Quyền Đối Với Họ, Tên Một Số Vấn Đề. Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ được quy định về quyền đối với họ, tên trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật liên quan. Từ những quy định của pháp luật, đề tài cần đạt được một mục đích thứ hai là liên hệ, đánh giá được việc áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên trên thực tế là như thế nào. Khi đã có những kết quả nhất định về việc áp dụng trên thực tế đề tài nghiên cứu hướng tới mục đích thứ ba là tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật, chỉ ra những điểm chưa phù hợp với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật. Đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tham khảo cho những người nghiên cứu luật và các cơ quan áp dụng pháp luật.
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
Quyền Đối Với Họ, Tên Một Số Vấn Đề.doc
1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG NGỌC HƯNG
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành
Mã số
: Luật dân sự
: 60.38.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị
HÀ NỘI - 2012
2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những phân tích, đánh giá hoàn toàn dựa trên quan điểm
của cá nhân tôi. Những kết luận và kiến nghị trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Ngọc Hưng
3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI
VỚI HỌ, TÊN
1.1 Khái niệm quyền nhân thân 5
1.2. Quyền đối với họ, tên 10
1.2.1. Khái niệm họ, tên. 10
1.2.1.1. Họ 10
1.2.1.2. Tên 12
1.2.2. Quyền đối với họ, tên 15
1.2.2.1. Khái niệm quyền đối với họ, tên 15
1.2.2.2. Đặc điểm quyền đối với họ, tên 17
1.3. Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân
20
thânkhác.
1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh
1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên
1.3.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín
1.3.4. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả
20
21
22
23
1.4. Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên
24
trong pháp luật Dân sự Việt Nam
1.5. Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số
27
quốc gia trên thế giới
1.5.1. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Pháp 27
1.5.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Thái Lan 29
4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.5.3. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Hoa Kỳ 30
CHƯƠNG 2
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
2.1. Nội dung quyền đối với họ, tên
2.1.1. Cá nhân có quyền có họ, tên
2.1.2. Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
2.1.3. Cá nhân được sử dụng bút danh, bí danh một cách hợp pháp
2.1.4. Cá nhân được thay đổi họ, tên
2.2. Các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên
2.2.1. Sử dụng họ, tên của người khác mà không có sự cho phép của
người đó
2.2.2. Xâm phạm quyền đối với họ tên của người có trách nhiệm khai
sinh cho trẻ.
2.2.3. Hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên cá nhân của cơ quan có
thẩm quyền
2.3. Bảo vệ quyền đối với họ, tên
2.3.1. Khái niệm và vai trò bảo vệ quyền đối với họ, tên
2.3.1.1. Khái niệm
2.3.1.2. Vai trò của bảo vệ quyền đối với họ, tên
2.3.2. Các biện pháp bảo vệ quyền đối với họ, tên
2.3.2.1. Biện pháp tự bảo vệ
2.3.2.2. Yêu cầu người xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
33
33
34
37
39
40
42
42
45
46
47
48
48
49
50
51
52
5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai
2.3.2.3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
53
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại
2.4. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về quyền đối với
56
họ, tên
2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền đối với
60
họ, tên
2.6. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
66
đối với họ, tên
2.6.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên 66
2.6.2. Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ,
68
tên
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 78
6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
BLDS:
BLDS 2005:
BLDS 1995:
Nxb:
TAND:
Tr:
UBND:
Bộ Luật Dân sự.
Bộ Luật Dân sự năm 2005.
Bộ Luật Dân sự năm 1995.
Nhà xuất bản.
Tòa án nhân dân.
Trang
Ủy ban nhân dân.
7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Họ và tên là những giá trị tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, là một trong
những yếu tố nhân thân để phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Quyền nhân thân
đối với họ, tên là một trong những quyền nhân thân cơ bản, cá biệt hóa cá nhân,
cần được pháp luật bảo vệ. Mặc dù quyền đối với họ, tên được coi là một quyền
nhân thân cơ bản của cá nhân và được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối nhưng
trên thực tế việc áp dụng pháp luật để đảm bảo quyền đối với họ, tên của cá nhân
vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng này là
những quy định pháp luật chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ. Cụ thể pháp luật dân sự
chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể định nghĩa như thế nào là quyền đối với
họ, tên; người có quyền đối với họ, tên của mình thì có những quyền năng gì cụ
thể. Những thiếu sót này của pháp luật đã gây khó cho cơ quan có thẩm quyền
trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng chưa tạo điều kiện cho mỗi cá
nhân được hiểu đúng, đầy đủ về quyền lợi của mình. Từ việc nhận thức không
đúng, không đầy đủ dẫn đến những cách áp dụng không thống nhất giữa các cơ
quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó pháp luật hiện hành cũng thiếu sót một phần
quan trọng chưa hề quy định đó là quy định để nhận biết các hành vi xâm phạm
quyền đối với họ, tên của cá nhân. Việc quy định các hành vi xâm phạm quyền
đối với họ, tên là công việc có tính cấp thiết trong bối cảnh bản thân người có
quyền và chính các cơ quan có thẩm quyền còn đang loay hoay trong việc nhận
biết được có sự xâm phạm hay không. Xuất phát từ những lý do trên đây, em đã
mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền nhân thân nói chung và một số quyền nhân thân cụ thể đã được
nghiên cứu, tìm hiểu qua khá nhiều các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trong
8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2
khoa học pháp lý, chưa có công trình nào nghiên cứu quyền đối với họ, tên một
cách có hệ thống và quy mô, từ lý luận đến thực tiễn. Những công trình liên quan
chỉ đề cập tới quyền đối với họ, tên là một quyền trong hệ thống các quyền nhân
thân và trong những công trình nghiên cứu này, quyền đối với họ, tên chỉ được đặt
trong một phần nhỏ, với những nghiên cứu ở mức độ nhất định. Trong đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường do ThS. Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài:
“Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân
sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tại bài viết chuyên đề: “Quyền nhân
thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: quyền của cá nhân đối với họ, tên, dân
tộc, hình ảnh” của ThS. Nguyễn Minh Oanh cũng đã đề cập tới một số vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến quyền đối với họ, tên với tư cách là một quyền
nhân thân cá biệt hóa cá nhân.
Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã phân tích,
đánh giá trên một vài phương diện liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân. Bài viết: “Quyền thay đổi họ, tên từ pháp luật đến thực tiễn” của tác giả
Hoàng Long đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư Pháp, số chuyên đề
3/2008, bài viết: “ Quy định về thay đổi họ, tên của một người cần được hướng
dẫn cụ thể” của tác giả Vương Tất Đức, Nguyễn Thanh Xuân, tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 4 năm 2010 đã đưa ra một số những bất cập trong luật
định và các trường hợp vướng mắc trong thực tế liên quan đến việc thay đổi họ,
tên của cá nhân. Bài viết: “Xác định họ đối với cá nhân” với tác giả Nguyễn Đình
Toàn đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, số tháng 7/2008, bài
viết: “Cần có hướng dẫn việc đăng ký họ, tên khi đăng ký khai sinh” của tác giả
Thảo Linh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 3/2008 đã
đưa ra quan điểm trong việc xác định họ cho đứa trẻ khi đi khai sinh, quy định của
pháp luật và thực tiễn áp dụng và những một số kiến nghị hoàn thiện luật. Những
công trình nghiên cứu đã nêu trên đây chỉ mới đề cập tới quyền đối
9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
3
với họ, tên ở những khía cạnh, nội dung nhất định mà không nghiên cứu một cách
đầy đủ và có hệ thống trên tất cả mọi phương diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ được quy định về quyền đối với họ,
tên trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật liên quan. Từ những quy định của
pháp luật, đề tài cần đạt được một mục đích thứ hai là liên hệ, đánh giá được việc
áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên trên thực tế là như thế nào. Khi đã có
những kết quả nhất định về việc áp dụng trên thực tế đề tài nghiên cứu hướng tới
mục đích thứ ba là tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật, chỉ ra
những điểm chưa phù hợp với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện
pháp luật. Đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tham khảo cho những người
nghiên cứu luật và các cơ quan áp dụng pháp luật.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
như sau:
- Trình bày được lý luận chung về quyền nhân thân liên quan đến họ, tên của
cá nhân.
- Phân tích nội dung pháp luật liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân.
- Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về
quyền đối với họ, tên của cá nhân.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, học viên chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung cơ bản liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân như khái niệm về quyền đối với họ tên, đặc điểm pháp lý của quyền đối với
họ, tên; nội dung quyền đối với họ, tên; các hành vi xâm phạm quyền và các
phương thức bảo vệ quyền nhân thân này. Bên cạnh những những phân tích
10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
4
mang tính lý luận là những vụ việc thực tế liên quan trực tiếp đến họ, tên của cá
nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu đề tài được xác định như sau:
- Phương pháp so sánh luật: nghiên cứu các quy định pháp lý của Việt Nam
về quyền đối với họ, tên, các quy định pháp lý cơ bản của nước ngoài về quyền
đối với họ, tên, từ đó rút ra những điểm tương đồng, khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đối với mỗi một quan điểm khoa học
đưa ra, học viên đã phân tích, tổng hợp để rút ra những điểm ưu, nhược và dẫn
đến cách nhìn nhận của bản thân
- Ngoài ra học viên còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp,
diễn giải…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đem lại những điểm mới sau đây:
- Luận văn là một công trình nghiên cứu với cái nhìn tương đối cơ bản, toàn
diện mang tính pháp lý về quyền đối với họ, tên;
- Luận văn giúp đánh giá đúng những bất cập trong quy định pháp luật về
quyền đối với họ, tên cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này;
- Luận văn đã đưa ra những giải pháp cụ thể mang tính hoàn thiện những
quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn thạc sỹ luật học với tên đề tài: “Quyền đối với họ, tên – một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” có kết cấu gồm phần Mở đầu, các chương nội dung chính,
Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung chính của luận văn
gồm hai chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền đối với họ, tên.
Chương 2: Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam hiện hành, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Với mục đích đưa ra một khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi cho rằng
cần thiết phải xuất phát từ những khái niệm liên quan như quyền con người,
quyền dân sự.
Con người với vị trí và tầm quan trọng trong lịch sử phát triển thế giới luôn
được coi là chủ thể cần được trân trọng và bảo vệ. Trong quá trình phát triển xã
hội, những quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng cùng với nhiều
mặt tiêu cực. Quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người đã và đang
được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng yếu. Quyền con người được
hiểu là quyền đối với những lợi ích của con người – với tư cách là chủ thể tham
gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã hội,
văn hóa…Sự ra đời của các công ước về quyền con người được coi như là một
minh chứng cho tầm quan trọng và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia đối với
quyền con người, điển hình là Công ước quốc tế 1966 của Liên hiệp quốc về
quyền dân sự, quyền chính trị.
Quyền nhân thân theo quy định tại BLDS 2005 (BLDS 2005) là một loại
quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có các
quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có thể do các
bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể về quyền dân
sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo những lợi ích
chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật chính là đã bảo đảm
quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự được coi là một khái niệm
được bao hàm trong nội dung của quyền con người. Quyền dân sự với tư cách là
một quyền con người cũng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo vệ. Nhà
nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã thể hiện quan điểm rõ ràng
12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
6
trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến pháp, cụ thể là Hiến pháp năm
1992 đã quy định rõ những quyền con người cơ bản nhất được thể hiện tại
Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là “khả năng xử sự được phép của chủ
thể có quyền năng được nhà nước quy định hoặc công nhận khi tham gia vào
quan hệ dân sự và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện” [20, tr.82]. Quyền
dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể khi tham
gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi liên quan
đến vật chất hoặc những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí nhất định mà
quyền dân sự được phân loại thành những loại quyền khác nhau. Có thể nói sự
phân loại phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên thế giới là sự đối
lập giữa quyền nhân thân và quyền tài sản.
Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề cập
tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Luận
văn trên cơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những nhận định của
cá nhân.
Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Toà án nhân dân Tối cao,
trong đề tài: “Vai trò của TAND trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công dân
theo quy định của BLDS” khái niệm quyền nhân thân được xây dựng trên hai góc
độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự là quyền con người về dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là thành viên của cộng đồng
kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các quyền đó, mỗi cá nhân được
khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao lưu dân sự, do đó quyền này không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Dưới
góc độ khách thể, quyền nhân thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định
pháp luật bao gồm các quy định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với
mỗi cá nhân để bảo đảm địa vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá
nhân thực hiện các quyền con người về dân sự [30, tr. 19]. Theo đó, quyền nhân
thân mà chúng ta đang tìm
13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
7
hiểu được hiểu là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này có
từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với nhau
và không thể chuyển giao.
Từ điển luật học của viện nghiên cứu pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách định
nghĩa khác về quyền nhân thân:
“Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân
tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh
dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn,
quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi
lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối với
tác phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người đó có
quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc toà án buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên
các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu cầu toà
án buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại vật chất hoặc tinh thần.
Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm đến lợi
ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác.” [33, tr. 653].
Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá xúc tích, quyền
nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân,
các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho người khác, trừ
trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền nhân thân trong
cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của BLDS 2005. Điều 24
BLDS 2005 có quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là
14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
8
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà nghiên
cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm tiêu biểu.
Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” – tạp chí Luật học số
7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng thuận với quy định
tại Điều 24 BLDS 2005 ở hai điểm: thứ nhất, Điều 24 BLDS 2005 định nghĩa rằng
quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao trừ
khi pháp luật có quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi lẽ trên thực tế có
một số quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng không được xác định
là quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn chứng cụ thể như trong lĩnh
vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và Gia đình có quy định rằng:
“nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con, giữa anh chị em với
nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng theo quy định của
luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể
chuyển giao cho người khác”, tương ứng với nghĩa vụ cấp dưỡng Luật Hôn nhân
và Gia đình cũng quy định quyền yêu cầu cấp dưỡng gắn với những chủ thể nhất
định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp dưỡng chính là một loại quyền tài sản.
Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một cá nhân cụ thể và không thể chuyển giao.
Thứ hai, tác giả của bài viết này không đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân
thân gắn liền với mỗi cá nhân. Trong các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên
quan đến yếu tố pháp lý của pháp nhân
– chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và Điều 611 BLDS
2005 có đề cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” hay tại Nghị
quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, đều
nhắc đến thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân¸và pháp nhân được bồi
thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của bài viết cho rằng những quy định này
15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
9
đã khẳng định quyền nhân thân của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng nghĩa
với việc cho rằng quyền nhân thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24 BLDS là
không chính xác. Từ những phân tích đó, TS Bùi Đăng Hiếu cũng đã đưa ra quan
điểm cá nhân khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: “Quyền nhân thân là
quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được
bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác” [8, tr.40].
Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan điểm
của TS. Lê Đình Nghị trong Luận án Tiến sỹ - Quyền bí mật đời tư theo quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008). Trong Luận án này, tác giả đã xây
dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và chủ quan.
Nghĩa khách quan: “quyền nhân thân được hiểu hiểu là một phạm trù pháp lý bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong đó có nội
dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với bản thân
mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình”. Theo nghĩa chủ
quan, tác giả cho rằng “quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn liền với cá
nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể chuyển giao
quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Có thể
thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi xây dựng khái niệm về
quyền nhân thân.
Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng chưa
thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một loại
quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ thể từ
khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội phát
triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn, đồng
thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành nhiều
các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ yếu,
trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành và
16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
10
pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định các chủ
thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình, Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quyền nhân thân là
một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ gắn với con
người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp
nhân, Luật Dân sự đã có quy định liên quan đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ
như quy định tại Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cũng đã nhắc đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng
cách gián tiếp, BLDS đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như vậy
có thể khẳng định quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn với
chủ thể khác.
Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền dân sự
thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là những quyền
có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một cách hoàn toàn
bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân thì không thể định
giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất mặc dù trong một số
trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng hưởng một khoản lợi ích
vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem là một loại quyền vô giá.
Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về quyền
nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2. Quyền đối với họ, tên
1.2.1. Khái niệm họ, tên.
1.2.1.1. Họ
Mỗi cá nhân sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có họ và tên, đầu tiên đó là
dấu hiệu nhận biết, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác, tiếp nữa mỗi cá nhân
trong xã hội phải có một cái tên kèm theo một họ nhất định để đảm bảo
17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
11
hiệu quả trong quản lý xã hội của nhà nước. Họ và tên của cá nhân cũng mang
một ý nghĩa sâu sắc, thông qua họ tên đó chúng ta biết nguồn gốc, lai lịch, giới
tính của cá nhân...
Họ vốn để chỉ một tập hợp người cùng tổ tiên, cùng một dòng máu (ví dụ
như họ nội, họ ngoại). Họ là một phần trong tên gọi, để xác định cá nhân đó thuộc
dòng họ nào. Họ được đặt trước tên đệm và tên chính của một người, dùng chung
cho một tập hợp những người cùng một dòng máu (sau đây được gọi là cùng một
họ) để phân biệt với người thuộc họ khác. Họ có chức năng phân biệt một tập hợp
người cùng tổ tiên, dòng máu này với một tập hợp người có cùng tổ tiên, dòng
máu khác. Họ luôn đi đôi với tên chính và tên đệm (nếu có) nên góp phần cá thể
hóa cá nhân. Khi hai hay nhiều người có cùng tên đệm và tên chính thì họ sẽ là
một yếu tố quyết định đến chức năng cá thể hóa. Chẳng hạn để phân biệt hai
người có cùng tên Giang là Chu Lam Giang và Lê Lam Giang thì người ta thường
gọi là Giang Lê và Giang Chu để dễ phân biệt.
Về vị trí của họ trong tổ hợp họ - tên người, họ của người Việt Nam luôn
luôn đứng ở vị trí thứ nhất, đầu tiên trong cụm họ tên. Ví dụ như trong cụm họ -
tên Lê Thế Vỹ thì ở vị trí đầu tiên là họ của người đó (họ Lê). Nếu như cũng là họ
đó nhưng được đặt ở vị trí thứ hai thì lại được coi là tên đệm, ví dụ như Hoàng Lê
Thế Vỹ (họ là Hoàng, Lê chỉ là đệm). Về vị trí họ đặt trong cụm họ - tên của
người Việt có nét khác biệt hoàn toàn với vị trí họ trong cụm họ - tên của người
Châu Âu: ví dụ John Lennon thì John đứng đầu tiên lại là tên chính, Lennon đứng
sau lại là họ. Trong giao tiếp, người Việt luôn gọi tên để phân biệt, xưng hô (gọi
Vỹ), nhưng với người Châu Âu thì lại gọi họ để phân biệt (gọi Lennon)
Về nguồn gốc của họ người ở Việt Nam rất đa dạng, do Việt Nam từ xa xưa
đã bị ảnh hưởng bởi sự xâm chiếm, di dân hay giao thoa văn hóa. Ví dụ như đa số
các họ của người Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc (họ Trần, Lê, Lý, Đỗ…) do
nước ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc sau đó là sự di dân của người
18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
12
Trung Quốc. Các dân tộc thiểu số, một số dân tộc mang họ của người Kinh như
Nguyễn, Lê, Bùi, Lưu…Hay một số dân tộc trước kia không có họ nhưng sau cách
mạng năm 1945 các dân tộc này lấy họ Hồ làm họ chung cho tất cả mọi thành
viên. Họ của những dân tộc thiểu số lại được chia thành các nhóm như nhóm tên
thú, ví dụ như nhóm Rvai (hổ) gồm có Rvai Veng Ung, Rvai Xênh Khương, Rvai
TLắp…, nhóm tên chim, ví dụ như Thràng (phượng hoàng đất), Rivi (én), Lang
Tu (họa mi)…, nhóm tên cây ví dụ như Tvạ Tờrông Blai (guột), Tvạ Ngăm (rau
dớn)…Việc xác định họ cho người Việt còn được xác định theo chế độ phụ hệ và
mẫu hệ. Đa số các dân tộc ở Việt Nam theo chế độ phụ hệ như Kinh, Hoa, Hà Nhì,
Pà Thẻn…, con cái các dân tộc này khi sinh ra được lấy họ theo người cha. Một số
ít dân tộc theo chế độ mẫu hệ như Ê Đê, Gia rai, Chăm, Mnông…con cái sinh ra
lại lấy theo họ của mẹ. Ở nhiều vùng miền, họ còn lấy chữ đầu tiên tên làng làm
họ của mình: ví dụ như họ Dương (làng Dương Hòa)…
Tóm lại, họ của mỗi cá nhân thể hiện dòng máu, gốc gác của bản thân. Họ
cũng là căn cứ, dấu hiệu phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Về mặt văn hóa, họ
thể hiện lịch sử hình thành, phát triển của một tập hợp những người có cùng dòng
máu, huyết thống, về mặt pháp lý, họ có ý nghĩa trong công tác quản lý hộ tịch,
những quyền dân sự phát sinh liên quan đến họ, tên.
1.2.1.2. Tên
* Tên đệm:
Tên đệm là yếu tố xen giữa họ và tên chính. Đây là thành tố phụ, có thể xuất
hiện hoặc vắng mặt: Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi. Phần lớn tên đệm là từ đơn nhưng
gần đây, tên đệm phức ngày càng xuất hiện nhiều, ví dụ như Trần Văn Hiến
Minh, Nguyễn Ngọc Trường Sơn, …
Về chức năng, tên đệm có những chức năng như sau: Chức năng khu biệt
giới tính: từ trước đến nay, một từ có chức năng khu biệt giới tính nữ rõ ràng nhất
là Thị (Nguyễn Thị Hoa, Trần Thị Hạnh…) riêng các nhà quý phái ở Huế
19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
13
trước đây thay vì dùng Thị thì dùng từ Diệu (Nguyễn Diệu Hương, Trần Diệu
Thúy…) một số dòng họ thì dùng Nữ để thay thế (ví dụ: Lê Nữ Lam, Trần Nữ
Như Châu…). Hiện nay từ đệm với chức năng khu biệt giới tính nữ mang tính đa
dạng, phong phú hơn nhiều, ví dụ: Ái, Cẩm, Diễm, Yến, Lệ, Mỹ…Với nam giới,
các tên đệm phong phú hơn, nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là đệm Văn. Các dân
tộc ít người cũng có những quy ước riêng, ví dụ dân tộc Si La dùng Chà (nam), có
hay cố (nữ), người Sán Dìu, con trai mang tên đệm A (Trần A Bảo), con gái mang
đệm Ô (Trần Ô Thu)…Tên đệm còn có chức năng khu biệt bộ phận, cụ thể như
trong dân tộc Kinh, một số từ đệm giữ chức năng khu biệt các chi hay ngành trong
một dòng họ lớn hơn, chẳng hạn, Ngô Thì, Ngô Vi ở Thanh Oai (Hà Nội), Phan
Huy, Phan Trọng ở Quốc Oai (Hà Nội)…Một chức năng nữa của tên đệm là chức
năng khu biệt thứ bậc trong gia đình, thế hệ, dòng họ, ví như một số gia đình dùng
từ đệm Bá (người lớn tuổi) để chỉ con cả dòng trưởng, Mạnh (bắt đầu) để chỉ con
cả dòng thứ, Gia (người lớn nhất trong nhà) chỉ con trưởng, Trọng (thứ hai) chỉ
người con thứ nhì, Thúc (trẻ tuổi) chỉ người con thứ ba, quý (nhỏ) chỉ người con
cuối cùng…Tên đệm còn chỉ mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình: dân tộc
Kinh, nhiều gia đình luôn lấy tên đệm của cha đặt cho con trai, ví dụ Phan Huy
Ích – Phan Huy Chú, Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm. Ngoài ra tên đệm còn có chức
năng thẩm mỹ, với chức năng này tên đệm có thể dùng được cả cho giới nam và
giới nữ, ví như những tên đệm: Bạch, Bích, Hồng, Kim, Ngọc, Thanh, Xuân. Tóm
lại, tên đệm có ba loại: loại chỉ có chức năng khu biệt giới: Thị, Diệu, Nữ…(nữ),
Mạnh, Bá…(nam); loại chỉ có chức năng thẩm mỹ và loại vừa có chức năng khu
biệt giới vừa có chức năng thẩm mỹ
* Tên chính:
Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân khác.
Tên chính thường ở vị trí cuối cùng trong cụm họ - tên. Người Việt Nam chúng ta
khi đặt tên chính cho con cháu thường có lý do nhất định, người Việt quan niệm
rằng tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang nó. Tục ngữ có
20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
14
câu: “coi mặt, đặt tên”. Khi đặt tên người ta thường lựa chọn rất kỹ và thường căn
cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh, dòng họ, quê hương, xã hội, ước vọng của cha mẹ…
chứ không chọn một cách tùy tiện. Tính lựa chọn trong cách đặt tên chính được
thể hiện ngay trong xã hội dân gian xưa kia, đối với những nhân vật chính diện,
sang trọng thường có cái tên rất hay, đẹp như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực;
những nhân vật bình dân trong xã hội có cái tên xấu như chính số phận của họ: chị
Dậu (trong tác phẩm Tắt đèn), Chí phèo, Thị Nở (tác phẩm Chí Phèo). Tên chính
được đặt cho người Việt Nam chủ yếu là từ Hán, sở dĩ có hiện tượng này là do
tâm lý người Việt vẫn cho rằng tên bằng từ Hán Việt hay hơn, văn hóa hơn những
tên bằng từ thuần việt tương ứng. Giả dụ như thay vì đặt tên con là Ngay Thẳng,
các bậc phụ huynh sẽ lựa chọn tên tiếng Hán có nghĩa tương đồng như Trung
Trực, hay Thanh Liêm thay vì đặt là Trong Sạch, cá biệt vẫn có số ít đặt tên con
theo nghĩa thuần Việt như Giàu, Có, Được, Lành…So với tên đệm và họ, tên
chính của người Việt có số lượng lớn hơn rất nhiều và độ phong phú, đa dạng
cũng hơn hẳn, về nguyên tắc, từ nào trong Tiếng Việt cũng có thể được sử dụng
làm tên chính cho người tuy nhiên người Việt kiêng kỵ đặt những tên xấu như
bệnh hiểm nghèo: cùi, ung thư,… tên mang ý nghĩa bất hạnh như tù, ngục…, tên
chính cũng không được trùng với tên các bậc trưởng thượng. Phong tục này được
hình thành từ rất lâu trước đây, theo đó tên người không được trùng với tên thần
thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia tộc, không
những không được đặt tên trùng mà khi gọi hay nói từ đồng âm với tên húy ấy còn
cần nói chệch đi, ví như cụ cố tên Hành, thì trong giao tiếp thay vì nói “hành” phải
nói thành “hiềng”…Tuy nhiên người Mạ lại không có tục lệ ấy, họ lấy luôn tên
một trong những người bề trên đã chết để đặt tên cho đứa trẻ. Tên chính có thể là
tên đơn được cấu thành bằng từ có một âm tiết cũng có thể là tên phức được tạo ra
từ nhiều âm tiết, ngày nay tên đầy đủ của người Việt mang bốn âm tiết ngày càng
trở nên phổ biến. Về nguyên tắc, tên chính không có chức năng phân biệt nam nữ
giống như tên đệm. Tuy nhiên căn cứ vào tên đệm: Văn
21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
15
(nam giới) và Thị (ở nữ giới) ta có thể dự đoán được người mang tên đó là nam
hay nữ. Trong lịch sử họ tên luôn là một yếu tố đặc biệt quan trọng liên quan đến
nhân thân của mỗi cá thể trong xã hội. Có thể vì những lý do khác nhau mà họ
phải thay tên, đổi họ, thực tế quyền lợi của họ cũng bị ảnh hưởng, pháp luật thời
bấy giờ chưa đủ hoàn chỉnh để dự liệu hậu quả của tất cả các trường hợp ấy, và
thực tế vệc thay đổi họ tên vào thời trước kia diễn ra khá đơn giản. Dân có thể đổi
tên, thay họ với lý do phạm húy, được vua đổi tên, tên xấu, tên dở, để hoạt động
cách mạng hay theo phong tục gọi theo tên chồng của người phụ nữ đã có gia
đình.
Tóm lại, họ tên là yếu tố nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Cá nhân khi
sinh ra được đặt tên, cái tên sẽ theo suốt cuộc đời, sự nghiệp, sinh mạng chính trị.
Quyền nhân thân của mỗi cá nhân liên quan đến họ tên là quyền mang tính tiên
quyết, cơ sở để hình thành những quyền nhân thân khác của cá nhân. Pháp luật
điều chỉnh những quyền nhân thân liên quan đến họ tên cũng cần được hoàn thiện
để bảo đảm quyền lợi của cá nhân.
1.2.2. Quyền đối với họ, tên
1.2.2.1. Khái niệm quyền đối với họ, tên
Họ và tên là hai giá trị nhân thân liên quan đến việc cá thể hóa cá nhân, là
dấu hiệu phân biệt cá nhân này với cá nhân khác. Bên cạnh những dấu hiệu về
hình ảnh, giới tính, điệu bộ, cử chỉ …thì tên gọi của một cá nhân cũng là một yếu
tố quan trọng để cá biệt hóa cá nhân đó. Họ và tên của cá nhân cũng là cơ sở pháp
lý để cá nhân được hưởng những quyền và gánh chịu nghĩa vụ nhất định, bên cạnh
đó việc quy định quyền đối với họ, tên của cá nhân cũng đảm bảo cho công tác
quản lý nhà nước trong nhiều lĩnh vực.
Quyền đối với họ, tên là chế định quan trọng trong pháp luật dân sự Việt
Nam. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân cơ bản, mang tính chất cơ sở,
nền tảng để từ đó chủ thể mang quyền là cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ
dân sự khác do pháp luật quy định. Trong các quan hệ pháp luật nói
22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
16
chung và các giao dịch dân sự nói riêng, họ và tên của một cá nhân luôn là yếu tố
không thể thiếu để xác định tư cách pháp lý của chủ thể đó.
Điều 28, BLDS 1995 quy định về quyền đối với họ tên, tiếp đó Điều 26
BLDS 2005 kế thừa quy định này. Theo Điều 26, BLDS 2005 thì:
“Quyền đối với họ, tên:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác.”
Trên thực tế chưa có một văn bản pháp luật cũng như chưa có một công trình
nghiên cứu khoa học pháp lý nào đưa ra một khái niệm cụ thể về quyền đối với
họ, tên. Điều 26 BLDS 2005 cũng không đưa ra một nội hàm khái niệm quyền đối
với họ, tên mà chỉ nêu ra một cách chung chung: cá nhân có quyền có họ tên. Phải
chăng điều luật coi rằng quyền đối với họ, tên chỉ thể hiện ở khía cạnh có hay
không có họ, tên còn việc sử dụng và khai thác họ, tên của người có quyền năng
lại không nằm trong nội dung quyền nhân thân đó. Một cá nhân sinh ra, tồn tại và
phát triển là cả một quá trình hàng chục năm, chỉ công nhận cho cá nhân sinh ra
có họ, tên mà không quy định cho họ được sử dụng, khai thác họ, tên của mình
liệu có hợp lý. Thực tế, mỗi cá nhân khi muốn thỏa mãn nhu cầu bản thân thì cần
phải tham gia vào rất nhiều các quan hệ xã hội, việc sử dụng họ tên để giao dịch,
sử dụng chữ ký trong các văn bản giao dịch, các văn bản pháp lý là việc làm mang
tính thường xuyên và không thể thiếu. Trong quá trình đó không tránh khỏi những
vấn đề pháp lý phát sinh liên quan đến việc sử dụng họ, tên; việc khai thác họ, tên;
thay đổi họ, tên của cá nhân.
Bởi những lý do trên, với quan điểm của cá nhân, chúng tôi xây dựng khái
niệm về quyền đối với họ, tên như sau: Quyền đối với họ, tên của cá nhân là
23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
17
quyền nhân thân pháp luật quy định cho cá nhân quyền có, sử dụng, khai thác và
thay đổi họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
1.2.2.2. Đặc điểm quyền đối với họ, tên
Pháp luật luôn bảo vệ quyền nhân thân gắn với mỗi cá nhân một cách tuyệt
đối. Quyền đối với họ, tên là một quyền nhân thân pháp luật công nhận cho mọi
cá nhân có quyền được hưởng một cách bình đẳng. Với tư cách là một quyền dân
sự về nhân thân, quyền đối với họ, tên mang đầy đủ đặc điểm nói chung của
quyền nhân thân. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên của cá nhân còn mang những
đặc điểm riêng biệt, đặc thù giúp phân biệt với các quyền nhân thân khác.
* Quyền đối với họ, tên là quyền nhân thân gắn liền với cá nhân;
Trong phần trước, khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi
cũng đã thể hiện ý kiến đồng tình với quan điểm cho rằng quyền nhân thân không
chỉ thuộc về cá nhân mà các chủ thể khác của quan hệ pháp luật dân sự cũng có
quyền đối với nhân thân mà pháp luật bảo vệ (quyền nhân thân của pháp nhân).
Tuy nhiên không phải tất cả các chủ thể này đều có mọi quyền nhân thân được
quy định trong BLDS 2005. Quyền đối với họ, tên là một loại quyền nhân thân
liên quan tới hai yếu tố họ và yếu tố tên. Yếu tố tên có thể là một giá trị nhân thân
gắn liền với cả các chủ thể khác. Pháp nhân cũng có tên gọi và BLDS 2005 cũng
có những quy định để bảo vệ tên của pháp nhân, cụ thể tại Điều 87 theo đó pháp
nhân phải có tên gọi bằng tiếng Việt, thể hiện rõ loại hình tổ chức của pháp nhân
và phân biệt với các pháp nhân khác trong cùng một lĩnh vực hoạt động, tên gọi
của pháp nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Yếu tố thứ hai, yếu tố họ
trong quyền đối với họ, tên ; h ọ được hiểu là một phần trong tên gọi đầy đủ của
một người để chỉ ra rằng người đó thuộc về dòng họ nào. Như vậy họ là yếu tố
luôn gắn với cá nhân con người. Nếu tên với chức năng phân biệt tương đối cá
nhân này với cá nhân khác, thì họ ngoài chức năng dấu hiệu nhận biết đó còn cho
biết nguồn gốc họ hàng, dòng tộc của cá nhân. Hai yếu tố họ và tên là hai dấu hiệu
giúp nhận biết cá nhân, do vậy quyền đối với họ,
24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
18
tên khi xác lập liên quan đến hai yếu tố này là một loại quyền nhân thân gắn với
mỗi cá nhân.
* Quyền đối với họ, tên là quyền nhân thân không gắn với tài sản;
Giá trị nhân thân của chủ thể được pháp luật công nhận và bảo vệ thành
quyền nhân thân. Có nhiều tiêu chí để phân loại quyền nhân thân. Nếu dựa trên
căn cứ phát sinh, quyền nhân thân được chia làm hai loại là quyền nhân thân gắn
với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài
sản là những quyền nhân thân luôn gắn với những giá trị tinh thần của con người,
không thể chuyển giao cho các chủ thể khác. BLDS 2005 quy định các quyền
nhân thân không gắn với tài sản tại các điều từ Điều 26 đến Điều 51, ví dụ như
quyền đối với họ, tên; quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc, quyền của
cá nhân đối với hình ảnh, quyền bí mật đời tư… Một loại quyền nhân thân thứ hai
nếu dựa trên tiêu chí phân loại theo căn cứ phát sinh là quyền nhân thân gắn với
tài sản. Quyền nhân thân gắn với tài sản là quyền nhân thân mà khi xác lập quyền
nhân thân kéo theo một loại tài sản được hình thành và có thể chuyển giao, ví dụ:
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Tóm lại,
quyền nhân thân gắn với tài sản là những quyền nhân thân liên quan đến những
giá trị nhân thân, mà việc xác lập quyền đó là tiền đề hình thành một khoản lợi ích
vật chất (ví dụ: quyền công bố tác phẩm, quyền sao chép tác phẩm,... khi được xác
lập sẽ mang lại cho chủ thể những lợi ích về tài sản như tiền nhuận bút, tiền thù
lao, tiền do người sử dụng tác phẩm trả). Quyền nhân thân không gắn với tài sản
là quyền nhân thân gắn với những giá trị tinh thần mà khi xác lập quyền đó thì chủ
thể có quyền năng không có thêm được một khoản lợi ích vật chất nào cả (ví
dụ:việc thay đổi lại họ, tên, xác định lại dân tộc,... không làm phát sinh lợi ích về
tài sản cho chủ sở hữu).
Quyền đối với họ tên là quyền nhân thân liên quan đến hai giá trị nhân thân
là họ và tên. Đây là những giá trị nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân từ khi cá
nhân đó sinh ra cho đến lúc chết đi. Quyền nhân thân này mang tính chất ổn
25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
19
định, là quyền tuyệt đối và bất kể cá nhân nào cũng có quyền được hưởng. Khi
xác lập quyền đối với họ, tên hay trong quá trình sử dụng, thay đổi họ, tên không
đem đến cho chủ thể có quyền năng một lợi ích vật chất nào. Trên thực tế, quyền
đối với họ tên là quyền nhân thân pháp luật không cho phép chuyển giao giữa cá
nhân này với cá nhân khác. Do đó, có thể nhận định rằng quyền đối với họ, tên là
một loại quyền nhân thân không gắn với tài sản.
* Quyền đối với họ, tên là quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân;
Nếu dựa vào tiêu chí căn cứ phát sinh quyền nhân thân, chúng ta đã được biết
quyền nhân thân được chia ra thành quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền
nhân thân không gắn với tài sản. Một tiêu chí giúp ta phân loại quyền nhân thân
nữa là dựa trên đối tượng của quyền. Dựa vào tiêu chí này sẽ có các nhóm quyền
nhân thân như nhóm các quyền cá biệt hoá cá nhân, ví dụ như: quyền đối với họ
tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền đối với hình ảnh; quyền
đối với quốc tịch…; nhóm các quyền liên quan đến thân thể của cá nhân, ví dụ như
quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ
phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người…; nhóm các quyền liên quan đến
giá trị tinh thần của chủ thể: quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín;
quyền bí mật đời tư; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo; quyền tự do đi lại,… nhóm các quyền liên quan đến quan hệ hôn nhân và
gia đình của cá nhân: quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được
hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận,
không nhận cha, mẹ, con; … nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở
hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác
công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm…
Sở dĩ chúng tôi cho rằng quyền đối với họ, tên là một quyền cá biệt hóa cá
nhân bởi mỗi cá nhân luôn có những đặc điểm nhận dạng riêng giúp phân biệt
người này với người khác. Cá nhân thể hiện cái riêng của bản thân thông qua các
26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
20
yếu tố liên quan đến nhân thân như: quốc tịch của cá nhân, dân tộc, giới tính, hình
ảnh của cá nhân, họ tên của cá nhân. Với những dấu hiệu mang tính pháp lý này
đảm bảo địa vị pháp lý của cá nhân, giúp phân biệt, nhận dạng cá nhân này với cá
nhân khác…Họ tên là một trong những dấu hiệu nhận dạng của cá nhân, do đó
quyền của cá nhân đối với họ tên được công nhận như là một quyền nhằm cá biệt
hóa mỗi cá nhân. Việc cá biệt hóa cá nhân thông qua họ tên cũng mang những ý
nghĩa pháp lý nhất định. Trên thực tế, mọi hoạt động pháp lý, mọi văn bản, giấy tờ
pháp lý đều cần có ghi rõ họ tên, chữ ký xác nhận của các cá nhân tham gia. Ghi
nhận họ tên, chữ ký trong mỗi văn bản mang tính pháp lý đảm bảo trách nhiệm
cũng như quyền lợi của cá nhân. Ví dụ như trong hợp đồng, nội dung của Hợp
đồng bao giờ cũng ghi rõ đầy đủ thông tin của các bên tham gia: bao gồm thông
tin cá nhân liên quan đến họ tên, nơi cư trú, số chứng minh nhân dân… Những
thông tin này mang tính cá biệt hóa và là bằng chứng cho việc các bên đã thỏa
thuận những nội dung trong hợp đồng.
1.3. Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân thân
khác.
Quyền đối với họ, tên luôn được đặt trong mối quan hệ với các quyền nhân
thân khác. Pháp luật ghi nhận quyền đối với họ, tên luôn là một quyền nhân thân
đầu tiên, mang tính cơ sở để từ đó các quyền nhân thân khác mới được thực hiện.
Quyền đối với họ tên có mối liên hệ chặt chẽ với những quyền nhân thân khác như
quyền thay đổi họ, tên (Điều 27), quyền được khai sinh (Điều 29), Quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37). Những quyền nhân thân này tuy có
những đặc điểm khác biệt nhưng có mối quan hệ chặt chẽ, cùng là những thành
phần tạo nên hệ thống quyền nhân thân theo pháp luật Dân sự Việt Nam.
1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh
Quyền được khai sinh là một trong những quyền nhân thân cơ bản nhất của
cá nhân. Cá nhân sinh ra, quyền đầu tiên mà cá nhân đó được pháp luật công nhận
là quyền được khai sinh. Quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng
27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
21
định mỗi trẻ em là một công dân của một quốc gia, một công dân bình đẳng như
mọi công dân khác.
Trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm 1959 ghi nhận:
"Trẻ em khi sinh ra có quyền được khai sinh”. Khoản 1, Điều 7 Công ước của
Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em qui định: “Trẻ em phải được đăng ký khai sinh
ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền có họ tên, có quyền có quốc tịch và trong
chừng mực có thể, có quyền biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình chăm sóc”.
Quyền cơ bản đầu tiên của trẻ em cũng được qui định trong Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam là: “Trẻ em có quyền được khai sinh và có quốc
tịch” (Khoản 1, Điều 5).
Quyền được khai sinh là cơ sở, điều kiện để thực hiện các quyền nhân thân
khác của trẻ em như quyền có họ, tên, có quốc tịch, quyền xác định dân tộc,… Có
thể nói, quyền được khai sinh là quyền đầu tiên để khẳng định mỗi trẻ em là một
cá nhân riêng biệt. Khi cá nhân đã được khẳng định dấu hiệu riêng biệt bằng
những thông tin trên giấy khai sinh thì đồng thời đứa trẻ có thêm một quyền nhân
thân quan trọng khác là quyền đối với họ tên. Quyền đối với họ, tên xuất hiện
ngay sau khi quyền được khai sinh được thực hiện.
1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên
Họ tên là hai dấu hiệu cá biệt hóa cá nhân và là hai yếu tố gắn liền với mỗi
cá nhân trong mọi hoạt động, sinh hoạt đời sống. Cá nhân có quyền có họ, tên, có
quyền đưa họ tên của mình vào sử dụng với những mục đích nhất định. Họ, tên
của cá nhân được pháp luật thừa nhận là họ, tên được ghi trong giấy khai sinh. Cái
tên này sẽ mang ý nghĩa pháp lý, và là tên gọi cố định. Tuy nhiên pháp luật không
yêu cầu cá nhân phải giữ tên đã đăng ký khai sinh cả đời. Trên thực tế, có muôn
vàn lý do để một người có nhu cầu muốn thay đổi họ, tên đã đăng ký trong giấy
khai sinh của mình. Có thể là vì cái tên xấu, gây phản cảm, cũng có thể vì lý do
công việc mà người đó cho rằng thay tên đổi họ sẽ làm công việc của họ thuận lợi
hơn. Trường hợp còn lại là những trường hợp pháp luật dự liệu có
28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
22
khả năng cao trong việc đổi họ, tên như trong quan hệ nuôi con nuôi, khi cha mẹ
nuôi yêu cầu về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc khi con nuôi thôi không
làm con nuôi hoặc có yêu cầu của cha mẹ đẻ. Việc thay đổi họ tên còn được chấp
nhận trong trường hợp theo yêu cầu của cha,mẹ, con khi xác định cha, mẹ con;
thay đổi họ cho con từ họ cha sang họ mẹ hoặc ngược lại, nhu cầu thay đổi họ, tên
của người lưu lạc khi đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình. Trường hợp một
cá nhân được xác định lại giới tính cũng có thể yêu cầu thay đổi họ, tên cho phù
hợp với giới tính của bản thân.
Quyền đối với họ tên được coi là một điều kiện tiên quyết để có quyền thay
đổi họ tên. Quyền thay đổi họ, tên chỉ trở thành quyền chủ quan của các chủ thể
quan hệ pháp luật dân sự trong trường hợp chủ thể đó đã thực hiện được quyền đối
với họ tên. Hay nói cách khác, đương nhiên cá nhân chỉ có quyền thay đổi họ, tên
của mình khi đã có họ tên (khi quyền đối với họ, tên được thực hiện)
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Pháp không có quy định
về quyền đối với họ, tên. Họ tên là một yếu tố nhân thân đương nhiên mà mỗi cá
nhân đều được hưởng khi sinh ra với tư cách là một chủ thể trong quan hệ pháp
luật. Thay vào đó, pháp luật ở những nước này quy định khá cụ thể về vấn đề thay
đổi họ, tên.
1.3.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ danh
dự, nhân phẩm, uy tín
Quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín là một quyền nhân thân cơ bản,
liên quan đến những giá trị tinh thần của con người. Danh dự, nhân phẩm và uy
tín đều là những yếu tố nhân thân không thể định giá được thành tiền. Điều 37,
BLDS 2005 quy định: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng
và được pháp luật bảo vệ.”. Đối với cá nhân, danh dự là sự đánh giá của xã hội
đối với cá nhân về mặt đạo đức, phẩm chất chính trị và năng lực của người đó.
Danh dự của một người được hình thành từ những hoạt động và cách ứng xử của
người đó, từ công lao và thành tích mà người đó có được.
29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
23
Nhân phẩm của cá nhân được hiểu là phẩm giá của con người, là giá trị tinh
thần của một cá nhân với tính cách là một con người. Uy tín của cá nhân lại được
hiểu là giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân thông
qua hoạt động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong tổ chức, một dân
tộc cảm phục và tự nguyện nghe theo... Bên cạnh quy định tại Điều 37 BLDS,
quyền đối với danh dự, nhân phẩm, uy tín còn được cụ thể hóa thông qua các quy
định tại Điều 9 (Nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự), Điều 611 (thiệt hại
do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm).
Quyền đối với họ tên có những điểm khác biệt nhất định với quyền đối với
danh dự, nhân phẩm, uy tín: cá nhân thực hiện quyền đối với danh dự, nhân phẩm,
uy tín thường bằng hình thức tự bảo vệ khi có hành vi xâm phạm, còn cá nhân
thực hiện quyền đối với họ tên có thể thông qua một chủ thể khác ví dụ như cha
mẹ đi đăng ký khai sinh, đặt tên cho con mới sinh, thực hiện việc yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền thay đổi họ, tên cho con. Bên cạnh đó, quyền đối với họ, tên và
quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cũng có những mối liên hệ nhất
định với nhau. Việc xâm phạm quyền của cá nhân đối với họ tên có thể sẽ gây ra
những thiệt hại về nhân phẩm, danh dự, uy tín đối với cá nhân đó.
1.3.4. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả
Pháp luật điều chỉnh tất cả những quan hệ xã hội phát sinh trên mọi lĩnh vực
của đời sống. Khi điều chỉnh những quan hệ xã hội này, pháp luật luôn có hệ
thống những quy định bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể cũng như
quy định nghĩa vụ mà các chủ thể tham gia phải gánh chịu. Trong lĩnh vực văn
học, nghệ thuật, khoa học, pháp luật dân sự bảo đảm giá trị của các sản phẩm tinh
thần, cũng như quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu sản phẩm tinh thần thông qua
việc quy định các quyền nhân thân. Quyền tác giả là khả năng mà tác giả, chủ sở
hữu, người được sử dụng tác phẩm có các quyền nhân thân và quyền tài sản theo
quy định của pháp luật dân sự. Điều 738 BLDS 2005, tại Điểm a, Khoản 2 có quy
định việc đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu
30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
24
tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng cũng là một loại
quyền nhân thân thuộc quyền tác giả. Đối với mỗi một tác phẩm văn học, nghệ
thuật hay sản phẩm khoa học, người sáng tạo ra những tác phẩm hoặc người sở
hữu tác phẩm đó có quyền đứng tên thật của mình hoặc đứng tên dưới dạng bút
danh.
Trong nội dung của quyền đối với họ, tên pháp luật có quy định rằng cá nhân
có quyền sử dụng bút danh, bí danh đồng thời không ảnh hưởng tới quyền, lợi ích
của người khác. Quy định như trên có thể hiểu pháp luật công nhận việc cá nhân
có bút danh, bí danh là một phần trong nội dung quyền năng đối với họ, tên của cá
nhân. Tuy nhiên bút danh, bí danh liệu có giá trị pháp lý và được bảo vệ giống
như họ, tên khai sinh không khi Khoản 1 Điều 26 BLDS 2005 đã khẳng định họ,
tên cá nhân là họ, tên khai sinh của người đó ? Trong quy định pháp luật về quyền
tác giả và quyền đối với họ, tên có những điểm tương đồng khi công nhận cho các
cá nhân có quyền được sử dụng bút danh. Sử dụng bút danh là một nội dung của
quyền đối với họ, tên và cũng là một quyền thuộc quyền tác giả.
1.4. Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên trong
pháp luật dân sự Việt Nam
Quyền nhân thân của cá nhân nói chung và quyền nhân thân liên quan đến họ
tên của cá nhân nói riêng được quy định trong luật từ khá sớm. Quyền dân sự
trong pháp luật Việt Nam được phát triển theo sự phát triển của xã hội, chịu sự
ảnh hưởng của điều kiện lịch sử, kinh tế… Đồng thời với sự ra đời của Nhà nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt
Nam là Hiến pháp 1946 đã quy định: quyền bầu cử, quyền ứng cử, quyền tự do
ngôn luận, xuất bản, báo chí, hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, cư trú…
Sau khi chúng ta thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm
1954, đất nước ta bước sang một thời kỳ lịch sử mới: xây dựng CNXH ở miền
Bắc, đấu tranh chống Mỹ tại miền Nam. Đây cũng là hoàn cảnh lịch sử để Hiến
pháp 1959 ra đời. Các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận từ Điều
31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
25
22 đến Điều 42, các quyền nhân thân theo Hiến pháp 1959 được mở rộng hơn so
với Hiến pháp 1946.
Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh sau khi đất nước đã thống nhất hoàn
toàn. Các quyền của công dân được mở rộng, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân được đề cập từ Điều 53 đến Điều 81. Bên cạnh đó, vào năm 1977, Việt Nam
đã trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc, tham gia nhiều công ước quốc tế về
quyền con người. Việt Nam đã tham gia một loạt các công ước quốc tế như: Công
ước quốc tế về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước về loại trừ tất cả
các hình thức phân biệt chủng tộc...
Hiến pháp 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đã tổng kết thành quả cách
mạng của Nhà nước ta trong gần một nửa thế kỷ trôi qua. Các quy định về quyền
nhân thân của cá nhân ngày càng được mở rộng. Bên cạnh các quy định của Hiến
pháp 1992, Hiến pháp sửa đổi Hiến pháp 1992, một loạt các văn bản pháp luật có
hiệu lực sau Hiến pháp được ban hành đã cụ thể hoá các quyền nhân thân của cá
nhân, trong các văn bản đó có thể kể đến BLDS (năm 1995 và năm 2005).
BLDS năm 1995 tuy là BLDS đầu tiên của nước Việt Nam nhưng đã có quy
định khá đầy đủ về những quyền dân sự liên quan đến nhân thân của các chủ thể
khi tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự. BLDS 1995 quy định các quyền
nhân thân từ Điều 28 đến Điều 47 bao gồm các quy định về quyền đối với họ, tên;
quyền thay đổi họ,tên; quyền xác định dân tộc; quyền của cá nhân đối với hình
ảnh; quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được
bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn;
quyền bình đẳng của vợ chồng…Với tư tưởng kế thừa và hoàn thiện, BLDS 2005
về cơ bản vẫn giữ nguyên các quyền nhân thân này và được quy định từ Điều 26
đến Điều 51 và bổ sung một số quyền nhân thân như: quyền được khai sinh, quyền
được khai tử, quyền hiến xác, quyền hiến bộ phận cơ thể, quyền xác định lại giới
tính...
32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
26
Quyền đối với họ, tên với tư cách là một quyền nhân thân, một quyền dân sự
tuyệt đối cũng được quy định từ rất sớm. Đây được coi là một trong những quyền
đầu tiên của cá nhân kể từ khi sinh ra. Trước BLDS 1995, trong bộ Dân Luật Sài
Gòn 1973, quyền dân sự này tuy không được quy định thành một điều luật độc
lập, nhưng cũng đã gián tiếp công nhận quyền này thông qua các quy định về
chứng thư khai sinh, tại Chương Thứ II, Thiên thứ nhất, Quyển thứ nhất nói về
nhân – thân, cụ thể tại Điều 45 có quy đinh rằng sổ khai sinh sẽ phải ghi vào tên,
họ đứa trẻ. BLDS 1995 dành cả Điều 28 để quy định:
“Quyền đối với họ, tên:
1- Mỗi cá nhân đều có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được
xác định theo họ, tên khai sinh của người đó.
2- Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
3- Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác.”
BLDS 2005 vẫn giữ nguyên nội dung của điều luật và được quy định tại
Điều 26. Trong tư tưởng của nhà làm luật, rõ ràng quyền đối với họ, tên là một
quyền dân sự cơ bản, đầu tiên của mỗi cá nhân, quan điểm này được giữ ổn định
thông qua quy định của các bộ luật. Liên quan đến họ, tên Luật Dân sự còn có quy
định về quyền thay đổi họ tên, BLDS 1995 và BLDS 2005 đều có quy định về
quyền thay đổi họ, tên tuy nhiên BLDS hiện hành đã có những thay đổi trong nội
dung khi quy định thêm các trường hợp pháp luật cho phép được thay đổi họ tên.
Điều 29 quy định rằng:
“1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công
nhận việc thay đổi họ, tên trong các trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây
nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi
ích hợp pháp của người đó;
33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
27
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho
con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi không làm con nuôi và người
này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã
đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha,
mẹ cho con;
d) Thay đổi họ cho con từ họ của cha sang họ của mẹ hoặc ngược lại;
đ) Thay đổi họ, tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết
thống của mình;
e) Thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới tính;
g) Các trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự
đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi họ, tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo họ, tên cũ.”
BLDS hiện hành đã quy định thêm một quyền nhân thân mới liên quan đến
cá nhân, đó là quyền xác định lại giới tính. Quyền nhân thân này kéo theo hệ quả
là nhu cầu thay đổi tên của người được xác định lại giới tính là một nhu cầu tất
yếu. Do vậy khi quy định các trường hợp pháp luật cho phép thay đổi họ, tên đã
được bổ sung thêm trường hợp: thay đổi họ, tên của người được xác định lại giới
tính.
1.5. Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số quốc gia
trên thế giới
1.5.1. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Pháp
BLDS Pháp là bộ luật có quy mô rộng lớn và có quá trình hình thành, phát
triển lâu đời. Quyền dân sự của cá nhân trong BLDS Pháp được quy định khá đầy
đủ. BLDS Pháp không có một phần riêng biệt quy định về quyền nhân thân
34. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
28
của cá nhân, tuy nhiên trong từng Thiên, Chương vẫn có rải rác những quy định
về quyền nhân thân. Về quyền đối với họ, tên - khác với BLDS Việt Nam - quyền
đối với họ tên của cá nhân được quy định riêng thành một điều luật mang tính liệt
kê, BLDS Pháp không quy định riêng thành một điều luật, cũng không có khái
niệm về quyền đối với họ tên. Tuy nhiên BLDS Pháp vẫn công nhận quyền của cá
nhân đối với họ, tên của mình gián tiếp qua các quy định khác.
BLDS Pháp, tại Quyển thứ nhất, phần về Cá nhân, Thiên II Chứng thư hộ
tịch đã công nhận quyền đối với họ, tên một cách gián tiếp. Điều 55 (Luật ngày
20-11-1919) có quy định rằng: “Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày sinh trẻ, việc
khai sinh cho trẻ phải được thực hiện trước viên chức hộ tịch tại nơi trẻ sinh ra”.
Điều 57 (Luật số 2002-304 ngày 4-3-2002, được sửa đổi, bổ sung theo Luật số
2003-516 ngày 18-6-2003): “tên, họ của trẻ, kèm theo lời khai chung của cha, mẹ
về việc thống nhất chọn tên cho con nếu có, họ, tên, tuổi, nghề nghiệp và nơi cư
trú của của cha và mẹ cũng như của người đi khai sinh nếu cần”.
BLDS quy định bắt buộc trong thời hạn ba ngày sau khi trẻ sinh, phải làm
thủ tục khai sinh, đặt tên cho trẻ. Việc quy định bắt buộc khai sinh cho trẻ trong
vòng một thời gian nhất định như thế đã gián tiếp bảo vệ quyền của đứa trẻ đối
với họ, tên của mình. Luật cũng quy định tên của đứa trẻ phải do cả hai cha, mẹ
thống nhất và cần có lời khai chung.
Về việc xác định họ của cá nhân: Họ của cá nhân căn cứ vào những quan hệ
huyết thống của cá nhân đó. BLDS Pháp chia ra thành các trường hợp: Nếu con
trong giá thú thì được mang họ cha. Con ngoài giá thú thì theo quy định tại Điều
334, Khoản 1: “con ngoài giá thú mang họ của người cha hoặc người mẹ nào là
người đầu tiên xác lập quan hệ huyết thống với đứa trẻ đó”. Quan hệ mẹ con
thường được xác lập trước quan hệ cha con nên về mặt nguyên tắc đứa con ngoài
giá thú mang họ mẹ, sau đó nếu người cha thừa nhận quan hệ huyết thống với đứa
trẻ thì đứa trẻ đó sẽ mang cả họ cha. BLDS Pháp cũng quy định việc xác
35. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
29
định họ trong việc nuôi con nuôi, đứa trẻ được nhận làm con nuôi vẫn giữ họ của
mình và đồng thời mang thêm họ của cha mẹ nuôi.
Trong vấn đề thay đổi họ, tên, BLDS Pháp cũng quy định chi tiết hơn trong
việc bảo vệ quyền với họ, tên khi thấy rằng lợi ích của đứa trẻ bị đe dọa: “nếu
nhận thấy một hoặc tất cả các tên của trẻ, dù đứng riêng hay gắn liền với tên khác
hoặc với họ, có thể không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc xâm phạm đến quyền
của người thứ ba được bảo vệ “họ” của mình, thì viên chức hộ tịch phải báo ngay
cho viện trưởng viện công tố bên cạnh tòa án sơ thẩm…”. “Nếu xét thấy tên của
trẻ không phù hợp với lợi ích của trẻ hoặc không đảm bảo quyền của người thứ ba
được bảo vệ “họ” của mình thì tòa án ra quyết định xóa tên đó trong hộ tịch.
Trong trường hợp cần thiết Tòa án đặt cho trẻ một tên khác do Tòa án lựa chọn
nếu cha mẹ của trẻ không chọn lại một tên mới phù hợp với lợi ích của các đối
tượng nêu trên…”(Điều 57 BLDS Pháp). Pháp luật Việt Nam cũng có quy định về
vấn đề thay đổi họ, tên nhằm bảo đảm lợi ích của các cá nhân trong một số trường
hợp cụ thể được quy định tại Điều 27 BLDS 2005.
1.5.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật Dân sự Thái
Lan
BLDS và Thương mại Thái Lan cũng không đặt quyền đối với họ, tên thành
một điều luật đứng độc lập. Những quy định liên quan đến họ, tên của cá nhân
được quy định chủ yếu trong pháp luật về hộ tịch.
Trong BLDS và Thương mại Thái Lan, tại phần 1 quy định về Năng lực
pháp luật. Điều 15 của BLDS này có quy định rằng năng lực pháp luật được bắt
đầu từ khi đứa trẻ ra đời và kết thúc bằng cái chết. Một đứa trẻ trong bụng mẹ có
thể được hưởng quyền miễn là nó còn sống, sau khi ra đời. Quy định về năng lực
pháp luật dân sự, pháp luật Thái Lan cũng có những nét tương đồng khi quy định
năng lực pháp luật của cá nhân (tức khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ
dân sự) được bắt đầu khi cá nhân sinh ra và chấm dứt khi chết. Bên cạnh đó cũng
quy định trường hợp quyền năng của bào thai. Tuy nhiên quyền năng này
36. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
30
chỉ chủ yếu thể hiện trong các quan hệ về thừa kế và đứa trẻ này có tư cách là
người hưởng thừa kế.
Pháp luật dân sự Thái Lan quy định về quyền sử dụng họ tên như một quyền
nhân thân mang tính tuyệt đối, bên cạnh đó không quy định cụ thể khái niệm và
nội dung của quyền đối với họ, tên ra sao. Điều 18 BLDS và Thương mại Thái
Lan có quy định: “Nếu quyền sử dụng tên của một người có quyền đối với tên đó
bị người khác tranh chấp, hoặc nếu quyền lợi của người đó bị thiệt hại bởi việc
người khác sử dụng cùng tên đó mà không được phép thì người có quyền nói trên
có thể yêu cầu người kia chấm dứt việc gây thiệt hại. Nếu vẫn e sợ người kia tiếp
tục gây thiệt hại thì người đó có thể đề nghị tòa án ra lệnh cấm”
Pháp luật Thái Lan chỉ quy định cụ thể về những trường hợp bị coi là xâm
phạm quyền sử dụng tên của một cá nhân và các biện pháp bảo vệ được pháp luật
thừa nhận cho người có quyền năng. Về cơ bản giống pháp luật dân sự Việt Nam,
khi BLDS Việt Nam cũng quy định người bị xâm phạm được phép yêu cầu người
kia chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền yêu cầu
người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm, đồng thời xin lỗi, cải chính công
khai.
1.5.3. Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Hoa Kỳ
Luật các bang và thông luật ở Hoa Kỳ trong lĩnh vực tên chủ yếu quy định về
việc thay đổi tên. Ở hầu hết các bang của Hoa Kỳ, nếu một người có nhu cầu đổi
tên thì người đó có thể làm việc đó một cách tự nhiên mà không cần phải gửi đơn
xin phép bất kỳ toà án nào. Đây cũng là quy định trong thông luật, và chỉ có điều
kiện duy nhất là việc thay đổi không mang mục đích phục vụ tội phạm hay lừa
đảo. Mặc dù vậy, vẫn có quy định để ghi nhận việc đổi tên một cách chính thức.
Trong thông luật, tức là luật của toà án và tách biệt khỏi luật thành văn của
các nhà làm luật, quyền thay đổi họ tên mà không cần trải qua bất kỳ thủ tục
37. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
31
pháp lý nào đã được công nhận một cách đầy đủ, trừ khi luật thành văn của một
bang nào đó quy định ngược lại một cách rõ ràng. Theo thông luật, trong trường
hợp không phạm luật hay lừa đảo, một cá nhân có thể lấy bất kỳ tên gọi nào một
cách hợp pháp mà không cần sự cho phép của toà án hay thông qua bất kỳ thủ tục
nào. Không có lý do nào ngăn cản một người thay đổi tên của mình bất cứ lúc nào
người đó muốn, với điều kiện là không vì mục đích phạm tội hay lừa đảo.
Trẻ em, cũng như người lớn, có quyền được thay đổi họ tên theo thủ tục hình
thức. Tuy nhiên đơn của người vị thành niên phải có chữ ký của cha mẹ, người
giám hộ hay người họ hàng gần nhất. Người vị thành niên là người dưới 21 tuổi,
trừ tại các bang, như New Jersey, quy định độ tuổi thành niên là 18. Luật thường
quy định nếu đứa trẻ ở một độ tuổi nhất định, như trên 14 hoặc 16, thì đứa trẻ
cũng phải ký vào đơn.
Nói chung sự chấp thuận của cả cha và mẹ là cần thiết, trừ phi một trong hai
người không thể ký đơn vì lý do mất năng lực hành vi, ra nước ngoài, hoặc đang
chịu án tù. Tuy nhiên, trong một số trường hợp người mẹ ly hôn, toà án cũng cho
phép người con được đổi họ sang họ của cha dượng hoặc họ thời con gái của mẹ.
Theo thông luật, người phụ nữ sau khi ly hôn có thể chọn bất kỳ tên nào mà
người đó muốn, tất nhiên là trong khuôn khổ của luật thành văn. Luật của một số
bang cấm người phụ nữ ly hôn mang tên thời con gái, tên của chồng cũ, hay bất
kỳ một tên nào khác trong một số trường hợp. Tại các bang như Delaware,
Kentucky, Massachussetts, Minnesota, hay Oklahoma, người phụ nữ được đổi tên
nếu người đó là người xin ly hôn.
Việc thay đổi họ, tên theo pháp luật Hoa Kỳ cũng có những quy định hạn chế
sự tự do trong việc thay tên, đổi họ. Trong một số trường hợp tòa án có thể từ chối
yêu cầu đổi tên vì lý do đằng sau yêu cầu là không chính đáng hoặc thể theo sự
phản đối của người thứ ba (trong trường hợp sau thì tòa án còn có thể lật lại một
quyết định đổi tên đã có trước đó). Tuy nhiên, ngay cả khi không có việc
38. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
32
đổi tên chính thức thì tòa án vẫn có thể, trong vài trường hợp, ngăn cấm việc sử
dụng một tên họ nào đó.
Ví dụ, trong thông luật, một người có thể bị cấm sử dụng tên của một người
khác nếu việc sử dụng dẫn đến lầm tưởng là cho công chúng là họ đang trong
quan hệ với người có tên bị sử dụng. Một tòa án ở New Jersey đã ban hành lệnh
cấm sử dụng tên và hình ảnh của một nguyên đơn cho việc quảng cáo một sản
phẩm sau khi nhận thấy tên họ cũng là một quyền tài sản (73 N.J. Eq. 136, 67
A.39).
39. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
33
Chương 2
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Nội dung quyền đối với họ, tên
Họ, tên là hai dấu hiệu mang tính định danh đối với cá nhân và cũng là giá trị
nhân thân quan trọng của bất kỳ cá nhân nào. Quyền nhân thân liên quan đến họ
tên mà cụ thể là quyền đối với họ tên được pháp luật dân sự bảo vệ với tư cách là
một quyền tuyệt đối. Đối với quyền nhân thân tuyệt đối thì tất cả các chủ thể còn
lại trong xã hội cần phải tôn trọng quyền của chủ thể có quyền năng và không
được xâm phạm quyền này. BLDS 2005 có quy định quyền đối với họ tên tại
Điều 26:
“ Quyền đối với họ, tên:
1. Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ, tên của một người được xác định
theo họ, tên khai sinh của người đó.
2. Cá nhân xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự theo họ, tên của
mình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
3. Việc sử dụng bí danh, bút danh không được gây thiệt hại đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khác. ”
Tại Chương 1 của luận văn, khi xây dựng khái niệm quyền đối với họ, tên
chúng tôi đã đưa ra quan điểm cho rằng với quy định của điều luật này thì nội
dung của quyền họ tên được hiểu quá sơ sài, không rõ ràng và chưa đầy đủ. Nội
dung quyền đối với họ, tên nếu đối chiếu vào điều luật này không thể là căn cứ
cho nhà làm luật, những người áp dụng pháp luật có thể hình dung quyền đối với
họ, tên bao gồm những nội dung nào, quyền này được thực hiện ra sao, cụ thể hóa
quyền này như thế nào. Trên thực tế cũng chưa hề có văn bản pháp lý nào quy
định về vấn đề này. Theo chúng tôi nội dung của quyền đối với họ tên có thể
40. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
34
được xác định là: quyền có họ, tên; quyền sử dụng họ, tên một cách hợp pháp; và
có quyền thay đổi họ, tên, ngoài ra còn có quyền được sử dụng bút danh, bí danh
một cách hợp pháp. BLDS 2005 có quy định riêng về quyền thay đổi họ, tên
nhưng theo chúng tôi thay đổi họ, tên chỉ là một nội dung, một biểu hiện của
quyền đối với họ tên mà thôi.
2.1.1. Cá nhân có quyền có họ, tên
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có khi cá nhân đó sinh ra và mất khi
cá nhân đó chết. Năng lực pháp luật là khả năng cá nhân có quyền và nghĩa vụ
pháp luật quy định. Cá nhân khi sinh ra có những quyền cơ bản mà pháp luật công
nhận ngay từ khi chào đời, một trong các quyền đó chính là quyền đối với họ tên.
Dấu hiệu đầu tiên của quyền đối với họ, tên chính là khả năng mà pháp luật quy
định cho cá nhân có quyền có họ, tên. Một cá nhân sinh ra, muốn tồn tại và phát
triển đương nhiên phải có những dấu hiệu định danh, phân biệt với những cá thể
khác. Họ và tên là những dấu hiệu cơ bản nhất để cá biệt hóa cá nhân. Cá nhân
luôn phải tồn tại dưới một cái tên nhất định, và pháp luật phải công nhận cho họ
có quyền có họ tên.
Việc đặt tên con khi chào đời là một việc quan trọng. Theo quan điểm của
người Việt Nam, cái tên đánh dấu sự xuất hiện trên đời, cái tên sẽ đi theo suốt cả
cuộc đời. Pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa: “Cá nhân có quyền có họ, tên. Họ,
tên của một người được xác định theo họ, tên khai sinh của người đó”. Pháp luật
đã công nhận rằng cá nhân khi sinh ra đều phải được có họ tên, mọi cá thể là cá
nhân trong xã hội đều bình đẳng như nhau đối với quyền nhân thân này. Điều luật
này cũng chỉ ra rằng họ, tên của một cá nhân được xác định theo họ, tên khai sinh
của người đó. Trên thực tế, một đứa trẻ sinh ra có rất nhiều tên gọi, có thể là tên
gọi ngày bé, tên gọi ở nhà, tên thường dùng, tên khai sinh… Trong đó họ và tên
được ghi nhận trong giấy khai sinh được xác định là họ và tên có giá trị pháp lý.
41. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
35
Cá nhân có quyền có họ, tên tức là có quyền được có họ và tên. Họ và tên là
hai yếu tố khác nhau. Họ thường đứng trước và có chức năng phân biệt dòng họ,
dòng tộc. Cá nhân có quyền có họ, nhưng thực tế việc xác định họ của cá nhân
trong nhiều trên thực tế xuất hiện nhiều vấn đề. Theo quy định tại khoản 1 Điều
15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của chính phủ về
đăng ký và quản lý hộ tịch thì: “Người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng
sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ
em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn)”. Có hai quan điểm trong việc
xác định họ của một cá nhân khi sinh ra. Quan điểm thứ nhất cho rằng nếu căn cứ
vào quy định tại Nghị định 158, khi nghị định quy định người đi đăng ký khai sinh
phải nộp giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ, việc này giúp cán bộ tư pháp xác
định họ của người cha, họ của người mẹ. Quan điểm này cho rằng khi đăng ký
khai sinh thì việc xác định họ của đứa trẻ được thực hiện theo nguyên tắc lựa chọn
hoặc họ bố hoặc họ mẹ. Quan điểm này cũng cho rằng việc xác định họ như thế là
hợp lý vì trên thực tế con thường mang họ của cha. Những người theo quan điểm
thứ hai thì cho rằng không hề có điều luật nào bắt buộc đứa trẻ sinh ra phải mang
họ của cha hay mang họ của mẹ. Một cá nhân sinh ra có thể được đặt tên theo họ
của cha, họ của mẹ nhưng cũng có thể đặt theo một họ khác.Theo chúng tôi thì
quan điểm này là quan điểm đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật và trên
thực tế đã có rất nhiều trường hợp đứa trẻ sinh ra mang một họ khác, không phải
họ của cha, mẹ và pháp luật không hề cấm vấn đề này. Chúng tôi cho rằng quy
định này của pháp luật Việt Nam rất hợp lý. Khi quy định “thoải mái” về quyền
lựa chọn họ cho đứa trẻ, sẽ giúp họ của người Việt trở nên đa dạng, phong phú
hơn, từ đó sự cá biệt hóa, định dạng cá nhân dễ dàng hơn, quản lý xã hội cũng
hiệu quả hơn. Pháp luật dân sự Pháp lại có quy định khác khi xác định họ cho đứa
trẻ mới sinh. Cụ thể đối với con trong giá thú thì luật quy định đứa trẻ đó phải
mang họ của người cha, đối với con ngoài giá thú thì đứa trẻ đó có thể mang họ
của cha nào hoặc họ của mẹ nào mà quan hệ cha -