SlideShare a Scribd company logo
1 of 87
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG NGỌC HƯNG
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60.38.30
MÃ TÀI LIỆU: 80131
ZALO: 0917.193.864
Dịch vụ viết bài điểm cao : luanvantrust.com
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những phân tích, đánh giá hoàn toàn dựa trên quan điểm
của cá nhân tôi. Những kết luận và kiến nghị trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Ngọc Hưng
1.1
1.2.
1.2.1.
1.2.1.1.
1.2.1.2.
1.2.2.
1.2.2.1.
1.2.2.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.
1.3.3.
1.3.4.
1.4.
1.5.
1.5.1.
1.5.2.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI
VỚI HỌ, TÊN
Khái niệm quyền nhân thân
Quyền đối với họ, tên
Khái niệm họ, tên.
Họ
Tên
Quyền đối với họ, tên
Khái niệm quyền đối với họ, tên
Đặc điểm quyền đối với họ, tên
Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân
thânkhác.
Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh
Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên
Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín
Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả
Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên
trong pháp luật Dân sự Việt Nam
Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số
quốc giatrên thế giới
Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Pháp
Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Thái Lan
Trang
1
5
10
10
10
12
15
15
17
20
20
21
22
23
24
27
27
29
1.5.3.
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.1.3.
2.1.4.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.3.
2.3.1.
2.3.1.1.
2.3.1.2.
2.3.2.
2.3.2.1.
2.3.2.2.
Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Hoa Kỳ
CHƯƠNG 2
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
Nội dung quyền đối với họ, tên
Cá nhân có quyền có họ, tên
Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Cá nhân được sử dụng bút danh, bí danh một cách hợp pháp
Cá nhân được thay đổi họ, tên
Các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên
Sử dụng họ, tên của người khác mà không có sự cho phép của
người đó
Xâm phạm quyền đối với họ tên của người có trách nhiệm khai
sinh cho trẻ.
Hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên cá nhân của cơ quan có
thẩm quyền
Bảo vệ quyền đối với họ, tên
Khái niệm và vai trò bảo vệ quyền đối với họ, tên
Khái niệm
Vai trò của bảo vệ quyền đối với họ, tên
Các biện pháp bảo vệ quyền đối với họ, tên
Biện pháp tự bảo vệ
Yêu cầu người xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổchứccó thẩm
30
33
33
34
37
39
40
42
42
45
46
47
48
48
49
50
51
52
2.3.2.3.
2.4.
2.5.
2.6.
2.6.1.
2.6.2.
quyềnbuộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xinlỗi, cải chính
côngkhai
Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại
Một số bất cập trong quy định của pháp luật về quyền đối với
họ, tên
Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền đối với
họ, tên
Phương hướng và giải pháp hoàn thiệnpháp luật về quyền
đối với họ, tên
Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên
Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ,
tên
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
53
56
60
66
66
68
72
74
78
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
BLDS:
BLDS 2005:
BLDS 1995:
Nxb:
TAND:
Tr:
UBND:
Bộ Luật Dân sự.
Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Bộ Luật Dân sự năm 1995.
Nhà xuất bản.
Tòa án nhân dân.
Trang
Ủy ban nhân dân.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết củađề tài
Họ và tên là những giá trị tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, là một trong
những yếu tố nhân thân để phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Quyền nhân
thân đối với họ, tên là một trong những quyền nhân thân cơ bản, cá biệt hóa cá
nhân, cần được pháp luật bảo vệ. Mặc dù quyền đối với họ, tên được coi là một
quyền nhân thân cơ bản của cá nhân và được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối
nhưng trên thực tế việc áp dụng pháp luật để đảm bảo quyền đối với họ, tên của
cá nhân vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng
này là những quy định pháp luật chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ. Cụ thể pháp
luật dân sự chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể định nghĩa như thế nào là
quyền đối với họ, tên; người có quyền đối với họ, tên của mình thì có những
quyền năng gì cụ thể. Những thiếu sót này của pháp luật đã gây khó cho cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng chưa tạo điều
kiện cho mỗi cá nhân được hiểu đúng, đầy đủ về quyền lợi của mình. Từ việc
nhận thức không đúng, không đầy đủ dẫn đến những cách áp dụng không thống
nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó pháp luật hiện hành cũng
thiếu sót một phần quan trọng chưa hề quy định đó là quy định để nhận biết các
hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên của cá nhân. Việc quy định các hành vi
xâm phạm quyền đối với họ, tên là công việc có tính cấp thiết trong bối cảnh bản
thân người có quyền và chính các cơ quan có thẩm quyền còn đang loay hoay
trong việc nhận biết được có sự xâm phạm hay không. Xuất phát từ những lý do
trên đây, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền đối với họ, tên – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành luật của
mình.
2. Tình hình nghiêncứu đề tài
Quyền nhân thân nói chung và một số quyền nhân thân cụ thể đã được
nghiên cứu, tìm hiểu qua khá nhiều các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trong
2
khoa học pháp lý, chưa có công trình nào nghiên cứu quyền đối với họ, tên một
cách có hệ thống và quy mô, từ lý luận đến thực tiễn. Những công trình liên quan
chỉ đề cập tới quyền đối với họ, tên là một quyền trong hệ thống các quyền nhân
thân và trong những công trình nghiên cứu này, quyền đối với họ, tên chỉ được
đặt trong một phần nhỏ, với những nghiên cứu ở mức độ nhất định. Trong đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường do ThS. Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài:
“Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân
sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tại bài viết chuyên đề: “Quyền
nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: quyền của cá nhân đối với họ, tên,
dân tộc, hình ảnh” của ThS. Nguyễn Minh Oanh cũng đã đề cập tới một số vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền đối với họ, tên với tư cách là một
quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân.
Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã phân tích,
đánh giá trên một vài phương diện liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân. Bài viết: “Quyền thay đổi họ, tên từ pháp luật đến thực tiễn” của tác giả
Hoàng Long đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư Pháp, số chuyên đề
3/2008, bài viết: “ Quy định về thay đổi họ, tên của một người cần được hướng
dẫn cụ thể” của tác giả Vương Tất Đức, Nguyễn Thanh Xuân, tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 4 năm 2010 đã đưa ra một số những bất cập trong
luật định và các trường hợp vướng mắc trong thực tế liên quan đến việc thay đổi
họ, tên của cá nhân. Bài viết: “Xác định họ đối với cá nhân”với tác giả Nguyễn
Đình Toàn đăng trênTạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, số tháng 7/2008,
bài viết: “Cần có hướng dẫn việc đăng ký họ, tên khi đăng ký khai sinh”của tác
giả Thảo Linh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 3/2008
đã đưa ra quan điểm trong việc xác định họ cho đứa trẻ khi đi khai sinh, quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng và những một số kiến nghị hoàn thiện
luật. Những công trình nghiên cứu đã nêu trên đây chỉ mới đề cập tới quyền đối
3
với họ, tên ở những khía cạnh, nội dung nhất định mà không nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống trên tất cả mọi phương diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ được quy định về quyền đối với họ,
tên trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật liên quan. Từ những quy định
của pháp luật, đề tài cần đạt được một mục đích thứ hai là liên hệ, đánh giá được
việc áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên trên thực tế là như thế nào. Khi
đã có những kết quả nhất định về việc áp dụng trên thực tế đề tài nghiên cứu
hướng tới mục đích thứ ba là tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật,
chỉ ra những điểm chưa phù hợp với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp
hoàn thiện pháp luật. Đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tham khảo cho
những người nghiên cứu luật và các cơ quan áp dụng pháp luật.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
như sau:
- Trình bày được lý luận chung về quyền nhân thân liên quan đến họ, tên
của cá nhân.
- Phân tích nội dung pháp luật liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân.
- Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về
quyền đối với họ, tên của cá nhân.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, học viên chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung cơ bản liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân như khái niệm về quyền đối với họ tên, đặc điểm pháp lý của quyền đối với
họ, tên; nội dung quyền đối với họ, tên; các hành vi xâm phạm quyền và các
phương thức bảo vệ quyền nhân thân này. Bên cạnh những những phân tích
4
mang tính lý luận là những vụ việc thực tế liên quan trực tiếp đến họ, tên của cá
nhân.
5. Phương pháp nghiêncứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu đề tài được xác định như sau:
- Phương pháp so sánh luật: nghiên cứu các quy định pháp lý của Việt Nam
về quyền đối với họ, tên, các quy định pháp lý cơ bản của nước ngoài về quyền
đối với họ, tên, từ đó rút ra những điểm tương đồng, khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đối với mỗi một quan điểm khoa học
đưa ra, học viên đã phân tích, tổng hợp để rút ra những điểm ưu, nhược và dẫn
đến cách nhìn nhận của bản thân
- Ngoài ra học viên còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp,
diễn giải…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đem lại những điểm mới sau đây:
- Luận văn là một công trình nghiên cứu với cái nhìn tương đối cơ bản, toàn
diện mang tính pháp lý về quyền đối với họ, tên;
- Luận văn giúp đánh giá đúng những bất cập trong quy định pháp luật về
quyền đối với họ, tên cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này;
- Luận văn đã đưa ra những giải pháp cụ thể mang tính hoàn thiện những
quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn thạc sỹ luật học với tên đề tài: “Quyền đối với họ, tên – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn”có kết cấu gồm phần Mở đầu, các chương nội dung
chính, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung chính của
luận văn gồm hai chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền đối với họ, tên.
Chương 2: Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam hiện hành, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Với mục đích đưa ra một khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi cho rằng
cần thiết phải xuất phát từ những khái niệm liên quan như quyền con người,
quyền dân sự.
Con người với vị trí và tầm quan trọng trong lịch sử phát triển thế giới luôn
được coi là chủ thể cần được trân trọng và bảo vệ. Trong quá trình phát triểnxã
hội, những quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng cùng với nhiều
mặt tiêu cực. Quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người đã và đang
được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng yếu. Quyền con người được
hiểu là quyền đối với những lợi ích của con người – với tư cách là chủ thể tham
gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa…Sự ra đời của các công ước về quyền con người được coi như là
một minh chứng cho tầm quan trọng và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia
đối với quyền con người, điểnhình là Công ước quốc tế 1966 của Liên hiệp quốc
về quyền dân sự, quyền chính trị.
Quyền nhân thân theo quy định tại BLDS 2005 (BLDS 2005) là một loại
quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có các
quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có thể do
các bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể về quyền
dân sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo những lợi
ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật chính là đã bảo
đảm quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự được coi là một khái
niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con người. Quyền dân sự với tư
cách là một quyền con người cũng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo
vệ. Nhà nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã thể hiện quan điểm rõ ràng
6
trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến pháp, cụ thể là Hiến pháp năm
1992 đã quy định rõ những quyền con người cơ bản nhất được thể hiện tại
Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là “khả năng xử sự được phép của
chủ thể có quyền năng được nhà nước quy định hoặc công nhận khi tham gia
vào quan hệ dân sự và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện” [20, tr.82].
Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi
liên quan đến vật chất hoặc những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí
nhất định mà quyền dân sự được phân loại thành những loại quyền khác nhau.
Có thể nói sự phân loại phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên
thế giới là sự đối lập giữa quyền nhân thân và quyền tài sản.
Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề cập
tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Luận
văn trêncơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những nhận định của
cá nhân.
Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Toà án nhân dân Tối cao,
trong đề tài: “Vai trò của TAND trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công
dân theo quy định của BLDS” khái niệm quyền nhân thân được xây dựng trên
hai góc độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự là quyền con
người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là
thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các
quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao
lưu dân sự, do đó quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Dưới góc độ khách thể, quyền nhân
thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy
định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa
vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con
người về dân sự [30, tr. 19]. Theo đó, quyền nhân thân mà chúng ta đang tìm
7
hiểu được hiểu là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này
có từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với
nhau và không thể chuyển giao.
Từ điển luật học của viện nghiên cứu pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách định
nghĩa khác về quyền nhân thân:
“Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xácđịnh dân
tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh
dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn,
quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi
lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối
với tácphẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người đó có
quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc toà án buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính
trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu
cầu toà án buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại vật chất hoặc tinh
thần. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác.” [33, tr. 653].
Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá xúc tích, quyền
nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân,
các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền nhân thân trong
cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của BLDS 2005. Điều 24
BLDS 2005 có quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là
8
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà nghiên
cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm tiêu biểu.
Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” – tạp chí Luật học số
7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng thuận với quy
định tại Điều 24 BLDS 2005 ở hai điểm: thứ nhất, Điều 24 BLDS 2005 định
nghĩa rằng quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao trừ khi pháp luật có quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi
lẽ trên thực tế có một số quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng
không được xác định là quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn
chứng cụ thể như trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và
Gia đình có quy định rằng: “nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ
và chồng theo quy định của luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác”, tương ứng với
nghĩa vụ cấp dưỡng Luật Hôn nhân và Gia đình cũng quy định quyền yêu cầu
cấp dưỡng gắn với những chủ thể nhất định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp
dưỡng chính là một loại quyền tài sản. Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một cá
nhân cụ thể và không thể chuyển giao. Thứ hai, tác giả của bài viết này không
đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Trong
các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên quan đến yếu tố pháp lý của pháp nhân
– chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và Điều 611 BLDS
2005 có đề cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” hay tại Nghị
quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/07/2006 củaHội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, đều
nhắc đếnthiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân¸và pháp nhân được bồi
thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của bài viết cho rằng những quy định này
9
đã khẳng định quyền nhân thân của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng
nghĩa với việc cho rằng quyền nhân thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24
BLDS là không chính xác. Từ những phân tích đó, TS Bùi Đăng Hiếu cũng đã
đưa ra quan điểm cá nhân khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: “Quyền
nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không
định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác”[8, tr.40].
Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan
điểm của TS. Lê Đình Nghị trong Luận án Tiến sỹ - Quyền bí mật đời tư theo
quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008). Trong Luận án này, tác giả
đã xây dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và
chủ quan. Nghĩa khách quan: “quyền nhân thân được hiểu hiểu là một phạm trù
pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong
đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với
bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình”. Theo
nghĩa chủ quan, tác giả cho rằng “quyền nhânthân là quyền dân sự chủ quan gắn
liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể
chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.” Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi xây
dựng khái niệm về quyền nhân thân.
Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng chưa
thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một
loại quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ
thể từ khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội
phát triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn,
đồng thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành
nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ
yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành và
10
pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định các
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình, Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quyền nhân thân là
một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ gắn với con
người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp
nhân, Luật Dân sự đã có quy định liên quan đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ
như quy định tại Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cũng đã nhắc đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng
cách gián tiếp, BLDS đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như
vậy có thể khẳng định quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn
với chủ thể khác.
Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền dân sự
thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là những quyền
có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một cách hoàn toàn
bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân thì không thể định
giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất mặc dù trong một số
trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng hưởng một khoản lợi ích
vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem là một loại quyền vô giá.
Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về quyền
nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2. Quyền đối với họ, tên
1.2.1. Khái niệm họ, tên.
1.2.1.1. Họ
Mỗi cá nhân sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có họ và tên, đầu tiên đó
là dấu hiệu nhận biết, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác, tiếp nữa mỗi cá
nhân trong xã hội phải có một cái tên kèm theo một họ nhất định để đảm bảo
11
hiệu quả trong quản lý xã hội của nhà nước. Họ và tên của cá nhân cũng mang
một ý nghĩa sâu sắc, thông qua họ tên đó chúng ta biết nguồn gốc, lai lịch, giới
tính của cá nhân...
Họ vốn để chỉ một tập hợp người cùng tổ tiên, cùng một dòng máu (ví dụ
như họ nội, họ ngoại). Họ là một phần trong tên gọi, để xác định cá nhân đó
thuộc dòng họ nào. Họ được đặt trước tên đệm và tên chính của một người, dùng
chung cho một tập hợp những người cùng một dòng máu (sau đây được gọi là
cùng một họ) để phân biệt với người thuộc họ khác. Họ có chức năng phân biệt
một tập hợp người cùng tổ tiên, dòng máu này với một tập hợp người có cùng tổ
tiên, dòng máu khác. Họ luôn đi đôi với tên chính và tên đệm (nếu có) nên góp
phần cá thể hóa cá nhân. Khi hai hay nhiều người có cùng tên đệm và tên chính
thì họ sẽ là một yếu tố quyết định đến chức năng cá thể hóa. Chẳng hạn để phân
biệt hai người có cùng tên Giang là Chu Lam Giang và Lê Lam Giang thì người
ta thường gọi là Giang Lê và Giang Chu để dễ phân biệt.
Về vị trí của họ trong tổ hợp họ - tên người, họ của người Việt Nam luôn
luôn đứng ở vị trí thứ nhất, đầu tiên trong cụm họ tên. Ví dụ như trong cụm họ -
tên Lê Thế Vỹ thì ở vị trí đầu tiên là họ của người đó (họ Lê). Nếu như cũng là
họ đó nhưng được đặt ở vị trí thứ hai thì lại được coi là tên đệm, ví dụ như
Hoàng Lê Thế Vỹ (họ là Hoàng, Lê chỉ là đệm). Về vị trí họ đặt trong cụm họ -
tên của người Việt có nét khác biệt hoàn toàn với vị trí họ trong cụm họ - tên của
người Châu Âu: ví dụ John Lennon thì John đứng đầu tiên lại là tên chính,
Lennon đứng sau lại là họ. Trong giao tiếp, người Việt luôn gọi tên để phân biệt,
xưng hô (gọi Vỹ), nhưng với người Châu Âu thì lại gọi họ để phân biệt (gọi
Lennon)
Về nguồn gốc của họ người ở Việt Nam rất đa dạng, do Việt Nam từ xa xưa
đã bị ảnh hưởng bởi sự xâm chiếm, di dân hay giao thoa văn hóa. Ví dụ như đa
số các họ của người Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc (họ Trần, Lê, Lý, Đỗ…)
do nước ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc sau đó là sự di dân của người
12
Trung Quốc. Các dân tộc thiểu số, một số dân tộc mang họ của người Kinh như
Nguyễn, Lê, Bùi, Lưu…Hay một số dân tộc trước kia không có họ nhưng sau
cách mạng năm 1945 các dân tộc này lấy họ Hồ làm họ chung cho tất cả mọi
thành viên. Họ của những dân tộc thiểu số lại được chia thành các nhóm như
nhóm tên thú, ví dụ như nhóm Rvai (hổ) gồm có Rvai Veng Ung, Rvai Xênh
Khương, Rvai TLắp…, nhóm tên chim, ví dụ như Thràng (phượng hoàng đất),
Rivi (én), Lang Tu (họa mi)…, nhóm tên cây ví dụ như Tvạ Tờrông Blai (guột),
Tvạ Ngăm (rau dớn)…Việc xác định họ cho người Việt còn được xác định theo
chế độ phụ hệ và mẫu hệ. Đa số các dân tộc ở Việt Nam theo chế độ phụ hệ như
Kinh, Hoa, Hà Nhì, Pà Thẻn…, con cái các dân tộc này khi sinh ra được lấy họ
theo người cha. Một số ít dân tộc theo chế độ mẫu hệ như Ê Đê, Gia rai, Chăm,
Mnông…con cái sinh ra lại lấy theo họ của mẹ. Ở nhiều vùng miền, họ còn lấy
chữ đầu tiên tên làng làm họ của mình: ví dụ như họ Dương (làng Dương
Hòa)…
Tóm lại, họ của mỗi cá nhân thể hiện dòng máu, gốc gác của bản thân. Họ
cũng là căn cứ, dấu hiệu phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Về mặt văn hóa,
họ thể hiện lịch sử hình thành, phát triển của một tập hợp những người có cùng
dòng máu, huyết thống, về mặt pháp lý, họ có ý nghĩa trong công tác quản lý hộ
tịch, những quyền dân sự phát sinh liên quan đến họ, tên.
1.2.1.2. Tên
* Tên đệm:
Tên đệm là yếu tố xen giữa họ và tên chính. Đây là thành tố phụ, có thể
xuất hiện hoặc vắng mặt: Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi. Phần lớn tên đệm là từ đơn
nhưng gần đây, tên đệm phức ngày càng xuất hiện nhiều, ví dụ như Trần Văn
Hiến Minh, Nguyễn Ngọc Trường Sơn, …
Về chức năng, tên đệm có những chức năng như sau: Chức năng khu biệt
giới tính: từ trước đến nay, một từ có chức năng khu biệt giới tính nữ rõ ràng
nhất là Thị (Nguyễn Thị Hoa, Trần Thị Hạnh…) riêng các nhà quý phái ở Huế
13
trước đây thay vì dùng Thị thì dùng từ Diệu (Nguyễn Diệu Hương, Trần Diệu
Thúy…) một số dòng họ thì dùng Nữ để thay thế (ví dụ: Lê Nữ Lam, Trần Nữ
Như Châu…). Hiện nay từ đệm với chức năng khu biệt giới tính nữ mang tính đa
dạng, phong phú hơn nhiều, ví dụ: Ái, Cẩm, Diễm, Yến, Lệ, Mỹ…Với nam giới,
các tên đệm phong phú hơn, nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là đệm Văn. Các
dân tộc ít người cũng có những quy ước riêng, ví dụ dân tộc Si La dùng Chà
(nam), có hay cố (nữ), người Sán Dìu, con trai mang tên đệm A (Trần A Bảo),
con gái mang đệm Ô (Trần Ô Thu)…Tên đệm còn có chức năng khu biệt bộ
phận, cụ thể như trong dân tộc Kinh, một số từ đệm giữ chức năng khu biệt các
chi hay ngành trong một dòng họ lớn hơn, chẳng hạn, Ngô Thì, Ngô Vi ở Thanh
Oai (Hà Nội), Phan Huy, Phan Trọng ở Quốc Oai (Hà Nội)…Một chức năng nữa
của tên đệm là chức năng khu biệt thứ bậc trong gia đình, thế hệ, dòng họ, ví như
một số gia đình dùng từ đệm Bá (người lớn tuổi) để chỉ con cả dòng trưởng,
Mạnh (bắt đầu) để chỉ con cả dòng thứ, Gia (người lớn nhất trong nhà) chỉ con
trưởng, Trọng (thứ hai) chỉ người con thứ nhì, Thúc (trẻ tuổi) chỉ người con thứ
ba, quý (nhỏ) chỉ người con cuối cùng…Tên đệm còn chỉ mối quan hệ giữa các
thế hệ trong gia đình: dân tộc Kinh, nhiều gia đình luôn lấy tên đệm của cha đặt
cho con trai, ví dụ Phan Huy Ích – Phan Huy Chú, Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm.
Ngoài ra tên đệm còn có chức năng thẩm mỹ, với chức năng này tên đệm có thể
dùng được cả cho giới nam và giới nữ, ví như những tên đệm: Bạch, Bích, Hồng,
Kim, Ngọc, Thanh, Xuân. Tóm lại, tên đệm có ba loại: loại chỉ có chức năng khu
biệt giới: Thị, Diệu, Nữ…(nữ), Mạnh, Bá…(nam); loại chỉ có chức năng thẩm
mỹ và loại vừa có chức năng khu biệt giới vừa có chức năng thẩm mỹ
* Tên chính:
Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân khác.
Tên chính thường ở vị trí cuối cùng trong cụm họ - tên. Người Việt Nam chúng
ta khi đặt tên chính cho con cháu thường có lý do nhất định, người Việt quan
niệm rằng tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang nó. Tục ngữ có
14
câu: “coi mặt, đặt tên”. Khi đặt tên người ta thường lựa chọn rất kỹ và thường
căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh, dòng họ, quê hương, xã hội, ước vọng của cha
mẹ… chứ không chọn một cách tùy tiện. Tính lựa chọn trong cách đặt tên chính
được thể hiện ngay trong xã hội dân gian xưa kia, đối với những nhân vật chính
diện, sang trọng thường có cái tên rất hay, đẹp như Lục Vân Tiên, Vương Tử
Trực; những nhân vật bình dân trong xã hội có cái tên xấu như chính số phận của
họ: chị Dậu (trong tác phẩm Tắt đèn), Chí phèo, Thị Nở (tác phẩm Chí Phèo).
Tên chính được đặt cho người Việt Nam chủ yếu là từ Hán, sở dĩ có hiện tượng
này là do tâm lý người Việt vẫn cho rằng tên bằng từ Hán Việt hay hơn, văn hóa
hơn những tên bằng từ thuần việt tương ứng. Giả dụ như thay vì đặt tên con là
Ngay Thẳng, các bậc phụ huynh sẽ lựa chọn tên tiếng Hán có nghĩa tương đồng
như Trung Trực, hay Thanh Liêm thay vì đặt là Trong Sạch, cá biệt vẫn có số ít
đặt tên con theo nghĩa thuần Việt như Giàu, Có, Được, Lành…So với tên đệm và
họ, tên chính của người Việt có số lượng lớn hơn rất nhiều và độ phong phú, đa
dạng cũng hơn hẳn, về nguyên tắc, từ nào trong Tiếng Việt cũng có thể được sử
dụng làm tên chính cho người tuy nhiên người Việt kiêng kỵ đặt những tên xấu
như bệnh hiểm nghèo: cùi, ung thư,… tên mang ý nghĩa bất hạnh như tù,
ngục…, tên chính cũng không được trùng với tên các bậc trưởng thượng. Phong
tục này được hình thành từ rất lâu trước đây, theo đó tên người không được trùng
với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia
tộc, không những không được đặt tên trùng mà khi gọi hay nói từ đồng âm với
tên húy ấy còn cần nói chệch đi, ví như cụ cố tên Hành, thì trong giao tiếp thay
vì nói “hành” phải nói thành “hiềng”…Tuy nhiên người Mạ lại không có tục lệ
ấy, họ lấy luôn tên một trong những người bề trênđã chết để đặt tên cho đứa trẻ.
Tên chính có thể là tên đơn được cấu thành bằng từ có một âm tiết cũng có thể là
tên phức được tạo ra từ nhiều âm tiết, ngày nay tên đầy đủ của người Việt mang
bốn âm tiết ngày càng trở nên phổ biến. Về nguyên tắc, tên chính không có chức
năng phân biệt nam nữ giống như tên đệm. Tuy nhiên căn cứ vào tên đệm: Văn
15
(nam giới) và Thị (ở nữ giới) ta có thể dự đoán được người mang tên đó là nam
hay nữ. Trong lịch sử họ tên luôn là một yếu tố đặc biệt quan trọng liên quan đến
nhân thân của mỗi cá thể trong xã hội. Có thể vì những lý do khác nhau mà họ
phải thay tên, đổi họ, thực tế quyền lợi của họ cũng bị ảnh hưởng, pháp luật thời
bấy giờ chưa đủ hoàn chỉnh để dự liệu hậu quả của tất cả các trường hợp ấy, và
thực tế vệc thay đổi họ tên vào thời trước kia diễn ra khá đơn giản. Dân có thể
đổi tên, thay họ với lý do phạm húy, được vua đổi tên, tên xấu, tên dở, để hoạt
động cách mạng hay theo phong tục gọi theo tên chồng của người phụ nữ đã có
gia đình.
Tóm lại, họ tên là yếu tố nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Cá nhân khi
sinh ra được đặt tên, cái tên sẽ theo suốt cuộc đời, sự nghiệp, sinh mạng chính
trị. Quyền nhân thân của mỗi cá nhân liên quan đến họ tên là quyền mang tính
tiên quyết, cơ sở để hình thành những quyền nhân thân khác của cá nhân. Pháp
luật điều chỉnh những quyền nhân thân liên quan đến họ tên cũng cần được hoàn
thiện để bảo đảm quyền lợi của cá nhân.
1.2.2. Quyền đối với họ, tên
1.2.2.1. Khái niệm quyền đối với họ, tên
Họ và tên là hai giá trị nhân thân liên quan đến việc cá thể hóa cá nhân, là
dấu hiệu phân biệt cá nhân này với cá nhân khác. Bên cạnh những dấu hiệu về
hình ảnh, giới tính, điệu bộ, cử chỉ …thì têngọi của một cá nhân cũng là một yếu
tố quan trọng để cá biệt hóa cá nhân đó. Họ và tên của cá nhân cũng là cơ sở
pháp lý để cá nhân được hưởng những quyền và gánh chịu nghĩa vụ nhất định,
bên cạnh đó việc quy định quyền đối với họ, tên của cá nhân cũng đảm bảo cho
công tác quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực.
Quyền đối với họ, tên là chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt
Nam. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân cơ bản, mang tính chất cơ
sở, nền tảng để từ đó chủ thể mang quyền là cá nhân thực hiện các quyền và
nghĩa vụ dân sự khác do pháp luật quy định. Trong các quan hệ pháp luật nói
16
chung và các giao dịch dân sự nói riêng, họ và tên của một cá nhân luôn là yếu tố
không thể thiếu để xác định tư cách pháp lý của chủ thể đó.
Điều 28, BLDS 1995 quy định về quyền đối với họ tên, tiếp đó Điều 26
BLDS 2005 kế thừa quy định này. Theo Điều 26, BLDS 2005 thì:
“Quyền đối với họ, tên:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác.”
Trên thực tế chưa có một văn bản pháp luật cũng như chưa có một công
trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào đưa ra một khái niệm cụ thể về quyền đối
với họ, tên. Điều 26 BLDS 2005 cũng không đưa ra một nội hàm khái niệm
quyền đối với họ, tên mà chỉ nêu ra một cách chung chung: cá nhân có quyền có
họ tên. Phải chăng điều luật coi rằng quyền đối với họ, tên chỉ thể hiện ở khía
cạnh có hay không có họ, tên còn việc sử dụng và khai thác họ, tên của người có
quyền năng lại không nằm trong nội dung quyền nhân thân đó. Một cá nhân sinh
ra, tồn tại và phát triển là cả một quá trình hàng chục năm, chỉ công nhận cho cá
nhân sinh ra có họ, tên mà không quy định cho họ được sử dụng, khai thác họ,
tên của mình liệu có hợp lý. Thực tế, mỗi cá nhân khi muốn thỏa mãn nhu cầu
bản thân thì cần phải tham gia vào rất nhiều các quan hệ xã hội, việc sử dụng họ
tên để giao dịch, sử dụng chữ ký trong các văn bản giao dịch, các văn bản pháp
lý là việc làm mang tính thường xuyên và không thể thiếu. Trong quá trình đó
không tránh khỏi những vấn đề pháp lý phát sinh liên quan đến việc sử dụng họ,
tên; việc khai thác họ, tên; thay đổi họ, têncủa cá nhân.
Bởi những lý do trên, với quan điểm của cá nhân, chúng tôi xây dựng khái
niệm về quyền đối với họ, tên như sau: Quyền đối với họ, tên của cá nhân là
17
quyền nhân thân pháp luật quy định cho cá nhân quyền có, sử dụng, khai thác
và thay đổi họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
1.2.2.2. Đặc điểm quyền đối với họ, tên
Pháp luật luôn bảo vệ quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân một cách tuyệt
đối. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân pháp luật công nhận cho mọi
cá nhân có quyền được hưởng một cách bình đẳng. Với tư cách là một quyền dân
sự về nhân thân, quyền đối với họ, tên mang đầy đủ đặc điểm nói chung của
quyền nhân thân. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên của cá nhân còn mang
những đặc điểm riêng biệt, đặc thù giúp phân biệt với các quyền nhân thân khác.
* Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân gắn liềnvới cá nhân;
Trong phần trước, khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi
cũng đã thể hiện ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng quyền nhân thân
không chỉ thuộc về cá nhân mà các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự
cũng có quyền đối với nhân thân mà pháp luật bảo vệ (quyền nhân thân của pháp
nhân). Tuy nhiên không phải tất cả các chủ thể này đều có mọi quyền nhân thân
được quy định trong BLDS 2005. Quyền đối với họ, tên là một loại quyền nhân
thân liên quan tới hai yếu tố họ và yếu tố tên. Yếu tố tên có thể là một giá trị
nhân thân gắn liền với cả các chủ thể khác. Pháp nhân cũng có tên gọi và BLDS
2005 cũng có những quy định để bảo vệ tên của pháp nhân, cụ thể tại Điều
87 theo đó pháp nhân phải có tên gọi bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ
chức của pháp nhân và phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh
vực hoạt động, tên gọi của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Yếu
tố thứ hai, yếu tố họ trong quyền đối với họ, tên ; h ọ được hiểu là một phần
trong tên gọi đầy đủ của một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ
nào. Như vậy họ là yếu tố luôn gắn với cá nhân con người. Nếu tên với chức
năng phân biệt tương đối cá nhân này với cá nhân khác, thì họ ngoài chức năng
dấu hiệu nhận biết đó còn cho biết nguồn gốc họ hàng, dòng tộc của cá nhân. Hai
yếu tố họ và tên là hai dấu hiệu giúp nhận biết cá nhân, do vậy quyền đối với họ,
18
tên khi xác lập liên quan đến hai yếu tố này là một loại quyền nhân thân gắn với
mỗi cá nhân.
* Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân không gắn với tài sản;
Giá trị nhân thân của chủ thể được pháp luật công nhận và bảo vệ thành
quyền nhân thân. Có nhiều tiêu chí để phân loại quyền nhân thân. Nếu dựa trên
căn cứ phát sinh, quyền nhân thân được chia làm hai loại là quyền nhân thân gắn
với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân gắn với
tài sản là những quyền nhân thân luôn gắn với những giá trị tinh thần của con
người, không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. BLDS 2005 quy định các
quyền nhân thân không gắn với tài sản tại các điều từ Điều 26 đến Điều 51, ví dụ
như quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc, quyền
của cá nhân đối với hình ảnh, quyền bí mật đời tư… Một loại quyền nhân thân
thứ hai nếu dựa trên tiêu chí phân loại theo căn cứ phát sinh là quyền nhân thân
gắn với tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài sản là quyền nhân thân mà khi xác
lập quyền nhân thân kéo theo một loại tài sản được hình thành và có thể chuyển
giao, ví dụ: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng. Tóm lại, quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền nhân thân liên
quan đến những giá trị nhân thân, mà việc xác lập quyền đó là tiền đề hình thành
một khoản lợi ích vật chất (ví dụ: quyền công bố tác phẩm, quyền sao chép tác
phẩm,... khi được xác lập sẽ mang lại cho chủ thể những lợi ích về tài sản như
tiền nhuận bút, tiền thù lao, tiền do người sử dụng tác phẩm trả). Quyền nhân
thân không gắn với tài sản là quyền nhân thân gắn với những giá trị tinh thần mà
khi xác lập quyền đó thì chủ thể có quyền năng không có thêm được một khoản
lợi ích vật chất nào cả (ví dụ:việc thay đổi lại họ, tên, xác định lại dân tộc,...
không làm phát sinh lợi ích về tài sản cho chủ sở hữu).
Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân liên quan đến hai giá trị nhân thân
là họ và tên. Đây là những giá trị nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân từ khi cá
nhân đó sinh ra cho đến lúc chết đi. Quyền nhân thân này mang tính chất ổn
19
định, là quyền tuyệt đối và bất kể cá nhân nào cũng có quyền được hưởng. Khi
xác lập quyền đối với họ, tên hay trong quá trình sử dụng, thay đổi họ, tên không
đem đến cho chủ thể có quyền năng một lợi ích vật chất nào. Trên thực tế, quyền
đối với họ tên là quyền nhân thân pháp luật không cho phép chuyển giao giữa cá
nhân này với cá nhân khác. Do đó, có thể nhận định rằng quyền đối với họ, tên là
một loại quyền nhân thân không gắn với tài sản.
* Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân;
Nếu dựa vào tiêu chí căn cứ phát sinh quyền nhân thân, chúng ta đã được
biết quyền nhân thân được chia ra thành quyền nhân thân gắn với tài sản và
quyền nhân thân không gắn với tài sản. Một tiêu chí giúp ta phân loại quyền
nhân thân nữa là dựa trên đối tượng của quyền. Dựa vào tiêu chí này sẽ có các
nhóm quyền nhân thân như nhóm các quyền cá biệt hoá cá nhân, ví dụ như:
quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đối
với hình ảnh; quyền đối với quốc tịch…; nhóm các quyền liên quan đến thân thể
của cá nhân, ví dụ như quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ,
thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người…; nhóm
các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở;
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại,… nhóm các quyền liên
quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân: quyền kết hôn, quyền bình
đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia
đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; … nhóm các quyền
đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm;
quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự
toàn vẹn của tác phẩm…
Sở dĩ chúng tôi cho rằng quyền đối với họ, tên là một quyền cá biệt hóa cá
nhân bởi mỗi cá nhân luôn có những đặc điểm nhận dạng riêng giúp phân biệt
người này với người khác. Cá nhân thể hiện cái riêng của bản thân thông qua các
20
yếu tố liên quan đến nhân thân như: quốc tịch của cá nhân, dân tộc, giới tính,
hình ảnh của cá nhân, họ tên của cá nhân. Với những dấu hiệu mang tính pháp lý
này đảm bảo địa vị pháp lý của cá nhân, giúp phân biệt, nhận dạng cá nhân này
với cá nhân khác…Họ tên là một trong những dấu hiệu nhận dạng của cá nhân,
do đó quyền của cá nhân đối với họ tên được công nhận như là một quyền nhằm
cá biệt hóa mỗi cá nhân. Việc cá biệt hóa cá nhân thông qua họ tên cũng mang
những ý nghĩa pháp lý nhất định. Trên thực tế, mọi hoạt động pháp lý, mọi văn
bản, giấy tờ pháp lý đều cần có ghi rõ họ tên, chữ ký xác nhận của các cá nhân
tham gia. Ghi nhận họ tên, chữ ký trong mỗi văn bản mang tính pháp lý đảm bảo
trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân. Ví dụ như trong hợp đồng, nội
dung của Hợp đồng bao giờ cũng ghi rõ đầy đủ thông tin của các bên tham gia:
bao gồm thông tin cá nhân liên quan đến họ tên, nơi cư trú, số chứng minh nhân
dân… Những thông tin này mang tính cá biệt hóa và là bằng chứng cho việc các
bên đã thỏa thuận những nội dung trong hợp đồng.
1.3. Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân thân
khác.
Quyền đối với họ, tên luôn được đặt trong mối quan hệ với các quyền nhân
thân khác. Pháp luật ghi nhận quyền đối với họ, tên luôn là một quyền nhân thân
đầu tiên, mang tính cơ sở để từ đó các quyền nhân thân khác mới được thực hiện.
Quyền đối với họ tên có mối liên hệ chặt chẽ với những quyền nhân thân khác
như quyền thay đổi họ, tên (Điều 27), quyền được khai sinh (Điều 29), Quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37). Những quyền nhân thân này
tuy có những đặc điểm khác biệt nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng là những
thành phần tạo nên hệ thống quyền nhân thân theo pháp luật Dân sự Việt Nam.
1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh
Quyền được khai sinh là một trong những quyền nhân thân cơ bản nhất của
cá nhân. Cá nhân sinh ra, quyền đầu tiên mà cá nhân đó được pháp luật công
nhận là quyền được khai sinh. Quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng
21
định mỗi trẻ em là một công dân của một quốc gia, một công dân bình đẳng như
mọi công dân khác.
Trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1959 ghi
nhận: "Trẻ em khi sinh ra có quyền được khai sinh”. Khoản 1, Điều 7 Công ước
của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em qui định: “Trẻ em phải được đăng ký khai
sinh ngay lập tứcsau khi sinh ra và có quyền có họ tên, có quyền có quốctịch và
trong chừng mực có thể, có quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm
sóc”. Quyền cơ bản đầu tiên của trẻ em cũng được qui định trong Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam là: “Trẻ em có quyền được khai sinh và
có quốctịch” (Khoản 1, Điều 5).
Quyền được khai sinh là cơ sở, điều kiện để thực hiện các quyền nhân thân
khác của trẻ em như quyền có họ, tên, có quốc tịch, quyền xác định dân tộc,…
Có thể nói, quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng định mỗi trẻ em là
một cá nhân riêng biệt. Khi cá nhân đã được khẳng định dấu hiệu riêng biệt bằng
những thông tin trên giấy khai sinh thì đồng thời đứa trẻ có thêm một quyền
nhân thân quan trọng khác là quyền đối với họ tên. Quyền đối với họ, tên xuất
hiện ngay sau khi quyền được khai sinh được thực hiện.
1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên
Họ tên là hai dấu hiệu cá biệt hóa cá nhân và là hai yếu tố gắn liền với mỗi
cá nhân trong mọi hoạt động, sinh hoạt đời sống. Cá nhân có quyền có họ, tên,
có quyền đưa họ tên của mình vào sử dụng với những mục đích nhất định. Họ,
tên của cá nhân được pháp luật thừa nhận là họ, tên được ghi trong giấy khai
sinh. Cái tên này sẽ mang ý nghĩa pháp lý, và là tên gọi cố định. Tuy nhiên pháp
luật không yêu cầu cá nhân phải giữ tên đã đăng ký khai sinh cả đời. Trên thực
tế, có muôn vàn lý do để một người có nhu cầu muốn thay đổi họ, tên đã đăng ký
trong giấy khai sinh của mình. Có thể là vì cái tên xấu, gây phản cảm, cũng có
thể vì lý do công việc mà người đó cho rằng thay tên đổi họ sẽ làm công việc của
họ thuận lợi hơn. Trường hợp còn lại là những trường hợp pháp luật dự liệu có
22
khả năng cao trong việc đổi họ, tên như trong quan hệ nuôi con nuôi, khi cha mẹ
nuôi yêu cầu về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi con nuôi thôi không
làm connuôi hoặc có yêu cầu của cha mẹ đẻ. Việc thay đổi họ tên còn được chấp
nhận trong trường hợp theo yêu cầu của cha,mẹ, con khi xác định cha, mẹ con;
thay đổi họ cho con từ họ cha sang họ mẹ hoặc ngược lại, nhu cầu thay đổi họ,
tên của người lưu lạc khi đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình. Trường hợp
một cá nhân được xác định lại giới tính cũng có thể yêu cầu thay đổi họ, tên cho
phù hợp với giới tính của bản thân.
Quyền đối với họ tên được coi là một điều kiện tiên quyết để có quyền thay
đổi họ tên. Quyền thay đổi họ, tên chỉ trở thành quyền chủ quan của các chủ thể
quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp chủ thể đó đã thực hiện được quyền
đối với họ tên. Hay nói cách khác, đương nhiên cá nhân chỉ có quyền thay đổi
họ, tên của mình khi đã có họ tên (khi quyền đối với họ, tên được thực hiện)
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp không có quy
định về quyền đối với họ, tên. Họ tên là một yếu tố nhân thân đương nhiên mà
mỗi cá nhân đều được hưởng khi sinh ra với tư cách là một chủ thể trong quan hệ
pháp luật. Thay vào đó, pháp luật ở những nước này quy định khá cụ thể về vấn
đề thay đổi họ, tên.
1.3.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín
Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân thân cơ bản,
liên quan đến những giá trị tinh thần của con người. Danh dự, nhân phẩm và uy
tín đều là những yếu tố nhân thân không thể định giá được thành tiền. Điều 37,
BLDS 2005 quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng
và được pháp luật bảo vệ.”. Đối với cá nhân, danh dự là sự đánh giá của xã hội
đối với cá nhân về mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó.
Danh dự của một người được hình thành từ những hoạt động và cách ứng xử của
người đó, từ công lao và thành tíchmà người đó có được.
23
Nhân phẩm của cá nhân được hiểu là phẩm giá của con người, là giá trị tinh
thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Uy tín của cá nhân lại được
hiểu là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông
qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong tổ chức, một dân
tộc cảm phục và tự nguyện nghe theo... Bên cạnh quy định tại Điều 37 BLDS,
quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín còn được cụ thể hóa thông qua các
quy định tại Điều 9 (Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự), Điều 611 (thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm).
Quyền đối với họ tên có những điểm khác biệt nhất định với quyền đối với
danh dự, nhân phẩm, uy tín: cá nhân thực hiện quyền đối với danh dự, nhân
phẩm, uy tín thường bằng hình thức tự bảo vệ khi có hành vi xâm phạm, còn cá
nhân thực hiện quyền đối với họ tên có thể thông qua một chủ thể khác ví dụ như
cha mẹ đi đăng ký khai sinh, đặt tên cho con mới sinh, thực hiện việc yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền thay đổi họ, tên cho con. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên
và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng có những mối liên hệ
nhất định với nhau. Việc xâm phạm quyền của cá nhân đối với họ tên có thể sẽ
gây ra những thiệt hại về nhân phẩm, danh dự, uy tín đối với cá nhân đó.
1.3.4. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả
Pháp luật điềuchỉnh tất cả những quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực
của đời sống. Khi điều chỉnh những quan hệ xã hội này, pháp luật luôn có hệ
thống những quy định bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như
quy định nghĩa vụ mà các chủ thể tham gia phải gánh chịu. Trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, khoa học, pháp luật dân sự bảo đảm giá trị của các sản phẩm
tinh thần, cũng như quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu sản phẩm tinh thần thông
qua việc quy định các quyền nhân thân. Quyền tác giả là khả năng mà tác giả,
chủ sở hữu, người được sử dụng tác phẩm có các quyền nhân thân và quyền tài
sản theo quy định của pháp luật dân sự. Điều 738 BLDS 2005, tại Điểm a,
Khoản 2 có quy định việc đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu
24
tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng cũng là một loại
quyền nhân thân thuộc quyền tác giả. Đối với mỗi một tác phẩm văn học, nghệ
thuật hay sản phẩm khoa học, người sáng tạo ra những tác phẩm hoặc người sở
hữu tác phẩm đó có quyền đứng tên thật của mình hoặc đứng tên dưới dạng bút
danh.
Trong nội dung của quyền đối với họ, tên pháp luật có quy định rằng cá
nhân có quyền sử dụng bút danh, bí danh đồng thời không ảnh hưởng tới quyền,
lợi ích của người khác. Quy định như trên có thể hiểu pháp luật công nhận việc
cá nhân có bút danh, bí danh là một phần trong nội dung quyền năng đối với họ,
tên của cá nhân. Tuy nhiên bút danh, bí danh liệu có giá trị pháp lý và được bảo
vệ giống như họ, tên khai sinh không khi Khoản 1 Điều 26 BLDS 2005 đãkhẳng
định họ, tên cá nhân là họ, tên khai sinh của người đó ? Trong quy định pháp luật
về quyền tác giả và quyền đối với họ, tên có những điểm tương đồng khi công
nhận cho các cá nhân có quyền được sử dụng bút danh. Sử dụng bút danh là một
nội dung của quyền đối với họ, tên và cũng là một quyền thuộc quyền tác giả.
1.4. Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên trong
pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền nhân thân liên quan đến
họ tên của cá nhân nói riêng được quy định trong luật từ khá sớm. Quyền dân sự
trong pháp luật Việt Nam được phát triển theo sự phát triển của xã hội, chịu sự
ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, kinh tế… Đồng thời với sự ra đời của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bản hiến pháp đầu tiêncủa nhà nước Việt
Nam là Hiến pháp 1946 đã quy định: quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do
ngôn luận, xuất bản, báo chí, hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, cư trú…
Sau khi chúng ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
năm 1954, đất nước ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới: xây dựng CNXH ở
miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ tại miền Nam. Đây cũng là hoàn cảnh lịch sử để
Hiến pháp 1959 ra đời. Các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận từ Điều
25
22 đến Điều 42, các quyền nhân thân theo Hiến pháp 1959 được mở rộng hơn so
với Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh sau khi đất nước đã thống nhất hoàn
toàn. Các quyền của công dân được mở rộng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân được đề cập từ Điều 53 đến Điều 81. Bên cạnh đó, vào năm 1977, Việt Nam
đã trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc, tham gia nhiều công ước quốc tế về
quyền con người. Việt Nam đã tham gia một loạt các công ước quốc tế như:
Công ước quốctế về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước về loại trừ
tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc...
Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đã tổng kết thành quả cách
mạng của Nhà nước ta tronggần một nửa thế kỷ trôi qua. Các quy định về quyền
nhân thân của cá nhân ngày càng được mở rộng. Bên cạnh các quy định của
Hiến pháp 1992, Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp 1992, một loạt các văn bản pháp
luật có hiệu lực sau Hiến pháp được ban hành đã cụ thể hoá các quyền nhân thân
của cá nhân, trongcác văn bản đó có thể kể đến BLDS (năm 1995 và năm 2005).
BLDS năm 1995 tuy là BLDS đầu tiêncủa nước Việt Nam nhưng đã có quy
định khá đầy đủ về những quyền dân sự liên quan đến nhân thân của các chủ thể
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. BLDS 1995 quy định các quyền
nhân thân từ Điều 28 đến Điều 47 bao gồm các quy định về quyền đối với họ,
tên; quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với
hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền
được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết
hôn; quyền bình đẳng của vợ chồng…Với tư tưởng kế thừa và hoàn thiện, BLDS
2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên các quyền nhân thân này và được quy định từ
Điều 26 đến Điều 51 và bổ sung một số quyền nhân thân như: quyền được khai
sinh, quyền được khai tử, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền xác
định lại giới tính...
26
Quyền đối với họ, tên với tư cách là một quyền nhân thân, một quyền dân
sự tuyệt đối cũng được quy định từ rất sớm. Đây được coi là một trong những
quyền đầu tiên của cá nhân kể từ khi sinh ra. Trước BLDS 1995, trong bộ Dân
Luật Sài Gòn 1973, quyền dân sự này tuy không được quy định thành một điều
luật độc lập, nhưng cũng đã gián tiếp công nhận quyền này thông qua các quy
định về chứng thư khai sinh, tại Chương Thứ II, Thiên thứ nhất, Quyển thứ nhất
nói về nhân – thân, cụ thể tại Điều 45 có quy đinh rằng sổ khai sinh sẽ phải ghi
vào tên, họ đứa trẻ. BLDS 1995 dành cả Điều 28 để quy định:
“Quyền đối với họ, tên:
1- Mỗi cá nhân đều có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được
xác định theo họ, tên khai sinhcủa người đó.
2- Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận.
3- Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác.”
BLDS 2005 vẫn giữ nguyên nội dung của điều luật và được quy định tại
Điều 26. Trong tư tưởng của nhà làm luật, rõ ràng quyền đối với họ, tên là một
quyền dân sự cơ bản, đầu tiên của mỗi cá nhân, quan điểm này được giữ ổn định
thông qua quy định của các bộ luật. Liên quan đến họ, tên Luật Dân sự còn có
quy định về quyền thay đổi họ tên, BLDS 1995 và BLDS 2005 đều có quy định
về quyền thay đổi họ, tên tuy nhiên BLDS hiện hành đã có những thay đổi trong
nội dung khi quy định thêm các trường hợp pháp luật cho phép được thay đổi họ
tên. Điều 29 quy định rằng:
“1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận việc thay đổi họ, tên trong cáctrường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây
nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi
ích hợp pháp của người đó;
27
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho
con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người
này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã
đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha,
mẹ cho con;
d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược
lại;
đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết
thống của mình;
e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
g) Các trường hợp khácdo pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự
đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dânsự được xác lập theo họ, tên cũ.”
BLDS hiện hành đã quy định thêm một quyền nhân thân mới liên quan đến
cá nhân, đó là quyền xác định lại giới tính. Quyền nhân thân này kéo theo hệ quả
là nhu cầu thay đổi tên của người được xác định lại giới tính là một nhu cầu tất
yếu. Do vậy khi quy định các trường hợp pháp luật cho phép thay đổi họ, tên đã
được bổ sung thêm trường hợp: thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới
tính.
1.5. Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số quốc gia
trên thế giới
1.5.1. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Pháp
BLDS Pháp là bộ luật có quy mô rộng lớn và có quá trình hình thành, phát
triển lâu đời. Quyền dân sự của cá nhân trong BLDS Pháp được quy định khá
đầy đủ. BLDS Pháp không có một phần riêng biệt quy định về quyền nhân thân
28
của cá nhân, tuy nhiên trong từng Thiên, Chương vẫn có rải rác những quy định
về quyền nhân thân. Về quyền đối với họ, tên - khác với BLDS Việt Nam -
quyền đối với họ tên của cá nhân được quy định riêng thành một điều luật mang
tính liệt kê, BLDS Pháp không quy định riêng thành một điều luật, cũng không
có khái niệm về quyền đối với họ tên. Tuy nhiên BLDS Pháp vẫn công nhận
quyền của cá nhân đối với họ, tên của mình gián tiếp qua các quy định khác.
BLDS Pháp, tại Quyển thứ nhất, phần về Cá nhân, Thiên II Chứng thư hộ
tịch đã công nhận quyền đối với họ, tên một cách gián tiếp. Điều 55 (Luật ngày
20-11-1919) có quy định rằng: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày sinh trẻ, việc
khai sinh cho trẻ phải được thực hiện trước viên chức hộ tịch tại nơi trẻ sinh
ra”. Điều 57 (Luật số 2002-304 ngày 4-3-2002, được sửa đổi, bổ sung theo Luật
số 2003-516ngày 18-6-2003): “tên, họ của trẻ, kèm theo lời khai chung của cha,
mẹ về việc thống nhất chọn tên cho con nếu có, họ, tên, tuổi, nghề nghiệp và nơi
cư trú của của cha và mẹ cũng như của người đi khai sinh nếu cần”.
BLDS quy định bắt buộc trong thời hạn ba ngày sau khi trẻ sinh, phải làm
thủ tục khai sinh, đặt tên cho trẻ. Việc quy định bắt buộc khai sinh cho trẻ trong
vòng một thời gian nhất định như thế đã gián tiếp bảo vệ quyền của đứa trẻ đối
với họ, tên của mình. Luật cũng quy định tên của đứa trẻ phải do cả hai cha, mẹ
thống nhất và cần có lời khai chung.
Về việc xác định họ của cá nhân: Họ của cá nhân căn cứ vào những quan hệ
huyết thống của cá nhân đó. BLDS Pháp chia ra thành các trường hợp: Nếu con
trong giá thú thì được mang họ cha. Con ngoài giá thú thì theo quy định tại Điều
334, Khoản 1: “con ngoài giá thú mang họ của người cha hoặc người mẹ nào là
người đầu tiên xác lập quan hệ huyết thống với đứa trẻ đó”. Quan hệ mẹ con
thường được xác lập trước quan hệ cha con nên về mặt nguyên tắc đứa con ngoài
giá thú mang họ mẹ, sau đó nếu người cha thừa nhận quan hệ huyết thống với
đứa trẻ thì đứa trẻ đó sẽ mang cả họ cha. BLDS Pháp cũng quy định việc xác
29
định họ trong việc nuôi con nuôi, đứa trẻ được nhận làm con nuôi vẫn giữ họ của
mình và đồng thời mang thêm họ của cha mẹ nuôi.
Trong vấn đề thay đổi họ, tên, BLDS Pháp cũng quy định chi tiết hơn trong
việc bảo vệ quyền với họ, tên khi thấy rằng lợi ích của đứa trẻ bị đe dọa: “nếu
nhận thấy một hoặc tất cả các tên của trẻ, dù đứng riêng hay gắn liền với tên
khác hoặc với họ, có thể không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc xâm phạm đến
quyền của người thứ ba được bảo vệ “họ” của mình, thì viên chức hộ tịch phải
báo ngay cho viện trưởng viện công tố bên cạnh tòa án sơ thẩm…”. “Nếu xét
thấy tên của trẻ không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc không đảm bảo quyền
của người thứ ba được bảo vệ “họ” của mình thì tòa án ra quyết định xóa tên
đó trong hộ tịch. Trong trường hợp cần thiết Tòa án đặt cho trẻ một tên khácdo
Tòa án lựa chọn nếu cha mẹ của trẻ không chọn lại một tên mới phù hợp với lợi
ích của các đối tượng nêu trên…”(Điều 57 BLDS Pháp). Pháp luật Việt Nam
cũng có quy định về vấn đề thay đổi họ, tên nhằm bảo đảm lợi ích của các cá
nhân trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 27 BLDS 2005.
1.5.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật Dân sự Thái
Lan
BLDS và Thương mại Thái Lan cũng không đặt quyền đối với họ, tên thành
một điều luật đứng độc lập. Những quy định liên quan đến họ, tên của cá nhân
được quy định chủ yếu trongpháp luật về hộ tịch.
Trong BLDS và Thương mại Thái Lan, tại phần 1 quy định về Năng lực
pháp luật. Điều 15 của BLDS này có quy định rằng năng lực pháp luật được bắt
đầu từ khi đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái chết. Một đứa trẻ trong bụng mẹ có
thể được hưởng quyền miễn là nó còn sống, sau khi ra đời. Quy định về năng lực
pháp luật dân sự, pháp luật Thái Lan cũng có những nét tương đồng khi quy định
năng lực pháp luật của cá nhân (tức khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa
vụ dân sự) được bắt đầu khi cá nhân sinh ra và chấm dứt khi chết. Bên cạnh đó
cũng quy định trường hợp quyền năng của bào thai. Tuy nhiên quyền năng này
30
chỉ chủ yếu thể hiện trong các quan hệ về thừa kế và đứa trẻ này có tư cách là
người hưởng thừa kế.
Pháp luật dân sự Thái Lan quy định về quyền sử dụng họ tên như một
quyền nhân thân mang tính tuyệt đối, bên cạnh đó không quy định cụ thể khái
niệm và nội dung của quyền đối với họ, tên ra sao. Điều 18 BLDS và Thương
mại Thái Lan có quy định: “Nếu quyền sử dụng tên của một người có quyền đối
với tên đó bị người khác tranh chấp, hoặc nếu quyền lợi của người đó bị thiệt
hại bởi việc người khác sử dụng cùng tên đó mà không được phép thì người có
quyền nói trên có thể yêu cầu người kia chấm dứt việc gây thiệt hại. Nếu vẫn e
sợ người kia tiếp tục gây thiệt hại thì người đó có thể đề nghị tòa án ra lệnh
cấm”
Pháp luật Thái Lan chỉ quy định cụ thể về những trường hợp bị coi là xâm
phạm quyền sử dụng tên của một cá nhân và các biện pháp bảo vệ được pháp
luật thừa nhận cho người có quyền năng. Về cơ bản giống pháp luật dân sự Việt
Nam, khi BLDS Việt Nam cũng quy định người bị xâm phạm được phép yêu cầu
người kia chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền yêu
cầu người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, đồng thời xin lỗi, cải chính
công khai.
1.5.3. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Hoa Kỳ
Luật các bang và thông luật ở Hoa Kỳ trong lĩnh vực tên chủ yếu quy định
về việc thay đổi tên. Ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ, nếu một người có nhu cầu
đổi tên thì người đó có thể làm việc đó một cách tự nhiên mà không cần phải gửi
đơn xin phép bất kỳ toà án nào. Đây cũng là quy định trong thông luật, và chỉ có
điều kiện duy nhất là việc thay đổi không mang mục đích phục vụ tội phạm hay
lừa đảo. Mặc dù vậy, vẫn có quy định để ghi nhận việc đổi tên một cách chính
thức.
Trong thông luật, tức là luật của toà án và tách biệt khỏi luật thành văn của
các nhà làm luật, quyền thay đổi họ tên mà không cần trải qua bất kỳ thủ tục
31
pháp lý nào đã được công nhận một cách đầy đủ, trừ khi luật thành văn của một
bang nào đó quy định ngược lại một cách rõ ràng. Theo thông luật, trong trường
hợp không phạm luật hay lừa đảo, một cá nhân có thể lấy bất kỳ tên gọi nào một
cách hợp pháp mà không cần sự cho phép của toà án hay thông qua bất kỳ thủ
tục nào. Không có lý do nào ngăn cản một người thay đổi tên của mình bất cứ
lúc nào người đó muốn, với điều kiện là không vì mục đích phạm tội hay lừa
đảo.
Trẻ em, cũng như người lớn, có quyền được thay đổi họ tên theo thủ tục
hình thức. Tuy nhiên đơn của người vị thành niên phải có chữ ký của cha mẹ,
người giám hộ hay người họ hàng gần nhất. Người vị thành niên là người dưới
21 tuổi, trừ tại các bang, như New Jersey, quy định độ tuổi thành niên là 18. Luật
thường quy định nếu đứa trẻ ở một độ tuổi nhất định, như trên 14 hoặc 16, thì
đứa trẻ cũng phải ký vào đơn.
Nói chung sự chấp thuận của cả cha và mẹ là cần thiết, trừ phi một trong hai
người không thể ký đơn vì lý do mất năng lực hành vi, ra nước ngoài, hoặc đang
chịu án tù. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người mẹ ly hôn, toà án cũng cho
phép người con được đổi họ sang họ của cha dượng hoặc họ thời con gái của mẹ.
Theo thông luật, người phụ nữ sau khi ly hôn có thể chọn bất kỳ tên nào mà
người đó muốn, tất nhiên là trong khuôn khổ của luật thành văn. Luật của một số
bang cấm người phụ nữ ly hôn mang tên thời con gái, tên của chồng cũ, hay bất
kỳ một tên nào khác trong một số trường hợp. Tại các bang như Delaware,
Kentucky, Massachussetts, Minnesota, hay Oklahoma, người phụ nữ được đổi
tên nếu người đó là người xin ly hôn.
Việc thay đổi họ, tên theo pháp luật Hoa Kỳ cũng có những quy định hạn
chế sự tự do trong việc thay tên, đổi họ. Trong một số trường hợp tòa án có thể
từ chối yêu cầu đổi tên vì lý do đằng sau yêu cầu là không chính đáng hoặc thể
theo sự phản đối của người thứ ba (trong trường hợp sau thì tòa án còn có thể lật
lại một quyết định đổi tên đã có trước đó). Tuy nhiên, ngay cả khi không có việc
32
đổi tên chính thức thì tòa án vẫn có thể, trong vài trường hợp, ngăn cấm việc sử
dụng một tên họ nào đó.
Ví dụ, trong thông luật, một người có thể bị cấm sử dụng tên của một người
khác nếu việc sử dụng dẫn đến lầm tưởng là cho công chúng là họ đang trong
quan hệ với người có tên bị sử dụng. Một tòa án ở New Jerseyđã ban hành lệnh
cấm sử dụng tên và hình ảnh của một nguyên đơn cho việc quảng cáo một sản
phẩm sau khi nhận thấy tên họ cũng là một quyền tài sản (73 N.J. Eq. 136, 67
A.39).
33
Chương 2
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Nội dung quyền đối với họ, tên
Họ, tên là hai dấu hiệu mang tính định danh đối với cá nhân và cũng là giá
trị nhân thân quan trọng của bất kỳ cá nhân nào. Quyền nhân thân liên quan đến
họ tên mà cụ thể là quyền đối với họ tên được pháp luật dân sự bảo vệ với tư
cách là một quyền tuyệt đối. Đối với quyền nhân thân tuyệt đối thì tất cả các chủ
thể còn lại trong xã hội cần phải tôn trọng quyền của chủ thể có quyền năng và
không được xâm phạm quyền này. BLDS 2005 có quy định quyền đối với họ tên
tại Điều 26:
“ Quyền đối với họ, tên:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩavụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác. ”
Tại Chương 1 của luận văn, khi xây dựng khái niệm quyền đối với họ, tên
chúng tôi đã đưa ra quan điểm cho rằng với quy định của điều luật này thì nội
dung của quyền họ tên được hiểu quá sơ sài, không rõ ràng và chưa đầy đủ. Nội
dung quyền đối với họ, tên nếu đối chiếu vào điều luật này không thể là căn cứ
cho nhà làm luật, những người áp dụng pháp luật có thể hình dung quyền đối với
họ, tên bao gồm những nội dung nào, quyền này được thực hiện ra sao, cụ thể
hóa quyền này như thế nào. Trên thực tế cũng chưa hề có văn bản pháp lý nào
quy định về vấn đề này. Theo chúng tôi nội dung của quyền đối với họ tên có thể
34
được xác định là: quyền có họ, tên; quyền sử dụng họ, tên một cách hợp pháp; và
có quyền thay đổi họ, tên, ngoài ra còn có quyền được sử dụng bút danh, bí danh
một cách hợp pháp. BLDS 2005 có quy định riêng về quyền thay đổi họ, tên
nhưng theo chúng tôi thay đổi họ, tên chỉ là một nội dung, một biểu hiện của
quyền đối với họ tên mà thôi.
2.1.1. Cá nhân có quyền có họ, tên
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có khi cá nhân đó sinh ra và mất khi
cá nhân đó chết. Năng lực pháp luật là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ
pháp luật quy định. Cá nhân khi sinh ra có những quyền cơ bản mà pháp luật
công nhận ngay từ khi chào đời, một trong các quyền đó chính là quyền đối với
họ tên. Dấu hiệu đầu tiên của quyền đối với họ, tên chính là khả năng mà pháp
luật quy định cho cá nhân có quyền có họ, tên. Một cá nhân sinh ra, muốn tồn tại
và phát triển đương nhiên phải có những dấu hiệu định danh, phân biệt với
những cá thể khác. Họ và tên là những dấu hiệu cơ bản nhất để cá biệt hóa cá
nhân. Cá nhân luôn phải tồn tại dưới một cái tên nhất định, và pháp luật phải
công nhận cho họ có quyền có họ tên.
Việc đặt tên con khi chào đời là một việc quan trọng. Theo quan điểm của
người Việt Nam, cái tên đánh dấu sự xuất hiện trên đời, cái tên sẽ đi theo suốt cả
cuộc đời. Pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa: “Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ,
tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó”. Pháp luật
đã công nhận rằng cá nhân khi sinh ra đều phải được có họ tên, mọi cá thể là cá
nhân trong xã hội đều bình đẳng như nhau đối với quyền nhân thân này. Điều
luật này cũng chỉ ra rằng họ, tên của một cá nhân được xác định theo họ, tênkhai
sinh của người đó. Trên thực tế, một đứa trẻ sinh ra có rất nhiều tên gọi, có thể là
tên gọi ngày bé, tên gọi ở nhà, tên thường dùng, tên khai sinh… Trong đó họ và
tên được ghi nhận trong giấy khai sinh được xác định là họ và tên có giá trị pháp
lý.
35
Cá nhân có quyền có họ, tên tức là có quyền được có họ và tên. Họ và tên là
hai yếu tố khác nhau. Họ thường đứng trước và có chức năng phân biệt dòng họ,
dòng tộc. Cá nhân có quyền có họ, nhưng thực tế việc xác định họ của cá nhân
trong nhiều trên thực tế xuất hiện nhiều vấn đề. Theo quy định tại khoản 1 Điều
15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của chính phủ về
đăng ký và quản lý hộ tịch thì: “Người đi đăng ký khai sinh phải nộpGiấy chứng
sinh (theo mẫu quy định)và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ
em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn)”. Có hai quan điểm trong việc
xác định họ của một cá nhân khi sinh ra. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu căn
cứ vào quy định tại Nghị định 158, khi nghị định quy định người đi đăng ký khai
sinh phải nộp giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ, việc này giúp cán bộ tư pháp
xác định họ của người cha, họ của người mẹ. Quan điểm này cho rằng khi đăng
ký khai sinh thì việc xác định họ của đứa trẻ được thực hiện theo nguyên tắc lựa
chọn hoặc họ bố hoặc họ mẹ. Quan điểm này cũng cho rằng việc xác định họ
như thế là hợp lý vì trên thực tế con thường mang họ của cha. Những người theo
quan điểm thứ hai thì cho rằng không hề có điềuluật nào bắt buộc đứa trẻ sinh ra
phải mang họ của cha hay mang họ của mẹ. Một cá nhân sinh ra có thể được đặt
tên theo họ của cha, họ của mẹ nhưng cũng có thể đặt theo một họ khác.Theo
chúng tôi thì quan điểm này là quan điểm đúng đắn, phù hợp với quy định của
pháp luật và trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp đứa trẻ sinh ra mang một họ
khác, không phải họ của cha, mẹ và pháp luật không hề cấm vấn đề này. Chúng
tôi cho rằng quy định này của pháp luật Việt Nam rất hợp lý. Khi quy định
“thoải mái” về quyền lựa chọn họ cho đứa trẻ, sẽ giúp họ của người Việt trở nên
đa dạng, phong phú hơn, từ đó sự cá biệt hóa, định dạng cá nhân dễ dàng hơn,
quản lý xã hội cũng hiệu quả hơn. Pháp luật dân sự Pháp lại có quy định khác
khi xác định họ cho đứa trẻ mới sinh. Cụ thể đối với con trong giá thú thì luật
quy định đứa trẻ đó phải mang họ của người cha, đối với con ngoài giá thú thì
đứa trẻ đó có thể mang họ của cha nào hoặc họ của mẹ nào mà quan hệ cha -
36
con, mẹ - con xác lập từ trước (Điều 334-1 BLDS Pháp). Đối với trường hợp
nuôi con nuôi, đưa trẻ được nhận là con nuôi có thể mang họ của người cha, có
thể mang họ của người mẹ, hoặc có thể mang cả hai họ.
Việc xác định tên đối với cá nhân đơn giản và không có quan điểm nào trái
chiều. Do tên chính (hay còn gọi là tên thường gọi) được đặt một cách tự do,
không theo một nguyên tắc nào cả. Bất cứ từ nào trong từ điểnTiếng Việt đều có
thể dùng để đặt tên cho con. Tuy nhiên trong thực tế, cái tên lại gây ra không ít
rắc rối, phiền hà với chủ nhân. Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân được
quy định cho mỗi cá nhân, gắn với cá nhân và không thể chuyển giao, tuy nhiên
quyền của cá nhân đó lại bị “hạn chế” ở chỗ, đứa trẻ khi sinh ra đã được pháp
luật công nhận quyền đối với họ, tên, tuy nhiên đây chỉ là quyền pháp lý, việc
thực hiện quyền này có thể lại thuộc về một chủ thể khác. Cụ thể, đứa trẻ đó
không thể tự mình quyết định tên của mình là gì khi còn quá bé, cũng không thể
tự mình thực hiện quyền đi khai sinh cho mình. Do vậy, đứa trẻ sinh ra, cha mẹ
hoặc những cá nhân khác được quy định để thực hiện một phần quyền đối với họ
tên của trẻ. Chính điều này đã gây ra những tình huống dở khóc dở cười vì cái
tên. Lấy dẫn chứng một trường hợp xảy ra trong thực tế như sau: Mai Phạt Sáu
Nghìn Rưởi là họ tên đầy đủ của một chàng trai sinh năm 1987, trú tại thôn
Quảng Đại, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Năm 1987, ông Mai Xuân Cán - một cán bộ của UBND xã Đại Cường -
sinh đứa con thứ năm và bị UBND xã này buộc phải nộp phạt sáu nghìn rưởi
mới cho đăng ký khai sinh vì sinh nhiều con. Ức vì bị phạt nên khi làm giấy khai
sinh cho con, ông Cán lấy luôn mức tiền phạt đó để đặt tên cho con trai mình.
UBND xã ra sức khuyên can ông không nên đặt tên cho con kỳ quặc như vậy,
nhưng ông Cán một mực không nghe. Trước thái độ cương quyết thái quá của
ông, UBND xã Đại Cường đành phải chấp nhận đăng ký khai sinh cho con ông
với cái tên Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi.
37
Ông Cán không ngờ rằng những lời cảnh báo trước đây của bạn bè, người
thân và chính quyền đối với ông quả thật không sai. Cậu con trai lớn lên, khi vào
học cấp II mang đến trường cái tên quá ngộ nghĩnh, bị bạn bè trêu chọc không
chịu nổi phải bỏ học mất hai năm. Mãi sau này, Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi đã
được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho đổi tên lại là Mai Hoàng Long.
Ngoài Long ra, có người đồng hương khác tên là Mai Phạt Ba Ngàn Rưởi,
trường hợp đặt tên này cũng do người cha bị UBND xã phạt ba ngàn rưởi vì đi
khai sinh cho conquá muộn theo qui định.
Việc xác định họ, tên cho một cá nhân để đảm bảo quyền nhân thân đối với
họ tên của cá nhân đó, tưởng chừng dễ dàng, nhưng thực tế có nhiều yếu tố ảnh
hưởng tới quyền lợi chính đáng của chủ nhân những cái tên. Quyền thì được quy
định cho chính cá nhân có tên, tuy nhiên việc thực hiện quyền đôi khi lại thuộc
về chủ thể khác, chính điềunày đã gây ra những tình huống dở khóc dở cười, mà
quyền lợi của người có họ tên lại bị xâm hại đầu tiên.
2.1.2. Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Tại Điều 26 BLDS 2005 Khoản 2 có quy định: “Cá nhân xác lập, thực hiện
quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận”. Theo chúng tôi, quy định này được hiểu rằng cá nhân
được sử dụng họ, tên của mình để đảm bảo quyền và nghĩa vụ khi tham gia các
quan hệ pháp luật. Sử dụng họ, tên là việc cá nhân dùng họ tên của mình tham
gia vào các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói riêng. Đây
được coi là hệ quả đương nhiên khi đã có họ tên hợp pháp, khi có họ tên tất
nhiên sẽ phải sử dụng nó vào nhiều công việc với nhiều mục đích khác nhau.
Việc sử dụng họ, tên là một tất yếu. Trong xã hội, để đáp ứng nhu cầu của
bản thân, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mình được thực hiện con người phải
tham gia vào rất nhiều những giao lưu dân sự. Với mỗi quan hệ xã hội các cá
nhân tham gia đều có những tư cách riêng. Họ tên là một yếu tố định danh cá
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

More Related Content

Similar to Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
De cuong ly luan nnpl dhqghn
De cuong ly luan nnpl dhqghnDe cuong ly luan nnpl dhqghn
De cuong ly luan nnpl dhqghnnguoitinhmenyeu
 
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (20)

Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
De cuong ly luan nnpl dhqghn
De cuong ly luan nnpl dhqghnDe cuong ly luan nnpl dhqghn
De cuong ly luan nnpl dhqghn
 
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOTLuận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
Luận văn: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về Quyền an tử, HOT
 
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOTLuận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
Luận văn: Vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền an tử, HOT
 
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOTLuận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
Luận văn: Các quan niệm phổ biến về pháp luật trên thế giới, HOT
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sựLuận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
Luận văn: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự
 
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sựNguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
Nguyên tắc bình đẳng của đương sự trong tố tụng dân sự
 
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sựBình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
Bình đẳng trước pháp luật của đương sự trong tố tụng dân sự
 
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAYLuận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
Luận án: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của đương sự, HAY
 
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
Luận văn: Quyền của bị can, bị cáo theo pháp luật tố tụng hình sự - Gửi miễn ...
 
Hệ Thống Các Vật Quyền Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Hệ Thống Các Vật Quyền Trong Pháp Luật Dân Sự Việt NamHệ Thống Các Vật Quyền Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
Hệ Thống Các Vật Quyền Trong Pháp Luật Dân Sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật và thực tiễn về Quyền tình dục, HOT
Luận văn: Pháp luật và thực tiễn về Quyền tình dục, HOTLuận văn: Pháp luật và thực tiễn về Quyền tình dục, HOT
Luận văn: Pháp luật và thực tiễn về Quyền tình dục, HOT
 
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện NayĐề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
Đề Tài Nghiên Cứu Khoa Học Áp Dụng Pháp Luật Ở Việt Nam Hiện Nay
 
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOTLuận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
Luận văn: Những người tham gia tố tụng trong luật tố tụng, HOT
 
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Người tham gia tố tụng trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niênLuận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
Luận văn: Quyền bào chữa của bị cáo là người chưa thành niên
 
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụngQuyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo là người chưa thành niên trong tố tụng
 

More from luanvantrust

Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...
Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...
Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...luanvantrust
 
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...luanvantrust
 
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...luanvantrust
 
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chile
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang ChilePhân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chile
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chileluanvantrust
 
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Nam
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải NamPhân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Nam
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Namluanvantrust
 
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt NamPhân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Namluanvantrust
 
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...luanvantrust
 
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...luanvantrust
 
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXM
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXMĐẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXM
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXMluanvantrust
 
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...luanvantrust
 
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tử
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tửTối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tử
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tửluanvantrust
 
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdom
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ WatchkingdomỨng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdom
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdomluanvantrust
 
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...luanvantrust
 
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...luanvantrust
 
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viên
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh ViênNgôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viên
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viênluanvantrust
 
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...luanvantrust
 
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conando
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ ConandoHoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conando
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conandoluanvantrust
 
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Lang
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn LangVăn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Lang
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Langluanvantrust
 
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...luanvantrust
 
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffee
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands CoffeeChiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffee
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffeeluanvantrust
 

More from luanvantrust (20)

Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...
Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...
Xác định số cụm tối ưu vào bài toán phân khúc khách hàng sử dụng dịch vụ di đ...
 
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...
Phát triển tín dụng phân khúc khách hàng Bán lẻ tại Ngân hàng TMCP Công thươn...
 
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...
Phân Tích Chiến Lược Cạnh Tranh Của Một Công Ty Trong Ngành Công Nghiệp Phôi ...
 
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chile
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang ChilePhân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chile
Phân Tích Lợi Thế Cạnh Tranh Mặt Hàng Giày Dép Việt Nam Xuất Khẩu Sang Chile
 
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Nam
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải NamPhân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Nam
Phân tích năng lực cạnh tranh của Công Ty TNHH Sản Xuất Tủ Bảng Điện Hải Nam
 
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt NamPhân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
Phân tích cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
 
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...
Phân tích cạnh tranh ngành và đòn bẩy tài chính tác động lên hiệu quả hoạt độ...
 
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...
Thúc đẩy hoạt động bán hàng cá nhân trong quá trình tiêu thụ sản phẩm ở công ...
 
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXM
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXMĐẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXM
Đẩy mạnh bán hàng cá nhân trong hoạt động tiêu thụ ở Công ty VTKTXM
 
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...
Quản Trị Hoạt Động Bán Hàng Cá Nhân Và Giải Pháp Nhằm Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt ...
 
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tử
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tửTối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tử
Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm (SEO) cho báo điện tử
 
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdom
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ WatchkingdomỨng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdom
Ứng Dụng Seo Vào Website Bán Đồng Hồ Watchkingdom
 
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...
Ứng dụng mô hình truyền thông hội tụ (PESO) cho hoạt động quan hệ công chúng ...
 
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...
Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà ...
 
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viên
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh ViênNgôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viên
Ngôn Ngữ “Thời @” Trên Mạng Và Trên Điện Thoại Di Động Của Học Sinh, Sinh Viên
 
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...
Quản Lý Quan Hệ Công Chúng Trong Giáo Dục Của Ban Tuyên Giáo Các Tỉnh, Thành ...
 
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conando
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ ConandoHoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conando
Hoàn thiện hoạt động PR cho Công ty Cổ phần Truyền thông và Công nghệ Conando
 
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Lang
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn LangVăn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Lang
Văn hoá đọc trong đời sống sinh viên Khoa PR,Trường đại học Văn Lang
 
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...
Định vị sản phẩm thẻ American Express tại ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại ...
 
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffee
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands CoffeeChiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffee
Chiến lược định vị sản phẩm cà phê hữu cơ của Highlands Coffee
 

Recently uploaded

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 

Recently uploaded (19)

bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 

Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI HOÀNG NGỌC HƯNG QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60.38.30 MÃ TÀI LIỆU: 80131 ZALO: 0917.193.864 Dịch vụ viết bài điểm cao : luanvantrust.com LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những phân tích, đánh giá hoàn toàn dựa trên quan điểm của cá nhân tôi. Những kết luận và kiến nghị trong luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Hoàng Ngọc Hưng
  • 3. 1.1 1.2. 1.2.1. 1.2.1.1. 1.2.1.2. 1.2.2. 1.2.2.1. 1.2.2.2. 1.3. 1.3.1. 1.3.2. 1.3.3. 1.3.4. 1.4. 1.5. 1.5.1. 1.5.2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN Khái niệm quyền nhân thân Quyền đối với họ, tên Khái niệm họ, tên. Họ Tên Quyền đối với họ, tên Khái niệm quyền đối với họ, tên Đặc điểm quyền đối với họ, tên Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân thânkhác. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên trong pháp luật Dân sự Việt Nam Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số quốc giatrên thế giới Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Pháp Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Thái Lan Trang 1 5 10 10 10 12 15 15 17 20 20 21 22 23 24 27 27 29
  • 4. 1.5.3. 2.1. 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.1.4. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.3. 2.3.1. 2.3.1.1. 2.3.1.2. 2.3.2. 2.3.2.1. 2.3.2.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Hoa Kỳ CHƯƠNG 2 QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN Nội dung quyền đối với họ, tên Cá nhân có quyền có họ, tên Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Cá nhân được sử dụng bút danh, bí danh một cách hợp pháp Cá nhân được thay đổi họ, tên Các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên Sử dụng họ, tên của người khác mà không có sự cho phép của người đó Xâm phạm quyền đối với họ tên của người có trách nhiệm khai sinh cho trẻ. Hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên cá nhân của cơ quan có thẩm quyền Bảo vệ quyền đối với họ, tên Khái niệm và vai trò bảo vệ quyền đối với họ, tên Khái niệm Vai trò của bảo vệ quyền đối với họ, tên Các biện pháp bảo vệ quyền đối với họ, tên Biện pháp tự bảo vệ Yêu cầu người xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổchứccó thẩm 30 33 33 34 37 39 40 42 42 45 46 47 48 48 49 50 51 52
  • 5. 2.3.2.3. 2.4. 2.5. 2.6. 2.6.1. 2.6.2. quyềnbuộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xinlỗi, cải chính côngkhai Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại Một số bất cập trong quy định của pháp luật về quyền đối với họ, tên Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên Phương hướng và giải pháp hoàn thiệnpháp luật về quyền đối với họ, tên Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 53 56 60 66 66 68 72 74 78
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN BLDS: BLDS 2005: BLDS 1995: Nxb: TAND: Tr: UBND: Bộ Luật Dân sự. Bộ Luật Dân sự năm 2005. Bộ Luật Dân sự năm 1995. Nhà xuất bản. Tòa án nhân dân. Trang Ủy ban nhân dân.
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết củađề tài Họ và tên là những giá trị tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, là một trong những yếu tố nhân thân để phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Quyền nhân thân đối với họ, tên là một trong những quyền nhân thân cơ bản, cá biệt hóa cá nhân, cần được pháp luật bảo vệ. Mặc dù quyền đối với họ, tên được coi là một quyền nhân thân cơ bản của cá nhân và được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối nhưng trên thực tế việc áp dụng pháp luật để đảm bảo quyền đối với họ, tên của cá nhân vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là những quy định pháp luật chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ. Cụ thể pháp luật dân sự chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể định nghĩa như thế nào là quyền đối với họ, tên; người có quyền đối với họ, tên của mình thì có những quyền năng gì cụ thể. Những thiếu sót này của pháp luật đã gây khó cho cơ quan có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng chưa tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được hiểu đúng, đầy đủ về quyền lợi của mình. Từ việc nhận thức không đúng, không đầy đủ dẫn đến những cách áp dụng không thống nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó pháp luật hiện hành cũng thiếu sót một phần quan trọng chưa hề quy định đó là quy định để nhận biết các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên của cá nhân. Việc quy định các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên là công việc có tính cấp thiết trong bối cảnh bản thân người có quyền và chính các cơ quan có thẩm quyền còn đang loay hoay trong việc nhận biết được có sự xâm phạm hay không. Xuất phát từ những lý do trên đây, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành luật của mình. 2. Tình hình nghiêncứu đề tài Quyền nhân thân nói chung và một số quyền nhân thân cụ thể đã được nghiên cứu, tìm hiểu qua khá nhiều các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trong
  • 8. 2 khoa học pháp lý, chưa có công trình nào nghiên cứu quyền đối với họ, tên một cách có hệ thống và quy mô, từ lý luận đến thực tiễn. Những công trình liên quan chỉ đề cập tới quyền đối với họ, tên là một quyền trong hệ thống các quyền nhân thân và trong những công trình nghiên cứu này, quyền đối với họ, tên chỉ được đặt trong một phần nhỏ, với những nghiên cứu ở mức độ nhất định. Trong đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường do ThS. Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài: “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tại bài viết chuyên đề: “Quyền nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: quyền của cá nhân đối với họ, tên, dân tộc, hình ảnh” của ThS. Nguyễn Minh Oanh cũng đã đề cập tới một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền đối với họ, tên với tư cách là một quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân. Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã phân tích, đánh giá trên một vài phương diện liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá nhân. Bài viết: “Quyền thay đổi họ, tên từ pháp luật đến thực tiễn” của tác giả Hoàng Long đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư Pháp, số chuyên đề 3/2008, bài viết: “ Quy định về thay đổi họ, tên của một người cần được hướng dẫn cụ thể” của tác giả Vương Tất Đức, Nguyễn Thanh Xuân, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 4 năm 2010 đã đưa ra một số những bất cập trong luật định và các trường hợp vướng mắc trong thực tế liên quan đến việc thay đổi họ, tên của cá nhân. Bài viết: “Xác định họ đối với cá nhân”với tác giả Nguyễn Đình Toàn đăng trênTạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, số tháng 7/2008, bài viết: “Cần có hướng dẫn việc đăng ký họ, tên khi đăng ký khai sinh”của tác giả Thảo Linh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 3/2008 đã đưa ra quan điểm trong việc xác định họ cho đứa trẻ khi đi khai sinh, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng và những một số kiến nghị hoàn thiện luật. Những công trình nghiên cứu đã nêu trên đây chỉ mới đề cập tới quyền đối
  • 9. 3 với họ, tên ở những khía cạnh, nội dung nhất định mà không nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống trên tất cả mọi phương diện. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài * Mục đích Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ được quy định về quyền đối với họ, tên trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật liên quan. Từ những quy định của pháp luật, đề tài cần đạt được một mục đích thứ hai là liên hệ, đánh giá được việc áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên trên thực tế là như thế nào. Khi đã có những kết quả nhất định về việc áp dụng trên thực tế đề tài nghiên cứu hướng tới mục đích thứ ba là tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật, chỉ ra những điểm chưa phù hợp với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật. Đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tham khảo cho những người nghiên cứu luật và các cơ quan áp dụng pháp luật. *Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định như sau: - Trình bày được lý luận chung về quyền nhân thân liên quan đến họ, tên của cá nhân. - Phân tích nội dung pháp luật liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá nhân. - Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên của cá nhân. 4. Phạm vi nghiên cứu đề tài Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, học viên chỉ tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá nhân như khái niệm về quyền đối với họ tên, đặc điểm pháp lý của quyền đối với họ, tên; nội dung quyền đối với họ, tên; các hành vi xâm phạm quyền và các phương thức bảo vệ quyền nhân thân này. Bên cạnh những những phân tích
  • 10. 4 mang tính lý luận là những vụ việc thực tế liên quan trực tiếp đến họ, tên của cá nhân. 5. Phương pháp nghiêncứu của đề tài Phương pháp nghiên cứu đề tài được xác định như sau: - Phương pháp so sánh luật: nghiên cứu các quy định pháp lý của Việt Nam về quyền đối với họ, tên, các quy định pháp lý cơ bản của nước ngoài về quyền đối với họ, tên, từ đó rút ra những điểm tương đồng, khác biệt. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đối với mỗi một quan điểm khoa học đưa ra, học viên đã phân tích, tổng hợp để rút ra những điểm ưu, nhược và dẫn đến cách nhìn nhận của bản thân - Ngoài ra học viên còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp, diễn giải… 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn đem lại những điểm mới sau đây: - Luận văn là một công trình nghiên cứu với cái nhìn tương đối cơ bản, toàn diện mang tính pháp lý về quyền đối với họ, tên; - Luận văn giúp đánh giá đúng những bất cập trong quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này; - Luận văn đã đưa ra những giải pháp cụ thể mang tính hoàn thiện những quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn thạc sỹ luật học với tên đề tài: “Quyền đối với họ, tên – một số vấn đề lý luận và thực tiễn”có kết cấu gồm phần Mở đầu, các chương nội dung chính, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung chính của luận văn gồm hai chương Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền đối với họ, tên. Chương 2: Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
  • 11. 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN 1.1. Khái niệm quyền nhân thân Với mục đích đưa ra một khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi cho rằng cần thiết phải xuất phát từ những khái niệm liên quan như quyền con người, quyền dân sự. Con người với vị trí và tầm quan trọng trong lịch sử phát triển thế giới luôn được coi là chủ thể cần được trân trọng và bảo vệ. Trong quá trình phát triểnxã hội, những quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng cùng với nhiều mặt tiêu cực. Quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người đã và đang được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng yếu. Quyền con người được hiểu là quyền đối với những lợi ích của con người – với tư cách là chủ thể tham gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội, văn hóa…Sự ra đời của các công ước về quyền con người được coi như là một minh chứng cho tầm quan trọng và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia đối với quyền con người, điểnhình là Công ước quốc tế 1966 của Liên hiệp quốc về quyền dân sự, quyền chính trị. Quyền nhân thân theo quy định tại BLDS 2005 (BLDS 2005) là một loại quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có các quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có thể do các bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể về quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo những lợi ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật chính là đã bảo đảm quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự được coi là một khái niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con người. Quyền dân sự với tư cách là một quyền con người cũng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Nhà nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã thể hiện quan điểm rõ ràng
  • 12. 6 trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến pháp, cụ thể là Hiến pháp năm 1992 đã quy định rõ những quyền con người cơ bản nhất được thể hiện tại Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là “khả năng xử sự được phép của chủ thể có quyền năng được nhà nước quy định hoặc công nhận khi tham gia vào quan hệ dân sự và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện” [20, tr.82]. Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi liên quan đến vật chất hoặc những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí nhất định mà quyền dân sự được phân loại thành những loại quyền khác nhau. Có thể nói sự phân loại phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên thế giới là sự đối lập giữa quyền nhân thân và quyền tài sản. Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề cập tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Luận văn trêncơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những nhận định của cá nhân. Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Toà án nhân dân Tối cao, trong đề tài: “Vai trò của TAND trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân theo quy định của BLDS” khái niệm quyền nhân thân được xây dựng trên hai góc độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự là quyền con người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Dưới góc độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con người về dân sự [30, tr. 19]. Theo đó, quyền nhân thân mà chúng ta đang tìm
  • 13. 7 hiểu được hiểu là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này có từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với nhau và không thể chuyển giao. Từ điển luật học của viện nghiên cứu pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách định nghĩa khác về quyền nhân thân: “Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xácđịnh dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với tácphẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp. Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người đó có quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc toà án buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu cầu toà án buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại vật chất hoặc tinh thần. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” [33, tr. 653]. Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá xúc tích, quyền nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân, các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho người khác, trừ trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền nhân thân trong cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của BLDS 2005. Điều 24 BLDS 2005 có quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là
  • 14. 8 quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà nghiên cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm tiêu biểu. Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” – tạp chí Luật học số 7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng thuận với quy định tại Điều 24 BLDS 2005 ở hai điểm: thứ nhất, Điều 24 BLDS 2005 định nghĩa rằng quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao trừ khi pháp luật có quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi lẽ trên thực tế có một số quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng không được xác định là quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn chứng cụ thể như trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định rằng: “nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác”, tương ứng với nghĩa vụ cấp dưỡng Luật Hôn nhân và Gia đình cũng quy định quyền yêu cầu cấp dưỡng gắn với những chủ thể nhất định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp dưỡng chính là một loại quyền tài sản. Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một cá nhân cụ thể và không thể chuyển giao. Thứ hai, tác giả của bài viết này không đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Trong các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên quan đến yếu tố pháp lý của pháp nhân – chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” hay tại Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ- HĐTP ngày 08/07/2006 củaHội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, đều nhắc đếnthiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân¸và pháp nhân được bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của bài viết cho rằng những quy định này
  • 15. 9 đã khẳng định quyền nhân thân của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng nghĩa với việc cho rằng quyền nhân thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24 BLDS là không chính xác. Từ những phân tích đó, TS Bùi Đăng Hiếu cũng đã đưa ra quan điểm cá nhân khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: “Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”[8, tr.40]. Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan điểm của TS. Lê Đình Nghị trong Luận án Tiến sỹ - Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008). Trong Luận án này, tác giả đã xây dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và chủ quan. Nghĩa khách quan: “quyền nhân thân được hiểu hiểu là một phạm trù pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình”. Theo nghĩa chủ quan, tác giả cho rằng “quyền nhânthân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân. Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng chưa thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một loại quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ thể từ khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội phát triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn, đồng thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành và
  • 16. 10 pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình, Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quyền nhân thân là một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ gắn với con người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp nhân, Luật Dân sự đã có quy định liên quan đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ như quy định tại Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng đã nhắc đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng cách gián tiếp, BLDS đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như vậy có thể khẳng định quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn với chủ thể khác. Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền dân sự thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là những quyền có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một cách hoàn toàn bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân thì không thể định giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất mặc dù trong một số trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng hưởng một khoản lợi ích vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem là một loại quyền vô giá. Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về quyền nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 1.2. Quyền đối với họ, tên 1.2.1. Khái niệm họ, tên. 1.2.1.1. Họ Mỗi cá nhân sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có họ và tên, đầu tiên đó là dấu hiệu nhận biết, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác, tiếp nữa mỗi cá nhân trong xã hội phải có một cái tên kèm theo một họ nhất định để đảm bảo
  • 17. 11 hiệu quả trong quản lý xã hội của nhà nước. Họ và tên của cá nhân cũng mang một ý nghĩa sâu sắc, thông qua họ tên đó chúng ta biết nguồn gốc, lai lịch, giới tính của cá nhân... Họ vốn để chỉ một tập hợp người cùng tổ tiên, cùng một dòng máu (ví dụ như họ nội, họ ngoại). Họ là một phần trong tên gọi, để xác định cá nhân đó thuộc dòng họ nào. Họ được đặt trước tên đệm và tên chính của một người, dùng chung cho một tập hợp những người cùng một dòng máu (sau đây được gọi là cùng một họ) để phân biệt với người thuộc họ khác. Họ có chức năng phân biệt một tập hợp người cùng tổ tiên, dòng máu này với một tập hợp người có cùng tổ tiên, dòng máu khác. Họ luôn đi đôi với tên chính và tên đệm (nếu có) nên góp phần cá thể hóa cá nhân. Khi hai hay nhiều người có cùng tên đệm và tên chính thì họ sẽ là một yếu tố quyết định đến chức năng cá thể hóa. Chẳng hạn để phân biệt hai người có cùng tên Giang là Chu Lam Giang và Lê Lam Giang thì người ta thường gọi là Giang Lê và Giang Chu để dễ phân biệt. Về vị trí của họ trong tổ hợp họ - tên người, họ của người Việt Nam luôn luôn đứng ở vị trí thứ nhất, đầu tiên trong cụm họ tên. Ví dụ như trong cụm họ - tên Lê Thế Vỹ thì ở vị trí đầu tiên là họ của người đó (họ Lê). Nếu như cũng là họ đó nhưng được đặt ở vị trí thứ hai thì lại được coi là tên đệm, ví dụ như Hoàng Lê Thế Vỹ (họ là Hoàng, Lê chỉ là đệm). Về vị trí họ đặt trong cụm họ - tên của người Việt có nét khác biệt hoàn toàn với vị trí họ trong cụm họ - tên của người Châu Âu: ví dụ John Lennon thì John đứng đầu tiên lại là tên chính, Lennon đứng sau lại là họ. Trong giao tiếp, người Việt luôn gọi tên để phân biệt, xưng hô (gọi Vỹ), nhưng với người Châu Âu thì lại gọi họ để phân biệt (gọi Lennon) Về nguồn gốc của họ người ở Việt Nam rất đa dạng, do Việt Nam từ xa xưa đã bị ảnh hưởng bởi sự xâm chiếm, di dân hay giao thoa văn hóa. Ví dụ như đa số các họ của người Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc (họ Trần, Lê, Lý, Đỗ…) do nước ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc sau đó là sự di dân của người
  • 18. 12 Trung Quốc. Các dân tộc thiểu số, một số dân tộc mang họ của người Kinh như Nguyễn, Lê, Bùi, Lưu…Hay một số dân tộc trước kia không có họ nhưng sau cách mạng năm 1945 các dân tộc này lấy họ Hồ làm họ chung cho tất cả mọi thành viên. Họ của những dân tộc thiểu số lại được chia thành các nhóm như nhóm tên thú, ví dụ như nhóm Rvai (hổ) gồm có Rvai Veng Ung, Rvai Xênh Khương, Rvai TLắp…, nhóm tên chim, ví dụ như Thràng (phượng hoàng đất), Rivi (én), Lang Tu (họa mi)…, nhóm tên cây ví dụ như Tvạ Tờrông Blai (guột), Tvạ Ngăm (rau dớn)…Việc xác định họ cho người Việt còn được xác định theo chế độ phụ hệ và mẫu hệ. Đa số các dân tộc ở Việt Nam theo chế độ phụ hệ như Kinh, Hoa, Hà Nhì, Pà Thẻn…, con cái các dân tộc này khi sinh ra được lấy họ theo người cha. Một số ít dân tộc theo chế độ mẫu hệ như Ê Đê, Gia rai, Chăm, Mnông…con cái sinh ra lại lấy theo họ của mẹ. Ở nhiều vùng miền, họ còn lấy chữ đầu tiên tên làng làm họ của mình: ví dụ như họ Dương (làng Dương Hòa)… Tóm lại, họ của mỗi cá nhân thể hiện dòng máu, gốc gác của bản thân. Họ cũng là căn cứ, dấu hiệu phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Về mặt văn hóa, họ thể hiện lịch sử hình thành, phát triển của một tập hợp những người có cùng dòng máu, huyết thống, về mặt pháp lý, họ có ý nghĩa trong công tác quản lý hộ tịch, những quyền dân sự phát sinh liên quan đến họ, tên. 1.2.1.2. Tên * Tên đệm: Tên đệm là yếu tố xen giữa họ và tên chính. Đây là thành tố phụ, có thể xuất hiện hoặc vắng mặt: Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi. Phần lớn tên đệm là từ đơn nhưng gần đây, tên đệm phức ngày càng xuất hiện nhiều, ví dụ như Trần Văn Hiến Minh, Nguyễn Ngọc Trường Sơn, … Về chức năng, tên đệm có những chức năng như sau: Chức năng khu biệt giới tính: từ trước đến nay, một từ có chức năng khu biệt giới tính nữ rõ ràng nhất là Thị (Nguyễn Thị Hoa, Trần Thị Hạnh…) riêng các nhà quý phái ở Huế
  • 19. 13 trước đây thay vì dùng Thị thì dùng từ Diệu (Nguyễn Diệu Hương, Trần Diệu Thúy…) một số dòng họ thì dùng Nữ để thay thế (ví dụ: Lê Nữ Lam, Trần Nữ Như Châu…). Hiện nay từ đệm với chức năng khu biệt giới tính nữ mang tính đa dạng, phong phú hơn nhiều, ví dụ: Ái, Cẩm, Diễm, Yến, Lệ, Mỹ…Với nam giới, các tên đệm phong phú hơn, nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là đệm Văn. Các dân tộc ít người cũng có những quy ước riêng, ví dụ dân tộc Si La dùng Chà (nam), có hay cố (nữ), người Sán Dìu, con trai mang tên đệm A (Trần A Bảo), con gái mang đệm Ô (Trần Ô Thu)…Tên đệm còn có chức năng khu biệt bộ phận, cụ thể như trong dân tộc Kinh, một số từ đệm giữ chức năng khu biệt các chi hay ngành trong một dòng họ lớn hơn, chẳng hạn, Ngô Thì, Ngô Vi ở Thanh Oai (Hà Nội), Phan Huy, Phan Trọng ở Quốc Oai (Hà Nội)…Một chức năng nữa của tên đệm là chức năng khu biệt thứ bậc trong gia đình, thế hệ, dòng họ, ví như một số gia đình dùng từ đệm Bá (người lớn tuổi) để chỉ con cả dòng trưởng, Mạnh (bắt đầu) để chỉ con cả dòng thứ, Gia (người lớn nhất trong nhà) chỉ con trưởng, Trọng (thứ hai) chỉ người con thứ nhì, Thúc (trẻ tuổi) chỉ người con thứ ba, quý (nhỏ) chỉ người con cuối cùng…Tên đệm còn chỉ mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình: dân tộc Kinh, nhiều gia đình luôn lấy tên đệm của cha đặt cho con trai, ví dụ Phan Huy Ích – Phan Huy Chú, Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm. Ngoài ra tên đệm còn có chức năng thẩm mỹ, với chức năng này tên đệm có thể dùng được cả cho giới nam và giới nữ, ví như những tên đệm: Bạch, Bích, Hồng, Kim, Ngọc, Thanh, Xuân. Tóm lại, tên đệm có ba loại: loại chỉ có chức năng khu biệt giới: Thị, Diệu, Nữ…(nữ), Mạnh, Bá…(nam); loại chỉ có chức năng thẩm mỹ và loại vừa có chức năng khu biệt giới vừa có chức năng thẩm mỹ * Tên chính: Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân khác. Tên chính thường ở vị trí cuối cùng trong cụm họ - tên. Người Việt Nam chúng ta khi đặt tên chính cho con cháu thường có lý do nhất định, người Việt quan niệm rằng tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang nó. Tục ngữ có
  • 20. 14 câu: “coi mặt, đặt tên”. Khi đặt tên người ta thường lựa chọn rất kỹ và thường căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh, dòng họ, quê hương, xã hội, ước vọng của cha mẹ… chứ không chọn một cách tùy tiện. Tính lựa chọn trong cách đặt tên chính được thể hiện ngay trong xã hội dân gian xưa kia, đối với những nhân vật chính diện, sang trọng thường có cái tên rất hay, đẹp như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực; những nhân vật bình dân trong xã hội có cái tên xấu như chính số phận của họ: chị Dậu (trong tác phẩm Tắt đèn), Chí phèo, Thị Nở (tác phẩm Chí Phèo). Tên chính được đặt cho người Việt Nam chủ yếu là từ Hán, sở dĩ có hiện tượng này là do tâm lý người Việt vẫn cho rằng tên bằng từ Hán Việt hay hơn, văn hóa hơn những tên bằng từ thuần việt tương ứng. Giả dụ như thay vì đặt tên con là Ngay Thẳng, các bậc phụ huynh sẽ lựa chọn tên tiếng Hán có nghĩa tương đồng như Trung Trực, hay Thanh Liêm thay vì đặt là Trong Sạch, cá biệt vẫn có số ít đặt tên con theo nghĩa thuần Việt như Giàu, Có, Được, Lành…So với tên đệm và họ, tên chính của người Việt có số lượng lớn hơn rất nhiều và độ phong phú, đa dạng cũng hơn hẳn, về nguyên tắc, từ nào trong Tiếng Việt cũng có thể được sử dụng làm tên chính cho người tuy nhiên người Việt kiêng kỵ đặt những tên xấu như bệnh hiểm nghèo: cùi, ung thư,… tên mang ý nghĩa bất hạnh như tù, ngục…, tên chính cũng không được trùng với tên các bậc trưởng thượng. Phong tục này được hình thành từ rất lâu trước đây, theo đó tên người không được trùng với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc, không những không được đặt tên trùng mà khi gọi hay nói từ đồng âm với tên húy ấy còn cần nói chệch đi, ví như cụ cố tên Hành, thì trong giao tiếp thay vì nói “hành” phải nói thành “hiềng”…Tuy nhiên người Mạ lại không có tục lệ ấy, họ lấy luôn tên một trong những người bề trênđã chết để đặt tên cho đứa trẻ. Tên chính có thể là tên đơn được cấu thành bằng từ có một âm tiết cũng có thể là tên phức được tạo ra từ nhiều âm tiết, ngày nay tên đầy đủ của người Việt mang bốn âm tiết ngày càng trở nên phổ biến. Về nguyên tắc, tên chính không có chức năng phân biệt nam nữ giống như tên đệm. Tuy nhiên căn cứ vào tên đệm: Văn
  • 21. 15 (nam giới) và Thị (ở nữ giới) ta có thể dự đoán được người mang tên đó là nam hay nữ. Trong lịch sử họ tên luôn là một yếu tố đặc biệt quan trọng liên quan đến nhân thân của mỗi cá thể trong xã hội. Có thể vì những lý do khác nhau mà họ phải thay tên, đổi họ, thực tế quyền lợi của họ cũng bị ảnh hưởng, pháp luật thời bấy giờ chưa đủ hoàn chỉnh để dự liệu hậu quả của tất cả các trường hợp ấy, và thực tế vệc thay đổi họ tên vào thời trước kia diễn ra khá đơn giản. Dân có thể đổi tên, thay họ với lý do phạm húy, được vua đổi tên, tên xấu, tên dở, để hoạt động cách mạng hay theo phong tục gọi theo tên chồng của người phụ nữ đã có gia đình. Tóm lại, họ tên là yếu tố nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Cá nhân khi sinh ra được đặt tên, cái tên sẽ theo suốt cuộc đời, sự nghiệp, sinh mạng chính trị. Quyền nhân thân của mỗi cá nhân liên quan đến họ tên là quyền mang tính tiên quyết, cơ sở để hình thành những quyền nhân thân khác của cá nhân. Pháp luật điều chỉnh những quyền nhân thân liên quan đến họ tên cũng cần được hoàn thiện để bảo đảm quyền lợi của cá nhân. 1.2.2. Quyền đối với họ, tên 1.2.2.1. Khái niệm quyền đối với họ, tên Họ và tên là hai giá trị nhân thân liên quan đến việc cá thể hóa cá nhân, là dấu hiệu phân biệt cá nhân này với cá nhân khác. Bên cạnh những dấu hiệu về hình ảnh, giới tính, điệu bộ, cử chỉ …thì têngọi của một cá nhân cũng là một yếu tố quan trọng để cá biệt hóa cá nhân đó. Họ và tên của cá nhân cũng là cơ sở pháp lý để cá nhân được hưởng những quyền và gánh chịu nghĩa vụ nhất định, bên cạnh đó việc quy định quyền đối với họ, tên của cá nhân cũng đảm bảo cho công tác quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực. Quyền đối với họ, tên là chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt Nam. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân cơ bản, mang tính chất cơ sở, nền tảng để từ đó chủ thể mang quyền là cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự khác do pháp luật quy định. Trong các quan hệ pháp luật nói
  • 22. 16 chung và các giao dịch dân sự nói riêng, họ và tên của một cá nhân luôn là yếu tố không thể thiếu để xác định tư cách pháp lý của chủ thể đó. Điều 28, BLDS 1995 quy định về quyền đối với họ tên, tiếp đó Điều 26 BLDS 2005 kế thừa quy định này. Theo Điều 26, BLDS 2005 thì: “Quyền đối với họ, tên: 1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. 2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận. 3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” Trên thực tế chưa có một văn bản pháp luật cũng như chưa có một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nào đưa ra một khái niệm cụ thể về quyền đối với họ, tên. Điều 26 BLDS 2005 cũng không đưa ra một nội hàm khái niệm quyền đối với họ, tên mà chỉ nêu ra một cách chung chung: cá nhân có quyền có họ tên. Phải chăng điều luật coi rằng quyền đối với họ, tên chỉ thể hiện ở khía cạnh có hay không có họ, tên còn việc sử dụng và khai thác họ, tên của người có quyền năng lại không nằm trong nội dung quyền nhân thân đó. Một cá nhân sinh ra, tồn tại và phát triển là cả một quá trình hàng chục năm, chỉ công nhận cho cá nhân sinh ra có họ, tên mà không quy định cho họ được sử dụng, khai thác họ, tên của mình liệu có hợp lý. Thực tế, mỗi cá nhân khi muốn thỏa mãn nhu cầu bản thân thì cần phải tham gia vào rất nhiều các quan hệ xã hội, việc sử dụng họ tên để giao dịch, sử dụng chữ ký trong các văn bản giao dịch, các văn bản pháp lý là việc làm mang tính thường xuyên và không thể thiếu. Trong quá trình đó không tránh khỏi những vấn đề pháp lý phát sinh liên quan đến việc sử dụng họ, tên; việc khai thác họ, tên; thay đổi họ, têncủa cá nhân. Bởi những lý do trên, với quan điểm của cá nhân, chúng tôi xây dựng khái niệm về quyền đối với họ, tên như sau: Quyền đối với họ, tên của cá nhân là
  • 23. 17 quyền nhân thân pháp luật quy định cho cá nhân quyền có, sử dụng, khai thác và thay đổi họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. 1.2.2.2. Đặc điểm quyền đối với họ, tên Pháp luật luôn bảo vệ quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân một cách tuyệt đối. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân pháp luật công nhận cho mọi cá nhân có quyền được hưởng một cách bình đẳng. Với tư cách là một quyền dân sự về nhân thân, quyền đối với họ, tên mang đầy đủ đặc điểm nói chung của quyền nhân thân. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên của cá nhân còn mang những đặc điểm riêng biệt, đặc thù giúp phân biệt với các quyền nhân thân khác. * Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân gắn liềnvới cá nhân; Trong phần trước, khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi cũng đã thể hiện ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng quyền nhân thân không chỉ thuộc về cá nhân mà các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự cũng có quyền đối với nhân thân mà pháp luật bảo vệ (quyền nhân thân của pháp nhân). Tuy nhiên không phải tất cả các chủ thể này đều có mọi quyền nhân thân được quy định trong BLDS 2005. Quyền đối với họ, tên là một loại quyền nhân thân liên quan tới hai yếu tố họ và yếu tố tên. Yếu tố tên có thể là một giá trị nhân thân gắn liền với cả các chủ thể khác. Pháp nhân cũng có tên gọi và BLDS 2005 cũng có những quy định để bảo vệ tên của pháp nhân, cụ thể tại Điều 87 theo đó pháp nhân phải có tên gọi bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân và phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động, tên gọi của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Yếu tố thứ hai, yếu tố họ trong quyền đối với họ, tên ; h ọ được hiểu là một phần trong tên gọi đầy đủ của một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ nào. Như vậy họ là yếu tố luôn gắn với cá nhân con người. Nếu tên với chức năng phân biệt tương đối cá nhân này với cá nhân khác, thì họ ngoài chức năng dấu hiệu nhận biết đó còn cho biết nguồn gốc họ hàng, dòng tộc của cá nhân. Hai yếu tố họ và tên là hai dấu hiệu giúp nhận biết cá nhân, do vậy quyền đối với họ,
  • 24. 18 tên khi xác lập liên quan đến hai yếu tố này là một loại quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân. * Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân không gắn với tài sản; Giá trị nhân thân của chủ thể được pháp luật công nhận và bảo vệ thành quyền nhân thân. Có nhiều tiêu chí để phân loại quyền nhân thân. Nếu dựa trên căn cứ phát sinh, quyền nhân thân được chia làm hai loại là quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền nhân thân luôn gắn với những giá trị tinh thần của con người, không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. BLDS 2005 quy định các quyền nhân thân không gắn với tài sản tại các điều từ Điều 26 đến Điều 51, ví dụ như quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc, quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền bí mật đời tư… Một loại quyền nhân thân thứ hai nếu dựa trên tiêu chí phân loại theo căn cứ phát sinh là quyền nhân thân gắn với tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài sản là quyền nhân thân mà khi xác lập quyền nhân thân kéo theo một loại tài sản được hình thành và có thể chuyển giao, ví dụ: quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Tóm lại, quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền nhân thân liên quan đến những giá trị nhân thân, mà việc xác lập quyền đó là tiền đề hình thành một khoản lợi ích vật chất (ví dụ: quyền công bố tác phẩm, quyền sao chép tác phẩm,... khi được xác lập sẽ mang lại cho chủ thể những lợi ích về tài sản như tiền nhuận bút, tiền thù lao, tiền do người sử dụng tác phẩm trả). Quyền nhân thân không gắn với tài sản là quyền nhân thân gắn với những giá trị tinh thần mà khi xác lập quyền đó thì chủ thể có quyền năng không có thêm được một khoản lợi ích vật chất nào cả (ví dụ:việc thay đổi lại họ, tên, xác định lại dân tộc,... không làm phát sinh lợi ích về tài sản cho chủ sở hữu). Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân liên quan đến hai giá trị nhân thân là họ và tên. Đây là những giá trị nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân từ khi cá nhân đó sinh ra cho đến lúc chết đi. Quyền nhân thân này mang tính chất ổn
  • 25. 19 định, là quyền tuyệt đối và bất kể cá nhân nào cũng có quyền được hưởng. Khi xác lập quyền đối với họ, tên hay trong quá trình sử dụng, thay đổi họ, tên không đem đến cho chủ thể có quyền năng một lợi ích vật chất nào. Trên thực tế, quyền đối với họ tên là quyền nhân thân pháp luật không cho phép chuyển giao giữa cá nhân này với cá nhân khác. Do đó, có thể nhận định rằng quyền đối với họ, tên là một loại quyền nhân thân không gắn với tài sản. * Quyền đối với họ, tênlà quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân; Nếu dựa vào tiêu chí căn cứ phát sinh quyền nhân thân, chúng ta đã được biết quyền nhân thân được chia ra thành quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Một tiêu chí giúp ta phân loại quyền nhân thân nữa là dựa trên đối tượng của quyền. Dựa vào tiêu chí này sẽ có các nhóm quyền nhân thân như nhóm các quyền cá biệt hoá cá nhân, ví dụ như: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đối với hình ảnh; quyền đối với quốc tịch…; nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, ví dụ như quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người…; nhóm các quyền liên quan đến giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại,… nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia đình của cá nhân: quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; … nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm… Sở dĩ chúng tôi cho rằng quyền đối với họ, tên là một quyền cá biệt hóa cá nhân bởi mỗi cá nhân luôn có những đặc điểm nhận dạng riêng giúp phân biệt người này với người khác. Cá nhân thể hiện cái riêng của bản thân thông qua các
  • 26. 20 yếu tố liên quan đến nhân thân như: quốc tịch của cá nhân, dân tộc, giới tính, hình ảnh của cá nhân, họ tên của cá nhân. Với những dấu hiệu mang tính pháp lý này đảm bảo địa vị pháp lý của cá nhân, giúp phân biệt, nhận dạng cá nhân này với cá nhân khác…Họ tên là một trong những dấu hiệu nhận dạng của cá nhân, do đó quyền của cá nhân đối với họ tên được công nhận như là một quyền nhằm cá biệt hóa mỗi cá nhân. Việc cá biệt hóa cá nhân thông qua họ tên cũng mang những ý nghĩa pháp lý nhất định. Trên thực tế, mọi hoạt động pháp lý, mọi văn bản, giấy tờ pháp lý đều cần có ghi rõ họ tên, chữ ký xác nhận của các cá nhân tham gia. Ghi nhận họ tên, chữ ký trong mỗi văn bản mang tính pháp lý đảm bảo trách nhiệm cũng như quyền lợi của cá nhân. Ví dụ như trong hợp đồng, nội dung của Hợp đồng bao giờ cũng ghi rõ đầy đủ thông tin của các bên tham gia: bao gồm thông tin cá nhân liên quan đến họ tên, nơi cư trú, số chứng minh nhân dân… Những thông tin này mang tính cá biệt hóa và là bằng chứng cho việc các bên đã thỏa thuận những nội dung trong hợp đồng. 1.3. Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân thân khác. Quyền đối với họ, tên luôn được đặt trong mối quan hệ với các quyền nhân thân khác. Pháp luật ghi nhận quyền đối với họ, tên luôn là một quyền nhân thân đầu tiên, mang tính cơ sở để từ đó các quyền nhân thân khác mới được thực hiện. Quyền đối với họ tên có mối liên hệ chặt chẽ với những quyền nhân thân khác như quyền thay đổi họ, tên (Điều 27), quyền được khai sinh (Điều 29), Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37). Những quyền nhân thân này tuy có những đặc điểm khác biệt nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng là những thành phần tạo nên hệ thống quyền nhân thân theo pháp luật Dân sự Việt Nam. 1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh Quyền được khai sinh là một trong những quyền nhân thân cơ bản nhất của cá nhân. Cá nhân sinh ra, quyền đầu tiên mà cá nhân đó được pháp luật công nhận là quyền được khai sinh. Quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng
  • 27. 21 định mỗi trẻ em là một công dân của một quốc gia, một công dân bình đẳng như mọi công dân khác. Trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1959 ghi nhận: "Trẻ em khi sinh ra có quyền được khai sinh”. Khoản 1, Điều 7 Công ước của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em qui định: “Trẻ em phải được đăng ký khai sinh ngay lập tứcsau khi sinh ra và có quyền có họ tên, có quyền có quốctịch và trong chừng mực có thể, có quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc”. Quyền cơ bản đầu tiên của trẻ em cũng được qui định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam là: “Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốctịch” (Khoản 1, Điều 5). Quyền được khai sinh là cơ sở, điều kiện để thực hiện các quyền nhân thân khác của trẻ em như quyền có họ, tên, có quốc tịch, quyền xác định dân tộc,… Có thể nói, quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng định mỗi trẻ em là một cá nhân riêng biệt. Khi cá nhân đã được khẳng định dấu hiệu riêng biệt bằng những thông tin trên giấy khai sinh thì đồng thời đứa trẻ có thêm một quyền nhân thân quan trọng khác là quyền đối với họ tên. Quyền đối với họ, tên xuất hiện ngay sau khi quyền được khai sinh được thực hiện. 1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên Họ tên là hai dấu hiệu cá biệt hóa cá nhân và là hai yếu tố gắn liền với mỗi cá nhân trong mọi hoạt động, sinh hoạt đời sống. Cá nhân có quyền có họ, tên, có quyền đưa họ tên của mình vào sử dụng với những mục đích nhất định. Họ, tên của cá nhân được pháp luật thừa nhận là họ, tên được ghi trong giấy khai sinh. Cái tên này sẽ mang ý nghĩa pháp lý, và là tên gọi cố định. Tuy nhiên pháp luật không yêu cầu cá nhân phải giữ tên đã đăng ký khai sinh cả đời. Trên thực tế, có muôn vàn lý do để một người có nhu cầu muốn thay đổi họ, tên đã đăng ký trong giấy khai sinh của mình. Có thể là vì cái tên xấu, gây phản cảm, cũng có thể vì lý do công việc mà người đó cho rằng thay tên đổi họ sẽ làm công việc của họ thuận lợi hơn. Trường hợp còn lại là những trường hợp pháp luật dự liệu có
  • 28. 22 khả năng cao trong việc đổi họ, tên như trong quan hệ nuôi con nuôi, khi cha mẹ nuôi yêu cầu về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi con nuôi thôi không làm connuôi hoặc có yêu cầu của cha mẹ đẻ. Việc thay đổi họ tên còn được chấp nhận trong trường hợp theo yêu cầu của cha,mẹ, con khi xác định cha, mẹ con; thay đổi họ cho con từ họ cha sang họ mẹ hoặc ngược lại, nhu cầu thay đổi họ, tên của người lưu lạc khi đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình. Trường hợp một cá nhân được xác định lại giới tính cũng có thể yêu cầu thay đổi họ, tên cho phù hợp với giới tính của bản thân. Quyền đối với họ tên được coi là một điều kiện tiên quyết để có quyền thay đổi họ tên. Quyền thay đổi họ, tên chỉ trở thành quyền chủ quan của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp chủ thể đó đã thực hiện được quyền đối với họ tên. Hay nói cách khác, đương nhiên cá nhân chỉ có quyền thay đổi họ, tên của mình khi đã có họ tên (khi quyền đối với họ, tên được thực hiện) Pháp luật một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp không có quy định về quyền đối với họ, tên. Họ tên là một yếu tố nhân thân đương nhiên mà mỗi cá nhân đều được hưởng khi sinh ra với tư cách là một chủ thể trong quan hệ pháp luật. Thay vào đó, pháp luật ở những nước này quy định khá cụ thể về vấn đề thay đổi họ, tên. 1.3.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân thân cơ bản, liên quan đến những giá trị tinh thần của con người. Danh dự, nhân phẩm và uy tín đều là những yếu tố nhân thân không thể định giá được thành tiền. Điều 37, BLDS 2005 quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.”. Đối với cá nhân, danh dự là sự đánh giá của xã hội đối với cá nhân về mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một người được hình thành từ những hoạt động và cách ứng xử của người đó, từ công lao và thành tíchmà người đó có được.
  • 29. 23 Nhân phẩm của cá nhân được hiểu là phẩm giá của con người, là giá trị tinh thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Uy tín của cá nhân lại được hiểu là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong tổ chức, một dân tộc cảm phục và tự nguyện nghe theo... Bên cạnh quy định tại Điều 37 BLDS, quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín còn được cụ thể hóa thông qua các quy định tại Điều 9 (Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự), Điều 611 (thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm). Quyền đối với họ tên có những điểm khác biệt nhất định với quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín: cá nhân thực hiện quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín thường bằng hình thức tự bảo vệ khi có hành vi xâm phạm, còn cá nhân thực hiện quyền đối với họ tên có thể thông qua một chủ thể khác ví dụ như cha mẹ đi đăng ký khai sinh, đặt tên cho con mới sinh, thực hiện việc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thay đổi họ, tên cho con. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng có những mối liên hệ nhất định với nhau. Việc xâm phạm quyền của cá nhân đối với họ tên có thể sẽ gây ra những thiệt hại về nhân phẩm, danh dự, uy tín đối với cá nhân đó. 1.3.4. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả Pháp luật điềuchỉnh tất cả những quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực của đời sống. Khi điều chỉnh những quan hệ xã hội này, pháp luật luôn có hệ thống những quy định bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như quy định nghĩa vụ mà các chủ thể tham gia phải gánh chịu. Trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học, pháp luật dân sự bảo đảm giá trị của các sản phẩm tinh thần, cũng như quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu sản phẩm tinh thần thông qua việc quy định các quyền nhân thân. Quyền tác giả là khả năng mà tác giả, chủ sở hữu, người được sử dụng tác phẩm có các quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của pháp luật dân sự. Điều 738 BLDS 2005, tại Điểm a, Khoản 2 có quy định việc đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu
  • 30. 24 tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng cũng là một loại quyền nhân thân thuộc quyền tác giả. Đối với mỗi một tác phẩm văn học, nghệ thuật hay sản phẩm khoa học, người sáng tạo ra những tác phẩm hoặc người sở hữu tác phẩm đó có quyền đứng tên thật của mình hoặc đứng tên dưới dạng bút danh. Trong nội dung của quyền đối với họ, tên pháp luật có quy định rằng cá nhân có quyền sử dụng bút danh, bí danh đồng thời không ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của người khác. Quy định như trên có thể hiểu pháp luật công nhận việc cá nhân có bút danh, bí danh là một phần trong nội dung quyền năng đối với họ, tên của cá nhân. Tuy nhiên bút danh, bí danh liệu có giá trị pháp lý và được bảo vệ giống như họ, tên khai sinh không khi Khoản 1 Điều 26 BLDS 2005 đãkhẳng định họ, tên cá nhân là họ, tên khai sinh của người đó ? Trong quy định pháp luật về quyền tác giả và quyền đối với họ, tên có những điểm tương đồng khi công nhận cho các cá nhân có quyền được sử dụng bút danh. Sử dụng bút danh là một nội dung của quyền đối với họ, tên và cũng là một quyền thuộc quyền tác giả. 1.4. Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên trong pháp luật dân sự Việt Nam Quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền nhân thân liên quan đến họ tên của cá nhân nói riêng được quy định trong luật từ khá sớm. Quyền dân sự trong pháp luật Việt Nam được phát triển theo sự phát triển của xã hội, chịu sự ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, kinh tế… Đồng thời với sự ra đời của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bản hiến pháp đầu tiêncủa nhà nước Việt Nam là Hiến pháp 1946 đã quy định: quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do ngôn luận, xuất bản, báo chí, hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, cư trú… Sau khi chúng ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954, đất nước ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới: xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh chống Mỹ tại miền Nam. Đây cũng là hoàn cảnh lịch sử để Hiến pháp 1959 ra đời. Các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận từ Điều
  • 31. 25 22 đến Điều 42, các quyền nhân thân theo Hiến pháp 1959 được mở rộng hơn so với Hiến pháp 1946. Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh sau khi đất nước đã thống nhất hoàn toàn. Các quyền của công dân được mở rộng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cập từ Điều 53 đến Điều 81. Bên cạnh đó, vào năm 1977, Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc, tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người. Việt Nam đã tham gia một loạt các công ước quốc tế như: Công ước quốctế về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước về loại trừ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc... Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đã tổng kết thành quả cách mạng của Nhà nước ta tronggần một nửa thế kỷ trôi qua. Các quy định về quyền nhân thân của cá nhân ngày càng được mở rộng. Bên cạnh các quy định của Hiến pháp 1992, Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp 1992, một loạt các văn bản pháp luật có hiệu lực sau Hiến pháp được ban hành đã cụ thể hoá các quyền nhân thân của cá nhân, trongcác văn bản đó có thể kể đến BLDS (năm 1995 và năm 2005). BLDS năm 1995 tuy là BLDS đầu tiêncủa nước Việt Nam nhưng đã có quy định khá đầy đủ về những quyền dân sự liên quan đến nhân thân của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. BLDS 1995 quy định các quyền nhân thân từ Điều 28 đến Điều 47 bao gồm các quy định về quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn; quyền bình đẳng của vợ chồng…Với tư tưởng kế thừa và hoàn thiện, BLDS 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên các quyền nhân thân này và được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 và bổ sung một số quyền nhân thân như: quyền được khai sinh, quyền được khai tử, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền xác định lại giới tính...
  • 32. 26 Quyền đối với họ, tên với tư cách là một quyền nhân thân, một quyền dân sự tuyệt đối cũng được quy định từ rất sớm. Đây được coi là một trong những quyền đầu tiên của cá nhân kể từ khi sinh ra. Trước BLDS 1995, trong bộ Dân Luật Sài Gòn 1973, quyền dân sự này tuy không được quy định thành một điều luật độc lập, nhưng cũng đã gián tiếp công nhận quyền này thông qua các quy định về chứng thư khai sinh, tại Chương Thứ II, Thiên thứ nhất, Quyển thứ nhất nói về nhân – thân, cụ thể tại Điều 45 có quy đinh rằng sổ khai sinh sẽ phải ghi vào tên, họ đứa trẻ. BLDS 1995 dành cả Điều 28 để quy định: “Quyền đối với họ, tên: 1- Mỗi cá nhân đều có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinhcủa người đó. 2- Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận. 3- Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.” BLDS 2005 vẫn giữ nguyên nội dung của điều luật và được quy định tại Điều 26. Trong tư tưởng của nhà làm luật, rõ ràng quyền đối với họ, tên là một quyền dân sự cơ bản, đầu tiên của mỗi cá nhân, quan điểm này được giữ ổn định thông qua quy định của các bộ luật. Liên quan đến họ, tên Luật Dân sự còn có quy định về quyền thay đổi họ tên, BLDS 1995 và BLDS 2005 đều có quy định về quyền thay đổi họ, tên tuy nhiên BLDS hiện hành đã có những thay đổi trong nội dung khi quy định thêm các trường hợp pháp luật cho phép được thay đổi họ tên. Điều 29 quy định rằng: “1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ, tên trong cáctrường hợp sau đây: a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
  • 33. 27 b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt; c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con; d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại; đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình; e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính; g) Các trường hợp khácdo pháp luật về hộ tịch quy định. 2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. 3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dânsự được xác lập theo họ, tên cũ.” BLDS hiện hành đã quy định thêm một quyền nhân thân mới liên quan đến cá nhân, đó là quyền xác định lại giới tính. Quyền nhân thân này kéo theo hệ quả là nhu cầu thay đổi tên của người được xác định lại giới tính là một nhu cầu tất yếu. Do vậy khi quy định các trường hợp pháp luật cho phép thay đổi họ, tên đã được bổ sung thêm trường hợp: thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính. 1.5. Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số quốc gia trên thế giới 1.5.1. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Pháp BLDS Pháp là bộ luật có quy mô rộng lớn và có quá trình hình thành, phát triển lâu đời. Quyền dân sự của cá nhân trong BLDS Pháp được quy định khá đầy đủ. BLDS Pháp không có một phần riêng biệt quy định về quyền nhân thân
  • 34. 28 của cá nhân, tuy nhiên trong từng Thiên, Chương vẫn có rải rác những quy định về quyền nhân thân. Về quyền đối với họ, tên - khác với BLDS Việt Nam - quyền đối với họ tên của cá nhân được quy định riêng thành một điều luật mang tính liệt kê, BLDS Pháp không quy định riêng thành một điều luật, cũng không có khái niệm về quyền đối với họ tên. Tuy nhiên BLDS Pháp vẫn công nhận quyền của cá nhân đối với họ, tên của mình gián tiếp qua các quy định khác. BLDS Pháp, tại Quyển thứ nhất, phần về Cá nhân, Thiên II Chứng thư hộ tịch đã công nhận quyền đối với họ, tên một cách gián tiếp. Điều 55 (Luật ngày 20-11-1919) có quy định rằng: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày sinh trẻ, việc khai sinh cho trẻ phải được thực hiện trước viên chức hộ tịch tại nơi trẻ sinh ra”. Điều 57 (Luật số 2002-304 ngày 4-3-2002, được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 2003-516ngày 18-6-2003): “tên, họ của trẻ, kèm theo lời khai chung của cha, mẹ về việc thống nhất chọn tên cho con nếu có, họ, tên, tuổi, nghề nghiệp và nơi cư trú của của cha và mẹ cũng như của người đi khai sinh nếu cần”. BLDS quy định bắt buộc trong thời hạn ba ngày sau khi trẻ sinh, phải làm thủ tục khai sinh, đặt tên cho trẻ. Việc quy định bắt buộc khai sinh cho trẻ trong vòng một thời gian nhất định như thế đã gián tiếp bảo vệ quyền của đứa trẻ đối với họ, tên của mình. Luật cũng quy định tên của đứa trẻ phải do cả hai cha, mẹ thống nhất và cần có lời khai chung. Về việc xác định họ của cá nhân: Họ của cá nhân căn cứ vào những quan hệ huyết thống của cá nhân đó. BLDS Pháp chia ra thành các trường hợp: Nếu con trong giá thú thì được mang họ cha. Con ngoài giá thú thì theo quy định tại Điều 334, Khoản 1: “con ngoài giá thú mang họ của người cha hoặc người mẹ nào là người đầu tiên xác lập quan hệ huyết thống với đứa trẻ đó”. Quan hệ mẹ con thường được xác lập trước quan hệ cha con nên về mặt nguyên tắc đứa con ngoài giá thú mang họ mẹ, sau đó nếu người cha thừa nhận quan hệ huyết thống với đứa trẻ thì đứa trẻ đó sẽ mang cả họ cha. BLDS Pháp cũng quy định việc xác
  • 35. 29 định họ trong việc nuôi con nuôi, đứa trẻ được nhận làm con nuôi vẫn giữ họ của mình và đồng thời mang thêm họ của cha mẹ nuôi. Trong vấn đề thay đổi họ, tên, BLDS Pháp cũng quy định chi tiết hơn trong việc bảo vệ quyền với họ, tên khi thấy rằng lợi ích của đứa trẻ bị đe dọa: “nếu nhận thấy một hoặc tất cả các tên của trẻ, dù đứng riêng hay gắn liền với tên khác hoặc với họ, có thể không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc xâm phạm đến quyền của người thứ ba được bảo vệ “họ” của mình, thì viên chức hộ tịch phải báo ngay cho viện trưởng viện công tố bên cạnh tòa án sơ thẩm…”. “Nếu xét thấy tên của trẻ không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc không đảm bảo quyền của người thứ ba được bảo vệ “họ” của mình thì tòa án ra quyết định xóa tên đó trong hộ tịch. Trong trường hợp cần thiết Tòa án đặt cho trẻ một tên khácdo Tòa án lựa chọn nếu cha mẹ của trẻ không chọn lại một tên mới phù hợp với lợi ích của các đối tượng nêu trên…”(Điều 57 BLDS Pháp). Pháp luật Việt Nam cũng có quy định về vấn đề thay đổi họ, tên nhằm bảo đảm lợi ích của các cá nhân trong một số trường hợp cụ thể được quy định tại Điều 27 BLDS 2005. 1.5.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật Dân sự Thái Lan BLDS và Thương mại Thái Lan cũng không đặt quyền đối với họ, tên thành một điều luật đứng độc lập. Những quy định liên quan đến họ, tên của cá nhân được quy định chủ yếu trongpháp luật về hộ tịch. Trong BLDS và Thương mại Thái Lan, tại phần 1 quy định về Năng lực pháp luật. Điều 15 của BLDS này có quy định rằng năng lực pháp luật được bắt đầu từ khi đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái chết. Một đứa trẻ trong bụng mẹ có thể được hưởng quyền miễn là nó còn sống, sau khi ra đời. Quy định về năng lực pháp luật dân sự, pháp luật Thái Lan cũng có những nét tương đồng khi quy định năng lực pháp luật của cá nhân (tức khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự) được bắt đầu khi cá nhân sinh ra và chấm dứt khi chết. Bên cạnh đó cũng quy định trường hợp quyền năng của bào thai. Tuy nhiên quyền năng này
  • 36. 30 chỉ chủ yếu thể hiện trong các quan hệ về thừa kế và đứa trẻ này có tư cách là người hưởng thừa kế. Pháp luật dân sự Thái Lan quy định về quyền sử dụng họ tên như một quyền nhân thân mang tính tuyệt đối, bên cạnh đó không quy định cụ thể khái niệm và nội dung của quyền đối với họ, tên ra sao. Điều 18 BLDS và Thương mại Thái Lan có quy định: “Nếu quyền sử dụng tên của một người có quyền đối với tên đó bị người khác tranh chấp, hoặc nếu quyền lợi của người đó bị thiệt hại bởi việc người khác sử dụng cùng tên đó mà không được phép thì người có quyền nói trên có thể yêu cầu người kia chấm dứt việc gây thiệt hại. Nếu vẫn e sợ người kia tiếp tục gây thiệt hại thì người đó có thể đề nghị tòa án ra lệnh cấm” Pháp luật Thái Lan chỉ quy định cụ thể về những trường hợp bị coi là xâm phạm quyền sử dụng tên của một cá nhân và các biện pháp bảo vệ được pháp luật thừa nhận cho người có quyền năng. Về cơ bản giống pháp luật dân sự Việt Nam, khi BLDS Việt Nam cũng quy định người bị xâm phạm được phép yêu cầu người kia chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, đồng thời xin lỗi, cải chính công khai. 1.5.3. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Hoa Kỳ Luật các bang và thông luật ở Hoa Kỳ trong lĩnh vực tên chủ yếu quy định về việc thay đổi tên. Ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ, nếu một người có nhu cầu đổi tên thì người đó có thể làm việc đó một cách tự nhiên mà không cần phải gửi đơn xin phép bất kỳ toà án nào. Đây cũng là quy định trong thông luật, và chỉ có điều kiện duy nhất là việc thay đổi không mang mục đích phục vụ tội phạm hay lừa đảo. Mặc dù vậy, vẫn có quy định để ghi nhận việc đổi tên một cách chính thức. Trong thông luật, tức là luật của toà án và tách biệt khỏi luật thành văn của các nhà làm luật, quyền thay đổi họ tên mà không cần trải qua bất kỳ thủ tục
  • 37. 31 pháp lý nào đã được công nhận một cách đầy đủ, trừ khi luật thành văn của một bang nào đó quy định ngược lại một cách rõ ràng. Theo thông luật, trong trường hợp không phạm luật hay lừa đảo, một cá nhân có thể lấy bất kỳ tên gọi nào một cách hợp pháp mà không cần sự cho phép của toà án hay thông qua bất kỳ thủ tục nào. Không có lý do nào ngăn cản một người thay đổi tên của mình bất cứ lúc nào người đó muốn, với điều kiện là không vì mục đích phạm tội hay lừa đảo. Trẻ em, cũng như người lớn, có quyền được thay đổi họ tên theo thủ tục hình thức. Tuy nhiên đơn của người vị thành niên phải có chữ ký của cha mẹ, người giám hộ hay người họ hàng gần nhất. Người vị thành niên là người dưới 21 tuổi, trừ tại các bang, như New Jersey, quy định độ tuổi thành niên là 18. Luật thường quy định nếu đứa trẻ ở một độ tuổi nhất định, như trên 14 hoặc 16, thì đứa trẻ cũng phải ký vào đơn. Nói chung sự chấp thuận của cả cha và mẹ là cần thiết, trừ phi một trong hai người không thể ký đơn vì lý do mất năng lực hành vi, ra nước ngoài, hoặc đang chịu án tù. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người mẹ ly hôn, toà án cũng cho phép người con được đổi họ sang họ của cha dượng hoặc họ thời con gái của mẹ. Theo thông luật, người phụ nữ sau khi ly hôn có thể chọn bất kỳ tên nào mà người đó muốn, tất nhiên là trong khuôn khổ của luật thành văn. Luật của một số bang cấm người phụ nữ ly hôn mang tên thời con gái, tên của chồng cũ, hay bất kỳ một tên nào khác trong một số trường hợp. Tại các bang như Delaware, Kentucky, Massachussetts, Minnesota, hay Oklahoma, người phụ nữ được đổi tên nếu người đó là người xin ly hôn. Việc thay đổi họ, tên theo pháp luật Hoa Kỳ cũng có những quy định hạn chế sự tự do trong việc thay tên, đổi họ. Trong một số trường hợp tòa án có thể từ chối yêu cầu đổi tên vì lý do đằng sau yêu cầu là không chính đáng hoặc thể theo sự phản đối của người thứ ba (trong trường hợp sau thì tòa án còn có thể lật lại một quyết định đổi tên đã có trước đó). Tuy nhiên, ngay cả khi không có việc
  • 38. 32 đổi tên chính thức thì tòa án vẫn có thể, trong vài trường hợp, ngăn cấm việc sử dụng một tên họ nào đó. Ví dụ, trong thông luật, một người có thể bị cấm sử dụng tên của một người khác nếu việc sử dụng dẫn đến lầm tưởng là cho công chúng là họ đang trong quan hệ với người có tên bị sử dụng. Một tòa án ở New Jerseyđã ban hành lệnh cấm sử dụng tên và hình ảnh của một nguyên đơn cho việc quảng cáo một sản phẩm sau khi nhận thấy tên họ cũng là một quyền tài sản (73 N.J. Eq. 136, 67 A.39).
  • 39. 33 Chương 2 QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT 2.1. Nội dung quyền đối với họ, tên Họ, tên là hai dấu hiệu mang tính định danh đối với cá nhân và cũng là giá trị nhân thân quan trọng của bất kỳ cá nhân nào. Quyền nhân thân liên quan đến họ tên mà cụ thể là quyền đối với họ tên được pháp luật dân sự bảo vệ với tư cách là một quyền tuyệt đối. Đối với quyền nhân thân tuyệt đối thì tất cả các chủ thể còn lại trong xã hội cần phải tôn trọng quyền của chủ thể có quyền năng và không được xâm phạm quyền này. BLDS 2005 có quy định quyền đối với họ tên tại Điều 26: “ Quyền đối với họ, tên: 1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó. 2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩavụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nướccó thẩm quyền công nhận. 3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không đượcgây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. ” Tại Chương 1 của luận văn, khi xây dựng khái niệm quyền đối với họ, tên chúng tôi đã đưa ra quan điểm cho rằng với quy định của điều luật này thì nội dung của quyền họ tên được hiểu quá sơ sài, không rõ ràng và chưa đầy đủ. Nội dung quyền đối với họ, tên nếu đối chiếu vào điều luật này không thể là căn cứ cho nhà làm luật, những người áp dụng pháp luật có thể hình dung quyền đối với họ, tên bao gồm những nội dung nào, quyền này được thực hiện ra sao, cụ thể hóa quyền này như thế nào. Trên thực tế cũng chưa hề có văn bản pháp lý nào quy định về vấn đề này. Theo chúng tôi nội dung của quyền đối với họ tên có thể
  • 40. 34 được xác định là: quyền có họ, tên; quyền sử dụng họ, tên một cách hợp pháp; và có quyền thay đổi họ, tên, ngoài ra còn có quyền được sử dụng bút danh, bí danh một cách hợp pháp. BLDS 2005 có quy định riêng về quyền thay đổi họ, tên nhưng theo chúng tôi thay đổi họ, tên chỉ là một nội dung, một biểu hiện của quyền đối với họ tên mà thôi. 2.1.1. Cá nhân có quyền có họ, tên Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có khi cá nhân đó sinh ra và mất khi cá nhân đó chết. Năng lực pháp luật là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định. Cá nhân khi sinh ra có những quyền cơ bản mà pháp luật công nhận ngay từ khi chào đời, một trong các quyền đó chính là quyền đối với họ tên. Dấu hiệu đầu tiên của quyền đối với họ, tên chính là khả năng mà pháp luật quy định cho cá nhân có quyền có họ, tên. Một cá nhân sinh ra, muốn tồn tại và phát triển đương nhiên phải có những dấu hiệu định danh, phân biệt với những cá thể khác. Họ và tên là những dấu hiệu cơ bản nhất để cá biệt hóa cá nhân. Cá nhân luôn phải tồn tại dưới một cái tên nhất định, và pháp luật phải công nhận cho họ có quyền có họ tên. Việc đặt tên con khi chào đời là một việc quan trọng. Theo quan điểm của người Việt Nam, cái tên đánh dấu sự xuất hiện trên đời, cái tên sẽ đi theo suốt cả cuộc đời. Pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa: “Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó”. Pháp luật đã công nhận rằng cá nhân khi sinh ra đều phải được có họ tên, mọi cá thể là cá nhân trong xã hội đều bình đẳng như nhau đối với quyền nhân thân này. Điều luật này cũng chỉ ra rằng họ, tên của một cá nhân được xác định theo họ, tênkhai sinh của người đó. Trên thực tế, một đứa trẻ sinh ra có rất nhiều tên gọi, có thể là tên gọi ngày bé, tên gọi ở nhà, tên thường dùng, tên khai sinh… Trong đó họ và tên được ghi nhận trong giấy khai sinh được xác định là họ và tên có giá trị pháp lý.
  • 41. 35 Cá nhân có quyền có họ, tên tức là có quyền được có họ và tên. Họ và tên là hai yếu tố khác nhau. Họ thường đứng trước và có chức năng phân biệt dòng họ, dòng tộc. Cá nhân có quyền có họ, nhưng thực tế việc xác định họ của cá nhân trong nhiều trên thực tế xuất hiện nhiều vấn đề. Theo quy định tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch thì: “Người đi đăng ký khai sinh phải nộpGiấy chứng sinh (theo mẫu quy định)và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn)”. Có hai quan điểm trong việc xác định họ của một cá nhân khi sinh ra. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu căn cứ vào quy định tại Nghị định 158, khi nghị định quy định người đi đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ, việc này giúp cán bộ tư pháp xác định họ của người cha, họ của người mẹ. Quan điểm này cho rằng khi đăng ký khai sinh thì việc xác định họ của đứa trẻ được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn hoặc họ bố hoặc họ mẹ. Quan điểm này cũng cho rằng việc xác định họ như thế là hợp lý vì trên thực tế con thường mang họ của cha. Những người theo quan điểm thứ hai thì cho rằng không hề có điềuluật nào bắt buộc đứa trẻ sinh ra phải mang họ của cha hay mang họ của mẹ. Một cá nhân sinh ra có thể được đặt tên theo họ của cha, họ của mẹ nhưng cũng có thể đặt theo một họ khác.Theo chúng tôi thì quan điểm này là quan điểm đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật và trên thực tế đã có rất nhiều trường hợp đứa trẻ sinh ra mang một họ khác, không phải họ của cha, mẹ và pháp luật không hề cấm vấn đề này. Chúng tôi cho rằng quy định này của pháp luật Việt Nam rất hợp lý. Khi quy định “thoải mái” về quyền lựa chọn họ cho đứa trẻ, sẽ giúp họ của người Việt trở nên đa dạng, phong phú hơn, từ đó sự cá biệt hóa, định dạng cá nhân dễ dàng hơn, quản lý xã hội cũng hiệu quả hơn. Pháp luật dân sự Pháp lại có quy định khác khi xác định họ cho đứa trẻ mới sinh. Cụ thể đối với con trong giá thú thì luật quy định đứa trẻ đó phải mang họ của người cha, đối với con ngoài giá thú thì đứa trẻ đó có thể mang họ của cha nào hoặc họ của mẹ nào mà quan hệ cha -
  • 42. 36 con, mẹ - con xác lập từ trước (Điều 334-1 BLDS Pháp). Đối với trường hợp nuôi con nuôi, đưa trẻ được nhận là con nuôi có thể mang họ của người cha, có thể mang họ của người mẹ, hoặc có thể mang cả hai họ. Việc xác định tên đối với cá nhân đơn giản và không có quan điểm nào trái chiều. Do tên chính (hay còn gọi là tên thường gọi) được đặt một cách tự do, không theo một nguyên tắc nào cả. Bất cứ từ nào trong từ điểnTiếng Việt đều có thể dùng để đặt tên cho con. Tuy nhiên trong thực tế, cái tên lại gây ra không ít rắc rối, phiền hà với chủ nhân. Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân được quy định cho mỗi cá nhân, gắn với cá nhân và không thể chuyển giao, tuy nhiên quyền của cá nhân đó lại bị “hạn chế” ở chỗ, đứa trẻ khi sinh ra đã được pháp luật công nhận quyền đối với họ, tên, tuy nhiên đây chỉ là quyền pháp lý, việc thực hiện quyền này có thể lại thuộc về một chủ thể khác. Cụ thể, đứa trẻ đó không thể tự mình quyết định tên của mình là gì khi còn quá bé, cũng không thể tự mình thực hiện quyền đi khai sinh cho mình. Do vậy, đứa trẻ sinh ra, cha mẹ hoặc những cá nhân khác được quy định để thực hiện một phần quyền đối với họ tên của trẻ. Chính điều này đã gây ra những tình huống dở khóc dở cười vì cái tên. Lấy dẫn chứng một trường hợp xảy ra trong thực tế như sau: Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi là họ tên đầy đủ của một chàng trai sinh năm 1987, trú tại thôn Quảng Đại, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Năm 1987, ông Mai Xuân Cán - một cán bộ của UBND xã Đại Cường - sinh đứa con thứ năm và bị UBND xã này buộc phải nộp phạt sáu nghìn rưởi mới cho đăng ký khai sinh vì sinh nhiều con. Ức vì bị phạt nên khi làm giấy khai sinh cho con, ông Cán lấy luôn mức tiền phạt đó để đặt tên cho con trai mình. UBND xã ra sức khuyên can ông không nên đặt tên cho con kỳ quặc như vậy, nhưng ông Cán một mực không nghe. Trước thái độ cương quyết thái quá của ông, UBND xã Đại Cường đành phải chấp nhận đăng ký khai sinh cho con ông với cái tên Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi.
  • 43. 37 Ông Cán không ngờ rằng những lời cảnh báo trước đây của bạn bè, người thân và chính quyền đối với ông quả thật không sai. Cậu con trai lớn lên, khi vào học cấp II mang đến trường cái tên quá ngộ nghĩnh, bị bạn bè trêu chọc không chịu nổi phải bỏ học mất hai năm. Mãi sau này, Mai Phạt Sáu Nghìn Rưởi đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định cho đổi tên lại là Mai Hoàng Long. Ngoài Long ra, có người đồng hương khác tên là Mai Phạt Ba Ngàn Rưởi, trường hợp đặt tên này cũng do người cha bị UBND xã phạt ba ngàn rưởi vì đi khai sinh cho conquá muộn theo qui định. Việc xác định họ, tên cho một cá nhân để đảm bảo quyền nhân thân đối với họ tên của cá nhân đó, tưởng chừng dễ dàng, nhưng thực tế có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới quyền lợi chính đáng của chủ nhân những cái tên. Quyền thì được quy định cho chính cá nhân có tên, tuy nhiên việc thực hiện quyền đôi khi lại thuộc về chủ thể khác, chính điềunày đã gây ra những tình huống dở khóc dở cười, mà quyền lợi của người có họ tên lại bị xâm hại đầu tiên. 2.1.2. Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Tại Điều 26 BLDS 2005 Khoản 2 có quy định: “Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận”. Theo chúng tôi, quy định này được hiểu rằng cá nhân được sử dụng họ, tên của mình để đảm bảo quyền và nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ pháp luật. Sử dụng họ, tên là việc cá nhân dùng họ tên của mình tham gia vào các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ pháp luật nói riêng. Đây được coi là hệ quả đương nhiên khi đã có họ tên hợp pháp, khi có họ tên tất nhiên sẽ phải sử dụng nó vào nhiều công việc với nhiều mục đích khác nhau. Việc sử dụng họ, tên là một tất yếu. Trong xã hội, để đáp ứng nhu cầu của bản thân, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của mình được thực hiện con người phải tham gia vào rất nhiều những giao lưu dân sự. Với mỗi quan hệ xã hội các cá nhân tham gia đều có những tư cách riêng. Họ tên là một yếu tố định danh cá