30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
Luận văn: Quyền đối với họ, tên – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
HOÀNG NGỌC HƯNG
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN – MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60.38.30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị
HÀ NỘI - 2012
2. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những phân tích, đánh giá hoàn toàn dựa trên quan điểm
của cá nhân tôi. Những kết luận và kiến nghị trong luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Hoàng Ngọc Hưng
3. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
1
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI
VỚI HỌ, TÊN
1.1 Khái niệm quyền nhân thân 5
1.2. Quyền đối với họ, tên 10
1.2.1. Khái niệm họ, tên. 10
1.2.1.1. Họ 10
1.2.1.2. Tên 12
1.2.2. Quyền đối với họ, tên 15
1.2.2.1. Khái niệm quyền đối với họ, tên 15
1.2.2.2. Đặc điểm quyền đối với họ, tên 17
1.3. Quyền đối với họ, tên trong mối liên hệ với các quyền nhân
thânkhác.
20
1.3.1. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được khai sinh 20
1.3.2. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền thay đổi họ, tên 21
1.3.3. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín
22
1.3.4. Mối liên hệ giữa quyền đối với họ, tên và quyền tác giả 23
1.4. Lịch sử phát triển quyền nhân thân, quyền đối với họ tên
trong pháp luật Dân sự Việt Nam
24
1.5. Quyền đối với họ, tên trong quy định của pháp luật một số
quốc gia trên thế giới
27
1.5.1. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Pháp 27
1.5.2. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Thái Lan 29
4. 1.5.3. Quyền đối với họ, tên theo quy định của Luật Dân sự Hoa Kỳ 30
CHƯƠNG 2
QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN THEO QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH, THỰC
TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
33
2.1. Nội dung quyền đối với họ, tên 33
2.1.1. Cá nhân có quyền có họ, tên 34
2.1.2. Cá nhân có quyền sử dụng họ, tên để thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
37
2.1.3. Cá nhân được sử dụng bút danh, bí danh một cách hợp pháp 39
2.1.4. Cá nhân được thay đổi họ, tên 40
2.2. Các hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên 42
2.2.1. Sử dụng họ, tên của người khác mà không có sự cho phép của
người đó
42
2.2.2. Xâm phạm quyền đối với họ tên của người có trách nhiệm khai
sinh cho trẻ.
45
2.2.3. Hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên cá nhân của cơ quan có
thẩm quyền
46
2.3. Bảo vệ quyền đối với họ, tên 47
2.3.1. Khái niệm và vai trò bảo vệ quyền đối với họ, tên 48
2.3.1.1. Khái niệm 48
2.3.1.2. Vai trò của bảo vệ quyền đối với họ, tên 49
2.3.2. Các biện pháp bảo vệ quyền đối với họ, tên 50
2.3.2.1. Biện pháp tự bảo vệ 51
2.3.2.2. Yêu cầu người xâm phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm 52
5. quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai
2.3.2.3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại
53
2.4. Một số bất cập trong quy định của pháp luật về quyền đối với
họ, tên
56
2.5. Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền đối với
họ, tên
60
2.6. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
đối với họ, tên
66
2.6.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ, tên 66
2.6.2. Một số giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về quyền đối với họ,
tên
68
KẾT LUẬN 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 74
PHỤ LỤC 78
6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
BLDS: Bộ Luật Dân sự.
BLDS 2005: Bộ Luật Dân sự năm 2005.
BLDS 1995: Bộ Luật Dân sự năm 1995.
Nxb: Nhà xuất bản.
TAND: Tòa án nhân dân.
Tr: Trang
UBND: Ủy ban nhân dân.
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Họ và tên là những giá trị tinh thần gắn liền với mỗi cá nhân, là một trong
những yếu tố nhân thân để phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Quyền nhân
thân đối với họ, tên là một trong những quyền nhân thân cơ bản, cá biệt hóa cá
nhân, cần được pháp luật bảo vệ. Mặc dù quyền đối với họ, tên được coi là một
quyền nhân thân cơ bản của cá nhân và được pháp luật bảo vệ một cách tuyệt đối
nhưng trên thực tế việc áp dụng pháp luật để đảm bảo quyền đối với họ, tên của
cá nhân vẫn tồn tại nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân của hiện tượng
này là những quy định pháp luật chưa thực sự rõ ràng và đầy đủ. Cụ thể pháp
luật dân sự chưa có một quy định hướng dẫn cụ thể định nghĩa như thế nào là
quyền đối với họ, tên; người có quyền đối với họ, tên của mình thì có những
quyền năng gì cụ thể. Những thiếu sót này của pháp luật đã gây khó cho cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình áp dụng pháp luật, đồng thời cũng chưa tạo điều
kiện cho mỗi cá nhân được hiểu đúng, đầy đủ về quyền lợi của mình. Từ việc
nhận thức không đúng, không đầy đủ dẫn đến những cách áp dụng không thống
nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó pháp luật hiện hành cũng
thiếu sót một phần quan trọng chưa hề quy định đó là quy định để nhận biết các
hành vi xâm phạm quyền đối với họ, tên của cá nhân. Việc quy định các hành vi
xâm phạm quyền đối với họ, tên là công việc có tính cấp thiết trong bối cảnh bản
thân người có quyền và chính các cơ quan có thẩm quyền còn đang loay hoay
trong việc nhận biết được có sự xâm phạm hay không. Xuất phát từ những lý do
trên đây, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Quyền đối với họ, tên – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn” cho luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành luật của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền nhân thân nói chung và một số quyền nhân thân cụ thể đã được
nghiên cứu, tìm hiểu qua khá nhiều các công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, trong
8. 2
khoa học pháp lý, chưa có công trình nào nghiên cứu quyền đối với họ, tên một
cách có hệ thống và quy mô, từ lý luận đến thực tiễn. Những công trình liên quan
chỉ đề cập tới quyền đối với họ, tên là một quyền trong hệ thống các quyền nhân
thân và trong những công trình nghiên cứu này, quyền đối với họ, tên chỉ được
đặt trong một phần nhỏ, với những nghiên cứu ở mức độ nhất định. Trong đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường do ThS. Lê Đình Nghị làm chủ nhiệm đề tài:
“Quyền nhân thân của cá nhân và bảo vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân
sự”, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008, tại bài viết chuyên đề: “Quyền
nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: quyền của cá nhân đối với họ, tên,
dân tộc, hình ảnh” của ThS. Nguyễn Minh Oanh cũng đã đề cập tới một số vấn
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến quyền đối với họ, tên với tư cách là một
quyền nhân thân cá biệt hóa cá nhân.
Ngoài ra, một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành cũng đã phân tích,
đánh giá trên một vài phương diện liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân. Bài viết: “Quyền thay đổi họ, tên từ pháp luật đến thực tiễn” của tác giả
Hoàng Long đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư Pháp, số chuyên đề
3/2008, bài viết: “ Quy định về thay đổi họ, tên của một người cần được hướng
dẫn cụ thể” của tác giả Vương Tất Đức, Nguyễn Thanh Xuân, tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 4 năm 2010 đã đưa ra một số những bất cập trong
luật định và các trường hợp vướng mắc trong thực tế liên quan đến việc thay đổi
họ, tên của cá nhân. Bài viết: “Xác định họ đối với cá nhân” với tác giả Nguyễn
Đình Toàn đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Bộ tư pháp, số tháng 7/2008,
bài viết: “Cần có hướng dẫn việc đăng ký họ, tên khi đăng ký khai sinh” của tác
giả Thảo Linh, tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, số chuyên đề 3/2008
đã đưa ra quan điểm trong việc xác định họ cho đứa trẻ khi đi khai sinh, quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng và những một số kiến nghị hoàn thiện
luật. Những công trình nghiên cứu đã nêu trên đây chỉ mới đề cập tới quyền đối
9. 3
với họ, tên ở những khía cạnh, nội dung nhất định mà không nghiên cứu một
cách đầy đủ và có hệ thống trên tất cả mọi phương diện.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu đề tài với mục đích làm rõ được quy định về quyền đối với họ,
tên trong BLDS 2005 và các văn bản pháp luật liên quan. Từ những quy định
của pháp luật, đề tài cần đạt được một mục đích thứ hai là liên hệ, đánh giá được
việc áp dụng pháp luật về quyền đối với họ, tên trên thực tế là như thế nào. Khi
đã có những kết quả nhất định về việc áp dụng trên thực tế đề tài nghiên cứu
hướng tới mục đích thứ ba là tìm ra những bất cập trong quy định của pháp luật,
chỉ ra những điểm chưa phù hợp với thực tế để từ đó đề xuất những giải pháp
hoàn thiện pháp luật. Đề tài nghiên cứu này sẽ là một nguồn tham khảo cho
những người nghiên cứu luật và các cơ quan áp dụng pháp luật.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định
như sau:
- Trình bày được lý luận chung về quyền nhân thân liên quan đến họ, tên
của cá nhân.
- Phân tích nội dung pháp luật liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân.
- Đưa ra phương hướng và các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về
quyền đối với họ, tên của cá nhân.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ luật học, học viên chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung cơ bản liên quan đến quyền đối với họ, tên của cá
nhân như khái niệm về quyền đối với họ tên, đặc điểm pháp lý của quyền đối với
họ, tên; nội dung quyền đối với họ, tên; các hành vi xâm phạm quyền và các
phương thức bảo vệ quyền nhân thân này. Bên cạnh những những phân tích
10. 4
mang tính lý luận là những vụ việc thực tế liên quan trực tiếp đến họ, tên của cá
nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Phương pháp nghiên cứu đề tài được xác định như sau:
- Phương pháp so sánh luật: nghiên cứu các quy định pháp lý của Việt Nam
về quyền đối với họ, tên, các quy định pháp lý cơ bản của nước ngoài về quyền
đối với họ, tên, từ đó rút ra những điểm tương đồng, khác biệt.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đối với mỗi một quan điểm khoa học
đưa ra, học viên đã phân tích, tổng hợp để rút ra những điểm ưu, nhược và dẫn
đến cách nhìn nhận của bản thân
- Ngoài ra học viên còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp,
diễn giải…
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đem lại những điểm mới sau đây:
- Luận văn là một công trình nghiên cứu với cái nhìn tương đối cơ bản, toàn
diện mang tính pháp lý về quyền đối với họ, tên;
- Luận văn giúp đánh giá đúng những bất cập trong quy định pháp luật về
quyền đối với họ, tên cũng như thực trạng áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này;
- Luận văn đã đưa ra những giải pháp cụ thể mang tính hoàn thiện những
quy định pháp luật về quyền đối với họ, tên.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn thạc sỹ luật học với tên đề tài: “Quyền đối với họ, tên – một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” có kết cấu gồm phần Mở đầu, các chương nội dung
chính, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục. Nội dung chính của
luận văn gồm hai chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về quyền đối với họ, tên.
Chương 2: Quyền đối với họ, tên theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam hiện hành, thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
11. 5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
CHUNG VỀ QUYỀN ĐỐI VỚI HỌ, TÊN
1.1. Khái niệm quyền nhân thân
Với mục đích đưa ra một khái niệm về quyền nhân thân, chúng tôi cho rằng
cần thiết phải xuất phát từ những khái niệm liên quan như quyền con người,
quyền dân sự.
Con người với vị trí và tầm quan trọng trong lịch sử phát triển thế giới luôn
được coi là chủ thể cần được trân trọng và bảo vệ. Trong quá trình phát triển xã
hội, những quan hệ xã hội ngày càng trở nên phức tạp, đa dạng cùng với nhiều
mặt tiêu cực. Quyền con người và vấn đề bảo vệ quyền con người đã và đang
được nhiều quốc gia quan tâm như một vấn đề trọng yếu. Quyền con người được
hiểu là quyền đối với những lợi ích của con người – với tư cách là chủ thể tham
gia quan hệ xã hội, ví dụ như quyền dân sự, quyền chính trị, quyền kinh tế, xã
hội, văn hóa…Sự ra đời của các công ước về quyền con người được coi như là
một minh chứng cho tầm quan trọng và sự quan tâm, bảo vệ của mỗi quốc gia
đối với quyền con người, điển hình là Công ước quốc tế 1966 của Liên hiệp quốc
về quyền dân sự, quyền chính trị.
Quyền nhân thân theo quy định tại BLDS 2005 (BLDS 2005) là một loại
quyền dân sự. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự có các
quyền dân sự và các nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự này có thể do
các bên thỏa thuận, trong một số trường hợp, pháp luật quy định cụ thể về quyền
dân sự và nghĩa vụ dân sự mà các bên buộc phải thực hiện. Đảm bảo những lợi
ích chính đáng của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật chính là đã bảo
đảm quyền con người. Hay nói một cách khác quyền dân sự được coi là một khái
niệm được bao hàm trong nội dung của quyền con người. Quyền dân sự với tư
cách là một quyền con người cũng đã được pháp luật quốc tế thừa nhận và bảo
vệ. Nhà nước Việt Nam, bằng pháp luật cũng đã thể hiện quan điểm rõ ràng
12. 6
trong việc bảo vệ quyền dân sự. Qua các bản hiến pháp, cụ thể là Hiến pháp năm
1992 đã quy định rõ những quyền con người cơ bản nhất được thể hiện tại
Chương V. Quyền dân sự được định nghĩa là “khả năng xử sự được phép của
chủ thể có quyền năng được nhà nước quy định hoặc công nhận khi tham gia
vào quan hệ dân sự và bảo đảm cho các quyền đó được thực hiện” [20, tr.82].
Quyền dân sự ở một khía cạnh nhất định chính là những lợi ích mà các chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự mong muốn đạt được, đó có thể là những quyền lợi
liên quan đến vật chất hoặc những lợi ích về tinh thần. Dựa vào những tiêu chí
nhất định mà quyền dân sự được phân loại thành những loại quyền khác nhau.
Có thể nói sự phân loại phổ biến nhất trong các hệ thống pháp luật dân sự trên
thế giới là sự đối lập giữa quyền nhân thân và quyền tài sản.
Về khái niệm quyền nhân thân, trên thực tế có nhiều quan điểm khi đề cập
tới khái niệm quyền nhân thân và cũng chưa có một định nghĩa thống nhất. Luận
văn trên cơ sở phân tích những quan điểm nổi bật và đưa ra những nhận định của
cá nhân.
Theo công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Toà án nhân dân Tối cao,
trong đề tài: “Vai trò của TAND trong việc bảo vệ quyền nhân thân của công
dân theo quy định của BLDS” khái niệm quyền nhân thân được xây dựng trên
hai góc độ. Dưới góc độ chủ thể, quyền nhân thân về dân sự là quyền con
người về dân sự gắn liền với mỗi cá nhân được thụ hưởng với tư cách là
thành viên của cộng đồng kể từ thời điểm người đó được sinh ra và bằng các
quyền đó, mỗi cá nhân được khẳng định địa vị pháp lý của mình trong giao
lưu dân sự, do đó quyền này không thể chuyển giao cho người khác, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Dưới góc độ khách thể, quyền nhân
thân về dân sự của cá nhân được hiểu là chế định pháp luật bao gồm các quy
định của pháp luật về các quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân để bảo đảm địa
vị pháp lý cho mọi cá nhân, là cơ sở pháp lý để cá nhân thực hiện các quyền con
người về dân sự [30, tr. 19]. Theo đó, quyền nhân thân mà chúng ta đang tìm
13. 7
hiểu được hiểu là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, quyền nhân thân này
có từ khi mỗi cá nhân sinh ra, là quyền nhân thân để phân biệt các cá nhân với
nhau và không thể chuyển giao.
Từ điển luật học của viện nghiên cứu pháp lý, Bộ Tư pháp lại có cách định
nghĩa khác về quyền nhân thân:
“Quyền nhân thân: Quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không
thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Quyền nhân thân bao gồm: quyền có họ tên; quyền xác định dân
tộc; quyền của cá nhân đối với hình ảnh; quyền được bảo đảm an toàn
về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm, danh
dự, uy tín; quyền đối với bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền ly hôn,
quyền có quốc tịch; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi
lại, cư trú; quyền lao động; quyền tự do sáng tạo, quyền tác giả đối
với tác phẩm; quyền đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Khi quyền nhân thân của một người bị xâm phạm thì người đó có
quyền: yêu cầu người vi phạm hoặc toà án buộc người vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính
trên các phương tiện thông tin đại chúng; tự mình yêu cầu hoặc yêu
cầu toà án buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại vật chất hoặc tinh
thần. Không ai được lạm dụng quyền nhân thân của mình xâm phạm
đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác.” [33, tr. 653].
Có thể thấy từ điển luật học này đã đưa ra khái niệm khá xúc tích, quyền
nhân thân được khẳng định là một loại quyền dân sự, gắn liền với mỗi cá nhân,
các cá nhân không thể chuyển giao quyền nhân thân của mình cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật quy định. Nội dung khái niệm về quyền nhân thân trong
cuốn từ điển này hoàn toàn trùng hợp với tư tưởng của BLDS 2005. Điều 24
BLDS 2005 có quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong bộ luật này là
14. 8
quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Bên cạnh những quan điểm trên còn một số quan điểm của các nhà nghiên
cứu luật học mà ngay sau đây xin được trích dẫn một số quan điểm tiêu biểu.
Trong bài viết “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” – tạp chí Luật học số
7/2009, TS Bùi Đăng Hiếu đã thể hiển quan điểm không đồng thuận với quy
định tại Điều 24 BLDS 2005 ở hai điểm: thứ nhất, Điều 24 BLDS 2005 định
nghĩa rằng quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với mỗi cá nhân, không thể
chuyển giao trừ khi pháp luật có quy định là một khẳng định không thấu đáo, bởi
lẽ trên thực tế có một số quyền dân sự thỏa mãn các đặc điểm trên đây nhưng
không được xác định là quyền nhân thân. Tác giả bài viết đưa ra những dẫn
chứng cụ thể như trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, Điều 50 Luật Hôn nhân và
Gia đình có quy định rằng: “nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và
con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ
và chồng theo quy định của luật này. Nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế
bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác”, tương ứng với
nghĩa vụ cấp dưỡng Luật Hôn nhân và Gia đình cũng quy định quyền yêu cầu
cấp dưỡng gắn với những chủ thể nhất định. Theo tác giả, quyền dân sự về cấp
dưỡng chính là một loại quyền tài sản. Quyền tài sản này rõ ràng gắn với một cá
nhân cụ thể và không thể chuyển giao. Thứ hai, tác giả của bài viết này không
đồng ý với quy định cho rằng quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân. Trong
các văn bản mà tác giả dẫn chứng có liên quan đến yếu tố pháp lý của pháp nhân
– chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự như tại Điều 604 và Điều 611 BLDS
2005 có đề cập đến “danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác” hay tại Nghị
quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-
HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, đều
nhắc đến thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân¸và pháp nhân được bồi
thường thiệt hại về tinh thần. Tác giả của bài viết cho rằng những quy định này
15. 9
đã khẳng định quyền nhân thân của pháp nhân được pháp luật bảo vệ, đồng
nghĩa với việc cho rằng quyền nhân thân chỉ gắn với cá nhân như tại Điều 24
BLDS là không chính xác. Từ những phân tích đó, TS Bùi Đăng Hiếu cũng đã
đưa ra quan điểm cá nhân khi xây dựng định nghĩa về quyền nhân thân: “Quyền
nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không
định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác” [8, tr.40].
Một quan điểm khác khi xây dựng khái niệm về quyền nhân thân: quan
điểm của TS. Lê Đình Nghị trong Luận án Tiến sỹ - Quyền bí mật đời tư theo
quy định của pháp luật dân sự Việt Nam (năm 2008). Trong Luận án này, tác giả
đã xây dựng khái niệm về quyền nhân thân trên hai phương diện khách quan và
chủ quan. Nghĩa khách quan: “quyền nhân thân được hiểu hiểu là một phạm trù
pháp lý bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, trong
đó có nội dung quy định cho các cá nhân có các quyền nhân thân gắn liền với
bản thân mình và đây là cơ sở để cá nhân thực hiện quyền của mình”. Theo
nghĩa chủ quan, tác giả cho rằng “quyền nhân thân là quyền dân sự chủ quan gắn
liền với cá nhân do Nhà nước quy định cho mỗi cá nhân và cá nhân không thể
chuyển giao quyền này cho người khác trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác.” Có thể thấy tác giả đồng tình với quan điểm của nhà làm luật khi xây
dựng khái niệm về quyền nhân thân.
Phân tích một vài quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể thấy rằng chưa
thể có một khái niệm thống nhất về quyền nhân thân. Quyền nhân thân là một
loại quyền dân sự đặc biệt, có thể nói là một loại quyền dân sự gắn với mỗi chủ
thể từ khi chủ thể đó hình thành cho đến khi chấm dứt, không còn tồn tại. Xã hội
phát triển làm cho các quan hệ xã hội trở nên phức tạp, đa dạng và biến hóa hơn,
đồng thời do nhu cầu sản xuất, sinh hoạt, duy trì cuộc sống xã hội dần hình thành
nhiều các chủ thể với các hình thức tổ chức khác nhau. Cá nhân là chủ thể chủ
yếu, trung tâm trong mọi quan hệ xã hội, tuy nhiên xã hội cũng đã hình thành và
16. 10
pháp luật đã công nhận nhiều loại chủ thể khác. Pháp luật dân sự quy định các
chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự gồm: cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia
đình, Nhà nước nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quyền nhân thân là
một loại quyền con người, tuy nhiên quyền nhân thân không chỉ gắn với con
người với tư cách là cá nhân trong các quan hệ pháp luật dân sự. Đối với pháp
nhân, Luật Dân sự đã có quy định liên quan đến nhân thân của pháp nhân, ví dụ
như quy định tại Điều 604 BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cũng đã nhắc đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Bằng
cách gián tiếp, BLDS đã công nhận quyền nhân thân cho các pháp nhân. Như
vậy có thể khẳng định quyền nhân thân không chỉ gắn với cá nhân mà có thể gắn
với chủ thể khác.
Như ở phần đầu luận văn chúng tôi đã đề cập tới sự phân loại quyền dân sự
thành quyền nhân thân và quyền tài sản. Quyền tài sản được hiểu là những quyền
có khả năng định giá được bằng tiền và có thể chuyển giao một cách hoàn toàn
bình thường với tư cách là một loại tài sản. Quyền nhân thân thì không thể định
giá được bằng tiền, nó không mang những giá trị vật chất mặc dù trong một số
trường hợp nó có thể là tiền đề để người có quyền năng hưởng một khoản lợi ích
vật chất nhất định. Quyền nhân thân có thể xem là một loại quyền vô giá.
Từ những lập luận và phân tích trên, chúng tôi xin đưa khái niệm về quyền
nhân thân như sau: Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi chủ thể,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
1.2. Quyền đối với họ, tên
1.2.1. Khái niệm họ, tên.
1.2.1.1. Họ
Mỗi cá nhân sinh ra, tồn tại và phát triển đều cần có họ và tên, đầu tiên đó
là dấu hiệu nhận biết, phân biệt cá nhân này với cá nhân khác, tiếp nữa mỗi cá
nhân trong xã hội phải có một cái tên kèm theo một họ nhất định để đảm bảo
17. 11
hiệu quả trong quản lý xã hội của nhà nước. Họ và tên của cá nhân cũng mang
một ý nghĩa sâu sắc, thông qua họ tên đó chúng ta biết nguồn gốc, lai lịch, giới
tính của cá nhân...
Họ vốn để chỉ một tập hợp người cùng tổ tiên, cùng một dòng máu (ví dụ
như họ nội, họ ngoại). Họ là một phần trong tên gọi, để xác định cá nhân đó
thuộc dòng họ nào. Họ được đặt trước tên đệm và tên chính của một người, dùng
chung cho một tập hợp những người cùng một dòng máu (sau đây được gọi là
cùng một họ) để phân biệt với người thuộc họ khác. Họ có chức năng phân biệt
một tập hợp người cùng tổ tiên, dòng máu này với một tập hợp người có cùng tổ
tiên, dòng máu khác. Họ luôn đi đôi với tên chính và tên đệm (nếu có) nên góp
phần cá thể hóa cá nhân. Khi hai hay nhiều người có cùng tên đệm và tên chính
thì họ sẽ là một yếu tố quyết định đến chức năng cá thể hóa. Chẳng hạn để phân
biệt hai người có cùng tên Giang là Chu Lam Giang và Lê Lam Giang thì người
ta thường gọi là Giang Lê và Giang Chu để dễ phân biệt.
Về vị trí của họ trong tổ hợp họ - tên người, họ của người Việt Nam luôn
luôn đứng ở vị trí thứ nhất, đầu tiên trong cụm họ tên. Ví dụ như trong cụm họ -
tên Lê Thế Vỹ thì ở vị trí đầu tiên là họ của người đó (họ Lê). Nếu như cũng là
họ đó nhưng được đặt ở vị trí thứ hai thì lại được coi là tên đệm, ví dụ như
Hoàng Lê Thế Vỹ (họ là Hoàng, Lê chỉ là đệm). Về vị trí họ đặt trong cụm họ -
tên của người Việt có nét khác biệt hoàn toàn với vị trí họ trong cụm họ - tên của
người Châu Âu: ví dụ John Lennon thì John đứng đầu tiên lại là tên chính,
Lennon đứng sau lại là họ. Trong giao tiếp, người Việt luôn gọi tên để phân biệt,
xưng hô (gọi Vỹ), nhưng với người Châu Âu thì lại gọi họ để phân biệt (gọi
Lennon)
Về nguồn gốc của họ người ở Việt Nam rất đa dạng, do Việt Nam từ xa xưa
đã bị ảnh hưởng bởi sự xâm chiếm, di dân hay giao thoa văn hóa. Ví dụ như đa
số các họ của người Kinh có nguồn gốc từ Trung Quốc (họ Trần, Lê, Lý, Đỗ…)
do nước ta đã trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc sau đó là sự di dân của người
18. 12
Trung Quốc. Các dân tộc thiểu số, một số dân tộc mang họ của người Kinh như
Nguyễn, Lê, Bùi, Lưu…Hay một số dân tộc trước kia không có họ nhưng sau
cách mạng năm 1945 các dân tộc này lấy họ Hồ làm họ chung cho tất cả mọi
thành viên. Họ của những dân tộc thiểu số lại được chia thành các nhóm như
nhóm tên thú, ví dụ như nhóm Rvai (hổ) gồm có Rvai Veng Ung, Rvai Xênh
Khương, Rvai TLắp…, nhóm tên chim, ví dụ như Thràng (phượng hoàng đất),
Rivi (én), Lang Tu (họa mi)…, nhóm tên cây ví dụ như Tvạ Tờrông Blai (guột),
Tvạ Ngăm (rau dớn)…Việc xác định họ cho người Việt còn được xác định theo
chế độ phụ hệ và mẫu hệ. Đa số các dân tộc ở Việt Nam theo chế độ phụ hệ như
Kinh, Hoa, Hà Nhì, Pà Thẻn…, con cái các dân tộc này khi sinh ra được lấy họ
theo người cha. Một số ít dân tộc theo chế độ mẫu hệ như Ê Đê, Gia rai, Chăm,
Mnông…con cái sinh ra lại lấy theo họ của mẹ. Ở nhiều vùng miền, họ còn lấy
chữ đầu tiên tên làng làm họ của mình: ví dụ như họ Dương (làng Dương
Hòa)…
Tóm lại, họ của mỗi cá nhân thể hiện dòng máu, gốc gác của bản thân. Họ
cũng là căn cứ, dấu hiệu phân biệt giữa các cá nhân với nhau. Về mặt văn hóa,
họ thể hiện lịch sử hình thành, phát triển của một tập hợp những người có cùng
dòng máu, huyết thống, về mặt pháp lý, họ có ý nghĩa trong công tác quản lý hộ
tịch, những quyền dân sự phát sinh liên quan đến họ, tên.
1.2.1.2. Tên
* Tên đệm:
Tên đệm là yếu tố xen giữa họ và tên chính. Đây là thành tố phụ, có thể
xuất hiện hoặc vắng mặt: Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi. Phần lớn tên đệm là từ đơn
nhưng gần đây, tên đệm phức ngày càng xuất hiện nhiều, ví dụ như Trần Văn
Hiến Minh, Nguyễn Ngọc Trường Sơn, …
Về chức năng, tên đệm có những chức năng như sau: Chức năng khu biệt
giới tính: từ trước đến nay, một từ có chức năng khu biệt giới tính nữ rõ ràng
nhất là Thị (Nguyễn Thị Hoa, Trần Thị Hạnh…) riêng các nhà quý phái ở Huế
19. 13
trước đây thay vì dùng Thị thì dùng từ Diệu (Nguyễn Diệu Hương, Trần Diệu
Thúy…) một số dòng họ thì dùng Nữ để thay thế (ví dụ: Lê Nữ Lam, Trần Nữ
Như Châu…). Hiện nay từ đệm với chức năng khu biệt giới tính nữ mang tính đa
dạng, phong phú hơn nhiều, ví dụ: Ái, Cẩm, Diễm, Yến, Lệ, Mỹ…Với nam giới,
các tên đệm phong phú hơn, nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là đệm Văn. Các
dân tộc ít người cũng có những quy ước riêng, ví dụ dân tộc Si La dùng Chà
(nam), có hay cố (nữ), người Sán Dìu, con trai mang tên đệm A (Trần A Bảo),
con gái mang đệm Ô (Trần Ô Thu)…Tên đệm còn có chức năng khu biệt bộ
phận, cụ thể như trong dân tộc Kinh, một số từ đệm giữ chức năng khu biệt các
chi hay ngành trong một dòng họ lớn hơn, chẳng hạn, Ngô Thì, Ngô Vi ở Thanh
Oai (Hà Nội), Phan Huy, Phan Trọng ở Quốc Oai (Hà Nội)…Một chức năng nữa
của tên đệm là chức năng khu biệt thứ bậc trong gia đình, thế hệ, dòng họ, ví như
một số gia đình dùng từ đệm Bá (người lớn tuổi) để chỉ con cả dòng trưởng,
Mạnh (bắt đầu) để chỉ con cả dòng thứ, Gia (người lớn nhất trong nhà) chỉ con
trưởng, Trọng (thứ hai) chỉ người con thứ nhì, Thúc (trẻ tuổi) chỉ người con thứ
ba, quý (nhỏ) chỉ người con cuối cùng…Tên đệm còn chỉ mối quan hệ giữa các
thế hệ trong gia đình: dân tộc Kinh, nhiều gia đình luôn lấy tên đệm của cha đặt
cho con trai, ví dụ Phan Huy Ích – Phan Huy Chú, Ngô Thì Sĩ – Ngô Thì Nhậm.
Ngoài ra tên đệm còn có chức năng thẩm mỹ, với chức năng này tên đệm có thể
dùng được cả cho giới nam và giới nữ, ví như những tên đệm: Bạch, Bích, Hồng,
Kim, Ngọc, Thanh, Xuân. Tóm lại, tên đệm có ba loại: loại chỉ có chức năng khu
biệt giới: Thị, Diệu, Nữ…(nữ), Mạnh, Bá…(nam); loại chỉ có chức năng thẩm
mỹ và loại vừa có chức năng khu biệt giới vừa có chức năng thẩm mỹ
* Tên chính:
Tên chính là tên gọi của từng cá nhân, để phân biệt với những cá nhân khác.
Tên chính thường ở vị trí cuối cùng trong cụm họ - tên. Người Việt Nam chúng
ta khi đặt tên chính cho con cháu thường có lý do nhất định, người Việt quan
niệm rằng tên chính là một bộ phận gắn chặt với người mang nó. Tục ngữ có
20. 14
câu: “coi mặt, đặt tên”. Khi đặt tên người ta thường lựa chọn rất kỹ và thường
căn cứ vào đặc điểm, hoàn cảnh, dòng họ, quê hương, xã hội, ước vọng của cha
mẹ… chứ không chọn một cách tùy tiện. Tính lựa chọn trong cách đặt tên chính
được thể hiện ngay trong xã hội dân gian xưa kia, đối với những nhân vật chính
diện, sang trọng thường có cái tên rất hay, đẹp như Lục Vân Tiên, Vương Tử
Trực; những nhân vật bình dân trong xã hội có cái tên xấu như chính số phận của
họ: chị Dậu (trong tác phẩm Tắt đèn), Chí phèo, Thị Nở (tác phẩm Chí Phèo).
Tên chính được đặt cho người Việt Nam chủ yếu là từ Hán, sở dĩ có hiện tượng
này là do tâm lý người Việt vẫn cho rằng tên bằng từ Hán Việt hay hơn, văn hóa
hơn những tên bằng từ thuần việt tương ứng. Giả dụ như thay vì đặt tên con là
Ngay Thẳng, các bậc phụ huynh sẽ lựa chọn tên tiếng Hán có nghĩa tương đồng
như Trung Trực, hay Thanh Liêm thay vì đặt là Trong Sạch, cá biệt vẫn có số ít
đặt tên con theo nghĩa thuần Việt như Giàu, Có, Được, Lành…So với tên đệm và
họ, tên chính của người Việt có số lượng lớn hơn rất nhiều và độ phong phú, đa
dạng cũng hơn hẳn, về nguyên tắc, từ nào trong Tiếng Việt cũng có thể được sử
dụng làm tên chính cho người tuy nhiên người Việt kiêng kỵ đặt những tên xấu
như bệnh hiểm nghèo: cùi, ung thư,… tên mang ý nghĩa bất hạnh như tù,
ngục…, tên chính cũng không được trùng với tên các bậc trưởng thượng. Phong
tục này được hình thành từ rất lâu trước đây, theo đó tên người không được trùng
với tên thần thánh, vua chúa, những người thuộc thế hệ trước của gia đình, gia
tộc, không những không được đặt tên trùng mà khi gọi hay nói từ đồng âm với
tên húy ấy còn cần nói chệch đi, ví như cụ cố tên Hành, thì trong giao tiếp thay
vì nói “hành” phải nói thành “hiềng”…Tuy nhiên người Mạ lại không có tục lệ
ấy, họ lấy luôn tên một trong những người bề trên đã chết để đặt tên cho đứa trẻ.
Tên chính có thể là tên đơn được cấu thành bằng từ có một âm tiết cũng có thể là
tên phức được tạo ra từ nhiều âm tiết, ngày nay tên đầy đủ của người Việt mang
bốn âm tiết ngày càng trở nên phổ biến. Về nguyên tắc, tên chính không có chức
năng phân biệt nam nữ giống như tên đệm. Tuy nhiên căn cứ vào tên đệm: Văn
21. DOWNLOAD ĐỂ XEM ĐẦY ĐỦ NỘI DUNG
MÃ TÀI LIỆU: 53391
DOWNLOAD: + Link tải: tailieumau.vn
Hoặc : + ZALO: 0932091562