SlideShare a Scribd company logo
1 of 82
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TUẤN THANH TỨ
thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ho¹t ®éng t- ph¸p
®èi víi téi ph¹m vÒ ma tóy
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà NỘi - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN TUẤN THANH TỨ
thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ho¹t ®éng t- ph¸p
®èi víi téi ph¹m vÒ ma tóy
(trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi làm Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Tuấn Thanh Tứ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ
PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM VỀ MA TÚY .................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân .............. 8
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố ................................ 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp........14
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy ..............18
1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy ................................................................18
1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội
phạm ma túy.......................................................................................21
1.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự đối với các tội phạm về ma túy...............21
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp đối với tội phạm về ma túy.....................................................22
1.3.1. Đối tượng và phạm vi.........................................................................22
1.3.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn điều tra................................25
1.3.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xét xử ..................................30
1.3.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với
các tội phạm về ma túy trong giai đoạn thi hành án ..........................32
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ
PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM MA TÚY TẠI ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG................................................................ 37
2.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm ma túy.............................37
2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp trước 2003 ............................................................37
2.1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp từ năm 2003 tới nay .............................................39
2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp đối với các tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà
Nẵng giai đoạn 2011 - 2015..............................................................45
2.2.1. Thực trạng tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.............45
2.2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng ..........48
2.2.3. Một số tồn tại trong quá trình thực thi quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với thực tiễn xét xử tội phạm ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.........................................................50
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP.............................. 57
3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam ...........57
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tƣ pháp tại Việt Nam.................................59
3.2.1. Đối với quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân ..........................59
3.2.2. Đối với kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân...........62
3.2.3. Biện pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố đối với
các tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.......................65
KẾT LUẬN.................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................71
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số liệu thống kê công tác truy tố, xét xử tội phạm ma túy 49
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp năm 2013 mới nhất đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng
của ngành kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
thông qua công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Theo quy định tại Điều
112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm
sát khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát tư pháp được cụ thể hóa trong
Luật. Về chủ trương, Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp trong những năm tới cũng ghi nhận “Hoạt động công tố
được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và suốt quá trình tố tụng nhằm bảo
đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”.
Hệ thống cơ quan kiểm sát nhân dân là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi
phạm trong đó có tội phạm ma túy, góp phần bảo vệ công lý, quyền con
người, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Có thể nói, cơ quan Kiểm sát nhân dân được coi là cánh tay thực thi của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò kiểm sát đối với việc
ngăn ngừa, đưa ra truy tố tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng –
loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội.
Tại địa bàn thành phố Đà Nẵng, những diễn biến phức tạp của tình hình
tội phạm ma túy thời gian vừa qua đã đặt ra những thách thức cho ngành kiểm
sát trong việc thực thi quyền công tố và kiểm sát tư pháp. Theo số liệu thống
kê của Công an thành phố Đà Nẵng, trên địa bàn thành phố tính đến giữa năm
2
2014, số lượng người nghiện ma túy lên đến 1.888 người; con số này tăng so
với năm 2013 là 248 người [13, tr. 2]. Trong khi đó, ngành kiểm sát Đà Nẵng
đối mặt với nhiều bất cập và thực trạng chung của các cơ quan kiểm sát địa
phương cũng như từ những chính sách mới ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi
quyền công tố và giám sát tư pháp trên địa bàn thành phố. Điều này đặt ra yêu
cầu cần có những nghiên cứu cụ thể và thiết thực để công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng đáp ứng được các tôn chỉ hoạt động của ngành kiểm sát cụ thể:
Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử
lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ,
tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng,
sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp
luật; Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra
phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh;
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và
đúng pháp luật [42, tr. 14].
Với các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma tuý (trên cơ sở số
liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, các nghiên cứu về quyền công tố và kiểm sát tư pháp của cơ
quan kiểm sát nhân dân khá nhiều và đầy đủ.
Phải kể tới một số công trình nghiên cứu có giá trị liên quan tới các
khía cạnh của tội phạm ma túy như:
3
- ThS Nguyễn Tuyết Mai, Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của
người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số 11/2006, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr. 32 – 37;
- ThS Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội sử dụng
trái phép chất ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát số 15/2006, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao, tr. 29 – 31;
- Nguyễn Việt Hùng, Một số vấn đề đặt ra trong việc áp dụng các quy
định về tội phạm ma tuý của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số
16/2006, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 45 – 49;
- Nguyễn Xuân, Kinh nghiệm thực tiễn công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm đối với các vụ án ma tuý lớn,
Tạp chí Kiểm sát số 4/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 25;
- ThS Phạm Minh Tuyên, Một số bất cập và những kiến nghị đối với
các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm ma tuý theo pháp luật hiện
hành, Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2005, Toà án nhân dân tối cao, tr. 9-14;
- Nguyễn Thị Hoàng Lan, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy
định pháp luật về các tội phạm về ma tuý trong Bộ luật hình sự năm 1999,
Tạp chí Kiểm sát số 11/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 36 – 37…
Một số công trình nghiên cứu liên quan tới nội dung về quyền công tố
và kiểm sát tư pháp hình sự như:
- ThS Nguyễn Kim Sáu, Các bước tiến hành thanh tra nghiệp vụ thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, Tạp
chí Kiểm sát số 8/2016, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 19 – 26;
- Bùi Sơn Cường, Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy,
Tạp chí Kiểm sát số 21/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 22;
4
- TS Trần Công Phàn, Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án ma túy trong tình hình hiện
nay, Tạp chí Kiểm sát số 20/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2-6, 18;
- Nguyễn Thị Hường, Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm theo Bộ
luật Tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên hướng
dẫn, Hà Nội, 2014;
- Đặng Văn Thực, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự” do TS.
Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012;
- Nguyễn Thị Kiều Trang, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự” do TS. Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012;
- Trần Đức Phong, Một số kinh nghiệm qua thực tiễn thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tội phạm ma tuý, Tạp chí Kiểm sát
số 20/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2 – 9;
- Phạm Mạnh Hùng, Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 21/2011, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao, tr. 11-17…
Một số bài báo đáng chú ý trong đề tài nghiên cứu này kể tới như:
- Hoàng Thế Hanh, Một số vấn đề cơ bản để bảo đảm chất lượng thực
hành quyền công tố của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án tham
nhũng, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 16/2015, tr. 52;
- Vũ Thị Thùy Dương, Nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, Tạp chí Thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Số 6/2015, tr. 33;
5
- Đoàn Thị Vĩnh Hà, Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn Quận Hoàng Mai, Hà
Nội, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2015, tr. 23…
Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc thù tội phạm ma túy trên địa bàn đặc
thù là thành phố Đà Nẵng lại rất ít ỏi. Điều đáng nói là, các kết quả nghiên
cứu thu được cho đến nay còn hết sức khiêm tốn. Phần lớn các công trình
khoa học về lĩnh vực này còn chưa chuyên sâu, đại đa số được công bố dưới
hình thức các bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành
luật hoặc tham luận trong các Hội thảo quốc gia và quốc tế.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về quyền
công tố và kiểm sát tư pháp, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và
kết quả hoạt động thực thi pháp luật liên quan, phân tích đặc thù của tội phạm
ma túy và của địa bàn thành phố Đà Nẵng đồng thời đưa ra các ý kiến góp
phần hoàn thiện các quy định pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm ma tuý trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng trong điều kiện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các
tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và
phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn
đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau:
Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về pháp luật về thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về thực hành quyền công tố và
6
kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó phân tích thực tiễn tội phạm ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng để rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện
hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật liên quan.
Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những
khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu còn sử dụng thực tiễn áp dụng
đối với tội phạm ma túy trên địa bàn Đà Nẵng cũng như trên các địa bàn khác,
pháp luật của một số quốc gia phát triển nhằm đánh giá về quy định pháp luật
liên quan và đưa ra những quan điểm hoàn thiện tại Việt Nam hiện nay.
3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp
nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy
logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm
vi nghiên cứu của đề tài.
4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hoàn
thiện hơn các quy định liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của cơ quan kiểm sát nhân dân trên cơ sở lý luận và thực
tiễn áp dụng với tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận
văn này sẽ là một trong những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng
7
dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà
nước, kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong
quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma túy.
Chương 2. Pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam.
8
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM
VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Trải qua quá trình từ khi thành lập đến nay đã 55 năm, chức năng của
cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tuy có sự thay đổi qua từng thời kỳ nhưng
lịch sử đã ghi nhận và chứng minh, sự tồn tại của Viện kiểm sát nhân dân
mang tính tất yếu khách quan, là thiết chế góp phần bảo vệ và duy trì pháp
luật, xây dựng nhà nước pháp quyền thông qua công tác phát hiện và xử lý
các hành vi phạm tội, bảo vệ các quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức, đảm bảo
sự chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản gồm thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra, xét xử các vụ
án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; tiếp nhận, giải quyết
kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy
định của pháp luật; tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan,
tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân chuyển đến. Năm 2002 đánh
dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát
theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cụ thể kể từ thời điểm Viện
9
kiểm sát chỉ có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa. Tới nay, Luật Tổ chức Viện Kiểm
sát nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 25/11/2014 gồm 06 chương, 101 điều [31] và được xác định là sửa đổi
căn bản, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm
thể chế Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu cải cách tư pháp. Theo đó, Viện
Kiểm sát trong tố tụng hình sự có hai chức năng: Chức năng thực hành quyền
công tố và chức năng kiểm sát tư pháp trong hoạt động tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố
1.1.1.1. Khái niệm
“Quyền công tố” là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [40, tr. 204]. Đối tượng
tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Phạm vi quyền
này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp
luật, không bị kháng nghị. Nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật cho
thấy, chế định công tố được hình thành dần cùng với sự hoàn thiện và phát
triển của tố tụng hình sự. Lúc đầu, trong nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại,
người bị hại là người buộc tội và có nghĩa vụ chứng minh lời buộc tội của
mình, nhưng do hoạt động của họ rất khó khăn, nên sau này việc truy cứu
trách nhiệm hình sự được chuyển giao cho nhà nước, do các viên chức của
nhà vua tiến hành [15]. Kể từ khi xuất hiện nhà nước và thứ quyền lực nhà
nước hiện diện trong xã hội, nhà nước luôn có cách thức như là một phản xạ
tự nhiên là tự vệ để duy trì sự tồn tại của mình và đảm bảo trật tự xã hội đó là
xử lý những người có hành vi chống lại nhà nước lấy mục đích trấn áp kẻ vi
phạm pháp luật bằng bạo lực với lý do họ vi phạm pháp luật gây phương hại
trước hết đến sự tồn vong của một chế độ nào đó. Như một lẽ tự nhiên muốn
10
xử lý ai đó bắt buộc phải có sự buộc tội. Khi pháp luật, luận lý, đạo đức, dân
luật, hình luật còn đang trong trạng thái hỗn mang chưa rành mạch thì việc
buộc tội một người nào đó do tư nhân và nhà nước đảm nhiệm với thủ tục tố
tụng không rườm rà và phức tạp. Thậm chí Luật La mã còn cho phép cá nhân
có quyền tự xử lý hành vi vi phạm pháp luật bằng sức mạnh bạo lực (Bộ
Degest, quyển 43, mục 16, trích đoạn 1, điều 27). Việc buộc tội và xét xử nhiều
khi không rõ ràng thể hiện ở việc ông vua chuyên chế, hay các quan chấp chính
thời La mã vừa làm ra luật, vừa buộc tội vừa xét xử. Mặt khác, nhà nước ra đời
và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội về mọi phương diện, luôn
có trách nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật
tự xã hội chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này,
nhất là những hành vi mà bị pháp luật coi là tội phạm.
Ở Việt Nam, thiết chế công tố viện được người Pháp mang đến Việt
nam trước 1945 và tồn tại ở miền Bắc đến năm 1958, ở Miền Nam trước
1975, cơ quan công tố nằm trong tòa án. Có lúc nó nằm trong Chính phủ
(1958 – 1959) và mô hình VKS như hiện nay. Cụm từ “thực hành quyền công
tố” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980
khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 138, và được
nhắc lại ở các Điều 1 và 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981.
Kể từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công tố và thực hành
quyền công tố, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc cải cách tư pháp.
Riêng về “quyền công tố” đã có tới tám quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm
có cách thể hiện và lập luận riêng [16, tr. 44]. Dưới đây là 04 nhóm quan
điểm phổ biến nhất trong số đó:
- Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của viện kiểm
sát mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự [21, tr. 127-151]. Quan hệ giữa thực hành quyền công tố
11
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung.
Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm 1980 khi hiến pháp chưa có quy
định về chức năng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát và cũng xuất
phát từ quan niệm phổ biến của các nhà tố tụng hình sự học Xô viết trước đây.
- Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của viện kiểm sát thay mặt nhà
nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm
pháp luật. Vì vậy, viện kiểm sát thực hành quyền công tố không chỉ trong tố
tụng hình sự mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt
động tư pháp khác [38, tr. 56].
- Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho viện
kiểm sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó
tại phiên tòa [36, tr. 86-87].
- Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ
quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để
xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này phổ biến
trong các nhà nước có sự phân chia quyền lực [40, tr. 204].
Nhưng các quan điểm này hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến tình trạng
mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các
lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính; hoặc coi
quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản
chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân
danh quyền lực công; hoặc quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền
công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện
việc buộc tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm.
Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp
12
các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử.
Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật
hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm nào cho xã hội
là tội phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều
quan tâm trước hết đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự
là phương tiện cai trị hữu hiệu, ổn định tình hình xã hội theo ý chí của giai
cấp thống trị. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát
sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người
phạm tội. Trong quan hệ này, nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà
nước, quyền lực công để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội; còn người phạm tội là chủ thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài hình sự do nhà nước quy
định và áp dụng.
Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là
nguyên tắc công tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành
trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Điểm
mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố
tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội.
Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi
cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, hoạt động tố tụng
hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản: buộc tội; bào chữa (gỡ tội)
và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện của cơ quan thực hiện chức năng
buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với những cá
13
nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cho sự cáo buộc
đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội
nhân danh nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, và chỉ phát
sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền này
được gọi là quyền công tố. Như vậy, quyền công tố là quyền nhân danh nhà
nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Xuất phát từ khái niệm về quyền công tố như trên, nên đối tượng của
quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội; nội dung của quyền công tố
là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm; phạm vi quyền
công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu
lực pháp luật, không bị kháng nghị.
1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, quyền công tố là quyền được nhân danh quyền lực nhà nước
trong hoạt động truy tố người vi phạm pháp luật ra xét xử.
Việc truy tố tội phạm ra xét xử không phải hoạt động mà bất cứ tổ
chức, cá nhân nào cũng được thực hiện. Nhà nước thông qua việc trao lại
quyền truy tố cho một cơ quan nhà nước độc lập để đảm bảo những cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức khác hoặc xâm phạm tới hoạt động quản lý nhà
nước. Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan được giao thẩm quyền trong hoạt
động truy tố các tội phạm, là thẩm quyền riêng biệt được ghi nhận trong Hiến
pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014.
Thứ hai, quyền công tố là một nội dung trong hoạt động của các cơ
quan tư pháp.
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ngoài hệ thống tòa án nhân dân là cơ
quan có thẩm quyền tư pháp, thì hệ thống cơ quan tư pháp còn ghi nhận hệ
thống viện kiểm sát nhân dân cũng thuộc hệ thống cơ quan tư pháp có vai trò
14
công tố. Chỉ từ Hiến pháp năm 2013, chức năng công tố của cơ quan viện
kiểm sát nhân dân mới không còn được ghi nhận là cơ quan có quyền tư pháp.
Tuy nhiên, song song với hệ thống cơ quan xét xử của tòa án, vai trò của hệ
thống viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tư pháp thể hiện ở thẩm quyền
công tố và kiểm sát tư pháp.
1.1.1.3. Ý nghĩa
Trước tiên cần khẳng định, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp là chức năng luật định của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân của
Việt Nam hiện nay, đồng thời là hai mặt công tác có sự tương tác lẫn nhau,
hai quy trình tiếp tục lẫn nhau để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Khác với chế định quyền công tố của các quốc gia tư bản phương tây
chỉ bao gồm quyền buộc tội, quyền công tố của nước ta bao gồm cả quyền
buộc tội và gỡ tội. Khi thực hiện chức năng buộc tội, Viện kiểm sát căn cứ
chứng cứ thu thập được để buộc tội đối với bị can, bị cáo hoặc đưa ra những
căn cứ gỡ tội đối với bị can, bị cáo khi đình chỉ vụ án; thông qua bản cáo
trạng hoặc bản luận tội nêu các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự đối với bị can, bị cáo. Khi thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát
thay mặt cho quyền lực nhà nước để truy tố ra tòa những người phạm tội và là
cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án thông qua quyết định truy tố của Viện
kiểm sát nhân dân [38, tr. 60].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp
1.1.2.1. Khái niệm
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước,
do Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhằm đảm bảo pháp chế trong hoạt động
tư pháp hình sự. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà
nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác
với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát hoạt động tư
15
pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và
các cơ quan được giao một số hoạt động trong quá trình tố tụng như: Kiểm
lâm, Hải quan, Cảnh sát biển… khi tham gia hoạt động tố tụng.
Xét hoàn cảnh lịch sử nên Hiến pháp năm 1946 không được ban bố thi
hành, Quốc hội giao cho Chính phủ cùng Ban Thường vụ Quốc hội căn cứ
vào các nguyên tắc của Hiến pháp ban hành các văn bản pháp luật, vì vậy Tòa
án và Cơ quan công tố được tổ chức theo các Sắc lệnh của Chính phủ. Theo
các Sắc lệnh nói trên thì Cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa
án, do Bộ Tư pháp quản lý [22]. Ngay trong cơ cấu này thì chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp cũng thể hiện khá rõ, cụ thể các Công tố viên có
quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp Cảnh sát, kiểm soát công việc
quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người đứng
đầu Viện công tố của Tòa Thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ
giám sát việc thi hành các Đạo luật, Sắc lệnh và Quy tắc hiện hành trong quản
hạt của mình. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày
29/4/1958) Quốc hội đã quyết định Viện công tố Trung ương trực thuộc
Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận công tố trực thuộc Tòa án
ra. Tuy nhiên, ngay cả trong mô hình này thì Viện công tố cũng đã có những
nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp như giám sát việc chấp hành pháp luật
trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp
luật trong việc xét xử của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong
việc thi hành các bản án hình sự, dân sự và trong hoạt động của các Cơ quan
giam, giữ, cải tạo, khởi tố và tham gia tố tụng những vụ án dân sự. Như vậy,
ngay từ lúc mới hình thành, Cơ quan công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập
cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động. Chức năng không chỉ giới hạn ở thực
hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt động điều tra, giám sát đối với các
hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, kháng cáo bản án
16
hình sự, dân sự. Chỉ sau đó hơn một năm, Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp
đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại
hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm
sát. Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội
đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ
quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa
phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi
do luật định [38, tr. 53].
Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố
ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất -
điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Xét bối cảnh lịch sử
ra đời của Viện kiểm sát thì thấy việc lựa chọn mô hình này ở nước ta, Ban
soạn thảo Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu quyết
định chuyển Viện công tố thành Viện kiểm sát bao gồm cả chức năng công tố
và chức năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là hoàn toàn có
sự cân nhắc, tính toán và thể hiện tính khách quan chứ không phải là một sự
sao chép máy móc mô hình Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới. Đến
Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tuy có những bổ sung, thay đổi
về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhưng chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát.
Theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố
tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc
vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [28, tr. 17].
17
Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng Viện kiểm sát còn kiểm sát
việc tuân theo pháp luật (kiểm sát hoạt động tư pháp) đối với Cơ quan tiến
hành tố tụng; Người tiến hành tố tụng; Người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm
cho pháp luật được thi hành thống nhất, không để cơ quan, cá nhân nào làm
trái quy định của pháp luật, gây oan sai cho người vô tội. Mục đích của kiểm
sát hoạt động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm
chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.1.2.2. Đặc điểm
Thứ nhất, kiểm sát tư pháp là một nội dung trong hoạt động kiểm sát
tuân thủ pháp luật.
Thực tế kiểm sát tư pháp là một phần trong hoạt động kiểm sát chung
bao gồm cả hoạt động kiểm sát văn bản; kháng cáo kháng nghị; hỗ trợ tư pháp
của cơ quan kiểm sát. Trước đây, theo Hiến pháp năm 1992, chức năng kiểm
sát chung hoạt động tuân thủ pháp luật thuộc thẩm quyền của hệ thống viện
kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, kể từ lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001 và Hiến
pháp hiện hành năm 2013 thì hệ thống này chỉ giữ lại quyền kiểm sát đối với
hoạt động tư pháp.
Thứ hai, kiểm sát tư pháp là hoạt động tư pháp.
Nếu như các hoạt động kiểm sát văn bản là hoạt động quản lý hành
chính nhà nước thì hoạt động kiểm sát tư pháp là hoạt động đặc thù của tư
pháp. Bởi lẽ, hoạt động kiểm sát tư pháp được thực hiện bởi một hệ thống
viện kiểm sát nhân dân trong nhóm các cơ quan tư pháp; đồng thời đối tượng
của hoạt động này cũng là hoạt động truy tố, xét xử và thi hành án trong trình
tự tư pháp.
1.1.2.3. Ý nghĩa
Cùng với thẩm quyền công tố tội phạm, quyền kiểm sát hoạt động tư
pháp là quyền năng giám sát việc chấp hành pháp luật, các trình tự tư pháp,
18
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp giúp cơ quan Viện kiểm sát tham gia
vào quá trình tố tụng để đảm bảo các luật do Quốc hội ban hành liên quan tới
vụ việc được tuân thủ, đảm bảo không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực
thi hoạt động xét xử, đảm bảo các hành vi vi phạm pháp luật phải bị phát hiện
và xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy
1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy
Ma túy là ẩn họa của toàn nhân loại và cuộc chiến chống lại ma túy cho
thấy sự cam go trên phạm vi toàn cầu cũng như trong khu vực. Hàng trăm
năm qua, tội phạm ma túy gắn bó hữu cơ với tội phạm hình sự trên thế giới
cũng như ở từng khu vực và trong từng quốc gia.
Ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều cố gắng của các cơ quan nhà nước, tổ
chức và sự tham gia của toàn xã hội nhưng tội phạm ma túy vẫn có xu hướng
gia tăng, diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, ngày 09/12/2000, Quốc hội
đã ban hành Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 và Luật này được
sửa đổi, bổ sung năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Đồng thời, ngày
25/9/2007 Thủ tướng ban hành Quyết định số 156/2007/QĐ-TTg Phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2010 với 9 đề
án, trong đó Bộ Công an là đầu mối Chương trình mục tiêu quốc gia phòng,
chống ma túy. Ngày 24/02/2011 Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số
282/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48 CT/TW ngày
22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Trong các quy định của pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 1985
quy định duy nhất 01 điều về tội phạm ma túy, cụ thể là Điều 203 về tội tổ
19
chức dùng chất ma túy với hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Tuy nhiên, trước
tính chất phức tạp của loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự 1985 đã sửa, đổi bổ
sung (ngày 10 tháng 5 năm 1997) một loạt hành vi về ma túy là tội phạm [24].
Lần sửa đổi này, Bộ luật Hình sự đã có thêm một chương (chương VIIa) về
tội phạm ma túy. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã điều chỉnh bổ sung các loại tội
phạm ma túy mới phát sinh và qua các lần sửa đổi thì Chương XVII Bộ luật
Hình sự năm 1999 qui định 10 loại tội phạm về ma tuy, cụ thể:
- Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý
(Điều 192);
- Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193);
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma
túy (Điều 194);
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào
việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195);
- Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ
dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196);
- Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197);
- Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 198);
- Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199);
- Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 200).
- Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các
chất ma túy khác (Điều 201).
Với bản chất là loại hóa chất gây nghiện và gây ảo giác nguy hiểm cho
con người, ma túy là loại hóa chất được Nhà nước độc quyền và quản lý theo
quy định nghiêm ngặt. Tội phạm về ma túy từ đó được hiểu là hành vi cố ý
xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với các loại ma túy.
20
Xét các yếu tố cấu thành của các tội phạm này có thể thấy: [52, tr. 157-162]
Thứ nhất, về mặt khách quan, hành vi của các tội phạm về ma túy tuy
khác nhau về hình thức thể hiện ra bên ngoài nhưng về tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội thì giống nhau vì đều là những hành vi vi phạm chế độ
quản lý nhà nước đối với hóa chất gây nghiện nguy hiểm này. Hành vi đó có
thể được ghi nhận như một hành vi của cá nhân vi phạm các quy định cấm
của Nhà nước trong sử dụng và lưu thông ma túy (các tội phạm từ Điều 192
đến 200 Bộ luật Hình sự) hoặc có thể là những hành vi của các cá nhân có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong hoạt động quản lý việc sử
dụng, lưu thông hóa chất gây nghiện này (Điều 201 Bộ luật Hình sự).
Thứ hai, về khách thể, khách thể chung của các tội phạm về ma túy
được ghi nhận là chế độ quản lý nhà nước về các chất ma túy. Đối tượng cụ
thể của tội phạm là các chất ma túy và các dụng cụ sản xuất và sử dụng chất
ma túy. Theo đó, các chất ma túy được hiểu rộng bao gồm các chất ma túy;
các chất hướng thần; các tiền chất ma túy và hướng thần; các cây trồng hoặc
nguyên liệu thực vật có chưa chất ma túy. Việc xác định chất ma túy được
dựa trên Bảng các chất ma túy và chất hướng thần quy định tại Công ước Liên
Hiệp Quốc về thống nhất về các chất ma túy năm 1961 [1, tr. 56]; Công ước
về các chất hướng thần năm 1971 [2, tr. 64] và Công ước về chống buôn bán
bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988 [3, tr. 3].
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự và Luật Phòng chống ma túy cũng ghi nhận cụ thể
khái niệm về ma túy.
Thứ ba, về mặt chủ quan, đối với đa số tội phạm, lỗi của người thực
hiện hành vi là lỗi cố ý trực tiếp (gồm các tội phạm được quy định từ Điều
192 đến 197 và Điều 200 Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, đối với tội chứa chấp
sử dụng chất ma túy (Điều 198) và tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng
thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201) thì ngoài lỗi cố ý trực
tiếp thì còn có thể có lỗi cố ý gián tiếp.
21
Thứ tư, về chủ thể, đa phần chủ thể thực hiện hành vi tội phạm về ma
túy trong các vụ án là các chủ thể thường, đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Riêng tội phạm tại Điều 201 là chủ thể đặc biệt – là những người được giao
nhiệm vụ quản lý hoạt động sử dụng thuốc gây nghiện, người trực tiếp sử
dụng các chất này phục vụ hoạt động nghiệp vụ nghề nghiệp.
Thứ năm, về hình phạt, do tính chất nguy hiểm của ma túy đối với đời
sống xã hội nên hình phạt áp dụng đối với các tội phạm này là rất nghiêm
khắc. Hầu hết các tội phạm về ma túy là các tội phạm nghiêm trọng và tội
phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng với mức án cao nhất có thể
là tử hình hoặc chung thân.
1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội
phạm ma túy
Từ khái niệm được phân tích kể trên có thể ghi nhận:
- Thực hành quyền công tố đối với tội phạm ma túy là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội xâm phạm tới chế
độ quản lý nhà nước về các chất ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự
hiện hành trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử.
- Kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy là quyền năng
giám sát việc chấp hành pháp luật, các trình tự tư pháp trong quá trình điều
tra, truy tố và xét xử các tội xâm phạm tới chế độ quản lý nhà nước về các
chất ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành, góp phần bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất.
1.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng hình sự đối với các tội phạm về ma túy
Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự của Viện kiểm sát được tiến hành ở tất cả các vụ án, tuy nhiên, khi
22
thực hiện các chức năng này đối với các tội phạm về ma túy lại có những
điểm khác biệt, thể hiện ở những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội phạm ma túy phải
phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước đối với các chất gây nghiện. Cơ sở
pháp lý của hoạt động công tố và kiểm sát tư pháp đối với tội phạm ma túy là
hệ thống quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh về loại tội phạm này. Tuy
nhiên, thực tiễn cho thấy, tùy vào từng thời kỳ mà hoạt động quản lý nhà
nước đối với các chất gây nghiện như: ma túy; thuốc phiện có sự thay đổi.
Nếu như trước kia hoạt động trồng, sản xuất ma túy tại Việt Nam diễn biến
phức tạp thì tới nay là sự phát triển của các loại ma túy mới tinh vi và có độc
tính cao hơn nhiều như: ma túy đá; thuốc lắc… Quyền công tố và kiểm sát tư
pháp cũng thay đổi để phù hợp với các quy định điều chỉnh này.
Thứ hai, quyền công tố và kiểm sát tư pháp đối với tội phạm ma túy đòi
hỏi sự nghiêm minh và có sức răn đe nhất định. Tội phạm ma túy là tội phạm
nguy hiểm và manh động, tác động xấu tới an toàn trật tự, đời sống của nhân
dân. Bởi vậy, pháp luật hình sự hướng các tội phạm này tới việc phải chịu
những hình phạt nghiêm khắc hơn. Do vậy, quyền công tố và kiểm sát tư pháp
với các tội phạm này cũng đòi hỏi phải đúng người đúng tội, khoan hồng
nhưng cũng hướng tới răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
1.3. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ
pháp đối với tội phạm về ma túy
1.3.1. Đối tượng và phạm vi
Đối với quyền công tố, với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội,
truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử, đối tượng của hoạt động thực hành quyền
công tố là tội phạm và người phạm tội. Trong khi đó, đối tượng của công tác
kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được giao
23
một số nhiệm vụ, những người có thẩm quyền trong điều tra, xét xử, thi hành
án và những người tham gia tố tụng khác.
Căn cứ Khoản 1 Điều 25 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2014; Điều 2 Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam (được
ban hành kèm theo Quyết định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29/1/2013 của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao):
Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và
thi hành án hình sự là việc tuân theo pháp luật của Tòa án, nhà tạm
giữ, trại tạm giam; cơ quan quản lý thi hành án hình sự; cơ quan thi
hành án hình sự; cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi
hành án hình sự và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm
giam và thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật [38, tr. 72]
Theo quy định trên, đối tượng kiểm sát của hoạt động kiểm sát thi hành
án hình sự là việc tuân theo pháp luật của các chủ thể sau:
+ Tòa án nhân dân: Đây là một chủ thể quan trọng trong hoạt động thi
hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án
hình sự được quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, theo
đó, Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn: ra Quyết định thi hành án, quyết định
thành lập Hội đồng thi hành án tử hình, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình
chỉ chấp hành án phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn
trục xuất; rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo; xem
xét, giải quyết việc cho nhận tử thi của người chấp hành án tử hình; Gửi bản
án, quyết định được thi hành và quyết định, tài liệu có liên quan cho cơ quan,
tổ chức, cá nhân theo quy định…
+ Cơ quan quản lý thi hành án hình sự: Theo khoản 1 Điều 10 Luật Thi
hành án hình sự năm 2010 thì Cơ quan quản lý thi hành án hình sự gồm Cơ
quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an và Cơ quan quản lý thi hành án
24
hình sự Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này được quy
định tại Điều 11, 12 Luật Thi hành án hình sự năm 2010.
+ Cơ quan thi hành án hình sự: theo khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án
hình sự năm 2010 thì cơ quan thi hành án hình sự bao gồm: Trại giam (gồm trại
giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân
khu); cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự
Công an cấp huyện; cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu [29, tr. 14-15].
+ Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự: Trại tạm
giam (gồm trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc
phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu) Ủy
ban nhân dân cấp xã; Đơn vị quân đội.
+ Người có trách nhiệm trong hoạt động thi hành án hình sự: như
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Chánh án Tòa án nơi bị án đang chấp
hành án, Giám thị trại giam….
Về phạm vi, đối với mỗi chức năng ở từng giai đoạn của quá trình giải
quyết vụ án (từ khi điều tra, xét xử, thi hành án) đều có phạm vi khác nhau.
Căn cứ Điều 2 Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra vụ án
hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày
02/1/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là quy chế
Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra) xác định, công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ
án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết
thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án
theo quy định của pháp luật.
Căn cứ Điều 3 Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát
xét xử thì công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự bắt
đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn
25
cùng hồ sơ vụ án sang Toà án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị.
Bởi vậy, trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động thực hành quyền
công tố và giám sát tư pháp là đặc biệt quan trọng. Điều 3 Quy chế Thực hành
quyền công tố và Kiểm sát điều tra đã xác định công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm: (1) Mọi
hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; (2) Không để người
nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách
trái pháp luật; (3) Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác,
đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được
phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; (4) Việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.
1.3.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối
với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn điều tra
Thực hành quyền công tố
Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và
khoản 1 Điều 4 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi
tố bị can theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự;
26
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến
hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt
động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự;
3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra
viên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nếu hành vi của
Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm
giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê
chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan
điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường
hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải
nêu rõ lý do;
5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật
của Cơ quan điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án [16, tr. 26].
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
trong đó có các vụ án ma túy, tuỳ từng trường hợp mà Viện kiểm sát thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình
sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự [10, tr 348]. Theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự
do Cơ quan điều tra thực hiện là chủ yếu. Viện kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố
vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi
tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử
yêu cầu khởi tố vụ án. Đối với việc khởi tố bị can thì Viện kiểm sát chỉ trực
tiếp khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều
27
tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội
trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, trong các trường hợp khác, việc khởi tố bị
can do Cơ quan điều tra thực hiện và Viện kiểm sát có trách nhiệm phê chuẩn
việc khởi tố. Thực tế cho thấy Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố vụ án hình sự,
khởi tố bị can chỉ trong một số ít trường hợp, khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự Viện kiểm sát chủ yếu yêu cầu Cơ
quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can.
Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Viện kiểm sát
khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án ma túy là đề ra yêu
cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt
động điều tra có kết quả thì Viện kiểm sát với vai trò là cơ quan được giao
nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi có
quyết định khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn của quá trình điều tra, Kiểm
sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải
bám sát việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra để kịp thời đề ra các yêu cầu
điều tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết, để thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi thực hành quyền công tố trong giai
đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều
tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như: Triệu tập và hỏi cung bị
can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối chất; thực
nghiệm điều tra… để củng cố chứng cứ và các tình tiết khác nhằm đánh giá
một cách khách quan, toàn diện vụ án. Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được
khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng,
đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm, khi phát hiện Điều tra viên
28
được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay đổi theo
qui định tại Điều 43 và Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát
phải kịp thời yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên.
Trong trường hợp xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có
quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nới cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà
Bộ luật tố tụng hình sự quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như:
Phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định tạm giữ; phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam; phê chuẩn lệnh
tạm giam… thì Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét, quyết định việc phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn. Mọi trường hợp từ chối phê chuẩn của Viện
kiểm sát đều phải nêu rõ lý do của việc không phê chuẩn.
Để thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bảo
đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các
quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì
Viện kiểm sát có quyền ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó như: Quyết
định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; quyết định khởi tố vụ án hình sự;
quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án của Cơ quan
điều tra… thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó theo đúng
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; trong trường hợp bị can trốn hoặc không
biết bị can đang ở đâu mà Cơ quan điều tra không ra quyết định truy nã thì
Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị
can theo quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra
29
đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn quan
trọng của Viện kiểm sát trong giai đoạn này mà không cơ quan nào khác có
thể thay thế được là quyết định việc có truy tố bị can ra trước Toà án để xét
xử hay không. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy có đủ căn cứ để truy
tố bị can thì Viện kiểm sát thực hiện việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng
bản cáo trạng. Trong những trường hợp quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng
hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong
những trường hợp quy định tại Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện
kiểm sát ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp
Theo Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Khoản 2 Điều 4
Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra, khi thực hiện công
tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và các vụ án ma túy nói riêng,
Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:
- Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ
sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng;
- Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra;
- Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt
động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm
pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý
nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra;
- Kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Như vậy, có thể thấy cơ quan Viện kiểm sát có thể tham gia kiểm sát
toàn bộ quá trình điều tra vụ án ma túy để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của
cơ quan điều tra, tránh trường hợp gây thiệt hại cho bị can, bị cáo.
30
1.3.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối
với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xét xử
Căn cứ Điều 1 Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát
xét xử thì trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách
nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc
xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Trên cơ sở chức năng đó, căn cứ các điều 18, 19 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 thì khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét
xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự gồm:
+ Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết
định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa.
+ Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết
vụ án tại phiên tòa.
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội.
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự [10, tr. 361]
Khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân được quy định gồm:
+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự
của Tòa án.
+ Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
+ Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu
cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham
gia tố tụng vi phạm pháp luật.
31
+ Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để
xem xét, quyết định việc kháng nghị.
+ Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng.
+ Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với quy trình xét xử sơ thẩm, đại diện cơ quan kiểm sát nhân dân là
các Kiểm sát viên sẽ thực hành quyền công tố và quyền kiểm sát tư pháp
trong các giai đoạn cụ thể:
Giai đoạn nghiên cứu hồ sơ: Kiểm sát viên khi nhận được hồ sơ vụ án
sẽ thực hiện nghiên cứu các thủ tục tố tụng liên quan bao gồm các quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; các tài
liệu, chứng cứ của hồ sơ vụ án (bản kết luận điều tra; biên bản hỏi cung bị
can; lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; lời khai của người làm chứng; biên
bản đối chất; biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản nhận dạng; kết
luận giám định…). Tiếp đó, Kiểm sát viên phải thực hiện quá trình nghiên
cứu quy định pháp luật để xác định cấu thành cơ bản; cấu thành cụ thể và tiến
hành áp dụng pháp luật.
Giai đoạn kiểm tra, xác minh các tài liệu chứng cứ: Sau khi nghiên cứu
toàn bộ hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần dành thời gian để kiểm tra trực tiếp
các tài liệu, chứng cứ trong các trường hợp cần thiết, nhằm một mặt củng cố
thêm lòng tin nội tâm của mình về các tình tiết của vụ án, đồng thời, tiếp tục
làm sáng tỏ hơn các mâu thuẫn mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên đã
phát hiện được.
Giai đoạn chuẩn bị thủ tục tham gia phiên tòa: Kiểm sát viện thực hiện
việc báo cáo án với lãnh đạo Viện kiểm sát, sau khi được thông qua sẽ xây
32
dựng đề cương xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Kết quả của giai đoạn này là
bản dự thảo luận tội.
Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ
thẩm: Đối với quyền công tố, Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm sẽ đọc cáo
trạng, tham gia vào quá trình xét hỏi, tranh luận đồng thời trình bày bản luận
tội. Cũng trong giai đoạn này, kiểm sát hoạt động tư pháp được tiến hành với
hoạt động của những người tiến hành tố tụng theo đúng trình tự tố tụng hình
sự luật định, trong suốt quá trình diễn ra phiên tòa từ khi kiểm tra nhân thân bị
cáo tới khi ra bản án sơ thẩm.
Đối với phiên tòa phúc thẩm hình sự: Kiểm sát viên cũng tham gia vào
toàn bộ quy trình xét xử phúc thẩm hình sự bao gồm từ khi nghiên cứu kháng
cáo, kháng nghị; nghiên cứu nội dung vụ án (bao gồm: xem xét tính có căn cứ
của bản án sơ thẩm; kiểm tra về trình tự tố tụng; nghiên cứu bản án sơ
thẩm…); tiến hành xác minh ở cấp phúc thẩm; báo cáo án; xây dựng đề cương
xét hỏi và dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa phúc thẩm,
quyền kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện ở việc kiểm sát việc chấp
hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử; trực tiếp tham gia xét hỏi tại phiên
tòa; trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với bản án sơ thẩm và nội
dung kháng cáo, kháng nghị; tham gia tranh luận tại phiên tòa.
Kết thúc phiên xét xử phúc thẩm hình sự, kiểm sát viên thực hành kiểm
sát thông qua kiểm tra biên bản phiên tòa phúc thẩm, bản án, quyết định phúc
thẩm, đồng thời thực hiện báo cáo kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát
xét xử phúc thẩm.
1.3.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối
với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn thi hành án
Trước hết cần khẳng định, chức năng công tố của cơ quan kiểm sát
nhân dân không được áp dụng trong giai đoạn thi hành án hình sự đối với các
33
tội phạm về ma túy. Theo đó, căn cứ Khoản 2 Điều 25 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 141, 142 Luật Thi hành án hình sự năm
2010 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc
thi hành án hình sự bao gồm:
+ Yêu cầu Toà án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu Tòa án, cơ
quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi
hành án hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho
Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi
hành án hình sự.
+ Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành
án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực
tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương;
+ Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù
không có căn cứ và trái pháp luật;
+ Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia
việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút
ngắn thời gian thử thách;
+ Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan,
người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự;
+ Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi
phạm pháp luật trong thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm;
+ Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của
pháp luật;
+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình
sự theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự [10, tr. 443-445]
Trong đó, vai trò của cơ quan kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm
34
sát thi hành án hình sự cụ thể là án ma túy bao gồm hoạt động kiểm sát trong
việc thi hành án tử hình; án treo, án phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ;
cấm cư trú, quản chế; trục xuất; bắt buộc chữa bệnh… Đối với các tội phạm
ma túy thường là các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng thì hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự đối với loại tội phạm
này càng được quan tâm hơn. Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 07 năm 2011 và Chỉ thị số 01/2014/CT-VKSTC ngày
02/01/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác của
ngành kiểm sát nhân dân năm 2014 và hướng dẫn, chương trình công tác kiểm
sát thi hành án hình sự năm 2014 được coi đã đánh dấu bước phát triển quan
trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta nói chung, trong lĩnh vực thi
hành án hình sự nói riêng, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà
nước ta đối với người chấp hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội
phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu
cầu cải cách tư pháp cũng như bảo đảm tốt hơn quyền tự do, dân chủ của công
dân. Ở giai đoạn này, Viện kiểm sát phải nắm chắc số người bị kết án phạt tù
có hiệu lực pháp luật, việc ra, gửi Bản án, Quyết định thi hành án của Tòa án
và có quyết định thi hành án nhưng chưa thi hành để yêu cầu Cơ quan thi
hành án hình sự đưa đi thi hành theo quy định của pháp luật không để sót lọt,
kéo dài quá hạn luật định. Đồng thời, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thực
hiện kiểm sát chặt chẽ các trường hợp hoãn và không tự nguyện thi hành án.
Chú trọng kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo,
trục xuất và các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm
chức vụ. Đồng thời phải tăng cường áp dụng các biện pháp pháp luật như
kháng nghị, kiến nghị nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong việc thi hành án
hình sự, coi đây là những biện pháp pháp luật có tầm quan trọng để cơ quan
có vi phạm khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp pháp luật đòi
35
hỏi tính chính xác, kịp thời và khách quan đảm bảo công tác kiểm sát thi hành
án hình sự đem lại hiệu quả cao, đồng thời thể hiện vai trò kiểm sát hoạt động
tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
Đặc biệt với tội phạm ma túy, số lượng bị cáo phải thi hành hình phạt
tử hình chiếm số lượng cao so với các loại tội phạm khác. Trong đó, Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát ở các khâu:
- Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án tử hình nhằm đảm bảo thủ tục
ra quyết định và việc gửi quyết định thi hành án tử hình được thực hiện theo
đúng quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án hình sự.
- Kiểm sát việc thực hiện các thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi
bản án được đưa ra thi hành theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình
sự và hướng dẫn tại Mục II Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02 tháng
10 năm 2007 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao Hướng dẫn
thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định
của Toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Kiểm sát việc Chánh án Toà án ra văn bản yêu cầu thành lập Hội đồng
thi hành án tử hình theo đúng quy định tại Điều 55 Luật Thi hành án hình sự.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng thi hành án tử hình
theo quy định tại Điều 56 Luật Thi hành án hình sự
- Kiểm sát việc thực hiện chế độ quản lý giam giữ, ăn, mặc, ở, sinh
hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế…
đối với phạm nhân nhằm đảm bảo các chế độ trên được thực hiện đầy đủ.
Theo quy định tại Điều 57 Luật Thi hành án hình sự, chế độ quản lý giam giữ,
ăn, ở, mặc, sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân,
chăm sóc y tế đối với người bị kết án tử hình trong thời gian chờ thi hành án
thực hiện theo quy định của pháp luật về tạm giam.
- Kiểm sát tính có căn cứ của việc ra quyết định hoãn thi hành án tử
36
hình của Hội đồng thi hành án tử hình, bảo đảm việc hoãn thi hành án tử hình
tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Các trường hợp hoãn thi hành án tử
hình phải tuân theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án hình sự và theo
quy định tại Điều 259 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Kiểm sát việc thi hành án tử hình theo đúng các quy định tại Điều 59
Luật Thi hành án hình sự và Điều 8 Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày
6/9/2011 Quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc.
- Kiểm sát việc giải quyết việc xin nhận tử thi, hài cốt của người bị thi
hành án tử hình theo quy định tại Điều 60 Luật Thi hành án hình sự.
37
CHƢƠNG 2
PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM MA TÚY
TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
2.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm ma túy
2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp trước 2003
Từ tháng 9/1945 đến trước năm 1958, sự hình thành và phát triển của
ngành Công tố gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của ngành Toà
án, Cơ quan Công tố được tổ chức bên trong hệ thống Toà án. Tại phiên họp
ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội thông qua Đề án của Hội đồng Chính
phủ nhằm tăng cường thêm một bước cho Chính phủ và bộ máy Nhà nước ở
cấp Trung ương, trong đó có nội dung thành lập hệ thống Viện công tố độc
lập, tách khỏi sự quản lý của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở đó, Viện công tố được
tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, tách khỏi tổ chức của Toà án và
sự quản lý của Bộ Tư pháp, Viện công tố Trung ương được đặt trực thuộc Hội
đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Viện công tố có
nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố
theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân
dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích
của công dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến
hành thuận lợi [16, tr. 27].
Hoạt động thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
từ khi Viện công tố được thành lập vào năm 1958, tiền thân của Viện kiểm
sát. Bản thân sự ra đời của Viện công tố ở nước ta năm 1958 cho thấy một
bước tiến quan trọng của nền tư pháp cách mạng. Với chức năng, nhiệm vụ
38
của Viện công tố năm 1958 cũng có rất nhiều điểm tương đồng với Viện công
tố một số nước hiện nay. Nghiên cứu lịch sử Viện công tố ở nước ta vào trước
năm 1960 cho thấy cơ quan Công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà
còn giám sát các hoạt động tư pháp; cơ quan Công tố không chỉ thực hiện
chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực hình sự mà còn cả lĩnh vực dân sự, thi hành
án, giam giữ, cải tạo; có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình
sự mà khi cần thiết còn trực tiếp tiến hành điều tra hoặc một số hoạt động điều
tra. Trong giai đoạn hình thành và phát triển của cơ quan Công tố (1945 - 1960)
và từ khi có Viện kiểm sát (1960 đến nay), Viện kiểm sát đều được giao hai
nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
(trước đây có cả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,
kinh tế, xã hội; từ 2002 đến nay chỉ gồm kiểm sát các hoạt động tư pháp).
Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960
là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát
nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Tiếp đó, các bản Hiến pháp năm 1980,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (được
sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992
và năm 2002 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát
trong việc bảo đảm pháp chế thông qua các công tác thực hiện chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Trong thời kỳ đổi mới, với việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII), Nghị quyết Hội nghị
lần thứ 3 và lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nghị quyết số
08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” [4],
39
hệ thống cơ quan Viện kiểm sát đã có những thay đổi quan trọng, cụ thể là: 1)
Về chức năng, nhiệm vụ: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thôi không thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính,
kinh tế, xã hội để tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp; thu hẹp phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát theo hướng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát chỉ
điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; thu hẹp phạm vi kiểm sát xét xử dân sự
theo hướng Viện kiểm sát thôi không thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án dân
sự, không tham gia 100% các phiên toà xét xử sơ thẩm và phúc thẩm dân sự
mà tập trung vào kiểm sát các quyết định và bản án của cơ quan xét xử như
quyết định thụ lý vụ án, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời,
quyết định và bản án sơ thẩm, phúc thẩm…, tham gia phiên toà đối với những
vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ, việc dân sự mà Viện kiểm
sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có hiệu lực từ
01/06/2015 được coi như một bước chuyển về tư duy tổ chức hệ thống cơ
quan Viện kiểm sát nhân dân trên cả nước.
2.1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm
sát hoạt động tư pháp từ năm 2003 tới nay
Pháp luật về thực thi quyền công tố của cơ quan kiểm sát nhân dân
Để đảm bảo việc thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn
bản pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội, cơ quan được giao thẩm quyền truy tố đưa vụ án ra toà để
xét xử và thực hiện việc buộc tội đó gọi là cơ quan thực hành quyền công tố.
40
Khung pháp lý cơ bản để thực hiện quyền công tố của cơ quan kiểm sát nhân
dân hiện nay là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Hình sự năm 1999
sửa đổi năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo Khoản 1 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc
truy tố người phạm tội ra trước Toà án”. Theo đó, trong quá trình tiến hành tố
tụng vụ án hình sự Viện kiểm sát căn cứ theo quy định của pháp luật để ban
hành các quyết định thể hiện tính quyền lực của nhà nước như: Quyết định
phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; Quyết định trả tự do; Quyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam (bắt bị can
tạm giam); Quyết định truy tố (Cáo trạng); Quyết định thay đổi biện pháp
ngăn chặn; Quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; Kiến
nghị…. nhằm mục đích truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử theo
quy định của pháp luật [16, tr. 27].
Trên cơ sở đó, Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân: Kiểm
sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của
Cơ quan điều tra; Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu
tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kiểm sát việc
bắt, tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của
Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và
thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh
luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố
tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án; Kiểm sát việc thi hành
bản án, quyết định của Toà án… nhằm xử lý tội phạm kịp thời, đúng người,
đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
 
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tàng trữ trái phép chất ...
 
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAYLuận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
Luận văn: Thời hạn của các biện pháp ngăn chặn theo luật, HAY
 
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOTĐề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
Đề tài: Pháp luật trong thực hành quyền công tố khi điều tra, HOT
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOTLuận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong vụ án cướp tài sản, HOT
 
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC ...
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC ...ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC ...
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN VỀ MA TÚY THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC ...
 
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt NamLuận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
Luận văn: Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật TTHS Việt Nam
 
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM_10192812052019
 
Luận văn: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo luật quận Cẩm Lệ
Luận văn: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo luật quận Cẩm LệLuận văn: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo luật quận Cẩm Lệ
Luận văn: Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo luật quận Cẩm Lệ
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn...
 
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng NamLuận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
Luận văn: Tội chống người thi hành công vụ tại tỉnh Quảng Nam
 
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đLuận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
Luận văn: Hình phạt bổ sung theo pháp luật hình sự Việt Nam, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn trong điều tra vụ án hình sự, HAY
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sựLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
 
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
Luận văn: Cơ quan Cảnh sát điều tra trong tố tụng hình sự
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Thời hạn tố tụng trong pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 

Similar to Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY

Similar to Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY (20)

Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều traHoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
Hoạt động điều tra tội phạm về trật tự xã hội của cơ quan điều tra
 
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAYLuận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
Luận văn: Thực hành quyền công tố trong các vụ án ma túy, HAY
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư phápLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm hoạt động tư pháp
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh PhúcLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam tại Vĩnh Phúc
 
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN ...
 
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
Luận văn thạc sĩ các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt ...
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAYLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cản trở việc thi hành án theo Luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luậtLuận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra theo luật
 
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luậtLuận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
Luận văn: Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo luật
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đLuận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
Luận văn: Áp dụng hình phạt tại huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, 9đ
 
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hotluan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
luan van van de ve thi hanh hinh phat tu hinh, hot
 
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sátLuận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
Luận văn: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
 
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOTLuận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
Luận văn: Vấn đề để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình, HOT
 
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hìnhLuận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
Luận văn: Vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộKiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
dangdinhkien2k4
 

Recently uploaded (20)

Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 

Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN THANH TỨ thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ho¹t ®éng t- ph¸p ®èi víi téi ph¹m vÒ ma tóy (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà NỘi - 2016
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN TUẤN THANH TỨ thùc hµnh quyÒn c«ng tè vµ kiÓm s¸t ho¹t ®éng t- ph¸p ®èi víi téi ph¹m vÒ ma tóy (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi làm Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Tuấn Thanh Tứ
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM VỀ MA TÚY .................................... 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân .............. 8 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố ................................ 9 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp........14 1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy ..............18 1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy ................................................................18 1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội phạm ma túy.......................................................................................21 1.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự đối với các tội phạm về ma túy...............21 1.3. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy.....................................................22 1.3.1. Đối tượng và phạm vi.........................................................................22 1.3.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn điều tra................................25 1.3.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xét xử ..................................30
  • 5. 1.3.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn thi hành án ..........................32 CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM MA TÚY TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG................................................................ 37 2.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm ma túy.............................37 2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trước 2003 ............................................................37 2.1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp từ năm 2003 tới nay .............................................39 2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với các tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2011 - 2015..............................................................45 2.2.1. Thực trạng tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng.............45 2.2.2. Thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng ..........48 2.2.3. Một số tồn tại trong quá trình thực thi quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với thực tiễn xét xử tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.........................................................50 CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP.............................. 57 3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam ...........57 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp tại Việt Nam.................................59 3.2.1. Đối với quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân ..........................59
  • 6. 3.2.2. Đối với kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân...........62 3.2.3. Biện pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố đối với các tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.......................65 KẾT LUẬN.................................................................................................... 69 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................71
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu thống kê công tác truy tố, xét xử tội phạm ma túy 49
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiến pháp năm 2013 mới nhất đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của ngành kiểm sát nhân dân trong việc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa thông qua công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát khi thực hiện quyền công tố và kiểm sát tư pháp được cụ thể hóa trong Luật. Về chủ trương, Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp trong những năm tới cũng ghi nhận “Hoạt động công tố được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội”. Hệ thống cơ quan kiểm sát nhân dân là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm trong đó có tội phạm ma túy, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói, cơ quan Kiểm sát nhân dân được coi là cánh tay thực thi của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vai trò kiểm sát đối với việc ngăn ngừa, đưa ra truy tố tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng – loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Tại địa bàn thành phố Đà Nẵng, những diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm ma túy thời gian vừa qua đã đặt ra những thách thức cho ngành kiểm sát trong việc thực thi quyền công tố và kiểm sát tư pháp. Theo số liệu thống kê của Công an thành phố Đà Nẵng, trên địa bàn thành phố tính đến giữa năm
  • 9. 2 2014, số lượng người nghiện ma túy lên đến 1.888 người; con số này tăng so với năm 2013 là 248 người [13, tr. 2]. Trong khi đó, ngành kiểm sát Đà Nẵng đối mặt với nhiều bất cập và thực trạng chung của các cơ quan kiểm sát địa phương cũng như từ những chính sách mới ảnh hưởng tới hiệu quả thực thi quyền công tố và giám sát tư pháp trên địa bàn thành phố. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những nghiên cứu cụ thể và thiết thực để công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án ma túy của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng đáp ứng được các tôn chỉ hoạt động của ngành kiểm sát cụ thể: Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật [42, tr. 14]. Với các lý do trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma tuý (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” cho luận văn thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Hiện nay, các nghiên cứu về quyền công tố và kiểm sát tư pháp của cơ quan kiểm sát nhân dân khá nhiều và đầy đủ. Phải kể tới một số công trình nghiên cứu có giá trị liên quan tới các khía cạnh của tội phạm ma túy như:
  • 10. 3 - ThS Nguyễn Tuyết Mai, Một số đặc điểm cần chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Luật học số 11/2006, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 32 – 37; - ThS Nguyễn Tuyết Mai, Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội sử dụng trái phép chất ma tuý ở Việt Nam, Tạp chí Kiểm sát số 15/2006, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 29 – 31; - Nguyễn Việt Hùng, Một số vấn đề đặt ra trong việc áp dụng các quy định về tội phạm ma tuý của Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số 16/2006, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 45 – 49; - Nguyễn Xuân, Kinh nghiệm thực tiễn công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm đối với các vụ án ma tuý lớn, Tạp chí Kiểm sát số 4/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 25; - ThS Phạm Minh Tuyên, Một số bất cập và những kiến nghị đối với các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm ma tuý theo pháp luật hiện hành, Tạp chí Toà án nhân dân số 18/2005, Toà án nhân dân tối cao, tr. 9-14; - Nguyễn Thị Hoàng Lan, Một số ý kiến về việc hoàn thiện các quy định pháp luật về các tội phạm về ma tuý trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát số 11/2005, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 36 – 37… Một số công trình nghiên cứu liên quan tới nội dung về quyền công tố và kiểm sát tư pháp hình sự như: - ThS Nguyễn Kim Sáu, Các bước tiến hành thanh tra nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 8/2016, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 19 – 26; - Bùi Sơn Cường, Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án ma túy, Tạp chí Kiểm sát số 21/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 16 – 22;
  • 11. 4 - TS Trần Công Phàn, Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết các vụ án ma túy trong tình hình hiện nay, Tạp chí Kiểm sát số 20/2015, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2-6, 18; - Nguyễn Thị Hường, Luận văn thạc sĩ luật học “Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa sơ thẩm theo Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam” do PGS. TS. Nguyễn Văn Huyên hướng dẫn, Hà Nội, 2014; - Đặng Văn Thực, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự” do TS. Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012; - Nguyễn Thị Kiều Trang, Khóa luận tốt nghiệp “Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” do TS. Vũ Gia Lâm hướng dẫn, Hà Nội, 2012; - Trần Đức Phong, Một số kinh nghiệm qua thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về tội phạm ma tuý, Tạp chí Kiểm sát số 20/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 2 – 9; - Phạm Mạnh Hùng, Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 21/2011, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tr. 11-17… Một số bài báo đáng chú ý trong đề tài nghiên cứu này kể tới như: - Hoàng Thế Hanh, Một số vấn đề cơ bản để bảo đảm chất lượng thực hành quyền công tố của kiểm sát viên trong giai đoạn điều tra các vụ án tham nhũng, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 16/2015, tr. 52; - Vũ Thị Thùy Dương, Nâng cao chất lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, Tạp chí Thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Số 6/2015, tr. 33;
  • 12. 5 - Đoàn Thị Vĩnh Hà, Giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án về ma túy trên địa bàn Quận Hoàng Mai, Hà Nội, Tạp chí Kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Số 8/2015, tr. 23… Tuy nhiên, việc nghiên cứu đặc thù tội phạm ma túy trên địa bàn đặc thù là thành phố Đà Nẵng lại rất ít ỏi. Điều đáng nói là, các kết quả nghiên cứu thu được cho đến nay còn hết sức khiêm tốn. Phần lớn các công trình khoa học về lĩnh vực này còn chưa chuyên sâu, đại đa số được công bố dưới hình thức các bài viết được đăng tải trên các tạp chí khoa học chuyên ngành luật hoặc tham luận trong các Hội thảo quốc gia và quốc tế. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích một số quy định pháp luật hiện hành về quyền công tố và kiểm sát tư pháp, luận văn đi sâu phân tích, đánh giá quá trình và kết quả hoạt động thực thi pháp luật liên quan, phân tích đặc thù của tội phạm ma túy và của địa bàn thành phố Đà Nẵng đồng thời đưa ra các ý kiến góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm ma tuý trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong điều kiện hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu, hệ thống hoá các công trình khoa học của các tác giả đi trước có liên quan đến đề tài luận văn, tác giả kế thừa có chọn lọc và phát triển ý tưởng khoa học, từ đó đưa ra những luận điểm của mình về vấn đề nghiên cứu. Nhiệm vụ nghiên cứu mà luận án hướng tới cụ thể sau: Một là, phân tích tổng quát các về đề lý luận về pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai là, phân tích, đánh giá về pháp luật về thực hành quyền công tố và
  • 13. 6 kiểm sát hoạt động tư pháp, từ đó phân tích thực tiễn tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để rút ra các vướng mắc, hạn chế của pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập trong thực thi pháp luật liên quan. Ba là, đề xuất các ý kiến nhằm hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc những khía cạnh pháp lý của một số quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nghiên cứu còn sử dụng thực tiễn áp dụng đối với tội phạm ma túy trên địa bàn Đà Nẵng cũng như trên các địa bàn khác, pháp luật của một số quốc gia phát triển nhằm đánh giá về quy định pháp luật liên quan và đưa ra những quan điểm hoàn thiện tại Việt Nam hiện nay. 3.4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được hoàn thành trên cơ sở vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Luận văn cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp lịch sử, tư duy logic, phương pháp quy nạp, diễn giải… nhằm làm sáng tỏ nội dung và phạm vi nghiên cứu của đề tài. 4. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Với việc thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn góp phần hoàn thiện hơn các quy định liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của cơ quan kiểm sát nhân dân trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng với tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận văn này sẽ là một trong những tài liệu khoa học hữu ích cho việc giảng
  • 14. 7 dạy, học tập, nghiên cứu pháp luật liên quan. Đối với các cơ quan nhà nước, kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng để tham khảo trong quá trình xây dựng, áp dụng pháp luật. 5. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 3 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm về ma túy. Chương 2. Pháp luật và thực tiễn thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy tại địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp tại Việt Nam.
  • 15. 8 CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM VỀ MA TÚY 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân Trải qua quá trình từ khi thành lập đến nay đã 55 năm, chức năng của cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tuy có sự thay đổi qua từng thời kỳ nhưng lịch sử đã ghi nhận và chứng minh, sự tồn tại của Viện kiểm sát nhân dân mang tính tất yếu khách quan, là thiết chế góp phần bảo vệ và duy trì pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền thông qua công tác phát hiện và xử lý các hành vi phạm tội, bảo vệ các quyền cơ bản của cá nhân, tổ chức, đảm bảo sự chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện các chức năng, nhiệm vụ cơ bản gồm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra, xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; tiếp nhận, giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp theo quy định của pháp luật; tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân chuyển đến. Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng hoạt động của Viện kiểm sát theo yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, cụ thể kể từ thời điểm Viện
  • 16. 9 kiểm sát chỉ có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội nữa. Tới nay, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (sửa đổi) đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/11/2014 gồm 06 chương, 101 điều [31] và được xác định là sửa đổi căn bản, toàn diện về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm thể chế Hiến pháp năm 2013 và yêu cầu cải cách tư pháp. Theo đó, Viện Kiểm sát trong tố tụng hình sự có hai chức năng: Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát tư pháp trong hoạt động tụng hình sự. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền công tố 1.1.1.1. Khái niệm “Quyền công tố” là quyền nhân danh quyền lực công thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội [40, tr. 204]. Đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Phạm vi quyền này bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. Nghiên cứu về lịch sử nhà nước và pháp luật cho thấy, chế định công tố được hình thành dần cùng với sự hoàn thiện và phát triển của tố tụng hình sự. Lúc đầu, trong nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại, người bị hại là người buộc tội và có nghĩa vụ chứng minh lời buộc tội của mình, nhưng do hoạt động của họ rất khó khăn, nên sau này việc truy cứu trách nhiệm hình sự được chuyển giao cho nhà nước, do các viên chức của nhà vua tiến hành [15]. Kể từ khi xuất hiện nhà nước và thứ quyền lực nhà nước hiện diện trong xã hội, nhà nước luôn có cách thức như là một phản xạ tự nhiên là tự vệ để duy trì sự tồn tại của mình và đảm bảo trật tự xã hội đó là xử lý những người có hành vi chống lại nhà nước lấy mục đích trấn áp kẻ vi phạm pháp luật bằng bạo lực với lý do họ vi phạm pháp luật gây phương hại trước hết đến sự tồn vong của một chế độ nào đó. Như một lẽ tự nhiên muốn
  • 17. 10 xử lý ai đó bắt buộc phải có sự buộc tội. Khi pháp luật, luận lý, đạo đức, dân luật, hình luật còn đang trong trạng thái hỗn mang chưa rành mạch thì việc buộc tội một người nào đó do tư nhân và nhà nước đảm nhiệm với thủ tục tố tụng không rườm rà và phức tạp. Thậm chí Luật La mã còn cho phép cá nhân có quyền tự xử lý hành vi vi phạm pháp luật bằng sức mạnh bạo lực (Bộ Degest, quyển 43, mục 16, trích đoạn 1, điều 27). Việc buộc tội và xét xử nhiều khi không rõ ràng thể hiện ở việc ông vua chuyên chế, hay các quan chấp chính thời La mã vừa làm ra luật, vừa buộc tội vừa xét xử. Mặt khác, nhà nước ra đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho xã hội về mọi phương diện, luôn có trách nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội loại này, nhất là những hành vi mà bị pháp luật coi là tội phạm. Ở Việt Nam, thiết chế công tố viện được người Pháp mang đến Việt nam trước 1945 và tồn tại ở miền Bắc đến năm 1958, ở Miền Nam trước 1975, cơ quan công tố nằm trong tòa án. Có lúc nó nằm trong Chính phủ (1958 – 1959) và mô hình VKS như hiện nay. Cụm từ “thực hành quyền công tố” lần đầu tiên xuất hiện trong các văn bản pháp lý là Hiến pháp năm 1980 khi đề cập đến chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 138, và được nhắc lại ở các Điều 1 và 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981. Kể từ đó, đã có nhiều tài liệu, bài viết bàn về quyền công tố và thực hành quyền công tố, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc cải cách tư pháp. Riêng về “quyền công tố” đã có tới tám quan điểm khác nhau. Mỗi quan điểm có cách thể hiện và lập luận riêng [16, tr. 44]. Dưới đây là 04 nhóm quan điểm phổ biến nhất trong số đó: - Quan điểm 1: Công tố không phải là chức năng độc lập của viện kiểm sát mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự [21, tr. 127-151]. Quan hệ giữa thực hành quyền công tố
  • 18. 11 và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là quan hệ giữa cái riêng và cái chung. Quan niệm này phổ biến ở nước ta trước năm 1980 khi hiến pháp chưa có quy định về chức năng thực hành quyền công tố của viện kiểm sát và cũng xuất phát từ quan niệm phổ biến của các nhà tố tụng hình sự học Xô viết trước đây. - Quan điểm 2: Quyền công tố là quyền của viện kiểm sát thay mặt nhà nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì vậy, viện kiểm sát thực hành quyền công tố không chỉ trong tố tụng hình sự mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác [38, tr. 56]. - Quan điểm 3: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho viện kiểm sát truy tố người phạm tội ra trước tòa án và thực hành việc buộc tội đó tại phiên tòa [36, tr. 86-87]. - Quan điểm 4: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa. Quan điểm này phổ biến trong các nhà nước có sự phân chia quyền lực [40, tr. 204]. Nhưng các quan điểm này hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát, dẫn đến tình trạng mở rộng phạm vi quyền công tố vượt khỏi lĩnh vực tố tụng hình sự sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh tế, lao động, hành chính; hoặc coi quyền công tố là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập của Viện kiểm sát nhân danh quyền lực công; hoặc quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tố là quyền của Viện kiểm sát truy tố kẻ phạm tội ra Toà án và thực hiện việc buộc tội tại phiên toà hình sự sơ thẩm. Từ đó có thể hiểu: Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp
  • 19. 12 các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Quyền công tố có liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự, trong đó quy định cụ thể các loại hành vi nguy hiểm nào cho xã hội là tội phạm. Bất kỳ giai cấp thống trị nào khi lên nắm quyền lực nhà nước đều quan tâm trước hết đến lĩnh vực pháp luật hình sự, bởi chính pháp luật hình sự là phương tiện cai trị hữu hiệu, ổn định tình hình xã hội theo ý chí của giai cấp thống trị. Khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một loại quan hệ pháp luật giữa một bên là nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong quan hệ này, nhà nước là chủ thể sử dụng quyền lực nhà nước, quyền lực công để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội; còn người phạm tội là chủ thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và gánh chịu các chế tài hình sự do nhà nước quy định và áp dụng. Một trong những nguyên tắc đặc thù của hoạt động tố tụng hình sự là nguyên tắc công tố, nguyên tắc mà mọi hoạt động tố tụng được tiến hành trước hết và chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Điểm mấu chốt nhất của nguyên tắc này là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm phát hiện, khám phá tội phạm, xác định và xử lý người phạm tội. Một số công dân cũng tham gia vào hoạt động tố tụng, nhưng họ chỉ được lôi cuốn vào hoạt động tố tụng khi hoạt động này đã xuất hiện trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt khác, hoạt động tố tụng hình sự luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản: buộc tội; bào chữa (gỡ tội) và xét xử. Buộc tội, thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Người buộc tội, đại diện của cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền đưa ra lời cáo buộc đối với những cá
  • 20. 13 nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra những bằng chứng cho sự cáo buộc đó. Vì thế, quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hình sự gắn liền với sự buộc tội nhân danh nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, và chỉ phát sinh khi có hành vi phạm tội xảy ra. Sự buộc tội nhân danh công quyền này được gọi là quyền công tố. Như vậy, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Xuất phát từ khái niệm về quyền công tố như trên, nên đối tượng của quyền công tố chỉ là tội phạm và người phạm tội; nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi tội phạm; phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng nghị. 1.1.1.2. Đặc điểm Thứ nhất, quyền công tố là quyền được nhân danh quyền lực nhà nước trong hoạt động truy tố người vi phạm pháp luật ra xét xử. Việc truy tố tội phạm ra xét xử không phải hoạt động mà bất cứ tổ chức, cá nhân nào cũng được thực hiện. Nhà nước thông qua việc trao lại quyền truy tố cho một cơ quan nhà nước độc lập để đảm bảo những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác hoặc xâm phạm tới hoạt động quản lý nhà nước. Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan được giao thẩm quyền trong hoạt động truy tố các tội phạm, là thẩm quyền riêng biệt được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014. Thứ hai, quyền công tố là một nội dung trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 1992 ghi nhận ngoài hệ thống tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền tư pháp, thì hệ thống cơ quan tư pháp còn ghi nhận hệ thống viện kiểm sát nhân dân cũng thuộc hệ thống cơ quan tư pháp có vai trò
  • 21. 14 công tố. Chỉ từ Hiến pháp năm 2013, chức năng công tố của cơ quan viện kiểm sát nhân dân mới không còn được ghi nhận là cơ quan có quyền tư pháp. Tuy nhiên, song song với hệ thống cơ quan xét xử của tòa án, vai trò của hệ thống viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống tư pháp thể hiện ở thẩm quyền công tố và kiểm sát tư pháp. 1.1.1.3. Ý nghĩa Trước tiên cần khẳng định, thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng luật định của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân của Việt Nam hiện nay, đồng thời là hai mặt công tác có sự tương tác lẫn nhau, hai quy trình tiếp tục lẫn nhau để đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khác với chế định quyền công tố của các quốc gia tư bản phương tây chỉ bao gồm quyền buộc tội, quyền công tố của nước ta bao gồm cả quyền buộc tội và gỡ tội. Khi thực hiện chức năng buộc tội, Viện kiểm sát căn cứ chứng cứ thu thập được để buộc tội đối với bị can, bị cáo hoặc đưa ra những căn cứ gỡ tội đối với bị can, bị cáo khi đình chỉ vụ án; thông qua bản cáo trạng hoặc bản luận tội nêu các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo. Khi thực hiện quyền công tố, Viện kiểm sát thay mặt cho quyền lực nhà nước để truy tố ra tòa những người phạm tội và là cơ sở pháp lý để Tòa án xét xử vụ án thông qua quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân [38, tr. 60]. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyền kiểm sát hoạt động tư pháp 1.1.2.1. Khái niệm Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhằm đảm bảo pháp chế trong hoạt động tư pháp hình sự. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát Nhà nước về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát hoạt động tư
  • 22. 15 pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao một số hoạt động trong quá trình tố tụng như: Kiểm lâm, Hải quan, Cảnh sát biển… khi tham gia hoạt động tố tụng. Xét hoàn cảnh lịch sử nên Hiến pháp năm 1946 không được ban bố thi hành, Quốc hội giao cho Chính phủ cùng Ban Thường vụ Quốc hội căn cứ vào các nguyên tắc của Hiến pháp ban hành các văn bản pháp luật, vì vậy Tòa án và Cơ quan công tố được tổ chức theo các Sắc lệnh của Chính phủ. Theo các Sắc lệnh nói trên thì Cơ quan công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án, do Bộ Tư pháp quản lý [22]. Ngay trong cơ cấu này thì chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp cũng thể hiện khá rõ, cụ thể các Công tố viên có quyền giám sát công tác điều tra của Tư pháp Cảnh sát, kiểm soát công việc quản trị lao tù, có quyền kháng cáo bản án hình sự đã tuyên, riêng người đứng đầu Viện công tố của Tòa Thượng thẩm (Chưởng lý) còn có cả nhiệm vụ giám sát việc thi hành các Đạo luật, Sắc lệnh và Quy tắc hiện hành trong quản hạt của mình. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày 29/4/1958) Quốc hội đã quyết định Viện công tố Trung ương trực thuộc Chính phủ được thành lập trên cơ sở tách bộ phận công tố trực thuộc Tòa án ra. Tuy nhiên, ngay cả trong mô hình này thì Viện công tố cũng đã có những nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp như giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc xét xử của Tòa án, giám sát việc chấp hành pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự, dân sự và trong hoạt động của các Cơ quan giam, giữ, cải tạo, khởi tố và tham gia tố tụng những vụ án dân sự. Như vậy, ngay từ lúc mới hình thành, Cơ quan công tố đã thể hiện rõ xu hướng độc lập cả về tổ chức lẫn thẩm quyền hoạt động. Chức năng không chỉ giới hạn ở thực hành quyền công tố mà còn giám sát hoạt động điều tra, giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, kháng cáo bản án
  • 23. 16 hình sự, dân sự. Chỉ sau đó hơn một năm, Hiến pháp năm 1959 - Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta ghi nhận sự ra đời của một loại hình cơ quan nhà nước mới trong bộ máy nhà nước, đó là cơ quan Viện kiểm sát. Tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959 quy định: Viện kiểm sát nhân dân Tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hoà kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định [38, tr. 53]. Sự ra đời của mô hình Viện kiểm sát thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất - điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà nước kiểu mới. Xét bối cảnh lịch sử ra đời của Viện kiểm sát thì thấy việc lựa chọn mô hình này ở nước ta, Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu quyết định chuyển Viện công tố thành Viện kiểm sát bao gồm cả chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật là hoàn toàn có sự cân nhắc, tính toán và thể hiện tính khách quan chứ không phải là một sự sao chép máy móc mô hình Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới. Đến Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 tuy có những bổ sung, thay đổi về tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhưng chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát. Theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [28, tr. 17].
  • 24. 17 Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng Viện kiểm sát còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát hoạt động tư pháp) đối với Cơ quan tiến hành tố tụng; Người tiến hành tố tụng; Người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm cho pháp luật được thi hành thống nhất, không để cơ quan, cá nhân nào làm trái quy định của pháp luật, gây oan sai cho người vô tội. Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. 1.1.2.2. Đặc điểm Thứ nhất, kiểm sát tư pháp là một nội dung trong hoạt động kiểm sát tuân thủ pháp luật. Thực tế kiểm sát tư pháp là một phần trong hoạt động kiểm sát chung bao gồm cả hoạt động kiểm sát văn bản; kháng cáo kháng nghị; hỗ trợ tư pháp của cơ quan kiểm sát. Trước đây, theo Hiến pháp năm 1992, chức năng kiểm sát chung hoạt động tuân thủ pháp luật thuộc thẩm quyền của hệ thống viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, kể từ lần sửa đổi Hiến pháp năm 2001 và Hiến pháp hiện hành năm 2013 thì hệ thống này chỉ giữ lại quyền kiểm sát đối với hoạt động tư pháp. Thứ hai, kiểm sát tư pháp là hoạt động tư pháp. Nếu như các hoạt động kiểm sát văn bản là hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì hoạt động kiểm sát tư pháp là hoạt động đặc thù của tư pháp. Bởi lẽ, hoạt động kiểm sát tư pháp được thực hiện bởi một hệ thống viện kiểm sát nhân dân trong nhóm các cơ quan tư pháp; đồng thời đối tượng của hoạt động này cũng là hoạt động truy tố, xét xử và thi hành án trong trình tự tư pháp. 1.1.2.3. Ý nghĩa Cùng với thẩm quyền công tố tội phạm, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp là quyền năng giám sát việc chấp hành pháp luật, các trình tự tư pháp,
  • 25. 18 góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp giúp cơ quan Viện kiểm sát tham gia vào quá trình tố tụng để đảm bảo các luật do Quốc hội ban hành liên quan tới vụ việc được tuân thủ, đảm bảo không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực thi hoạt động xét xử, đảm bảo các hành vi vi phạm pháp luật phải bị phát hiện và xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy 1.2.1. Vài nét về tội phạm ma túy Ma túy là ẩn họa của toàn nhân loại và cuộc chiến chống lại ma túy cho thấy sự cam go trên phạm vi toàn cầu cũng như trong khu vực. Hàng trăm năm qua, tội phạm ma túy gắn bó hữu cơ với tội phạm hình sự trên thế giới cũng như ở từng khu vực và trong từng quốc gia. Ở Việt Nam, mặc dù đã có nhiều cố gắng của các cơ quan nhà nước, tổ chức và sự tham gia của toàn xã hội nhưng tội phạm ma túy vẫn có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, ngày 09/12/2000, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống ma túy số 23/2000/QH10 và Luật này được sửa đổi, bổ sung năm 2008, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009. Đồng thời, ngày 25/9/2007 Thủ tướng ban hành Quyết định số 156/2007/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy đến năm 2010 với 9 đề án, trong đó Bộ Công an là đầu mối Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống ma túy. Ngày 24/02/2011 Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định số 282/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch thực hiện Chỉ thị số 48 CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Trong các quy định của pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định duy nhất 01 điều về tội phạm ma túy, cụ thể là Điều 203 về tội tổ
  • 26. 19 chức dùng chất ma túy với hình phạt cao nhất là 05 năm tù. Tuy nhiên, trước tính chất phức tạp của loại tội phạm này, Bộ luật Hình sự 1985 đã sửa, đổi bổ sung (ngày 10 tháng 5 năm 1997) một loạt hành vi về ma túy là tội phạm [24]. Lần sửa đổi này, Bộ luật Hình sự đã có thêm một chương (chương VIIa) về tội phạm ma túy. Bộ luật Hình sự năm 1999 đã điều chỉnh bổ sung các loại tội phạm ma túy mới phát sinh và qua các lần sửa đổi thì Chương XVII Bộ luật Hình sự năm 1999 qui định 10 loại tội phạm về ma tuy, cụ thể: - Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 192); - Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193); - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194); - Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195); - Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 196); - Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197); - Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 198); - Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199); - Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200). - Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201). Với bản chất là loại hóa chất gây nghiện và gây ảo giác nguy hiểm cho con người, ma túy là loại hóa chất được Nhà nước độc quyền và quản lý theo quy định nghiêm ngặt. Tội phạm về ma túy từ đó được hiểu là hành vi cố ý xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với các loại ma túy.
  • 27. 20 Xét các yếu tố cấu thành của các tội phạm này có thể thấy: [52, tr. 157-162] Thứ nhất, về mặt khách quan, hành vi của các tội phạm về ma túy tuy khác nhau về hình thức thể hiện ra bên ngoài nhưng về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì giống nhau vì đều là những hành vi vi phạm chế độ quản lý nhà nước đối với hóa chất gây nghiện nguy hiểm này. Hành vi đó có thể được ghi nhận như một hành vi của cá nhân vi phạm các quy định cấm của Nhà nước trong sử dụng và lưu thông ma túy (các tội phạm từ Điều 192 đến 200 Bộ luật Hình sự) hoặc có thể là những hành vi của các cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trong hoạt động quản lý việc sử dụng, lưu thông hóa chất gây nghiện này (Điều 201 Bộ luật Hình sự). Thứ hai, về khách thể, khách thể chung của các tội phạm về ma túy được ghi nhận là chế độ quản lý nhà nước về các chất ma túy. Đối tượng cụ thể của tội phạm là các chất ma túy và các dụng cụ sản xuất và sử dụng chất ma túy. Theo đó, các chất ma túy được hiểu rộng bao gồm các chất ma túy; các chất hướng thần; các tiền chất ma túy và hướng thần; các cây trồng hoặc nguyên liệu thực vật có chưa chất ma túy. Việc xác định chất ma túy được dựa trên Bảng các chất ma túy và chất hướng thần quy định tại Công ước Liên Hiệp Quốc về thống nhất về các chất ma túy năm 1961 [1, tr. 56]; Công ước về các chất hướng thần năm 1971 [2, tr. 64] và Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988 [3, tr. 3]. Ngoài ra, Bộ luật Hình sự và Luật Phòng chống ma túy cũng ghi nhận cụ thể khái niệm về ma túy. Thứ ba, về mặt chủ quan, đối với đa số tội phạm, lỗi của người thực hiện hành vi là lỗi cố ý trực tiếp (gồm các tội phạm được quy định từ Điều 192 đến 197 và Điều 200 Bộ luật Hình sự). Tuy nhiên, đối với tội chứa chấp sử dụng chất ma túy (Điều 198) và tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 201) thì ngoài lỗi cố ý trực tiếp thì còn có thể có lỗi cố ý gián tiếp.
  • 28. 21 Thứ tư, về chủ thể, đa phần chủ thể thực hiện hành vi tội phạm về ma túy trong các vụ án là các chủ thể thường, đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Riêng tội phạm tại Điều 201 là chủ thể đặc biệt – là những người được giao nhiệm vụ quản lý hoạt động sử dụng thuốc gây nghiện, người trực tiếp sử dụng các chất này phục vụ hoạt động nghiệp vụ nghề nghiệp. Thứ năm, về hình phạt, do tính chất nguy hiểm của ma túy đối với đời sống xã hội nên hình phạt áp dụng đối với các tội phạm này là rất nghiêm khắc. Hầu hết các tội phạm về ma túy là các tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng với mức án cao nhất có thể là tử hình hoặc chung thân. 1.2.2. Khái niệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội phạm ma túy Từ khái niệm được phân tích kể trên có thể ghi nhận: - Thực hành quyền công tố đối với tội phạm ma túy là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội xâm phạm tới chế độ quản lý nhà nước về các chất ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. - Kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma túy là quyền năng giám sát việc chấp hành pháp luật, các trình tự tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các tội xâm phạm tới chế độ quản lý nhà nước về các chất ma túy được quy định trong Bộ luật Hình sự hiện hành, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm minh và thống nhất. 1.2.3. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự đối với các tội phạm về ma túy Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát được tiến hành ở tất cả các vụ án, tuy nhiên, khi
  • 29. 22 thực hiện các chức năng này đối với các tội phạm về ma túy lại có những điểm khác biệt, thể hiện ở những đặc điểm sau đây: Thứ nhất, quyền công tố và kiểm sát tư pháp với tội phạm ma túy phải phù hợp với thực tiễn quản lý nhà nước đối với các chất gây nghiện. Cơ sở pháp lý của hoạt động công tố và kiểm sát tư pháp đối với tội phạm ma túy là hệ thống quy phạm pháp luật hình sự điều chỉnh về loại tội phạm này. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, tùy vào từng thời kỳ mà hoạt động quản lý nhà nước đối với các chất gây nghiện như: ma túy; thuốc phiện có sự thay đổi. Nếu như trước kia hoạt động trồng, sản xuất ma túy tại Việt Nam diễn biến phức tạp thì tới nay là sự phát triển của các loại ma túy mới tinh vi và có độc tính cao hơn nhiều như: ma túy đá; thuốc lắc… Quyền công tố và kiểm sát tư pháp cũng thay đổi để phù hợp với các quy định điều chỉnh này. Thứ hai, quyền công tố và kiểm sát tư pháp đối với tội phạm ma túy đòi hỏi sự nghiêm minh và có sức răn đe nhất định. Tội phạm ma túy là tội phạm nguy hiểm và manh động, tác động xấu tới an toàn trật tự, đời sống của nhân dân. Bởi vậy, pháp luật hình sự hướng các tội phạm này tới việc phải chịu những hình phạt nghiêm khắc hơn. Do vậy, quyền công tố và kiểm sát tư pháp với các tội phạm này cũng đòi hỏi phải đúng người đúng tội, khoan hồng nhưng cũng hướng tới răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. 1.3. Nội dung thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm về ma túy 1.3.1. Đối tượng và phạm vi Đối với quyền công tố, với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử, đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố là tội phạm và người phạm tội. Trong khi đó, đối tượng của công tác kiểm sát là việc tuân theo pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được giao
  • 30. 23 một số nhiệm vụ, những người có thẩm quyền trong điều tra, xét xử, thi hành án và những người tham gia tố tụng khác. Căn cứ Khoản 1 Điều 25 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Điều 2 Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam (được ban hành kèm theo Quyết định số 35/QĐ-VKSTC-V4 ngày 29/1/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao): Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự là việc tuân theo pháp luật của Tòa án, nhà tạm giữ, trại tạm giam; cơ quan quản lý thi hành án hình sự; cơ quan thi hành án hình sự; cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật [38, tr. 72] Theo quy định trên, đối tượng kiểm sát của hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự là việc tuân theo pháp luật của các chủ thể sau: + Tòa án nhân dân: Đây là một chủ thể quan trọng trong hoạt động thi hành án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân trong thi hành án hình sự được quy định tại Điều 20 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, theo đó, Tòa án có nhiệm vụ, quyền hạn: ra Quyết định thi hành án, quyết định thành lập Hội đồng thi hành án tử hình, quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án phạt tù; miễn, giảm thời hạn chấp hành án; kéo dài thời hạn trục xuất; rút ngắn thời gian thử thách đối với người được hưởng án treo; xem xét, giải quyết việc cho nhận tử thi của người chấp hành án tử hình; Gửi bản án, quyết định được thi hành và quyết định, tài liệu có liên quan cho cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định… + Cơ quan quản lý thi hành án hình sự: Theo khoản 1 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì Cơ quan quản lý thi hành án hình sự gồm Cơ quan quản lý thi hành án hình sự Bộ Công an và Cơ quan quản lý thi hành án
  • 31. 24 hình sự Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này được quy định tại Điều 11, 12 Luật Thi hành án hình sự năm 2010. + Cơ quan thi hành án hình sự: theo khoản 2 Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì cơ quan thi hành án hình sự bao gồm: Trại giam (gồm trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu); cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh; cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện; cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu [29, tr. 14-15]. + Cơ quan được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự: Trại tạm giam (gồm trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng, trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu) Ủy ban nhân dân cấp xã; Đơn vị quân đội. + Người có trách nhiệm trong hoạt động thi hành án hình sự: như Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Chánh án Tòa án nơi bị án đang chấp hành án, Giám thị trại giam…. Về phạm vi, đối với mỗi chức năng ở từng giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án (từ khi điều tra, xét xử, thi hành án) đều có phạm vi khác nhau. Căn cứ Điều 2 Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 07/2008/QĐ-VKSTC ngày 02/1/2008 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (gọi tắt là quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra) xác định, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự bắt đầu từ khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm xảy ra đến khi kết thúc việc điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 3 Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử thì công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự bắt đầu từ khi chuyển bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn
  • 32. 25 cùng hồ sơ vụ án sang Toà án để xét xử và kết thúc khi bản án và quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị. Bởi vậy, trong hoạt động tố tụng hình sự, hoạt động thực hành quyền công tố và giám sát tư pháp là đặc biệt quan trọng. Điều 3 Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra đã xác định công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm: (1) Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; (2) Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; (3) Việc điều tra phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; (4) Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật. 1.3.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn điều tra Thực hành quyền công tố Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và khoản 1 Điều 4 Quy chế Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự;
  • 33. 26 2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; 3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê chuẩn phải nêu rõ lý do; 5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; 6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án [16, tr. 26]. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trong đó có các vụ án ma túy, tuỳ từng trường hợp mà Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự [10, tr 348]. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự do Cơ quan điều tra thực hiện là chủ yếu. Viện kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Đối với việc khởi tố bị can thì Viện kiểm sát chỉ trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều
  • 34. 27 tra mà Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, trong các trường hợp khác, việc khởi tố bị can do Cơ quan điều tra thực hiện và Viện kiểm sát có trách nhiệm phê chuẩn việc khởi tố. Thực tế cho thấy Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can chỉ trong một số ít trường hợp, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự Viện kiểm sát chủ yếu yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Một trong những nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án ma túy là đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Để bảo đảm hoạt động điều tra có kết quả thì Viện kiểm sát với vai trò là cơ quan được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố phải đề ra yêu cầu điều tra ngay từ khi có quyết định khởi tố vụ án và trong từng giai đoạn của quá trình điều tra, Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra phải bám sát việc điều tra vụ án của Cơ quan điều tra để kịp thời đề ra các yêu cầu điều tra một cách cụ thể, toàn diện nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Trong một số trường hợp cần thiết, để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như: Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng; tiến hành đối chất; thực nghiệm điều tra… để củng cố chứng cứ và các tình tiết khác nhằm đánh giá một cách khách quan, toàn diện vụ án. Để bảo đảm việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác, bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành tố tụng, đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra tội phạm, khi phát hiện Điều tra viên
  • 35. 28 được phân công giải quyết vụ án hình sự thuộc trường hợp phải thay đổi theo qui định tại Điều 43 và Điều 44 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên. Trong trường hợp xét thấy hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét để khởi tố về hình sự. Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nới cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Đối với những biện pháp tố tụng, hành vi tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát như: Phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; phê chuẩn quyết định tạm giữ; phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm giam; phê chuẩn lệnh tạm giam… thì Viện kiểm sát có trách nhiệm xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Mọi trường hợp từ chối phê chuẩn của Viện kiểm sát đều phải nêu rõ lý do của việc không phê chuẩn. Để thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, bảo đảm việc điều tra khách quan, toàn diện, đúng pháp luật khi phát hiện các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra không có căn cứ và trái pháp luật thì Viện kiểm sát có quyền ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó như: Quyết định tạm giữ; quyết định khởi tố bị can; quyết định khởi tố vụ án hình sự; quyết định về việc bảo lĩnh; quyết định đình chỉ điều tra vụ án của Cơ quan điều tra… thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ các quyết định đó theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; trong trường hợp bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở đâu mà Cơ quan điều tra không ra quyết định truy nã thì Viện kiểm sát phải kịp thời yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can theo quy định tại Điều 161 Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi việc điều tra kết thúc, Cơ quan điều tra ra bản kết luận điều tra
  • 36. 29 đề nghị truy tố hoặc quyết định đình chỉ điều tra và nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng của Viện kiểm sát trong giai đoạn này mà không cơ quan nào khác có thể thay thế được là quyết định việc có truy tố bị can ra trước Toà án để xét xử hay không. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu xét thấy có đủ căn cứ để truy tố bị can thì Viện kiểm sát thực hiện việc truy tố bị can ra trước Toà án bằng bản cáo trạng. Trong những trường hợp quy định tại Điều 168 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong những trường hợp quy định tại Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Thực hành quyền kiểm sát hoạt động tư pháp Theo Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Khoản 2 Điều 4 Quy chế Thực hành quyền công tố và Kiểm sát điều tra, khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự nói chung và các vụ án ma túy nói riêng, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: - Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; - Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; - Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; - Kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Như vậy, có thể thấy cơ quan Viện kiểm sát có thể tham gia kiểm sát toàn bộ quá trình điều tra vụ án ma túy để đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của cơ quan điều tra, tránh trường hợp gây thiệt hại cho bị can, bị cáo.
  • 37. 30 1.3.3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn xét xử Căn cứ Điều 1 Quy chế công tác Thực hành quyền công tố và Kiểm sát xét xử thì trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội và kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Trên cơ sở chức năng đó, căn cứ các điều 18, 19 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có nhiệm vụ và quyền hạn khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự gồm: + Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa. + Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. + Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự [10, tr. 361] Khi kiểm sát xét xử vụ án hình sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân được quy định gồm: + Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. + Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án. + Kiểm sát hoạt động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật.
  • 38. 31 + Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị. + Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng. + Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với quy trình xét xử sơ thẩm, đại diện cơ quan kiểm sát nhân dân là các Kiểm sát viên sẽ thực hành quyền công tố và quyền kiểm sát tư pháp trong các giai đoạn cụ thể: Giai đoạn nghiên cứu hồ sơ: Kiểm sát viên khi nhận được hồ sơ vụ án sẽ thực hiện nghiên cứu các thủ tục tố tụng liên quan bao gồm các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; các tài liệu, chứng cứ của hồ sơ vụ án (bản kết luận điều tra; biên bản hỏi cung bị can; lời khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; lời khai của người làm chứng; biên bản đối chất; biên bản khám nghiệm hiện trường; biên bản nhận dạng; kết luận giám định…). Tiếp đó, Kiểm sát viên phải thực hiện quá trình nghiên cứu quy định pháp luật để xác định cấu thành cơ bản; cấu thành cụ thể và tiến hành áp dụng pháp luật. Giai đoạn kiểm tra, xác minh các tài liệu chứng cứ: Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên cần dành thời gian để kiểm tra trực tiếp các tài liệu, chứng cứ trong các trường hợp cần thiết, nhằm một mặt củng cố thêm lòng tin nội tâm của mình về các tình tiết của vụ án, đồng thời, tiếp tục làm sáng tỏ hơn các mâu thuẫn mà qua nghiên cứu hồ sơ Kiểm sát viên đã phát hiện được. Giai đoạn chuẩn bị thủ tục tham gia phiên tòa: Kiểm sát viện thực hiện việc báo cáo án với lãnh đạo Viện kiểm sát, sau khi được thông qua sẽ xây
  • 39. 32 dựng đề cương xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Kết quả của giai đoạn này là bản dự thảo luận tội. Giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa sơ thẩm: Đối với quyền công tố, Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm sẽ đọc cáo trạng, tham gia vào quá trình xét hỏi, tranh luận đồng thời trình bày bản luận tội. Cũng trong giai đoạn này, kiểm sát hoạt động tư pháp được tiến hành với hoạt động của những người tiến hành tố tụng theo đúng trình tự tố tụng hình sự luật định, trong suốt quá trình diễn ra phiên tòa từ khi kiểm tra nhân thân bị cáo tới khi ra bản án sơ thẩm. Đối với phiên tòa phúc thẩm hình sự: Kiểm sát viên cũng tham gia vào toàn bộ quy trình xét xử phúc thẩm hình sự bao gồm từ khi nghiên cứu kháng cáo, kháng nghị; nghiên cứu nội dung vụ án (bao gồm: xem xét tính có căn cứ của bản án sơ thẩm; kiểm tra về trình tự tố tụng; nghiên cứu bản án sơ thẩm…); tiến hành xác minh ở cấp phúc thẩm; báo cáo án; xây dựng đề cương xét hỏi và dự thảo quan điểm của Viện kiểm sát. Tại phiên tòa phúc thẩm, quyền kiểm sát hoạt động tư pháp được thể hiện ở việc kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử; trực tiếp tham gia xét hỏi tại phiên tòa; trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị; tham gia tranh luận tại phiên tòa. Kết thúc phiên xét xử phúc thẩm hình sự, kiểm sát viên thực hành kiểm sát thông qua kiểm tra biên bản phiên tòa phúc thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, đồng thời thực hiện báo cáo kết quả thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm. 1.3.4. Thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các tội phạm về ma túy trong giai đoạn thi hành án Trước hết cần khẳng định, chức năng công tố của cơ quan kiểm sát nhân dân không được áp dụng trong giai đoạn thi hành án hình sự đối với các
  • 40. 33 tội phạm về ma túy. Theo đó, căn cứ Khoản 2 Điều 25 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Điều 141, 142 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc thi hành án hình sự bao gồm: + Yêu cầu Toà án ra quyết định thi hành án hình sự; yêu cầu Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự tự kiểm tra việc thi hành án hình sự và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành án hình sự. + Trực tiếp kiểm sát việc thi hành án hình sự; kiểm sát hồ sơ thi hành án hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trực tiếp kiểm sát việc thi hành án phạt tù của trại giam đóng tại địa phương; + Quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật; + Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm, miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách; + Kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong việc thi hành án hình sự; + Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chấm dứt, khắc phục vi phạm pháp luật trong thi hành án hình sự; xử lý nghiêm minh người vi phạm; + Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật; + Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự [10, tr. 443-445] Trong đó, vai trò của cơ quan kiểm sát nhân dân trong hoạt động kiểm
  • 41. 34 sát thi hành án hình sự cụ thể là án ma túy bao gồm hoạt động kiểm sát trong việc thi hành án tử hình; án treo, án phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ; cấm cư trú, quản chế; trục xuất; bắt buộc chữa bệnh… Đối với các tội phạm ma túy thường là các tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng thì hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự đối với loại tội phạm này càng được quan tâm hơn. Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 07 năm 2011 và Chỉ thị số 01/2014/CT-VKSTC ngày 02/01/2014 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về công tác của ngành kiểm sát nhân dân năm 2014 và hướng dẫn, chương trình công tác kiểm sát thi hành án hình sự năm 2014 được coi đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động lập pháp của Nhà nước ta nói chung, trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói riêng, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước ta đối với người chấp hành án, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp cũng như bảo đảm tốt hơn quyền tự do, dân chủ của công dân. Ở giai đoạn này, Viện kiểm sát phải nắm chắc số người bị kết án phạt tù có hiệu lực pháp luật, việc ra, gửi Bản án, Quyết định thi hành án của Tòa án và có quyết định thi hành án nhưng chưa thi hành để yêu cầu Cơ quan thi hành án hình sự đưa đi thi hành theo quy định của pháp luật không để sót lọt, kéo dài quá hạn luật định. Đồng thời, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát chặt chẽ các trường hợp hoãn và không tự nguyện thi hành án. Chú trọng kiểm sát việc thi hành án treo, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo, trục xuất và các hình phạt bổ sung như quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ. Đồng thời phải tăng cường áp dụng các biện pháp pháp luật như kháng nghị, kiến nghị nhằm loại trừ vi phạm pháp luật trong việc thi hành án hình sự, coi đây là những biện pháp pháp luật có tầm quan trọng để cơ quan có vi phạm khắc phục, sửa chữa. Việc áp dụng các biện pháp pháp luật đòi
  • 42. 35 hỏi tính chính xác, kịp thời và khách quan đảm bảo công tác kiểm sát thi hành án hình sự đem lại hiệu quả cao, đồng thời thể hiện vai trò kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Đặc biệt với tội phạm ma túy, số lượng bị cáo phải thi hành hình phạt tử hình chiếm số lượng cao so với các loại tội phạm khác. Trong đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện kiểm sát ở các khâu: - Kiểm sát việc ra quyết định thi hành án tử hình nhằm đảm bảo thủ tục ra quyết định và việc gửi quyết định thi hành án tử hình được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 54 Luật Thi hành án hình sự. - Kiểm sát việc thực hiện các thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi bản án được đưa ra thi hành theo quy định tại Điều 258 Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn tại Mục II Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02 tháng 10 năm 2007 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của Toà án” của Bộ luật Tố tụng hình sự. - Kiểm sát việc Chánh án Toà án ra văn bản yêu cầu thành lập Hội đồng thi hành án tử hình theo đúng quy định tại Điều 55 Luật Thi hành án hình sự. - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng thi hành án tử hình theo quy định tại Điều 56 Luật Thi hành án hình sự - Kiểm sát việc thực hiện chế độ quản lý giam giữ, ăn, mặc, ở, sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế… đối với phạm nhân nhằm đảm bảo các chế độ trên được thực hiện đầy đủ. Theo quy định tại Điều 57 Luật Thi hành án hình sự, chế độ quản lý giam giữ, ăn, ở, mặc, sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật, tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế đối với người bị kết án tử hình trong thời gian chờ thi hành án thực hiện theo quy định của pháp luật về tạm giam. - Kiểm sát tính có căn cứ của việc ra quyết định hoãn thi hành án tử
  • 43. 36 hình của Hội đồng thi hành án tử hình, bảo đảm việc hoãn thi hành án tử hình tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Các trường hợp hoãn thi hành án tử hình phải tuân theo quy định tại Điều 58 Luật Thi hành án hình sự và theo quy định tại Điều 259 Bộ luật Tố tụng hình sự. - Kiểm sát việc thi hành án tử hình theo đúng các quy định tại Điều 59 Luật Thi hành án hình sự và Điều 8 Nghị định số 82/2011/NĐ-CP ngày 6/9/2011 Quy định về thi hành án tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc. - Kiểm sát việc giải quyết việc xin nhận tử thi, hài cốt của người bị thi hành án tử hình theo quy định tại Điều 60 Luật Thi hành án hình sự.
  • 44. 37 CHƢƠNG 2 PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƢ PHÁP ĐỐI VỚI TỘI PHẠM MA TÚY TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 2.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp đối với tội phạm ma túy 2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trước 2003 Từ tháng 9/1945 đến trước năm 1958, sự hình thành và phát triển của ngành Công tố gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của ngành Toà án, Cơ quan Công tố được tổ chức bên trong hệ thống Toà án. Tại phiên họp ngày 29 tháng 4 năm 1958, Quốc hội thông qua Đề án của Hội đồng Chính phủ nhằm tăng cường thêm một bước cho Chính phủ và bộ máy Nhà nước ở cấp Trung ương, trong đó có nội dung thành lập hệ thống Viện công tố độc lập, tách khỏi sự quản lý của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở đó, Viện công tố được tổ chức thành một hệ thống cơ quan độc lập, tách khỏi tổ chức của Toà án và sự quản lý của Bộ Tư pháp, Viện công tố Trung ương được đặt trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Viện công tố có nhiệm vụ giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật của Nhà nước, truy tố theo pháp luật hình sự những kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, giữ gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, bảo đảm công cuộc kiến thiết và cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến hành thuận lợi [16, tr. 27]. Hoạt động thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp từ khi Viện công tố được thành lập vào năm 1958, tiền thân của Viện kiểm sát. Bản thân sự ra đời của Viện công tố ở nước ta năm 1958 cho thấy một bước tiến quan trọng của nền tư pháp cách mạng. Với chức năng, nhiệm vụ
  • 45. 38 của Viện công tố năm 1958 cũng có rất nhiều điểm tương đồng với Viện công tố một số nước hiện nay. Nghiên cứu lịch sử Viện công tố ở nước ta vào trước năm 1960 cho thấy cơ quan Công tố không chỉ thực hành quyền công tố mà còn giám sát các hoạt động tư pháp; cơ quan Công tố không chỉ thực hiện chức năng, nhiệm vụ trên lĩnh vực hình sự mà còn cả lĩnh vực dân sự, thi hành án, giam giữ, cải tạo; có vai trò quan trọng trong quá trình điều tra vụ án hình sự mà khi cần thiết còn trực tiếp tiến hành điều tra hoặc một số hoạt động điều tra. Trong giai đoạn hình thành và phát triển của cơ quan Công tố (1945 - 1960) và từ khi có Viện kiểm sát (1960 đến nay), Viện kiểm sát đều được giao hai nhiệm vụ là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật (trước đây có cả kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội; từ 2002 đến nay chỉ gồm kiểm sát các hoạt động tư pháp). Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 là cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước. Tiếp đó, các bản Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981, Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 và năm 2002 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm pháp chế thông qua các công tác thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Trong thời kỳ đổi mới, với việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” [4],
  • 46. 39 hệ thống cơ quan Viện kiểm sát đã có những thay đổi quan trọng, cụ thể là: 1) Về chức năng, nhiệm vụ: Viện kiểm sát nhân dân các cấp thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội để tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; thu hẹp phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát theo hướng Cơ quan điều tra Viện kiểm sát chỉ điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp; thu hẹp phạm vi kiểm sát xét xử dân sự theo hướng Viện kiểm sát thôi không thực hiện thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, không tham gia 100% các phiên toà xét xử sơ thẩm và phúc thẩm dân sự mà tập trung vào kiểm sát các quyết định và bản án của cơ quan xét xử như quyết định thụ lý vụ án, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định và bản án sơ thẩm, phúc thẩm…, tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ, việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 có hiệu lực từ 01/06/2015 được coi như một bước chuyển về tư duy tổ chức hệ thống cơ quan Viện kiểm sát nhân dân trên cả nước. 2.1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp từ năm 2003 tới nay Pháp luật về thực thi quyền công tố của cơ quan kiểm sát nhân dân Để đảm bảo việc thực hiện quyền công tố, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố mà cơ quan có thẩm quyền được áp dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, cơ quan được giao thẩm quyền truy tố đưa vụ án ra toà để xét xử và thực hiện việc buộc tội đó gọi là cơ quan thực hành quyền công tố.
  • 47. 40 Khung pháp lý cơ bản để thực hiện quyền công tố của cơ quan kiểm sát nhân dân hiện nay là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo Khoản 1 Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định: “Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án”. Theo đó, trong quá trình tiến hành tố tụng vụ án hình sự Viện kiểm sát căn cứ theo quy định của pháp luật để ban hành các quyết định thể hiện tính quyền lực của nhà nước như: Quyết định phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp; Quyết định trả tự do; Quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam (bắt bị can tạm giam); Quyết định truy tố (Cáo trạng); Quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn; Quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; Kiến nghị…. nhằm mục đích truy tố người phạm tội ra trước Tòa án để xét xử theo quy định của pháp luật [16, tr. 27]. Trên cơ sở đó, Điều 37 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; Đề ra yêu cầu điều tra; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam; Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án; Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án… nhằm xử lý tội phạm kịp thời, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.