiệm vụ hành
động cụ thể. Tính chất nhiệm vụ chi phối việc xác định các giai đoạn hình thành
kỹ năng kỹ xảo vận động trong TD, TT cho thấy kỹ năng, kỹ xảo thực hiện các
động tác kỹ thuật được chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn I: Xây dựng cơ sở chung của kỹ năng vận động bằng cách giải
thích nhiệm vụ hành động và tiếp thu các khái niệm và biểu tượng cần thiết về
kỹ thuật thực hiện hành động vận động. Thông thường giai đoạn này được kết
thúc bằng những cố gắng tự thực hiện thử toàn bộ hành động vận động.
Đặc điểm tâm lý ở giai đoạn này là ở học sinh hình thành biểu tượng khái
quát về bài tập nói chung.
Trong cấu trúc biểu tượng vận động, yếu tố thị giác giữ vai trò chủa đạo.
Các cảm giác và tri giác vận động cơ còn chưa định hình. Người tập còn chưa tri
giác được rõ ràng mình thực hiện một động tác nào đó thuộc cấu trúc chung như
thế nào bởi vì toàn bộ sự chú ý của họ chỉ tập trung vào việc thực hiện cả bài tập
nói chung ở giai đoạn này các quá trình tư duy ngôn ngữ để nhận thức việc thực
hiện động tác đúng và ko đúng là rất quan trọng các thủ tục chuyên môn (lời nói
kết hợp với trực quan) sẽ giúp cho học sinh tạo nên hình ảnh hoàn chỉnh về động
tác. Các động tác đúng được củng cố ngay nhờ có sự tham gia tích cực của các
biểu tượng vận động.
Giai đoạn II - Nhận thức rõ tất cả thành phần cơ bản của kỹ năng vận
động nhờ tự động hóa được chức năng tín hiệu của biểu tượng vận động. Do đó
thực hiện thường xuyên nhiệm vụ, hành động có một ý nghĩa quan trọng.Giai
đoạn này được kết thúc bằng việc thực hiện chắc chắn toàn bộ hành động vận
độn có sự điều khiển của ý thức trong các điều kiện thay đổi hòan cảnh vận
động.
26
27. Trong giai đoạn này cảm giác vận động cơ đa xtrở nên có ý thức rành rọt
hơn. Sự tri giác cả bài tập nói chung cũng như các yếu lĩnh riêng lẻ của nó trở
nên có phân biệt hơn. Nhờ có biểu tượng mà động tác trở nên chi tiết, đầy đủ và
chính xác hơn. Trong biểu tượng, các yếu tố tham gia vào vận động, động tác
ngày càng thể hiện đúng và đủ hơn. Học sinh có thể tự đánh giá tính đúng đắn
của việc thực hiện một yếu lĩnh nào đó bằng cmả giác vận động cơ. Sự phân tích
sơ bộ và tiếp thu bằng lời về động tác cần học lúc này có ý nghĩa quan trọng
trong việc tạo ra một hình ảnh vận động phức tạp.
Giai đoạn III – Trình độ kỹ thuật của học sinh đạt được ở mức độ cao khi
giải quyết các nhiệm vụ hành độn cụ thể trên cơ sở nhận thức sâu sắc tất cả các
thành phần kỹ năng vận động. Lúc này phát triển đầy đủ hơn sự lựa chọn trạng
huống để thực hiện hành động theo các chức năng định hướng và điều chỉnh của
biểu tượng vận động. Thông thường giai đoạn này kéo dài tới các giai đoạn tập
luyện, thi đấu thể dục thể thao về sau.
Biểu tượng vận động thể hiện rõ ở độ chính xác và khả năng phân biệt tư
thế các yếu tố vận động. Động tác được thực hiện một cách nhanh chóng, chính
xác và tiết kiệm. Các yếu lĩnh thành phần đã được tự động hóa, nghĩa là không
cần sự kiểm tra của thị giác, mà chủ yếu nhờ cảm giác vận động cơ.
Các kỹ năng được hình thành theo các quy luật tâm – sinh lý sinh cơ, nhất
định. Những quy luật đó được thiết lập trên cơ sở phân tích kết quả thực hiện bài
tập theo giai đoạn thông qua các chỉ số kết quả thực hiện các hành động vận
động được học.
Khi phân tích kết quả thực hiện các bài tập, người ta nhận thấy là kết quả
thực hiện một hành động vận động được tăng lên theo mức độ phát triển kỹ năng
vận động.
Kết quả thực hiện bài tập luôn luôn có khuynh hướng tăng lên. Theo quy
luật tăng tiến từ từ và theo quỹ đạo đường cong và đường gấp khúc.
27
28. Thực tÕ thể thao đã chứng minh là ở giai đoạn ban đầu tập luyện môn thể
thao chuyên sâu, nếu việc nắm vững phương thức giải quyết nhiệm vụ hành
động thì kết quả tăng lên rất nhanh, sau đó tốc độ tăng chậm dần lại.
Không phải lúc nào thành tích cũng tăng tịnh tiến theo mức độ hình
thành kỹ năng, mà phát triển không đồng đều trong quá trình hình thành kỹ năng
vận động. Nhiều khi trình độ kỹ thuật của họcúinh không tăng lên mà cũng
không giảm xuống. Trên độ thị xuất hiện khoảng cách nằm ngang. Đó chính là
quy luật về sự kìm hãm phát triển thành tích của từng giai đoạn đơn lẻ của quá
trình hình thành kỹ năng vận động.
II. CẤU TRÚC NGHỀ NGHIỆP VÀ YÊU CẦU NHÂN CÁCH CỦA
NHÀ GIÁO DỤC THỂ CHÂT
Nghị quyết của đaị hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng Sản
Việt Nam về Giáo dục – đào tạo đã chỉ rõ định hướng phát triển toàn diện đội
ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng chuyên mônvà đạo đức sư phạm, tạo cho họ
khả năng và điều kiện đẻ chuẩn hóa theo luật định. Mặt khác để đội ngũ nhà
giáo góp phần quyết định tạo ra bước chuyển biến cơ bản toàn diện về giáo dục
– đào tạo, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực có lòng yêu nước, có
lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tự tôn dân tộc, tôn trọng pháp luật, có kiến thức cơ
bảnlàm chủ kỹ năng nghề nghiệp, lao động sáng tạo phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Định hướng tư tưởng của Đảng trên đây đồng thời cũng là cơ sở phương
pháp luận nghiên cứu những vấn đề về tâm lý nhân cách nhà giáo GDTC.
28