SlideShare a Scribd company logo
1 of 75
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG HUYỀN TRANG
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG HUYỀN TRANG
QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. CHU HỒNG THANH
HÀ NỘI – 2019
SV: Đặng Huyền Trang i Lớp: K60B-QH-2015-L
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời
cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Huyền Trang
SV: Đặng Huyền Trang ii Lớp: K60B-QH-2015-L
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
MỤC LỤC................................................................................................................. ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iii
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN
GIÁO LỚN ................................................................................................................5
1.1 Lý luận chung về quyền con người................................................................5
1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn .....................................................................13
1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo............................................................................13
1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng quyền
con người..................................................................................................................17
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN
CON NGƯỜI CỤ THỂ...........................................................................................21
2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người......21
2.1.1 Nhân sinh quan...............................................................................................21
2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo .......................23
2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể.....................................26
2.2.1. Quyền sống .....................................................................................................26
2.2.2 Quyền không bị tra tấn ...................................................................................32
2.2.3 Vấn đề quyền tự do bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. ..........................36
2.2.4. Quyền tự do dân chủ tín ngưỡng tôn giáo....................................................46
CHƯƠNG III: NHẬN XÉT KHÁI QUÁT TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUAN
ĐIỂM TÔN GIÁO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI....................................................54
3.1. Tác động tích cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........54
3.1.1 Nền văn hóa nhân quyền................................................................................54
3.1.2 Tác động tích cực trong tư tưởng của các Tôn giáo cần được phát huy .....56
3.2. Tác động tiêu cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........58
KẾT LUẬN..............................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................68
SV: Đặng Huyền Trang iii Lớp: K60B-QH-2015-L
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CAT Công ước chống tra tấn
GHPGVN Giáo hội Phật giáo Việt Nam
HRC Ủy ban Quyền con người
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
ICRC Hội Chữ Thập đỏ quốc tế
ILO Tổ chức Lao động quốc tế
MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
SV: Đặng Huyền Trang 1 Lớp: K60B-QH-2015-L
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người (Nhân quyền - Human Rights) là một phạm trù đa diện và có
nhiều định nghĩa, các nhà nghiên cứu cho rằng quyền con người đã tồn tại ngay từ
buổi ban sơ trong lịch sử xã hội loài người; mặc dù có nhiều ý kiến đánh giá và cách
giải thích khác nhau, nhưng phải đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945),
khái niệm “quyền con người” mới thực sự được đề cập rộng rãi trong cộng đồng
nhân loại.
Theo dòng chảy lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng, triết lí
về quyền con người nói riêng, có thể thấy rằng những giá trị phản ánh về quyền con
người đã tồn tại trong đời sống xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước đây, mặc dù
không được nói đến trong cụm từ “quyền con người” nhưng những giá trị của quyền
con người, ở những mức độ khác nhau đã được nêu ra trong những tác phẩm của
các triết gia, các nhà tư tưởng lớn, nó xuất hiện và tồn tại trong giáo điều và quy
định của các tôn giáo, trong pháp luật của các quốc gia, biểu hiện trong văn hóa
truyền thống của nhiều dân tộc khác nhau…
Quyền con người là phổ quát, là giá trị chung của nhân loại, đảm bảo quyền
con người là mục tiêu hướng đến của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, để
quyền con người được tôn trọng và đảm bảo trên thực tế là một quá trình và cần có
sự tham gia của nhiều thành tố trong xã hội.
Chúng ta hiểu và thừa nhận rằng, bảo vệ quyền con người không chỉ bằng hệ
thống pháp luật, mà nó còn là phát huy tổng hợp các giá trị tốt đẹp tồn tại trong xã
hội, một nền tảng xã hội được xây dựng dựa trên những giá trị xuất phát từ phẩm
giá của con người là điều kiện tốt để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo.
Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (năm 1990) về công tác tôn giáo khẳng định: Tôn
giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của
một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây
dựng xã hội mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết
chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần
vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
SV: Đặng Huyền Trang 2 Lớp: K60B-QH-2015-L
những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người” [8]; „„Con người là trung tâm
của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước
và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia
đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong
việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,
trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa
tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng giađình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc,
thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục
nếp sống và hình thành nhân cách” [8].
Bên cạnh việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chúng ta cần khai thác, phát huy những giá trị tích
cực, tốt đẹp của truyền thống văn hóa của dân tộc, trong đó có những giá trị tư
tưởng tôn giáo, những giá trị của văn hóa tôn giáo để góp phần xây dựng một nền
văn hóa nhân quyền.
Nghiên cứu lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người giúp cho chúng ta
nhận thấy những giá trị về quyền con người tồn tại ở đâu, giá trị quyền con người
được chứa đựng trong những giá trị văn hóa hay tôn giáo nào, đã và đang hiện hữu
trong đời sống xã hội loài người. Từ đó gợi cho chúng ta ý tưởng rằng, việc thúc
đẩy và đảm bảo quyền con người cũng chính là tiếp tục phát huy hơn nữa những giá
trị quyền con người chứa đựng trong các giá trị văn hóa ấy, mà ở đây tác giả tập
trung nói đến là những giá trị trong tư tưởng, triết lí của 4 tôn giáo lớn là: Kito giáo,
Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “KHÁI LƯỢC QUAN ĐIỂM CỦA
MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” làm đề khóa luận tốt
nghiệp của mình, với mục đích làm rõ một số tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về
quyền con người, bổ sung vào hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí của nhân
loại về quyền con người; góp phần phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo
trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thời đại ngày nay.
2 Tình hình nghiên cứu
Ngày nay, khi nói đến tôn giáo, không ai có thể phủ nhận hay bàn cãi về giá trị
nhân văn, nhân đạo của các tôn giáo cũng như cảm nhận sự gần gũi của những tư
tưởng, triết lí, văn hóa các tôn giáo trong cuộc sống. Có thể thấy rằng, mặc dù trong
giáo lí, kinh điển các tôn giáo không nói đến cụm từ “quyền con người” song vấn đề
tôn trọng quyền con người hoàn toàn không xa lạ gì đối với các tôn giáo.
SV: Đặng Huyền Trang 3 Lớp: K60B-QH-2015-L
Tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về quyền con người là một chủ đề tuy không mới;
tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu sắc vấn đề này hầu như còn hạn chế, trong một số
bài viết thường tiếp e dưới dạng phân tích về triết lí các tôn giáo liên quan đến một
số vấn đề cụ thể trong cuộc sống, và các vấn đề này ít nhiều tương đồng với nội
hàm của một số quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế hiện nay.
Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây về quan điểm của các tôn giáo lớn
về quyền con người thường xảy ra việc những nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào
những diễn đạt riêng lẻ trong giải thích của họ về các giáo lý tôn giáo, nên gây hạn
chế việc tìm ra mối liên hệ giữa quan điểm của các tôn giáo và quyền con người.
Đến nay, chưa thấy khóa luận tốt nghệp nào tiếp cận chủ đề này dưới góc độ quyền
con người.
Mặc dù các giáo lý tôn giáo xuất hiện từ thời cổ đại và không có sự nối kết
trực tiếp với những khái niệm, tư tưởng hiện đại về quyền con người như trong Luật
nhân quyền quốc tế. Tác giả cố gắng nghiên cứu và chỉ ra, tìm ra những nguyên tắc
và tư tưởng về quyền con người mà các tư tưởng tôn giáo chuyển tải. Để hướng đến
việc khai thác trong đó những ứng dụng hữu ích. Bởi vì các tôn giáo đã và đang tồn
tại đầy sức sống trong thế giới của chúng ta.
Với cách tiếp cận những quan điểm về quyền con người trong các tôn giáo, tác
giả muốn tiếp cận nghiên cứu và làm rõ những tư tưởng quyền con người “đã có”,
đó là những tư tưởng quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sốngcác tôn
giáo, với mong muốn nhìn nhận vấn đề quyền con người gần gũi hơn, sáng tỏ nội
dung quyền con người là giá trị chung của nhân loại, thực sự tồn tại phổ biến trong
đời sống của con người; đồng thời cũng góp phần phê phán những góc nhìn thiếu
tích cực trong quan điểm của các tôn giáo về quyền con người
3 Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Trình bày, phân tích có hệ thống các quan điểm của một số tôn giáo lớn về
quyền con người; góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm về lịch sử tư tưởng, triết lí
về quyền con người; thể hiện tính phổ biến của quyền con người; để chứng minh
rằng các giá trị quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội, mà cụ thể
ở đây là trong đời sống và văn hóa các tôn giáo.
Bổ sung lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người qua tư tưởng,
triết lí, nguyên tắc của các tôn giáo về vấn đề quyền con người.
Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong
thực tiễn đời sống; bên cạnh việc nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu phát triển
của pháp luật quốc tế về quyền con người thì việc phát huy những giá trị quyền con
người trong văn hóa các tôn giáo cũng có tác dụng góp phần xây dựng một nền văn
SV: Đặng Huyền Trang 4 Lớp: K60B-QH-2015-L
hóa nhân quyền, nó có ưu thế riêng và dễ được xã hội tiếp nhận và phát triển. Góp
phần hoàn thiện pháp luật về quyền con người.
Phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung phân tích các quan điểm của 4 tôn giáo
lớn là kito giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo. Trong đó tập trung vào việc giải
thích các quy định của các tôn giáo có liên quan đến các quyền và tự do cơ bản của
con người. Nghiên cứu các quan điểm tôn giáo dưới góc độ khoa học pháp lí về nhà
nước và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng.
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về quyền con người và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Tác giả xem xét vấn đề quyền con người từ quan điểm triết học về luật, để
nhận diện những giá trị quyền con người được chia sẻ bởi hệ tư tưởng các tôn giáo.
Tiếp cận từ sự liên hệ giữa quyền con người khởi phát từ nhân phẩm, ý nghĩa của
nhân phẩm trong tư tưởng các tôn giáo.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, xã hội
học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai
thác thông tin tư liệu của các bài viết khoa học và công trình nghiên cứu đã công bố
để chứng minh cho các luận điểm.
5 Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Khóa luận
Bổ sung hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người. Hệ
thống hóa các nghiên cứu về quyền con người trong các tôn giáo.
Các kết quả của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp luật về quyền con người. Có
đóng góp nhất định trong xây dựng nền văn hóa nhân quyền và phương pháp giải
quyết hòa bình các xung đột xã hội, các bất đồng liên quan đến tôn trọng và bảo vệ
quyền con người.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận.
- Chương 1: Khái quát về quyên con người và quan điểm của một số tôn giáo
lớn về quyền con người
- Chương 2: Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền con người
- Chương 3: Mặt tích cực và hạn chế của các quan điểm tôn giáo về quyền con
người
SV: Đặng Huyền Trang 5 Lớp: K60B-QH-2015-L
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN
GIÁO LỚN
1.1 Lý luận chung về quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định
nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần
50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, 8 mỗi định nghĩa tiếp cận vấn
đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định
nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người
Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự
nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa
của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High
Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà
nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại
đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn toàn
giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu,
lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền
mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là quyền tối thiểu
mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại.
Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của con người những sự xâm
phạm của bất kể chủ thể nào, nên xã hội loài người đã phải tạo ra cho mình một
thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền này. Thiết chế được sau này gọi là
nhà nước.
Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights
trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc
nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền’’ chính là
“quyền con người”.211 Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ đồng
nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và
hoạt động thực tiễn về quyền con người.
SV: Đặng Huyền Trang 6 Lớp: K60B-QH-2015-L
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan
điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural
rights112) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh,
vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành
viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào
phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp,
tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể
cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có
của các cá nhân.
Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights213) cho rằng, các
quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc
xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý,
phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con
người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có
tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp
lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị (culturally and
politically relative)
Tính chất của quyền con người:
Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm
sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên
trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên,
cần chú ý là sự bình đẳng không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà là
bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người.
Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả bởi
nhà nước. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá nhân đều phải do
pháp luật quy định và chỉ nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng, tương xứng của cộng
đồng hay của cá nhân khác.
Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con người
đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có
giá trị cao hơn quyền nào, bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác
động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.
Tuy nhiên, tùy bối cảnh và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực
hiện một số quyền con người nhất định (ví dụ, khi có dịch bệnh đe dọa, quyền được
SV: Đặng Huyền Trang 7 Lớp: K60B-QH-2015-L
ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế, hoặc cần có những quyền đặc biệt
cho do phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số... do đây là những nhóm yếu
thế). Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao
hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi phạm
nhiều hơn so với các quyền khác.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở
chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên
hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián
tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ
trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc
bảo đảm các quyền khác
Lịch sử phát triển quyền con người:
Có những ý kiến trái ngược về lịch sử phát triển của quyền con người. Một
học giả cho rằng : “… các quyền con người không có lịch sử… vì lịch sử, nếu có, thì
hình như rất hỗn độn. Nó pha lẫn những lặp lại, những xen kẽ, những tương phản
và những đứt đoạn giữa những bước tiến triển và những bước thụt lùi”. Nhưng trên
quan điểm duy vật lịch sử, có thể khẳng định rằng, cũng như bất kỳ sự vật, hiện
tượng nào, quyền con người không phải là một cái gì siêu lịch sử, siêu giai cấp và
siêu xã hội. “Quyền con người là sản phẩm phát triển văn hoá xã hội của một kết
cấu kinh tế xã hội nhất định và chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực”
Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ thời
tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh, mà: “Luật lệ của chiến tranh thì
lâu đời như bản thân chiến tranh và chiến tranh thì lâu đời như cuộc sống trên trái
đất”. Tuy nhiên, ở trình độ phát triển của thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có
những ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng ( với ý nghĩa là những quan điểm
hoặc hệ thống quan điểm rõ ràng về một sự vật, hiện tượng nhất định), về quyền con
người. Bởi vậy, quan điểm phù hợp hơn đó là, tư tưởng quyền con người được khởi
thuỷ từ khi trái đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, mà một trong đó là nền
văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000-1.500 trước CN). Chính trong
nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một đạo
luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm 1780 TCN) với câu tuyên bố nổi
tiếng ( đã đề cập ở trên), theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này
là để : “… ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”, …làm cho người cô quả có
nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống
trị nhân từ “cho mọi thần dân trên vương quốc.
SV: Đặng Huyền Trang 8 Lớp: K60B-QH-2015-L
Cho đến thời điểm hiện nay, xét từ các góc độ tính toàn vẹn, nguyên bản, nội
dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể coi là văn bản pháp luật thành văn đầu
tiên của nhân loại nói đến quyền con người (mặc dù quan điểm này không phải
được tất cả các học giả ủng hộ) . Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con
người còn sớm được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới,
trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm
576 -529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng
các năm 272-231 ; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri
Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ
luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của
công dân(1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền
(1789) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các công
trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức (Quốc
triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp
vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó
đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy
định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con
người không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được phản ánh (một cách
sâu sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý.
Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng về quyền con người từ lâu đã
được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế,
trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền
con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật
Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là những
kinh điển của tôn giáo , bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật
của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi.
Xét về các học thuyết chính trị, pháp quyền, người ta ghi nhận rằng, vào thế
kỷ thứ XXIV trước Công nguyên, vua Symer đã sử dụng khái niệm “tự do” để bảo
vệ những bà goá, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ giàu có
và thế lực trong xã hội; còn nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La mã là Arokhont
Salon, ngay từ thế kỉ XI trước Công nguyên đã ban bố một đạo luật trong đó xác
định một số khía cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự
do trong mối quan hệ với các quan lại nhà nước. Người ta cũng chỉ ghi nhận rằng,
trong thời kỳ diễn ra sự tàn bạo khủng hiếp của chế độ nô lệ ở La Mã cổ đại :
SV: Đặng Huyền Trang 9 Lớp: K60B-QH-2015-L
“Trước Crêông, Antigone đã nói đến quyền không vâng lời và trước những nô lệ,
Spartacusse đã nói về quyền chống lại áp bức”.Cũng trong thời kỳ này, Protagoras
(490-420 TCN) và các nhà triểu học thuộc trường phái nguỵ biện Sophism đã đưa ra
quan niệm về sự bình đẳng và tự do giữa các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo
ra mọi người đều là người tự do, không ai tự nhiên biến thành nô lệ cả “.
Trong thời kỳ Trung cổ ở Châu Âu, tự do của con người bị hạn chế một cách
khắc nghiệt bởi sự cấu kết cai trị giữa vương quyền của chế độ phong kiến và thần
quyền của nhà thời Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh đen tối đó vẫn xuất
hiện những tư tưởng khai sáng về quyền con người mà dẫn đến việc ban hành các
văn kiện pháp lý nổi tiếng nhất của nhân loại về lĩnh vực này. Điển hình trong số đó
là Hiến chương magna Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215. Hiến
chương đã khẳng định một số quyền con người, cụ thể như: quyề nsở hữu , thừa kế
tài sản; quyền tự do buôn bán và không bị đánh thuế quá mức; quyền của các phụ
nữ goá chồng được quyết định tái hôn hay không; quyền được xét xử đúng đắn và
được bình đẳng trước pháp luật….Quan trọng hơn, bản hiến chương này được coi là
một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân loại đề cập cụ thể đến việc tiết
chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân, mà biểu hiện cụ thể
ở hai quy phạmv ẫn còn có giá trị đến tận ngày nay, đó là quy phạm về lệnh đình
quyền giam giữ ( hay còn gọi là luật bảo thân- habeas corpus) trong đó bắt buộc mọi
trường hợp tử hình đều phải qua xét xử và quyết định trước Toà và quy phạm về
due process of law ( luật tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)…
Thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu là giai đoạn phát triển rực rỡ của các quan
điểm, học thuyết về quyền con người. Tại đây, trong các thế kỷ XVII-XVIII, nhiều
nhà triết học mà tiêu biểu là Thomas Hobbes( 1588-1679), John Locke (1632 -
1704), Thomas Paine (1731-1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831);
John Stuart Mill (1806-1873), Henry David Thoreau (1817-1862)… đã đưa ra
những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là
về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý , mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc
bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thời đại ngày nay.
Tuy nhiên, trước hết, những tư tưởng triết học về quyền con người ở Châu Âu
thời kỳ Phục Hưng đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản
pháp luật về quyền con người ở một số nước của châu lục này, cũng như đến hai
cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào cuối những năm 1700 ở Mỹ và Pháp.
Hai cuộc cách mạng này đã có những đong góp rất to lớn vào sự phát triển của tư
tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở hai nước Mỹ và Pháp
mà còn trên toàn thế giới. Trong cuộc cách mạng thứ nhất, năm 1776, mười ba
SV: Đặng Huyền Trang 10 Lớp: K60B-QH-2015-L
thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh thông qua một văn bản có
tên là Tuyên ngôn độc lập , trong đó khẳng định rằng : “… mọi người sinh ra đều
bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong
những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “.
Mặc dù không phải văn kiện pháp lý đầu tiên trên thế giới đề cập đến vấn đề này,
tuy nhiên, Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự xác nhận chính
thức đầu tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người. Đánh giá về văn kiện
này, Các Mác đã cho rằng, nước Mỹ là nơi lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về nền
cộng hoà dân chủ vĩ đại, nơi đã tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền con
người.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789, nhân dân Pháp, mà chủ yếu là
thợ thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ phong kiến, thành
lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân
quyền nổi tiếng của Pháp. Điều 1 bản Tuyên ngôn này khẳng định : “ Người ta sinh
ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền …”.Đặc biệt, không dừng lại ở những
nguyên tắc, ý tưởng như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn về
nhân quyền và dân quyền 1789 đã xác định một loạt các quyền cơ bản của con
người như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở hữu, được bảo đảm an ninh và chống
áp bức , quyền bình đẳgn trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền
được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước…,
đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các quyền
này . Nhưng đáng chú ý hơn là, chỉ trong vòng 35 năm ( từ 1795 đến 1830), hơn
bản Hiến pháp mang dấu ấn của những luận điểm trong bản Tuyên ngôn về nhân
quyền và dân quyền 1789 đã được thông qua ở Châu Âu. Điều đó chứng tỏ những
tư tưởng về quyền con người đã thẩm thấu một cách nhanh chóng và gây ra những
biến động xã hội rất to lớn ở châu lục này. Nó cũng chứng tỏ rằng, giai cấp tư sản
đã nhận thấy, nắm lấy và tận dụng triệt để quyền con người như là một phương tiện
hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến.
Tuy nhiên, quyền con người chỉ thực sự nổi lên như một vấn đề ở tầm quốc tế
từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ nô
lệ và buôn bán nô lệ diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận cuối thế kỷ đó và phong
trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người lao động và bảo vệ nạn nhân
trong các cuộc xung đột vũ trang thế thới. Vào năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc
tế đầu tiên họp ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) đã thông qua Công ước về cải thiện điều kiện
của người bị thương trong các cuộc chiến trên trên bộ ( Công ước Giơnevơ thứ I).
SV: Đặng Huyền Trang 11 Lớp: K60B-QH-2015-L
Năm 1899, Hội nghị hoà bình quốc tế họp ở La hay (Hà Lan) đã thông qua Công
ước về các luật lệ và tập quán trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của
luật nhân đạo quốc tế- ngành luạt mà tuy chỉ giới hạn trong việc bảo vệ những nạn
nhân chiến tranh trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, nhưng chứa đựng những giá trị
và quy phạm có quan hệ chặt chẽ với luật quốc tế về quỳên con người ở giao đoạn
sau này.
Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với việc thành lập Hội quốc liên và
Tổ chức Lao động quốc tế, quyền con người càng trở thành một vấn đề có tầm quốc
tế rộng lớn. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và các hoạt động về quyền con
người lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc tế, trong Điều lệ của mình, đã
khẳng định, hoà bình trên thế giới chỉ có thể được thực hiện nếu được dựa trên cơ
sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong Thoả ước của Hội quốc
liên, các nước thành viên tuyên bố chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công
bằng và các điều kiện nhan đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em cũng
như bảo đảm sự đối xử xứng đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ.
Cũng trong thời kỳnày, một loạt văn kiện khác của luật nhân đạo quốc tế đã được
thuông qua trong hội nghị La Hay, tại các Hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế
(ICRC) và Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm rộng rãi hơn với các quyền con
người trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột vũ trang. Cũng trong thời kỳ này,
cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở nước Nga vào tháng 10 năm
1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị quốc tế, đồng thời tạo ra những
biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn về quyền con người. Cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ
1940 đến 1980 của thế kỷ trước, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được đề cao, và
đặc biệt, các quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc được cổ vũ. Đây là những
quyền con người mà trước đó đã không hoặc rất ít được đề cập trên các diễn đàn
quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, việc Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến
chương (24/10/1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (
10/12/1948) và hai công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã
hội, văn hoá ( năm 1966) đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền
con người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hoá quyền con người- nền
văn hoá mới và chung của mọi dân tộc- trên trái đất. Mặc dù ngay sau khi Liên Hợp
quốc được thành lập cho đến cuối thập kỷ 1970, cuộc Chiến tranh Lạnh trên thế giới
phần nào ảnh hưởng đến những nỗ lực quốc tế trên lĩnh vực này, song cho đến ngày
nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người đã được thông
SV: Đặng Huyền Trang 12 Lớp: K60B-QH-2015-L
qua , một cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được hình
thành, biến quyền con người thành một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan
hệ quốc tế.
Hội nghị thế giới về quyền con người năm 1993 đánh dấu một bước ngoặt
trong những nỗ lực thúc đẩy các quyền con người trên thế giới sau những trì trệ ở
thời kỳ “ Chiến tranh Lạnh”. Hội nghị đã khẳng định mối liên hệ không thể tách rời
giữa dân chủ, phát triển và quyền con người cũng như giữa các quyền con người về
dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá. Hội nghị đã thiết lập “một khuôn khổ
mới cho việc đối thoại, hợp tác và phối hợp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực
quyền con người” mà cho phép thúc đẩu một cách thực sự hiệu quả các quyền con
người ở tất cả các cấp độ địa phương, quốc gia khu vực và quốc tế. Tại hội nghị
này, các đại biểu đã nhất trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo Chương trình hành
động chung về quyền con người, với các mục tiêu rất cụ thể, trong đó đưa ra những
biện pháp mới mang tính lịch sử để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ, trẻ
em, người bản địa và để tăng cường năng lực của hệ thống Liên hợp quốc trong việc
giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên thế giới…
Cùng với Hội nghị Viên, những phát triển gần đây trên lĩnh vực quyền con
người bao gồm việc thành lập các toà án hình sự quốc tế lâm thời và thường trực để
xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lược
và việc thành lập Hội Đồng Liên Hợp quốc về quyền con người (năm 2006, thay thế
cho Uỷ ban của Liên hợp quốc về quyền con người trước đó) đã làm cho cuộc đấu
tranh vì quyền con người thực sự phát triển trên phạm vi toàn cầu với một cơ sở
pháp lý vững chắc, được mở rộng không ngừng cả về nội dụng và mức độ bảo đảm.
Song song và làm nền tảng cho tiến trình phát triển đó, dòng tư tưởng, lý thuyết về
quyền con người cũng ngày càng được củng cố và phát triển, đi sâu làm rõ những
khía cạnh thực tiễn của quyền con người, biến quyền con người trở thành một trong
những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường
xuyên và nồng nhiệt nhất trong đời sống hiện nay của nhân loại.
Dưới đây là một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về
quyền con người của nhân loại từ trước tới nay.
Sự kiện, văn kiện theo dòng lịch sử
1789 TCN: Bộ luật Hammurabi
1200 TCN: Kinh Vệ đà
570 TCN: Luật của Cyrus Đại Đế
586-456 TCN: Kinh Phật
479-421 TCN: “ Luận ngữ” của Khổng tử
SV: Đặng Huyền Trang 13 Lớp: K60B-QH-2015-L
7-1 TCN: Kinh Thánh
610-612: Kinh Kôran
1215: Đại hiến chương Magna Carta( Anh)
1689: Luật về Quyền (Anh); “ Hai khảo luận về chính quyền “ của John
Locke
1776: “ Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ)
1789: “Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp)
Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ)
1791: “Các quyền của con người” của Thomas Pain
1859: “Bàn về tự do” của John Stuart Mill
1863-1864: Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ
lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế
1917: Cách mạng tháng mười Nga
1919: Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập
1945: Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc
1948: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
1966: Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hoá
1968: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Tê hêran (Iran)
1993: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên( Áo), thông
qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động
2002: Quy chế Rôma có hiệu lực, Toà án hình sự quốc tế ( thường trực) được
thành lập.
2006: Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Uỷ ban
quyền con người bằng Hội đồng quyền con người
1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn
1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo
a) Định nghĩa
Trong tiếng Anh: tôn giáo là religion - xuất phát từ tiếng Latinh religio mang
nghĩa "tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa
con người với thần linh") - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để
giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn
vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là
niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo
lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn
giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục.[13]
Trần tục là những gì
SV: Đặng Huyền Trang 14 Lớp: K60B-QH-2015-L
bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần
thánh. Đứng trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính,
sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo.
Tôn giáo hay đạo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa của các
hành vi và thực hành được chỉ định, quan niệm về thế giới, các kinh sách, địa điểm
linh thiêng, lời tiên tri, đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố
siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh.
Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều
nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
 Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa
tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến
những câu hỏi căn bản về đặc tính con người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần
thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả
những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần,
những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không
có chứng cớ.
 Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa
tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát
một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh.
Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản
thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này
không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
 Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất",
định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì
chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật
chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống
không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những
chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo",
nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai
cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những
người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng
tự nhiên một cách căn bản.
 Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo
là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất
cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí trái ngược
SV: Đặng Huyền Trang 15 Lớp: K60B-QH-2015-L
với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc
tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh.
b) Lịch sử tôn giáo
Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về
cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với
người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn
giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo.[14]
Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ
biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận
thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây
cối...cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi
phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên
đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư (shaman) có thể
được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải
chiếm toàn bộ thời gian của người đó.
Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là
nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo
đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi
phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem
là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập.
Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội
vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung
đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ
giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất
phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của
mình đến những vùng khác...
Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã
khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị
tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn
giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sĩ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy
vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát
triển.
c) Các tôn giáo lớn
 Kitô giáo: với ba nhánh lớn là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông
phương và Tin Lành, là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng
2,1 tỷ tín đồ, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên
thế giới. Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo ở Trung Đông và do Giê-su sáng
SV: Đặng Huyền Trang 16 Lớp: K60B-QH-2015-L
lập. Kitô giáo theo thuyết độc thần thể hiện ở quan điểm về Chúa Ba Ngôi: Đức
Chúa Cha - Đấng Tạo hóa; Đức Chúa Con (Jesus Christ) - Đấng Chuộc tội và Đức
Chúa Thánh Thần - Đấng Thánh hoá. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng
đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín
đồ Kitô giáo và theo niềm tin của tín đồ Kitô giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về
việc Jesus là Con Thiên Chúa, Jesus được phái đến để giải phóng con người khỏi
ách quỷ Satan. Con người không chỉ là tôi tớ của Chúa, kẻ được cứu rỗi, mà còn là
con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc
sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh
hằng. Từ khi ra đời và trong giai đoạn đầu, Kitô giáo bị ngược đãi, đàn áp nhưng
dần dần đã được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Đây là một trong những tôn giáo
lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn
minh phương Tây.
 Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới, với
khoảng 1,5 tỷ tín đồ, chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở
khắp nơi trên Trái Đất. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII, do Muhammad sáng
lập. Muhammad là Đấng Tiên tri chứ không phải là thần thánh như Giê-su đối với
người Kitô giáo, ông là Đấng tiên tri cuối cùng sau các Đấng tiên tri trước đó
là Adam, Abraham, Moses và Jesus Christ. Vai trò của Muhammad là ghi lại lời của
Thượng đế và kinh Koran được các tín đồ coi là lời răn của Đấng Chí Tôn. Cũng
giống Kitô giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi
người có trách nhiệm giải thích trước Thượng đế về những việc làm của mình trên
trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ
đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi
giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến.[18]
 Ấn Độ giáo: được coi là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế
giới,[19]
bắt nguồn từ Ấn Độ khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô
giáo và Hồi giáo, Ấn Độ giáo không liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay
nói cách khác, không có người sáng lập. Qua hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã
hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức
người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo khó
truyền bá đến các xã hội khác. Thế nhưng đến nay, Ấn Độ giáo vẫn có khoảng 900
triệu tín đồ chủ yếu ở Ấn Độ, Pakistan và ở nhiều nơi khác trên thế giới với số
lượng ít. Trong Ấn Độ giáo, công lý sau cùng không phải thuộc về vị thần tối cao
mà thông qua chu kỳ tái sinh theo luật nhân quả. Mọi hành động của con người đều
dẫn đến kết quả tinh thần trực tiếp, đó chính là nghiệp chướng (karma), đời sống
SV: Đặng Huyền Trang 17 Lớp: K60B-QH-2015-L
chính đáng khiến cho tinh thần được hoàn thiện, ngược lại sẽ làm cho tinh thần suy
đồi. Trạng thái cực lạc (nirvana) là sự hoàn thiện tinh thần, trong đó linh hồn được
sẵn sàng cho việc tái sinh một cách hoàn hảo.
 Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm
trước Công nguyên. Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ
giáo nhưng gắn với cuộc đời của người sáng lập - Đức Phật Thích Ca (Siddartha
Gautama). Phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới, hiện có khoảng 365 triệu tín đồ
chính thức (đã làm lễ Quy y Tam bảo), và nếu tính cả số tín đồ không chính thức
(chưa làm lễ Quy y nhưng có niềm tin vào Phật pháp) thì có thể lên tới 1,2-1,6 tỷ
(phần lớn người Đông Á thuộc bộ phận không chính thức này)(cần dẫn
nguồn). Phật giáo chủ yếu tập trung ở Châu Á và đang lan truyền khắp thế giới. Sau
nhiều năm chu du và thiền định, Siddartha Gautama đạt đến trạng thái giác
ngộ (bodhi), Ngài trở thành Phật, hiểu được bản chất của đời sống và biết con
đường dẫn đến hạnh phúc thực sự. Tương tự như Ấn Độ giáo, Phật giáo cho rằng có
kiếp luân hồi, nhân quả, mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả sẽ nhận
được: hoặc là thiện (dẫn đến sự hoàn thiện tinh thần, sẽ nhận được quả thiện) hoặc
là ác (dẫn đến sự suy đồi tinh thần,sẽ nhận được quả ác) nhưng khác nhau về bản
chất. Cốt lõi là thoát khỏi hoàn toàn sinh tử, khổ đau, không còn bị tác động
bởi nghiệp. Vũ trụ có trật tự mà không có vị thần tối cao thực hiện công lý cuối
cùng (hay nói cách khác toàn thể Vũ trụ đều là Chân như của Phật tính - Pháp thân
của Phật khắp mọi nơi. Mọi sự tồn tại của con người đều có khổ đau và muốn đạt
đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất -
hưởng dục, làm giảm các ham muốn về vật chất hay thể xác. Phật giáo cũng là tôn
giáo đầu tiên đưa ra hệ thống phẩm cấp tu hành.
1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng
quyền con người
Khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội độc lập với các hình thái
ý thức khác, chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn
mực, lý tưởng đạo đức...) thể hiện trong giáo lý tôn giáo.
Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm
điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên
bố về giá trị tối cao của 'các lực lượng siêu nhiên (Thượng đế, Chúa trời, Thần
thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo
đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo
thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như
sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều
SV: Đặng Huyền Trang 18 Lớp: K60B-QH-2015-L
ác... Trong Khoa học và tôn giáo, Bertrand Russeli cho rằng, một tôn giáo lớn bao
giờ cũng có hệ thống tín điều, hệ thống đạo đức và giáo hội. Người theo tôn giáo
không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo những khuôn phép đạo đức
hợp với tín điều của tôn giáo mình, hành động không phải chỉ là thực hành một số
hình thức nghi lễ, mà còn phải sống theo những quy tắc đạo đức nhất định. Vì vậy,
đương nhiên, một số nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội dung
của tôn giáo.
Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng
của người lao động. C.Mác đã khẳng định: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu
hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện
thực ấy". Con người bất lực, không kiếm tìm được hạnh phúc nơi trần thế và đành
phải tìm hạnh phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin ở sự cứu
vớt, giải thóat của các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo,
đặc biệt là lịch sử Thiên chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo
này là phản ứng chống lại sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như
vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là khát vọng của quần chúng phản kháng lại sự phân
chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại. Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu
thương giữa con người với con người, Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả,
vô ngã, vị tha. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nêu lên những nét tích cực của nhiều
tôn giáo khác, khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu thương giữa người
với người, hướng con người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức và xa lánh
những điều ác.
- Kito giáo: Kinh Thánh và thần học Kitô giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến
các nhà triết học phương Tây và các nhà hoạt động chính trị. Các giáo lý của Chúa
Giêsu, chẳng hạn như Dụ ngôn Người Samari nhân lành, là một trong những ví dụ
quan trọng cho các quan niệm hiện đại về Nhân quyền và các biện pháp phúc lợi
thường được cung cấp bởi các chính phủ ở phương Tây. Giáo lý Kitô giáo được có
ảnh hưởng lâu dài về xu hướng tình dục, hôn nhân và cuộc sống gia đình. Kitô giáo
đóng một vai trò trong việc chống lại những hành vi lạc hậu như sự hy sinh của con
người, chế độ nô lệ, tội giết trẻ con và Đa phu thê. Kitô giáo nói chung ảnh hưởng
đến tình trạng của phụ nữ bằng cách lên án ngoại tình hôn nhân, ly hôn, loạn
luân, Đa phu thê, kiểm soát sinh sản, tội giết trẻ con (trẻ sơ sinh nữ có nhiều khả
năng bị giết), và phá thai. Trong khi giáo huấn chính thức của Giáo hội coi phụ nữ
và nam giới là sự bổ sung cho nhau (bình đẳng và khác biệt), một số người ủng hộ
"phong trào phụ nữ và nữ quyền khác" hiện đại cho rằng giáo lý do Thánh Phao
Lô và những người Cha của Giáo hội và Chủ nghĩa Kinh viện nâng cao ý niệm về
sự trinh tiết của nữ tu được phong chức thiêng liêng. Tuy nhiên, phụ nữ đã đóng vai
SV: Đặng Huyền Trang 19 Lớp: K60B-QH-2015-L
trò nổi bật trong lịch sử phương Tây như là một phần của nhà thờ, đặc biệt là trong
giáo dục và chăm sóc sức khỏe.
- Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những
quan niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố
tín ngưỡng cổ của người Ả rập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế
Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào
ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh
Qur'an và luật Sariat.
Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114
chương (Surah) với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo,
kinh Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ
Mohammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632).
Thực ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại
thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền
cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất,
thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người.
Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà
nó còn có ý nghĩa về tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở,
hôn nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán,
tài chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất
của Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và
chính trị.
Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà
kinh Qur'an không quy định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những
việc làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn
giáo và đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ
hai của tín ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat.
Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt
kê mười điều tương tự:
1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah).
2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
3. Tôn trọng quyền của người khác.
4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*).
6. Cấm ngoại tình.
7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
8. Hãy cư xử công bằng với mọi người.
9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
SV: Đặng Huyền Trang 20 Lớp: K60B-QH-2015-L
10. Hãy khiêm tốn
- Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và
trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng
biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ. Điều này giải thích nguyên mẫu
xã hội Ấn Độ và nó bao gồm cái gọi là đẳng cấp. Có bốn đẳng cấp chính, ghi trong
các tác phẩm Ấn Giáo: (1) nhóm trí thức – thầy tu, (2) tầng lớp quý tộc, kể cả quân
nhân, (3) nhóm hành chính gồm có những nhà buôn và địa chủ; và (4) số lớn dân
chúng làm những việc thông thường trong xã hội. Giai cấp gọi là “tiện dân” hay
“người bị ruồng bỏ” (mới đây bị hủy bỏ do luật của Ấn Độ) gồm có những người có
nguồn gốc thuộc những phân nhóm khác của giai cấp thứ tư, quần chúng nhân dân.
Do những điều kiện xã hội và kinh tế khác nhau, họ “mất đẳng cấp”, hay mất vị trí
trong xã hội.
Một phần lớn giáo lý Ấn Độ Giáo đề cập đến khái niệm bổn phận luân lý. Vì
người Ấn Độ Giáo nhấn mạnh đến sự đồng nhất của tất cả cuộc sống, họ tin một
người quan trọng đối với tất cả những người khác. Điều này có nghĩa là mỗi người
phải học hỏi để vượt qua quyền lợi vị kỷ của mình. Khi quyết định phải làm gì, hầu
hết mọi người muốn nói, “Tôi sẽ có lợi gì từ việc này?” Người Ấn Độ Giáo nói
chúng ta tìm hạnh phúc lâu dài khi chúng ta làm một việc vì đối với chúng ta trong
hoàn cảnh của chúng ta đó là điều chính đáng không quan tâm đến lợi lộc mà ta
nhận được.
- Hầu hết giáo lí Phật giáo đều nhằm mục đích giáo dục con người để có thái
độ sống, hành vi ứng xử và cách thích nghi với hoàn cảnh sống, bao hàm những giá
trị sống và kĩ năng sống không ngoài mục đích giúp con người “li khổ đắc lạc” (xa
lìa khổ đau, đạt được niềm vui an lạc). Mục đích Phật giáo là “đào luyện con người
thành bi, trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động
sáng suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí
thì sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và
mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách
tiến hóa, trí là tri thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như thế là con
người mới, căn bản của xã hội mới. Đặc điểm của Phật giáo là “kiến thiết một xã
hội mới” mà căn bản là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, là
phải chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa
là cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả
được cái “quả mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối bình
đẳng như sự sống: Bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.”
SV: Đặng Huyền Trang 21 Lớp: K60B-QH-2015-L
CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN
CON NGƯỜI CỤ THỂ
2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người
2.1.1 Nhân sinh quan
Nhân sinh quan là toàn bộ những quan điểm chung nhất về cuộc sống của con
người, nhân sinh quan đề ra và giải đáp những vấn đề như con người sinh ra để làm
gì? Lẽ sống của con người là gì? Sống như thế nào cho xứng đáng với con người?
Nhân sinh quan nói lên quan niệm của con người về bản chất, mục đích của cuộc
sống, về thái độ và hành vi của con người trong cuộc sống.
Nhân sinh quan có tính giai cấp, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có nhân
sinh quan riêng, nhân sinh quan của giai cấp bóc lột nói lên nguyện vọng muốn bóc
lột được thật nhiều sức lao động của kẻ khác, nhân sinh quan 26 của giai cấp bị bóc
lột nói lên nguyện vọng, mong muốn phản kháng giai cấp bóc lột để giành quyền
sống; đó là bởi lẽ nhân sinh quan là một bộ phận của ý thức tư tưởng. Cũng như mọi
ý thức tư tưởng khác, nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội, nghĩa là phản ánh địa
vị giai cấp của con người trong sản xuất xã hội. Trong xã hội có các giai cấp khác
nhau, địa vị khác nhau, trong hệ thống sản xuất xã hội có quan hệ khác nhau về tư
liệu sản xuất, có vai trò khác nhau trong tính chất lao động xã hội, có thu nhập và
phương thức hưởng thụ khác nhau. Nghĩa là địa vị xã hội và lợi ích khác nhau, nhân
sinh quan phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất là khác nhau, mang tính giai
cấp. Chỉ trong xã hội cộng sản, khi không còn giai cấp, khi mà mọi người có địa vị
và lợi ích như nhau trong sản xuất xã hội thì mới có một nhân sinh quan không có
tính giai cấp.
Nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với con người. Trong cuộc sống, con
người luôn suy nghĩ về cuộc sống của chính mình và không lúc nào ngừng hoạt
động để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhân sinh quan là toàn bộ những kinh
nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống, cho nên nó cũng là những tư
tưởng chỉ đạo suy nghĩ và hành động của con người, là nguồn với tư cách là hình
thái ý thức, tư tưởng, trong mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng người và thậm chí trong
mỗi người đều tồn tại những kiểu nhân sinh quan khác nhau tương xứng với các
hình thái ý thức xã hội khác nhau. Như vậy thì, không chỉ có nhân sinh quan nói
chung mà còn có nhân sinh quan cụ thể của từng hình thái ý thức, tư tưởng của con
người như nhân sinh quan huyền thoại, nhân sinh quan triết học, nhân sinh quan tôn
giáo.
SV: Đặng Huyền Trang 22 Lớp: K60B-QH-2015-L
Nhân sinh quan tôn giáo được đặt trong mối quan hệ với thế giới quan tôn
giáo, nhân sinh quan tôn giáo được hiểu là toàn bộ những quan niệm chung nhất của
tôn giáo về cuộc sống của con người nhằm giải đáp cho con người những vấn đề về
lẽ sống và định hướng niềm tin vào sự giải thoát.
Kito giáo: Xem con người như một nhân vị là một đặc thù của Kitô giáo. Điều
này diễn tả tính siêu việt của con người như một hữu thể thiêng liêng.
“Tôn trọng “tư cách pháp nhân” của con người có thể là một trong những lý
tưởng quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngày hôm nay, câu hỏi về tư cách
pháp nhân cũng như nhân vị được đề cập một cách rộng rãi, như một lý tưởng tối
thượng. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng ý niệm này hoàn toàn gắn liền với thần học
về mặt lịch sử cũng như về phương cách hiện hữu của nó”.
Đối với Kitô giáo, nhân vị là một hữu thể con người trong bản thể phổ quát và
trong những gì làm nên tính chất đặc thù và duy nhất của từng người.
Kitô giáo tuyệt đối hóa ý niệm nhân vị. Mỗi con người hiện hữu trong vai trò
của mình trước mặt Thiên Chúa và đối với tha nhân. Là một nhân vị khi ta được
người khác nhìn nhận ta chính trong lúc ta nhìn nhận người khác. Vì thế, một nhân vị
được xác định trong tương quan với Thiên Chúa và với người khác Kitô giáo không
duy tâm, chẳng duy linh, càng không duy vật. Kitô giáo là sự kết hợp hài hòa giữa
hồn và xác, giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với
nhau cũng như giữa con người với vạn vật trong vũ trũ. Nói một cách khác, nhân học
Kitô giáo tức là con người sống, nhập thể, sống trọn kiếp người như Đức Kitô trong
môi trường của mình.
Ấn độ giáo: Ấn Độ giáo xem con người như thần thánh. Bởi vì Brahma là tất cả
mọi vật, Ấn Độ giáo khẳng định rằng tất cả mọi người là thần thánh. Linh hồn của
con người (Atman), hay bản chất của nó, là một với Brahman. Mọi thực tại bên ngoài
của Brahman được xem chỉ là ảo tưởng. Mục đích thiêng liêng của một người Hindu
là trở thành một Brahma, do đó việc không còn sống nữa để tồn tại ở dạng huyền ảo
của "tự thân riêng lẻ". Sự tự do này được gọi là “moksha” ("sự giải thoát"). Cho đến
khi “moksha” được thực hiện, người Hindu tin rằng anh ấy / cô ấy sẽ được liên tục
đầu thai để cho anh ấy / cô ấy có thể hoạt động theo hướng tự thực hành chân lý (sự
thật là chỉ có Brahman tồn tại, không có gì khác). Làm thế nào một người được tái
sinh được xác định bởi nghiệp báo, mà nó là một nguyên lý nhân quả (principle
cause and effect) bị chi phối (governed) bởi sự cân bằng của tự nhiên. Những gì
người ta đã làm trong quá khứ ảnh hưởng và tương ứng với những gì sẽ xảy ra trong
tương lai, bao gồm cuộc đời quá khứ và tương lai.
Phật giáo: Phật giáo quan niệm con người là trung tâm điểm của xã hội loài
SV: Đặng Huyền Trang 23 Lớp: K60B-QH-2015-L
người. Phật giáo không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do người phát
sinh và đều phát sinh vì người. Trong thế giới loài người này không có gì tự nhiên
sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo
thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui,
thoái hóa hay tiến hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể
của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai. Cho nên
muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người.
Tâm bệnh con người nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm
bệnh con người được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con
người, kết quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc.
2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo
- KiTo giáo: Giáo hội Công giáo đã đóng góp cho xã hội thông qua học thuyết
xã hội đã hướng dẫn các nhà lãnh đạo thúc đẩy công bằng xã hội và y tế cho người
bệnh và người nghèo. Trong các bài giảng như Bài giảng trên núi và những câu
chuyện như Người Samari tốt bụng, Chúa Giêsu kêu gọi những người tin Chúa thờ
phượng Thiên Chúa, hành động mà không có bạo lực hoặc định kiến và chăm sóc
người ốm, đói và nghèo. Giáo lý đó là nền tảng của sự tham gia của Giáo hội Công
giáo vào công bằng xã hội, y tế và chăm sóc sức khỏe.
Trong lịch sử phát triển nhân loại dưới sự lãnh đạo của Giáo hội ở nhiều loại
khoa học, đặc biệt là thiên văn học, toán học, từ nguyên học, triết học, hùng biện, y
học, giải phẫu, và vật lý, đặc biệt là Alorstaiwih (tức là ngành khoa học do Aristotle
thành lập), cơ học, đặc biệt là các công cụ chiến tranh, cùng với kiến trúc, hóa học,
địa lý, triết học và khoa học thực vật và động vật.
Trong tương quan đối với nhà cầm quyền, Bộ Truyền giáo căn dặn: “Nếu
được vua chúa có cảm tình và rộng lượng, chư huynh hãy tỏ lòng biết ơn. Để tránh
mọi ganh tị có thể xảy ra, chư huynh đừng xin đặc ân, miễn trừ đối với luật lệ trong
nước… Hãy tránh tất cả những hành động có liên can đến chính trị, kể cả những
hành động có thể khiến người ta nghi ngờ chư huynh dính líu vào chính trị. Hãy rao
giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với Nhà nước, dù các nhà cầm quyền là
những người không cùng tín ngưỡng”.
Dĩ nhiên, theo thần học luân lý, khi công quyền không còn phục vụ công thiện
công ích hay vượt quá quyền hạn của mình để đàn áp người dân, lúc đó các công
dân được phép sử dụng những biện pháp cần thiết để bênh vực công lý và nhân
quyền. Tuy nhiên khi nhà cầm quyền phục vụ công ích thì họ có thẩm quyền đòi hỏi
người dân phải tuân thủ pháp luật và lương tâm cũng đòi buộc các công dân phải
chấp hành pháp luật. Theo Công đồng Vatican II, “cộng đồng chính trị và Giáo hội,
SV: Đặng Huyền Trang 24 Lớp: K60B-QH-2015-L
mỗi bên trong lãnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dù dưới
danh nghĩa khác nhau, cả hai đều cùng phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của con
người. Việc phục vụ đó sẽ hữu hiệu hơn cho thiện ích của nhân loại, nếu cả hai duy
trì đuợc sự cộng tác tốt đẹp với nhau, thích ứng với từng thời điểm và từng địa
phương”.
- Hồi giáo: Khác với các tôn giáo thế giới khác, các cộng đồng Islam giáo
trên thế giới không chỉ là những cộng đồng tôn giáo thuần tuý mà còn là những
cộng đồng mang tính chất chính trị - xã hội. Trong các xã hội Islam giáo không có
sự phân biệt rạch ròi giữa tôn giáo với chính trị và luật pháp. Kinh Koran, sách
Hadith (sách ghi chép những truyền thuyết về nhà Tiên tri Mohammed), luật
Shariah (luật Islam giáo) không chỉ được thực thi trong đời sống tôn giáo mà còn
được áp dụng trong cả đời sống xã hội ở các nước lấy Islam giáo làm quốc giáo.
Điều này có nguồn gốc lịch sử ngay từ lúc tôn giáo này mới ra đời. Ngay từ khi còn
đang phát triển cộng đồng tín đồ Islam giáo của mình tại Medina, nhà Tiên tri
Mohammed không chỉ đóng vai trò một thủ lĩnh tôn giáo mà còn là một thủ lĩnh
chính trị và một nhà lập pháp. Kinh Koran đã cung cấp một bộ khung luật pháp cho
việc tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước và xác lập nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi của các “công dân” tín đồ trong một xã hội Islam giáo. Từ đây, một mô
hình tổng quát về nhà nước chính trị được xác lập theo ý đồ của Đức Allah. Trong
suốt quá trình lịch sử phát triển của Islam giáo, Kinh Koran, sách Hadith, luật
Shariah luôn được các học giả và giới chức Islam giáo diễn giải cho phù hợp với
điều kiện xã hội mà họ đang sống.
- Ấn độ giáo: Sau khi giành được độc lập vào năm 1947 và từ khi bản Hiến
pháp ra đời, Ấn Độ bãi bỏ và nghiêm cấm phân biệt đối xử giữa các giai tầng xã
hội. Nhưng trên thực tế, thay vì mất dần theo thời gian, tình trạng bạo lực vẫn tồn
tại và thậm chí còn tăng lên trong những năm gần đây, đặc biệt là nhằm vào tầng
lớp "tiện dân", khi tầng lớp này cố thoát khỏi "số phận đã an bài" cho họ. Trước
đây, xã hội truyền thống Ấn Độ bị phân hóa thành bốn tầng lớp (varna) theo hệ
thống Bà-la-môn giáo (brāhmana) gồm : nhà sư (Brahmane), chiến binh
(Kshatriya), thương gia (Vaishya) và người làm việc tay chân hay gia nhân
(Shudra). Ngoài ra, còn phải kể tới lớp người "tiện dân" (Dalit), chiếm 16% dân số,
không được xếp vào hệ thống này và bị coi là giai cấp cặn đáy của xã hội, là những
người ô uế. Họ không có quyền sống, ăn uống hay cầu nguyện với những người
khác. Thực trạng đáng thương của những “tiện dân” Ấn Độ không hề thay đổi và Tổ
chức Giám sát Nhân quyền Quốc tế (Human Right Watch) đã chất vấn chính phủ
Ấn Độ về vấn đề này. Ngày 25/08/2014, tổ chức nhân quyền đã công bố một bản
SV: Đặng Huyền Trang 25 Lớp: K60B-QH-2015-L
báo cáo về tình trạng phân biệt đối xử vô cùng khắc nghiệt và điều kiện sống không
thể chấp nhận được của lớp người bị coi là “cặn bã” của xã hội. Cho tới nay, những
phụ nữ “tiện dân” vẫn chỉ được thuê để dọn phân tại các nhà vệ sinh (lạc hậu, không
có nước) để kiếm sống, bất chấp các đạo luật đã được ban hành nhằm chấm dứt
cách đối xử miệt thị này.
- Phật giáo: Đức Phật nói rằng: Người cai trị dân phải có lòng nhân ái thương
dân, giúp đỡ những người nghèo khó, ban thưởng xứng đáng cho chúng quan lại
biết phục vụ nhân dân, các quan phải thực hành hạnh cần, kiệm, liêm, chính, sống
đời đạm bạc, không phung phí ngân quỹ quốc gia, phải thực hành hạnh bình đẳng,
xem dân như mình, cùng tuân thủ pháp luật. Tư tưởng Phật giáo về một xã hội lí
tưởng, chính là một xã hội trong đó sự bình đẳng, dân chủ và quyền con người được
tôn trọng, tiến bộ đạo đức và tâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm
đến đời sống đạo đức. Đó là một xã hội giúp đỡ cho người thiếu thốn, làm mạnh mẽ
những người yếu thế, đem hoà hợp lại cho những người không hoà hợp, mang hạnh
phúc và ánh sáng lại cho những người đau khổ và tăm tối. Những điều Đức Phật
dạy là hướng đến sự lợi lạc thiết thực cho hết thảy mọi chúng sinh. Mối quan tâm
chính của Ngài là xoá bỏ bệnh tật và đau khổ của con người, mang lại từ bi cho
mình và cho người. Ngài dạy cho mọi người sự tịnh hoá tư tưởng, dạy cách diệt trừ
đau khổ và buồn phiền, cách vượt qua sầu muộn, cách đạt đến con đường chứng
ngộ Niết bàn. Do vậy Ngài được mô tả là một người xuất hiện trên thế gian vì phúc
lợi, an lạc và hạnh phúc cho nhiều người, vì lòng từ bi đối với thế gian, vì điều tốt
đẹp và lợi ích cho loài người. Đây là một xã hội trong đó tất cả mọi công dân đều
sống đời chân chính và có trách nhiệm cao, trong khi người lãnh đạo hay quản lí xã
hội nên xây dựng một nền kinh tế vững vàng, nền giáo dục đúng tiêu chuẩn, công
bằng để cho người dân tin cậy, tự tin, nỗ lực, siêng năng, lương thiện, đạo đức, cao
thượng và khoan dung. Còn về môi trường sống, người dân có được sự kết giao tốt
với các đoàn thể, có đời sống quân bình, giữ được quan hệ tốt đẹp với người khác
và đóng góp vào sự an lạc, hạnh phúc của xã hội. Những người lãnh đạo và quần
chúng nên dùng những phương tiện tốt để đạt hạnh phúc cho mình và cho người
khác trong việc tạo ra một thế giới không có tham, sân, si. Với tư cách là một nhà
cải cách xã hội trong ý nghĩa đạo đức, Đức Phật loại bỏ hệ thống xã hội dựa trên
giai cấp của Bà la môn, một hình thái xã hội bóc lột kinh tế đối với quần chúng của
những nhà làm tôn giáo và những nhóm chính 33 trị. Tách rời địa vị xã hội của con
người khỏi nguồn gốc sinh ra, Đức Phật kết hợp nó với nghiệp báo đạo đức có chủ
tâm của con người. Theo lí thuyết này, chính sự phát triển đạo đức và tâm linh của
con người làm cho họ trở nên đạo đức và xứng đáng được tôn trọng; ngược lại
SV: Đặng Huyền Trang 26 Lớp: K60B-QH-2015-L
chính cái động cơ xấu xa và những việc làm ác độc của con người làm cho họ trở
thành một kẻ đáng lên án chứ không phải do nguồn gốc sinh ra, bối cảnh gia đình
hay địa vị xã hội. Mô hình xã hội lí tưởng của Phật giáo dựa trên sự bình đẳng, chân
chính và đạo đức. Những khó khăn và những tội ác trong xã hội được coi như là
sinh ra từ sự tham ái và những điều kiện không tốt đẹp của đời sống. Tội ác và hình
phạt do đó được nhìn từ viễn cảnh cải cách để đạt đến một giải pháp hữu hiệu, hoặc
ít ra là kiểm soát được nó. Thêm vào đó, những nguyên tắc hòa hợp và đoàn kết nêu
trên chính là nhằm góp phần xây dựng một xã hội của những người có kỉ luật và tự
tin vào chính mình. Họ là những con người có trách nhiệm về sự an lạc, tiến bộ và
hạnh phúc của chính mình cũng như của người khác. Một xã hội như thế thì chắc
chắn đã đảm bảo ở mức độ cao những tiêu chuẩn về quyền con người trong Luật
nhân quyền quốc tế ngày nay. Và quan trọng nhất theo chúng tôi, tư tưởng Phật giáo
góp phần, hướng tới xây dựng một nền đạo đức cho con người mà một xã hội, với
những người dân có được các phẩm chất đạo đức ấy, nhất định sẽ đóng góp tích cực
vào việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người.
2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể
2.2.1. Quyền sống
Theo Khoản 1 Điều 6 ICCPR, mọi người đều có quyền cố hữu là được sống,
không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện. Quyền sống là cơ sở cho tất cả
các quyền con người. Chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác
nghiêm trọng nhất. Bình luận chung số 6 của HRC thông qua tại phiên họp lần thứ
16 năm 1982 nói rõ thêm, quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong
bất kì hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia cũng không thể
bị vi phạm. Thêm nữa, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến
tranh và các tội phạm nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại.
Vì thế, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống,
nghĩa là nó có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh
và kích động hận thù, bạo lực. Đồng thời, các quốc gia có nghĩa vụ hạn chế sử dụng
hình phạt tử hình, chỉ có thể được áp dụng hình phạt này với những tội ác nghiêm
trọng nhất, việc giới hạn áp dụng hình phạt này được coi là một hình thức bảo đảm
quyền sống.
Theo Kito giáo, thiên chúa muốn chúng ta tôn trọng sự sống—của chính mình
và của người khác. Thí dụ vào thời A-đam và Ê-va, con của họ là Ca-in giận dữ với
em là A-bên. Đức Giê-hô-va cảnh cáo Ca-in là cơn giận của ông có thể khiến ông
phạm trọng tội. Ca-in lờ đi lời cảnh cáo đó. Ông “xông đến A-bên là em mình, và
giết đi”. Thirn chúa trừng phạt Ca-in vì tội giết em. Hàng ngàn năm sau, thiên chúa
SV: Đặng Huyền Trang 27 Lớp: K60B-QH-2015-L
ban cho dân Y-sơ-ra-ên những luật pháp để giúp họ phụng sự theo cách đẹp ý Ngài.
Vì những luật pháp này được ban qua trung gian nhà tiên tri Môi-se, cho nên đôi khi
được gọi là Luật Pháp Môi-se. Một điều luật trong Luật Pháp Môi-se nói: “Ngươi
chớ giết người”. Điều này cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng Đức Chúa Trời quý trọng
mạng sống của con người và họ cũng phải quý trọng sự sống của người khác.
Còn về sự sống của một thai nhi thì sao? Theo Luật Pháp Môi-se, gây ra cái
chết của đứa bé trong bụng mẹ là một tội trọng. Thật vậy, ngay cả một mạng sống
như thế cũng quý giá đối với Đức chúa trời. Điều này có nghĩa phá thai là phạm tội.
Để tôn trọng sự sống, chúng ta cần có quan điểm đúng về người đồng loại.
Kinh Thánh nói: “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng
một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình”. Nếu muốn sống muôn đời,
chúng ta cần loại trừ mọi hận thù khỏi lòng mình, vì hận thù là căn nguyên của hầu
hết mọi sự hung bạo. Điều trọng yếu là chúng ta phải biết yêu thương lẫn nhau.
Còn về việc tôn trọng chính mạng sống mình thì sao? Thường thì người ta
không muốn chết, nhưng một số người muốn tìm khoái lạc dù biết điều này dẫn đến
cái chết. Thí dụ, nhiều người dùng thuốc lá, ăn trầu hoặc dùng ma túy để tiêu khiển.
Những chất này làm hại thân thể và thường giết chết người dùng. Một người thường
xuyên dùng những chất ấy không xem sự sống là thiêng liêng. Những thực hành này
là ô uế dưới mắt Đức Chúa Trời. Để phụng sự theo cách đẹp ý Đức Chúa Trời,
chúng ta phải bỏ những thực hành ấy. Mặc dù đây là điều khó làm, nhưng Đức Giê-
hô-va có thể cho chúng ta sự giúp đỡ cần thiết. Và Ngài quý trọng những nỗ lực của
chúng ta khi chúng ta xem sự sống là món quà quý giá mà Ngài đã ban. Nếu tôn
trọng sự sống, chúng ta sẽ luôn quan tâm đến sự an toàn. Chúng ta sẽ thận trọng và
không liều lĩnh chỉ vì muốn được khoái lạc hoặc kích thích. Chúng ta sẽ tránh lái xe
bất cẩn và chơi những trò thể thao hung bạo hay nguy hiểm. Luật pháp của Đức
Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên xưa có ghi: “Khi ngươi cất một cái nhà mới [có sân
thượng], thì phải làm câu-lơn [lan can] nơi mái nhà, kẻo nếu người nào ở trên đó té
xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến huyết chăng”. Để phù hợp với nguyên tắc
được ghi trong luật pháp này, chúng ta phải giữ thang lầu được an toàn để không
người nào bị vấp, ngã và bị thương. Nếu bạn có xe, hãy chắc chắn xe được bảo trì
tốt. Đừng để cho nhà cửa hay xe cộ của bạn gây nguy hại cho chính bạn hoặc người
khác.
Thật vậy, từ đầu đến cuối, xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh là ý nghĩa sâu xa về
sự sống với thiên hình vạn trang và một ý nghĩa thuần khiết về việc Thiên Chúa
mặc khải cho chúng ta thấy rằng con người được mời gọi hiện hữu để sống niềm hi
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf
Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf

More Related Content

Similar to Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf

Bài 12 .sơ cấp chính trị
Bài 12 .sơ cấp chính trịBài 12 .sơ cấp chính trị
Bài 12 .sơ cấp chính trịOctieu Iumautrang
 
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bacXay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bactailieufileword .com
 
Tiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcTiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcNgà Nguyễn
 
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sửTư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sửMan_Ebook
 
Tailieu.vncty.com su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...
Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...
Tailieu.vncty.com su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...Trần Đức Anh
 
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...sividocz
 
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt namTư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt namMan_Ebook
 
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
Thuc trang van hoa cong so
Thuc trang van hoa cong soThuc trang van hoa cong so
Thuc trang van hoa cong soDong Thanh
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7Quang Huy
 
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh nataliej4
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...jackjohn45
 
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...nataliej4
 

Similar to Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf (20)

Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAYLuận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
Luận án: Văn hóa chính trị Hồ Chí Minh, HAY
 
Bài 12 .sơ cấp chính trị
Bài 12 .sơ cấp chính trịBài 12 .sơ cấp chính trị
Bài 12 .sơ cấp chính trị
 
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bacXay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
Xay dung bao ton va phat trien van hoa dan toc tay bac
 
Tiểu luận triết học
Tiểu luận triết họcTiểu luận triết học
Tiểu luận triết học
 
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sửTư tưởng triết học của nguyễn trãi   đặc điểm và giá trị lịch sử
Tư tưởng triết học của nguyễn trãi đặc điểm và giá trị lịch sử
 
Tailieu.vncty.com su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...
Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...Tailieu.vncty.com   su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...
Tailieu.vncty.com su thong-nhat_va_mau_thuan_giua_truyen_thong_va_hien_dai_...
 
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
Luận Văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và về vấn đề xây dựng nền văn hoá ti...
 
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt namTư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam
Tư tưởng nhân văn và đạo đức kitô giáo với văn hóa việt nam
 
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...
Tiểu luận tư tưởng Hồ Chí Minh_ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giữ gìn và phá...
 
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt NamLuận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
 
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư quận Thủ Đức
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư quận Thủ ĐứcĐề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư quận Thủ Đức
Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư quận Thủ Đức
 
Luận văn: Phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng tỉnh Kon Tum
Luận văn: Phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng tỉnh Kon TumLuận văn: Phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng tỉnh Kon Tum
Luận văn: Phát huy giá trị văn hóa dân tộc Xơ Đăng tỉnh Kon Tum
 
Thuc trang van hoa cong so
Thuc trang van hoa cong soThuc trang van hoa cong so
Thuc trang van hoa cong so
 
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩaLuận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
Luận văn thạc sĩ triết học: Chữ hiếu trong đạo Phật và ý nghĩa
 
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7
[HANU] - Đường lối Đảng CS VN - Chuong 7
 
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
 
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
Giáo Trình Xã Hội Học Văn Hóa - Ts. Mai Thị Kim Thanh
 
Tu tuong hcm
Tu tuong hcmTu tuong hcm
Tu tuong hcm
 
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...Sử dụng phương pháp lôgic   lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
Sử dụng phương pháp lôgic lịch sử vào nghiên cứu văn hóa làng xã việt nam 6...
 
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...
Văn Hoá Là Nền Tảng Tinh Thần Vừa Là Mục Tiêu, Vừa Là Động Lực Thúc Đẩy Sự Ph...
 

More from TÀI LIỆU NGÀNH MAY

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfKhóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfPháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

More from TÀI LIỆU NGÀNH MAY (20)

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC VẬT LIỆU DỆT MAY Bài giảng Vật liệu dệt may - ThS. Nguyễn Th...
 
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
Một số biện pháp góp phần hoàn thiện chi phí sản xuất và tính giá thành sản p...
 
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
Thực trạng áp dụng hệ thống quản lý chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam ...
 
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
Tiểu luận Thương mại điện tử Nghiên cứu mô hình kinh doanh thương mại điện tử...
 
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
Tiểu luận Những tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với kinh tế, thương...
 
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
Tiểu luận Thanh toán quốc tế Tỷ giá hối đoái chính sách tỷ giá hối đoái ở Việ...
 
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
Thực trạng và giải pháp phát triển hoạt động trung tâm Đào tạo Logistics tiểu...
 
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
Nghiên cứu cơ chế quản lý và vận hành thị trường cước vận tải container đường...
 
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp liên quan đến nhãn hiệu của doanh nghiệp tại ...
 
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docxTình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
Tình hình xuất nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam qua các năm.docx
 
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
Pháp luật của các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil ...
 
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
Ô nhiễm môi trường tại các làng nghề sản xuất hương trên địa bàn xã Quốc Tuấn...
 
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
Trình bày các phương pháp và công cụ Quản lý Nhà nước (QLNN) về kinh tế. Lý l...
 
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
Xây dựng mô hình kinh doanh fast-food online an toàn và tiện lợi tại thành ph...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
Khóa luận tốt nghiệp Luật học Luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài lý luận v...
 
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdfKhóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh Pháp luật Việt Nam về cứu trợ xã hội.pdf
 
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất theo Luậ...
 
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdfPháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
Pháp luật về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.pdf
 
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdfHôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
Hôn nhân đồng tính dưới góc độ quyền con người.pdf
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 

Recently uploaded

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx22146042
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )lamdapoet123
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào môBryan Williams
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptxCHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
CHƯƠNG VII LUẬT DÂN SỰ (2) Pháp luật đại cương.pptx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
Bài giảng về vật liệu ceramic ( sứ vệ sinh, gạch ốp lát )
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
50 ĐỀ ĐỀ XUẤT THI VÀO 10 THPT SỞ GIÁO DỤC THANH HÓA MÔN TIẾNG ANH 9 CÓ TỰ LUẬ...
 
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
[GIẢI PHẪU BỆNH] Tổn thương cơ bản của tb bào mô
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 

Khái lược quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người.pdf

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HUYỀN TRANG QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L HÀ NỘI – 2019
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ĐẶNG HUYỀN TRANG QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH: LUẬT HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-L NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. CHU HỒNG THANH HÀ NỘI – 2019
  • 3. SV: Đặng Huyền Trang i Lớp: K60B-QH-2015-L LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Khóa luận là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Đặng Huyền Trang
  • 4. SV: Đặng Huyền Trang ii Lớp: K60B-QH-2015-L MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i MỤC LỤC................................................................................................................. ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iii PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................1 CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN ................................................................................................................5 1.1 Lý luận chung về quyền con người................................................................5 1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn .....................................................................13 1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo............................................................................13 1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng quyền con người..................................................................................................................17 CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN CON NGƯỜI CỤ THỂ...........................................................................................21 2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người......21 2.1.1 Nhân sinh quan...............................................................................................21 2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo .......................23 2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể.....................................26 2.2.1. Quyền sống .....................................................................................................26 2.2.2 Quyền không bị tra tấn ...................................................................................32 2.2.3 Vấn đề quyền tự do bình đẳng, không bị phân biệt đối xử. ..........................36 2.2.4. Quyền tự do dân chủ tín ngưỡng tôn giáo....................................................46 CHƯƠNG III: NHẬN XÉT KHÁI QUÁT TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUAN ĐIỂM TÔN GIÁO VỀ QUYỀN CON NGƯỜI....................................................54 3.1. Tác động tích cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........54 3.1.1 Nền văn hóa nhân quyền................................................................................54 3.1.2 Tác động tích cực trong tư tưởng của các Tôn giáo cần được phát huy .....56 3.2. Tác động tiêu cực trong các quan điểm tôn giáo về quyền con người ........58 KẾT LUẬN..............................................................................................................66 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................68
  • 5. SV: Đặng Huyền Trang iii Lớp: K60B-QH-2015-L DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CAT Công ước chống tra tấn GHPGVN Giáo hội Phật giáo Việt Nam HRC Ủy ban Quyền con người ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ICRC Hội Chữ Thập đỏ quốc tế ILO Tổ chức Lao động quốc tế MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
  • 6. SV: Đặng Huyền Trang 1 Lớp: K60B-QH-2015-L PHẦN MỞ ĐẦU 1 Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người (Nhân quyền - Human Rights) là một phạm trù đa diện và có nhiều định nghĩa, các nhà nghiên cứu cho rằng quyền con người đã tồn tại ngay từ buổi ban sơ trong lịch sử xã hội loài người; mặc dù có nhiều ý kiến đánh giá và cách giải thích khác nhau, nhưng phải đến sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), khái niệm “quyền con người” mới thực sự được đề cập rộng rãi trong cộng đồng nhân loại. Theo dòng chảy lịch sử tư tưởng nhân loại nói chung, lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người nói riêng, có thể thấy rằng những giá trị phản ánh về quyền con người đã tồn tại trong đời sống xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước đây, mặc dù không được nói đến trong cụm từ “quyền con người” nhưng những giá trị của quyền con người, ở những mức độ khác nhau đã được nêu ra trong những tác phẩm của các triết gia, các nhà tư tưởng lớn, nó xuất hiện và tồn tại trong giáo điều và quy định của các tôn giáo, trong pháp luật của các quốc gia, biểu hiện trong văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc khác nhau… Quyền con người là phổ quát, là giá trị chung của nhân loại, đảm bảo quyền con người là mục tiêu hướng đến của tất cả các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo trên thực tế là một quá trình và cần có sự tham gia của nhiều thành tố trong xã hội. Chúng ta hiểu và thừa nhận rằng, bảo vệ quyền con người không chỉ bằng hệ thống pháp luật, mà nó còn là phát huy tổng hợp các giá trị tốt đẹp tồn tại trong xã hội, một nền tảng xã hội được xây dựng dựa trên những giá trị xuất phát từ phẩm giá của con người là điều kiện tốt để quyền con người được tôn trọng và đảm bảo. Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (năm 1990) về công tác tôn giáo khẳng định: Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã nêu rõ: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu
  • 7. SV: Đặng Huyền Trang 2 Lớp: K60B-QH-2015-L những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người” [8]; „„Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc chăm lo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi; sống có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng giađình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách” [8]. Bên cạnh việc từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chúng ta cần khai thác, phát huy những giá trị tích cực, tốt đẹp của truyền thống văn hóa của dân tộc, trong đó có những giá trị tư tưởng tôn giáo, những giá trị của văn hóa tôn giáo để góp phần xây dựng một nền văn hóa nhân quyền. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người giúp cho chúng ta nhận thấy những giá trị về quyền con người tồn tại ở đâu, giá trị quyền con người được chứa đựng trong những giá trị văn hóa hay tôn giáo nào, đã và đang hiện hữu trong đời sống xã hội loài người. Từ đó gợi cho chúng ta ý tưởng rằng, việc thúc đẩy và đảm bảo quyền con người cũng chính là tiếp tục phát huy hơn nữa những giá trị quyền con người chứa đựng trong các giá trị văn hóa ấy, mà ở đây tác giả tập trung nói đến là những giá trị trong tư tưởng, triết lí của 4 tôn giáo lớn là: Kito giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo. Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài “KHÁI LƯỢC QUAN ĐIỂM CỦA MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” làm đề khóa luận tốt nghiệp của mình, với mục đích làm rõ một số tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về quyền con người, bổ sung vào hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí của nhân loại về quyền con người; góp phần phát huy những giá trị tích cực của các tôn giáo trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thời đại ngày nay. 2 Tình hình nghiên cứu Ngày nay, khi nói đến tôn giáo, không ai có thể phủ nhận hay bàn cãi về giá trị nhân văn, nhân đạo của các tôn giáo cũng như cảm nhận sự gần gũi của những tư tưởng, triết lí, văn hóa các tôn giáo trong cuộc sống. Có thể thấy rằng, mặc dù trong giáo lí, kinh điển các tôn giáo không nói đến cụm từ “quyền con người” song vấn đề tôn trọng quyền con người hoàn toàn không xa lạ gì đối với các tôn giáo.
  • 8. SV: Đặng Huyền Trang 3 Lớp: K60B-QH-2015-L Tư tưởng, triết lí của các tôn giáo về quyền con người là một chủ đề tuy không mới; tuy nhiên, việc nghiên cứu sâu sắc vấn đề này hầu như còn hạn chế, trong một số bài viết thường tiếp e dưới dạng phân tích về triết lí các tôn giáo liên quan đến một số vấn đề cụ thể trong cuộc sống, và các vấn đề này ít nhiều tương đồng với nội hàm của một số quyền con người theo luật nhân quyền quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, những nghiên cứu trước đây về quan điểm của các tôn giáo lớn về quyền con người thường xảy ra việc những nhà nghiên cứu chỉ tập trung vào những diễn đạt riêng lẻ trong giải thích của họ về các giáo lý tôn giáo, nên gây hạn chế việc tìm ra mối liên hệ giữa quan điểm của các tôn giáo và quyền con người. Đến nay, chưa thấy khóa luận tốt nghệp nào tiếp cận chủ đề này dưới góc độ quyền con người. Mặc dù các giáo lý tôn giáo xuất hiện từ thời cổ đại và không có sự nối kết trực tiếp với những khái niệm, tư tưởng hiện đại về quyền con người như trong Luật nhân quyền quốc tế. Tác giả cố gắng nghiên cứu và chỉ ra, tìm ra những nguyên tắc và tư tưởng về quyền con người mà các tư tưởng tôn giáo chuyển tải. Để hướng đến việc khai thác trong đó những ứng dụng hữu ích. Bởi vì các tôn giáo đã và đang tồn tại đầy sức sống trong thế giới của chúng ta. Với cách tiếp cận những quan điểm về quyền con người trong các tôn giáo, tác giả muốn tiếp cận nghiên cứu và làm rõ những tư tưởng quyền con người “đã có”, đó là những tư tưởng quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sốngcác tôn giáo, với mong muốn nhìn nhận vấn đề quyền con người gần gũi hơn, sáng tỏ nội dung quyền con người là giá trị chung của nhân loại, thực sự tồn tại phổ biến trong đời sống của con người; đồng thời cũng góp phần phê phán những góc nhìn thiếu tích cực trong quan điểm của các tôn giáo về quyền con người 3 Mục đích, phạm vi nghiên cứu Trình bày, phân tích có hệ thống các quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người; góp phần bổ sung và làm sáng tỏ thêm về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người; thể hiện tính phổ biến của quyền con người; để chứng minh rằng các giá trị quyền con người đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội, mà cụ thể ở đây là trong đời sống và văn hóa các tôn giáo. Bổ sung lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người qua tư tưởng, triết lí, nguyên tắc của các tôn giáo về vấn đề quyền con người. Đề xuất một số giải pháp góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong thực tiễn đời sống; bên cạnh việc nghiên cứu, tiếp thu những thành tựu phát triển của pháp luật quốc tế về quyền con người thì việc phát huy những giá trị quyền con người trong văn hóa các tôn giáo cũng có tác dụng góp phần xây dựng một nền văn
  • 9. SV: Đặng Huyền Trang 4 Lớp: K60B-QH-2015-L hóa nhân quyền, nó có ưu thế riêng và dễ được xã hội tiếp nhận và phát triển. Góp phần hoàn thiện pháp luật về quyền con người. Phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung phân tích các quan điểm của 4 tôn giáo lớn là kito giáo, Hồi giáo, Ấn độ giáo và Phật giáo. Trong đó tập trung vào việc giải thích các quy định của các tôn giáo có liên quan đến các quyền và tự do cơ bản của con người. Nghiên cứu các quan điểm tôn giáo dưới góc độ khoa học pháp lí về nhà nước và pháp luật nói chung, pháp luật về quyền con người nói riêng. 4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tác giả xem xét vấn đề quyền con người từ quan điểm triết học về luật, để nhận diện những giá trị quyền con người được chia sẻ bởi hệ tư tưởng các tôn giáo. Tiếp cận từ sự liên hệ giữa quyền con người khởi phát từ nhân phẩm, ý nghĩa của nhân phẩm trong tư tưởng các tôn giáo. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích - tổng hợp, xã hội học, so sánh, đánh giá để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Luận văn cũng khai thác thông tin tư liệu của các bài viết khoa học và công trình nghiên cứu đã công bố để chứng minh cho các luận điểm. 5 Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Khóa luận Bổ sung hệ thống lí luận về lịch sử tư tưởng, triết lí về quyền con người. Hệ thống hóa các nghiên cứu về quyền con người trong các tôn giáo. Các kết quả của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp luật về quyền con người. Có đóng góp nhất định trong xây dựng nền văn hóa nhân quyền và phương pháp giải quyết hòa bình các xung đột xã hội, các bất đồng liên quan đến tôn trọng và bảo vệ quyền con người. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận. - Chương 1: Khái quát về quyên con người và quan điểm của một số tôn giáo lớn về quyền con người - Chương 2: Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền con người - Chương 3: Mặt tích cực và hạn chế của các quan điểm tôn giáo về quyền con người
  • 10. SV: Đặng Huyền Trang 5 Lớp: K60B-QH-2015-L CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUYÊN CON NGƯỜI VÀ VỀ MỘT SỐ TÔN GIÁO LỚN 1.1 Lý luận chung về quyền con người Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố, 8 mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người Tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người (Office of High Commissioner for Human Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người. Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Trong khoa học pháp lý, các quyền con người được hiểu đó là những quyền mà pháp luật cần phải thừa nhận đối với tất cả các thể nhân. Đó là quyền tối thiểu mà các cá nhân phải có, những quyền mà các nhà lập pháp không được xâm hại. Nhằm mục đích bảo vệ những quyền tự nhiên này của con người những sự xâm phạm của bất kể chủ thể nào, nên xã hội loài người đã phải tạo ra cho mình một thiết chế có trách nhiệm đảm bảo những quyền này. Thiết chế được sau này gọi là nhà nước. Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt) hoặc nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân quyền’’ chính là “quyền con người”.211 Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về quyền con người.
  • 11. SV: Đặng Huyền Trang 6 Lớp: K60B-QH-2015-L Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan điểm trái ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights112) cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào. Vì vậy, không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân. Ngược lại, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights213) cho rằng, các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi, giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa... của các xã hội. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh (universal), mọi thời điểm, thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa và chính trị (culturally and politically relative) Tính chất của quyền con người: Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Tuy nhiên, cần chú ý là sự bình đẳng không có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể và cơ hội thụ hưởng các quyền con người. Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả bởi nhà nước. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá nhân đều phải do pháp luật quy định và chỉ nhằm để bảo vệ lợi ích chính đáng, tương xứng của cộng đồng hay của cá nhân khác. Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, bởi lẽ việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Tuy nhiên, tùy bối cảnh và với những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền con người nhất định (ví dụ, khi có dịch bệnh đe dọa, quyền được
  • 12. SV: Đặng Huyền Trang 7 Lớp: K60B-QH-2015-L ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc y tế, hoặc cần có những quyền đặc biệt cho do phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người thiểu số... do đây là những nhóm yếu thế). Điều này không có nghĩa là bởi các quyền được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn, mà bởi vì các quyền đó trong thực tế có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền khác. Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác Lịch sử phát triển quyền con người: Có những ý kiến trái ngược về lịch sử phát triển của quyền con người. Một học giả cho rằng : “… các quyền con người không có lịch sử… vì lịch sử, nếu có, thì hình như rất hỗn độn. Nó pha lẫn những lặp lại, những xen kẽ, những tương phản và những đứt đoạn giữa những bước tiến triển và những bước thụt lùi”. Nhưng trên quan điểm duy vật lịch sử, có thể khẳng định rằng, cũng như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, quyền con người không phải là một cái gì siêu lịch sử, siêu giai cấp và siêu xã hội. “Quyền con người là sản phẩm phát triển văn hoá xã hội của một kết cấu kinh tế xã hội nhất định và chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực” Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ thời tiền sử, thể hiện trong các luật lệ của chiến tranh, mà: “Luật lệ của chiến tranh thì lâu đời như bản thân chiến tranh và chiến tranh thì lâu đời như cuộc sống trên trái đất”. Tuy nhiên, ở trình độ phát triển của thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có những ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng ( với ý nghĩa là những quan điểm hoặc hệ thống quan điểm rõ ràng về một sự vật, hiện tượng nhất định), về quyền con người. Bởi vậy, quan điểm phù hợp hơn đó là, tư tưởng quyền con người được khởi thuỷ từ khi trái đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, mà một trong đó là nền văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000-1.500 trước CN). Chính trong nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm 1780 TCN) với câu tuyên bố nổi tiếng ( đã đề cập ở trên), theo đó, mục đích của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để : “… ngăn ngừa những kẻ mạnh áp bức kẻ yếu”, …làm cho người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống trị nhân từ “cho mọi thần dân trên vương quốc.
  • 13. SV: Đặng Huyền Trang 8 Lớp: K60B-QH-2015-L Cho đến thời điểm hiện nay, xét từ các góc độ tính toàn vẹn, nguyên bản, nội dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể coi là văn bản pháp luật thành văn đầu tiên của nhân loại nói đến quyền con người (mặc dù quan điểm này không phải được tất cả các học giả ủng hộ) . Ngoài Bộ luật Hammurabi, vấn đề quyền con người còn sớm được đề cập trong nhiều văn bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 -529 TCN; Bộ luật do nhà vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng các năm 272-231 ; Hiến pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215) và Bộ luật về quyền (1689) của nước Anh; Tuyên ngôn về các quyền của con người và của công dân(1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc lập (1776) và Bộ luật về các quyền (1789) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng Đức (Quốc triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về quyền con người, bởi lẽ, nó đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em, v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về quyền con người không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được phản ánh (một cách sâu sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn giáo, chính trị và pháp lý. Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng về quyền con người từ lâu đã được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế, trong số những tài liệu được cho là cổ xưa và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền con người mà nhân loại còn giữ lại được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo (Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là những kinh điển của tôn giáo , bao gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật của đạo Phật; Kinh Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi. Xét về các học thuyết chính trị, pháp quyền, người ta ghi nhận rằng, vào thế kỷ thứ XXIV trước Công nguyên, vua Symer đã sử dụng khái niệm “tự do” để bảo vệ những bà goá, trẻ mồ côi trước những hành vi bạo ngược của những kẻ giàu có và thế lực trong xã hội; còn nhiếp chính quan người Hy Lạp ở La mã là Arokhont Salon, ngay từ thế kỉ XI trước Công nguyên đã ban bố một đạo luật trong đó xác định một số khía cạnh của dân chủ và quy định một số quyền của các công dân tự do trong mối quan hệ với các quan lại nhà nước. Người ta cũng chỉ ghi nhận rằng, trong thời kỳ diễn ra sự tàn bạo khủng hiếp của chế độ nô lệ ở La Mã cổ đại :
  • 14. SV: Đặng Huyền Trang 9 Lớp: K60B-QH-2015-L “Trước Crêông, Antigone đã nói đến quyền không vâng lời và trước những nô lệ, Spartacusse đã nói về quyền chống lại áp bức”.Cũng trong thời kỳ này, Protagoras (490-420 TCN) và các nhà triểu học thuộc trường phái nguỵ biện Sophism đã đưa ra quan niệm về sự bình đẳng và tự do giữa các cá nhân trong xã hội: “Thượng đế tạo ra mọi người đều là người tự do, không ai tự nhiên biến thành nô lệ cả “. Trong thời kỳ Trung cổ ở Châu Âu, tự do của con người bị hạn chế một cách khắc nghiệt bởi sự cấu kết cai trị giữa vương quyền của chế độ phong kiến và thần quyền của nhà thời Thiên chúa giáo. Tuy nhiên, trong bối cảnh đen tối đó vẫn xuất hiện những tư tưởng khai sáng về quyền con người mà dẫn đến việc ban hành các văn kiện pháp lý nổi tiếng nhất của nhân loại về lĩnh vực này. Điển hình trong số đó là Hiến chương magna Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215. Hiến chương đã khẳng định một số quyền con người, cụ thể như: quyề nsở hữu , thừa kế tài sản; quyền tự do buôn bán và không bị đánh thuế quá mức; quyền của các phụ nữ goá chồng được quyết định tái hôn hay không; quyền được xét xử đúng đắn và được bình đẳng trước pháp luật….Quan trọng hơn, bản hiến chương này được coi là một trong những văn bản pháp luật đầu tiên của nhân loại đề cập cụ thể đến việc tiết chế quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân, mà biểu hiện cụ thể ở hai quy phạmv ẫn còn có giá trị đến tận ngày nay, đó là quy phạm về lệnh đình quyền giam giữ ( hay còn gọi là luật bảo thân- habeas corpus) trong đó bắt buộc mọi trường hợp tử hình đều phải qua xét xử và quyết định trước Toà và quy phạm về due process of law ( luật tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)… Thời kỳ Phục hưng ở Châu Âu là giai đoạn phát triển rực rỡ của các quan điểm, học thuyết về quyền con người. Tại đây, trong các thế kỷ XVII-XVIII, nhiều nhà triết học mà tiêu biểu là Thomas Hobbes( 1588-1679), John Locke (1632 - 1704), Thomas Paine (1731-1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831); John Stuart Mill (1806-1873), Henry David Thoreau (1817-1862)… đã đưa ra những luận giải về rất nhiều vấn đề lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và quyền pháp lý , mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trong thời đại ngày nay. Tuy nhiên, trước hết, những tư tưởng triết học về quyền con người ở Châu Âu thời kỳ Phục Hưng đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản pháp luật về quyền con người ở một số nước của châu lục này, cũng như đến hai cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào cuối những năm 1700 ở Mỹ và Pháp. Hai cuộc cách mạng này đã có những đong góp rất to lớn vào sự phát triển của tư tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở hai nước Mỹ và Pháp mà còn trên toàn thế giới. Trong cuộc cách mạng thứ nhất, năm 1776, mười ba
  • 15. SV: Đặng Huyền Trang 10 Lớp: K60B-QH-2015-L thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế Anh thông qua một văn bản có tên là Tuyên ngôn độc lập , trong đó khẳng định rằng : “… mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “. Mặc dù không phải văn kiện pháp lý đầu tiên trên thế giới đề cập đến vấn đề này, tuy nhiên, Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự xác nhận chính thức đầu tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người. Đánh giá về văn kiện này, Các Mác đã cho rằng, nước Mỹ là nơi lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về nền cộng hoà dân chủ vĩ đại, nơi đã tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về quyền con người. Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789, nhân dân Pháp, mà chủ yếu là thợ thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ phong kiến, thành lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp. Điều 1 bản Tuyên ngôn này khẳng định : “ Người ta sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền …”.Đặc biệt, không dừng lại ở những nguyên tắc, ý tưởng như Tuyên ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã xác định một loạt các quyền cơ bản của con người như quyền tự do và bình đẳng, quyền sở hữu, được bảo đảm an ninh và chống áp bức , quyền bình đẳgn trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước…, đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các quyền này . Nhưng đáng chú ý hơn là, chỉ trong vòng 35 năm ( từ 1795 đến 1830), hơn bản Hiến pháp mang dấu ấn của những luận điểm trong bản Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã được thông qua ở Châu Âu. Điều đó chứng tỏ những tư tưởng về quyền con người đã thẩm thấu một cách nhanh chóng và gây ra những biến động xã hội rất to lớn ở châu lục này. Nó cũng chứng tỏ rằng, giai cấp tư sản đã nhận thấy, nắm lấy và tận dụng triệt để quyền con người như là một phương tiện hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến. Tuy nhiên, quyền con người chỉ thực sự nổi lên như một vấn đề ở tầm quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận cuối thế kỷ đó và phong trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người lao động và bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang thế thới. Vào năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc tế đầu tiên họp ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) đã thông qua Công ước về cải thiện điều kiện của người bị thương trong các cuộc chiến trên trên bộ ( Công ước Giơnevơ thứ I).
  • 16. SV: Đặng Huyền Trang 11 Lớp: K60B-QH-2015-L Năm 1899, Hội nghị hoà bình quốc tế họp ở La hay (Hà Lan) đã thông qua Công ước về các luật lệ và tập quán trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của luật nhân đạo quốc tế- ngành luạt mà tuy chỉ giới hạn trong việc bảo vệ những nạn nhân chiến tranh trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, nhưng chứa đựng những giá trị và quy phạm có quan hệ chặt chẽ với luật quốc tế về quỳên con người ở giao đoạn sau này. Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với việc thành lập Hội quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế, quyền con người càng trở thành một vấn đề có tầm quốc tế rộng lớn. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và các hoạt động về quyền con người lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc tế, trong Điều lệ của mình, đã khẳng định, hoà bình trên thế giới chỉ có thể được thực hiện nếu được dựa trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả mọi người. Trong Thoả ước của Hội quốc liên, các nước thành viên tuyên bố chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công bằng và các điều kiện nhan đạo về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em cũng như bảo đảm sự đối xử xứng đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ. Cũng trong thời kỳnày, một loạt văn kiện khác của luật nhân đạo quốc tế đã được thuông qua trong hội nghị La Hay, tại các Hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế (ICRC) và Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm rộng rãi hơn với các quyền con người trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột vũ trang. Cũng trong thời kỳ này, cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở nước Nga vào tháng 10 năm 1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị quốc tế, đồng thời tạo ra những biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn về quyền con người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trong những thập kỷ 1940 đến 1980 của thế kỷ trước, các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá được đề cao, và đặc biệt, các quyền độc lập và tự quyết của các dân tộc được cổ vũ. Đây là những quyền con người mà trước đó đã không hoặc rất ít được đề cập trên các diễn đàn quốc tế. Sau chiến tranh thế giới thứ II, việc Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương (24/10/1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người ( 10/12/1948) và hai công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá ( năm 1966) đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế về quyền con người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hoá quyền con người- nền văn hoá mới và chung của mọi dân tộc- trên trái đất. Mặc dù ngay sau khi Liên Hợp quốc được thành lập cho đến cuối thập kỷ 1970, cuộc Chiến tranh Lạnh trên thế giới phần nào ảnh hưởng đến những nỗ lực quốc tế trên lĩnh vực này, song cho đến ngày nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện quốc tế về quyền con người đã được thông
  • 17. SV: Đặng Huyền Trang 12 Lớp: K60B-QH-2015-L qua , một cơ chế quốc tế về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được hình thành, biến quyền con người thành một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan hệ quốc tế. Hội nghị thế giới về quyền con người năm 1993 đánh dấu một bước ngoặt trong những nỗ lực thúc đẩy các quyền con người trên thế giới sau những trì trệ ở thời kỳ “ Chiến tranh Lạnh”. Hội nghị đã khẳng định mối liên hệ không thể tách rời giữa dân chủ, phát triển và quyền con người cũng như giữa các quyền con người về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá. Hội nghị đã thiết lập “một khuôn khổ mới cho việc đối thoại, hợp tác và phối hợp của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người” mà cho phép thúc đẩu một cách thực sự hiệu quả các quyền con người ở tất cả các cấp độ địa phương, quốc gia khu vực và quốc tế. Tại hội nghị này, các đại biểu đã nhất trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo Chương trình hành động chung về quyền con người, với các mục tiêu rất cụ thể, trong đó đưa ra những biện pháp mới mang tính lịch sử để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ, trẻ em, người bản địa và để tăng cường năng lực của hệ thống Liên hợp quốc trong việc giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên thế giới… Cùng với Hội nghị Viên, những phát triển gần đây trên lĩnh vực quyền con người bao gồm việc thành lập các toà án hình sự quốc tế lâm thời và thường trực để xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội diệt chủng và tội xâm lược và việc thành lập Hội Đồng Liên Hợp quốc về quyền con người (năm 2006, thay thế cho Uỷ ban của Liên hợp quốc về quyền con người trước đó) đã làm cho cuộc đấu tranh vì quyền con người thực sự phát triển trên phạm vi toàn cầu với một cơ sở pháp lý vững chắc, được mở rộng không ngừng cả về nội dụng và mức độ bảo đảm. Song song và làm nền tảng cho tiến trình phát triển đó, dòng tư tưởng, lý thuyết về quyền con người cũng ngày càng được củng cố và phát triển, đi sâu làm rõ những khía cạnh thực tiễn của quyền con người, biến quyền con người trở thành một trong những khái niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và nồng nhiệt nhất trong đời sống hiện nay của nhân loại. Dưới đây là một số sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển của tư tưởng về quyền con người của nhân loại từ trước tới nay. Sự kiện, văn kiện theo dòng lịch sử 1789 TCN: Bộ luật Hammurabi 1200 TCN: Kinh Vệ đà 570 TCN: Luật của Cyrus Đại Đế 586-456 TCN: Kinh Phật 479-421 TCN: “ Luận ngữ” của Khổng tử
  • 18. SV: Đặng Huyền Trang 13 Lớp: K60B-QH-2015-L 7-1 TCN: Kinh Thánh 610-612: Kinh Kôran 1215: Đại hiến chương Magna Carta( Anh) 1689: Luật về Quyền (Anh); “ Hai khảo luận về chính quyền “ của John Locke 1776: “ Tuyên ngôn độc lập” (Mỹ) 1789: “Tuyên ngôn quyền con người và quyền công dân” (Pháp) Bộ luật về các quyền (10 tu chính án đầu tiên của Hiến pháp) (Mỹ) 1791: “Các quyền của con người” của Thomas Pain 1859: “Bàn về tự do” của John Stuart Mill 1863-1864: Uỷ ban Chữ thập đỏ quốc tế được thành lập, Công ước Giơnevơ lần thứ I được thông qua, mở đầu cho ngành luật nhân đạo quốc tế 1917: Cách mạng tháng mười Nga 1919: Hội quốc liên và Tổ chức Lao động thế giới (ILO) được thành lập 1945: Liên hợp quốc ra đời, thông qua Hiến chương Liên Hợp quốc 1948: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1966: Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá 1968: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ nhất tại Tê hêran (Iran) 1993: Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai tại Viên( Áo), thông qua Tuyên bố Viên và Chương trình hành động 2002: Quy chế Rôma có hiệu lực, Toà án hình sự quốc tế ( thường trực) được thành lập. 2006: Cải tổ bộ máy quyền con người của Liên hợp quốc, thay thế Uỷ ban quyền con người bằng Hội đồng quyền con người 1.2 Khái quát về một số tôn giáo lớn 1.2.1 Tôn giáo và lịch sử tôn giáo a) Định nghĩa Trong tiếng Anh: tôn giáo là religion - xuất phát từ tiếng Latinh religio mang nghĩa "tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh") - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêng và trần tục.[13] Trần tục là những gì
  • 19. SV: Đặng Huyền Trang 14 Lớp: K60B-QH-2015-L bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Tôn giáo hay đạo có thể được định nghĩa là một hệ thống văn hóa của các hành vi và thực hành được chỉ định, quan niệm về thế giới, các kinh sách, địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:  Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính con người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.  Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quan và thuyết bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.  Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất", định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.  Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí trái ngược
  • 20. SV: Đặng Huyền Trang 15 Lớp: K60B-QH-2015-L với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. b) Lịch sử tôn giáo Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo.[14] Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây cối...cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư (shaman) có thể được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải chiếm toàn bộ thời gian của người đó. Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập. Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của mình đến những vùng khác... Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sĩ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển. c) Các tôn giáo lớn  Kitô giáo: với ba nhánh lớn là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phương và Tin Lành, là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới. Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáo ở Trung Đông và do Giê-su sáng
  • 21. SV: Đặng Huyền Trang 16 Lớp: K60B-QH-2015-L lập. Kitô giáo theo thuyết độc thần thể hiện ở quan điểm về Chúa Ba Ngôi: Đức Chúa Cha - Đấng Tạo hóa; Đức Chúa Con (Jesus Christ) - Đấng Chuộc tội và Đức Chúa Thánh Thần - Đấng Thánh hoá. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín đồ Kitô giáo và theo niềm tin của tín đồ Kitô giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về việc Jesus là Con Thiên Chúa, Jesus được phái đến để giải phóng con người khỏi ách quỷ Satan. Con người không chỉ là tôi tớ của Chúa, kẻ được cứu rỗi, mà còn là con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng. Từ khi ra đời và trong giai đoạn đầu, Kitô giáo bị ngược đãi, đàn áp nhưng dần dần đã được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn minh phương Tây.  Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới, với khoảng 1,5 tỷ tín đồ, chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở khắp nơi trên Trái Đất. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII, do Muhammad sáng lập. Muhammad là Đấng Tiên tri chứ không phải là thần thánh như Giê-su đối với người Kitô giáo, ông là Đấng tiên tri cuối cùng sau các Đấng tiên tri trước đó là Adam, Abraham, Moses và Jesus Christ. Vai trò của Muhammad là ghi lại lời của Thượng đế và kinh Koran được các tín đồ coi là lời răn của Đấng Chí Tôn. Cũng giống Kitô giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi người có trách nhiệm giải thích trước Thượng đế về những việc làm của mình trên trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến.[18]  Ấn Độ giáo: được coi là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới,[19] bắt nguồn từ Ấn Độ khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô giáo và Hồi giáo, Ấn Độ giáo không liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay nói cách khác, không có người sáng lập. Qua hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo khó truyền bá đến các xã hội khác. Thế nhưng đến nay, Ấn Độ giáo vẫn có khoảng 900 triệu tín đồ chủ yếu ở Ấn Độ, Pakistan và ở nhiều nơi khác trên thế giới với số lượng ít. Trong Ấn Độ giáo, công lý sau cùng không phải thuộc về vị thần tối cao mà thông qua chu kỳ tái sinh theo luật nhân quả. Mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả tinh thần trực tiếp, đó chính là nghiệp chướng (karma), đời sống
  • 22. SV: Đặng Huyền Trang 17 Lớp: K60B-QH-2015-L chính đáng khiến cho tinh thần được hoàn thiện, ngược lại sẽ làm cho tinh thần suy đồi. Trạng thái cực lạc (nirvana) là sự hoàn thiện tinh thần, trong đó linh hồn được sẵn sàng cho việc tái sinh một cách hoàn hảo.  Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm trước Công nguyên. Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ giáo nhưng gắn với cuộc đời của người sáng lập - Đức Phật Thích Ca (Siddartha Gautama). Phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới, hiện có khoảng 365 triệu tín đồ chính thức (đã làm lễ Quy y Tam bảo), và nếu tính cả số tín đồ không chính thức (chưa làm lễ Quy y nhưng có niềm tin vào Phật pháp) thì có thể lên tới 1,2-1,6 tỷ (phần lớn người Đông Á thuộc bộ phận không chính thức này)(cần dẫn nguồn). Phật giáo chủ yếu tập trung ở Châu Á và đang lan truyền khắp thế giới. Sau nhiều năm chu du và thiền định, Siddartha Gautama đạt đến trạng thái giác ngộ (bodhi), Ngài trở thành Phật, hiểu được bản chất của đời sống và biết con đường dẫn đến hạnh phúc thực sự. Tương tự như Ấn Độ giáo, Phật giáo cho rằng có kiếp luân hồi, nhân quả, mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả sẽ nhận được: hoặc là thiện (dẫn đến sự hoàn thiện tinh thần, sẽ nhận được quả thiện) hoặc là ác (dẫn đến sự suy đồi tinh thần,sẽ nhận được quả ác) nhưng khác nhau về bản chất. Cốt lõi là thoát khỏi hoàn toàn sinh tử, khổ đau, không còn bị tác động bởi nghiệp. Vũ trụ có trật tự mà không có vị thần tối cao thực hiện công lý cuối cùng (hay nói cách khác toàn thể Vũ trụ đều là Chân như của Phật tính - Pháp thân của Phật khắp mọi nơi. Mọi sự tồn tại của con người đều có khổ đau và muốn đạt đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất - hưởng dục, làm giảm các ham muốn về vật chất hay thể xác. Phật giáo cũng là tôn giáo đầu tiên đưa ra hệ thống phẩm cấp tu hành. 1.2.2 khái quát tư tưởng triết lý của các tôn giáo liên quan đến tư tưởng quyền con người Khi xem xét tôn giáo như một hình thái ý thức xã hội độc lập với các hình thái ý thức khác, chúng ta thấy nó chứa đựng nội dung đạo đức (bao gồm giá trị, chuẩn mực, lý tưởng đạo đức...) thể hiện trong giáo lý tôn giáo. Bất cứ tôn giáo nào cũng có một hệ thống chuẩn mực và giá trị đạo đức nhằm điều chỉnh ý thức và hành vi đạo đức của các tín đồ. Đa số các tôn giáo đều tuyên bố về giá trị tối cao của 'các lực lượng siêu nhiên (Thượng đế, Chúa trời, Thần thánh) và mọi giá trị khác phải lấy đó làm chuẩn. Thực tế cho thấy, quan niệm đạo đức của hầu hết mọi tôn giáo, ngoài những giá trị đặc thù bảo vệ niềm tin tôn giáo thiêng liêng, còn đề cập đến những chuẩn mực đạo đức mang tính nhân loại, như sống hiếu thảo với cha mẹ, trung thực, nhân ái, hướng tới cái thiện, tránh xa điều
  • 23. SV: Đặng Huyền Trang 18 Lớp: K60B-QH-2015-L ác... Trong Khoa học và tôn giáo, Bertrand Russeli cho rằng, một tôn giáo lớn bao giờ cũng có hệ thống tín điều, hệ thống đạo đức và giáo hội. Người theo tôn giáo không phải sống thế nào cũng được, mà phải sống theo những khuôn phép đạo đức hợp với tín điều của tôn giáo mình, hành động không phải chỉ là thực hành một số hình thức nghi lễ, mà còn phải sống theo những quy tắc đạo đức nhất định. Vì vậy, đương nhiên, một số nội dung của đạo đức trở thành bộ phận cấu thành nội dung của tôn giáo. Khi mới ra đời, hầu hết các tôn giáo đều phản ánh khát vọng tự do, bình đẳng của người lao động. C.Mác đã khẳng định: "Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy". Con người bất lực, không kiếm tìm được hạnh phúc nơi trần thế và đành phải tìm hạnh phúc ấy nơi Thiên đường. Tôn giáo đã gieo vào họ mềm tin ở sự cứu vớt, giải thóat của các đấng siêu nhiên. Ph.Ăngghen đã nghiên cứu lịch sử tôn giáo, đặc biệt là lịch sử Thiên chúa giáo và chứng minh rằng, sự xuất hiện của tôn giáo này là phản ứng chống lại sự bất công và tàn bạo của chế độ nô lệ. Tương tự như vậy, Phật giáo nguyên thuỷ là khát vọng của quần chúng phản kháng lại sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội ấn Độ cổ đại. Thiên chúa giáo kêu gọi tình yêu thương giữa con người với con người, Phật giáo chủ trương bình đẳng, từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha. Ngoài ra, chúng ta còn có thể nêu lên những nét tích cực của nhiều tôn giáo khác, khi các tôn giáo này xây dựng mối quan hệ yêu thương giữa người với người, hướng con người vào những việc thiện, biết giữ gìn đạo đức và xa lánh những điều ác. - Kito giáo: Kinh Thánh và thần học Kitô giáo cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà triết học phương Tây và các nhà hoạt động chính trị. Các giáo lý của Chúa Giêsu, chẳng hạn như Dụ ngôn Người Samari nhân lành, là một trong những ví dụ quan trọng cho các quan niệm hiện đại về Nhân quyền và các biện pháp phúc lợi thường được cung cấp bởi các chính phủ ở phương Tây. Giáo lý Kitô giáo được có ảnh hưởng lâu dài về xu hướng tình dục, hôn nhân và cuộc sống gia đình. Kitô giáo đóng một vai trò trong việc chống lại những hành vi lạc hậu như sự hy sinh của con người, chế độ nô lệ, tội giết trẻ con và Đa phu thê. Kitô giáo nói chung ảnh hưởng đến tình trạng của phụ nữ bằng cách lên án ngoại tình hôn nhân, ly hôn, loạn luân, Đa phu thê, kiểm soát sinh sản, tội giết trẻ con (trẻ sơ sinh nữ có nhiều khả năng bị giết), và phá thai. Trong khi giáo huấn chính thức của Giáo hội coi phụ nữ và nam giới là sự bổ sung cho nhau (bình đẳng và khác biệt), một số người ủng hộ "phong trào phụ nữ và nữ quyền khác" hiện đại cho rằng giáo lý do Thánh Phao Lô và những người Cha của Giáo hội và Chủ nghĩa Kinh viện nâng cao ý niệm về sự trinh tiết của nữ tu được phong chức thiêng liêng. Tuy nhiên, phụ nữ đã đóng vai
  • 24. SV: Đặng Huyền Trang 19 Lớp: K60B-QH-2015-L trò nổi bật trong lịch sử phương Tây như là một phần của nhà thờ, đặc biệt là trong giáo dục và chăm sóc sức khỏe. - Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ả rập. Cơ sở giáo lý Hồi giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammad, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn, tin vào ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Qur'an và luật Sariat. Kinh Qur'an là thánh thư của Hồi giáo, được thiết lập gồm 30 phần, 114 chương (Surah) với 6.211 câu (Ayat) và được viết bằng tiếng Ảrập. Theo Hồi giáo, kinh Qur'an là những lời giáo huấn của Thượng đế cho mọi người mà Thiên sứ Mohammad đã nhận được qua thiên thần Gabriel trong khoảng 22 năm (610-632). Thực ra, kinh Qur'an là tập hợp những lời thuyết đạo của Mohammad lúc còn tại thế, mãi về sau này được sưu tầm, biên soạn thành văn bản chính thức lưu truyền cho đến ngày nay. Kinh Qur'an được người Hồi giáo coi là "cuốn sách vĩ đại nhất, thông thái nhất" chứa đựng mọi "chân lý và tri thức" của loài người. Thực tiễn cho thấy, kinh Qur'an không chỉ đơn thuần là kinh sách tôn giáo mà nó còn có ý nghĩa về tính pháp lý trong xã hội, có nhiều quy định về vệ sinh, ăn ở, hôn nhân, cách cư xử trong gia đình và trong quan hệ xã hội như: quan hệ mua bán, tài chính, chính trị - có cả tội ác và hình phạt. Đây là một đặc điểm quan trọng nhất của Hồi giáo, nó thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo với đời, giữa tôn giáo và chính trị. Ngoài những điều, những hành vi cuộc sống thường nhật của con người mà kinh Qur'an không quy định, hành vi “đối nhân xử thế” của Mohammad hoặc những việc làm của tín đồ mà không bị ngăn cấm đều được coi như những điều luật về tôn giáo và đạo đức của con người. Sự ghi nhận đó là cơ sở và nguồn gốc sách luật thứ hai của tín ngưỡng Hồi giáo - luật Sariat. Đạo Hồi không có Mười Điều Răn như đạo Ki Tô nhưng kinh Qur'an cũng liệt kê mười điều tương tự: 1. Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (tiếng Á Rập là Allah). 2. Vinh danh và kính trọng cha mẹ. 3. Tôn trọng quyền của người khác. 4. Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo. 5. Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt (*). 6. Cấm ngoại tình. 7. Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi. 8. Hãy cư xử công bằng với mọi người. 9. Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
  • 25. SV: Đặng Huyền Trang 20 Lớp: K60B-QH-2015-L 10. Hãy khiêm tốn - Theo giáo lý Ấn Độ Giáo, mỗi người có một vị trí riêng trong cuộc sống và trách nhiệm riêng biệt. Mỗi người được sinh ra ở một chỗ với những khả năng riêng biệt vì những hành động và thái độ trong quá khứ. Điều này giải thích nguyên mẫu xã hội Ấn Độ và nó bao gồm cái gọi là đẳng cấp. Có bốn đẳng cấp chính, ghi trong các tác phẩm Ấn Giáo: (1) nhóm trí thức – thầy tu, (2) tầng lớp quý tộc, kể cả quân nhân, (3) nhóm hành chính gồm có những nhà buôn và địa chủ; và (4) số lớn dân chúng làm những việc thông thường trong xã hội. Giai cấp gọi là “tiện dân” hay “người bị ruồng bỏ” (mới đây bị hủy bỏ do luật của Ấn Độ) gồm có những người có nguồn gốc thuộc những phân nhóm khác của giai cấp thứ tư, quần chúng nhân dân. Do những điều kiện xã hội và kinh tế khác nhau, họ “mất đẳng cấp”, hay mất vị trí trong xã hội. Một phần lớn giáo lý Ấn Độ Giáo đề cập đến khái niệm bổn phận luân lý. Vì người Ấn Độ Giáo nhấn mạnh đến sự đồng nhất của tất cả cuộc sống, họ tin một người quan trọng đối với tất cả những người khác. Điều này có nghĩa là mỗi người phải học hỏi để vượt qua quyền lợi vị kỷ của mình. Khi quyết định phải làm gì, hầu hết mọi người muốn nói, “Tôi sẽ có lợi gì từ việc này?” Người Ấn Độ Giáo nói chúng ta tìm hạnh phúc lâu dài khi chúng ta làm một việc vì đối với chúng ta trong hoàn cảnh của chúng ta đó là điều chính đáng không quan tâm đến lợi lộc mà ta nhận được. - Hầu hết giáo lí Phật giáo đều nhằm mục đích giáo dục con người để có thái độ sống, hành vi ứng xử và cách thích nghi với hoàn cảnh sống, bao hàm những giá trị sống và kĩ năng sống không ngoài mục đích giúp con người “li khổ đắc lạc” (xa lìa khổ đau, đạt được niềm vui an lạc). Mục đích Phật giáo là “đào luyện con người thành bi, trí, dũng”. Bi là tôn trọng quyền sống của người khác. Trí là hành động sáng suốt lợi lạc. Dũng là quyết tâm quả cảm hành động. Dũng không có bi và trí thì sẽ thành tàn ác và manh động. Trí không có bi và dũng thì sẽ thành gian xảo và mộng tưởng. Bi không có trí và dũng sẽ thành tình cảm và nhút nhát. Bi là tư cách tiến hóa, trí là tri thức tiến hoá, dũng là năng lực tiến hoá. Con người như thế là con người mới, căn bản của xã hội mới. Đặc điểm của Phật giáo là “kiến thiết một xã hội mới” mà căn bản là con người mới. Cho nên tranh đấu cho xã hội mới ấy, là phải chiến thắng chính mình trước hết. Con người tự chiến thắng con người, nghĩa là cái “nhân cũ” (bóc lột, đàn áp, độc tài, xâm lược) không còn nữa, thì kết quả được cái “quả mới” là một xã hội mới. Trong xã hội ấy, quyền sống tuyệt đối bình đẳng như sự sống: Bình đẳng trong nhiệm vụ, bình đẳng trong hưởng thụ.”
  • 26. SV: Đặng Huyền Trang 21 Lớp: K60B-QH-2015-L CHƯƠNG II: QUAN ĐIỂM CỦA CÁC TÔN GIÁO VỀ MỘT SỐ QUYỀN CON NGƯỜI CỤ THỂ 2.1. Sự tương đồng giữa quan điểm tôn giáo và tư tưởng quyền con người 2.1.1 Nhân sinh quan Nhân sinh quan là toàn bộ những quan điểm chung nhất về cuộc sống của con người, nhân sinh quan đề ra và giải đáp những vấn đề như con người sinh ra để làm gì? Lẽ sống của con người là gì? Sống như thế nào cho xứng đáng với con người? Nhân sinh quan nói lên quan niệm của con người về bản chất, mục đích của cuộc sống, về thái độ và hành vi của con người trong cuộc sống. Nhân sinh quan có tính giai cấp, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có nhân sinh quan riêng, nhân sinh quan của giai cấp bóc lột nói lên nguyện vọng muốn bóc lột được thật nhiều sức lao động của kẻ khác, nhân sinh quan 26 của giai cấp bị bóc lột nói lên nguyện vọng, mong muốn phản kháng giai cấp bóc lột để giành quyền sống; đó là bởi lẽ nhân sinh quan là một bộ phận của ý thức tư tưởng. Cũng như mọi ý thức tư tưởng khác, nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội, nghĩa là phản ánh địa vị giai cấp của con người trong sản xuất xã hội. Trong xã hội có các giai cấp khác nhau, địa vị khác nhau, trong hệ thống sản xuất xã hội có quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất, có vai trò khác nhau trong tính chất lao động xã hội, có thu nhập và phương thức hưởng thụ khác nhau. Nghĩa là địa vị xã hội và lợi ích khác nhau, nhân sinh quan phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất là khác nhau, mang tính giai cấp. Chỉ trong xã hội cộng sản, khi không còn giai cấp, khi mà mọi người có địa vị và lợi ích như nhau trong sản xuất xã hội thì mới có một nhân sinh quan không có tính giai cấp. Nhân sinh quan là vấn đề quan trọng đối với con người. Trong cuộc sống, con người luôn suy nghĩ về cuộc sống của chính mình và không lúc nào ngừng hoạt động để phục vụ cho cuộc sống của mình. Nhân sinh quan là toàn bộ những kinh nghiệm, cách nhìn nhận chung nhất về cuộc sống, cho nên nó cũng là những tư tưởng chỉ đạo suy nghĩ và hành động của con người, là nguồn với tư cách là hình thái ý thức, tư tưởng, trong mỗi giai cấp, mỗi cộng đồng người và thậm chí trong mỗi người đều tồn tại những kiểu nhân sinh quan khác nhau tương xứng với các hình thái ý thức xã hội khác nhau. Như vậy thì, không chỉ có nhân sinh quan nói chung mà còn có nhân sinh quan cụ thể của từng hình thái ý thức, tư tưởng của con người như nhân sinh quan huyền thoại, nhân sinh quan triết học, nhân sinh quan tôn giáo.
  • 27. SV: Đặng Huyền Trang 22 Lớp: K60B-QH-2015-L Nhân sinh quan tôn giáo được đặt trong mối quan hệ với thế giới quan tôn giáo, nhân sinh quan tôn giáo được hiểu là toàn bộ những quan niệm chung nhất của tôn giáo về cuộc sống của con người nhằm giải đáp cho con người những vấn đề về lẽ sống và định hướng niềm tin vào sự giải thoát. Kito giáo: Xem con người như một nhân vị là một đặc thù của Kitô giáo. Điều này diễn tả tính siêu việt của con người như một hữu thể thiêng liêng. “Tôn trọng “tư cách pháp nhân” của con người có thể là một trong những lý tưởng quan trọng nhất của thời đại chúng ta. Ngày hôm nay, câu hỏi về tư cách pháp nhân cũng như nhân vị được đề cập một cách rộng rãi, như một lý tưởng tối thượng. Tuy nhiên, ít ai biết được rằng ý niệm này hoàn toàn gắn liền với thần học về mặt lịch sử cũng như về phương cách hiện hữu của nó”. Đối với Kitô giáo, nhân vị là một hữu thể con người trong bản thể phổ quát và trong những gì làm nên tính chất đặc thù và duy nhất của từng người. Kitô giáo tuyệt đối hóa ý niệm nhân vị. Mỗi con người hiện hữu trong vai trò của mình trước mặt Thiên Chúa và đối với tha nhân. Là một nhân vị khi ta được người khác nhìn nhận ta chính trong lúc ta nhìn nhận người khác. Vì thế, một nhân vị được xác định trong tương quan với Thiên Chúa và với người khác Kitô giáo không duy tâm, chẳng duy linh, càng không duy vật. Kitô giáo là sự kết hợp hài hòa giữa hồn và xác, giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau cũng như giữa con người với vạn vật trong vũ trũ. Nói một cách khác, nhân học Kitô giáo tức là con người sống, nhập thể, sống trọn kiếp người như Đức Kitô trong môi trường của mình. Ấn độ giáo: Ấn Độ giáo xem con người như thần thánh. Bởi vì Brahma là tất cả mọi vật, Ấn Độ giáo khẳng định rằng tất cả mọi người là thần thánh. Linh hồn của con người (Atman), hay bản chất của nó, là một với Brahman. Mọi thực tại bên ngoài của Brahman được xem chỉ là ảo tưởng. Mục đích thiêng liêng của một người Hindu là trở thành một Brahma, do đó việc không còn sống nữa để tồn tại ở dạng huyền ảo của "tự thân riêng lẻ". Sự tự do này được gọi là “moksha” ("sự giải thoát"). Cho đến khi “moksha” được thực hiện, người Hindu tin rằng anh ấy / cô ấy sẽ được liên tục đầu thai để cho anh ấy / cô ấy có thể hoạt động theo hướng tự thực hành chân lý (sự thật là chỉ có Brahman tồn tại, không có gì khác). Làm thế nào một người được tái sinh được xác định bởi nghiệp báo, mà nó là một nguyên lý nhân quả (principle cause and effect) bị chi phối (governed) bởi sự cân bằng của tự nhiên. Những gì người ta đã làm trong quá khứ ảnh hưởng và tương ứng với những gì sẽ xảy ra trong tương lai, bao gồm cuộc đời quá khứ và tương lai. Phật giáo: Phật giáo quan niệm con người là trung tâm điểm của xã hội loài
  • 28. SV: Đặng Huyền Trang 23 Lớp: K60B-QH-2015-L người. Phật giáo không nói duy tâm, không nói duy vật, mà tất cả đều do người phát sinh và đều phát sinh vì người. Trong thế giới loài người này không có gì tự nhiên sinh ra hay từ hư không rơi xuống, mà đều do năng lực hoạt động của con người tạo thành. Năng lực hoạt động của con người tạo tác chi phối tất cả. Tất cả khổ hay vui, thoái hóa hay tiến hóa, là đều do con người dã man hay văn minh. Người là chúa tể của xã hội loài người, xã hội loài người không thể có chúa trời thứ hai. Cho nên muốn cải tạo xã hội, căn bản là phải cải tạo con người, cải tạo tâm bệnh con người. Tâm bệnh con người nếu còn độc tài, tham lam, thì xã hội loài người là địa ngục; tâm bệnh con người được đối trị rồi thì hoạt động con người rất sáng suốt mà xã hội con người, kết quả của hoạt động ấy, cũng rất cực lạc. 2.1.2 Tư tưởng Về nhà nước và xã hội trong quan điểm tôn giáo - KiTo giáo: Giáo hội Công giáo đã đóng góp cho xã hội thông qua học thuyết xã hội đã hướng dẫn các nhà lãnh đạo thúc đẩy công bằng xã hội và y tế cho người bệnh và người nghèo. Trong các bài giảng như Bài giảng trên núi và những câu chuyện như Người Samari tốt bụng, Chúa Giêsu kêu gọi những người tin Chúa thờ phượng Thiên Chúa, hành động mà không có bạo lực hoặc định kiến và chăm sóc người ốm, đói và nghèo. Giáo lý đó là nền tảng của sự tham gia của Giáo hội Công giáo vào công bằng xã hội, y tế và chăm sóc sức khỏe. Trong lịch sử phát triển nhân loại dưới sự lãnh đạo của Giáo hội ở nhiều loại khoa học, đặc biệt là thiên văn học, toán học, từ nguyên học, triết học, hùng biện, y học, giải phẫu, và vật lý, đặc biệt là Alorstaiwih (tức là ngành khoa học do Aristotle thành lập), cơ học, đặc biệt là các công cụ chiến tranh, cùng với kiến trúc, hóa học, địa lý, triết học và khoa học thực vật và động vật. Trong tương quan đối với nhà cầm quyền, Bộ Truyền giáo căn dặn: “Nếu được vua chúa có cảm tình và rộng lượng, chư huynh hãy tỏ lòng biết ơn. Để tránh mọi ganh tị có thể xảy ra, chư huynh đừng xin đặc ân, miễn trừ đối với luật lệ trong nước… Hãy tránh tất cả những hành động có liên can đến chính trị, kể cả những hành động có thể khiến người ta nghi ngờ chư huynh dính líu vào chính trị. Hãy rao giảng cho tín hữu bổn phận trung thành với Nhà nước, dù các nhà cầm quyền là những người không cùng tín ngưỡng”. Dĩ nhiên, theo thần học luân lý, khi công quyền không còn phục vụ công thiện công ích hay vượt quá quyền hạn của mình để đàn áp người dân, lúc đó các công dân được phép sử dụng những biện pháp cần thiết để bênh vực công lý và nhân quyền. Tuy nhiên khi nhà cầm quyền phục vụ công ích thì họ có thẩm quyền đòi hỏi người dân phải tuân thủ pháp luật và lương tâm cũng đòi buộc các công dân phải chấp hành pháp luật. Theo Công đồng Vatican II, “cộng đồng chính trị và Giáo hội,
  • 29. SV: Đặng Huyền Trang 24 Lớp: K60B-QH-2015-L mỗi bên trong lãnh vực riêng của mình, đều độc lập và tự trị. Tuy nhiên, dù dưới danh nghĩa khác nhau, cả hai đều cùng phục vụ ơn gọi cá nhân và xã hội của con người. Việc phục vụ đó sẽ hữu hiệu hơn cho thiện ích của nhân loại, nếu cả hai duy trì đuợc sự cộng tác tốt đẹp với nhau, thích ứng với từng thời điểm và từng địa phương”. - Hồi giáo: Khác với các tôn giáo thế giới khác, các cộng đồng Islam giáo trên thế giới không chỉ là những cộng đồng tôn giáo thuần tuý mà còn là những cộng đồng mang tính chất chính trị - xã hội. Trong các xã hội Islam giáo không có sự phân biệt rạch ròi giữa tôn giáo với chính trị và luật pháp. Kinh Koran, sách Hadith (sách ghi chép những truyền thuyết về nhà Tiên tri Mohammed), luật Shariah (luật Islam giáo) không chỉ được thực thi trong đời sống tôn giáo mà còn được áp dụng trong cả đời sống xã hội ở các nước lấy Islam giáo làm quốc giáo. Điều này có nguồn gốc lịch sử ngay từ lúc tôn giáo này mới ra đời. Ngay từ khi còn đang phát triển cộng đồng tín đồ Islam giáo của mình tại Medina, nhà Tiên tri Mohammed không chỉ đóng vai trò một thủ lĩnh tôn giáo mà còn là một thủ lĩnh chính trị và một nhà lập pháp. Kinh Koran đã cung cấp một bộ khung luật pháp cho việc tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước và xác lập nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các “công dân” tín đồ trong một xã hội Islam giáo. Từ đây, một mô hình tổng quát về nhà nước chính trị được xác lập theo ý đồ của Đức Allah. Trong suốt quá trình lịch sử phát triển của Islam giáo, Kinh Koran, sách Hadith, luật Shariah luôn được các học giả và giới chức Islam giáo diễn giải cho phù hợp với điều kiện xã hội mà họ đang sống. - Ấn độ giáo: Sau khi giành được độc lập vào năm 1947 và từ khi bản Hiến pháp ra đời, Ấn Độ bãi bỏ và nghiêm cấm phân biệt đối xử giữa các giai tầng xã hội. Nhưng trên thực tế, thay vì mất dần theo thời gian, tình trạng bạo lực vẫn tồn tại và thậm chí còn tăng lên trong những năm gần đây, đặc biệt là nhằm vào tầng lớp "tiện dân", khi tầng lớp này cố thoát khỏi "số phận đã an bài" cho họ. Trước đây, xã hội truyền thống Ấn Độ bị phân hóa thành bốn tầng lớp (varna) theo hệ thống Bà-la-môn giáo (brāhmana) gồm : nhà sư (Brahmane), chiến binh (Kshatriya), thương gia (Vaishya) và người làm việc tay chân hay gia nhân (Shudra). Ngoài ra, còn phải kể tới lớp người "tiện dân" (Dalit), chiếm 16% dân số, không được xếp vào hệ thống này và bị coi là giai cấp cặn đáy của xã hội, là những người ô uế. Họ không có quyền sống, ăn uống hay cầu nguyện với những người khác. Thực trạng đáng thương của những “tiện dân” Ấn Độ không hề thay đổi và Tổ chức Giám sát Nhân quyền Quốc tế (Human Right Watch) đã chất vấn chính phủ Ấn Độ về vấn đề này. Ngày 25/08/2014, tổ chức nhân quyền đã công bố một bản
  • 30. SV: Đặng Huyền Trang 25 Lớp: K60B-QH-2015-L báo cáo về tình trạng phân biệt đối xử vô cùng khắc nghiệt và điều kiện sống không thể chấp nhận được của lớp người bị coi là “cặn bã” của xã hội. Cho tới nay, những phụ nữ “tiện dân” vẫn chỉ được thuê để dọn phân tại các nhà vệ sinh (lạc hậu, không có nước) để kiếm sống, bất chấp các đạo luật đã được ban hành nhằm chấm dứt cách đối xử miệt thị này. - Phật giáo: Đức Phật nói rằng: Người cai trị dân phải có lòng nhân ái thương dân, giúp đỡ những người nghèo khó, ban thưởng xứng đáng cho chúng quan lại biết phục vụ nhân dân, các quan phải thực hành hạnh cần, kiệm, liêm, chính, sống đời đạm bạc, không phung phí ngân quỹ quốc gia, phải thực hành hạnh bình đẳng, xem dân như mình, cùng tuân thủ pháp luật. Tư tưởng Phật giáo về một xã hội lí tưởng, chính là một xã hội trong đó sự bình đẳng, dân chủ và quyền con người được tôn trọng, tiến bộ đạo đức và tâm linh được khuyến khích và người dân quan tâm đến đời sống đạo đức. Đó là một xã hội giúp đỡ cho người thiếu thốn, làm mạnh mẽ những người yếu thế, đem hoà hợp lại cho những người không hoà hợp, mang hạnh phúc và ánh sáng lại cho những người đau khổ và tăm tối. Những điều Đức Phật dạy là hướng đến sự lợi lạc thiết thực cho hết thảy mọi chúng sinh. Mối quan tâm chính của Ngài là xoá bỏ bệnh tật và đau khổ của con người, mang lại từ bi cho mình và cho người. Ngài dạy cho mọi người sự tịnh hoá tư tưởng, dạy cách diệt trừ đau khổ và buồn phiền, cách vượt qua sầu muộn, cách đạt đến con đường chứng ngộ Niết bàn. Do vậy Ngài được mô tả là một người xuất hiện trên thế gian vì phúc lợi, an lạc và hạnh phúc cho nhiều người, vì lòng từ bi đối với thế gian, vì điều tốt đẹp và lợi ích cho loài người. Đây là một xã hội trong đó tất cả mọi công dân đều sống đời chân chính và có trách nhiệm cao, trong khi người lãnh đạo hay quản lí xã hội nên xây dựng một nền kinh tế vững vàng, nền giáo dục đúng tiêu chuẩn, công bằng để cho người dân tin cậy, tự tin, nỗ lực, siêng năng, lương thiện, đạo đức, cao thượng và khoan dung. Còn về môi trường sống, người dân có được sự kết giao tốt với các đoàn thể, có đời sống quân bình, giữ được quan hệ tốt đẹp với người khác và đóng góp vào sự an lạc, hạnh phúc của xã hội. Những người lãnh đạo và quần chúng nên dùng những phương tiện tốt để đạt hạnh phúc cho mình và cho người khác trong việc tạo ra một thế giới không có tham, sân, si. Với tư cách là một nhà cải cách xã hội trong ý nghĩa đạo đức, Đức Phật loại bỏ hệ thống xã hội dựa trên giai cấp của Bà la môn, một hình thái xã hội bóc lột kinh tế đối với quần chúng của những nhà làm tôn giáo và những nhóm chính 33 trị. Tách rời địa vị xã hội của con người khỏi nguồn gốc sinh ra, Đức Phật kết hợp nó với nghiệp báo đạo đức có chủ tâm của con người. Theo lí thuyết này, chính sự phát triển đạo đức và tâm linh của con người làm cho họ trở nên đạo đức và xứng đáng được tôn trọng; ngược lại
  • 31. SV: Đặng Huyền Trang 26 Lớp: K60B-QH-2015-L chính cái động cơ xấu xa và những việc làm ác độc của con người làm cho họ trở thành một kẻ đáng lên án chứ không phải do nguồn gốc sinh ra, bối cảnh gia đình hay địa vị xã hội. Mô hình xã hội lí tưởng của Phật giáo dựa trên sự bình đẳng, chân chính và đạo đức. Những khó khăn và những tội ác trong xã hội được coi như là sinh ra từ sự tham ái và những điều kiện không tốt đẹp của đời sống. Tội ác và hình phạt do đó được nhìn từ viễn cảnh cải cách để đạt đến một giải pháp hữu hiệu, hoặc ít ra là kiểm soát được nó. Thêm vào đó, những nguyên tắc hòa hợp và đoàn kết nêu trên chính là nhằm góp phần xây dựng một xã hội của những người có kỉ luật và tự tin vào chính mình. Họ là những con người có trách nhiệm về sự an lạc, tiến bộ và hạnh phúc của chính mình cũng như của người khác. Một xã hội như thế thì chắc chắn đã đảm bảo ở mức độ cao những tiêu chuẩn về quyền con người trong Luật nhân quyền quốc tế ngày nay. Và quan trọng nhất theo chúng tôi, tư tưởng Phật giáo góp phần, hướng tới xây dựng một nền đạo đức cho con người mà một xã hội, với những người dân có được các phẩm chất đạo đức ấy, nhất định sẽ đóng góp tích cực vào việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người. 2.2. Quan điểm của các tôn giáo về một số quyền cụ thể 2.2.1. Quyền sống Theo Khoản 1 Điều 6 ICCPR, mọi người đều có quyền cố hữu là được sống, không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện. Quyền sống là cơ sở cho tất cả các quyền con người. Chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội ác nghiêm trọng nhất. Bình luận chung số 6 của HRC thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982 nói rõ thêm, quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong bất kì hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia cũng không thể bị vi phạm. Thêm nữa, một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến tranh và các tội phạm nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì thế, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống, nghĩa là nó có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh và kích động hận thù, bạo lực. Đồng thời, các quốc gia có nghĩa vụ hạn chế sử dụng hình phạt tử hình, chỉ có thể được áp dụng hình phạt này với những tội ác nghiêm trọng nhất, việc giới hạn áp dụng hình phạt này được coi là một hình thức bảo đảm quyền sống. Theo Kito giáo, thiên chúa muốn chúng ta tôn trọng sự sống—của chính mình và của người khác. Thí dụ vào thời A-đam và Ê-va, con của họ là Ca-in giận dữ với em là A-bên. Đức Giê-hô-va cảnh cáo Ca-in là cơn giận của ông có thể khiến ông phạm trọng tội. Ca-in lờ đi lời cảnh cáo đó. Ông “xông đến A-bên là em mình, và giết đi”. Thirn chúa trừng phạt Ca-in vì tội giết em. Hàng ngàn năm sau, thiên chúa
  • 32. SV: Đặng Huyền Trang 27 Lớp: K60B-QH-2015-L ban cho dân Y-sơ-ra-ên những luật pháp để giúp họ phụng sự theo cách đẹp ý Ngài. Vì những luật pháp này được ban qua trung gian nhà tiên tri Môi-se, cho nên đôi khi được gọi là Luật Pháp Môi-se. Một điều luật trong Luật Pháp Môi-se nói: “Ngươi chớ giết người”. Điều này cho dân Y-sơ-ra-ên biết rằng Đức Chúa Trời quý trọng mạng sống của con người và họ cũng phải quý trọng sự sống của người khác. Còn về sự sống của một thai nhi thì sao? Theo Luật Pháp Môi-se, gây ra cái chết của đứa bé trong bụng mẹ là một tội trọng. Thật vậy, ngay cả một mạng sống như thế cũng quý giá đối với Đức chúa trời. Điều này có nghĩa phá thai là phạm tội. Để tôn trọng sự sống, chúng ta cần có quan điểm đúng về người đồng loại. Kinh Thánh nói: “Ai ghét anh em mình, là kẻ giết người; anh em biết rằng chẳng một kẻ nào giết người có sự sống đời đời ở trong mình”. Nếu muốn sống muôn đời, chúng ta cần loại trừ mọi hận thù khỏi lòng mình, vì hận thù là căn nguyên của hầu hết mọi sự hung bạo. Điều trọng yếu là chúng ta phải biết yêu thương lẫn nhau. Còn về việc tôn trọng chính mạng sống mình thì sao? Thường thì người ta không muốn chết, nhưng một số người muốn tìm khoái lạc dù biết điều này dẫn đến cái chết. Thí dụ, nhiều người dùng thuốc lá, ăn trầu hoặc dùng ma túy để tiêu khiển. Những chất này làm hại thân thể và thường giết chết người dùng. Một người thường xuyên dùng những chất ấy không xem sự sống là thiêng liêng. Những thực hành này là ô uế dưới mắt Đức Chúa Trời. Để phụng sự theo cách đẹp ý Đức Chúa Trời, chúng ta phải bỏ những thực hành ấy. Mặc dù đây là điều khó làm, nhưng Đức Giê- hô-va có thể cho chúng ta sự giúp đỡ cần thiết. Và Ngài quý trọng những nỗ lực của chúng ta khi chúng ta xem sự sống là món quà quý giá mà Ngài đã ban. Nếu tôn trọng sự sống, chúng ta sẽ luôn quan tâm đến sự an toàn. Chúng ta sẽ thận trọng và không liều lĩnh chỉ vì muốn được khoái lạc hoặc kích thích. Chúng ta sẽ tránh lái xe bất cẩn và chơi những trò thể thao hung bạo hay nguy hiểm. Luật pháp của Đức Chúa Trời cho dân Y-sơ-ra-ên xưa có ghi: “Khi ngươi cất một cái nhà mới [có sân thượng], thì phải làm câu-lơn [lan can] nơi mái nhà, kẻo nếu người nào ở trên đó té xuống, ngươi gây cho nhà mình can đến huyết chăng”. Để phù hợp với nguyên tắc được ghi trong luật pháp này, chúng ta phải giữ thang lầu được an toàn để không người nào bị vấp, ngã và bị thương. Nếu bạn có xe, hãy chắc chắn xe được bảo trì tốt. Đừng để cho nhà cửa hay xe cộ của bạn gây nguy hại cho chính bạn hoặc người khác. Thật vậy, từ đầu đến cuối, xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh là ý nghĩa sâu xa về sự sống với thiên hình vạn trang và một ý nghĩa thuần khiết về việc Thiên Chúa mặc khải cho chúng ta thấy rằng con người được mời gọi hiện hữu để sống niềm hi