Download luận văn thạc sĩ ngành luật với đề tài: Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang, cho các bạn tham khảo
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Luận văn: Quyền công tố trong điều tra mua bán trái phép chất ma túy
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC PHỤNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂMKHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN NGỌC PHỤNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN TỈNH TIỀN GIANG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Đức Hạnh
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận văn
Nguyễn Ngọc Phụng
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ................................................... 7
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu....................... 7
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.....15
1.3. Yêu cầu và quy định của pháp luật đối với Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn điều
tra.....................................................................................................................23
Tiểu kết chương 1..................................................................................44
Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG
GIA ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TIỀN GIANG VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ..............................................................................................................45
2.1. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua
bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền Giang..................................45
2.2. Nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc trong thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang...................................................................................56
2.3. Kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền
giang................................................................................................................61
Tiểu kết chương 2............................................................................................66
KẾT LUẬN....................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA: Bộ Công an
BLHS: Bộ luật hình sự
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
CSĐT: Cảnh sát điều tra
CTTP: Cấu thành tội phạm
CQĐT: Cơ quan điều tra
KSĐT: Kiểm sát điều tra
QPPL: Quy phạm pháp luật
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TNHS: Trách nhiệm hình sự
THQCT: Thực hành quyền công tố
VKS: Viện kiểm sát
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án và bị can đã khởi tố, truy tố và xét xử phạm
tội về ma túy từ năm 2014 đến 2018…………………………………..…..47
Bảng 2.2: Tỷ lệ tội Mua bán trái phép chất ma túy so với tội phạm nói
chung từ năm 2014 đến năm 2018……………………………………...….48
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm vừa qua, tội phạm về ma túy ngày càng gia tăng về
số lượng, diễn biến ngày càng phức tạp về quy mô và tính chất gây ảnh hưởng
đến an ninh xã hội với phương thức, thủ đoạn luôn thay đổi, tinh vi, xảo
quyệt, khi bị phát hiện và bắt giữ thường manh động, chống trả quyết liệt khi
bị bắt.
Bên cạnh đó, quy mô, số lượng, tính chất và đối tượng phạm tội ma túy
đang có những diễn biến phức tạp không ngừng. Quy mô của tội phạm ma túy
không dừng ở địa phận từng quốc gia đơn lẻ mà nó còn mang tính chất quốc
tế, xuyên quốc gia, xuyên lục địa. Số lượng ma túy không ngừng tăng, có rất
nhiều loại ma túy ra đời, đôi khi Nhà nước không kịp cập nhật trong các văn
bản pháp luật quy định về danh mục chất và tiền chất ma túy. Thủ đoạn phạm
tội của các đối tượng ngày càng tinh vi và xảo quyệt, thậm chí còn lợi dụng cả
những khe hở của pháp luật để phạm tội. Trước tình hình đó, đặt ra cho các cơ
quan Nhà nước nói chung, đặc biệt là các cơ quan tư pháp như Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án những nhiệm vụ hết sức nặng nề trong đấu tranh
phòng chống tội phạm về ma túy để giữ vững ổn định và phát triển xã hội.
Địa bàn tỉnh Tiền Giang nằm trong tọa độ 105°50’–106°55’ kinh độ
Đông và vĩ độ Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh Long An, phía Tây giáp tỉnh Đồng
Tháp, phía Nam giáp tỉnh Bến Tre và tỉnh Vĩnh Long, phía Đông Bắc
giáp Thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông Nam giáp Biển Đông. Được chính
phủ quy hoạch là một trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nên cùng với
sự phát triển về kinh tế thì tệ nạn xã hội cũng không ngừng gia tăng và diễn
biến phức tạp, trong đó nổi bật nhất là tội phạm về ma túy. Nguồn ma túy chủ
yếu từ các thành phố Hồ Chí Minh và Long An chuyển đến gây hậu quả vô
cùng nghiêm trọng đến sự phát triển, tác động tiêu cực đến xã hội, đặc biệt là
8. 2
tầng lớp thanh thiếu niên, từ đây kéo theo các hành vi tiêu cực và vi phạm
pháp luật khác. Tuy nhiên, hiện nay công tác thực hành quyền công tố đối với
các vụ án về ma túy của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang nói chung
vẫn còn những thách thức, hạn chế.
Nhằm góp phần đánh giá tính chất nguy hiểm của nhóm tội phạm về
ma túy, các giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án về ma túy
trong đó có giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố đối với
các vụ án này trong giai đoạn của tố tụng nói chung và đặc biệt là giai đoạn
điều tra, học viên đã lựa chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền
Giang” làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã nghiên
cứu các công trình khoa học sau đây:
- Đinh Văn Quế (2006) Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (tập IV các
tội phạm về ma túy), Nxb Chính trị Hà Nội.
- Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự năm 1999, Hà Nội.
- Quốc hội (2015), Bộ luật Hình sự năm 2015, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình lý luận chung về định tội danh,
Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
chung), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần các
tội phạm), Nxb khoa học xã hội, Hà Nội.
- Bên cạnh đó tác giả còn nghiên cứu các bài viết về nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, về phòng ngừa tội phạmđược đăng tải trong những năm
9. 3
qua trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, Công an
nhân dân, Tòa án nhân dân và Tạp chí Viện Kiểm sát.
2.2 Tình hình nghiên cứu thực tế
Tội phạm về ma túy được nhiều tác giải nghiên cứu với nhiều đề tài khác
nhau:
- Luận văn cao học “Đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy
trên địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng” của thạc sĩ Đào Thị Huệ
năm 2011;
- Luận văn cao học “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật
hình sự từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” của thạc sĩ Triệu Thị Ngân Hà năm
2017;
- “Kiểm sát điều tra các tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất
ma túy theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí
Minh” của thạc sĩ Lê Viễn Phương;
Mỗi công trình nghiên cứu gắn với một địa bàn tỉnh thành cụ thể khác
nhau và được tiếp cận với nhiều góc độ khác nhau về công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm về ma túy.
Những vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu: Hiện nay chưa có công trình
khoa học cụ thể nào nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về thực hành quyền công
tố các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong giai đoạn điều tra trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang. Từ nhận định trên, luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu,
phân tích vấn đề này và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Tiền giang để từ
đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác
này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
10. 4
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ vấn đề lý luận về vai trò và
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy nói chung
và trên địa bàn tỉnh Tiền Giang nói riêng. Đồng thời đưa ra một số kiến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động thực hành quyền công tố
trong giai đoạn kiểm sát điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên
địa bàn tỉnh Tiền Giang.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu Luận văn đề ra các nhiệm vụ cụ thể
cần giải quyết sau đây:
-Nghiên cứu các khái niệm cơ bản liên quan đến hoạt động thực hành
quyền công tố nói chung và hoạt động thực hành quyền công tố trong giai
đoạn kiểm sát điều tra nói riêng; Phân tích, làm rõ nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn kiểm sát
điều tra.
- Khảo sát nghiên cứu thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang, từ đó làm rõ nhận thức và đánh giá cơ bản về vai trò và hoạt động
của Kiểm sát viên khi kiểm sát điều tra các vụ án Mua bán trái phép chất ma
túy từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang.
- Thông qua khảo sát và nghiên cứu thực tiễn, đối chiếu với lý luận để
đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền
công tố trong giai đoạn kiểm sát điều tra đối với các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
11. 5
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật, các
quy định của ngành kiểm sát nhân dân và các hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên,..thể hiện vai trò và nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Tiền
Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài đi sâu vào trọng tâm nghiên cứu về quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự đối với vai trò và hoạt động của Viện kiểm sát khi thực hành quyền
công tố trong gia đoạn kiểm sát điều tra và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng thực hành quyền công tố.
Về không gian, đề tài khảo sát và thu thập số liệu thực tiễn đối với Viện
kiểm sát nhân dân hai cấp trên địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Về thời gian, đề tài tập trung phân tích, đánh giá nghiên cứu trong giai
đoạn từ 2014 – 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật về cải cách tư pháp.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống: Phân
tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê, so sánh, khảo sát thực tế... và phương
pháp phỏng vấn chuyên gia có kinh nghiệm công tác của các Kiểm sát viên
thuộc Viện kiểm sát nhân dân hai cấp của tỉnh Tiền Giang.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa đối với việc hoàn thiện pháp
luật, đóng góp thêm vào sự phát triển lý luận về vai trò và nhiệm vụ của Kiểm
12. 6
sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố trong giai đoạn kiểm sát
điều tra đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy. Với việc đề xuất các
giải pháp, trong đó có việc đưa ra một số giải pháp – kiến nghị góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng
trong hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự. Luận văn cũng là tại liệu tham
khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, bồi dưỡng chuyên nghành kiểm
sát, hoàn thiện các quy chế công tác của nghành kiểm sát và những ai quan
tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn.
Nội dung của Luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công
tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Tiền Giang và một
số kiến nghị
13. 7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những khái niệm cơ bản liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản năm 2008 đưa ra khái niệm TTHS là khái niệm pháp lý dùng để
chỉ trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của
pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự). Tố tụng
hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm và
Thư ký Tòa án); người tham gia tố tụng (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
người bào chữa; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bảo vệ quyền lợi của đương
sự, người làm chứng, người giám định và phiên dịch), của cá nhân, cơ quan
và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật hình sự [tr.9-10]
Ngoài ra TTHS cũng còn được đề cập và hiểu là hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra cho đến khi vụ án
hình sự được xem xét giải quyết bằng quyết định hoặc bản án của Tòa án.
Hoạt động TTHS trong bất kỳ Nhà nước nào luôn là hoạt động được điều
chỉnh chặt chẽ bởi các quy định của luật. Điều này được giải thích bởi lý do
đây là hoạt động liên quan đến việc phát hiện, khám phá tội phạm và kẻ phạm
tội – lĩnh vực liên quan đến các lợi ích quan trọng hàng đầu mà Nhà nước
phải quan tâm bảo vệ. Phòng chống tội phạm luôn là hoạt động ưu tiên của
14. 8
Nhà nước. Điều tra khám phá tội phạm, kẻ phạm tội, xác định các tình tiết sự
kiện của vụ án đã xảy ra ở thời quá khứ và các thông tin, dấu vết để lại của tội
phạm luôn có sự biến đổi do tác động của các quy luật khách quan. Trong
hoạt động này việc áp dụng những biện pháp cưỡng chế Nhà nước là cần thiết
khách quan, không thể tránh khỏi và hệ quả của nó là sự hạn chế, xâm phạm
đến các quyền và tự do hiến định của công dân. Vì vậy luật phải có những
quy định chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế
này. Để thực hiện nhiệm vụ khám phá tội phạm và kẻ phạm tội Nhà nước
thành lập hệ thống các cơ quan tiến hành tố tụng với các thẩm quyền, chức
năng khác nhau như Cơ quan điều tra, VKS và Tòa án. Có thể nói rằng hoạt
động TTHS là một dạng hoạt động quyền lực Nhà nước do các cơ quan Nhà
nước tiến hành nhằm thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước,
của xã hội, đến các quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Các cơ
quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ áp dụng mọi biện pháp do luật định để
khám phá tội phạm, đối tượng phạm tội và trừng phạt theo quy định của pháp
luật, bảo đảm nguyên tắc tội phạm không tránh khỏi hình phạt. Do vậy hoạt
động TTHS là hoạt động quyền lực công – hoạt động vì lợi ích chung của
Nhà nước, của xã hội. Nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng, kịp thời tội phạm và
đối tượng phạm tội, phát hiện, thu thập đầy đủ các chứng cứ làm cơ sở xác
định lỗi của đối tượng phạm tội. Toàn bộ quá trình xem xét, giải quyết vụ án
hình sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm
bản án, quyết định của Tòa án trong vụ án là khách quan, công minh, xử đúng
người, đúng tội và áp dụng hình phạt công bằng cho đối tượng phạm tội,
không là oan người vô tội.
Bên cạnh đó bất kỳ hoạt động nào của con người cũng có thể diễn ra
dưới hình thức nhất định và có thể phân chia thành những giai đoạn được liên
15. 9
kết với nhau bởi những mối quan hệ hoặc nguyên tắc nào đó nhằm thực hiện
được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất. Hoạt động TTHS cũng nằm trong
quy luật chung đó. Khái niệm TTHS có nghĩa là quá trình, tiến trình và quá
trình, tiến trình này vận động tiến lên phía trước để đạt đến mục tiêu của nó là
làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án thông qua những giai đoạn hay
những chặng đường nối tiếp nhau. Không phải vụ án hình sự nào cũng có thể
được khám phá, sự thật khách quan được xác định ngay lập tức, kể cả trong
trường hợp phạm tội quả tang mà luôn đòi hỏi phải có thời gian, phải tiến
hành những hành vi tố tụng cần thiết ngay sau khi phát hiện tội phạm để có
thể đưa ra Tòa án xét xử. Bản thân việc xét xử của Tòa án cũng đòi hỏi thời
gian và đòi hỏi hàng loạt những họat động tố tụng kèm theo từ khi nhận được
hồ sơ vụ án cho đến khi tuyên bản án hay quyết định. Bản chất của hoạt động
TTHS là sự tương tác giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, bào chữa, xét xử)
do các chủ thể khác nhau thực hiện và nội dung của sự tương tác và vai trò
của các chủ thể rất khác nhau trong toàn bộ tiến trình giải quyết vụ án hình sự.
Mỗi chức năng cơ bản, mỗi chủ thể tố tụng đều có vai trò của mình trong tiến
trình đó. Họat động TTHS không phải là tổng thành cơ học của những hành vi
tố tụng tùy nghi d ocác chủ thể tham gia vào hoạt động này thực hiện mà là
tổng thành của hệ thống các hành vi tố tụng liên kết chặt chẽ với nhau, có
quan hệ ảnh hưởng qua lại với nhau một cách biện chứng và hệ thống này
được phân chia thành các giai đoạn khác nhau mà thông thường tiến trình tố
tụng của bất kỳ vụ án nào cũng phải trải qua. Đặc điểm của hoạt động TTHS
nói chung cũng như của từng hành vi tố tụng riêng lẻ là chúng luôn được luật
quy định và được tiến hành theo trình tự, hình thức do luật định. Yêu cầu này
của luật là yêu cầu chung trong mọi vụ án hình sự và bằng cách đó bảo đảm
tính hợp pháp cho hoạt động TTHS và những kết quả mà nó đạt được, bảo
đảm các quyền và tự do hiến định của những người tham gia trong tố tụng,
16. 10
bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án luôn khách quan, công minh
[22, tr.25]
TTHS có những đặc điểm đó là: Luôn có tiến trình theo thời gian với các
bước, các giai đoạn nhất định, bắt đầu khi có thông tin về tội phạm và kết thúc
khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Mỗi một tiến trình thời gian
được gọi là một giai đoạn tố tụng hình sự. Nói cách khác giai đoạn tố tụng
hình sự là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết thúc một vụ án
hình sự (Từ khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số nhiệm vụ điều tra
tiếp nhận, thụ lý tin báo, tố giác tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố đến khi vụ án
được giải quyết xong). Trong mỗi một giai đoạn của tố tụng hình sự sẽ xác
định được một thời điểm bắt đầu, một thời điểm kết thúc, xác định được cơ
quan tiến hành tố tụng chủ yếu thực hiện chức năng của tố tụng nhằm buộc tội
hoặc kết tội… Quá trình tố tụng hình sự gồm các giai đoạn diễn ra liên tục và
nối tiếp nhau tạo thành một thể thống nhất, chúng tôi cho rằng tố tụng hình sự
có bốn giai đoạn là: Giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố (còn gọi là giai đoạn khởi tố hoặc giải quyết nguồn tin), tiếp theo
là giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự có quy
định một số thủ tục thi hành án nhưng thi hành án không được gọi là một giai
đoạn của tố tụng hình sự như các thủ tục đặc biệt giám đốc thẩm và tái thẩm
được quy định trong Bộ luật nhưng không phải là một gia đoạn của tố tụng
hình sự.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự do
cơ quan có thẩm quyền tiến hành, hoạt động chính là nhằm thu thập đầy đủ
các chứng cứ chứng minh tội phạm. Giai đoạn điều tra được hiểu theo hai
nghĩa rộng và hẹp. Nếu theo nghĩa rộng thì giai đoạn điều tra được bắt đầu từ
khi cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm hoặc
kiến nghị khởi tố đến khi kết thúc việc điều tra , bản kết luận điều tra và hồ sơ
17. 11
được chuyển đến Viện kiểm sát để truy tố hoặc vụ án được đình chỉ. Giai
đoạn điều tra theo nghĩa hẹp bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình
sự và kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền điều tra ban hành Bản kết luận điều
tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề đề nghị truy tố. Trong luận văn này tác
giả tập trung nghiên cứu toàn diện quá trình điều tra theo nghĩa rộng nhằm
làm rõ hơn vai trò của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong hoạt
động điều tra vụ án hình sự.[22, tr.23]
Kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là hoạt động của VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự phát sinh trong giai đoạn điều tra, nhằm đảm bảo cho quá trình điều
tra vụ án được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm việc điều
tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác; những vi phạm pháp luật
trong quá trình điều tra phải được phát hiện, khắc phục kịp thời và xử lý
nghiêm minh.
Các chủ thể có thẩm quyền tiến hành và tham gia tố tụng trong giai đoạn
điều tra bao gồm:
- Chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chủ thể thuộc các cơ quan
được tiến hành một số hoạt động điều tra và chủ thể thuộc các cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện những nhiệm vụ được quy định trong BLTTHS, chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng có thể ban hành các quyết định nhằm
thúc đẩy tố tụng phát, chấm dứt một giai đoạn tố tụng hoặc chuyển sang một
giai đoạn tố tụng khác. Trong đó, chủ thể thuộc các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra như các cán bộ được giao nhiệm vụ
trong các cơ quan Hải quan, Kiểm Lâm, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển,
Kiểm ngư, các cơ quan trong lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân
dân khi thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện vi phạm. Chủ thể tiến hành tố tụng
trong giai đoạn điều tra bao gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều
18. 12
tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên. Lần đầu tiên nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên
được quy định cụ thể tại Điều 43 BLTTHS năm 2015, theo đó Kiểm tra viên
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân công của Kiểm sát viên; chịu
trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên về hành vi của mình. Mặc dù mới được quy định cụ
thể về thẩm quyền trong Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Bộ luật chuyên
ngành nhưng điều đó khiến cho Kiểm tra viên được tham gia vào các hoạt
động tố tụng một cách đầy đủ và đảm bảo hơn trong một nên tố tụng ngày
càng đòi hỏi nâng cao về tất cả các mặt. Điều đó cũng đảm bảo pháp luật tố
tụng được thực thi một cách chặt chẽ, chính xác nhằm đảm bảo tính đồng bộ,
dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và qua
đó sẽ giúp nâng cao được vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân dân trong hệ
thống tư pháp. Hoạt động giải quyết vụ án hình sự yêu cầu phải bảo đảm tính
công minh, khách quan và tuân thủ đúng quy định của pháp luật nhằm làm
cho quá trình giải quyết vụ án được thực hiện một cách công bằng, khách
quan, chính xác, không để xảy ra trường hợp oan sai, bỏ lọt tội phạm. Để bảo
đảm cho quá trình tố tụng diễn ra một cách khác quan, chính xác, pháp luật tố
tụng hình sự quy định chủ thể tiến hành tố tụng phải lấy sự vô tư, khách quan
là điều kiện tiên quyết khi tham gia giải quyết vụ án hình sự, nếu không đảm
bảo sự vô tư trong quá trình giải quyết vụ án thì không được tham giam vào
việc giải quyết vụ án và phải được thay đổi người tiến hành tố tụng khác.
- Chủ thể tham gia tố tụng là những chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp
cần được pháp luật bảo vệ, những người có nghĩa vụ pháp lý phải tham gia
vào việc giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự
và những người tham gia tố tụng để hổ trợ pháp lý cho những người tham gia
tố tụng khác. Những người tham gia tố tụng khi tham gia vào quan hệ tố tụng
19. 13
sẽ được thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách cá nhân hoặc tổ
chức hoặc pháp nhân thương mại.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt
động của VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo quá
trình điều tra vụ án hình sự được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Theo các quy định của BTLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức Cơ quan Điều
tra hình sự năm 2015, cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự là cơ
quan điều tra và cơ quan được gia nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra. Đồng thời, quy định trách nhiệm của VKSND trong THQCT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, quyết định việc buộc tội, phát
hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật để không lọt tội phạm và người phạm tội,
pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.
Hoạt động THQCT và KSĐT của VKSND được thực hiện thông qua
nhiệm vụ, quyền hạn của những người được phân công tiến hành hoạt động tố
tụng hình sự. Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 và BLTTHS
năm 2015 đối tượng KSĐT của VKSND là hoạt động điều tra của cơ quan
điều tra và hoạt động của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra.
Tại Khoản 1 Điều 11 Luật tổ chức CQĐT hình sự 2015 quy định: “Viện
kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra nhằm bảo đảm cho hoạt
động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra tuân thủ các quy định của BLTTHS và Luật này; phải phát hiện
kịp thời và yêu cầu, kiến nghị CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
20. 14
một số hoạt động điều tra khắc phục vu phạm pháp luật trong hoạt động điều
tra.”
Lần đầu tiên nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên được quy định cụ
thể tại Điều 43 BLTTHS năm 2015, theo đó Kiểm tra viên thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn theo sự phân công của Kiểm sát viên; chịu trách nhiệm trước
pháp luật và trước Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát
viên về hành vi của mình. Mặc dù mới được quy định cụ thể về thẩm quyền
trong Luật tổ chức Viện kiểm sát và các Bộ luật chuyên ngành nhưng điều đó
khiến cho Kiểm tra viên được tham gia vào các hoạt động tố tụng một cách
đầy đủ và đảm bảo hơn trong một nên tố tụng ngày càng đòi hỏi nâng cao về
tất cả các mặt. Điều đó cũng đảm bảo pháp luật tố tụng được thực thi một
cách chặt chẽ, chính xác nhằm đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai,
minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người và qua đó sẽ giúp nâng cao
được vị thế của ngành Kiểm sát nhân dân dân trong hệ thống tư pháp.
BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sả, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nhằm
nâng cao chức năng THQCT và KSĐT. Các chủ thể THQCT và KSĐT đều
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện
việc buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy bắt đầu từ khi có tố giác
hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tin báo về tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy hoặc kiến nghị khởi tố vụ án hình sự mua bán trái phép chất ma
túy (có nguồn tin báo về tội phạm mua bán trái phép chất ma túy) và kết thúc
thuộc một trong ba trường hợp đó là: Khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết
21. 15
định đình chỉ việc giải quyết nguồn tin báo về tội phạm mua bán trái phép
chất ma túy; khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án mua bán
trái phép chất ma túy hoặc khi cơ quan có thẩm quyền kết thúc điều tra, ban
hành kết luận điều tra đối với vụ án mua bán trái phép chất ma túy và chuyển
hồ sơ đến Viện kiểm sát để đề nghị truy tố các bị can.[09, tr. 50 - 53]
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy
1.2.1. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Theo quy định tại Điều 14 Luật tổ chức VKSND năm 2104 khi thực
hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân
dân có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
“1. Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ
án, khởi tố bị can.
2. Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án trái pháp luật; phê chuẩn,
hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can trái pháp luật.
3. Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can
trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định.
4. Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn
cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân.
22. 16
5. Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam, các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp khác hạn chế quyền con
người, quyền công dân theo quy định của luật.
6. Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định tố tụng khác của
Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra.
7. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để
làm rõ tội phạm, người phạm tội; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
8. Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để
kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội
phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không
được khắc phục.
9. Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra có dấu hiệu tội
phạm.
10. Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển
vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
11. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền
công tố theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.”
Theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì cơ
quan có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra là Viện
kiểm sát nhân dân. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua nhiệm vụ, quyền hạn
23. 17
của những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình
sự.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể, chặt chẽ nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát trong THQT và trong hoạt động kiểm sát điều
tra. Điểm mới trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 liên quan
đến vấn đề thực hành quyền công tố là hoạt động kiểm sát điều tra của Viện
kiểm sát nhân dân.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
VKSND có quyền đề ra yêu cầu điều tra để yêu cầu cơ quan CSĐT tiến hành
hoạt động điều tra, đây là nhiệm vụ được coi là quan trọng nhất của VKS
trong giai đoạn này. Để bảo đảm hoạt động điều tra được tiến hành tốt, Kiểm
sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, bám sát quá trình hoạt động của cơ quan điều tra
nhằm kịp thời đưa ra các yêu cầu điều tra một cách toàn diện để đảm bảo quá
trình điều tra được thực hiện đúng quy định của pháp luật và việc giải quyết
vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh đó, để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của mình, Viện kiểm sát có quyền trực tiếp thực hiện một số
hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật như: Hỏi cung bị can; Ghi lời
khai bị hại, người làm chứng, người liên quan; Tiến hành đối chất;…để củng
cố các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhằm đánh giá một cách khách quan và
toàn diện toàn bộ vụ án.[9, tr. 50 – 53]
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự,
tùy từng trường hợp VKS có thể thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân
công theo quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm việc điều tra khách quan,
toàn diện, đúng pháp luật, tuyệt đối không để xảy ra trường hợp oan sai hoặc
bỏ lọt tội phạm. Tùy từng trường hợp, VKS có thể tiến hành khởi tố vụ án,
khởi tố bị can hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can của cơ
24. 18
quan điều tra nếu quá trình nghiên cứu phát hiện cơ quan điều tra đã thực hiện
không đúng quy định của pháp luật.
Đối với các vụ án có tính chất phức tạp, còn nhiều quan điểm khác nhau
thì tăng cường họp liên ngành; Kiểm sát viên, Điều tra viên cần tăng cường
trao đổi thống nhất việc đánh giá chứng cứ, chứng minh các tình tiết vụ án.
Trên cơ sở quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố
tụng hình sự 2015 thay đổi theo hướng tăng cường trách nhiệm của Kiểm sát
viên nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án hình sự, chống oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh đó, nhiệm
vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên là quy định mới, được quy định cụ thể tại
Điều 43 Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chủ thể thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra đều phải chịu trách nhiệm trách pháp luật về hành vi, quyết
định của mình.
Theo quy định tại Điểm b, c Khoản 1 Điều 41 Bộ luật Tố tụng hình sự
thì Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền phân công hoặc thay đổi Phó Viện
trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên. Việc phân công thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự được thể hiện bằng Quyết định phân
công theo mẫu do Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành. Quyết định phân
công do Viện trưởng ký, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên có
tên trong quyết định có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.
Phân cấp thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự
được thực hiện ở Viện kiểm sát nhân dân tối cáo, Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử của Tòa án
các cấp tương đương.
25. 19
1.2.2. Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi
thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án mua bán trái
phép chất ma túy
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của Viện kiểm sát được chú trọng từ khi Cơ quan điều tra tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, xét
xử các vụ án. Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm. Viện kiểm
sát chỉ trực tiếp giải quyết khi phát hiện Cơ quan điều tra có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày Cơ quan điều tra đang
thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhận được
văn bản mà không khắc phục thì Viện kiểm sát sẽ tiến hành kiểm tra, xác
minh làm rõ nội dung vụ án và trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố trên.
Nhiệm vụ, quyền hạn thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự mua bán trái phép chất mà túy của Viện kiểm sát thể hiện bằng
các hình thức như:
- Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án
mua bán trái phép chất ma túy, khởi tố bị can trong vụ án mua bán trái phép
chất ma túy.
- Hủy bỏ các quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết
định khởi tố vụ án mua bán trái phép chất ma túy, quyết định không khởi tố
vụ án mua bán trái phép chất ma túy trái pháp luật; phê chuẩn, hoặc hủy bỏ
26. 20
quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can
trong vụ án mua bán trái phép chất ma túy trái pháp luật.
- Khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối
với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong những trường hợp do Bộ
luật Tố tụng hình sự quy định.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
gia hạn tạm giữ, việc tạm giam và các biện pháp hạn chế quyền con người,
quyền công dân đối với những người phạm phạm mua bán trái phép chất ma
túy.
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,
các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền
công dân theo quy định của luật với những người phạm phạm mua bán trái
phép chất ma túy.
- Phê chuẩn, không phê chuẩn, hủy bổ các quyết định tố tụng khác liên
quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Sau khi phê
chuẩn các quyết định, các lệnh, Kiểm sát viên phải khẩn trương đề ra các nội
dung cần làm rõ để yêu cầu điều tra viên củng cố chứng cứ điều tra mở rộng
vụ án. Các yêu cầu điều tra phải được lập bằng văn bản và lưu hồ sơ kiểm sát,
hồ sơ chính.
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện việc điều tra để làm rõ
hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy; yêu cầu cơ quan điều tra truy
nã bị can.
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp để kiểm
tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
27. 21
tra hoặc trong trường hợp phát hiện dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi
phạm pháp luật mà Viện kiểm sát nhân dân đã yêu cầu nhưng không được
khắc phục đối với những vụ án mua bán trái phép chất ma túy.
- Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra các vụ án mua bán
trái phép chất ma túy có dấu hiệu tội phạm.
- Quyết định việc gia hạn thời hạn điều tra, thời hạn tạm giam, chuyển vụ
án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh đối với vụ
án và bị can phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công
tố đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
Theo quy định của BLTTHS 2015, VKS chỉ tiếp nhận tố giác, kiến nghị
khởi tố đối với tội ma ma túy sau đó chuyển đến Cơ quan điều tra có thẩm
quyền để xác minh, giải quyết và có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của
Cơ quan điều tra đối với nguồn tin này , VKS phải trực tiếp xác minh nguồn
tin khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra,
xác minh nguồn tin và khi phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã
yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục. Đặc điểm của tội phạm
ma túy thường có tính liên quan giữa đối tượng thực hiện hành vi phạm tội
đối với đối tượng cung cấp và tiêu thụ. Thực tế cho thấy, các vụ án ma túy
thường là kết quả của nhiều năm theo dõi, tổng hợp, xâu chuỗi các hành vi
phạm tội của các đối tượng trong các vụ án khác nhau. Do vậy, qua công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án ma
túy, các Kiểm sát viên nên có biện pháp theo dõi, tích lũy được các thông tin
28. 22
tội phạm sẽ giúp ích rất nhiều trong việc chủ động phối hợp với Cơ quan điều
tra đấu tranh với tội phạm ma túy.
Viện kiểm sát chủ động phối hợp với cơ quan điều tra là nhiệm vụ quan
trọng cho sự thành công của các vụ án. Trong các vụ án ma túy được phát
hiện xử lý thì số lượng các vụ án có sử dụng đặc tình chiếm một tỷ lệ không
nhỏ. Do vậy, khi phê chuẩn khởi tố bị can, Kiểm sát viên cần chú ý phát hiện
các tài liệu trinh sát chưa được chuyển hóa chứng cứ để phối hợp với Điều tra
viên tiến hành loại các tài liệu này ra khỏi hồ sơ tố tụng và chuyển hóa chứng
cứ, bảo vệ đặc tình.
Kiểm sát viên cần xây dựng mối quan hệ tốt với Điều tra viên. Khi Điều
tra viên thu thập tài liệu đến đâu thì yêu cầu chuyển ngay cho Kiểm sát viên
đề cùng nghiên cứu, phối hợp đề ra yêu cầu điều tra. Kiểm sát viên phải chủ
động, chú trọng tham gia hoặc tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy
định của BLTTHS để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án, như:
Sử dụng chiến thuật hỏi cung, đấu tranh với bị can phải sắc bén. Tâm lý
chung trong các vụ án hình sự nhất là vụ án về ma túy, các bị can thường che
đậy hành vi phạm tội và người đồng phạm đã thực hiện trước khi bị phát hiện,
bắt giữ. Do đó, kỹ năng của Kiểm sát viên, Điều tra viên là phải tập hợp các
tài liệu trong quá trình theo dõi, trinh sát Cơ quan điều tra đã thu thập được để
đấu tranh.
Cân nhắc kỹ trước khi sử dụng biện pháp đối chất. Đối chất là biện pháp
điều tra theo quy định của BLTTHS. Tuy nhiên, Điều tra viên, Kiểm sát viên
cần phải tính toán, lựa chọn khi nào, trường hợp nào mới cho đối chất. Án về
ma túy, trường hợp bị can kiên quyết không khai nhận hoặc là kẻ chủ mưu có
ảnh hưởng lớn trong đồng bọn không nên cho đối chất vì kết quả không cao,
thậm chí tác động ngược lại, dẫn đến bị can phản cung, gây bất lợi cho quá
trình giải quyết vụ án.
29. 23
1.3. Yêu cầu và quy định của pháp luật đối với Viện kiểm sát khi
thực hành quyền công tố các vụ án mua bán trái phép chất ma túy trong
giai đoạn điều tra
1.3.1. Yêu cầu về pháp luật
Hầu hết các vụ án về ma túy đều được phát hiện ban đầu qua hình thức
bắt quả tang, có vật chứng rõ ràng nên việc đánh giá chứng cứ, tội danh có
phần dễ dàng hơn, điều này cho thấy công tác điều tra khám phá các đường
dây ma túy hoặc mở rộng vụ án gặp nhiều khó khăn mà một phần nguyên
nhân là do không thể có đầy đủ chứng cứ buộc tội, do đó, Kiểm sát viên phải
kiểm sát chặt chẽ việc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang vì đây là
chứng cứ, tài liệu điều tra ban đầu có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải
quyết vụ án. Kiểm sát viên được phân công nhiệm vụ thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án mua bán trái phép chất ma túy cần chủ động phối
hợp với Điều tra viên tham gia hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ hoặc hỏi
cung bị can ngay từ đầu, đặc biệt cần quan tâm chú ý đến những mâu thuẫn
trong lời khai giữa những đối tượng có liên quan, giữa lời khai với chứng cứ
để yêu cầu cơ quan điều tra làm rõ. Kiểm sát viên cần phối hợp tốt với Điều
tra viên để nắm chắc diễn biến hành vi phạm tội của đối tượng. Việc thu thập,
đánh giá chứng cứ bao giờ cũng khó khăn phức tạp trong các loại án truy xét
ma túy, chứng cứ chủ yếu là lời khai, không thu được vật chứng, hoạt động
của bọn tội phạm rất bí mật, tinh vi, xảo quyệt và ngoan cố.
Quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ trong các vụ án mua bán trái phép
chất ma túy thì lời khai ban đầu, bản tự khai của người có hành vi vi phạm là
những tài liệu khách quan cần phải xác minh ngay. Cần đấu tranh, làm rõ
những mâu thuẫn nhằm xác định lời khai nào là gian dối, lời khai nào là cơ sở
để buộc tội đối với bị can, bị cáo.
30. 24
Sau khi cơ quan điều tra xác định đủ căn cứ khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
Kiểm sát viên được phân công phải nghiên cứu toàn diện các tài liệu, chứng
cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, cần quan tâm chú ý chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp tham gia
hỏi cung bị can, nhân chứng và những người liên quan làm rõ tình tiết phạm
tội trước khi tiến hành đề xuất phê chuẩn Quyết định khởi tố bị can. Tuy
nhiên, do tính chất phức tạp của loại tội phạm Mua bán trái phép chất ma túy,
cần tập trung trong thời hạn tạm giữ và gia hạn tạm giữ để củng cố chứng cứ
trước khi quyết định khởi tố bị can và áp dụng biện pháp tạm giam. Mặt khác,
cần phân loại ngay từ đầu đối với trường hợp không đủ yếu tố cấu thành tội
phạm nhằm hạn chế việc bắt giữ tràn lan sau đó phải trả tự do. Riêng đối với
trường hợp án truy xét, sau khi nghiên cứu đủ căn cứ khởi tố bị can cần áp
dụng biện pháp tạm giam, truy tìm vật chứng và dấu vết của tội phạm ngay để
tránh trường hợp chứng cứ bị tiêu hủy hoặc bị thông cung gây khó khăn cho
công tác điều tra vụ án.
1.3.2. Yêu cầu về nghiệp vụ
Sau khi vụ án được khởi tố, Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ tính có
căn cứ và hợp pháp của quyết định khởi tố vụ án đó. Khi kiểm sát và giải
quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra thì thực tế cho thấy vẫn còn tình
trạng nhiều vụ án Cơ quan điều tra cấp quận, huyện phát hiện, ngay từ đầu đã
xác định vụ án thuộc thẩm quyền điều tra xử lý của Cơ quan điều tra cấp trên
hoặc Cơ quan điều tra quân đội nhưng sau khi tiến hành các bước điều tra ban
đầu Cơ quan điều tra không đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định
chuyển vụ án ngay (Viện kiểm sát cũng không quan tâm đôn đốc) dẫn đến
việc tranh chấp thẩm quyền hoặc khi hồ sơ chuyển đến Cơ quan điều tra có
thẩm quyền thì thời hạn không còn nhiều, các dấu vết nóng của tội phạm
không được tập trung khai thác để củng cố chứng cứ mở rộng án…Vì vậy,
31. 25
đây là nội dung cần quan tâm ngay từ khi kiểm sát khởi tố vụ án, nếu xác định
vụ án không thuộc thẩm quyền của cấp mình thì kịp thời yêu cầu Cơ quan
điều tra tiến hành các thủ tục để chuyển vụ án hoặc những vụ án có tranh chấp
về thẩm quyền điều tra thì báo cáo kịp thời lên Viện kiểm sát cấp trên để giải
quyết, đặc biệt chú ý những vụ ma túy mà đơn vị Hải quan cửa khẩu, Đồn
biên phòng phát hiện ban đầu thì phải tăng cường bám sát, yêu cầu cho cán bộ
điều tra làm thủ tục theo tố tụng để chuyển vụ án vì các đơn vị này ít khi phát
hiện và chưa biết nhiều về thủ tục tố tụng.
Quá trình kiểm sát hoạt động điều tra cụ thể vụ án ma túy, Kiểm sát viên
cần khắc phục ngay tình trạng thụ động ngồi chờ hồ sơ vụ án, chỉ kiểm sát
điều tra trên hồ sơ vụ án khi Cơ quan điều tra kết thúc hồ sơ chuyển sang mà
không bám sát vào quá trình điều tra, né tránh việc tác động tích cực vào hoạt
động điều tra; Cần kịp thời nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ
án để tác động với Cơ quan điều tra định hướng điều tra và giải quyết các tình
huống xảy ra theo quy định của pháp luật, hạn chế được tình trạng trả hồ sơ
điều tra bổ sung; phương pháp kiểm sát điều tra có hai cách thường xuyên
phải đi liền với nhau, một là nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án
do Cơ quan điều tra thu thập để phát hiện đánh giá các hành vi phạm tội của
người phạm tội và phát hiện đúng, sai của Cơ quan điều tra; hai là trực tiếp
tham gia một số hoạt động tố tụng điều tra chủ yếu của Cơ quan điều tra như
hỏi cung bị can và trực tiếp tiến hành một số hoạt động nghiệp vụ để thu nhập
tài liệu chứng cứ, để kiểm tra độ tin cậy của các tài liệu, chứng cứ do Cơ quan
điều tra đã thu thập và phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong quá
trình điều tra.
Một thực tế hiện nay có những vụ án ma túy không phải trường hợp bắt
quả tang hay khẩn cấp, Cơ quan điều tra thường hay câu lưu đối tượng tại trụ
sở mà không có lệnh tạm giữ để thu thập chứng cứ khởi tố, bắt tạm giam, nếu
32. 26
đối tượng bị nguy hiểm đến tính mạng sẽ gây hậu quả rất lớn…Vì vậy trong
quá trình kiểm sát điều tra, nếu phát hiện các thiếu sót vi phạm của việc áp
dụng các biện pháp điều tra, các biện pháp ngăn chặn thì Viện kiểm sát nhân
dân các cấp phải kiến nghị Cơ quan điều tra để khắc phục, sửa chữa vi phạm
chẳng hạn như những trường hợp để quá hạn tạm giữ, tạm giam hoặc giam,
giữ người trái pháp luật của Cơ quan điều tra như nêu trên. Viện kiểm sát cần
tăng cường kiểm sát để nắm được tình hình diễn biến ở nơi giam, giữ không
có lệnh hoặc vi phạm trong việc giam giữ dẫn đến tình trạng các bị can thông
cung để yêu cầu xử lý, khắc phục.
Một vấn đề cần phải chú trọng để nâng cao chất lượng kiểm sát điều tra
đó là việc đánh giá chứng cứ. Hiện nay chủ yếu những vụ án mua bán trái
phép chất ma túy bị phát hiện do bắt quả tang, có vật chứng rõ ràng nên việc
đánh giá chứng cứ, tội danh có phần dễ dàng hơn, điều này cho thấy công tác
điều tra khám phá các đường dây ma túy hoặc mở rộng vụ án gặp nhiều khó
khăn mà một phần nguyên nhân là do không thể có đầy đủ chứng cứ buộc tội.
Việc thu thập, đánh giá chứng cứ bao giờ cũng khó khăn phức tạp trong các
loại án truy xét ma túy, chứng cứ chủ yếu là lời khai, không thu được vật
chứng, hoạt động của bọn tội phạm rất bí mật, tinh vi, xảo quyệt và ngoan cố.
Vì vậy khi có các lời khai cụ thể và khách quan của các bị can khác, cùng các
chứng cứ gián tiếp khác như mối quan hệ qua danh sách cuộc gọi điện thoại,
thời gian các cuộc gọi, sơ đồ nơi cất giấu, các tờ giấy ký hiệu việc thanh toán,
nhận dạng qua ảnh…thì Kiểm sát viên phải bằng kinh nghiệm của mình phối
hợp với Điều tra viên sử dụng làm căn cứ đấu tranh với đối tượng hoặc trực
tiếp thực hiện các biện pháp điều tra, tìm ra những mâu thuẫn, bất hợp lý để
phủ định lời khai nại của đối tượng, sau đó đánh giá chứng cứ một cách khách
quan, toàn diện để có đủ căn cứ buộc tội.
33. 27
Kiểm sát viên phải đề ra các nội dung cần làm để yêu cầu Điều tra viên
củng cố các chứng cứ cần thiết cho hoạt động điều tra vụ án. Đối với một số
vụ án đơn giản, yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát có thể thực hiện trực tiếp
bằng miệng, ngoài ra các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát phải được thực
hiện bằng văn bản. Đây là vấn đề rất cần thiết, vừa thể hiện và xác định trách
nhiệm của Kiểm sát viên trong thực hành quyền công tố, vừa là căn cứ để
Điều tra viên thực hiện đúng yêu cầu điều tra của Kiểm sát viên đối với vụ án
ma túy. Để làm tốt công tác này, Kiểm sát viên phải nghiên cứu tỉ mỉ các tài
liệu có trong hồ sơ vụ án. Đặc biệt trong một số trường hợp vụ án phức tạp,
có sử dụng các hoạt động trinh sát cần có sự bạc bàn thống nhất giữa lãnh đạo
hai cơ quan để xem xét đề ra các yêu cầu điều tra thật sự chi tiết đối với từng
vụ án cụ thể. Cần lưu ý khi yêu cầu điều tra phải rất cụ thể, rõ ràng để Điều
tra viên có đủ điều kiện và khả năng thực hiện được, tránh yêu cầu điều tra
chung chung. Đồng thời, Kiểm sát viên phải theo dõi việc thực hiện yêu cầu
đó, quá trình điều tra vụ án nếu có phát sinh những nội dung mới thì Kiểm sát
viên phải kịp thời tiếp tục đề ra yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện để đẩy
nhanh tiến độ điều tra vụ án.
Qua thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ
án mua bán trái phép chất m túy cho thấy việc đánh giá chứng chứ, xác định
tội danh đối với loại tội phạm này rất phức tạp. Để việc đánh giá chứng cứ và
xác định tội danh chính xác cần căn cứ vào các dấu hiệu cấu thành tội phạm
theo quy định của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Thông tư liên
tịch số 17 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Trong quá trình điều tra có rất nhiều yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến
tính khách quan của việc giải quyết vụ án và nguồn chứng cứ đã thu thập. Do
đó việc kiểm tra chứng cứ là việc làm cần thiết, thường xuyên trong quá trình
điều tra nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được thực hiện theo đúng
34. 28
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, việc phối hợp chặt chẽ giữa Điều tra
viên và Kiểm sát viên cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc giải
quyết toàn bộ vụ án.
1.3.3. Yêu cầu về thời gian
Theo quy định tại Khoản 1, 2, 3Điều 172 BLTTHS năm 2015 về thời
hạn điều tra:
“ 1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội
phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng,
không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì
chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải
có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần
không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần,
lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai
lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra
ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
3. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra
đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc
điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm
một lần không quá 04 tháng.
35. 29
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.”
Theo quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, tội
phạm mua bán trái phép chất ma túy được phân loại bắt đầu từ loại tội phạm
nghiêm trọng đến loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, do tính chất nguy hiểm
của loại tội phạm này. Do đó thời gian điều tra đối với tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy thường kéo dài (ít nhất là 03 tháng), tuy nhiên, có những vụ
án hoạt động mua bán của các đối tượng diễn ra giản đơn, các đối tượng thành
thật khai báo, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra cần chú trọng thúc đẩy Điều tra viên khẩn trương tiến hành
các hoạt động điều tra, hoàn thành hồ sơ đề nghị truy tố, giải quyết vụ án một
cách nhanh chóng tránh trường hợp người phạm tội thay đổi lời khai trong
quá trình giam, giữ ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, cũng có những vụ án mua bán trái phép chất ma túy mang
tính chất phức tạp, cần nhiều thời gian điều tra, xác minh, đấu tranh với người
có hành vi phạm tội để làm rõ nội dung vụ án, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.
Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án trước khi đề xuất lãnh đạo ban hành
Quyết định gia hạn thời hạn điều tra vụ án hình sự nhằm hạn chế việc kéo dài
quá trình điều tra vụ án.
1.3.4. Yêu cầu về đấu tranh đối với tội phạm
Cuộc đấu tranh chống tội phạm về ma túy hết sức gay cấn, quyết liệt, tội
phạm tấn công vào mọi ngõ ngách của đời sống xã hội và liên tục thay đổi thủ
đoạn phạm tội. Chủ thể điều tra phải mưu trí để đấu lý, đấu trí đánh bại âm
mưu, thủ đoạn phạm tội, nhất là trong hỏi cung, lấy lời khai, đối chất. Tội
phạm mua bán trái phép chất ma túy lấy yếu tối “lợi nhuận” là mục đích hàng
đầu, ma túy mang lại lợi nhuận cao nhưng mức hình phạt đối với người phạm
tội cũng cao. Đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy thu được siêu lợi
36. 30
nhuận, bởi vậy, để tiếp tục hoạt động, củng cố đường dây, tổ chức tội phạm
chúng luôn tìm mọi thủ đoạn tấn công, mua chuộc, lôi kéo, thậm chí “giăng
bẫy” các cán bộ cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, đồi hỏi chủ thể tiến hành
điều tra trong bất kỳ điều kiện hoàn cảnh nào cũng phải luôn tỉnh táo, giữ
vững phẩm chất trước thủ đoạn cám dỗ, tấn công của tội phạm, tuyệt đối sống
trong sạch và có bản lĩnh vững vàng, kiên quyết không sa ngã trước sự tấn
công mua chuộc của tội phạm.
Tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên việc giải quyết các vụ án ma
bán trái phép chất ma túy, phát hiện, chấn chỉnh kịp thời những vi phạm, thiếu
sót hay bỏ lọt tội phạm của VKSND các cấp, có các hình thức khen thưởng
đột xuất đối với những cá nhân, đơn vị có thành tích trong việc giải quyết các
vụ án về ma túy đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Trong công tác giáo dục, xử lý người nghiện ma túy đã phối hợp với Tòa
án nhân dân cùng cấp để tham gia kiểm sát đầy đủ các phiên họp xét quyết
định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
theo đúng quy định, bảo đảm đúng đối tượng, kiên quyết không đồng ý với
các trường hợp không đảm bảo về thủ tục pháp lý. Thông qua công tác này
chủ động tập hợp những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong thực tiễn để kiến
nghị đến các cơ quan chức năng khắc phục, rút kinh nghiệm kịp thời hoặc sửa
đổi, bổ sung quy định cho phù hợp nhằm hạn chế tối đa tội phạm về ma túy
nói chung và người phạm tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng.
1.3.5. Yêu cầu về chính trị xã hội
Viện kiểm sát nhân dân các cấp tiếp tục phối hợp chặt chữ với các cơ
quan chức năng ở địa phương, các tổ chức đoàn thể, quần chúng bằng nhiều
hình thức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật thiết thực, có hiệu quả về
chủ trưởng, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công
37. 31
tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và về tác hại của tội mua bán
trái phép chất ma túy nói riêng.
Chủ động phối hợp với Tòa án các cấp tỏ chức phiên tòa xét xử lưu động
các vụ án về ma túy tại nhiều địa bàn trọng điểm, nhức nhói về ma túy, thông
qua phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phân tích các nguyên nhân, điều kiện
phạm tội, tác hại, hậu quả và hệ lụy đối với tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy đến sức khỏe của con người và tình hình trật tự, trị an xã hội. Khuyến
khích tinh thần đề cao cảnh giác, phát hiện và tố giác kịp thời những hành vi
vi phạm, phạm tội của bất kỳ cá nhân, tổ chức có liên quan đến tội phạm nói
chung, tội phạm về ma túy nói riêng.
Theo quy định của Luật phòng, chống ma túy và Luật tổ chức VKSND
năm 2014, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện chương trình hợp tác quốc
tế về phòng, chống ma túy như: Hợp tác tương trợ tư pháp về hình sự trong
việc đấu tranh xử lý đối với các vụ án ma túy có liên quan đến yếu tố nước
ngoài; tổ chức Hội nghị quốc tế về tăng cường hợp tác để nâng cao hiệu quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy giữa VKSND hai nước Việt Nam –
Lào, Việt Nam – Trung Quốc.
1.3.6. Quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma
túy
Theo Hiến pháp năm 1959 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân
viên cơ quan Nhà nước và công dân”.
Hiến pháp năm 1992 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan
khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế,
38. 32
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công
tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”.
Qua đó cho thấy, Hiến pháp năm 1959 quy định Viện kiểm sát nhân dân
chỉ có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đến Hiến pháp năm 1992
quy định Viện kiểm sát nhân dân ngoài chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật còn có chức năng thực hành quyền công tố và đến Hiến pháp năm
2013 chức năng thực hành quyền công và kiểm sát hoạt động tư pháp được
quy định gắn kết chặt chẽ với nhau.
Theo đó, Điều 20 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Viện
kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm
pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan
người vô tội”.
Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng duy nhất có thẩm quyền, trách
nhiệm THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra,
Điều tra viên trong mọi hoạt động điều tra. Hoạt động kiểm sát của VKS
nhằm phát hiện những vi phạm pháp luật trong điều tra vụ án hình sự của Cơ
quan điều tra, có thể là vi phạm trong việc định tội, trong việc tiến hành các
hoạt động tố tụng, trong việc thực hiện những hành vi trái pháp luật đối với
người phạm tội như bức cung, dùng nhục hình. Những vi phạm của Cơ quan
điều tra trong điều tra tội ma túy thường gặp là vi phạm về việc khởi tố vụ án,
khởi tố bị can không đúng tội danh; áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người bị
39. 33
giữ trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh không đúng quy
định; vi phạm thời hạn điều tra, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn,
thu thập chứng cứ không đầy đủ; không thể tiến hành hết các hoạt động điều
tra để chứng minh tội phạm một cách đầy đủ, toàn diện; việc khám xét người,
nơi ở hoặc địa điểm cất giấu chất ma túy, thu giữ tài sản không đúng quy định
của pháp luật. Những vi phạm này dẫn đến hậu quả việc điều tra tội phạm
không đúng thời hạn luật định, phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, xử lý
tội phạm không triệt để, có tình trạng bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, có
trường hợp làm sai lệch hồ sơ vụ án. Khi phát hiện những vi phạm đó, VKS
yêu cầu Cơ quan điều tra, Điều tra viên chấm dứt, khắc phục, loại bỏ vi phạm,
không phê chuẩn, hủy bỏ các quyết định trái pháp luật hoặc tùy theo tính chất,
mức độ của từng vi phạm mà yêu cầu Cơ quan điều tra có biện pháp xử lý kịp
thời, phù hợp như yêu cầu thay đổi Điều tra viên, yêu cầu xử lý nghiêm minh
Điều tra viên hoặc có thể khởi tố vụ án hình sự.
Làm tốt công tác phân loại, xử lý tin báo, tố giác về tội phạm và kiến
nghị khởi tố là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong việc quyết định việc giải
quyết vụ án hình sự, đặc biệt đối với loại tội phạm mua bán trái phép chất ma
túy do tính chất phức tạp. Thông qua công tác thực hành quyền công tố, VKS
phát hiện và yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố thêm hàng chục bị can trong các
vụ án đồng thời mở rộng điều tra trên các địa bàn khác. Đa phần các vụ án
mua bán trái phép chất ma túy người phạm tội đều bị bắt quả tang hoặc cơ
quan điều tra phải sử dụng đặc tình trong một thời gian dài để rinh sát tìm ra
đối tượng, việc làm này làm kéo dài thời gian giải quyết tin báo. Về nguyên
tắc việc khởi tố bị can chỉ sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự, việc ra
quyết định khởi tố bị can của cơ quan Cảnh sát điều tra với mục đích là nhằm
xác định về mặt pháp lý một con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được coi là tội phạm và quyết định khởi tố bị can đó sẽ trực tiếp
40. 34
hạn chế một số quyền và lợi ích hợp pháp thuộc về nhân thân của người bị
khởi tố. Tuy nhiên, thực tế tại đại bàn tỉnh Tiền Giang, VKS còn gặp nhiều
khó khăn trong việc giải quyết đối với loại tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy. BLTTHS quy định, khi tiến hành khởi tố bị can phải xác minh rõ ràng
lý lịch của bị can, xác định hành vi phạm tội cụ thể của bị can để khởi tố đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Riêng đối với loại tội phạm mua bán trái
phép chất ma túy, việc giám định để xác định khối lượng và thành phần chất
ma túy là một trong những căn cứ chính để quyết định khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can. Do đó, khi bắt tạm giữ đối tượng có hành vi phạm tội cho đến
khi khởi tố bị can thường phải kéo dài do chờ kết luận giám định và xác minh
lý lịch của bị can. Hiện nay tại Tiền Giang, tội phạm về ma túy mang tính
chất nhỏ lẻ, xảy ra liên tục và có chiều hướng gia tăng ở lứa tuổi thanh, thiếu
niên nguyên nhân do diễn biến xã hội, thiếu sự giáo dục, quản lý từ gia đình,
nhà trường. Ma túy kéo theo là tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến sự phát triển
kinh tế của đất nước.
Án ma túy trong những năm gần đây thường là án lớn với nhiều bị can
tham gia, số lượng tang vật thu giữ rất lớn lên đến hàng trăm bánh heroin, thủ
đoạn phạm tội tinh vi, xảo quyệt. Một đặc điểm nữa của án ma túy phần lớn là
án “truy xét”, cho nên CQĐT phải sử dụng nhiều biện pháp để điều tra mở
rộng vụ án, xử lý triệt để các hành vi phạm tội về ma túy. Khi mới phát hiện,
chỉ bắt được quả tang một hay một số đối tượng, tang vật thu được ít, qua quá
trình điều tra, xác định được nhiều đối tượng trong đường dây, từ đó chứng
minh được các hành vi của các đối tượng đã thực hiện trước đó.
Qua theo dõi việc xử lý tội phạm về ma túy hai cấp tỉnh, huyện trên địa
bàn tỉnh Tiền Giang nhận thấy các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thực hiện
nghiêm túc điểm 1.4 tiểu mục 1 Mục I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-
BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện
41. 35
kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ
luật Hình sự năm 1999 và điểm 1.4 Khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số
08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 của Bộ
Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư
pháp sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17. Tại điểm 1.4
của hai Thông tư này nêu rõ” “Nếu chất được giám định không phải là chất
ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma
túy, nhưng người thực hiện hành vi ý thức rằng đó là chất ma túy hoặc chất
đó là tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, thì tùy hành vi
phạm tội cụ thể mà truy cứu trách nhiệm hình sự người đó theo tội danh quy
định tại khoản 1 của điều luật tương ứng đối với các tội phạm về ma túy.”
Theo hướng dẫn trên thì dù kết quả giám định xác định vật chứng thu giữ
không phải là chất ma túy hoặc không phải là tiền chất dùng vào việc sản xuất
trái phép chất ma túy thì vẫn xử lý hình sự theo Khoản 1 của điều luật và tội
danh tương ứng nếu đối tượng ý thức được rằng đó là chất ma túy hoặc tiền
chất dùng vào việc sản xuất chất ma túy. Tuy nhiên, trong thời gian qua có
một vài trường hợp khi giám định không phải là chất ma túy hoặc tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì các cơ quan tố tụng ít quan
tâm và không điều tra đến nơi, đến chốn chứng cứ chứng minh ý thức chủ
quan của đối tượng để xử lý theo quy định của pháp luật, điều này dễ dẫn đến
bỏ lọt tội phạm.
Điều 161 BLTTHS năm 2015 qui định, khi thực hành quyền công tố VKS
có quyền ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ của Cơ
quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra và ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Trong những trường
hợp sau khi Cơ quan điều tra xác minh và cho rằng không có dấu hiệu tội phạm
42. 36
và ra quyết định không khởi tố vụ án, nhưng qua THQCT, VKS thấy có dấu hiệu
tội phạm thì VKS phải ra quyết định hủy bỏ quyết định không khởi tố của Cơ
quan điều tra đồng thời trực tiếp ra quyết định khởi tố yêu cầu Cơ quan điều tra
tiến hành điều tra theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội
phạm. Trường hợp quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử không có căn
cứ, VKS có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên để xem xét quyết định. Do đó,
việc khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự là do VKS quyết định, các Cơ
quan điều tra, Tòa án nói trên không hoàn toàn độc lập trong việc khởi tố vụ
án. Vì, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mua bán trái
phép chất ma túy thì với tư cách THQCT, VKS chỉ chấp nhận những quyết
định khởi tố có căn cứ đúng pháp luật, còn nếu không đảm bảo cho việc truy
cứu trách nhiệm hình sự thì quyết định khởi tố đó sẽ bị hủy hoặc đe dọa bị
hủy ngay lập tức.
Để chứng minh rõ tội trạng của các bị can trong các vụ án ma túy, Kiểm
sát viên, Kiểm tra viên làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều
tra các vụ án về ma túy cần chú ý thực hiện tốt những kỹ năng sau đây:
Kỹ năng kiểm sát việc hỏi cung bị can
Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, thông
thường có nhiều đồng phạm thực hiện nhiều giai đoạn khác nhau và có các
hành vi khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau, do đó, phải tiến hành
hỏi cung nhiều bị can cùng một lúc và tiến hành trong một thời gian dài mới
làm rõ được tất cả các hành vi phạm tội. Chính vì vậy, Lãnh đạo Viện kiểm
sát các cấp chỉ đạo Viện kiểm sát thụ lý vụ án phải tham gia trực tiếp hỏi cung
với Điều tra viên thông qua hoạt động kiểm sát việc hỏi cung để nắm vững
nội dung của vụ án ngay từ đầu, phục vụ cho hoạt động truy tố và xét xử sau
này. Qua nghiên cứu một số vụ án về ma túy có tính chất điển hình đã được
khởi tố, điều tra cho thấy, có khoảng 90% vụ án Kiểm sát viên trực tiếp kiểm
43. 37
sát việc hỏi cung bị can của Điều tra viên ít nhất là một lần. Thông qua hoạt
động kiểm sát trực tiếp, việc hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phối hợp với Điều
tra viên xây dựng kế hoạch hỏi cung bị can, dự kiến trước các chiến thuật cần
áp dụng, các tình huống bất lợi có thể xảy ra trong các buổi hỏi cung bị can.
Việc hỏi cung có Kiểm sát viên tham gia không chỉ bảo đảm tuân thủ các quy
định của pháp luật mà nhiều tình tiết của vụ án được làm sáng tỏ. Mặt khác,
thông qua phối hợp trong hoạt động kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can
của Điều tra viên, Kiểm sát viên nắm được tâm lý khai báo, thái độ khai báo
của từng bị can. Đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn
truy tố, đặc biệt là quá trình xét xử tại phiên tòa khi bị can chối tội hoặc viện
dẫn lý do là Điều tra viên mớm cung, dụ cung, dùng nhục hình để lấy cung.
Kiểm sát viên có cơ sở để phản bác lại lời khai báo gian dối của bị cáo tại
phiên tòa. Mặt khác, thông qua kiểm sát trực tiếp việc hỏi cung bị can của
Điều tra viên, Kiểm sát viên phát hiện những vấn đề còn mâu thuẫn, những
tình tiết cần làm sáng tỏ để đề ra yêu cầu điều tra đối với Điều tra viên làm rõ
những mâu thuẫn, tình tiết này. [15, tr.20]
Khi trực tiếp kiểm sát việc hỏi cung của Điều tra viên đối với bị can
trong các vụ án về ma túy, Kiểm sát viên phải xác định rõ vị trí, vai trò của
mình tránh trường hợp làm thay nhiệm vụ của Điều tra viên. Kiểm sát viên
chỉ hỏi bị can về những nội dung của vụ án cần làm sáng tỏ, những nội dung
còn mâu thuẫn chưa phù hợp với những tình tiết đã thu thập được; do đó, để
kiểm sát chặt chẽ việc hỏi cung bị can trong các vụ án về ma túy, Kiểm sát
viên phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, loại ma túy thu giữ được, số lượng,
trọng lượng và đặc điểm tang vật thu giữ cũng như phương thức, thủ đoạn
thực hiện hành vi phạm tội và che giấu tội phạm của bị can trong vụ án.
Những thông tin về lai lịch, mối quan hệ gia đình, xã hội của bị can với các
44. 38
đối tượng khác trong đường dây tội phạm về ma túy và các thông tin khác có
ý nghĩa trong việc điều tra mở rộng vụ án phải được Kiểm sát viên nắm chắc.
Trước khi tiến hành kiểm sát việc hỏi cung, Kiểm sát viên chủ động trao
đổi với Điều tra viên về kế hoạch, nội dung, phương pháp tiến hành, nhất là
trong những trường hợp có bị can chối tội, kêu oan…; các tình huống khi có
Luật sư tham gia và đặt câu hỏi đối với bị can cũng như việc mời người phiên
dịch, người giám hộ tham gia hỏi cung trong những trường hợp pháp luật tố
tụng bắt buộc phải có sự tham gia của họ.
Trong khi tiến hành việc hỏi cung các bị can phạm tội về ma túy, Kiểm
sát viên phải chú ý quan sát phòng hỏi cung, lựa chọn vị trí phù hợp để ngồi
quan sát toàn bộ quá trình hỏi cung của Điều tra viên. Kiểm sát việc Điều tra
viên kiểm tra lý lịch, giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định.
Đồng thời, Kiểm sát viên cũng phải chú ý đến tình trạng sức khỏe của bị can
trước khi hỏi cung và giải quyết các đề nghị của bị can (nếu bị can có đặt ra).
Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cũng phải quan sát thái độ của Điều tra viên,
phương pháp hỏi cung, cách đặt câu hỏi nhằm tránh những trường hợp mớm
cung, ép cung hoặc dụ cung đối với bị can; nội dung câu hỏi có tập trung vào
làm rõ những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án ma túy hay không?
Kỹ năng kiểm sát việc đối chất
Đối chất là hoạt động điều tra do Điều tra viên tiến hành bằng hình thức
lấy lời khai hai người cùng một lúc, về một vấn đề, trong cùng một vụ án
nhưng vẫn còn mâu thuẫn với nhau. Do đó, đối chất trong các vụ án ma túy là
hoạt động điều tra hết sức khó khăn, phức tạp do các bị can phạm tội về ma
túy thường phải đối mặt với mức án cao nhất là tử hình. Chính vì vậy, chỉ khi
nào không thể áp dụng các biện pháp điều tra khác để làm rõ mâu thuẫn, Điều
tra viên mới tiến hành đối chất. Trong các vụ án ma túy do có nhiều hành vi
khách quan thuộc về phương thức, thủ đoạn phạm tội, quá trình theo dõi, phát
45. 39
hiện, điều tra trong một thời gian dài dễ quên, nhiều lần thực hiện hành vi
phạm tội, các đối tượng lại muốn che giấu tội phạm, đổ lỗi cho nhau… Do đó,
có nhiều mâu thuẫn trong lời khai báo của các bị can, mâu thuẫn giữa lời khai
báo của bị can với người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cần
phải đối chất làm rõ.
Kiểm sát viên thông qua việc nghiên cứu hồ sơ tài liệu, chứng cứ, phát
hiện mâu thuẫn, xác định nội dung mâu thuẫn, nhận định nguyên nhân dẫn
đến mâu thuẫn để từ đó xác định hoạt động đối chất của Điều tra viên đó đạt
yêu cầu hay chưa, có cần tiến hành đối chất nữa hay không? Qua nghiên cứu
các hồ sơ cho thấy các vụ án ma túy có tiến hành đối chất, cơ quan điều tra đã
tuân thủ các quy định của phát luật do trong các vụ án ma túy các bị can cố
tình chối tội, do đó, hồ sơ có nhiều mâu thuẫn, Kiểm sát viên và Điều tra viên
qua nhiều lần trao đổi thống nhất kế hoạch đối chất đối với các đối tượng có
lời khai khác nhau vì có mâu thuẫn với nhau nên khi tiến hành đối chất, các
mâu thuẫn đều được giải quyết, bảo đảm việc truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội. [5, tr.32-34]
Khi tiến hành kiểm sát việc đối chất trong các vụ án ma túy, Kiểm sát
viên phải chú ý thực hiện các nội dung sau:
- Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc đối chất bảo đảm các hoạt động
này được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 189 BLTTHS năm 2015.
Kiểm sát viên có thể trực tiếp hoặc phối hợp cùng Điều tra viên tiến hành việc
đối chất. Khi trực tiếp tiến hành đối chất, Kiểm sát viên thông báo trước cho
Điều tra viên biết.
- Sau khi kết thúc điều tra, hồ sơ vụ án chuyển sang Viện kiểm sát, nếu
thấy có mâu thuẫn trong lời khai của những người tham gia tố tụng thì Kiểm
sát viên có thể tiến hành đối chất để làm rõ mà không phải trả hồ sơ cho
CQĐT để điều tra bổ sung. Việc đối chất và lập biên bản đối chất do Kiểm sát
46. 40
viên tiến hành phải được thực hiện theo đúng quy định tại các điều 189, 178
BLTTHS năm 2015. Biên bản đối chất phải được chuyển ngay cho Điều tra
viên để đưa vào hồ sơ vụ án.
Khi nghiên cứu biên bản đối chất do Điều tra viên tiến hành, Kiểm sát
viên phải kiểm tra cả về tính hợp pháp của việc đối chất và tính có căn cứ của
biên bản đối chất. Điều này được thể hiện ở các thao tác như:
- Kiểm sát viên phải kiểm tra những người được đối chất đó là ai (bị can,
người bị hại, người làm chứng…); trước khi tiến hành đối chất, Điều tra viên
đã giải thích cho họ biết về trách nhiệm từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố
tình khai báo gian dối chưa? Điều tra viên có hỏi về mối quan hệ giữa những
người tham gia đối chất hay không? Điều tra viên đã đọc lại biên bản đối chất
cho những người có mặt nghe chưa? Những người tham gia đối chất có ký tên
đầy đủ vào biên bản hoặc thêm bớt, sửa chữa nội dung nào không?
- Kiểm sát viên cần kiểm tra các câu hỏi và trả lời của biên bản đối chất
xem nội dung đã giải quyết các mâu thuẫn hay chưa? Những người tham gia
đối chất trả lời về những tình tiết cần làm sáng tỏ như thế nào, họ đã trình bày
và giải thích về những mâu thuẫn giữa lời khai của họ với lời khai của những
người khác, giữa lời khai hiện nay và trước đây ra sao? Những nội dung nào
đã được giải quyết hoặc chưa được giải quyết? Tất cả vấn đề này, Kiểm sát
viên phải ghi chép đầy đủ để báo cáo, đề xuất với Lãnh đạo Viện phụ trách
kiểm sát điều tra tiến hành các hoạt động tố tụng tiếp theo nhằm giải quyết
đúng đắn các vụ án ma túy.[5, tr.32-34]
VKS phải tuân thủ thực hiện đúng những quy định đang có hiệu lực thi
hành trong BLTTHS năm 2017; Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT ngày
29/12/2017 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, VKSNDTC; Luật Tổ chức VKSND năm 2014 về