Download luận văn thạc sĩ ngành quản lí kinh tế với đề tài: Quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cho các bạn làm luận văn tham khảo
Luận văn: Quản lý về quy hoạch sử dụng đất tại thị xã Điện Bàn
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỨC THỌ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG
ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
HÀ NỘI, năm 2019
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN ĐỨC THỌ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG
ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số : 8340410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. TRƯƠNG BÁ THANH
HÀ NỘI, năm 2019
3. LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS,TS.
Trương Bá Thanh.
Các số liệu sử dụng trong luận văn có trích dẫn nguồn rõ ràng, không
sao chép của người khác. Các kết luận nghiên cứu trong Luận văn được đúc
kết từ cơ sở lý luận đến thực tiễn của vấn đề luận văn cần giải quyết.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
TÁC GIẢ
Nguyễn Đức Thọ
4. MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY
HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT............................................................................... 9
1.1. Quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất............................................. 9
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất............................15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY
HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM ...............................................................................................28
2.1. Khái quát chung về Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. .........................28
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất đối với Thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.............................................................................34
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
SỬ DỤNG ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, ..........................59
3.1. Quan điểm định hướng quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất hiện
nay ...................................................................................................................59
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất đối với
Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam hiện nay...................................................62
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CNH Công nghiệp hoá
2 HĐND Hội đồng nhân dân
3 HĐH Hiện đại hóa
4 SDĐ Sử dụng đất
5 UBND Ủy ban nhân dân
6. DANH MỤC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Dân số Thị xã Điện Bàn giai đoạn 2011 – 2017 32
2.2
Lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế trên
địa bàn thị xã Điện Bàn giai đoạn 2011 - 2017
34
2.3 Tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2011 - 2017 42
2.4 Kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất năm 2018 51
2.5 Tình hình giải quyết việc làm hàng năm 54
7. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, vai trò của đất đai chẵng
những là tài nguyên tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất vật chất xã
hội, mà còn là yếu tố căn bản để phân bố dân cư, xây dựng và phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng. Song đất đai vốn phụ
thuộc vào diện tích, địa hình và lãnh thổ của mỗi nước nên nó là nguồn vốn
có hạn.
Việt Nam ngày nay trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, nên
đất đai càng có vị trí, vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân. Song, vấn đề hiện trạng sử dụng đất ở nước ta chưa được phát
huy tốt trong bối cảnh đô thị hóa quá nóng và ồ ạt, dẫn đến thực tiễn sử dụng
đất chưa hợp lý và hiệu quả thấp, gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và môi trường. Thực tế đó đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao
về nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai, mà ở đó, quy hoạch sử dụng đất và
quản lý quy hoạch sử dụng đất là công cụ căn bản, biện pháp rất quan trọng
của quản lý Nhà nước để xác lập tính thống nhất về định hướng sự phân bố
quỹ đất và tổ chức quản lý khai thác quỹ đất tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả
trong mối tương quan với các nguồn lực khác nhằm phục vụ tốt các mục tiêu
phát triển bền vững kinh tế - xã hội - môi trường - an ninh quốc phòng theo
cấp quốc gia, cấp vùng và các cấp địa phương.
Liên hệ đến Thị xã Điện Bàn (tỉnh Quảng Nam), những năm gần đây
hạ tầng giao thông được đầu tư đồng bộ, tốc độ phát triển đô thị tương đối
nhanh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thị xã này.
Theo đó, nhu cầu đất để mở rộng các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh
thương mại dịch vụ ngày càng cao, hoạt động khai thác và phát triển quỹ đất
8. 2
diễn ra khá sôi động. Việc thực hiện các dự án đầu tư này tất yếu dẫn đến một
diện tích khá lớn đất nông nghiệp phải thu hồi, làm ảnh hưởng cả hai mặt
(tích cực và tiêu cực) trong công tác quản lý sử dụng đất ở địa phương này,
nhất là ở địa bàn khu đô thị mới Điện Nam – Điện Ngọc: (1) Nhiều diện tích
đất đã giao nhà đầu tư song chậm tiến độ triển khai do các biểu hiện cầm
chừng, dở dang và kéo dài nên phải cho dừng kỹ thuật để chuyển cho chủ đầu
tư khác; (2) Một số dự án thực hiện chưa quan tâm đúng mức các hạng mục
hạ tầng kỹ thuật (thông tin, cấp điện, nước thải,...) và chưa khớp nối tốt hạ
tầng giao thông, hạ tầng công cộng và các hạ tầng xã hội; (3) Một số dự án
chưa tính toán phương án hỗ trợ người dân bị thu hồi đất về sinh kế bền vững;
(4) Một số nhà đầu tư, sàn giao dịch bất động sản lợi dụng dự án chuyển
nhượng quyền sử dụng đất để đầu cơ đất... Cùng với những vấn đề đô thị hóa
quá nóng bằng chính sách đổi đất lấy hạ tầng đô thị dẫn đến hiện trạng sử
dụng đất khu vực Điện Bàn đang mang tính hình thức phân bổ đất dựa trên cơ
sở đẩy nhanh thủ tục chuyển mục đích quyền sử dụng từ đất nông nghiệp sang
phi nông nghiệp; thiếu quy hoạch không gian mà chưa có hệ thống điều tra cơ
bản để đánh giá khoa học các tác động của các yếu tố môi trường và xã hội…
Với những lý do nêu trên, tác giả đăng ký lựa chọn đề tài nghiên cứu
“Quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ chuyên ngành Quản lý kinh
tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Quy hoạch sử dụng đất và quản lý nhà nước về lĩnh vực này là vấn đề
thời sự nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các
nhà quản lý và hoạch định chính sách. Tiêu biểu có thể kể đến các công trình
nghiên cứu xoay quanh vấn đề này dưới đây:
* Một số công trình nghiên cứu trong nước:
9. 3
Công trình nghiên cứu “Quy hoạch đất đai - Cơ sở khoa học để Nhà
nước thống nhất quản lý đất đai”, Báo cáo tổng kết nghiên cứu khoa học và
công nghệ năm 1994 của tác giả Nguyễn Đức Minh, Viện Điều tra Quy hoạch
đất đai, Hà Nội. Các tác giả Nguyễn Đức Minh và Đoàn Công Quỳ đều cho
rằng, trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai là điều kiện đầu tiên, là cơ
sở thiên nhiên của mọi quá trình sản xuất, nơi tìm được công cụ, nguyên liệu
lao động, khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi ngành kinh tế và
là nơi sinh tồn, hoạt động của con người.
Ở tài liệu nghiên cứu “Đánh giá các loại hình sử dụng đất chủ yếu
trong nông lâm nghiệp góp phần định hướng sử dụng đất vùng trung tâm
miền núi Bắc bộ Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huy Phồn năm 1996, Viện
Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, Hà Nội. Công trình này đưa ra yêu cầu của
sử dụng đất bền vững phải bao hàm các tổ hợp công nghệ, chính sách và hoạt
động để liên hợp hữu cơ giữa nguyên lý kinh tế - xã hội với sự quan tâm về
môi trường nhằm đồng thời: duy trì hoặc nâng cao hiệu quả sản xuất, an toàn
giảm rủi ro sản xuất, bảo vệ lâu bền tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn
ngừa thoái hoá đất và nước và nhận được sự chấp nhận của xã hội.
Đối với công trình “Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp” của tác giả
Đoàn Công Quỳ, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2006. Nghiên cứu
này xác định vai trò của đất cần được nhìn nhận là môi trường sống, cơ sở của
quá trình sản xuất, hình thành cân bằng sinh thái, kho tàng lưu trữ và cung cấp
nguồn nước, không gian của sự sống, trung gian để bảo tồn, bảo tàng lịch sử
và là vật mang sự sống.
Các nghiên cứu như: bài “Công tác quản lý đất đai - những vấn đề
đang đặt ra”; của tác giả Phùng Văn Nghệ đăng trên tạp chí tài chính năm
2012; bài “Giải quyết triệt để vấn đề đất đai: một trong những tiền đề của quá
trình tái cơ cấu nền kinh tế” của tác giả Đặng Kim Sơn; bài “Những điểm mới
10. 4
về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là vấn đề then chốt của công tác quản lý
nhà nước về đất đai” của tác giả Hạ Trương… Họ có cùng quan điểm khi lưu
ý rằng: bên cạnh cần cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền để tiến hành quy hoạch, thì phải coi trọng giải quyết đảm bảo
mối quan hệ hài hòa về lợi ích giữa các chủ thể: chính quyền cấp trung ương
và cấp địa phương, nhà doanh nghiệp đầu tư và cư dân chịu sự tác động ảnh
hưởng của quy hoạch. Trường hợp không thực hiện được/ khó thực hiện quy
hoạch một khi nếu không đảm bảo lợi ích, nguyện vọng của nhân dân hoặc
cùa địa phương vùng quy hoạch, dẫn tới tình huống diễn ra là quy hoạch có
thể bị hủy bỏ hoặc tính cưỡng chế của quy hoạch sẽ bị lung lay. Các tác giả
đưa ra khuyến cáo rằng, một khi những quyền lợi của người sử dụng đất vẫn
chưa thực sự được tôn trọng thì cần có sự điều chỉnh chính sách pháp luật về
đất đai phù hợp.
Đề tài nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý đất đai – Tổng cục
quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường: “Nghiên cứa đặc điểm và
tính kế thừa của hệ thống chính sách, pháp luật đất đai từ năm 1945 đến
nay nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất đai ở Việt
Nam” do ThS. Nguyễn Thị Song Hiền làm chủ nhiệm. Công trình này trình
bày một số vấn đề lý luận về sở hữu đất đai và các chính sách pháp luật đất
đai của nước ta từ năm 1945 đến nay, giới thiệu một số kinh nghiệm một số
nước trên thế giới về chính sách đất đai; qua đó nghiên cứu thực trạng hệ
thống chính sách, pháp luật đất đai từ năm 1945 đến nay và đưa ra một số đề
xuất phương án góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật đất đai nước ta
nhằm phục vụ việc hoạch định chính sách Luật Đất đai năm 2013.
Luận án tiến sỹ ngành Quản lý đất đai: "Nghiên cứu tác động của
chính sách đất đai đến sự phát triển kinh tế xã hội huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh" của tác giả Đặng Tiến Sĩ năm 2017, Học viện Nông nghiệp Việt
11. 5
Nam, Hà Nội. Luận án này nghiên cứu cung cấp góp phần làm rõ cơ sở khoa
học về tác động của chính sách đất đai đối với sự phát triển kinh tế xã hội;
nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách đất đai và tác động của chính sách
đất đai đối với sự phát triển kinh tế xã hội tại huyện Vân Đồn (Quảng Ninh).
Qua đó đưa ra một số giải pháp về chính sách đất đai để tác động tích cực đến
sự phát triển kinh tế xã hội huyện Vân Đồn.
* Một số công trình nghiên cứu của quốc tế:
Tài liệu nghiên cứu “Land evaluation and farming system analysis for
land use planning. Working document” năm 1990 của FAO. Tổ chức này xác
định: Sử dụng đất sản xuất nông nghiệp trên cơ sở cân nhắc các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội, tận dụng tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái (mà
không làm ảnh hưởng bất lợi đến môi trường) là nguyên tắc cơ bản để đảm
bảo cho khai thác và sử dụng tài nguyên đất bền vững. Do đó, đất nông
nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”. Mặt khác, phải
có các quan điểm tiếp cận đúng và phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể
nhằm tạo cơ sở thực hiện sử dụng đất nông nghiệp đạt hiệu quả cao về kinh tế
xã hội.
Trong tài liệu “FESLM An International Framework for Evaluating
Sustainable Land Management” World Soil Report 73, FAO – Rome, năm
1993 của các tác giả Smyth A.J and Dumanski J. xác định và đưa ra 5 nguyên
tắc sử dụng đất bền vững, đó là: Duy trì và nâng cao năng suất các hoạt động
sản xuất; An toàn để giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất; Bảo vệ tiềm năng
các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái hóa đất và nước; Tính khả
thi về mặt kinh tế; Phải nhận được sự chấp nhận của xã hội. Các nguyên tắc là
những trụ cột của sử dụng đất đai bền vững và là những mục tiêu phải đạt
đến. Nếu thực tế tính đồng bộ diễn ra so với các mục tiêu này thì sẽ đạt được
12. 6
khả năng bền vững. Còn nếu chỉ đạt được một/ một vài mục tiêu (không phải
là tất cả) thì khả năng bền vững chỉ mang tính bộ phận.
Nhìn chung, đề cập nghiên cứu cụ thể vấn đề quản lý nhà nước về quy
hoạch sử dụng đất tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam cho đến nay vẫn chưa
có đề tài nào nghiên cứu trùng lặp. Song với những công trình vừa nêu trên lại
có giá trị kế thừa tham khảo tốt. Chính vì vậy, nghiên cứu quản lý nhà nước
về quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam là
cần thiết và có ý nghĩa thời sự.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, tăng cường quản lý nhà nước về quy
hoạch sử dụng đất đối với Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về quy hoạch sử dụng đất và quản lý nhà
nước về quy hoạch sử dụng đất.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch sử
dụng đất trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện, tăng cường quản lý nhà nước về
quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam hiện
nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung:
Nghiên cứu quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất.
- Phạm vi không gian:
13. 7
Nghiên cứu quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất tại địa bàn Thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
- Phạm vi thời gian:
Nghiên cứu thời gian từ năm 2011 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận khoa học theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
- Phương pháp phân tích văn bản thứ cấp và thu thập, xử lý thông tin sơ
cấp để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần hệ thống hóa làm sáng tỏ các khía cạnh
của cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất.
Đưa ra một số quan điểm định hướng quản lý nhà nước về quy hoạch
sử dụng đất hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ thực tiễn quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn
thị xã Điện Bàn để đề xuất các giải pháp hoàn thiện, tăng cường quản lý nhà
nước về quy hoạch sử dụng đất đối với Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
hiện nay.
Góp phần tư vấn chính sách trong quản lý nhà nước về quy hoạch sử
dụng đất đai hiện nay.
14. 8
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh phần Mở đầu, Kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu nội
dung của luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất trên
địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Chương 3.Giải pháp hoàn thiện, tăng cường quản lý nhà nước về quy
hoạch sử dụng đất đối với Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam hiện nay
15. 9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH SỬ
DỤNG ĐẤT
1.1. Quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất
1.1.1. Khái niệm, vai trò và đặc điểm quy hoạch sử dụng đất
* Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Đất đai, theo tác giả Nguyễn Đình Bồng, “đó là một diện tích cụ thể
của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái
ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm khí hậu, bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa
hình, nước mặt (hồ, sông), nước ngầm, tập đoàn thực vật và động vật, trạng
thái định cư của con người, những kết quả do hoạt động của con người trong
quá khứ và hiện tại để lại” [4; tr. 35-39]. Vai trò của đất đai luôn được khẳng
định, nếu lao động là cha thì đất đai là mẹ sinh sản ra mọi của cải vật chất trên
thế giới này (Petty, năm 1962). Song, để phát huy vai trò của đất đai cho sự
phát triển phải dựa vào sự đánh giá có hệ thống về tiềm năng của quốc gia/
vùng miền, tính thay đổi trong sử dụng đất (SDĐ) và những điều kiện kinh tế
– xã hội nhất định; nói cách khác, tất yếu là phải quy hoạch SDĐ để thực hiện
các sự lựa chọn cho việc SDĐ tốt nhất phù hợp với yêu cầu thiết yếu của con
người về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai.
Quy hoạch SDĐ là một hệ thống công cụ của Nhà nước để tổ chức
SDĐ hợp lý, hiệu quả thông qua việc bố trí, phân bổ đất đai cho các mục đích
sử dụng và định hướng tổ chức SDĐ trong các đơn vị hành chính lãnh thổ,
các ngành, tổ chức đơn vị và người SDĐ trên cơ sở dự báo theo quan điểm
sinh thái, bền vững trong từng thời kỳ nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội.
16. 10
Tại Khoản 2, Điều 1 Luật đất đai năm 2013 xác định: “Quy hoạch
SDĐ là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi
trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu
SDĐ của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị
hành chính trong một khoảng thời gian xác định” [11].
Hệ thống quy hoạch SDĐ được hợp thành từ quy hoạch SDĐ quốc gia
cùng với quy hoạch SDĐ các vùng và địa phương để điều chỉnh các quá trình
kinh tế xã hội. Quy hoạch SDĐ quốc gia là căn cứ định hướng xác lập quy
hoạch SDĐ cấp tỉnh. Dựa trên cơ sở quy hoạch SDĐ cấp tỉnh để xác lập quy
hoạch SDĐ cấp huyện.
* Vai trò của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch SDĐ thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh các mối
quan hệ đất đai và tổ chức SDĐ (tư liệu sản xuất của xã hội kết hợp với bảo
vệ môi trường đất). Thông qua hai chức năng căn bản này, vai trò của quy
hoạch SDĐ có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lý và SDĐ.
Quy hoạch SDĐ trước hết là nhằm tạo cơ sở quản lý thống nhất của
nhà nước đối với đất đai. Bằng quy hoạch SDĐ, nhà nước thực hiện được
quyền pháp lý định đoạt về đất đai, nắm quỹ đất về từng loại đất và đảm bảo
cơ sở cho việc chuyển mục đích SDĐ, giao đất, thuê đất, tạo sự minh bạch,
công bằng và dân chủ khi triển khai thực hiện các dự án, chủ động phân bổ
quỹ đất hợp lý để phát triển các ngành/ lĩnh vực, nhất là lĩnh vực phát triển kết
cấu hạ tầng cho công nghiệp, dịch vụ, đô thị.
Các quy định về quy hoạch SDĐ là một bộ phận quan trọng của ngành
luật đất đai, là công cụ quản lý nhà nước mang tính pháp lý quan trọng để
quản lý và SDĐ có hiệu quả và bảo vệ môi trường sinh thái. Nên đối với Nhà
nước, quy hoạch SDĐ phải đảm bảo việc SDĐ hợp lý, tiết kiệm, đạt các mục
17. 11
đích nhất định và phù hợp với các quy định của Nhà nước. Theo đó, quy
hoạch SDĐ giúp cho Nhà nước theo dõi, giám sát được quá trình SDĐ.
Quy hoạch SDĐ nhằm thúc đẩy quy trình lập bản đồ SDĐ trên phạm vi
toàn quốc. Nó là công cụ cốt lõi quan trọng để đảm bảo phân bổ quỹ đất cho
các ngành, lĩnh vực thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của cả nước và các
địa phương để đạt được các mục tiêu kinh tế – xã hội đặt ra. Đồng thời, thông
qua quy hoạch SDĐ để định hướng cho quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng,
đường giao thông, các công trình quan trọng phục vụ cho việc phát triển kinh
tế và lợi ích của cộng đồng. Quy hoạch SDĐ là căn cứ để xác định với mức
giá phù hợp đối với từng loại đất một cách chính xác kịp thời, đồng thời là cơ
sở định hướng cho các nhà đầu tư tiếp cận vốn đất đai, đóng góp đắc lực vào
sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, vùng và các địa phương.
Quy hoạch SDĐ xác lập ổn định về mặt pháp lý cho công tác quản lý
nhà nước về đất đai, tạo cho người SDĐ đúng với quy hoạch và không làm
tổn hại đến lợi ích chính đáng của người SDĐ xung quanh (Bằng quy hoạch
SDĐ để ràng buộc các đối tượng SDĐ chỉ được phép sử dụng đúng mục đích
và phạm vi ranh giới của mình). Nó làm cơ sở để tiến hành giao cấp đất và
đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ nhu cầu
dân sinh, văn hoá- xã hội.
Quy hoạch SDĐ là cơ sở lên kế hoạch SDĐ để cân đối việc sử dụng
quỹ đất trong cả nước phù hợp đối với từng ngành, từng vùng và địa phương
để phục vụ tốt nhất quá trình phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững.
Đồng thời, nhờ đó giúp cho quản lý nhà nước trong quá trình bố trí sắp xếp,
sử dụng các loại đất một cách khoa học, tận dụng tốt tiềm năng SDĐ (tránh sử
dụng quá mức dẫn đến cạn kiệt) góp phần khắc phục các mâu thuẫn, giảm
thiểu sự chồng chéo gây lãng phí đất trong quy hoạch sử dụng các loại đất của
18. 12
các ngành cũng như ngăn chặn hiện tượng tiêu cực về đất đai, tạo điều kiện
phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường.
Quy hoạch SDĐ không chỉ để đảm bảo cho việc sử dụng đất tiết kiệm
và hiệu quả, mà còn để phù hợp với các điều kiện về đất đai, khí hậu, thổ
nhưỡng và từng ngành sản xuất. Quy hoạch SDĐ cùng với việc thống kê từng
loại đất là căn cứ để đảm bảo Nhà nước tổ chức thực hiện việc phân phối và
phân phối lại đất đai một cách hiệu quả theo các mục đích sử dụng khác nhau
đối với từng loại đất trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Chẳng hạn, vai
trò của quy hoạch SDĐ đối với thiết kế đô thị được thể hiện ở chỗ: quy hoạch
SDĐ là cơ sở để nhà nước xác định tầm chiến lược về vị trí, quy mô và cơ cấu
sử dụng toàn bộ quỹ đất như: việc bố cục không gian trong vùng quy hoạch
đô thị (bố cục, quy mô SDĐ, các chỉ tiêu chiếm đất xây dựng, đất hành lang
xanh, giao thông đô thị, công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nhà ở…).
Trước tình hình về sự áp lực quá tải về mật độ dân số, tắc nghẽn giao thông,
hủy hoại môi trường và nhiều vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp khác, quy
hoạch SDĐ là một trong giải pháp cốt lõi để tạo điều kiện tối ưu cho việc thiết
kế phát triển đô thị bền vững.
Quy hoạch SDĐ là công cụ quản lý nhà nước chặt chẽ và định hướng
quá trình SDĐ tiết kiệm và đúng mục đích, bảo vệ nguồn tài nguyên, môi
trường. Quy hoạch SDĐ đảm bảo độ che phủ thực vật của hệ sinh thái bền
vững, góp phần bảo vệ môi trường và sự đa dạng sinh học.
* Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch SDĐ do nhà nước lập và phê duyệt trên cơ sở khoa học, thể
hiện sự tính toán kỹ lưỡng, phân bổ đất đai cụ thể về số lượng và chất lượng,
vị trí, không gian... cho các mục tiêu kinh tế - xã hội. Quy hoạch SDĐ là cơ
sở khoa học của cả quá trình quản lý và SDĐ.
19. 13
Quy hoạch SDĐ được lập theo những nguyên tắc cơ bản đã được quy
định của Luật Đất đai hiện hành, nên nó có đặc điểm là phải đảm bảo phù hợp
với chiến lược, quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh; quy hoạch SDĐ của cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch, kế
hoạch SDĐ của cấp trên; quy hoạch, kế hoạch SDĐ của cấp trên phải thể hiện
nhu cầu SDĐ của cấp dưới.
Quy hoạch SDĐ là nhiệm vụ quản lý của nhà nước mang tính chiến
lược dài hạn (thường là từ 10 năm trở lên), nó là nền tảng để lập kế hoạch
SDĐ một cách phù hợp với thực trạng của từng địa phương.
1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất
Quản lý nhà nước về đất đai là các hoạt động quản lý thuộc thẩm quyền
của nhà nước và Chính phủ về tài nguyên đất và SDĐ, bao hàm cả về ý nghĩa
kinh tế và môi trường với mục đích thúc đẩy quản lý hiệu quả, bền vững.
Quản lý nhà nước về đất đai tập trung vào cách thức, cơ chế do nhà
nước xây dựng và thực hiện chính sách đất đai và quản lý đất đai cho tất cả
các loại đất không phân biệt quyền SDĐ. Cụ thể hơn, đây là quá trình Nhà
nước quản lý đất đai thuộc sở hữu của Nhà nước và giao đất cho các mục đích
sử dụng khác nhau.
Trong quản lý nhà nước về đất đai, chính sách pháp luật đất đai và quy
hoạch SDĐ là công cụ nền tảng, cơ sở pháp lý, kinh tế và xã hội của hệ thống
đó. Riêng đối với quy hoạch SDĐ thì chỉ khi nào được cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt thì quản lý nhà nước về quy hoạch SDĐ được
xác lập có hiệu lực.
Như vậy, quản lý nhà nước về quy hoạch SDĐ là tổng thể các cách
thức, cơ chế và biện pháp do nhà nước thiết lập để quản lý việc thực hiện quy
hoạch SDĐ đã được phê duyệt nhằm mục đích SDĐ hợp lý, tiết kiệm và hiệu
20. 14
quả trong một không gian và thời gian xác định, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường bền vững.
1.1.3. Mối quan hệ chủ yếu giữa quy hoạch sử dụng đất với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trong quản lý nhà nước
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội là công cụ quản lý Nhà
nước ở tầm vĩ mô tổng thể, cung cấp căn cứ khoa học cho việc thiết kế quá
trình phát triển kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trong quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội này được Nhà nước thông qua bao
hàm sự chỉ dẫn định hướng vào các nhiệm vụ chủ yếu về vấn đề SDĐ.
Còn bản thân quy hoạch SDĐ lại là một bộ phận rất quan trọng của
tổng thể kinh tế - xã hội dưới góc nhìn quy hoạch; nhiệm vụ chủ yếu của quy
hoạch SDĐ là căn cứ vào yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội – môi trường –
an ninh quốc phòng cùng với các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của từng
vùng, địa phương để xác lập, điều chỉnh cơ cấu và phương hướng SDĐ cụ thể
theo hướng thống nhất, hợp lý và tiết kiệm, thiết kế các phương án chi tiết về
quy hoạch SDĐ thực hiện có lộ trình dưới sự quản lý điều hành của Nhà
nước. Ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tái cấu trúc nền
kinh tế, việc SDĐ gắn liền với những điều chỉnh lớn giữa nông thôn và thành
thị, giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa đất sản xuất và các loại đất chuyên
dùng khác… Do đó, quy hoạch SDĐ là công cụ và giải pháp chiến lược huyết
mạch, tạo lập cơ sở quyết định cho quy hoạch, kế hoạch phát triển các chuyên
ngành, thể hiện ý chí của Nhà nước về sự phát triển, như: quy hoạch đô thị;
quy hoạch phát triển nông nghiệp nông thôn; và các quy hoạch ngành, lĩnh
vực khác...
Nói cách khác, mối quan hệ chủ yếu giữa quy hoạch SDĐ với quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội trong quản lý Nhà nước được thể hiện
tập trung ở chỗ: quy hoạch SDĐ là sự cụ thể hóa quy hoạch tổng thể phát
21. 15
triển kinh tế xã hội; và các nội dung của quy hoạch SDĐ được xác lập trên cơ
sở điều hòa thống nhất với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội, góp
phần hiện thực hóa quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội.
1.2. Nội dung quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất
1.2.1. Nội dung chung của quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng
đất
Nhà nước ta quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật, nên việc lập
quy hoạch SDĐ và quản lý quy hoạch SDĐ là một trong những nội dung rất
quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai nhằm bảo đảm đất đai
được quản lý thống nhất, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và phục vụ hiệu quả cho
phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch SDĐ chính là công việc của tất cả các
cơ quan quản lý đất đai và các tổ chức, cá nhân sử dụng đất của Nhà nước.
Dựa trên cơ sở pháp lý hiện hành của Luật đất đai năm 2013; Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ- CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật Đất đai, nội dung chung của quản lý nhà nước về quy hoạch
SDĐ bao gồm:
- Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, SDĐ và tổ chức
thực hiện văn bản đó. Pháp luật điều chỉnh hoạt động quy hoạch SDĐ thông
qua quy định trách nhiệm của mỗi cơ quan, mỗi ngành, mỗi đơn vị trong xây
dựng quy hoạch SDĐ...
- Điều tra, đánh giá tài nguyên đất; khảo sát, đo đạc, lập bản đồ hiện
trạng SDĐ và bản đồ quy hoạch SDĐ.
- Tuyên truyền giáo dục chính sách pháp luật về đất đai và phổ biến
công khai rộng rãi quy hoạch SDĐ đã phê duyệt.
22. 16
- Quản lý quy hoạch SDĐ thông qua các giải pháp tổ chức thực hiện
quy hoạch SDĐ phù hợp với đặc điểm của địa bàn quy hoạch; quản lý việc
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích SDĐ; quản lý việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất… nhằm bảo đảm cho các quy hoạch
đó có hiệu lực trong thực tế.
Việc quản lý quy hoạch SDĐ được thể hiện bằng việc công bố quy
hoạch SDĐ và kỳ quy hoạch SDĐ là 10 năm. Trong thời hạn không quá 30
ngày làm việc, kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định
hoặc xét duyệt, quy hoạch SDĐ phải được công bố công khai theo quy định
của pháp luật đất đai.
Việc thực hiện hoạt động điều chỉnh quy hoạch SDĐ áp dụng ở các
trường hợp khi: (1) Có sự điều chỉnh mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định, xét
duyệt mà sự điều chỉnh đó làm thay đổi cơ cấu SDĐ; (2) Do tác động của
thiên tai, chiến tranh làm thay đổi mục đích, cơ cấu, vị trí, diện tích SDĐ; (3)
Có sự điều chỉnh quy hoạch SDĐ của cấp trên trực tiếp làm ảnh hưởng tới
quy hoạch SDĐ của cấp mình; (4) Có sự điều chỉnh địa giới hành chính của
địa phương.
Về nội dung điều chỉnh quy hoạch SDĐ, quy hoạch SDĐ chi tiết gồm:
(1) Bổ sung, điều chỉnh hoặc huỷ bỏ các công trình, dự án trong kỳ quy
hoạch; (2) Thay đổi cơ cấu các loại đất trong nhóm đất nông nghiệp; thay đổi
vị trí, diện tích các khu đất đã khoanh định theo chức năng trong nhóm đất phi
nông nghiệp; thay đổi chỉ tiêu đưa đất chưa sử dụng vào sử dụng; (3) Giải
pháp tổ chức thực hiện điều chỉnh quy hoạch SDĐ. Hồ sơ xét duyệt điều
chỉnh quy hoạch SDĐ và quy hoạch SDĐ chi tiết được nộp tại cơ quan quản
lý đất đai cùng cấp với cơ quan có thẩm quyền quyết định, xét duyệt điều
chỉnh quy hoạch SDĐ hoặc quy hoạch SDĐ chi tiết để thẩm định (hồ sơ gồm
23. 17
có: Tờ trình của UBND cấp lập quy hoạch SDĐ hoặc quy hoạch SDĐ chi tiết
hoặc Ban Quản lý khu công nghệ cao, khu kinh tế trình cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt, điều chỉnh quy hoạch SDĐ hoặc quy hoạch SDĐ chi
tiết; Báo cáo thuyết minh điều chỉnh quy hoạch SDĐ hoặc quy hoạch SDĐ
chi tiết; Bản đồ quy hoạch SDĐ của khu vực cần điều chỉnh đối với trường
hợp điều chỉnh quy hoạch SDĐ hoặc bản đồ quy hoạch SDĐ chi tiết đối với
trường hợp cần điều chỉnh quy hoạch SDĐ chi tiết). Đối với điều chỉnh quy
hoạch SDĐ vào mục đích quốc phòng, an ninh thì hồ sơ nộp tại Bộ Tài
nguyên và Môi trường để thẩm định. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định, phê duyệt quy hoạch SDĐ của cấp nào thì có thẩm quyền quyết định,
phê duyệt điều chỉnh quy hoạch SDĐ của cấp đó.
- Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy
định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
1.2.2. Phân cấp quản lý nhà nước theo thẩm quyền đối với quy hoạch
sử dụng đất
Căn cứ cơ sở pháp lý hiện hành của Luật đất đai năm 2013; Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ- CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật Đất đai…, cụ thể là:
- Ở Trung ương:
Quốc hội quyết định quy hoạch SDĐ cấp quốc gia. Chính phủ phê
duyệt quy hoạch SDĐ cấp tỉnh; quy hoạch, kế hoạch SDĐ lĩnh vực quốc
phòng và lĩnh vực an ninh.
Chính phủ tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch SDĐ của cả nước;
kiểm tra việc thực hiện quy hoạch SDĐ của cấp tỉnh.
24. 18
Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm công bố công khai toàn
bộ tài liệu về quy hoạch SDĐ của cả nước đã được Quốc hội quyết định tại trụ
sở cơ quan Bộ trong suất kỳ quy hoạch SDĐ; đăng Công báo; công bố trên
mạng thông tin quản lý nhà nước của Chính phủ và trích đăng trên một báo
hàng ngày của Trung ương.
Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổng hợp kết quả thực
hiện kế hoạch SDĐ hàng năm của cả nước để báo cáo Chính phủ trước ngày
15/3 năm sau.
- Ở cấp tỉnh:
UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp thông qua quy hoạch SDĐ cấp
tỉnh trước khi trình Chính phủ phê duyệt.
UBND cấp tỉnh tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch SDĐ của cấp
mình. Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm công bố công khai toàn
bộ tài liệu về quy hoạch SDĐ của cấp tỉnh đã được xét duyệt tại trụ sở cơ
quan mình trong suốt kỳ quy hoạch SDĐ; công bố trên mạng thông tin quản
lý nhà nước của cấp tỉnh và trích đăng trên báo của địa phương.
UBND cấp tỉnh phê duyệt quy hoạch SDĐ cấp huyện và kiểm tra việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ của các đơn vị cấp huyện trực thuộc
mình quản lý.
UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển
mục đích SDĐ phải theo đúng quy hoạch SDĐ đã được xét duyệt.
Chủ tịch UBND cấp tỉnh có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch SDĐ tại địa phương mình.
Hàng năm, UBND cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện
kế hoạch SDĐ của địa phương đến ngày 31/12 cho Bộ Tài nguyên và Môi
trường trước ngày 15/02 năm sau.
25. 19
Sở Tài nguyên và Môi trường tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
quy hoạch, kế hoạch SDĐ tại địa phương; phát hiện và xử lý theo thẩm quyền
hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm về quy
hoạch, kế hoạch SDĐ. Trường hợp phát hiện nhu cầu thực tế cần điều chỉnh
quy hoạch, kế hoạch SDĐ thì báo cáo UBND cấp tỉnh về nhu cầu đó.
- Ở cấp huyện:
+ UBND cấp huyện trình HĐND cùng cấp thông qua quy hoạch SDĐ
cấp huyện trước khi trình UBND cấp tỉnh phê duyệt. Nên việc lập quy hoạch
SDĐ cấp huyện, căn cứ vào: Quy hoạch SDĐ cấp tỉnh; Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội của cấp tỉnh, cấp huyện; Điều kiện tự nhiên, kinh tế
- xã hội của cấp huyện; Hiện trạng SDĐ, tiềm năng đất đai và kết quả thực
hiện quy hoạch SDĐ cấp huyện kỳ trước; Nhu cầu SDĐ của các ngành, lĩnh
vực, của cấp huyện, của cấp xã; Định mức SDĐ; Tiến bộ khoa học và công
nghệ có liên quan đến việc SDĐ. Về mặt nội dung của quy hoạch SDĐ cấp
huyện phải bao gồm: (a) Định hướng SDĐ 10 năm; (b) Xác định diện tích các
loại đất đã được phân bổ trong quy hoạch SDĐ cấp tỉnh và diện tích các loại
đất theo nhu cầu SDĐ của cấp huyện và cấp xã; (c) Xác định các khu vực
SDĐ theo chức năng sử dụng đến từng đơn vị hành chính cấp xã; (d) Xác
định diện tích các loại đất đã xác định tại điểm b khoản này đến từng đơn vị
hành chính cấp xã; (đ) Lập bản đồ quy hoạch SDĐ cấp huyện; đối với khu
vực quy hoạch đất trồng lúa, khu vực quy hoạch chuyển mục đích SDĐ quy
định tại các điểm a, b, c, d và e khoản 1 Điều 57 của Luật đất đai 2013 thì thể
hiện chi tiết đến từng đơn vị hành chính cấp xã; (e) Giải pháp thực hiện quy
hoạch SDĐ.
Phòng Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm công bố công khai
toàn bộ tài liệu về quy hoạch SDĐ của cấp huyện đã được xét duyệt tại trụ sở
26. 20
cơ quan mình trong suốt kỳ quy hoạch SDĐ; công bố trên mạng thông tin
quản lý nhà nước và trích đăng trên báo của địa phương.
+ UBND cấp huyện tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch SDĐ
của địa phương cấp mình; kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ
của cấp xã trực thuộc mình quản lý.
+ UBND cấp huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,
chuyển mục đích SDĐ phải theo đúng quy hoạch SDĐ đã được xét duyệt.
Chủ tịch UBND cấp huyện có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời các
trường hợp vi phạm quy hoạch, kế hoạch SDĐ tại địa phương mình.
+ Phòng Tài nguyên và Môi trường tổ chức kiểm tra, thanh tra việc
thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ tại địa phương; phát hiện và xử lý theo
thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi phạm
về quy hoạch, kế hoạch SDĐ. Trường hợp phát hiện nhu cầu thực tế cần điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch SDĐ thì báo cáo UBND cấp huyện về nhu cầu đó.
+ Hàng năm, UBND cấp huyện có trách nhiệm báo cáo kết quả thực
hiện kế hoạch SDĐ của địa phương đến ngày 31/12 cho UBND cấp tỉnh trước
ngày 31/01 năm sau.
- Ở cấp xã:
UBND cấp xã có trách nhiệm công bố công khai toàn bộ tài liệu về quy
hoạch SDĐ chi tiết và các dự án, công trình đầu tư đã được xét duyệt tại trụ
sở UBND xã, phường, thị trấn trong suốt kỳ quy hoạch SDĐ. Cơ quan quản
lý đất đai các cấp có trách nhiệm công bố công khai quy hoạch SDĐ của địa
phương tại trụ sở cơ quan và trên phương tiện thông tin đại chúng. Việc công
bố công khai tại trụ sở UBND và cơ quan quản lý đất đai được thực hiện
trong suốt thời gian của kỳ quy hoạch SDĐ có hiệu lực.
27. 21
UBND cấp xã tổ chức, chỉ đạo thực hiện quy hoạch SDĐ cấp huyện, kế
hoạch SDĐ của địa phương xã; phát hiện, ngăn chặn các hành vi SDĐ trái với
quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được công bố.
UBND cấp xã có trách nhiệm theo dõi việc thực hiện quy hoạch SDĐ
cấp huyện, kế hoạch SDĐ tại địa phương xã. Khi phát hiện những trường hợp
SDĐ không đúng quy hoạch, kế hoạch đã được công bố thì xử lý theo thẩm
quyền hoặc đề nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý. Chủ tịch
UBND cấp xã chịu trách nhiệm chính về việc không ngăn chặn, không xử lý
kịp thời, để xảy ra trường hợp SDĐ không đúng quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã
được xét duyệt tại địa phương.
Hàng năm, UBND cấp xã có trách nhiệm báo cáo kết quả thực hiện kế
hoạch SDĐ của địa phương đến ngày 31/12 cho UBND cấp huyện trước ngày
15 tháng 01 năm sau.
Cán bộ địa chính cấp xã tổ chức kiểm tra, thanh tra việc thực hiện quy
hoạch SDĐ cấp huyện, kế hoạch SDĐ tại địa phương xã; phát hiện và xử lý
theo thẩm quyền hoặc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý các vi
phạm về quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Trường hợp phát hiện nhu cầu thực tế cần điều chỉnh quy hoạch SDĐ
thì tham mưu đề xuất UBND cấp xã báo cáo đến UBND cấp huyện về nhu
cầu đó. Trường hợp quy hoạch, kế hoạch SDĐ đã được công bố có diện tích
đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải
phóng mặt bằng thì người SDĐ được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác
định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch SDĐ; nếu người SDĐ không còn
nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo luật
định. Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động tự ý xây dựng, đầu tư bất động
sản trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ.
Trường hợp có nhu cầu cải tạo sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất
28. 22
phải thu hồi mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Diện tích đất ghi trong kế hoạch
SDĐ đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án, công trình hoặc phải
chuyển mục đích SDĐ mà sau 3 năm không được thực hiện theo kế hoạch thì
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch SDĐ phải điều chỉnh
hoặc huỷ bỏ và công bố.
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia về quản lý quy hoạch sử
dụng đất
Đất đai ngày nay là một nguồn tài nguyên lớn, một nguồn lực lớn để
phát triển quốc gia - nếu chúng được khai thác, sử dụng đúng, tiết kiệm và
hợp lý. Và năng lực quản lý quy hoạch SDĐ là nhằm tạo ra những khu vực
định cư đáng sống với hạ tầng giao thông, kỹ thuật đầy đủ và ngày càng hiện
đại, môi trường sống văn minh, xanh sạch. Tuy nhiên, trong thực tiễn có
những quốc gia thành công, biến đất nước họ thành những đô thị và những
làng mạc đáng sống cho người dân và điều kiện để phát triển bền vững.
Nhưng cũng không ít quốc gia ở các châu lục đã thất bại trong việc này,
nguồn lực không còn nữa và sai lầm thì không sửa chữa được.
Liên hệ đến Thị xã Điện Bàn (Quảng Nam) của nước ta trong bối cảnh
đã và đang nâng cấp đô thị trước yêu cầu xây dựng và phát triển đô thị bền
vững, nên việc tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Hà Lan cũng như
Trung Quốc trong việc quản lý về phát triển đô thị sinh thái, đô thị bền vững,
nhất là ở khía cạnh quản lý Nhà nước về quy hoạch sử dụng đất ở địa phương
là cần thiết.
1.3.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, việc lập quy hoạch SDĐ thực hiện theo các cấp: quốc
gia, cấp tỉnh, vùng thủ đô; cấp huyện, vùng đô thị cơ bản. Quy hoạch cấp
quốc gia do Bộ trưởng Bộ Đất đai, Giao thông và Hàng hải phê duyệt, quy
29. 23
hoạch SDĐ cấp tỉnh do tỉnh phê duyệt, quy hoạch đất cấp huyện hoặc quy
hoạch đô thị cơ bản do Tỉnh trưởng phê duyệt. Quốc hội không can thiệp vào
quá trình xét duyệt quy hoạch SDĐ. Theo đó, quy hoạch SDĐ được thực hiện
từ tổng thể tới chi tiết. Quy hoạch cấp tỉnh, vùng thủ đô phải căn cứ trên cơ sở
quy hoạch cấp quốc gia; quy hoạch cấp huyện, vùng đô thị phải căn cứ vào
quy hoạch cấp tỉnh. Kỳ quy hoạch đối với cấp quốc gia, cấp tỉnh là 20 năm,
quy hoạch SDĐ vùng đô thị cơ bản và kế hoạch SDĐ là 10 năm. Sau 5 năm sẽ
tiến hành rà soát để điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển và thị
trường.
Việc lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ có tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Sau
khi quy hoạch được phê duyệt sẽ được công khai và phổ biến đến nhân dân.
Chính quyền các cấp có trách nhiệm tiếp thu, giải trình ý kiến nhân dân về
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch
đó. Nhà nước có chính sách bảo đảm tính khả thi của quy hoạch, ví dụ: hỗ trợ
đối với các khu vực bảo tồn, các khu vực cần bảo vệ như miễn thuế, không
phải thực hiện nghĩa vụ quân sự, được hỗ trợ đời sống…
1.3.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Ở Trung Quốc, kỳ quy hoạch SDĐ của các cấp theo quy định của Luật
đất đai năm 1999 của Trung Quốc là 10 năm. Quy hoạch SDĐ được lập theo
4 cấp: cấp quốc gia, cấp tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương, thành phố
thuộc tỉnh), cấp huyện và cấp xã. Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia và Cơ
quan quản lý đất đai thuộc UBND cấp tỉnh đều có trách nhiệm chung là tổ
chức lập và thực hiện quy hoạch đất quốc gia, quy hoạch tổng thể SDĐ; tham
gia vào việc thẩm tra quy hoạch tổng thể đô thị trình Quốc vụ viện phê chuẩn.
Nhìn chung, Bộ Đất đai và Tài nguyên quốc gia chỉ đạo và thẩm tra
quy hoạch tổng thể SDĐ của địa phương; còn UBND cấp tỉnh phê duyệt, chỉ
đạo và thẩm định quy hoạch tổng thể SDĐ của thành phố (thuộc tỉnh), huyện.
30. 24
Cơ quan quản lý đất đai thuộc UBND cấp huyện căn cứ vào quy hoạch tổng
thể SDĐ của cấp trên, tổ chức lập và thực hiện quy hoạch tổng thể SDĐ và
các quy hoạch chuyên ngành có liên quan cấp huyện. Phòng tài nguyên đất
đai cấp xã lập và thực hiện quy hoạch tổng thể SDĐ cấp xã, hợp tác và hỗ trợ
làm tốt công tác lấy ý kiến quần chúng đối với quy hoạch. Chính phủ phê
duyệt quy hoạch SDĐ cấp quốc gia, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các thành phố thuộc tỉnh nhưng có trên 1 triệu dân (như: Nam Ninh,
Quảng Châu), các đặc khu kinh tế (như: Thâm Quyến, Chu Hải). UBND cấp
tỉnh phê duyệt quy hoạch SDĐ của các đơn vị hành chính cấp huyện và quy
hoạch SDĐ của cấp xã.
Việc lập quy hoạch SDĐ phải bảo đảm tuân thủ triệt để nhiều nguyên
tắc, như: SDĐ phải tiết kiệm, đem lại hiệu quả sử dụng cao nhất; bảo đảm sự
cân bằng giữa nhu cầu và lợi ích SDĐ của các ngành kinh tế, xã hội và các địa
phương; tăng cường bảo vệ môi trường, phát triển sinh thái tự nhiên nhằm
duy trì và nâng cao chất lượng sống cho người dân của cả nước… Tuy nhiên,
nguyên tắc quan trọng nhất là bảo vệ nghiêm ngặt 120 triệu ha đất canh tác.
Điều này được thể hiện rõ và xuyên suốt trong hệ thống pháp luật về đất đai
của Trung Quốc. Theo đó, trong quy hoạch SDĐ cấp quốc gia phải xác định
được diện tích đất canh tác cần bảo vệ nghiêm ngặt theo quy định của Nhà
nước, trong đó phải chỉ rõ diện tích đất canh tác cơ bản (chiếm 80% tổng diện
tích canh tác) có chất lượng tốt nhất cần được duy trì vĩnh cửu và không được
phép chuyển đổi mục đích sử dụng dưới bất cứ lý do gì.
Hàng năm, căn cứ vào quy hoạch SDĐ được duyệt, Chính phủ giao chỉ
tiêu chuyển mục đích SDĐ nông nghiệp sang mục đích khác cho từng tỉnh.
Trên cơ sở đó, UBND cấp tỉnh phân bổ cụ thể cho từng đơn vị hành chính cấp
huyện và UBND cấp huyện phân bổ kế hoạch SDĐ đến từng đơn vị xã để
thực hiện. Việc chuyển mục đích SDĐ canh tác sang sử dụng vào các mục
31. 25
đích khác phi nông nghiệp phải được phê duyệt tại cấp tỉnh và Chính phủ.
Trường hợp quy hoạch, kế hoạch SDĐ bị vi phạm thì tùy mức độ vi phạm mà
người đứng đầu địa phương sẽ bị xử lý hành chính hoặc sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, đất bị vi phạm sẽ bị thu hồi (kể cả trường hợp đã đầu tư).
1.3.3. Kinh nghiệm của Hà Lan
Ở Hà Lan, việc lập quy hoạch, kế hoạch SDĐ phải trên cơ sở kết quả
khảo sát đánh giá các tham số ở các địa phương: tham số kỹ thuật (chất lượng
đất, đặc điểm địa hình, hiện trạng sử dụng, các khả năng cải thiện với bên
ngoài...); tham số kinh tế (tiềm năng phát triển kinh tế); tham số văn hoá - xã
hội (công trình văn hoá, nghệ thuật, bảo tồn các truyền thống văn hoá...); các
giá trị và tiêu chuẩn xã hội; tham số môi trường (mức độ ô nhiễm nước và đất,
không khí). Việc đưa ra quy hoạch, kế hoạch SDĐ trên cơ sở kết quả khảo sát
các tham số này sẽ giúp chính quyền có được cái nhìn tổng quát và chi tiết
nhất về đặc điểm của từng vùng, lãnh thổ; từ đó đưa ra bản quy hoạch, kế
hoạch SDĐ phù hợp, hiệu quả và có tính bền vững.
Quyền quyết định quy hoạch SDĐ cấp quốc gia thuộc về Nghị viện và
Chính phủ. Giúp việc cho các cơ quan này có Ủy ban Quy hoạch Không gian
Nhà nước, Cơ quan Quy hoạch không gian Nhà nước và Hội đồng tư vấn quy
hoạch không gian. Tại cấp tỉnh, Ủy ban Quy hoạch không gian tỉnh và Cơ
quan quy hoạch không gian tỉnh là các cơ quan chuyên môn giúp việc cho Hội
đồng tỉnh và Ban chấp hành Hội đồng tỉnh về đất đai. Tại địa phương có
Phòng Quy hoạch cấp huyện, Hội đồng Huyện và Ban Chấp hành Hội đồng
huyện. Tuy nhiên, chỉ có các huyện lớn mới có Phòng Quy hoạch cấp huyện.
Các huyện khác thuê các chuyên gia tư vấn tư nhân thực hiện các công việc
quy hoạch như khảo sát, tư vấn và lập kế hoạch. Huyện có 2 loại sơ đồ dùng
cho chính sách quy hoạch là Sơ đồ bố trí tổ chức và Sơ đồ quy hoạch SDĐ.
32. 26
Hội đồng huyện sau khi thông qua Sơ đồ sẽ báo cáo lên Ban chấp hành Hội
đồng tỉnh và Cơ quan Quy hoạch không gian nhà nước.
1.3.4. Một số bài học kinh nghiệm rút ra
Đất đai ngày nay là một nguồn tài nguyên lớn, một nguồn lực lớn để
phát triển quốc gia - nếu chúng được khai thác, sử dụng đúng, tiết kiệm và
hợp lý. Và năng lực quản lý quy hoạch SDĐ là nhằm tạo ra những khu vực
định cư đáng sống với hạ tầng giao thông, kỹ thuật đầy đủ và ngày càng hiện
đại, môi trường sống văn minh, xanh sạch. Từ kinh nghiệm của một số quốc
gia điển hình nêu trên, có thể rút ra một số bài học có giá trị tham khảo, đó là:
- Việc lập quy hoạch SDĐ phải trên cơ sở kết quả khảo sát đánh giá các
tham số kỹ thuật - kinh tế - văn hoá, xã hội - môi trường từ thực tiễn các địa
phương để đảm bảo quy hoạch SDĐ đạt tầm nhìn tổng thể đến đặc điểm của
từng vùng, lãnh thổ.
- Quy hoạch SDĐ và điều chỉnh quy hoạch này cần có sự tham vấn của
các bên liên quan (người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư, các tổ chức xã hội)
và trách nhiệm giải trình của chính quyền nhằm phù hợp với yêu cầu phát
triển, bảo đảm cân bằng giữa nhu cầu và lợi ích SDĐ của các ngành kinh tế,
xã hội và các địa phương; bảo vệ môi trường và phát triển sinh thái tự nhiên;
để bảo đảm xử lý hài hòa giữa lợi ích xã hội, lợi ích của người dân và lợi ích
của nhà đầu tư; lợi ích ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; lợi ích chính trị, kinh
tế, xã hội.
- Tầm nhìn và cam kết hành động, trách nhiệm giải trình của nhà lãnh
đạo, quản lý là điều quan trọng trong điều hành công tác quy hoạch SDĐ.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan quản lý nhà nước các cấp về đất
đai gắn liền với phân cấp, phân quyền.
33. 27
Tiểu kết chương 1
Trên cơ sở đề cập khái niệm, vai trò, đặc điểm của quy hoạch SDĐ và
mối quan hệ chủ yếu giữa quy hoạch SDĐ với quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế xã hội, chương 1 xác định: Quản lý nhà nước về quy hoạch SDĐ là
tổng thể các cách thức, cơ chế và biện pháp do nhà nước thiết lập để quản lý
việc thực hiện quy hoạch SDĐ đã được phê duyệt nhằm mục đích SDĐ hợp
lý, tiết kiệm và hiệu quả trong một không gian và thời gian xác định, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường bền
vững. Qua đó trình bày cơ bản các nội dung quản lý nhà nước về quy hoạch
SDĐ theo pháp luật hiện hành; đồng thời, chương 1 thông qua kinh nghiệm
của một số quốc gia về quản lý quy hoạch SDĐ để rút ra một số bài học có
giá trị tham khảo. Đây là cơ sở góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về quy
hoạch SDĐ và quản lý nhà nước về quy hoạch SDĐ.
34. 28
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ QUY HOẠCH SỬ DỤNG
ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
2.1. Khái quát chung về Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Thị xã Điện Bàn có địa bàn trải từ 15050' đến 15057' vĩ độ Bắc và từ
1080 đến 108020’ kinh độ Đông. Thị xã Điện Bàn được chia thành 20 đơn vị
hành chính trực thuộc bao gồm: 07 phường (Vĩnh Điện, Điện An, Điện Ngọc,
Điện Nam Bắc, Điện Nam Trung, Điện Nam Đông, Điện Dương) và 13 xã
(Điện Phong, Điện Trung, Điện Quang, Điện Phước, Điện Thọ, Điện Hồng,
Điện Tiến, Điện Hòa, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Trung, Điện Thắng Nam,
Điện Minh, Điện Phương).
Diện tích tự nhiên 21.497,00 ha. Điện Bàn có địa thế thấp dần từ Tây
sang Đông, mức độ chia cắt trung bình. Địa hình của Điện Bàn được chia ra
thành ba dạng chính: (1) Địa hình ven biển chủ yếu là cồn cát và bãi cát ven
biển chạy dài từ Bắc xuống Nam với diện tích khoảng 5.300 ha chiếm 25% diện
tích toàn Thị xã. Vùng này gồm các phường Điện Ngọc, Điện Nam Bắc, Điện
Nam Trung, Điện Nam Đông, Điện Dương; (2) Địa hình đồng bằng bao gồm
hầu hết các xã đồng bằng ở khu vực trung tâm và phía Tây của Thị xã với diện
tích khoảng 15.500 ha chiếm 73% tổng diện tích tự nhiên. Đây là vùng địa
hình phân bố dân cư và đất nông nghiệp chủ yếu của thị xã; (3) Địa hình gò
đồi phân bố chủ yếu ở xã Điện Tiến và một phần xã Điện Thọ có diện tích
khoảng 395 ha chiếm 2% diện tích tự nhiên, độ dốc biến thiên từ 80-200, độ
cao tuyệt đối trung bình từ 8 - 10 m, hiện tại được sử dụng chủ yếu vào mục
đích lâm nghiệp. Như vậy, Điện Bàn ngoài khu vực gò đồi ở Điện Tiến phía
Tây của Thị xã có độ cao tuyệt đối trên 10m, còn lại hầu hết là địa hình bằng
35. 29
phẳng thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp cũng như phát triển kinh tế - xã
hội địa phương.
Hệ thống sông suối của Điện Bàn phân bố tương đối đồng đều, gồm 5
con sông chính (sông Thu Bồn, sông Yên, sông Bà Rén, sông Vĩnh Điện,
sông Bình Phước) cung cấp nguồn nước mặt dồi dào phục vụ thuận lợi cho sản
xuất và sinh hoạt dân cư trên địa bàn toàn thị xã. Tuy nhiên, về mùa mưa ven
sông Thu Bồn và sông Vĩnh Điện thường có hiện tượng xói lở ven bờ, gây
ngập úng trên một số địa bàn. Mặt khác, do sự xâm nhập sâu của thủy triều
nên các sông như Vĩnh Điện, Cổ Cò thường bị nhiễm mặn vùng cửa sông gây
ảnh hưởng không nhỏ đến việc lấy nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời
sống.
Do thị xã ven biển nên có ảnh hưởng của khí hậu ven biển miền Trung
và thuộc khu vực có chế độ khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa với 02 mùa rõ rệt:
mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8 với lượng mưa chiếm 20% ÷ 25% lượng
mưa trung bình năm, thường xảy ra hạn hán, nắng nóng, giông tố; mùa mưa
bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa khoảng 75% ÷ 70% lượng mưa
trung bình cả năm và cũng thường gây ra lũ, lụt. Đa phần diện tích Điện Bàn
trong vùng trũng nên chịu tác động mạnh từ bão, lũ.
Về tài nguyên nước, nguồn nước mặt của thị xã được cung cấp chủ yếu
từ hệ thống 5 con sông chính nêu trên và các hệ thống sông nhỏ khác như
sông Thanh Quýt, sông La Thọ, sông Hà Sấu...
Tài nguyên đất trên địa bàn Thị xã Điện Bàn (theo số liệu thống kê đến
năm 2017) có tổng diện tích đất tự nhiên toàn thị xã là 21.632,43 ha, gồm có
4 nhóm đất chính: (1) Nhóm đất cát biển (C) có diện tích 5.591,05 ha chiếm
26,04% diện tích tự nhiên; (2) Nhóm đất phù sa (P) có diện tích 14.958,85 ha
chiếm 69,67% ha diện tích tự nhiên; (3) Nhóm đất mặn (M) có diện tích
485,24 ha chiếm 2,26% diện tích tự nhiên; (4) Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá
36. 30
(E) có diện tích khoảng 435,86 ha, chiếm 2,03% diện tích tự nhiên. Trong
21.632,43 ha diện tích đất tự nhiên của toàn thị xã Điện Bàn, phân theo mục
đích sử dụng năm 2017 gồm có: 54,23% diện tích tự nhiên là đất nông nghiệp
(11.730,93 ha); 40,99% diện tích tự nhiên là đất phi nông nghiệp (8.866,52
ha) gồm đất ở, đất chuyên dùng, đất tôn giáo, nghĩa trang nghĩa địa và đất phi
nông nghiệp khác; 4,78% diện tích tự nhiên là đất chưa sử dụng (1.034,98
ha), chủ yếu là đất bãi ven sông, đất cát ven biển, phân bố manh mún… Nhìn
chung, đất đai Thị xã Điện Bàn khá tốt, có độ phì nhiêu cao, nhóm đất phù sa
chiếm đến 69,67% tổng diện tích đất, cho phép thâm canh nông nghiệp theo
chiều sâu, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng. Với địa hình tương đối
bằng phẳng của khu vực vùng cát phía Đông ven biển của Điện Bàn và có cấu
trúc địa chất bền vững nên thuận lợi cho việc xây dựng phát triển đô thị - công
nghiệp, cùng với bờ biển cát trắng, nước trong, sông nước hiền hòa, thuận lợi
cho và khai thác du lịch. Tuy nhiên, ở một số khu vực đất bị nhiễm mặn, chua
phèn, xói lở ven sông cần có biện pháp khắc phục cải tạo; các khu đất màu,
chân ruộng cao cần có biện pháp thủy lợi hợp lý, tăng hiệu quả SDĐ.
Vị trí địa lý của Điện Bàn có: phía Bắc giáp huyện Hòa Vang và quận
Ngũ Hành Sơn (Thành phố Đà Nẵng), phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía
Đông Nam giáp Thành phố Hội An, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp
huyện Đại Lộc. Đây là thị xã đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh Quảng
Nam và nhờ nằm cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 48 km về phía Bắc, cách thành phố Đà
Nẵng 25 km về phía Nam. Trong Quy hoạch xây dựng Vùng kinh tế trọng
điểm miền Trung được phê duyệt, Thủ tướng Chính phủ đã xác định: Cụm đô
thị Đà Nẵng - Chân Mây - Hội An - Điện Nam - Điện Ngọc được là cụm đô thị
động lực của vùng, là điểm cuối ra biển của tuyến Hành lang kinh tế Đông Tây
trên tuyến QL9 qua cửa khẩu Lao Bảo và QL4D qua cửa khẩu Nam Giang.
37. 31
Ngày 11/3/2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết
Số 889/NQ- UBTVQH13 về việc công nhận huyện Điện Bàn thành thị xã và
thành lập 07 phường thuộc thị xã Điện Bàn.
Theo đó, mạng lưới giao thông trên địa bàn Thị xã được đầu tư khá
hoàn chỉnh. Với 04 trục dọc: Quốc lộ 1A (đã mở rộng), đường cao tốc Đà
Nẵng - Quảng Ngãi đã thi công (đoạn Đà Nẵng – Tam Kỳ đã hoàn thành và
đưa vào sử dụng, có điểm đối nối xuống thị xã Điện Bàn), tuyến du lịch ven
biển Đà Nẵng - Hội An (ĐT 603B), tuyến từ cảng Đà Nẵng qua Khu công
nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc và các cụm công nghiệp đến Hội An (ĐT 603 -
607A); 08 trục ngang: Trục nối Hội An qua phường Vĩnh Điện đi huyện Đại
Lộc (ĐT 608 -609); đường nối Đà Nẵng qua đồi Bồ Bồ ra trục ĐT 608 - 609
(ĐT 605); đường nối Quốc lộ 1A đi 3 xã Gò Nổi (ĐT 610B); đường nối Quốc
lộ 1A đi các phường vùng cát (ĐT 603, ĐT 607B, ĐH 7, ĐH 8, ĐH 9); Có
tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua dài 17,8km… Nên Thị xã Điện Bàn là nơi
có nhiều tiềm năng kinh tế nổi bật, quan trọng đối với tỉnh Quảng Nam và cả
khu vực. Mà cụ thể là các ưu thế trong phát triển của Điện Bàn thể hiện qua
vai trò của nơi giao thoa kinh tế giữa thành phố Đà Nẵng và thành phố Hội
An, kết nối gắn liền các hoạt động kinh tế, thương mại và du lịch quốc gia,
quốc tế thông qua hệ thống cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng, cảng Tiên Sa,
khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc, hệ thống di sản văn hóa thế giới
Hội An – Mỹ Sơn,... Chính vì vậy, nhiều năm qua, Điện Bàn đang có những
bước tiến ổn định về nhiều mặt gắn với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự
biến chuyển trong cơ cấu ngành nghề sản xuất, dịch vụ ở đây là yếu tố tác
động mạnh mẽ đến cơ cấu SDĐ của Thị xã.
Dân số toàn Thị xã Điện Bàn năm 2017 [26] là 209.711 người, mật độ
dân số trung bình 969 người/km2 (xem Bảng 2.1). Trong đó, dân số đô thị
80.657 người chiếm 38,5% và dân số nông thôn 129.054 người chiếm
38. 32
61,5%. Tổng số hộ dân cư là 55.505 hộ, song dân cư phân bố không đều, nơi
tập trung đông dân nhất là phường Vĩnh Điện (4.234 người/km2) và các xã
nằm dọc Quốc lộ 1A (1.300 - 2.000 người/km2), nơi có mật độ dân cư thấp
nhất là xã Điện Tiến (503 người/km2). Tỷ lệ tăng tự nhiên 8,97‰. Số người
nhập cư 1.452 người và xuất cư là 1.308 người. Dân số của thị xã có cơ cấu
dân số trẻ, độ tuổi từ 15 - 49 chiếm tỷ trọng lớn, số người trong độ tuổi lao
động toàn Thị xã năm 2017 là 131.227 người (số người từ 5 - 17 tuổi chiếm
21,8%; từ 18 - 49 tuổi chiếm 46,4%). Trong lao động sản xuất, nhân dân Điện
Bàn cần cù, sáng tạo, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp, phát triển làng nghề; được Đảng và Nhà nước phong
tặng danh hiệu Anh hùng trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, chất lượng nguồn
nhân lực của Thị xã còn thấp, lao động được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ nhỏ trong
các doanh nghiệp. Dân số nông thôn vẫn còn cao, chưa hình thành đầy đủ nếp
sống đô thị.
Bảng 2.1: Dân số Thị xã Điện Bàn giai đoạn 2011 – 2017
Đơn vị tính: người
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn năm 2017.
Tại Điện Bàn, quy hoạch SDĐ nằm tập trung chủ yếu ở 3 khu vực bao
gồm: Đô thị mới Điện Nam - Điện Ngọc (từ đầu năm 2011 đến nay có 4 dự án
tích cực triển khai như khu đô thị số 3, khu đô thị số 9, khu đô thị Bách Đạt,
khu phố chợ Điện Nam Trung...); khu vực đô thị dọc trục quốc lộ (gồm Điện
Phương, Điện Minh, Điện An, Vĩnh Điện, Điện Thắng Trung, Điện Thắng
Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Dân số trung
bình
200.45
7
202.17
3
203.95
6
205.70
1
207.56
3
208.17
8
209.711
Thành thị 8.17
2
8.25
5
8.35
0
8.50
8
79.55
0
79.90
9
80.657
Nữ 105.07
3
105.82
8
106.61
9
107.41
3
108.32
1
108.65
4
109.238
Mật độ 934 942 950 958 960 962 969
39. 33
Nam, Điện Thắng Bắc) và khu vực các xã xây dựng nông thôn mới. Điện Bàn
hiện có trên 50 dự án đã và đang được đầu tư xây dựng tạo ra các đô thị mới,
các khu du lịch ven biển, cùng với hệ thống giao thông đồng bộ. Riêng Đô thị
mới Điện Nam Điện Ngọc (theo báo cáo của Phòng Tài nguyên và Môi
trường Thị xã Điện Bàn [16]), trong số 2.245ha đất được giao quản lý, đến
nay Đô thị mới Điện Nam Điện Ngọc có 1.123ha đất triển khai thực hiện các
dự án. Hiện có 22 dự án đã cơ bản hoàn thành, 22 dự án đang triển khai xây
dựng, 2 dự án đầu tư theo hình thức BT, các dự án còn lại đang hoàn thiện thủ
tục đầu tư. Tuy nhiên, đồng thời kèm theo đó là quá trình thu hẹp đất nông
nghiệp trong khi mật độ dân số đông, khiến gia tăng số hộ gia đình không có
đất sản xuất, nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến đất đai, như: thu hồi đất, bồi
thường, giải phóng mặt bằng, chuyển đổi mục đích SDĐ, cấp giấy chứng
nhận quyền SDĐ, tranh chấp đất đai,…). Tổng số hộ theo thống kê phải được
bố trí tái định cư là 6.000 hộ. Hơn nữa, số lao động có trình độ chuyên môn kỹ
thuật còn ít, tỷ lệ dân cư và lao động sống bằng nghề nông ở Điện Bàn vẫn còn
cao (xem thêm bảng 2.2); và lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn còn
lớn, thu nhập có hạn, thiếu vốn; số hộ nghèo theo thống kê đến năm 2017 còn
1.193 hộ, chiếm 2,15% (trong đó thành thị 351 hộ và nông thôn 842 hộ);
1.492 hộ cận nghèo chiếm 2,69%. Số hộ nghèo tập trung nhiều nhất ở các xã
nông thôn: Điện Phước 3,09%, Điện Phong 2,88%, Điện Thắng Bắc 2,76%,
Điện Thọ 2,59%... [26].
40. 34
Bảng 2.2: Lao động đang làm việc trong các khu vực kinh tế trên địa
bàn thị xã Điện Bàn giai đoạn 2011 - 2017
Đơn vị tính: người
Chỉ tiêu 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017
Lao động đang
làm việc trong các
khu vực kinh tế 114.242 115.235 116.994 118.780 120.791 123.582 125.633
Nông - lâm -
thủy sản 41.144 36.705 34.210 29.500 25.370 24.106 24.225
CN– XD 38.842 41.289 42.878 45.196 48.090 51.223 50.851
Dịch vụ 34.256 37.241 39.906 44.084 47.331 48.253 50.557
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn năm 2017.
Tình hình trên hiện đã và đang tác động mạnh đến công tác quản lý nhà
nước về đất đai và đặc biệt là công tác quản lý quy hoạch SDĐ trên địa bàn
Thị xã Điện Bàn.
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất đối với
Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
2.2.1. Tình hình chính sách hiện hành về quy hoạch sử dụng đất đối
với Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Quy hoạch SDĐ trong đời sống luôn có sự biến đổi, phát triển và hoàn
thiện không ngừng cùng với sự phát triển nền kinh tế – xã hội. Nên việc ban
hành quy định của pháp luật về quy hoạch SDĐ nhằm tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế, xã hội là cấp thiết, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Kể từ sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực thi hành, ở phạm vi
quốc gia Bộ Tài nguyên và Môi trường đã kịp thời tham mưu cho Chính phủ
ban hành 13 Nghị định; chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành ban hành 48
Thông tư, Thông tư liên tịch… Điển hình có thể nêu ra là: Nghị định
số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành
41. 35
một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 01/2017/NĐ- CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết
thi hành Luật Đất đai; Thông tư số 29/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh
và thẩm định quy hoạch, kế hoạch SDĐ… Trên cơ sở này, Bộ Tài nguyên và
Môi trường và các Bộ, ngành liên quan rà soát điều chỉnh quy hoạch, kế
hoạch ngành, lĩnh vực có SDĐ bảo đảm phù hợp với quy hoạch, kế hoạch
SDĐ đã được phê duyệt theo quy định của pháp luật đất đai. Đây là cơ sở
pháp lý quan trọng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai để bố trí
SDĐ hợp lý và hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ cảnh
quan môi trường.
Đối với tỉnh Quảng Nam, ngày 13 tháng 6 năm 2013, Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 74/NQ-CP về quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế
hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (2011-2015) tỉnh Quảng Nam.
Theo đó, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành: Quyết định số 1963/QĐ-
UBND ngày 25/06/2013 về phân bổ chỉ tiêu Quy hoạch sử dụng đất đến năm
2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu của tỉnh Quảng Nam cho cấp thị
xã; Quyết định số 2014/QĐ-UBND ngày 30/6/2014 của UBND tỉnh Quảng
Nam Phê duyệt quy hoạch SDĐ đến năm 2020, kế hoạch SDĐ 5 năm kỳ đầu
(2011-2015) của huyện Điện Bàn (nay là thị xã Điện Bàn); cùng với các quyết
định của UBND tỉnh Quảng Nam về Phê duyệt kế hoạch SDĐ hàng năm đối
với Thị xã Điện Bàn, như: Quyết định số 2813/QĐ-UBND ngày 03/8/2017
của UBND tỉnh Quảng Nam...
Quyết định số 3511/QĐ-UBND ngày 16/10/2009 của UBND tỉnh
Quảng Nam về việc Phê duyệt tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020; Quyết định số
2882/QĐ – UBND ngày 25/9/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc phê
42. 36
duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã
hội tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số
3989/QĐ – UBND ngày 28/12/2018 của UBND tỉnh Quảng Nam về việc phê
duyệt Điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thị xã Điện
Bàn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030;
Gần đây, có Công văn số 1515/STNMT-QLĐĐ ngày 17 tháng 9 năm
2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường về việc đề xuất chỉ tiêu sử dụng đất
đến năm 2020, lập kế hoạch sử dụng đất năm 2019 và báo cáo danh mục dự
án thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng
đặc dụng. Đồng thời, để chấn chỉnh và đảm bảo thực hiện tốt công tác sử
dụng quỹ đất trên địa bàn, UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số
2846/QĐ-UBND ngày 24/9/2018 về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số
21/NQ-HĐND ngày 19/7/2018 của HĐND tỉnh về một số nhiệm vụ, giải pháp
trong công tác lập, tổ chức thực hiện và quản lý quy hoạch, kế hoạch SDĐ
trên địa bàn tỉnh. Theo đó, căn cứ quy định pháp luật đất đai, UBND tỉnh chỉ
đạo các Sở, Ban ngành và địa phương triển khai thực hiện những nhiệm vụ,
giải pháp trọng tâm, đó là:
(1) Các ngành, địa phương tổ chức lập, trình phê duyệt quy hoạch, kế
hoạch SDĐ đảm bảo nội dung, quy trình, thời gian theo quy định. Công bố
công khai quy hoạch, kế hoạch SDĐ;
(2) Tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ thống nhất chặt chẽ từ
cấp tỉnh đến cấp huyện và xác định cụ thể đến cấp xã đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh; có giải
pháp cụ thể huy động vốn và các nguồn lực khác để thực hiện phương án điều
chỉnh quy hoạch, kế hoạch SDĐ của tỉnh;
(3) Xác định ranh giới và công khai diện tích đất trồng lúa, rừng phòng
hộ, rừng đặc dụng cần bảo vệ nghiêm ngặt nhất là rừng phòng hộ ven biển;
43. 37
bảo đảm lợi ích giữa các khu vực có điều kiện phát triển công nghiệp, đô thị,
dịch vụ với các khu vực giữ nhiều đất trồng lúa. Triển khai thực hiện tốt việc
thu và phân bổ tiền quản lý và bảo vệ đất trồng lúa nước theo quy định tại
Nghị định số 35/2015/NĐCP ngày 13/4/2015 của Chính phủ;
(4) Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương thực hiện tốt việc
chuyển mục đích SDĐ, thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất. Tăng cường công
tác quản lý về khai thác tài nguyên đất đai, khoáng sản, nước đi đôi với công
tác bảo vệ môi trường;
(5) Không quy hoạch và triển khai các dự án xây dựng khu dân cư, khu
đô thị, khai thác quỹ đất trên đất chuyên trồng lúa chủ động nước nằm dọc
quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ và không có trong quy hoạch chung, quy hoạch
phân khu được duyệt;
(6) Không quy hoạch quỹ đất cho mục đích kinh doanh đất an táng; xây
dựng lộ trình để chấm dứt đất an táng trong khu vực nội thị. Hạn chế tối đa
việc chấp thuận các dự án đầu tư, thuê đất cho mục đích sản xuất ngoài khu
công nghiệp, cụm công nghiệp. Những địa phương có quy hoạch khu công
nghiệp, cụm công nghiệp thì không được chấp thuận các dự án đầu tư, thuê
đất cho mục đích sản xuất phi nông nghiệp ngoài khu công nghiệp, cụm công
nghiệp;
(7) Không điều chỉnh giảm không gian, phạm vi, quy mô đất công
cộng, công viên, cây xanh, mặt nước, mốc chỉ giới xây dựng, vệt cây xanh
của các dự án (kể cả trên các trục đường chính, quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ,
đường ven biển) đã phê duyệt sang mục đích sản xuất phi kinh doanh nông
nghiệp, thương mại, dịch vụ, đất ở;
(8) Tiếp tục thực hiện chủ trương dành kinh phí giải phóng mặt bằng
sạch. Giao đất cho nhà đầu tư thông qua hình thức đấu thầu dự án, đấu giá
quyền SDĐ để tránh thất thoát ngân sách;
44. 38
(9) Xử lý nghiêm các trường hợp được giao đất, cho thuê đất thực hiện
dự án, nhưng quá thời hạn cam kết vẫn chưa triển khai, không đưa đất vào sử
dụng, không thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai. Kiên quyết thu hồi đất
đối với các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp SDĐ không đúng mục đích. Đối
với các dự án SDĐ khu vực biên giới đất liền, biên giới biển, khu vực đất gắn
liền với mặt nước biển chỉ cho thuê đất có thời hạn, không giao đất lâu dài
nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, biên giới, hải đảo;
(10) Ưu tiên thu hút dự án động lực, lan tỏa phục vụ phát triển sản xuất,
kinh doanh thương mại dịch vụ; bổ sung đất tiểu thủ công nghiệp, làng nghề
truyền thống tại những khu tái định cư có quy mô lớn và thu hút các doanh
nghiệp (thân thiện môi trường) vào đầu tư giải quyết nhu cầu việc làm cho
người lao động;
(11) Nâng cao năng lực, trách nhiệm hành chính đội ngũ làm công tác
xây dựng, thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ; quản lý đất đai, thẩm định dự
án. Phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội đồng thẩm định giá đất;
(12) Tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật đất đai để người dân
nắm vững các quy định của pháp luật, SDĐ đúng mục đích, tiết kiệm, có hiệu
quả, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững…
(13) Yêu cầu các Sở, Ban, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm
vụ quản lý nhà nước đề xuất các giải pháp, biện pháp, xây dựng kế hoạch để
triển khai thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch SDĐ, quy hoạch ngành
đảm bảo quy định pháp luật, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh. Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết có vướng mắc phát
sinh báo cáo về UBND tỉnh để xem xét, chỉ đạo giải quyết.
45. 39
2.2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng
đất đối với Thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
2.2.2.1. Thành tựu của quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất đối
với Thị xã Điện Bàn
- Về việc ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý, SDĐ trên địa bàn Thị xã Điện Bàn:
Từ khi có Luật đất đai năm 2013 đến nay, chế định về quy hoạch SDĐ
đã từng bước được bổ sung hoàn thiện và cụ thể hóa tại 17 Điều trong Luật
Đất đai năm 2013, thể hiện rõ các căn cứ, cơ sở, nội dung và các vấn đề cụ thể
của quy hoạch SDĐ. Nhờ đó hành lang pháp lý của quy hoạch SDĐ ngày
càng vững chắc, trở thành công cụ đắc lực trong quản lý nhà nước về đất đai.
Nói cách khác, hệ thống chính sách, pháp luật hiện hành về quy hoạch, quản
lý và SDĐ được ban hành khá đầy đủ, thể chế hóa và cụ thể hóa kịp thời các
chủ trương, chính sách của Đảng và tinh thần Hiến pháp năm 2013 của Nhà
nước ta, bám sát thực tiễn phát triển của đất nước, các thông lệ quốc tế, hình
thành cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy khơi thông nguồn lực xã hội, tạo điều
kiện thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển hạ tầng Thị xã Điện Bàn.
Mặt khác, thời gian qua hoạt động quản lý quy hoạch SDĐ của UBND
tỉnh Quảng Nam nói chung và Thị xã Điện Bàn nói riêng đã có nhiều chuyển
biến tích cực. Năm 2015, Điện Bàn lên Thị xã, nên kế hoạch SDĐ hàng năm
lấy căn cứ xây dựng từ các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch
vùng, lãnh thổ. Đến nay, UBND Thị xã Điện Bàn cũng đã hoàn thành việc
điều chỉnh quy hoạch SDĐ đến năm 2020 và lập kế hoạch SDĐ kỳ cuối
(2016-2020). Các điều chỉnh này về cơ bản là phù hợp với các nội dung mới
của Luật Đất đai năm 2013, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng, an ninh ở bối cảnh mới, bảo đảm SDĐ tiết kiệm, có hiệu quả
nhằm khai thác hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và thích ứng
46. 40
với biến đổi khí hậu. Việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quy
hoạch, quản lý và SDĐ từng bước đi vào nề nếp. Định kỳ hàng năm, UBND
Thị xã Điện Bàn đã kịp thời báo cáo đúng hạn lên cho UBND tỉnh Quảng
Nam về kết quả thực hiện kế hoạch SDĐ của địa phương mình.
Nhìn chung, quy hoạch SDĐ đã được lập trên quy mô Thị xã và ở các
phường, xã của Điện Bàn giúp cho công tác quản lý đất đai trên địa bàn Thị
xã hiệu quả hơn, việc SDĐ hợp lý, khoa học và tiết kiệm; qua đó đã góp phần
định hình sự phát triển diện mạo Thị xã Điện Bàn ngày nay.
- Về hoạt động điều tra, đánh giá tài nguyên đất; khảo sát, đo đạc, lập
bản đồ hiện trạng SDĐ và bản đồ quy hoạch SDĐ:
Việc điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội, hiện trạng
SDĐ và tiềm năng đất đai đã tiến hành theo trình tự quy hoạch SDĐ. Thị xã
hoàn thành kế hoạch SDĐ giai đoạn 2011 - 2015, công tác quy hoạch SDĐ
đến năm 2020, đã tổ chức kiểm kê đất đai và xây dựng bản đồ hiện trạng SDĐ
tại các địa phương theo quy định của pháp luật, phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của thị xã, công tác lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được duy trì thường xuyên, đến nay đã có
257 tờ bản đồ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ đạt 98% [26; tr.67].
- Về hoạt động tuyên truyền giáo dục chính sách pháp luật về đất đai
và phổ biến công khai rộng rãi quy hoạch SDĐ đã phê duyệt:
Công tác tuyên truyền phổ biến về pháp luật đất đai trên địa bàn Thị xã
Điện Bàn đã được kịp thời và từng bước chú trọng công bố công khai rộng rãi
về quy hoạch, kế hoạch SDĐ theo đúng quy định. Cụ thể là, đã tiến hành
thông báo trên loa phát thanh của tổ, thôn xóm; dán ở bảng tin UBND xã và
nơi công cộng; thông báo bằng văn bản qua trưởng thôn, xóm; cũng như nhận
được góp ý của người dân tham gia ý kiến bằng văn bản qua trưởng thôn,
xóm; gửi vào hòm thư góp ý; nhận ý kiến phản hồi qua bộ phận một cửa; tổ
47. 41
chức họp để lấy ý kiến cộng đồng người dân. Các phương án quy hoạch SDĐ
chi tiết ở các xã, phường được duyệt đã được UBND cấp xã và cơ quan quản
lý đất đai của Thị xã Điện Bàn công khai trên phương tiện thông tin đại chúng
và công khai bản đồ quy hoạch ở những nơi công cộng để mọi người cùng
biết, cùng thực hiện.
- Về tổ chức quản lý, chỉ đạo triển khai quy hoạch SDĐ thông qua các
giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch SDĐ trên địa bàn Thị xã Điện Bàn:
Trên cơ sở Quy hoạch SDĐ đến năm 2020 và kế hoạch SDĐ kỳ đầu
2011-2015 được UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt, UBND Thị xã Điện Bàn
đã phân bổ chỉ tiêu SDĐ đến các phường, xã trực thuộc Điện Bàn hoàn thiện
kế hoạch SDĐ 5 năm 2011-2015 và tổ chức thực hiện quy hoạch SDĐ, đáp
ứng nhu cầu SDĐ của các ngành, các lĩnh vực, phục vụ phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương, tạo cơ sở cho công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi
mục đích SDĐ, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận quyền SDĐ… Quy hoạch
đều chú trọng đến việc SDĐ chuyên trồng lúa, hoa màu và dành quỹ đất hợp
lý cho phát triển hạ tầng, xây dựng khu công nghiệp, khu đô thị,... góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội các địa phương phát triển, bảo đảm SDĐ tiết kiệm,
hiệu quả.
Một số chỉ tiêu thực hiện kế hoạch SDĐ đến năm 2018 của một số
phường đạt khá cao. Công tác giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích SDĐ,
thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư trên địa bàn Thị xã đã được thực
hiện khá tốt.
Đặc biệt, các cấp chính quyền trên địa bàn Thị xã những năm vừa qua
đã hoàn thành công tác lập Quy hoạch chung đô thị Điện Bàn giai đoạn đến
2020, định hướng 2025; xây dựng Chương trình phát triển đô thị Điện Bàn
giai đoạn 2014 - 2020. Bộ Xây dựng đã có Quyết định công nhận thị trấn
Vĩnh Điện mở rộng (đô thị Điện Bàn) đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV. Mặt
48. 42
khác, Thị xã cũng đã thực hiện lập 42 đồ án quy hoạch và điều chỉnh quy
hoạch, tiếp tục thực hiện đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo đúng định
hướng trong quy hoạch chung đô thị Điện Bàn. Trong giai đoạn 2011 – 2016
[26], UBND thị xã Điện Bàn đã làm chủ đầu tư 93 dự án (chưa bao gồm các dự
án khai thác quỹ đất) với tổng mức đầu tư là 584,471 tỷ đồng, tỷ lệ giải ngân
đạt khoảng 90,6% so với kế hoạch vốn đã bố trí, đã góp phần quan trọng triển
khai thực hiện các dự án trọng điểm của Trung ương, tỉnh trên địa bàn, các dự
án đô thị, du lịch và các dự án phát triển kinh tế - xã hội của thị xã.
Thực thi giải pháp về hoạt động tài chính đất đai vừa qua đã đóng góp
tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách Thị xã Điện Bàn. Các khu đô thị trên
địa bàn Thị xã đã phát triển nhanh, diện mạo đô thị thay đổi rõ rệt ngày càng
hiện đại, hình thành không gian sống tốt hơn cho người dân. Cơ bản đã bảo
đảm hoàn thành xây dựng hệ thống hạ tầng khung của đô thị và đủ năng lực
phục vụ và các công trình giao thông kết nối các đô thị trong nội vùng, góp
phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội phát triển sôi động theo hướng
CNH- HĐH (xem thêm Bảng 2.3), chính sách an sinh xã hội được thực hiện
đồng bộ với chính sách phát triển đô thị Điện Bàn.
Bảng 2.3: Tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2011 - 2017
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Các chỉ tiêu 2011 2012 2014 2015 2016 2017
Tốcđộ
tăng
b/q
(%/năm)
1. Tổng GTSX (giá
SS)
9.514 13.561 15.323 17.102 19.10
5
21.050 14,15
Nông - lâm - thủy sản 1.226 1.250 1.341 1.354 1.40
5
1.539 3,86
CN – XD 5.892 9.581 9.885 10.632 11.60
1
12.744 13,72
Thương mại - dịch vụ 2.396 2.730 4.097 5.116 6.09
9
6.767 18,89
2. Tổng GTSX (giá
HH)
11.227 16.508 19.803 21.659 24.28
2
26.925
49. 43
Các chỉ tiêu 2011 2012 2014 2015 2016 2017
Tốcđộ
tăng
b/q
(%/năm)
Nông - lâm - thủy sản 1.589 1.620 1.914 1.982 2.10
7
2.219
CN – XD 6.950 11.590 13.030 13.796 15.27
9
16.637
Thương mại - dịch vụ 2.688 3.298 4.859 5.881 6.89
6
8.069
3. Cơ cấu (giá HH, %) 100,0 100,0 100,0 100,0 100,
0
100,0
Nông - lâm - thủy sản 14,15 9,81 9,67 9,15 8,6
7
8,49
CN – XD 61,90 70,20 65,80 63,70 62,9
2
62,92
Thương mại - dịch vụ 23,94 19,98 24,54 27,15 28,4
0
28,59
Nguồn: Niên giám thống kê thị xã Điện Bàn năm 2017.
2.2.2.2. Mặt hạn chế
- Về việc tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về quản lý,
SDĐ trên địa bàn Thị xã Điện Bàn:
Việc lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh, quản lý và thực hiện quy
hoạch SDĐ, quy hoạch đô thị, hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng trên địa bàn
Thị xã Điện Bàn đang gặp phải không ít mặt hạn chế/ bất cập, khiến chất
lượng đồ án quy hoạch SDĐ còn thấp, một số phương án quy hoạch SDĐ
chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế và giải quyết kịp thời các vấn đề nổi cộm
trong quản lý và phát triển đô thị Điện Bàn. Tại buổi làm việc với lãnh đạo thị
xã Điện Bàn xoay quanh việc thực hiện quản lý quy hoạch SDĐ đối với một
số dự án quy mô lớn, Đoàn giám sát HĐND tỉnh Quảng Nam cũng đánh giá
rằng: khối lượng các dự án thực hiện khá lớn nhưng còn nhiều bất cập trong
lập và thực hiện đúng kế hoạch SDĐ hàng năm theo quy hoạch [16].
Việc thực hiện các quy định của pháp luật về quy hoạch SDĐ vẫn đang
bộc lộ nhiều hạn chế. Vì việc phê duyệt các quy hoạch Thị xã Điện bàn đã
được triển khai lập theo quy định cũ, chứ chưa áp dụng thực hiện lại từ đầu
theo quy định mới của Luật Quy hoạch có hiệu lực năm 2019. Hơn nữa hiện