SlideShare a Scribd company logo
1 of 91
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH ĐỨC CƯỜNG
TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH ĐỨC CƯỜNG
TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY
Ngành: Tôn giáo học
Mã số: 8229009
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THANH HẰNG
Hà Nội, năm 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” là công trình
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Phạm Thanh Hằng.
Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan
khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày ……. tháng ……. năm 2019
Tác giả
Đinh Đức Cường
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến các thầy cô trong Khoa Tôn giáo học tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn
Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã giảng dạy và cho tôi nhiều kiến thức trong quá
trình học tập. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ PHẠM
THANH HẰNG, người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Đồng thời tôi xin cảm ơn các Ban ngành của huyện Điện Biên, tỉnh Điện
Biên đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình làm luận văn tại địa phương.
Tác giả luận văn
Đinh Đức Cường
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO
Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN, TỈNH ĐIỆN BIÊN .............................................. 11
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo................................................................................... 11
1.2. Tôn giáo ở huyện Điện Biên............................................................ 20
Chương 2: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT
ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN –
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...................................... 34
2.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo ở huyện Điện Biên........................................................................... 34
2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra .................................. 53
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN......................................................................................... 61
3.1. Phương hướng.................................................................................. 61
3.2. Giải pháp.......................................................................................... 66
3.3. Kiến nghị.......................................................................................... 71
KẾT LUẬN.................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 80
iv
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
QLNN: Quản lý nhà nước
UBND: Ủy ban nhân dân
v
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Tình hình đạo Tin Lành qua các năm..................................... 26
Bảng 1.2. Tình hình Công giáo qua các năm.......................................... 27
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã
hội, ra đời và phát triển từ hàng nghìn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua
những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội,
nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá
trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có sức ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một
quốc gia, theo cả hai chiều kích tích cực và tiêu cực.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức
với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống.
Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt
động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo
ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành
mạnh, tuân thủ pháp luật thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, thậm chí là phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác QLNN đối với
hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên tầm vĩ mô mà
còn ở các địa phương trong cả nước.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và
có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của
công tác này.
Điện Biên là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là một tỉnh Tây Bắc cách Hà
Nội 504km về phía Tây. Điện Biên là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2
quốc gia Lào và Trung Quốc dài hơn 400km, với 33 dân tộc sinh sống. Người theo
tôn giáo chủ yếu là Phật giáo, Công giáo và Tin Lành. Huyện Điện Biên nằm ở phía
Tây Nam tỉnh Điện Biên, phía Bắc giáp huyện Mường Lay, phía Tây và Nam giáp
Lào, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông, có cửa khẩu Tây Trang ngăn cách với
2
Lào, phân chia hành chính 25 xã. Đây là một trong những huyện lớn có vai trò quan
trọng của tỉnh Điện Biên.
Trong những năm qua, tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Điện
Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng tương đối ổn định, sinh hoạt tôn giáo
và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo
của Đảng và Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo
trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.Về thành
tựu phát triển kinh tế - xã hội; huyện Điện Biên đã tích cực tham gia phát triển kinh
tế - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên,
trên địa bàn huyện Điện Biên vẫn nổi lên các vấn đề liên quan đến tôn giáo theo
hướng tiêu cực như lợi dụng tôn giáo nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,....
Huyện Điện Biên cũng có lượng người dân tộc theo tôn giáo và công tác QLNN đối
với tôn giáo còn nhiều vấn đề đáng lưu tâm, Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình
chung của tỉnh Điện Biên đã xảy ra một số vụ việc bất ổn liên quan trực tiếp đến
vấn đề tôn giáo như vấn đề Tin Lành trong người Mông, sự vụ Mường Nhé,…. Dó
đó, vấn đề quản lý tôn giáo đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan
trọng của tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng. Để làm tốt công
tác này đòi hỏi chúng ta phải đi từ cơ sở, từ gốc rễ. Nghiên cứu một huyện lớn như
huyện Điện Biên đóng vai trò làm hình mẫu quan trọng cho các địa bàn khác trên
toàn tỉnh từ đó tạo thành một lối quản lý hiệu lực, hiệu quả, tạo điều kiện cho các
mặt an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội –ổn định và phát triển trong khi vẫn
đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng chính đáng của
người dân.
Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà
nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” để
làm luận văn Thạc sỹ Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu
Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn có thể
được phân chia theo một số hướng cơ bản như sau:
3
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về công tác QLNN đối với hoạt động
tôn giáo.
Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt
Nam nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả. Ở nước ta, đã
có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều góc độ khác nhau.
Riêng về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo, trong thời gian qua cũngđã có
khá nhiều công trình nghiên cứu.
“Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà
nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển
năm 2001 tập trung làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo, nêu nên tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, đồng thời chỉ ra
quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo, những
nguyên tắc trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
“Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận – thực tiễn” của GS.TS
Đỗ Quang Hưng năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu có tính tổng hợp và toàn
diện về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn
giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng, từng bước hoàn thiện chính sách tôn
giáo ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất cần thiết phục vụ cho các nhà
nghiên cứu và quản lý về công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay.
“Mác-Ăngghen bàn về tôn giáo” của PGS. TS Nguyễn Đức Sự chủ biên (bổ
sung năm xuất bản). Tác giả nhận định, về phương diện tôn giáo, một hình thái ý
thức tư tưởng đặc biệt, một tồn tại xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp vốn là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, tôn giáo
học,… Trong cuộc đời sự nghiệp của Mác, Ăngghen không có nhiều điều kiện
nghiên cứu về tôn giáo nhưng trong một số tác phẩm của mình có những luận đề
các ông đã đề cập đến vấn đề tôn giáo đến nay vẫn được coi là những quan điểm có
tính cơ bản về phương pháp luận trong lĩnh vực nghiên cứu, nhìn nhận các hiện
tượng tôn giáo. Có thể kể đến là luận điểm về bản chất và nguồn gốc của tôn giáo,
tiến trình phát triển tôn giáo, lịch sử, vai trò xã hội của tôn giáo cũng như vấn đề
4
con người, các thể chế xã hội với tôn giáo,… luôn có tính thời sự và sống động
trong thực tiễn của nhân loại. Tác giả khẳng định đây là những vấn đề có tính vận
dụng trong thực tiễn, là ngọn đèn pha để từ đó đóng góp nhiều mặt trong đó có công
tác quản lý tôn giáo.
“Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng
Nghiêm Vạn (bổ sung năm xuất bản). Ngoài việc nhắc đến và làm rõ những vấn đề
đã bàn trong cuộc trao đổi năm 1997 về vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách còn từ góc độ kinh tế thử lý giải một số hiện
tượng tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; làm rõ hơn về sự tôn thờ của người Công
giáo Việt Nam, về Phật pháp; bàn về tôn giáo và mê tín. Đối với công tác quản lý
tôn giáo mà nói đây là những vấn đề đáng quan tâm, làm rõ để có phương hướng
thực hiện một cách trọng điểm, chú tâm.
“Giáo trình quản lý xã hội về tôn giáo” của PGS, TS Hoàng Quốc Bảo chủ
biên- năm 2016. Giáo trình đã làm rõ đối tượng quản lý và phương pháp nghiên cứu
quản lý xã hội về tôn giáo đồng thời phân tích cách nhìn nhận của chủ nghĩa Mác –
Lênin đối với vấn đề quản lý tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng Sản Việt Nam về quản lý tôn giáo. Giáo trình cũng đi sâu tìm hiểu một
số tôn giáo ở Việt Nam từ đó nêu ra nguyên tắc, phương pháp,…đối với các hoạt
động tôn giáo ở Việt Nam.
“Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của PGS, TS Nguyễn Thanh
Xuân chủ biên năm 2015. Cuốn sách mang đến với người đọc bức tranh khái quát
về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời cuốn sách nói đến các
chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ.
“Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay” của PGS, TS Nguyễn Hồng Dương, Nxb Chính trị quốc gia –
sự thật, Hà Nội, 2012. Cuốn sách nêu ra và phân tích những quan điểm, đường lối
của Đảng về tôn giáo; phác họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đồng
thời phân tích kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối
sách với một số nước: Trung Quốc, Thái Lan, Xinhgapo; trên cơ sở đó, tác giả phân
5
tích những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị đối với công tác tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay.
“Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền” của GS Đỗ Quang Hưng,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Điểm nổi bật của công trình không chỉ quan
tâm đến mối quan hệ Nhà nước với Giáo hội mà còn đi sâu vào khía cạnh nhà nước
pháp quyền và tôn giáo. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về luật pháp
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay từ pháp lý đến quyền pháp nhân, thể nhân tôn giáo.
Đó là những cơ sở để xác định hai nhóm giải pháp lớn về lý luận chính sách tôn
giáo và các chính sách tôn giáo cụ thể, bao quát từ việc hoàn thiện mô hình nhà
nước thế tục và luật pháp tôn giáo, điều chỉnh mô hình và thay đổi phương thức
QLNN đối với tôn giáo.
“Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo và
Công giáo – những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của PGS,TS
Hoàng Minh Đô và PGS, TS Đỗ Lan Hiền, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2015 đã
khái quát một số nội dung cơ bản: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tôn
giáo và Công giáo; Quan điểm của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn
giáo và Công giáo; Thực trạng việc thực hiện chính sách pháp luật về tôn giáo và
Công giáo ở Việt Nam; Kinh nghiệm của một số nước: Pháp, Hoa Kỳ, Liên xô
(trước đây), Trung Quốc trong việc thực hiện chính sách đối với Công giáo và bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam.
“Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác – Lênin đến thực tiễn Việt Nam” của
PGS, TS Ngô Hữu Thảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2012 đã phân
tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về công tác tôn giáo như: nhận thức về
công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nguồn gốc tôn giáo, vai trò tôn giáo và
những yêu cầu đối với người cộng sản về phương pháp nhìn nhận đúng đắn đối với
tôn giáo.
Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến
nay” của Bùi Hữu Dược năm 2014. Luận án nêu nên cơ sở lý luận và thực tiễn của
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Đáng giá, phân tích về quá trình, kết quả
6
quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ 1975 đến nay, từ đó đưa ra khuyến
nghị, dự báo xu hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Công tác quản lý nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” của Nguyễn Tiến Dũng năm
2012. Luận văn khái quát một số vấn đề chung về QLNN đối với hoạt động tôn
giáo, phân tích tình hình tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay và các hoạt động liên
quan đến tôn giáo, từ đó đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra, kiến nghị và
nêu ra một số giải pháp của công tác quản nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh
Thái Nguyên.
Luận văn thạc sĩ triết học “Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn
giáo trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay” của Đinh Ngọc Tú năm 2013. Luận văn
đã đánh giá thực trạng tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo Hà
Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhắm nâng cao hiệu quả QLNN
đối với hoạt động tôn giáo địa bàn quận.
Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính “Giải pháp nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công
giáo trong tình hình hiện nay ở tỉnh Hà Nam” của Lê Thị Cúc năm 2012. Luận văn
trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận cũng như thực trạng công tác
QLNN về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công giáo ở tỉnh Hà Nam, đề tài
đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về lĩnh vực này tại địa
phương.
Luận văn thạc sĩ tôn giáo học “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo
Tin lành trên địa bàn tỉnh Bình phước hiện nay” của Phạm Thị Hằng 2015. Luận
văn trên cơ sở nghiên cứu thực trạng QLNN đối với đạo Tin lành ở tỉnh Bình
phước, luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
QLNN đối với đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh.
Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Quản lý nhà nước đối với đạo Công
giáo tại địa bàn tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp” của Trần Hải Hà năm
7
2009. Luận văn nêu khái quát về đặc điểm tỉnh Nghệ An, làm rõ thực trạng hoạt
động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp và
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt
động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng
của Việt Nam: 25 năm nhìn lại” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội năm 2016. Công trình gồm các bài nghiên cứu về cơ sở và
thực tiễn của đường lối, quan điểm đổi mới về tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng Cộng
sảnViệt Nam từ năm 1990 đến nay; đánh giá hiệu quả của chính sách tôn giáo, tín
ngưỡng trong thời kỳ đổi mới đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống tôn
giáo ở Việt Nam nói riêng; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng và tôn giáo trong thời gian tới.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam trong bối cảnh
mới” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,
năm 2018. Công trình gồm các bài nghiên cứu tập trung phân tích những xu hướng
và động thái mới trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng trên thế giới hiện nay dưới tác
động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó
nêu bật sự tác động của những xu hướng và động thái mới trong đời sống tôn giáo,
tín ngưỡng trên thế giới, sự hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư
nói riêng đến đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay; và đưa ra những
khuyến nghị, giải pháp có tính khả thi cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và
pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của
Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về tôn giáo ở tỉnh Điện Biên.
Luận án tiến sĩ “Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Hmông và Dao
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” củaNguyễn Khắc Đức năm 2011 nghiên
cứu sự xâm nhập, phát triển của đạo Tin Lành tỏng dân tộc Hmông và Dao ở các
tỉnh miền núi phía Bắc (trong đó có Điện Biên), từ đó đề xuất kiến nghị nhằm đưa
8
đạo Tin Lành hoạt động theo hướng ổn định, tuân thủ pháp luật, đảm bảo tính hiệu
lực của chính sách đối với tôn giáo này trên địa bàn nghiên cứu.
Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11&12 “Tôn giáo và đời sống gia đình, bản
làng của người Mông” của PGS, TS Nguyễn Quang Hưng năm 2016 nghiên cứu tôn
giáo trong đời sống tinh thần của người Mông, từ đó nhấn mạnh tôn giáo là hạt
nhân của văn hóa.
Bài viết tạp chí của Lê Bá Trình đăng ngày 01 tháng 11 năm 2018 trên
website: tapchimattran.vn về “Sinh hoạt tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số các tỉnh miền núi phía bắc hiện nay”. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu tình hình
tôn giáo ở đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía bắc trong đó có tỉnh Điện Biên
(chủ yếu tình hình Phật giáo, Công giáo, Tin lành) chỉ ra những tác động của các
tôn giáo để tìm giải pháp vừa phát huy các giá trị dân tộc, ngăn chặn và đấu tranh có
hiệu quả với các âm mưu, hành động lợi dụng những vấn đề tôn giáo, dân tộc để
chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bài viết của Lê Vui trên website của giáo xứ Sa Pa về “ Tình hình tôn giáo ở
Tây Bắc thực trạng và giải pháp” ngày 06 tháng 06 năm 2019. Bài viết nói về tình
hình tôn giáo ở các tỉnh Tây Bắc (Lào Cai, Điện Biên,…) từ đó đưa ra các biện
pháp, những việc cần hành động để ổn định tôn giáo, đấu tranh chống lợi dụng tôn
giáo chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chống phá Đảng và nhà nước.
Bài viết của Nguyễn Trường Giang trên trang baodienbienphu.info.vn “Nâng
cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới” ngày 03/08/2017 đã thống kê sơ
bộ số lượng người theo tôn giáo tại tỉnh Điện Biên. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
những việc Cấp ủy, chính quyền đã làm được nhằm nâng cao công tác quản lý tôn
giáo trên địa bàn tỉnh. Từ đó chỉ ra những khó khăn trong công tác quản lý và đưa ra
những giải pháp để công tác quản lý tôn giáo đạt hiệu quả hơn.
Tổng quan có thể thấy các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều
khía cạnh khác nhau, về cả phương pháp luận và cơ sở lý luận cũng như thực tiễn
của vấn đề quản lý nhà nước đối với công tác tôn giáo. Các công tình đã đặt tôn
giáo vào thực tiễn của từng địa phương để nêu lên những thực trạng của vấn đề
9
quản lý nhà nước đối với tôn giáo và từ đó đề ra các giải pháp để giải quyết các khó
khăn trong quản lý tôn giáo. Các công trình này sẽ là nguồn tài liệu để tham khảo và
học tập cho luận văn này. Trên địa bàn Điện Biên, vì nhiều lý do khác nhau nên
hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo vẫn
chưa có nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm
sáng tỏ hơn về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện
Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn tìm hiểu về tình hình, đặc điểm tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh
Điện Biên; phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, từ đó đề xuất một số giải pháp
và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo
trên địa bàn huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề chung về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo
và tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Đánh giá thực trạng, rút ra bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong
công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu là tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn
giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tôn giáo và công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.
10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc tôn giáo; đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình
hình QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Điện Biên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã
sử dụng các phương pháp chuyên ngành như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá,
thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, …. Các phương pháp nghiên cứu này
đều nhằm hướng tới phân tích thực trạng của hoạt động quản lý tôn giáo ở huyện
Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
6. Đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt
động tôn giáo; đưa ra khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác QLNN đối
với hoạt động tôn giáo ở Điện Biên
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nhằm định hướng xây
dựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở
huyện Điện Biên và các huyện trong và ngoài tỉnh Điện Biên - có tình hình tôn giáo
tương tự với huyện Điện Biên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận
văn gồm 3 chương, 7 tiết.
11
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI
VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN,
TỈNH ĐIỆN BIÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
1.1.1. Khái niệm “công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”
Công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề quan trọng luôn
được ưu tiên trong hoạt động quản lý của nhà nước. Để hiểu rõ hơn về QLNN đối
với hoạt động tôn giáo, trước hết ta cần hiểu về các khái niệm.
 “Quản lý”: Nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về quản lý
dựa theo mục tiêu và góc độ nghiên cứu, tuy nhiên hiểu một cách đơn giản, quản lý
là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý thông qua các công cụ
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
 “Quản lý nhà nước" là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính
quyền lực của nhà nước để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ
nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, QLNN gồm 3
chức năng cơ bản là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp do các cơ quan Nhà nước
được phân công thực hiện. Theo nghĩa hẹp, QLNN là dạng quản lý xã hội mang
quyền lực Nhà nước để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo
quy định của pháp luật.
 “Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước
ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người, của những lực lượng
bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những
lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên trần thế” (tác
phẩm "Chống Đuyrinh") [2, Tr.437]. Trong tác phẩm của mình, C.Mac đã khẳng
12
định “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người”
[3, Tr.569]. Qua đó có thể thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người nên tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Tôn
giáo là sản phẩm của một xã hội con người, do đó tôn giáo là một hiện tượng xã hội.
Xét bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trước
những đau khổ, bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự bất lực của con người trước
sức mạnh của tự nhiên và xã hội.
Khoản 5, Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14), đã đưa ra
định nghĩa về tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống
quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ
chức.” Như vậy, khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh bao gồm: tôn giáo là đại diện
cho một cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ
thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá
chặt chẽ.
 “Hoạt động tôn giáo” theo Khoản 11 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn
giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”. Truyền bá tôn giáo (còn gọi là truyền đạo) là
việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Sinh hoạt tôn giáo
(còn gọi là hành đạo) là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý giáo luật, lễ
nghi tôn giáo. Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực
hiện quy định của giáo luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy
trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.
 “Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”: Từ các khái
niệm trên, khái niệm về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo cũng được hiểu
theo hai nghĩa. Nghĩa rộng: là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp,
Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để tác
động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ
chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của
chủ thể quản lý. Nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước; là
13
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá
trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn
ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là sự quản lý của nhà nước đối
với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo
luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của
các tôn giáo.
1.1.2. Khách thể và chủ thể của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều
hành, điều chỉnh của các cơ quan hành pháp để các hoạt động tôn giáo diễn ra theo
đúng quy định của pháp luật. Có thể thấy, QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao
gồm các yếu tố: đối tượng quản lý (khách thể quản lý), chủ thể quản lý.
Trước hết, đối tượng (khách thể) của QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao
gồm các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các cơ sở vật chất phục
vụ hoạt động tôn giáo như cơ sở tôn giáo, cơ sở vật chất khác và các đồ dùng phục
vụ hoạt động tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo, tại Khoản 12 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu
hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước
công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”. Tổ chức tôn giáo thường bao
gồm cơ cấu tổ chức (cơ quan quyền lực – giáo quyền) từ trung ương đến cơ sở, hệ
thống nơi thờ tự, tu viện, các trường đào tạo chức sắc, cùng với hội đoàn tôn giáo và
nguồn tài chính duy trì các hoạt động tôn giáo,…Việt Nam có nhiều tổ chức tôn
giáo khác nhau. Mỗi tôn giáo đều có hệ thống tổ chức bộ máy khác nhau. Hệ thống
tổ chức, bộ máy của tổ chức tôn giáo được quy định trong hiến chương, điều lệ, các
quy định của tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận.
Tín đồ tôn giáo, tại Khoản 6 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Tín đồ người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa
14
nhận”. Khi tham gia hoạt động tôn giáo, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành
các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ
hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo. Đồng thời, tín đồ
có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín
ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không
cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
theo đúng quy định của pháp luật.
Nhà tu hành, tại Khoản 7 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14: “Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện nếp sống
riêng theo giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức”.
Chức sắc, tại Khoản 8 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14:
“Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị
trong tổ chức”. Các chức sắc tôn giáo có sự thống nhất ba mặt: công dân, hành đạo
và đại diện. Về mặt công dân, là người chuyên việc đạo, bình đẳng trước pháp luật
về nghĩa vụ và quyền lợi như các công dân khác. Mặt hành đạo, được Giáo hội đào
tạo, tấn phong, bổ nhiệm giữ các phẩm trật khác nhau trong chức vị thánh và chức
vị phẩm quyền (tùy theo từng tôn giáo). Chức sắc tôn giáo có uy quyền khác nhau
tùy theo phẩm trật, năng lực hành đạo. Mặt đại diện, ở những mức độ khác nhau
cho tổ chức giáo hội trong mối quan hệ đối nội và trong quan hệ đạo – xã hội. Ba
mặt nói trên thống nhất trong con người chức sắc tôn giáo nhưng không đồng nhất;
mặt công dân là số một, các mặt khác là số hai, đặc biệt là mặt hành đạo. Ở Việt
Nam, quyền và nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo được quy định trong Luật tín
ngưỡng, tôn giáo mới nhất. Trong quan hệ với tín đồ họ là những người nắm bắt
tâm tư, nguyện vọng và có uy tín trong tín đồ tôn giáo. Trong quan hệ với Nhà nước
và các tổ chức khác đặc biệt là tổ chức tôn giáo nước ngoài, họ là người đại diện
cho tổ chức tôn giáo để giải quyết các công việc có liên quan đến tôn giáo.
“Cơ sở tôn giáo” tại Khoản 14 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số
02/2016/QH14 gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh nhất, thánh đường, trụ sở của
tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo. Cơ sở tôn giáo có sự
15
thống nhất giữa bốn mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt cộng đồng. Mặt
vật chất, đó là những địa điểm được xây dựng bằng vật liệu khác nhau, theo những
mô hình kiến trúc khác nhau, thể hiện niềm tin của từng tôn giáo. Mặt tôn nghiêm,
là nơi bái vọng, ngưỡng mộ, biểu hiện tình cảm và đức tin tôn giáo, nơi diễn ra
những nghi lễ tôn giáo quan trọng. Mặt trụ sở, là nơi diễn ra hoạt động hành chính
của đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi sinh hoạt
các hội đoàn tôn giáo…Trong các mặt trên, tôn nghiêm là mặt chi phối.
Cơ sở vật chất khác như khuôn viên (tạo nên cảnh quan kiến trúc văn hoá
môi trường), ruộng, đất, nhà chung, trường học, cơ sở từ thiện,... những cơ sở vật
chất kỹ thuật này có hai mặt cơ bản. Một mặt là tài sản của giáo hội, là nơi diễn ra
các hoạt động của tổ chức tôn giáo, của giáo hội cơ sở... Một mặt được Nhà nước
bảo hộ bằng cách cấp các văn bản mang giá trị pháp lý, được giáo hội giao trách
nhiệm quản lý hay giao quyền sử dụng các cơ sở thuộc quyền sở hữu của giáo hội.
Đồ dùng việc đạo bao gồm: kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ trống,…;
trong đó mỗi đồ dùng có vai trò, vị trí khác nhau tùy theo lễ nghi của từng tôn giáo.
Đồ dùng việc đạo có chung một đặc điểm là sự thống nhất và đồng nhất giữa tính
vật chất và tính biểu đạt. Mặt vật chất, các đồ dùng được tạo nên bởi các chất liệu
khác nhau dưới dạng vật chất cụ thể. Mặt biểu đạt, mỗi đồ dùng biểu đạt một nội
dung nào đó và cái được biểu đạt chỉ được hiện hữu khi đồ dùng được sử dụng vào
một nội hoạt động tôn giáo cụ thể theo một lễ nghi nào đó. Trong các đồ dùng việc
đạo thì kinh sách, tượng, bài vị là quan trọng nhất.
Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan
QLNN các cấp (chủ thể quản lý) nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng tín
ngưỡng, tôn giáo để đạt mục đích của chủ thể cầm quyền đặt ra.
Trong đó Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động tôn giáo, toàn quyền
quyết định các vấn đề có liên quan trên phạm vi cả nước. Chính phủ sử dụng quyền
hành pháp để thi hành pháp luật và chấp hành các Nghị quyết của Quốc hội, đồng
thời chủ động tham gia vào quá trình lập pháp về các vấn đề có liên quan đến tôn
giáo; sử dụng quyền lập quy để ra các văn bản dưới luật nhằm thực hiện và thống
16
nhất QLNN về các hoạt động tôn giáo. Các cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Tôn giáo
Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ có chức năng chính là QLNN về hoạt động tôn giáo
trong phạm vi cả nước, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác tôn giáo và
liên hệ với các tổ chức tôn giáo.
Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan chuyên môn
thuộc Sở Nội Vụ - UBND, chịu trách nhiệm trước UBND thực hiện chức năng
QLNN về các hoạt động tôn giáo theo pháp luật của Nhà nước trong phạm vi địa
phương. Ban Tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động
của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban
Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ.
Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo là cơ
quan chuyên môn, tham mưu, giúp UBND huyện QLNN về lĩnh vực công tác tôn
giáo trên địa bàn huyện, thành phố. Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản
lý công tác tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của
Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn
nghiệp vụ của Ban Tôn giáo tỉnh hoặc Sở có chức năng quản lý công tác tôn giáo.
Ở cấp độ của một luận văn Thạc sỹ, luận văn xin tập trung nghiên cứu
QLNN đối với hoạt động tôn giáo của cơ quan quản lý tôn giáo cấp huyện; cụ thể là
Phòng tôn giáo huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt
động tôn giáo
 Mục tiêu QLNN về hoạt động tôn giáo
Thứ nhất, QLNN đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo đảm được
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo
được diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tự do tín ngưỡng là một trong những quyền cơ bản
của con người. Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "1. Mọi người có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
17
ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật".
Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những mặt
tích cực của tôn giáo như tính hướng thiện, từ bi; khắc phục được những hạn chế,
tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội. Nhà nước tạo điều kiện cho tổ
chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng Nhà nước giải quyết những vấn đề của xã hội.
Tuy nhiên, trong QLNN về hoạt động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn
giáo thuần tuý với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ
nghĩa để đề ra những biện pháp quản lý phù hợp.
Thứ ba, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu
đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn
giáo, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu, đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào có tôn giáo
và không có tôn giáo luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng.
Thứ tư, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo tăng cường vai trò
của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo, góp phần phát triển văn
hóa, xã hội. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà
nước quản lý. Mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ theo quy định của Nhà
nước; các hành vi khiến tổ chức tôn giáo chống lại sự quản lý của nhà nước là bất
hợp pháp và bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.
 Nguyên tắc cơ bản trong QLNN đối với hoạt động tôn giáo
QLNN đối với hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm cho hoạt động tôn giáo
diễn ra bình thường trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung,
trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội.
QLNN về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau:
Một là, đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và pháp
luật. Đây là nguyên tắc thể chế dân chủ trong hoạt động của Nhà nước ta: Nhà nước
đảm bảo quyền tự do tôn giáo hay không tôn giáo của công dân và công dân (dù là
tín đồ tôn giáo hay không phải là tín đồ tôn giáo) bình đẳng trước pháp luật, được
18
hưởng quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Từ cơ sở này, tín
đồ được tự do hành đạo trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ công dân.
Hai là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Công dân có quyền theo hoặc không theo bất kì một tôn giáo nào. Tôn giáo là một
nhu cầu tinh thần của con người, không ai có quyền áp đặt hoặc tước bỏ nhu cầu đó.
Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn phải được đặt trong khuôn khổ của
luật pháp, của sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo không có bất kỳ cá nhân
hoặc tổ chức nào lợi dụng quyền này để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất
nước, kích động bạo lực, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công cộng…
Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị
văn hoá. Niềm tin tôn giáo được thể hiện thông qua sinh hoạt vật chất của con
người: lễ nghi, trang phục…; được thể hiện thông qua các công trình kiến trúc, kinh
sách…, đồng thời đó cũng là sản phẩm của văn hóa. Trải qua quá trình phát triển,
các giá trị này dần kết hợp, hòa quyện với các truyền thống dân tộc. Sự tồn tại của
tôn giáo là động lực cho sự phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, bên
cạnh những giá trị văn hoá đích thực vẫn còn những hiện tượng phản văn hoá trong
các tôn giáo, những hủ tục, mê tín dị đoan… Công tác quản lý của nhà nước đối với
hoạt động tôn giáo phải vừa giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa loại bỏ những hiện
tượng phản văn hoá trong sinh hoạt tôn giáo.
Bốn là, đảm bảo sự thống nhất, hài hoà lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi ích
quốc gia, xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tôn giáo của họ được nhà
nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ thực hiện những hành vi tôn giáo của
mình. Tuy nhiên,m đứng trước nhiều nhu cầu khác đòi hỏi tín đồ phải giải quyết hài
hoà, thoả đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã hội.
Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín
đồ phải được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân
dân được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
19
làm phương hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan
đều bị lên án và xử lý vi phạm theo luật định.
 Nội dung QLNN đối với tôn giáo
Nội dung của QLNN về hoạt động tôn giáo được xác định phù hợp với thẩm
quyền pháp lý của chủ thể quản lý (Chính phủ, cơ quan của Chính phủ, UBND các
cấp, ban chuyên môn của Chính phủ). Những nội dung dựa trên những quan điểm,
những qui định hiện hành của Đảng, Nhà nước về tôn giáo.
QLNN đối với hoạt động tôn giáo gồm nhiều công việc:
- Xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn thuộc lĩnh vực tôn giáo;
- Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo;
- Quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác
QLNN đối với hoạt động tôn giáo;
- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức làm công tác tôn giáo;
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về hoạt động tôn giáo;
Tất cả những công việc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt
công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo cần chú trọng thực hiện tốt các công
việc này.
Nội dung về QLNN đối với hoạt động tôn giáo gồm những lĩnh vực sau:
+ Về công nhận các pháp nhân tôn giáo;
+ Về quá trình xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự;
+ Về chương trình hoạt động thường xuyên và đột xuất;
+ Về quá trình đào tạo chức sắc;
+ Về quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo;
+ Về một số việc thuộc hành chính đạo;
+ Vềcác hoạt động từ thiện –xã hội;
20
+ Xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi phạm chính sách
tôn giáo;
+ Xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo;
+ Đấu tranh chống lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo;
Những nội dung quản lý trên mang tính phổ quát ở mọi nơi, song từng thời
gian nội dung nào là trọng tâm, trọng điểm cần được dự báo (có kế hoạch) để áp
dụng biện pháp quản lý thích hợp, chủ động và có hiệu quả.
1.2. Tôn giáo ở huyện Điện Biên
1.2.1. Khái quát chung về huyện Điện Biên
Huyện Điện Biên là huyện miền núi, biên giới nằm ở phía Tây – Nam tỉnh
Điện Biên với diện tích tự nhiên 163972,84 ha; gồm 25 đơn vị hành chính cấp xã
(trong đó có 12 xã biên giới), 465 thôn bản, dân số trên 119.000 người; có 08 dân
tộc (trong đó: Dân tộc Thái 52,89%, dân tộc Kinh 27,03%, dân tộc Mông 9,96%,
dân tộc Khơ Mú 5,58%, dân tộc Lào 2,84%, các dân tộc khác 1,78%). Huyện Điện
Biên có 171,202 km đường biên giới Quốc gia với 61 mốc biên giới, tiếp giáp với
huyện Phôn Thoong, tỉnh Luông Pha Băng và huyện Mường Mày, tỉnh Phông Sa Lỳ
(Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào); có 02 cửa khẩu (Cửa khẩu Quốc Tây
Trang, Cửa khẩu chính Huổi Puốc) và nhiều đường tiểu ngạch sang Lào.
Đảng bộ huyện có 68 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc (28 đảng bộ, 40 chi bộ);
563 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy; tính đến ngày 31-5-2019, Đảng bộ huyện có
6.646 đảng viên.
Trong những năm qua, huyện Điện Biên tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ
đạo, hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội đã được huyện triển khai hiệu quả. Kinh tế của huyện tiếp tục tăng
trưởng theo hướng bền vững, văn hóa – xã hội từng bước phát triển, đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc được nâng lên, nông thôn có nhiều thay
đổi mới; an ninh chính trị ổn định, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững;
quan hệ đối ngoại được tăng cường mở rộng. Cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ
21
sở đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với các hoạt động tôn giáo, lắng nghe,
tiếp nhận ý kiến từ người dân theo đạo, quan tâm xử lý và theo dõi tình hình tôn
giáo một cách thường xuyên liên tục. Nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của đồng
bào các dân tộc trong huyện Điện Biên cũng từng bước được nâng lên. Kết cấu hạ
tầng khu vực nông thôn, vùng dân tộc phát triển nhanh, bước đầu đáp ứng phát triển
sản xuất và phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần xóa đói giảm
nghèo trên địa bàn huyện. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã có những bước
trưởng thành, bước đầu tham gia vào công tác lãnh đạo quản lý, đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số và khu vực biên giới cơ bản ổn định, giữ vững được mối quan hệ hữu nghị
truyền thống giữa nhân dân khu vực biên giới Việt - Lào. Các cấp, các ngành, các tổ
chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân đã phối hợp chặt chẽ trong công tác
đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; góp phần đấu tranh ngăn chặn hoạt
động lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái pháp luật, ngăn chặn di dân tự do, giải
quyết kịp thời các vụ tranh chấp, khiếu kiện. Công tác tuyên truyền, vận động nhân
dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước và tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng được đẩy
mạnh và tăng cường.
Hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Công tác phát triển
đảng viên ở vùng đặc biệt khó khăn, các dân tộc ít người được quan tâm, chú trọng
hơn. Công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện có hiệu
quả. Đội ngũ người có uy tín, cốt cán trong tôn giáo phát huy được vai trò trong
việc tuyên truyền chính sách, nắm bắt tâm tư nguyện vọng, giải quyết những mâu
thuẫn phát sinh trong đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện tại, cán bộ lãnh đạo là người
dân tộc chiếm 52,6%.
Công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội vùng đồng bào dân
tộc thiểu số được quan tâm. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững
tiếp tục đạt được kết quả tích cực. Các chính sách hỗ trợ sản xuất, khuyến nông,
22
khuyến lâm được thực hiện đồng bộ, nhiều mô hình, tổ hợp sản xuất đã ứng dụng
khoa học kỹ thuật đạt hiệu quả. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm xuống còn
15,73% (năm 2010 là 33,8%); 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, 100% số xã có
điện, hơn 90% hộ được dùng điện, 100% xã đặc biệt khó khăn có trường trung học
cơ sở, tiểu học, nhà mẫu giáo, lớp bán trú dân nuôi và trạm y tế.
Song, việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở
huyện Điện Biên còn nhiều vướng mắc. Do điều kiện kinh tế, xã hội kém phát triển,
trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên việc phổ
cập kỹ thuật kinh tế, nuôi trồng từ đó nâng cao đời sống nhân dân rất khó khăn.
Bên cạnh đó, do huyện Điện Biên là một huyện vùng núi, biên giới, nhiều
dân tộc, địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đồng bộ, đời sống và việc
làm của một số bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu,
vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện còn cao (tính
đến tháng 6/2019 vẫn còn khoảng 15,95% hộ nghèo). Chính vì vậy, thời gian qua,
tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn
những nhân tố phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá về nhiều mặt.
1.2.2. Tình hình tôn giáo ở huyện Điện Biên
Trước năm 1987, đại đa số đồng bào theo tín ngưỡng dân gian, phổ biến nhất
là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ anh hùng dân tộc. Đến năm 1987, các thế lực
thù địch và phần tử xấu muốn lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên
truyền mê tín dị đoan, phát triển đạo lạ và chống phá chính quyền. Một bộ phận
đồng bào dân tộc ít người, chủ yếu là dân tộc Mông, dân tộc Thái bị lôi kéo làm cho
đời sống của đồng bào thêm khó khăn, gây nên phức tạp về an ninh trật tự ở địa
phương. Năm 1990, nhờ công tác tuyên truyền, vận động của cấp uỷ, chính quyền
và các tổ chức đoàn thể, một bộ phận quần chúng cũng thấy được tính hoang đường
của một số luận điệu.
Quá trình hội nhập và phát triển những năm gần đây, một bộ phận đồng bào
đã tin theo một số tôn giáo như Tin Lành, Công Giáo, Phật Giáo,…. Và một số ít
23
người bị ảnh hưởng hiện tượng tôn giáo mới như Tâm linh Hồ Chí Minh, Pháp luân
công, Hội thánh đức chúa trời,... Tuy nhiên, do nhận thức của đồng bào còn hạn
chế, vì vậy, việc sinh hoạt tôn giáo không ổn định, tự phát, khó xác định.
Thông qua các buổi tụ tập trái phép, một số đối tượng đã đe doạ những người
không theo tôn giáo của chúng. Ở một số nơi, chúng đã công khai dụ dỗ, lôi kéo cán
bộ xã, hứa hẹn giúp đỡ khi gặp khó khăn, lôi kéo, kích động, khống chế quần
chúng. Bên cạnh ý đồ xây dựng nhà nguyện; chúng còn viết đơn gửi chính quyền
đòi được tự do theo đạo, tự do cầu nguyện nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Việc
tuyên truyền phát triển đạo lạ đã kéo theo vấn đề di dân tự do để hoạt động tôn giáo.
Việc theo tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo của người dân có đạo ở huyện Điên
Biên chủ yếu mang tính tự phát; trước đây hoàn toàn bí mật, lén lút, người dân theo
tôn giáo tránh tiếp túc với cán bộ. Đến khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004 (được Chủ tịch
nước Trần Đức Lương ký ngày 29/6/2004 thì tình hình sinh hoạt tôn giáo nhìn
chung diễn ra bình thường, công khai.
Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật còn tiềm ẩn diễn biến
phức tạp, đặc biệt là khu vực biên giới. Số người theo tôn giáo ở huyện Điện Biên
chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông; song, phần lớn trình độ dân trí của trưởng điểm
nhóm và đồng bào Mông theo đạo còn hạn chế, chưa hiểu được giáo lý, giáo luật, lễ
nghi cơ bản của các tôn giáo. Do vậy, việc hành đạo chủ yếu tự phát, sinh hoạt
không ổn định; việc theo đạo, nội dung sinh hoạt đạo…phụ thuộc phần lớn vào
trưởng điểm nhóm. Một bộ phận nhân dân theo đạo ở vùng biên giới còn nhận thức
mơ hồ, không phân biệt rõ giữa sinh hoạt tôn giáo thuần túy với việc lợi dụng tôn
giáo để tuyên truyền đạo trái pháp luật, do vậy dễ bị lôi kéo, kích động.
Tính đến ngày 30/6/2008 trên địa bàn huyện Điện Biên có 202 hộ; 1117 khẩu
ở 10 xã hoạt động tôn giáo lạ. Các tổ nhóm trên đều hoạt động bán công khai tại gia
hoặc tụ tập tại một chỗ cầu nguyện để tuyên truyền đạo. Tuy nhiên, chưa có cơ sở
nào công khai chống phá chính quyền địa phương, khi có cán bộ hoặc người lạ
ngoài bản đến thì nhóm người này tự giải tán.
24
Đến năm 2009, các dân tộc và các tín đồ tôn giáo đa số tin tưởng vào chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đoàn kết hăng hái tăng gia sản xuất,
góp phần vào việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của xã và
huyện. Tuy nhiên, từ khi Đoàn tự do các vấn đề về tôn giáo của Hợp chủng quốc
Hoa kỳ (Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế) đến làm việc ở một số điểm có
hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên (như xã Nong Luống) (năm 2009),
trong những năm sau đó số lượng tín đồ tăng lên nhanh chóng và khó kiểm soát
[36].
Năm 2018, những người theo đạo trên địa bàn huyện, chủ yếu theo 2 tôn giáo
là Tin Lành và Công giáo. Tổng các xã thuộc huyện có người theo đạo là 22/25 xã,
với 116 thôn (bản), 656 hộ, 3278 người. Về thành phần dân tộc theo đạo gồm 3 dân
tộc: Mông, Thái, Kinh (trong đó chủ yếu là dân tộc Mông) [47].
a. Tình hình đạo Tin Lành
Đạo Tin Lành bắt đầu xuất hiện trên địa bàn huyện Điện Biên từ năm 1987,
khi một số thế lực thù địch muốn lợi dụng tôn giáo để gây mất trật tự xã hội. Ban
đầu chúng muốn lợi dụng Công giáo, nhưng các đối tượng đứng đầu đã nhận thấy
giáo lý của đạo này phức tạp, kinh sách không đến được với dân, có một số điểm
không phù hợp với phong tục tập quán của người Mông; theo Công giáo phải có
nhà thờ. Do đó, một số phần tử cầm đầu một số điểm nhóm tại huyện Điện Biên đã
tìm đến với Hội thánh Tin lành miền Bắc ở số 2 - Ngõ Trạm - Hà Nội. Bắt đầu từ
năm 1993, chúng đã lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành trái
phép. Khi về địa phương, số đối tượng này hoạt động rất tích cực làm cho tình hình
ngày càng phức tạp hơn. Phạm vi ảnh hưởng của chúng ngày càng lan rộng, số xã,
số hộ và số người theo đạo ngày càng gia tăng. Không chỉ dừng lại ở dân tộc Mông
mà đã lây lan, ảnh hưởng tới một bộ phận đồng bào dân tộc Thái. Các đối tượng đã
tìm mọi cách liên hệ với các tổ chức tôn giáo ở trong và ngoài nước để gây thanh
thế, tạo ảnh hưởng, tranh thủ sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Chúng thường
xuyên liên hệ với Tổng hội thánh Tin Lành (cả ở miền Bắc và miền Nam) để học
25
cách truyền đạo, xin tài liệu và mẫu đơn phát cho các hộ, tuyên truyền, hướng dẫn
người dân xin theo đạo Tin Lành.
Nhờ sự quan tâm, tuyên truyền của của chính quyền, đặc biệt khi có Chỉ thị
số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 4/2/2005 về Một số công tác đối
với đạo Tin Lành thì các tín đồ của đạo Tin Lành mới công khai hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật.
Tính đến thời điểm hiện tại, đạo Tinh Lành tại địa phương chưa có có cơ sở
thờ tự, tín đồ của đạo Tin Lành thường sinh hoạt tập trung tại nhà trưởng nhóm ở
các điểm nhóm; một tuần sinh hoạt 2 lần vào tối thứ 5 và sáng chủ nhật; nội dung
sinh hoạt gồm hát thánh ca, tổ chức cầu nguyện, đọc kinh thánh bằng tiếng Mông
La tinh, cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh và ban phước lành,…
Phần lớn tín đồ theo đạo Tin Lành chủ yếu là dân tộc Mông, một số ít là dân
tộc Thái. Các tín đồ theo đạo Tin lành chiếm số đông là đồng bào dân tộc thiểu số,
tập trung tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn;
trình độ dân trí thấp do mới theo đạo nên sự am hiểu về giáo lý, giáo luật, nghi lễ
còn rất hạn chế.
Đạo Tin Lành được chia thành 6 hệ phái bao gồm: Hội thánh Tin lành Việt
Nam miền Bắc; Hội thánh Liên đoàn truyền giáo phúc âm (Lê Minh Đức); Hội
thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam; Hội thánh Cơ đốc phục lâm; Hội thánh Tin lành
Giám lý Liên hiệp Việt Nam; Hội thánh Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam.
Đạo Tin Lành tại huyện Điện Biên từ năm 2008 đến năm 2018 có sự gia tăng
về số lượng qua các năm. Năm 2009, số lượng tín đồ tôn giáo tăng mạnh và khó
kiểm soát do có Đoàn tự do các vấn đề về tôn giáo của Hợp chủng quốc Hoa kỳ đến
làm việc ở một số điểm có hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Các điểm
nhóm hầu hết đã hoạt động công khai và chưa phát sinh các mẫu thuẫn hay chống
phá chính quyền nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội. Trước năm 2015, tất cả các điểm nhóm đều chưa đăng ký cấp phép sinh
hoạt. Sau thời gian rà soát, thẩm định, năm 2017 mới có có 2/11 cơ sở được đăng ký
sinh hoạt, năm 2018 có 11/22 điểm nhóm được đăng ký sinh hoạt.
26
Bảng 1.1. Tình hình đạo Tin Lành qua các năm
Năm
Số xã
có
người
theo
đạo
Số
bản có
người
theo
đạo
Số hộ
có
người
theo
đạo
Số
người
theo
đạo
Số
điểm
nhóm
Thành phần dân tộc
Kinh Mông Thái
2008 6 15 163 856 12 821 35
2009 7 18 221 1381 12 1346 35
2010 7 18 221 1382 13 1347 35
2011 8 19 300 1816 15 1781 35
2012 8 20 303 1890 15 1850 40
2013 9 21 310 1935 15 1890 45
2014 9 21 310 1935 15 1890 45
2015 10 38 369 2120 19 1 2074 45
2016 10 29 390 2235 19 1 2139 45
2017 12 39 466 2701 21 1 2656 50
2018 12 37 475 2758 22 1 2665 93
b. Công giáo
Giống như Tin Lành, từ những năm 1990, một số đối tượng muốn lợi dụng
Công giáo để tuyên truyền và chống phá chính quyền. Ban đầu, chúng tìm cách liên
hệ với một số nhà thờ Công giáo ở Yên Bái, Sơn Tây, Hà Nội.... Được các linh mục
Công giáo giảng giáo lý, lễ nghi, cách hành đạo, cung cấp kinh sách và hướng dẫn
kinh nghiệm tuyên truyền; chúng đã tuyên truyền tại huyện Điện Biên rằng "theo
Công giáo là quyền tự do tín ngưỡng, được Nhà nước cho phép, có sách dạy, có
người hướng dẫn, đã có nhiều nhà thờ lớn ở Hà Nội và các tỉnh trong cả nước...".
Sau một thời gian tuyên truyền phát triển Công giáo trái phép, các đối tượng đứng
đầu các điểm nhóm Tin Lành đã nhận thấy giáo lý của đạo này phức tạp, kinh sách
không đến được với dân, có một số điểm không phù hợp với phong tục tập quán của
người Mông; theo Công giáo phải có nhà thờ, có linh mục nên việc lợi dụng Công
giáo của các đối tượng xấu không thành.
Sau đó, Công giáo chính thức được du nhập vào huyện Điện Biên bởi những
các tín đồ theo Công giáo chủ yếu là người dân tộc Kinh, có nguồn gốc từ các tỉnh
đồng bằng lên xây dựng vùng kinh tế mới hoặc theo gia đình lên làm ăn sinh sống
tại Điện Biên trong một vài năm trở lại đây. Các tín đồ theo Công giáo giáo trên địa
27
bàn chiếm số lượng ít, trình độ dân trí tương đối cao, có am hiểu giáo lý, giáo luật,
đã có thời gian sinh hoạt nhất định.
Bảng 1.2. Tình hình Công giáo qua các năm
Năm
Số xã
có
người
theo
đạo
Số bản
có
người
theo
đạo
Số hộ
có
người
theo
đạo
Số
người
theo
đạo
Số
điểm
nhóm
Thành
phần
dân
tộc
Kinh
2008 4 7 16 24 0 24
2009 4 7 39 190 0 190
2010 4 9 39 190 1 190
2011 4 12 39 190 1 190
2012 4 12 20 95 1 95
2013 4 15 32 88 1 88
2014 4 12 18 55 1 55
2015 4 12 18 46 1 46
2016 4 15 21 50 1 50
2017 4 12 15 99 1 99
2018 4 12 15 99 1 99
Số lượng tín đồ Công giáo có sự biến đổi liên tục qua các năm do chủ yếu họ
là người Kinh lên xây dựng vùng kinh tế mới. Sau đó, một số di dân sang địa
phương khác, một số trở về quê hương dẫn đến sự biến động liên tục về số lượng tín
đồ Công giáo.
Khi mới du nhập vào huyện Điện Biên, Công giáo chủ yếu được hoạt động
phạm vi gia đình, các gia đình theo Công giáo thờ cúng, đọc kinh thánh,… tại gia
đình. Từ năm 2010, một số tín đồ Công giáo mới tập trung thành một điểm nhóm
sinh hoạt tập trung. Hoạt động tôn giáo diễn ra hàng tuần vào thứ 7 và chủ nhật, họ
tập trung đọc kinh thánh, cầu nguyện sám hối,… Ngoài ra, các tín đồ Công giáo
cũng tổ chức hoạt động vào các ngày lễ lớn của Công giáo.
Tuy nhiên, tại địa bàn huyện Điện Biên chưa có nhà thờ của Công giáo.
c. Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo mới du nhập vào địa bàn huyện từ năm 2006 nhưng
hoạt động không công khai. Giống như Công giáo, các tín đồ Phật giáo chủ yếu là
người dân tộc Kinh từ các tỉnh đồng bằng lên sinh sống và tiếp tục hoạt động tôn
28
giáo. Các tín đồ Phật giáo cũng chủ yếu hoạt động tại gia dưới hình thức tụng kinh
niệm Phật, ăn chay,… Số liệu về Phật giáo chưa được thống kê đầy đủ như Công
giáo và Tin Lành. Số liệu năm 2018 có 112 hộ, 308 người theo Phật giáo [49].
Khi du nhập vào địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói
riêng, cho đến nay, Phật giáo đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng khối đại đoàn
kết dân tộc, hỗ trợ chính quyền trong nhiều công việc xã hội, vận động quần chúng,
nhất là tham gia tích cực trong các hoạt động từ thiện, phúc lợi (khám chữa bệnh
miễn phí cho người nghèo, tặng các suất quà cho gia đình khó khăn, ủng hộ kinh
phí làm đường,…)
Du nhập vào đời sống nhân dân tuy mới mẻ, và là một tôn giáo lớn nhưng
Phật giáo tại tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng lại rất ôn hòa
với phong tục tập quán của nhân dân, nhất là các dân tộc ít người. Điều này khiến
cho nhân dân cảm thấy Phật giáo rất gần gũi với đời sống của họ, Trong các nghi
thức Phật giáo hàng năm tổ chức tại hai chùa Linh Sơn (xã Thanh Luông) và Linh
Quang (xã Thanh Nưa) đều nhận được sự quan tâm và ủng hộ từ phía đông đảo
người dân địa phương. Đó chính là sự phản ánh thành công của Phật giáo tại huyện
Điện Biên khi mới chỉ xuất hiện trong đời sống tinh thần của người dân.
Tuy xuất hiện sau nhưng đến nay Phật có 03 cơ sở thờ tự là Khu tưởng niệm
các anh hùng liệt sỹ đồi Tông Khao và xây dựng 2 chùa là chùa Linh Quang (xã
Thanh Nưa) và chùa Linh Sơn (xã Thanh Luông) (xây dựng năm 2014) [41], đây là
2 ngôi chùa duy nhất của tỉnh Điện Biên, trực thuộc trên địa bàn huyện Điện Biên,
nơi tổ chức tôn giáo khi xây dựng đã làm đầy đủ các thủ tục pháp lý. Từ khi có cơ
sở thờ tự, các tín đồ Phật giáo tổ chức các hoạt động tại đây vào ngày mồng một,
ngày rằm hàng tháng và các ngày lễ khác của Phật giáo.
d. Một số hiện tượng tôn giáo mới
Ngoài các tôn giáo đã biết như Tin Lành, Công giáo, Phật Giáo; còn có một
số ít người bị ảnh hưởng bởi hiện tượng mang tính chất tôn giáo mới như Tâm linh
Hồ Chí Minh, Pháp Luân Công, Hội thánh Đức Chúa Trời,..
29
Tâm linh Hồ Chí Minh là một hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện từ năm
2011, các tín đồ chủ yếu là dân tộc Kinh. Sự xâm nhập chủ yếu của dòng “Đạo lạ”
vào huyện Điện Biên, xuất phát từ những người tự cho là được Người cõi âm về báo
mộng. Sau đó đi về các nhà chùa ở miền xuôi mua kinh sách hoạc băng đĩa về học
ca theo và sau đó tiếp tục được sao chép lại cho những người có tư tưởng mê tín, dị
đoan, những người hay ốm yếu, gặp bất chắc trong việc làm ăn mua bán và trong
cuộc sống đời thường….Cách thức hoạt động chủ yếu của Tâm linh Hồ Chí Minh
không theo quy luật. Lúc thì tại gia, lúc thì tập trung tại một điểm (Nhà thầy) để
thắp hương dâng lễ và ca theo băng, đĩa. Khi tham gia, các tín đồ bắt buộc phải có
lễ, mỗi tháng hai lần phải chi phí cho việc mua sắm lễ, nên ít nhiều ảnh hưởng đến
kinh tế gia đình, đặc biệt là các đối tượng ở nông thôn; Hai là tạo tâm lý hoang
mang, hoài nghi cho người dân và ảnh hưởng đến an ninh trật tự khu vực. Số lượng
tín đồ gồm 25 hộ với 94 người, tại 09 thôn, bản [49].
Pháp luân công là hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện năm 2017. Ban đầu,
các đối tượng lên phát hành sách hướng dẫn tuyên truyền Pháp luân công là gì. Sau
khi UBND gửi văn bản nhắc nhở và thu hồi sách vì chưa xin phép thì những người
theo Pháp luân công chỉ dừng lại ở việc tập thiền và 5h chiều hàng hàng. Số lượng
tín đồ năm 2018 là 8 hộ, 8 người [47,tr.2].
Hội thánh Đức Chúa trời bắt đầu xuất hiện tại huyện Điện Biên từ năm
2016 nhưng thực sự gây ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người dân địa phương từ
năm 2018. Một nhóm đối tượng tự xưng là thành viên Hội thánh đã tiếp tục lôi kéo,
dụ dỗ nhiều đối tượng tham gia dưới nhiều hình thức, gây dư luận không tốt trong
xã hội với nội dung tuyên truyền gây hoang mang trong nhân dân, hành vi xúi giục,
kích động tín đồ ứng xử không hiếu kính với cha mẹ, đập phá bàn thờ tổ tiên gia
đình, tuyên tuyền người thân là ma quỷ. Khi tham gia, tín đồ được uống “nước
thánh”, không thờ cúng tổ tiên và phải nộp 1/10 thu nhập. Tính đến năm 2018, vẫn
còn 11 hộ với 11 người đã tin và theo Hội thánh [48].
Các tôn giáo mới xuất hiện thường hoạt động truyền đạo lén lút, không có
đăng ký với chính quyền. Đặc biệt, gần đây là Pháp luân công, không có báo cáo
30
hay đăng ký với chính quyền, hình thức truyền đạo là truyền miệng, phát tán băng,
đĩa, in ấn sách một cách rất bài bản, nhưng các tôn giáo này cũng rất khó lấy lòng
dân, vì tập quán, văn hóa của nhân dân huyện Điện Biên đa số là người dân tộc.
1.2.3. Đặc điểm tôn giáo ở huyện Điện Biên
Thứ nhất, các tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên đều là những tôn giáo
ngoại nhập.
Trước đây, trên địa bàn huyện Điện Biên vốn không có tôn giáo, các tôn giáo
lớn ở Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành,…cũng không tìm thấy bóng
dáng ở mảnh đất này. Đa số người dân chỉ thờ cúng tổ tiên. Sau này, một bộ phận
nhân dân di cư từ miền xuôi lên Điện Biên xây dựng kinh tế mới đã mang theo tín
ngưỡng của họ như tín ngưỡng thờ mẫu, bổ sung thêm vào hình thức tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên truyền thống của người dân ở huyện Điện Biên. Do người dân chủ yếu
tin theo các loại hình tín ngưỡng nên chưa có nhu cầu xin lập cơ sở thờ tự mà
thường thực hành nghi thức trong gia đình. Trước năm 1987 trên địa bàn huyện
Điện Biên không có hoạt động tôn giáo, không có cơ sở thờ tự (chùa chiền, nhà thờ,
nhà nguyện,…). Bắt đầu từ năm 1987, các tôn giáo lần lượt du nhập vào huyện Điện
Biện. Sớm nhất là Công giáo và Tin lành bắt đầu truyền đạo ở trên địa bàn huyện
Điện Biên từ năm 1987. Đến năm 2014, Phật giáo mới du nhập vào huyện Điện
Biên. Các hiện tượng tôn giáo mới cũng lần lượt xuất hiện trong những thời điểm
khác nhau. Tất cả các tôn giáo ở huyện Điện Biên đều được du nhập từ bên ngoài
vào chứ không có tôn giáo bản địa được nảy sinh từ chính Điện Biên.
Thứ hai, các tôn giáo khi du nhập vào huyện Điện Biên cùng chung sống ôn
hòa, không xảy ra mâu thuẫn hay tranh chấp giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo du
nhập với tín ngưỡng bản địa vốn có của người dân có sự dung hợp, đan xen nhau
chứ không có sự kỳ thị, hoặc khó thích ứng.
Mặc dù Công giáo và Tin lành là hai tôn giáo du nhập vào địa bàn tỉnh Điện
Biên cũng như huyện Điện Biên trước Phật giáo hay tín ngưỡng thờ mẫu,… nhưng
giữa các tôn giáo, tín ngưỡng này chưa từng xảy ra xung đột. Kể từ khi Giáo hội
Phật giáo Việt Nam tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Ban trị sự Giáo hội
31
Phật giáo Việt Nam tỉnh Điện Biên vào ngày 25 tháng 04 năm 2014 cho đến thời
điểm hiện tại thì không xảy ra mâu thuẫn với Công giáo, Tin lành hay bất kỳ tôn
giáo nào khác đang hoạt động trên địa bàn huyện Điện Biên, đó là một bằng chứng
điển hình cho sự ôn hòa giữa các tôn giáo du nhập vào địa bàn. Cho đến hiện nay,
các phong tục tập quán của từng dân tộc sống trên địa bàn huyện vẫn được giữ gìn
và phát huy như múa xòe, ném còn thường tổ chức vào các ngày lễ tết, ngày hội của
dân tộc Thái, các thủ tục nghi lễ truyền thống cổ truyền của các cụ để lại vẫn được
các thế hệ hậu duệ giữ gìn và phát huy như hàng năm sau mùa thu hoạch dân tộc
Thái cúng “Cơm mới” tại các gia đình, cúng bản “Sên Bản” mỗi năm một lần hoặc
ba năm một lần tập trung cả bản, cúng chém dê cho những người bị ốm. Các làng
nghề truyền thống cũng được tái hiện và giữ gìn đời trước truyền cho đời sau như
làng nghề “ Dệt thổ cẩm”, làng nghề “Đan lát”. Việc duy trì nơi sinh hoạt tập trung
của bản cũng được quan tâm đầu tư xây dựng “ Nhà văn hóa bản”. Các dân tộc khác
cũng duy trì các tập tục theo cách riêng của mình, mục đích là cầu mong mưa thuận,
gió hòa, mùa màng bội thu, chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng sinh sôi nảy nở,
con người mạnh khỏe, làm ăn gặp nhiều điều tốt, điều lành. Bất kỳ tôn giáo du nhập
nào khi vào địa bàn huyện Điện Biên đều chấp nhận nhữngvăn hóa mang bản sắc
riêng của từng dân tộc, những tín ngưỡng vốn có từ trước và mang đậm chất dân tộc
riêng, chưa từng có chuyện tôn giáo du nhập bắt buộc người theo tôn giáo đó phải
từ bỏ văn hóa, tín ngưỡng của địa phương vốn có từ trước.
Thứ ba, các hiện tượng tôn giáo mới, trong đó có một số loại là cực đoan,
phản văn hóa, được gọi là các loại hình đạo lạ khi truyền bá lén lút vào nhân dân
trên địa bàn huyện Điện Biên, chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế còn khó
khăn, vùng sâu, vùng xa nơi người dân có cuộc sống khó khăn, dân trí thấp.
Từ năm 1987 đến nay các thế lực thù địch và phần tử xấu đã lợi dụng trình
độ dân trí, quyền tự do tín ngưỡng và những khó khăn của đồng bào để tuyên truyền
mê tín dị đoan, phát triển đạo lạ vào một bộ phận đồng bào dân tộc ít người, chủ
yếu là dân tộc Mông, Thái. Ví dụ trên địa bàn huyện Điện Biên các hoạt động tuyên
truyền đạo lạ trái phép đã từng có và vẫn diễn ra ở xã Mường Nhà, xã Mường Pồn,
32
xã Nà Tấu, xã Nà Nhạn, xã Noong Luống,… Đây đều là những xã có lượng đồng
bào dân tộc lớn kèm theo khó khăn về kinh tế và là những nơi có địa bàn phân bố
dân cư thưa thớt, trình độ dân trí còn thấp. Các hành vi tuyên truyền đạo lạ hoặc trái
phép ở những địa bàn xa xôi, kinh tế khó khăn này lại diễn ra lén lút, khi có cán bộ
hoặc người lạ ngoài bản đến thì nhóm người này tự động giải tán, khi cán bộ hoặc
người lạ đi thì lại tụ tập, hoạt động. Chiêu bài tuyên truyền của các đối tượng đó là
nhằm vào đời sống kinh tế khó khăn, tình trạng dân trí thấp, sự mê tín, phong tục
tập quán lạc hậu của người dân và lợi dụng thêm cả những thiên tai gây hậu quả lớn
thường gặp ở vùng sâu, vùng xa để làm cơ sở lấy lòng tin của người dân ở những
địa bàn này.
Thứ tư, vì huyện Điện Biên có nhiều dân tộc cùng sinh sống, tôn giáo khi du
nhập vào kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo ra rất nhiều nét mới trong từng bộ phận
dân tộc khác nhau cũng như sự đổi mới ở các tôn giáo du nhập này. Đặc điểm này
trên địa bàn huyện Điện Biên đã hình thành từ lâu, kể từ khi Công giáo, Tin lành,
Phật giáo, … du nhập vào Điện Biên. Đây là điều chắc chắn xảy ra, tuy sẽ tạo ra sự
phức tạp hơn nhưng là điều có thể dự báo. Xuất phát từ đặc điểm này, yêu cầu quản
lý đối với hoạt động tôn giáo phải được đề cao vì nếu quản lý không phù hợp dễ tạo
mất niềm tin, xung đột với tín đồ,…
Tiểu kết chương 1
Chương 1 đã làm rõ những khái niệm liên quan đến QLNN đối với hoạt động
tôn giáo, bao gồm các khái niệm về quản lý, QLNN, QLNN đối với hoạt động tôn
giáo. Từ đó chỉ ra khách thể và chủ thể, mục đích, nguyên tắc, nội dung của quá
trình QLNN đối với hoạt động tôn giáo.
Đồng thời, chương 1 đã giới thiệu về huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên thông
qua vị trí địa lý , điều kiện tự nhiên, các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội. Chương
này cũng đã khái quát tình hình, đặc điểm tôn giáo của huyện. Nhận thấy huyện
không có nhiều tôn giáo, trong đó có ba tôn giáo chính đã được nhà nước công nhận
là Tin Lành, Công giáo và Phật giáo. Nêu lên đặc điểm cơ bản của tôn giáo ở huyện
Điện Biên như các tôn giáo tại huyện Điện Biên đều là tôn giáo ngoại nhập; khi du
33
nhập vào địa phương, các tôn giáo sống hòa thuận với nhau, nhưng cũng tồn tại
những mặt trái cần các cấp quản lý chú ý như các cá nhân lợi dụng tôn giáo để gây
mất trật tự an ninh hoặc sự xuất hiện của một số hiện tượng tôn giáo mới.
Những nội dung trên là cơ sở quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá thực
trạng công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo được trình bày ở chương sau.
34
Chương 2
CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN – THỰC
TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở
huyện Điện Biên
Kể từ sau Đại hội VI năm 1986, cùng với những thành tựu to lớn mà đất
nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, kinh tế trên địa bàn huyện Điện Biên đạt
tốc độ tăng trưởng ngày càng tốt hơn. Đặc biệt, kể từ sau năm 1990 (đánh dấu đổi
mới trong lĩnh vực tôn giáo bằng Nghị quyết số 24 – NQ/TW của Đảng), kinh tế ở
các địa bàn có tín đồ, hoạt động tôn giáo đã ngày càng phát triển, cải thiện tốt hơn
đời sống vật chất của nhân dân, góp phần củng cố tinh thần cho đồng bào có đạo.
Đời sống văn hóa của nhân dân huyện Điện Biên từng bước được nâng lên.
Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng nhân ái, nghĩa tình,
giúp đỡ người nghèo, năng động sáng tạo được chú trọng phát huy… Các chương
trình an sinh và công tác xã hội đạt nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng. Những
phong tục, lễ nghi, lễ hội của các dân tộc đồng bào ở huyện Điện Biên được giữ gìn
và tổ chức định kỳ, phong phú và đầy đủ.
Huyện Điện Biên giữ vững ổn định chính trị , bảo đảm trật tự xã hội, khối
đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đã
có nhiều hoạt động phong phú, góp phần xây dựng quê hương đất nước (như các
chương trình từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội của Phật giáo, Công giáo năm 2017
và 2018 tại địa bàn huyện Điện Biên).
Bên cạnh đó, các chỉ thị, chủ trương, chính sách về tôn giáo ngày càng cởi
mở: Chỉ thị 37- CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong
tình hình mới, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999của Chính phủ về các
hoạt động tôn giáo, các Thông tư của Ban Tôn giáo Chính phủ, đặc biệt Thông tư
bổ sung sửa đổi Thông tư số 01/1999/TT/TGCP của Ban Tôn giáo Chính phủ:
Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định của Chính phủ số
35
26/1999/NĐ-CP của Ban Tôn giáo Chính phủ đã có tác dụng tốt, giúp công tác
QLNN về hoạt động tôn giáo đạt hiệu quả cao hơn. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo được chức sắc và tín
đồ các tôn giáo tiếp nhận với thái độ phấn khởi và tin tưởng hơn. Sự kiện lớn trong
năm 2004 là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ủy ban thường vụ Quốc hội thông
qua ngày 18/6/2004, được Chủ tịch nước ký lệnh ban hành vào ngày 29 tháng 6 và
Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2004. Pháp lệnh tín
ngưỡng, tôn giáo ban hành là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về
tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung Pháp lệnh được đa số chức
sắc các tôn giáo đồng tình, phấn khởi an tâm hành đạo. Tiếp theo, ngày 01 tháng 3
năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành một
số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nhằm cụ thể hóa tư tưởng – tinh thần
Pháp lệnh, hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện tốt công tác QLNN về tôn giáo
trong tình hình hiện nay. Luật số 02/2016/QH14 của Quốc hội: Luật tín ngưỡng, tôn
giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã cụ thể hóa hơn về các lĩnh vực
của đời sống Tín ngưỡng, Tôn giáo, là căn cứ pháp lý quan trọng giúp việc triển
khai các hoạt động liên quan đến tôn giáo được thống nhất, rõ ràng hơn.
Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu, công tác QLNN về hoạt động tôn giáo ở
huyện Điện Biên cũng có một số khó khăn nhất định, như: việc quản lý các điểm
nhóm Tin lành (đặc biệt là điểm nhóm Tin lành của người Mông), vấn đề các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài; và đặc biệt là vấn đề an ninh tôn giáo, chống lại các
âm mưu thủ đoạn của các phần tử xấu trong tôn giáo và bọn phản động lưu vong ở
nước ngoài cấu kết với các thế lực thù địch quốc tế, lợi dụng tôn giáo phá hoại công
cuộc đổi mới ở Việt Nam.
Đánh giá chung có thể thấy rõ rằng với huyện Điện Biên là một huyện lớn
nhất của tỉnh Điện Biên, một tỉnh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011 có bất ổn về
vấn đề tôn giáo, dân tộc (sự phá rối, gây mất an ninh ở Mường Nhé). Trong bối
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ

More Related Content

What's hot

Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

What's hot (20)

Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
Luận án: Thực hiện pháp luật về bảo vệ trẻ em Việt Nam hiện nay - Gửi miễn ph...
 
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em, HOT
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, HOTLuận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, HOT
Luận văn: Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, HOT
 
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dânLuận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
Luận văn: Hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân
 
Luận án: Công tác dân vận ở Tây Nguyên từ 2001 đến 2010, HAY
Luận án: Công tác dân vận ở Tây Nguyên từ 2001 đến 2010, HAYLuận án: Công tác dân vận ở Tây Nguyên từ 2001 đến 2010, HAY
Luận án: Công tác dân vận ở Tây Nguyên từ 2001 đến 2010, HAY
 
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOTLuận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
Luận văn: Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở địa phương, HOT
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú YênLuận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
Luận văn: Quản lý nhà nước về phòng,chống ma túy, tỉnh Phú Yên
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Công tác vận động đồng bào công giáo của lực lượng công an
Luận văn: Công tác vận động đồng bào công giáo của lực lượng công anLuận văn: Công tác vận động đồng bào công giáo của lực lượng công an
Luận văn: Công tác vận động đồng bào công giáo của lực lượng công an
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAYLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng, HAY
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho sinh viên cao đẳng tỉnh Bình Dương
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho sinh viên cao đẳng tỉnh Bình DươngLuận văn: Giáo dục pháp luật cho sinh viên cao đẳng tỉnh Bình Dương
Luận văn: Giáo dục pháp luật cho sinh viên cao đẳng tỉnh Bình Dương
 
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAYLuận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
Luận văn: Tổ chức và hoạt động của Công an xã, thị trấn, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đLuận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
Luận văn: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, 9đ
 
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOTĐề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
Đề tài: Xây dựng đội ngũ cán bộ xã, phường tỉnh Cà Mau, HOT
 
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viênLuận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
Luận văn: Nâng cao hiệu quả giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên
 
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOTLuận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
Luận văn: Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
Đề tài: Bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Gửi miễn...
 
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

Similar to Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ

Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...luanvantrust
 
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂM
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂMLuận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂM
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂMViết Thuê Khóa Luận _ ZALO 0917.193.864 default
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...HanaTiti
 
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnLuận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnNhận Viết Đề Tài Thuê trangluanvan.com
 
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnLuận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnViết Thuê Luận Văn Luanvanpanda.com
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...OnTimeVitThu
 
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN OnTimeVitThu
 
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 

Similar to Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ (20)

Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Thực hiện chính sách tôn giáo ở tỉnh Phú Yên, HAY - Gửi miễn phí qu...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình DươngQuản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
 
Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo tỉnh Đồng Nai
Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo tỉnh Đồng NaiPhát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo tỉnh Đồng Nai
Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo tỉnh Đồng Nai
 
Luận văn: Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo Đồng Nai
Luận văn: Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo Đồng NaiLuận văn: Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo Đồng Nai
Luận văn: Phát triển kinh tế ở vùng đồng bào công giáo Đồng Nai
 
Luận án: Sự chuyển biến đời sống tôn giáo ở Việt Nam, HAY
Luận án: Sự chuyển biến đời sống tôn giáo ở Việt Nam, HAYLuận án: Sự chuyển biến đời sống tôn giáo ở Việt Nam, HAY
Luận án: Sự chuyển biến đời sống tôn giáo ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo của UNBD cấp huyện, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo của UNBD cấp huyện, 9 ĐIỂMLuận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo của UNBD cấp huyện, 9 ĐIỂM
Luận văn: Quản lý Nhà nước về tôn giáo của UNBD cấp huyện, 9 ĐIỂM
 
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
 
Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an
Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công anCông tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an
Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an
 
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂM
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂMLuận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂM
Luận văn: Công tác vận động đồng bào Công giáo của lực lượng Công an, 9 ĐIỂM
 
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
Ảnh hưởng của công giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người dân tỉnh Nin...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnLuận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
 
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công AnLuận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
Luận Văn Thạc Sĩ Công Tác Vận Động Đồng Bào Công Giáo Của Lực Lượng Công An
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA CÔNG GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI DÂ...
 
Đề tài: Quản lý hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, HAY
Đề tài: Quản lý hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, HAYĐề tài: Quản lý hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, HAY
Đề tài: Quản lý hoạt động tôn giáo bàn huyện Đô Lương, HAY
 
Luận văn: Quản lý về hoạt động tôn giáo tại huyện Đô Lương, 9đ
Luận văn: Quản lý về hoạt động tôn giáo tại huyện Đô Lương, 9đLuận văn: Quản lý về hoạt động tôn giáo tại huyện Đô Lương, 9đ
Luận văn: Quản lý về hoạt động tôn giáo tại huyện Đô Lương, 9đ
 
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo huyện Đô Lương, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo huyện Đô Lương, 9đLuận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo huyện Đô Lương, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo huyện Đô Lương, 9đ
 
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...
Luận văn: Hoàn thiện quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn...
 
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
LUẬN VĂN: ẢNH HƯỞNG CỦA LỄ HỘI PHẬT GIÁO NAM TÔNG ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN
 
Ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên
Ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây NguyênẢnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên
Ảnh hưởng của Công giáo trong phát triển bền vững ở Tây Nguyên
 
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
Luận án: Ảnh hưởng quan niệm của Nho giáo về gia đình đối với việc xây dựng g...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 

Recently uploaded (20)

Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 

Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH ĐỨC CƯỜNG TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TÔN GIÁO HỌC Hà Nội, năm 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐINH ĐỨC CƯỜNG TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN HIỆN NAY Ngành: Tôn giáo học Mã số: 8229009 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THANH HẰNG Hà Nội, năm 2019
  • 3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Phạm Thanh Hằng. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày ……. tháng ……. năm 2019 Tác giả Đinh Đức Cường
  • 4. ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong Khoa Tôn giáo học tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã giảng dạy và cho tôi nhiều kiến thức trong quá trình học tập. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ PHẠM THANH HẰNG, người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đồng thời tôi xin cảm ơn các Ban ngành của huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đã tạo điều kiện giúp đỡ cho tôi trong quá trình làm luận văn tại địa phương. Tác giả luận văn Đinh Đức Cường
  • 5. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN, TỈNH ĐIỆN BIÊN .............................................. 11 1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo................................................................................... 11 1.2. Tôn giáo ở huyện Điện Biên............................................................ 20 Chương 2: CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA...................................... 34 2.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên........................................................................... 34 2.2. Bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra .................................. 53 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN......................................................................................... 61 3.1. Phương hướng.................................................................................. 61 3.2. Giải pháp.......................................................................................... 66 3.3. Kiến nghị.......................................................................................... 71 KẾT LUẬN.................................................................................................... 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 80
  • 6. iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT QLNN: Quản lý nhà nước UBND: Ủy ban nhân dân
  • 7. v DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 1.1. Tình hình đạo Tin Lành qua các năm..................................... 26 Bảng 1.2. Tình hình Công giáo qua các năm.......................................... 27
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội, ra đời và phát triển từ hàng nghìn năm nay. Từ khi ra đời, tôn giáo đã trải qua những thăng trầm và không ngừng biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại xã hội, nhưng chung nhất, nó luôn là một nhu cầu tinh thần của đa số nhân loại. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo có sức ảnh hưởng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đến tập quán của nhiều quốc gia, của các tộc người trong một quốc gia, theo cả hai chiều kích tích cực và tiêu cực. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Nhưng bên cạnh những sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội lành mạnh, tuân thủ pháp luật thì vẫn còn có hiện tượng một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề mê tín dị đoan, mê hoặc nhân dân, thậm chí là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc... Trước tình hình đó, công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo càng cần phải được tăng cường, không chỉ trên tầm vĩ mô mà còn ở các địa phương trong cả nước. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của công tác tôn giáo trong tình hình mới. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác tôn giáo đều nhấn mạnh đến vai trò của công tác này. Điện Biên là một tỉnh thuộc miền Bắc nước ta, là một tỉnh Tây Bắc cách Hà Nội 504km về phía Tây. Điện Biên là tỉnh duy nhất có chung đường biên giới với 2 quốc gia Lào và Trung Quốc dài hơn 400km, với 33 dân tộc sinh sống. Người theo tôn giáo chủ yếu là Phật giáo, Công giáo và Tin Lành. Huyện Điện Biên nằm ở phía Tây Nam tỉnh Điện Biên, phía Bắc giáp huyện Mường Lay, phía Tây và Nam giáp Lào, phía Đông giáp huyện Điện Biên Đông, có cửa khẩu Tây Trang ngăn cách với
  • 9. 2 Lào, phân chia hành chính 25 xã. Đây là một trong những huyện lớn có vai trò quan trọng của tỉnh Điện Biên. Trong những năm qua, tình hình tôn giáo, tín ngưỡng trên địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng tương đối ổn định, sinh hoạt tôn giáo và đời sống tín ngưỡng, tôn giáo diễn ra đúng với chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Đại bộ phận chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo trong tỉnh an tâm, phấn khởi, tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng.Về thành tựu phát triển kinh tế - xã hội; huyện Điện Biên đã tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tuy nhiên, trên địa bàn huyện Điện Biên vẫn nổi lên các vấn đề liên quan đến tôn giáo theo hướng tiêu cực như lợi dụng tôn giáo nhằm phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc,.... Huyện Điện Biên cũng có lượng người dân tộc theo tôn giáo và công tác QLNN đối với tôn giáo còn nhiều vấn đề đáng lưu tâm, Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chung của tỉnh Điện Biên đã xảy ra một số vụ việc bất ổn liên quan trực tiếp đến vấn đề tôn giáo như vấn đề Tin Lành trong người Mông, sự vụ Mường Nhé,…. Dó đó, vấn đề quản lý tôn giáo đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng của tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng. Để làm tốt công tác này đòi hỏi chúng ta phải đi từ cơ sở, từ gốc rễ. Nghiên cứu một huyện lớn như huyện Điện Biên đóng vai trò làm hình mẫu quan trọng cho các địa bàn khác trên toàn tỉnh từ đó tạo thành một lối quản lý hiệu lực, hiệu quả, tạo điều kiện cho các mặt an ninh, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội –ổn định và phát triển trong khi vẫn đảm bảo đáp ứng đầy đủ nhu cầu tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng chính đáng của người dân. Từ thực tế tình hình trên, tôi chọn đề tài: “Tôn giáo và công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay” để làm luận văn Thạc sỹ Tôn giáo học. 2. Tình hình nghiên cứu Những công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn có thể được phân chia theo một số hướng cơ bản như sau:
  • 10. 3 Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo nói chung và tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của nhiều học giả. Ở nước ta, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tôn giáo ở nhiều góc độ khác nhau. Riêng về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo, trong thời gian qua cũngđã có khá nhiều công trình nghiên cứu. “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Hữu Khiển năm 2001 tập trung làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, nêu nên tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, đồng thời chỉ ra quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về tôn giáo và công tác tôn giáo, những nguyên tắc trong quản lý nhà nước đối với tôn giáo. “Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận – thực tiễn” của GS.TS Đỗ Quang Hưng năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu có tính tổng hợp và toàn diện về quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo trong suốt chiều dài lịch sử cách mạng, từng bước hoàn thiện chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách là tài liệu tham khảo rất cần thiết phục vụ cho các nhà nghiên cứu và quản lý về công tác tôn giáo ở nước ta hiện nay. “Mác-Ăngghen bàn về tôn giáo” của PGS. TS Nguyễn Đức Sự chủ biên (bổ sung năm xuất bản). Tác giả nhận định, về phương diện tôn giáo, một hình thái ý thức tư tưởng đặc biệt, một tồn tại xã hội đa dạng, phong phú và phức tạp vốn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như triết học, xã hội học, tôn giáo học,… Trong cuộc đời sự nghiệp của Mác, Ăngghen không có nhiều điều kiện nghiên cứu về tôn giáo nhưng trong một số tác phẩm của mình có những luận đề các ông đã đề cập đến vấn đề tôn giáo đến nay vẫn được coi là những quan điểm có tính cơ bản về phương pháp luận trong lĩnh vực nghiên cứu, nhìn nhận các hiện tượng tôn giáo. Có thể kể đến là luận điểm về bản chất và nguồn gốc của tôn giáo, tiến trình phát triển tôn giáo, lịch sử, vai trò xã hội của tôn giáo cũng như vấn đề
  • 11. 4 con người, các thể chế xã hội với tôn giáo,… luôn có tính thời sự và sống động trong thực tiễn của nhân loại. Tác giả khẳng định đây là những vấn đề có tính vận dụng trong thực tiễn, là ngọn đèn pha để từ đó đóng góp nhiều mặt trong đó có công tác quản lý tôn giáo. “Những vấn đề lý luận và thực tiễn tôn giáo ở Việt Nam” của GS. Đặng Nghiêm Vạn (bổ sung năm xuất bản). Ngoài việc nhắc đến và làm rõ những vấn đề đã bàn trong cuộc trao đổi năm 1997 về vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cuốn sách còn từ góc độ kinh tế thử lý giải một số hiện tượng tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; làm rõ hơn về sự tôn thờ của người Công giáo Việt Nam, về Phật pháp; bàn về tôn giáo và mê tín. Đối với công tác quản lý tôn giáo mà nói đây là những vấn đề đáng quan tâm, làm rõ để có phương hướng thực hiện một cách trọng điểm, chú tâm. “Giáo trình quản lý xã hội về tôn giáo” của PGS, TS Hoàng Quốc Bảo chủ biên- năm 2016. Giáo trình đã làm rõ đối tượng quản lý và phương pháp nghiên cứu quản lý xã hội về tôn giáo đồng thời phân tích cách nhìn nhận của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với vấn đề quản lý tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về quản lý tôn giáo. Giáo trình cũng đi sâu tìm hiểu một số tôn giáo ở Việt Nam từ đó nêu ra nguyên tắc, phương pháp,…đối với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của PGS, TS Nguyễn Thanh Xuân chủ biên năm 2015. Cuốn sách mang đến với người đọc bức tranh khái quát về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Đồng thời cuốn sách nói đến các chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ. “Quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo và những vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của PGS, TS Nguyễn Hồng Dương, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, Hà Nội, 2012. Cuốn sách nêu ra và phân tích những quan điểm, đường lối của Đảng về tôn giáo; phác họa nên bức tranh tôn giáo ở Việt Nam hiện nay; đồng thời phân tích kinh nghiệm giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam từ cái nhìn đối sách với một số nước: Trung Quốc, Thái Lan, Xinhgapo; trên cơ sở đó, tác giả phân
  • 12. 5 tích những vấn đề đặt ra và đề xuất một số khuyến nghị đối với công tác tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. “Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền” của GS Đỗ Quang Hưng, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2014. Điểm nổi bật của công trình không chỉ quan tâm đến mối quan hệ Nhà nước với Giáo hội mà còn đi sâu vào khía cạnh nhà nước pháp quyền và tôn giáo. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện về luật pháp tôn giáo ở Việt Nam hiện nay từ pháp lý đến quyền pháp nhân, thể nhân tôn giáo. Đó là những cơ sở để xác định hai nhóm giải pháp lớn về lý luận chính sách tôn giáo và các chính sách tôn giáo cụ thể, bao quát từ việc hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục và luật pháp tôn giáo, điều chỉnh mô hình và thay đổi phương thức QLNN đối với tôn giáo. “Quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo và Công giáo – những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” của PGS,TS Hoàng Minh Đô và PGS, TS Đỗ Lan Hiền, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2015 đã khái quát một số nội dung cơ bản: Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tôn giáo và Công giáo; Quan điểm của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và Công giáo; Thực trạng việc thực hiện chính sách pháp luật về tôn giáo và Công giáo ở Việt Nam; Kinh nghiệm của một số nước: Pháp, Hoa Kỳ, Liên xô (trước đây), Trung Quốc trong việc thực hiện chính sách đối với Công giáo và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. “Công tác tôn giáo từ quan điểm Mác – Lênin đến thực tiễn Việt Nam” của PGS, TS Ngô Hữu Thảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội, năm 2012 đã phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về công tác tôn giáo như: nhận thức về công tác tôn giáo của hệ thống chính trị, nguồn gốc tôn giáo, vai trò tôn giáo và những yêu cầu đối với người cộng sản về phương pháp nhìn nhận đúng đắn đối với tôn giáo. Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ năm 1975 đến nay” của Bùi Hữu Dược năm 2014. Luận án nêu nên cơ sở lý luận và thực tiễn của quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam. Đáng giá, phân tích về quá trình, kết quả
  • 13. 6 quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam từ 1975 đến nay, từ đó đưa ra khuyến nghị, dự báo xu hướng nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam trong thời gian tới. Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay” của Nguyễn Tiến Dũng năm 2012. Luận văn khái quát một số vấn đề chung về QLNN đối với hoạt động tôn giáo, phân tích tình hình tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay và các hoạt động liên quan đến tôn giáo, từ đó đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra, kiến nghị và nêu ra một số giải pháp của công tác quản nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ triết học “Công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay” của Đinh Ngọc Tú năm 2013. Luận văn đã đánh giá thực trạng tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo Hà Đông, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhắm nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo địa bàn quận. Luận văn tốt nghiệp cao cấp lý luận chính trị - hành chính “Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công giáo trong tình hình hiện nay ở tỉnh Hà Nam” của Lê Thị Cúc năm 2012. Luận văn trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống về lý luận cũng như thực trạng công tác QLNN về an ninh trật tự đối với hoạt động của đạo Công giáo ở tỉnh Hà Nam, đề tài đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN về lĩnh vực này tại địa phương. Luận văn thạc sĩ tôn giáo học “Quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh Bình phước hiện nay” của Phạm Thị Hằng 2015. Luận văn trên cơ sở nghiên cứu thực trạng QLNN đối với đạo Tin lành ở tỉnh Bình phước, luận văn đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với đạo Tin lành trên địa bàn tỉnh. Luận văn tốt nghiệp đại học chính trị “Quản lý nhà nước đối với đạo Công giáo tại địa bàn tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp” của Trần Hải Hà năm
  • 14. 7 2009. Luận văn nêu khái quát về đặc điểm tỉnh Nghệ An, làm rõ thực trạng hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh, từ đó đề ra phương hướng, giải pháp và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của đạo Công giáo trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Chính sách, pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam: 25 năm nhìn lại” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội năm 2016. Công trình gồm các bài nghiên cứu về cơ sở và thực tiễn của đường lối, quan điểm đổi mới về tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng Cộng sảnViệt Nam từ năm 1990 đến nay; đánh giá hiệu quả của chính sách tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ đổi mới đối với đời sống xã hội nói chung và đời sống tôn giáo ở Việt Nam nói riêng; cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng và tôn giáo trong thời gian tới. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam trong bối cảnh mới” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, năm 2018. Công trình gồm các bài nghiên cứu tập trung phân tích những xu hướng và động thái mới trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng trên thế giới hiện nay dưới tác động mạnh mẽ của hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từ đó nêu bật sự tác động của những xu hướng và động thái mới trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng trên thế giới, sự hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư nói riêng đến đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay; và đưa ra những khuyến nghị, giải pháp có tính khả thi cho việc tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật về tôn giáo, tín ngưỡng cũng như nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của Việt Nam trong thời gian tới. Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu về tôn giáo ở tỉnh Điện Biên. Luận án tiến sĩ “Vấn đề đạo Tin Lành trong đồng bào dân tộc Hmông và Dao ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” củaNguyễn Khắc Đức năm 2011 nghiên cứu sự xâm nhập, phát triển của đạo Tin Lành tỏng dân tộc Hmông và Dao ở các tỉnh miền núi phía Bắc (trong đó có Điện Biên), từ đó đề xuất kiến nghị nhằm đưa
  • 15. 8 đạo Tin Lành hoạt động theo hướng ổn định, tuân thủ pháp luật, đảm bảo tính hiệu lực của chính sách đối với tôn giáo này trên địa bàn nghiên cứu. Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 11&12 “Tôn giáo và đời sống gia đình, bản làng của người Mông” của PGS, TS Nguyễn Quang Hưng năm 2016 nghiên cứu tôn giáo trong đời sống tinh thần của người Mông, từ đó nhấn mạnh tôn giáo là hạt nhân của văn hóa. Bài viết tạp chí của Lê Bá Trình đăng ngày 01 tháng 11 năm 2018 trên website: tapchimattran.vn về “Sinh hoạt tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía bắc hiện nay”. Trong bài viết, tác giả nghiên cứu tình hình tôn giáo ở đồng bào dân tộc thiểu số miền núi phía bắc trong đó có tỉnh Điện Biên (chủ yếu tình hình Phật giáo, Công giáo, Tin lành) chỉ ra những tác động của các tôn giáo để tìm giải pháp vừa phát huy các giá trị dân tộc, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, hành động lợi dụng những vấn đề tôn giáo, dân tộc để chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bài viết của Lê Vui trên website của giáo xứ Sa Pa về “ Tình hình tôn giáo ở Tây Bắc thực trạng và giải pháp” ngày 06 tháng 06 năm 2019. Bài viết nói về tình hình tôn giáo ở các tỉnh Tây Bắc (Lào Cai, Điện Biên,…) từ đó đưa ra các biện pháp, những việc cần hành động để ổn định tôn giáo, đấu tranh chống lợi dụng tôn giáo chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, xuyên tạc chống phá Đảng và nhà nước. Bài viết của Nguyễn Trường Giang trên trang baodienbienphu.info.vn “Nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo trong tình hình mới” ngày 03/08/2017 đã thống kê sơ bộ số lượng người theo tôn giáo tại tỉnh Điện Biên. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những việc Cấp ủy, chính quyền đã làm được nhằm nâng cao công tác quản lý tôn giáo trên địa bàn tỉnh. Từ đó chỉ ra những khó khăn trong công tác quản lý và đưa ra những giải pháp để công tác quản lý tôn giáo đạt hiệu quả hơn. Tổng quan có thể thấy các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, về cả phương pháp luận và cơ sở lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề quản lý nhà nước đối với công tác tôn giáo. Các công tình đã đặt tôn giáo vào thực tiễn của từng địa phương để nêu lên những thực trạng của vấn đề
  • 16. 9 quản lý nhà nước đối với tôn giáo và từ đó đề ra các giải pháp để giải quyết các khó khăn trong quản lý tôn giáo. Các công trình này sẽ là nguồn tài liệu để tham khảo và học tập cho luận văn này. Trên địa bàn Điện Biên, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể. Vì vậy, hướng đề tài mà tôi lựa chọn hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn về vấn đề QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Luận văn tìm hiểu về tình hình, đặc điểm tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ một số vấn đề chung về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo và tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. - Đánh giá thực trạng, rút ra bài học kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra trong công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. - Đề xuất phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu là tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. * Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu tôn giáo và công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu từ năm 2008 đến nay.
  • 17. 10 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề dân tộc tôn giáo; đồng thời xuất phát từ thực tiễn tình hình QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Điện Biên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã sử dụng các phương pháp chuyên ngành như tổng hợp và phân tích, khái quát hoá, thống kê, so sánh, lịch sử và lôgic, xã hội học, …. Các phương pháp nghiên cứu này đều nhằm hướng tới phân tích thực trạng của hoạt động quản lý tôn giáo ở huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. 6. Đóng góp mới của luận văn 6.1. Về mặt lý luận Bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về QLNN đối với hoạt động tôn giáo; đưa ra khái quát mang tính lý luận từ thực tiễn công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở Điện Biên 6.2. Về mặt thực tiễn Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo nhằm định hướng xây dựng chủ trương, biện pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên và các huyện trong và ngoài tỉnh Điện Biên - có tình hình tôn giáo tương tự với huyện Điện Biên. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  • 18. 11 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO VÀ TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIỆN, TỈNH ĐIỆN BIÊN 1.1. Một số vấn đề lý luận về công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo 1.1.1. Khái niệm “công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo” Công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo là một vấn đề quan trọng luôn được ưu tiên trong hoạt động quản lý của nhà nước. Để hiểu rõ hơn về QLNN đối với hoạt động tôn giáo, trước hết ta cần hiểu về các khái niệm.  “Quản lý”: Nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về quản lý dựa theo mục tiêu và góc độ nghiên cứu, tuy nhiên hiểu một cách đơn giản, quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý thông qua các công cụ nhằm đạt được mục tiêu đề ra.  “Quản lý nhà nước" là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực của nhà nước để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội. Theo nghĩa rộng, QLNN gồm 3 chức năng cơ bản là Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp do các cơ quan Nhà nước được phân công thực hiện. Theo nghĩa hẹp, QLNN là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.  “Tôn giáo” là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào từ cuối thế kỷ XIX. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào đầu óc con người, của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hằng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu nhiên trần thế” (tác phẩm "Chống Đuyrinh") [2, Tr.437]. Trong tác phẩm của mình, C.Mac đã khẳng
  • 19. 12 định “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người” [3, Tr.569]. Qua đó có thể thấy, tôn giáo là sản phẩm của con người nên tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt, phản ánh tồn tại xã hội đã sản sinh ra nó. Tôn giáo là sản phẩm của một xã hội con người, do đó tôn giáo là một hiện tượng xã hội. Xét bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội vừa thể hiện sự phản kháng trước những đau khổ, bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội. Khoản 5, Điều 2 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14), đã đưa ra định nghĩa về tôn giáo: “Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.” Như vậy, khi nói đến một tôn giáo hoàn chỉnh bao gồm: tôn giáo là đại diện cho một cộng đồng người có chung niềm tin vào thế lực siêu nhiên, huyền bí; có hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi; có tổ chức hoạt động từ Giáo hội xuống cơ sở khá chặt chẽ.  “Hoạt động tôn giáo” theo Khoản 11 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14: “Hoạt động tôn giáo là hoạt động truyền bá tôn giáo, sinh hoạt tôn giáo và quản lý tổ chức của tôn giáo”. Truyền bá tôn giáo (còn gọi là truyền đạo) là việc tuyên truyền những lý lẽ về sự ra đời, về luật lệ của tôn giáo. Sinh hoạt tôn giáo (còn gọi là hành đạo) là việc bày tỏ niềm tin tôn giáo, thực hành giáo lý giáo luật, lễ nghi tôn giáo. Hoạt động quản lý tổ chức tôn giáo (còn gọi là quản đạo) nhằm thực hiện quy định của giáo luật, hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo, đảm bảo duy trì trật tự, hoạt động trong tổ chức tôn giáo.  “Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo”: Từ các khái niệm trên, khái niệm về công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo cũng được hiểu theo hai nghĩa. Nghĩa rộng: là quá trình dùng quyền lực nhà nước (quyền Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) của các cơ quan Nhà nước theo quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý. Nghĩa hẹp: là một dạng quản lý xã hội mang tính chất nhà nước; là
  • 20. 13 chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước; là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các quá trình tôn giáo và mọi hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các tín đồ, chức sắc trong việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi tôn giáo; quản lý nơi thờ tự, đồ dùng việc đạo, cơ sở vật chất xã hội của các tôn giáo. 1.1.2. Khách thể và chủ thể của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là quá trình tác động, điều hành, điều chỉnh của các cơ quan hành pháp để các hoạt động tôn giáo diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Có thể thấy, QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao gồm các yếu tố: đối tượng quản lý (khách thể quản lý), chủ thể quản lý. Trước hết, đối tượng (khách thể) của QLNN đối với hoạt động tôn giáo bao gồm các tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc và các cơ sở vật chất phục vụ hoạt động tôn giáo như cơ sở tôn giáo, cơ sở vật chất khác và các đồ dùng phục vụ hoạt động tôn giáo. Tổ chức tôn giáo, tại Khoản 12 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14: “Tổ chức tôn giáo là tập hợp tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành của một tôn giáo được tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận nhằm thực hiện các hoạt động tôn giáo”. Tổ chức tôn giáo thường bao gồm cơ cấu tổ chức (cơ quan quyền lực – giáo quyền) từ trung ương đến cơ sở, hệ thống nơi thờ tự, tu viện, các trường đào tạo chức sắc, cùng với hội đoàn tôn giáo và nguồn tài chính duy trì các hoạt động tôn giáo,…Việt Nam có nhiều tổ chức tôn giáo khác nhau. Mỗi tôn giáo đều có hệ thống tổ chức bộ máy khác nhau. Hệ thống tổ chức, bộ máy của tổ chức tôn giáo được quy định trong hiến chương, điều lệ, các quy định của tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận. Tín đồ tôn giáo, tại Khoản 6 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14: “Tín đồ người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa
  • 21. 14 nhận”. Khi tham gia hoạt động tôn giáo, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo. Đồng thời, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật. Nhà tu hành, tại Khoản 7 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14: “Nhà tu hành là tín đồ xuất gia, thường xuyên thực hiện nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật, nghi lễ và tổ chức”. Chức sắc, tại Khoản 8 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14: “Chức sắc là tín đồ được tổ chức tôn giáo phong phẩm hoặc suy cử để giữ phẩm vị trong tổ chức”. Các chức sắc tôn giáo có sự thống nhất ba mặt: công dân, hành đạo và đại diện. Về mặt công dân, là người chuyên việc đạo, bình đẳng trước pháp luật về nghĩa vụ và quyền lợi như các công dân khác. Mặt hành đạo, được Giáo hội đào tạo, tấn phong, bổ nhiệm giữ các phẩm trật khác nhau trong chức vị thánh và chức vị phẩm quyền (tùy theo từng tôn giáo). Chức sắc tôn giáo có uy quyền khác nhau tùy theo phẩm trật, năng lực hành đạo. Mặt đại diện, ở những mức độ khác nhau cho tổ chức giáo hội trong mối quan hệ đối nội và trong quan hệ đạo – xã hội. Ba mặt nói trên thống nhất trong con người chức sắc tôn giáo nhưng không đồng nhất; mặt công dân là số một, các mặt khác là số hai, đặc biệt là mặt hành đạo. Ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ của chức sắc tôn giáo được quy định trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo mới nhất. Trong quan hệ với tín đồ họ là những người nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và có uy tín trong tín đồ tôn giáo. Trong quan hệ với Nhà nước và các tổ chức khác đặc biệt là tổ chức tôn giáo nước ngoài, họ là người đại diện cho tổ chức tôn giáo để giải quyết các công việc có liên quan đến tôn giáo. “Cơ sở tôn giáo” tại Khoản 14 Điều 2 Luật tín ngưỡng, tôn giáo số 02/2016/QH14 gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh nhất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, cơ sở hợp pháp khác của tổ chức tôn giáo. Cơ sở tôn giáo có sự
  • 22. 15 thống nhất giữa bốn mặt: vật chất, tôn nghiêm, trụ sở và sinh hoạt cộng đồng. Mặt vật chất, đó là những địa điểm được xây dựng bằng vật liệu khác nhau, theo những mô hình kiến trúc khác nhau, thể hiện niềm tin của từng tôn giáo. Mặt tôn nghiêm, là nơi bái vọng, ngưỡng mộ, biểu hiện tình cảm và đức tin tôn giáo, nơi diễn ra những nghi lễ tôn giáo quan trọng. Mặt trụ sở, là nơi diễn ra hoạt động hành chính của đạo. Mặt sinh hoạt cộng đồng, là nơi diễn ra các lễ hội tôn giáo, nơi sinh hoạt các hội đoàn tôn giáo…Trong các mặt trên, tôn nghiêm là mặt chi phối. Cơ sở vật chất khác như khuôn viên (tạo nên cảnh quan kiến trúc văn hoá môi trường), ruộng, đất, nhà chung, trường học, cơ sở từ thiện,... những cơ sở vật chất kỹ thuật này có hai mặt cơ bản. Một mặt là tài sản của giáo hội, là nơi diễn ra các hoạt động của tổ chức tôn giáo, của giáo hội cơ sở... Một mặt được Nhà nước bảo hộ bằng cách cấp các văn bản mang giá trị pháp lý, được giáo hội giao trách nhiệm quản lý hay giao quyền sử dụng các cơ sở thuộc quyền sở hữu của giáo hội. Đồ dùng việc đạo bao gồm: kinh, sách, tượng, bài vị, tranh ảnh, cờ trống,…; trong đó mỗi đồ dùng có vai trò, vị trí khác nhau tùy theo lễ nghi của từng tôn giáo. Đồ dùng việc đạo có chung một đặc điểm là sự thống nhất và đồng nhất giữa tính vật chất và tính biểu đạt. Mặt vật chất, các đồ dùng được tạo nên bởi các chất liệu khác nhau dưới dạng vật chất cụ thể. Mặt biểu đạt, mỗi đồ dùng biểu đạt một nội dung nào đó và cái được biểu đạt chỉ được hiện hữu khi đồ dùng được sử dụng vào một nội hoạt động tôn giáo cụ thể theo một lễ nghi nào đó. Trong các đồ dùng việc đạo thì kinh sách, tượng, bài vị là quan trọng nhất. Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo được thực hiện bởi cơ quan QLNN các cấp (chủ thể quản lý) nhằm huy động sức mạnh của cộng đồng tín ngưỡng, tôn giáo để đạt mục đích của chủ thể cầm quyền đặt ra. Trong đó Chính phủ thống nhất QLNN về hoạt động tôn giáo, toàn quyền quyết định các vấn đề có liên quan trên phạm vi cả nước. Chính phủ sử dụng quyền hành pháp để thi hành pháp luật và chấp hành các Nghị quyết của Quốc hội, đồng thời chủ động tham gia vào quá trình lập pháp về các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; sử dụng quyền lập quy để ra các văn bản dưới luật nhằm thực hiện và thống
  • 23. 16 nhất QLNN về các hoạt động tôn giáo. Các cơ quan thuộc Chính phủ, Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Bộ Nội vụ có chức năng chính là QLNN về hoạt động tôn giáo trong phạm vi cả nước, là đầu mối phối hợp với các ngành về công tác tôn giáo và liên hệ với các tổ chức tôn giáo. Ban Tôn giáo tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là cơ quan chuyên môn thuộc Sở Nội Vụ - UBND, chịu trách nhiệm trước UBND thực hiện chức năng QLNN về các hoạt động tôn giáo theo pháp luật của Nhà nước trong phạm vi địa phương. Ban Tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và hoạt động của Sở Nội vụ; đồng thời chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tôn giáo Chính phủ trực thuộc Bộ Nội vụ. Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo là cơ quan chuyên môn, tham mưu, giúp UBND huyện QLNN về lĩnh vực công tác tôn giáo trên địa bàn huyện, thành phố. Phòng Tôn giáo hoặc phòng có chức năng quản lý công tác tôn giáo chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của Uỷ ban nhân dân huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Ban Tôn giáo tỉnh hoặc Sở có chức năng quản lý công tác tôn giáo. Ở cấp độ của một luận văn Thạc sỹ, luận văn xin tập trung nghiên cứu QLNN đối với hoạt động tôn giáo của cơ quan quản lý tôn giáo cấp huyện; cụ thể là Phòng tôn giáo huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên. 1.1.3. Mục tiêu, nguyên tắc và nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo  Mục tiêu QLNN về hoạt động tôn giáo Thứ nhất, QLNN đối với hoạt động tôn giáo trước hết phải bảo đảm được quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, bảo đảm cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền tự do tín ngưỡng là một trong những quyền cơ bản của con người. Tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 quy định: "1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín
  • 24. 17 ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật". Thứ hai, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải phát huy được những mặt tích cực của tôn giáo như tính hướng thiện, từ bi; khắc phục được những hạn chế, tiêu cực của tôn giáo đối với sự phát triển của xã hội. Nhà nước tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tôn giáo tham gia cùng Nhà nước giải quyết những vấn đề của xã hội. Tuy nhiên, trong QLNN về hoạt động tôn giáo, cần phân biệt rõ giữa hoạt động tôn giáo thuần tuý với hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa để đề ra những biện pháp quản lý phù hợp. Thứ ba, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải thực hiện được mục tiêu đoàn kết đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo, tạo ra sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mục tiêu, đoàn kết dân tộc, đoàn kết đồng bào có tôn giáo và không có tôn giáo luôn là ưu tiên hàng đầu của Đảng. Thứ tư, QLNN đối với hoạt động tôn giáo phải đảm bảo tăng cường vai trò của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt động tôn giáo, góp phần phát triển văn hóa, xã hội. Các tổ chức, cá nhân tôn giáo là một bộ phận của xã hội, được nhà nước quản lý. Mọi hoạt động tôn giáo đều phải tuân thủ theo quy định của Nhà nước; các hành vi khiến tổ chức tôn giáo chống lại sự quản lý của nhà nước là bất hợp pháp và bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.  Nguyên tắc cơ bản trong QLNN đối với hoạt động tôn giáo QLNN đối với hoạt động tôn giáo nhằm bảo đảm cho hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, vì lợi ích chung, trong đó có cả lợi ích của đồng bào có đạo và lợi ích của các Giáo hội. QLNN về hoạt động tôn giáo có một số nguyên tắc chính sau: Một là, đảm bảo cho mọi công dân được bình đẳng trước Hiến pháp và pháp luật. Đây là nguyên tắc thể chế dân chủ trong hoạt động của Nhà nước ta: Nhà nước đảm bảo quyền tự do tôn giáo hay không tôn giáo của công dân và công dân (dù là tín đồ tôn giáo hay không phải là tín đồ tôn giáo) bình đẳng trước pháp luật, được
  • 25. 18 hưởng quyền lợi và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Từ cơ sở này, tín đồ được tự do hành đạo trên cơ sở thực hiện nghĩa vụ công dân. Hai là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Công dân có quyền theo hoặc không theo bất kì một tôn giáo nào. Tôn giáo là một nhu cầu tinh thần của con người, không ai có quyền áp đặt hoặc tước bỏ nhu cầu đó. Tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn phải được đặt trong khuôn khổ của luật pháp, của sự quản lý của nhà nước nhằm đảm bảo không có bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng quyền này để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực, chia rẽ dân tộc, gây rối trật tự công cộng… Ba là, nguyên tắc về tính thống nhất giữa sinh hoạt tôn giáo và bảo tồn giá trị văn hoá. Niềm tin tôn giáo được thể hiện thông qua sinh hoạt vật chất của con người: lễ nghi, trang phục…; được thể hiện thông qua các công trình kiến trúc, kinh sách…, đồng thời đó cũng là sản phẩm của văn hóa. Trải qua quá trình phát triển, các giá trị này dần kết hợp, hòa quyện với các truyền thống dân tộc. Sự tồn tại của tôn giáo là động lực cho sự phát triển và bảo tồn các giá trị văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hoá đích thực vẫn còn những hiện tượng phản văn hoá trong các tôn giáo, những hủ tục, mê tín dị đoan… Công tác quản lý của nhà nước đối với hoạt động tôn giáo phải vừa giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa loại bỏ những hiện tượng phản văn hoá trong sinh hoạt tôn giáo. Bốn là, đảm bảo sự thống nhất, hài hoà lợi ích cá nhân, cộng đồng và lợi ích quốc gia, xã hội. Đối với tín đồ các tôn giáo, nhu cầu tôn giáo của họ được nhà nước coi trọng và tạo mọi điều kiện để họ thực hiện những hành vi tôn giáo của mình. Tuy nhiên,m đứng trước nhiều nhu cầu khác đòi hỏi tín đồ phải giải quyết hài hoà, thoả đáng giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích chung của xã hội. Năm là, những hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ phải được đảm bảo. Những hoạt động tôn giáo vì lợi ích của tổ quốc và của nhân dân được khuyến khích. Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân,
  • 26. 19 làm phương hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc và hoạt động mê tín dị đoan đều bị lên án và xử lý vi phạm theo luật định.  Nội dung QLNN đối với tôn giáo Nội dung của QLNN về hoạt động tôn giáo được xác định phù hợp với thẩm quyền pháp lý của chủ thể quản lý (Chính phủ, cơ quan của Chính phủ, UBND các cấp, ban chuyên môn của Chính phủ). Những nội dung dựa trên những quan điểm, những qui định hiện hành của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. QLNN đối với hoạt động tôn giáo gồm nhiều công việc: - Xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạn thuộc lĩnh vực tôn giáo; - Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối với hoạt động tôn giáo; - Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đối với hoạt động tôn giáo; - Quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo; - Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo; - Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về hoạt động tôn giáo; Tất cả những công việc trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, để làm tốt công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo cần chú trọng thực hiện tốt các công việc này. Nội dung về QLNN đối với hoạt động tôn giáo gồm những lĩnh vực sau: + Về công nhận các pháp nhân tôn giáo; + Về quá trình xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự; + Về chương trình hoạt động thường xuyên và đột xuất; + Về quá trình đào tạo chức sắc; + Về quá trình sản xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo; + Về một số việc thuộc hành chính đạo; + Vềcác hoạt động từ thiện –xã hội;
  • 27. 20 + Xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên quan đến tôn giáo và vi phạm chính sách tôn giáo; + Xét duyệt các hoạt động quốc tế và đối ngoại tôn giáo; + Đấu tranh chống lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo; Những nội dung quản lý trên mang tính phổ quát ở mọi nơi, song từng thời gian nội dung nào là trọng tâm, trọng điểm cần được dự báo (có kế hoạch) để áp dụng biện pháp quản lý thích hợp, chủ động và có hiệu quả. 1.2. Tôn giáo ở huyện Điện Biên 1.2.1. Khái quát chung về huyện Điện Biên Huyện Điện Biên là huyện miền núi, biên giới nằm ở phía Tây – Nam tỉnh Điện Biên với diện tích tự nhiên 163972,84 ha; gồm 25 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó có 12 xã biên giới), 465 thôn bản, dân số trên 119.000 người; có 08 dân tộc (trong đó: Dân tộc Thái 52,89%, dân tộc Kinh 27,03%, dân tộc Mông 9,96%, dân tộc Khơ Mú 5,58%, dân tộc Lào 2,84%, các dân tộc khác 1,78%). Huyện Điện Biên có 171,202 km đường biên giới Quốc gia với 61 mốc biên giới, tiếp giáp với huyện Phôn Thoong, tỉnh Luông Pha Băng và huyện Mường Mày, tỉnh Phông Sa Lỳ (Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào); có 02 cửa khẩu (Cửa khẩu Quốc Tây Trang, Cửa khẩu chính Huổi Puốc) và nhiều đường tiểu ngạch sang Lào. Đảng bộ huyện có 68 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc (28 đảng bộ, 40 chi bộ); 563 chi bộ cơ sở trực thuộc Đảng ủy; tính đến ngày 31-5-2019, Đảng bộ huyện có 6.646 đảng viên. Trong những năm qua, huyện Điện Biên tiếp tục nhận được sự quan tâm chỉ đạo, hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh. Các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội đã được huyện triển khai hiệu quả. Kinh tế của huyện tiếp tục tăng trưởng theo hướng bền vững, văn hóa – xã hội từng bước phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc được nâng lên, nông thôn có nhiều thay đổi mới; an ninh chính trị ổn định, chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững; quan hệ đối ngoại được tăng cường mở rộng. Cấp ủy, chính quyền từ huyện đến cơ
  • 28. 21 sở đã quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao đối với các hoạt động tôn giáo, lắng nghe, tiếp nhận ý kiến từ người dân theo đạo, quan tâm xử lý và theo dõi tình hình tôn giáo một cách thường xuyên liên tục. Nhờ đó, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc trong huyện Điện Biên cũng từng bước được nâng lên. Kết cấu hạ tầng khu vực nông thôn, vùng dân tộc phát triển nhanh, bước đầu đáp ứng phát triển sản xuất và phục vụ đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện. Đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số đã có những bước trưởng thành, bước đầu tham gia vào công tác lãnh đạo quản lý, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực biên giới cơ bản ổn định, giữ vững được mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa nhân dân khu vực biên giới Việt - Lào. Các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân đã phối hợp chặt chẽ trong công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; góp phần đấu tranh ngăn chặn hoạt động lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền đạo trái pháp luật, ngăn chặn di dân tự do, giải quyết kịp thời các vụ tranh chấp, khiếu kiện. Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương cũng được đẩy mạnh và tăng cường. Hệ thống chính trị cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn. Công tác phát triển đảng viên ở vùng đặc biệt khó khăn, các dân tộc ít người được quan tâm, chú trọng hơn. Công tác dân vận ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện có hiệu quả. Đội ngũ người có uy tín, cốt cán trong tôn giáo phát huy được vai trò trong việc tuyên truyền chính sách, nắm bắt tâm tư nguyện vọng, giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong đồng bào dân tộc thiểu số. Hiện tại, cán bộ lãnh đạo là người dân tộc chiếm 52,6%. Công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tiếp tục đạt được kết quả tích cực. Các chính sách hỗ trợ sản xuất, khuyến nông,
  • 29. 22 khuyến lâm được thực hiện đồng bộ, nhiều mô hình, tổ hợp sản xuất đã ứng dụng khoa học kỹ thuật đạt hiệu quả. Đến nay, tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện giảm xuống còn 15,73% (năm 2010 là 33,8%); 100% xã có đường ô tô đến trung tâm, 100% số xã có điện, hơn 90% hộ được dùng điện, 100% xã đặc biệt khó khăn có trường trung học cơ sở, tiểu học, nhà mẫu giáo, lớp bán trú dân nuôi và trạm y tế. Song, việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số ở huyện Điện Biên còn nhiều vướng mắc. Do điều kiện kinh tế, xã hội kém phát triển, trình độ dân trí thấp, hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên việc phổ cập kỹ thuật kinh tế, nuôi trồng từ đó nâng cao đời sống nhân dân rất khó khăn. Bên cạnh đó, do huyện Điện Biên là một huyện vùng núi, biên giới, nhiều dân tộc, địa bàn rộng, cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội chưa đồng bộ, đời sống và việc làm của một số bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn huyện còn cao (tính đến tháng 6/2019 vẫn còn khoảng 15,95% hộ nghèo). Chính vì vậy, thời gian qua, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn những nhân tố phức tạp, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá về nhiều mặt. 1.2.2. Tình hình tôn giáo ở huyện Điện Biên Trước năm 1987, đại đa số đồng bào theo tín ngưỡng dân gian, phổ biến nhất là tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và thờ anh hùng dân tộc. Đến năm 1987, các thế lực thù địch và phần tử xấu muốn lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền mê tín dị đoan, phát triển đạo lạ và chống phá chính quyền. Một bộ phận đồng bào dân tộc ít người, chủ yếu là dân tộc Mông, dân tộc Thái bị lôi kéo làm cho đời sống của đồng bào thêm khó khăn, gây nên phức tạp về an ninh trật tự ở địa phương. Năm 1990, nhờ công tác tuyên truyền, vận động của cấp uỷ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể, một bộ phận quần chúng cũng thấy được tính hoang đường của một số luận điệu. Quá trình hội nhập và phát triển những năm gần đây, một bộ phận đồng bào đã tin theo một số tôn giáo như Tin Lành, Công Giáo, Phật Giáo,…. Và một số ít
  • 30. 23 người bị ảnh hưởng hiện tượng tôn giáo mới như Tâm linh Hồ Chí Minh, Pháp luân công, Hội thánh đức chúa trời,... Tuy nhiên, do nhận thức của đồng bào còn hạn chế, vì vậy, việc sinh hoạt tôn giáo không ổn định, tự phát, khó xác định. Thông qua các buổi tụ tập trái phép, một số đối tượng đã đe doạ những người không theo tôn giáo của chúng. Ở một số nơi, chúng đã công khai dụ dỗ, lôi kéo cán bộ xã, hứa hẹn giúp đỡ khi gặp khó khăn, lôi kéo, kích động, khống chế quần chúng. Bên cạnh ý đồ xây dựng nhà nguyện; chúng còn viết đơn gửi chính quyền đòi được tự do theo đạo, tự do cầu nguyện nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Việc tuyên truyền phát triển đạo lạ đã kéo theo vấn đề di dân tự do để hoạt động tôn giáo. Việc theo tôn giáo và sinh hoạt tôn giáo của người dân có đạo ở huyện Điên Biên chủ yếu mang tính tự phát; trước đây hoàn toàn bí mật, lén lút, người dân theo tôn giáo tránh tiếp túc với cán bộ. Đến khi có Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua ngày 18/6/2004 (được Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký ngày 29/6/2004 thì tình hình sinh hoạt tôn giáo nhìn chung diễn ra bình thường, công khai. Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền đạo trái pháp luật còn tiềm ẩn diễn biến phức tạp, đặc biệt là khu vực biên giới. Số người theo tôn giáo ở huyện Điện Biên chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông; song, phần lớn trình độ dân trí của trưởng điểm nhóm và đồng bào Mông theo đạo còn hạn chế, chưa hiểu được giáo lý, giáo luật, lễ nghi cơ bản của các tôn giáo. Do vậy, việc hành đạo chủ yếu tự phát, sinh hoạt không ổn định; việc theo đạo, nội dung sinh hoạt đạo…phụ thuộc phần lớn vào trưởng điểm nhóm. Một bộ phận nhân dân theo đạo ở vùng biên giới còn nhận thức mơ hồ, không phân biệt rõ giữa sinh hoạt tôn giáo thuần túy với việc lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền đạo trái pháp luật, do vậy dễ bị lôi kéo, kích động. Tính đến ngày 30/6/2008 trên địa bàn huyện Điện Biên có 202 hộ; 1117 khẩu ở 10 xã hoạt động tôn giáo lạ. Các tổ nhóm trên đều hoạt động bán công khai tại gia hoặc tụ tập tại một chỗ cầu nguyện để tuyên truyền đạo. Tuy nhiên, chưa có cơ sở nào công khai chống phá chính quyền địa phương, khi có cán bộ hoặc người lạ ngoài bản đến thì nhóm người này tự giải tán.
  • 31. 24 Đến năm 2009, các dân tộc và các tín đồ tôn giáo đa số tin tưởng vào chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đoàn kết hăng hái tăng gia sản xuất, góp phần vào việc thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của xã và huyện. Tuy nhiên, từ khi Đoàn tự do các vấn đề về tôn giáo của Hợp chủng quốc Hoa kỳ (Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế) đến làm việc ở một số điểm có hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên (như xã Nong Luống) (năm 2009), trong những năm sau đó số lượng tín đồ tăng lên nhanh chóng và khó kiểm soát [36]. Năm 2018, những người theo đạo trên địa bàn huyện, chủ yếu theo 2 tôn giáo là Tin Lành và Công giáo. Tổng các xã thuộc huyện có người theo đạo là 22/25 xã, với 116 thôn (bản), 656 hộ, 3278 người. Về thành phần dân tộc theo đạo gồm 3 dân tộc: Mông, Thái, Kinh (trong đó chủ yếu là dân tộc Mông) [47]. a. Tình hình đạo Tin Lành Đạo Tin Lành bắt đầu xuất hiện trên địa bàn huyện Điện Biên từ năm 1987, khi một số thế lực thù địch muốn lợi dụng tôn giáo để gây mất trật tự xã hội. Ban đầu chúng muốn lợi dụng Công giáo, nhưng các đối tượng đứng đầu đã nhận thấy giáo lý của đạo này phức tạp, kinh sách không đến được với dân, có một số điểm không phù hợp với phong tục tập quán của người Mông; theo Công giáo phải có nhà thờ. Do đó, một số phần tử cầm đầu một số điểm nhóm tại huyện Điện Biên đã tìm đến với Hội thánh Tin lành miền Bắc ở số 2 - Ngõ Trạm - Hà Nội. Bắt đầu từ năm 1993, chúng đã lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền phát triển đạo Tin Lành trái phép. Khi về địa phương, số đối tượng này hoạt động rất tích cực làm cho tình hình ngày càng phức tạp hơn. Phạm vi ảnh hưởng của chúng ngày càng lan rộng, số xã, số hộ và số người theo đạo ngày càng gia tăng. Không chỉ dừng lại ở dân tộc Mông mà đã lây lan, ảnh hưởng tới một bộ phận đồng bào dân tộc Thái. Các đối tượng đã tìm mọi cách liên hệ với các tổ chức tôn giáo ở trong và ngoài nước để gây thanh thế, tạo ảnh hưởng, tranh thủ sự giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Chúng thường xuyên liên hệ với Tổng hội thánh Tin Lành (cả ở miền Bắc và miền Nam) để học
  • 32. 25 cách truyền đạo, xin tài liệu và mẫu đơn phát cho các hộ, tuyên truyền, hướng dẫn người dân xin theo đạo Tin Lành. Nhờ sự quan tâm, tuyên truyền của của chính quyền, đặc biệt khi có Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 4/2/2005 về Một số công tác đối với đạo Tin Lành thì các tín đồ của đạo Tin Lành mới công khai hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật. Tính đến thời điểm hiện tại, đạo Tinh Lành tại địa phương chưa có có cơ sở thờ tự, tín đồ của đạo Tin Lành thường sinh hoạt tập trung tại nhà trưởng nhóm ở các điểm nhóm; một tuần sinh hoạt 2 lần vào tối thứ 5 và sáng chủ nhật; nội dung sinh hoạt gồm hát thánh ca, tổ chức cầu nguyện, đọc kinh thánh bằng tiếng Mông La tinh, cầu nguyện xin Chúa chữa bệnh và ban phước lành,… Phần lớn tín đồ theo đạo Tin Lành chủ yếu là dân tộc Mông, một số ít là dân tộc Thái. Các tín đồ theo đạo Tin lành chiếm số đông là đồng bào dân tộc thiểu số, tập trung tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn; trình độ dân trí thấp do mới theo đạo nên sự am hiểu về giáo lý, giáo luật, nghi lễ còn rất hạn chế. Đạo Tin Lành được chia thành 6 hệ phái bao gồm: Hội thánh Tin lành Việt Nam miền Bắc; Hội thánh Liên đoàn truyền giáo phúc âm (Lê Minh Đức); Hội thánh Liên hữu Cơ đốc Việt Nam; Hội thánh Cơ đốc phục lâm; Hội thánh Tin lành Giám lý Liên hiệp Việt Nam; Hội thánh Phúc Âm Ngũ tuần Việt Nam. Đạo Tin Lành tại huyện Điện Biên từ năm 2008 đến năm 2018 có sự gia tăng về số lượng qua các năm. Năm 2009, số lượng tín đồ tôn giáo tăng mạnh và khó kiểm soát do có Đoàn tự do các vấn đề về tôn giáo của Hợp chủng quốc Hoa kỳ đến làm việc ở một số điểm có hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Điện Biên. Các điểm nhóm hầu hết đã hoạt động công khai và chưa phát sinh các mẫu thuẫn hay chống phá chính quyền nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trước năm 2015, tất cả các điểm nhóm đều chưa đăng ký cấp phép sinh hoạt. Sau thời gian rà soát, thẩm định, năm 2017 mới có có 2/11 cơ sở được đăng ký sinh hoạt, năm 2018 có 11/22 điểm nhóm được đăng ký sinh hoạt.
  • 33. 26 Bảng 1.1. Tình hình đạo Tin Lành qua các năm Năm Số xã có người theo đạo Số bản có người theo đạo Số hộ có người theo đạo Số người theo đạo Số điểm nhóm Thành phần dân tộc Kinh Mông Thái 2008 6 15 163 856 12 821 35 2009 7 18 221 1381 12 1346 35 2010 7 18 221 1382 13 1347 35 2011 8 19 300 1816 15 1781 35 2012 8 20 303 1890 15 1850 40 2013 9 21 310 1935 15 1890 45 2014 9 21 310 1935 15 1890 45 2015 10 38 369 2120 19 1 2074 45 2016 10 29 390 2235 19 1 2139 45 2017 12 39 466 2701 21 1 2656 50 2018 12 37 475 2758 22 1 2665 93 b. Công giáo Giống như Tin Lành, từ những năm 1990, một số đối tượng muốn lợi dụng Công giáo để tuyên truyền và chống phá chính quyền. Ban đầu, chúng tìm cách liên hệ với một số nhà thờ Công giáo ở Yên Bái, Sơn Tây, Hà Nội.... Được các linh mục Công giáo giảng giáo lý, lễ nghi, cách hành đạo, cung cấp kinh sách và hướng dẫn kinh nghiệm tuyên truyền; chúng đã tuyên truyền tại huyện Điện Biên rằng "theo Công giáo là quyền tự do tín ngưỡng, được Nhà nước cho phép, có sách dạy, có người hướng dẫn, đã có nhiều nhà thờ lớn ở Hà Nội và các tỉnh trong cả nước...". Sau một thời gian tuyên truyền phát triển Công giáo trái phép, các đối tượng đứng đầu các điểm nhóm Tin Lành đã nhận thấy giáo lý của đạo này phức tạp, kinh sách không đến được với dân, có một số điểm không phù hợp với phong tục tập quán của người Mông; theo Công giáo phải có nhà thờ, có linh mục nên việc lợi dụng Công giáo của các đối tượng xấu không thành. Sau đó, Công giáo chính thức được du nhập vào huyện Điện Biên bởi những các tín đồ theo Công giáo chủ yếu là người dân tộc Kinh, có nguồn gốc từ các tỉnh đồng bằng lên xây dựng vùng kinh tế mới hoặc theo gia đình lên làm ăn sinh sống tại Điện Biên trong một vài năm trở lại đây. Các tín đồ theo Công giáo giáo trên địa
  • 34. 27 bàn chiếm số lượng ít, trình độ dân trí tương đối cao, có am hiểu giáo lý, giáo luật, đã có thời gian sinh hoạt nhất định. Bảng 1.2. Tình hình Công giáo qua các năm Năm Số xã có người theo đạo Số bản có người theo đạo Số hộ có người theo đạo Số người theo đạo Số điểm nhóm Thành phần dân tộc Kinh 2008 4 7 16 24 0 24 2009 4 7 39 190 0 190 2010 4 9 39 190 1 190 2011 4 12 39 190 1 190 2012 4 12 20 95 1 95 2013 4 15 32 88 1 88 2014 4 12 18 55 1 55 2015 4 12 18 46 1 46 2016 4 15 21 50 1 50 2017 4 12 15 99 1 99 2018 4 12 15 99 1 99 Số lượng tín đồ Công giáo có sự biến đổi liên tục qua các năm do chủ yếu họ là người Kinh lên xây dựng vùng kinh tế mới. Sau đó, một số di dân sang địa phương khác, một số trở về quê hương dẫn đến sự biến động liên tục về số lượng tín đồ Công giáo. Khi mới du nhập vào huyện Điện Biên, Công giáo chủ yếu được hoạt động phạm vi gia đình, các gia đình theo Công giáo thờ cúng, đọc kinh thánh,… tại gia đình. Từ năm 2010, một số tín đồ Công giáo mới tập trung thành một điểm nhóm sinh hoạt tập trung. Hoạt động tôn giáo diễn ra hàng tuần vào thứ 7 và chủ nhật, họ tập trung đọc kinh thánh, cầu nguyện sám hối,… Ngoài ra, các tín đồ Công giáo cũng tổ chức hoạt động vào các ngày lễ lớn của Công giáo. Tuy nhiên, tại địa bàn huyện Điện Biên chưa có nhà thờ của Công giáo. c. Phật giáo Phật giáo là một tôn giáo mới du nhập vào địa bàn huyện từ năm 2006 nhưng hoạt động không công khai. Giống như Công giáo, các tín đồ Phật giáo chủ yếu là người dân tộc Kinh từ các tỉnh đồng bằng lên sinh sống và tiếp tục hoạt động tôn
  • 35. 28 giáo. Các tín đồ Phật giáo cũng chủ yếu hoạt động tại gia dưới hình thức tụng kinh niệm Phật, ăn chay,… Số liệu về Phật giáo chưa được thống kê đầy đủ như Công giáo và Tin Lành. Số liệu năm 2018 có 112 hộ, 308 người theo Phật giáo [49]. Khi du nhập vào địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng, cho đến nay, Phật giáo đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, hỗ trợ chính quyền trong nhiều công việc xã hội, vận động quần chúng, nhất là tham gia tích cực trong các hoạt động từ thiện, phúc lợi (khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo, tặng các suất quà cho gia đình khó khăn, ủng hộ kinh phí làm đường,…) Du nhập vào đời sống nhân dân tuy mới mẻ, và là một tôn giáo lớn nhưng Phật giáo tại tỉnh Điện Biên nói chung và huyện Điện Biên nói riêng lại rất ôn hòa với phong tục tập quán của nhân dân, nhất là các dân tộc ít người. Điều này khiến cho nhân dân cảm thấy Phật giáo rất gần gũi với đời sống của họ, Trong các nghi thức Phật giáo hàng năm tổ chức tại hai chùa Linh Sơn (xã Thanh Luông) và Linh Quang (xã Thanh Nưa) đều nhận được sự quan tâm và ủng hộ từ phía đông đảo người dân địa phương. Đó chính là sự phản ánh thành công của Phật giáo tại huyện Điện Biên khi mới chỉ xuất hiện trong đời sống tinh thần của người dân. Tuy xuất hiện sau nhưng đến nay Phật có 03 cơ sở thờ tự là Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đồi Tông Khao và xây dựng 2 chùa là chùa Linh Quang (xã Thanh Nưa) và chùa Linh Sơn (xã Thanh Luông) (xây dựng năm 2014) [41], đây là 2 ngôi chùa duy nhất của tỉnh Điện Biên, trực thuộc trên địa bàn huyện Điện Biên, nơi tổ chức tôn giáo khi xây dựng đã làm đầy đủ các thủ tục pháp lý. Từ khi có cơ sở thờ tự, các tín đồ Phật giáo tổ chức các hoạt động tại đây vào ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng và các ngày lễ khác của Phật giáo. d. Một số hiện tượng tôn giáo mới Ngoài các tôn giáo đã biết như Tin Lành, Công giáo, Phật Giáo; còn có một số ít người bị ảnh hưởng bởi hiện tượng mang tính chất tôn giáo mới như Tâm linh Hồ Chí Minh, Pháp Luân Công, Hội thánh Đức Chúa Trời,..
  • 36. 29 Tâm linh Hồ Chí Minh là một hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện từ năm 2011, các tín đồ chủ yếu là dân tộc Kinh. Sự xâm nhập chủ yếu của dòng “Đạo lạ” vào huyện Điện Biên, xuất phát từ những người tự cho là được Người cõi âm về báo mộng. Sau đó đi về các nhà chùa ở miền xuôi mua kinh sách hoạc băng đĩa về học ca theo và sau đó tiếp tục được sao chép lại cho những người có tư tưởng mê tín, dị đoan, những người hay ốm yếu, gặp bất chắc trong việc làm ăn mua bán và trong cuộc sống đời thường….Cách thức hoạt động chủ yếu của Tâm linh Hồ Chí Minh không theo quy luật. Lúc thì tại gia, lúc thì tập trung tại một điểm (Nhà thầy) để thắp hương dâng lễ và ca theo băng, đĩa. Khi tham gia, các tín đồ bắt buộc phải có lễ, mỗi tháng hai lần phải chi phí cho việc mua sắm lễ, nên ít nhiều ảnh hưởng đến kinh tế gia đình, đặc biệt là các đối tượng ở nông thôn; Hai là tạo tâm lý hoang mang, hoài nghi cho người dân và ảnh hưởng đến an ninh trật tự khu vực. Số lượng tín đồ gồm 25 hộ với 94 người, tại 09 thôn, bản [49]. Pháp luân công là hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện năm 2017. Ban đầu, các đối tượng lên phát hành sách hướng dẫn tuyên truyền Pháp luân công là gì. Sau khi UBND gửi văn bản nhắc nhở và thu hồi sách vì chưa xin phép thì những người theo Pháp luân công chỉ dừng lại ở việc tập thiền và 5h chiều hàng hàng. Số lượng tín đồ năm 2018 là 8 hộ, 8 người [47,tr.2]. Hội thánh Đức Chúa trời bắt đầu xuất hiện tại huyện Điện Biên từ năm 2016 nhưng thực sự gây ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của người dân địa phương từ năm 2018. Một nhóm đối tượng tự xưng là thành viên Hội thánh đã tiếp tục lôi kéo, dụ dỗ nhiều đối tượng tham gia dưới nhiều hình thức, gây dư luận không tốt trong xã hội với nội dung tuyên truyền gây hoang mang trong nhân dân, hành vi xúi giục, kích động tín đồ ứng xử không hiếu kính với cha mẹ, đập phá bàn thờ tổ tiên gia đình, tuyên tuyền người thân là ma quỷ. Khi tham gia, tín đồ được uống “nước thánh”, không thờ cúng tổ tiên và phải nộp 1/10 thu nhập. Tính đến năm 2018, vẫn còn 11 hộ với 11 người đã tin và theo Hội thánh [48]. Các tôn giáo mới xuất hiện thường hoạt động truyền đạo lén lút, không có đăng ký với chính quyền. Đặc biệt, gần đây là Pháp luân công, không có báo cáo
  • 37. 30 hay đăng ký với chính quyền, hình thức truyền đạo là truyền miệng, phát tán băng, đĩa, in ấn sách một cách rất bài bản, nhưng các tôn giáo này cũng rất khó lấy lòng dân, vì tập quán, văn hóa của nhân dân huyện Điện Biên đa số là người dân tộc. 1.2.3. Đặc điểm tôn giáo ở huyện Điện Biên Thứ nhất, các tôn giáo trên địa bàn huyện Điện Biên đều là những tôn giáo ngoại nhập. Trước đây, trên địa bàn huyện Điện Biên vốn không có tôn giáo, các tôn giáo lớn ở Việt Nam như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành,…cũng không tìm thấy bóng dáng ở mảnh đất này. Đa số người dân chỉ thờ cúng tổ tiên. Sau này, một bộ phận nhân dân di cư từ miền xuôi lên Điện Biên xây dựng kinh tế mới đã mang theo tín ngưỡng của họ như tín ngưỡng thờ mẫu, bổ sung thêm vào hình thức tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền thống của người dân ở huyện Điện Biên. Do người dân chủ yếu tin theo các loại hình tín ngưỡng nên chưa có nhu cầu xin lập cơ sở thờ tự mà thường thực hành nghi thức trong gia đình. Trước năm 1987 trên địa bàn huyện Điện Biên không có hoạt động tôn giáo, không có cơ sở thờ tự (chùa chiền, nhà thờ, nhà nguyện,…). Bắt đầu từ năm 1987, các tôn giáo lần lượt du nhập vào huyện Điện Biện. Sớm nhất là Công giáo và Tin lành bắt đầu truyền đạo ở trên địa bàn huyện Điện Biên từ năm 1987. Đến năm 2014, Phật giáo mới du nhập vào huyện Điện Biên. Các hiện tượng tôn giáo mới cũng lần lượt xuất hiện trong những thời điểm khác nhau. Tất cả các tôn giáo ở huyện Điện Biên đều được du nhập từ bên ngoài vào chứ không có tôn giáo bản địa được nảy sinh từ chính Điện Biên. Thứ hai, các tôn giáo khi du nhập vào huyện Điện Biên cùng chung sống ôn hòa, không xảy ra mâu thuẫn hay tranh chấp giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo du nhập với tín ngưỡng bản địa vốn có của người dân có sự dung hợp, đan xen nhau chứ không có sự kỳ thị, hoặc khó thích ứng. Mặc dù Công giáo và Tin lành là hai tôn giáo du nhập vào địa bàn tỉnh Điện Biên cũng như huyện Điện Biên trước Phật giáo hay tín ngưỡng thờ mẫu,… nhưng giữa các tôn giáo, tín ngưỡng này chưa từng xảy ra xung đột. Kể từ khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Ban trị sự Giáo hội
  • 38. 31 Phật giáo Việt Nam tỉnh Điện Biên vào ngày 25 tháng 04 năm 2014 cho đến thời điểm hiện tại thì không xảy ra mâu thuẫn với Công giáo, Tin lành hay bất kỳ tôn giáo nào khác đang hoạt động trên địa bàn huyện Điện Biên, đó là một bằng chứng điển hình cho sự ôn hòa giữa các tôn giáo du nhập vào địa bàn. Cho đến hiện nay, các phong tục tập quán của từng dân tộc sống trên địa bàn huyện vẫn được giữ gìn và phát huy như múa xòe, ném còn thường tổ chức vào các ngày lễ tết, ngày hội của dân tộc Thái, các thủ tục nghi lễ truyền thống cổ truyền của các cụ để lại vẫn được các thế hệ hậu duệ giữ gìn và phát huy như hàng năm sau mùa thu hoạch dân tộc Thái cúng “Cơm mới” tại các gia đình, cúng bản “Sên Bản” mỗi năm một lần hoặc ba năm một lần tập trung cả bản, cúng chém dê cho những người bị ốm. Các làng nghề truyền thống cũng được tái hiện và giữ gìn đời trước truyền cho đời sau như làng nghề “ Dệt thổ cẩm”, làng nghề “Đan lát”. Việc duy trì nơi sinh hoạt tập trung của bản cũng được quan tâm đầu tư xây dựng “ Nhà văn hóa bản”. Các dân tộc khác cũng duy trì các tập tục theo cách riêng của mình, mục đích là cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng sinh sôi nảy nở, con người mạnh khỏe, làm ăn gặp nhiều điều tốt, điều lành. Bất kỳ tôn giáo du nhập nào khi vào địa bàn huyện Điện Biên đều chấp nhận nhữngvăn hóa mang bản sắc riêng của từng dân tộc, những tín ngưỡng vốn có từ trước và mang đậm chất dân tộc riêng, chưa từng có chuyện tôn giáo du nhập bắt buộc người theo tôn giáo đó phải từ bỏ văn hóa, tín ngưỡng của địa phương vốn có từ trước. Thứ ba, các hiện tượng tôn giáo mới, trong đó có một số loại là cực đoan, phản văn hóa, được gọi là các loại hình đạo lạ khi truyền bá lén lút vào nhân dân trên địa bàn huyện Điện Biên, chủ yếu tập trung vào những vùng kinh tế còn khó khăn, vùng sâu, vùng xa nơi người dân có cuộc sống khó khăn, dân trí thấp. Từ năm 1987 đến nay các thế lực thù địch và phần tử xấu đã lợi dụng trình độ dân trí, quyền tự do tín ngưỡng và những khó khăn của đồng bào để tuyên truyền mê tín dị đoan, phát triển đạo lạ vào một bộ phận đồng bào dân tộc ít người, chủ yếu là dân tộc Mông, Thái. Ví dụ trên địa bàn huyện Điện Biên các hoạt động tuyên truyền đạo lạ trái phép đã từng có và vẫn diễn ra ở xã Mường Nhà, xã Mường Pồn,
  • 39. 32 xã Nà Tấu, xã Nà Nhạn, xã Noong Luống,… Đây đều là những xã có lượng đồng bào dân tộc lớn kèm theo khó khăn về kinh tế và là những nơi có địa bàn phân bố dân cư thưa thớt, trình độ dân trí còn thấp. Các hành vi tuyên truyền đạo lạ hoặc trái phép ở những địa bàn xa xôi, kinh tế khó khăn này lại diễn ra lén lút, khi có cán bộ hoặc người lạ ngoài bản đến thì nhóm người này tự động giải tán, khi cán bộ hoặc người lạ đi thì lại tụ tập, hoạt động. Chiêu bài tuyên truyền của các đối tượng đó là nhằm vào đời sống kinh tế khó khăn, tình trạng dân trí thấp, sự mê tín, phong tục tập quán lạc hậu của người dân và lợi dụng thêm cả những thiên tai gây hậu quả lớn thường gặp ở vùng sâu, vùng xa để làm cơ sở lấy lòng tin của người dân ở những địa bàn này. Thứ tư, vì huyện Điện Biên có nhiều dân tộc cùng sinh sống, tôn giáo khi du nhập vào kết hợp với tín ngưỡng bản địa tạo ra rất nhiều nét mới trong từng bộ phận dân tộc khác nhau cũng như sự đổi mới ở các tôn giáo du nhập này. Đặc điểm này trên địa bàn huyện Điện Biên đã hình thành từ lâu, kể từ khi Công giáo, Tin lành, Phật giáo, … du nhập vào Điện Biên. Đây là điều chắc chắn xảy ra, tuy sẽ tạo ra sự phức tạp hơn nhưng là điều có thể dự báo. Xuất phát từ đặc điểm này, yêu cầu quản lý đối với hoạt động tôn giáo phải được đề cao vì nếu quản lý không phù hợp dễ tạo mất niềm tin, xung đột với tín đồ,… Tiểu kết chương 1 Chương 1 đã làm rõ những khái niệm liên quan đến QLNN đối với hoạt động tôn giáo, bao gồm các khái niệm về quản lý, QLNN, QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Từ đó chỉ ra khách thể và chủ thể, mục đích, nguyên tắc, nội dung của quá trình QLNN đối với hoạt động tôn giáo. Đồng thời, chương 1 đã giới thiệu về huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên thông qua vị trí địa lý , điều kiện tự nhiên, các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – xã hội. Chương này cũng đã khái quát tình hình, đặc điểm tôn giáo của huyện. Nhận thấy huyện không có nhiều tôn giáo, trong đó có ba tôn giáo chính đã được nhà nước công nhận là Tin Lành, Công giáo và Phật giáo. Nêu lên đặc điểm cơ bản của tôn giáo ở huyện Điện Biên như các tôn giáo tại huyện Điện Biên đều là tôn giáo ngoại nhập; khi du
  • 40. 33 nhập vào địa phương, các tôn giáo sống hòa thuận với nhau, nhưng cũng tồn tại những mặt trái cần các cấp quản lý chú ý như các cá nhân lợi dụng tôn giáo để gây mất trật tự an ninh hoặc sự xuất hiện của một số hiện tượng tôn giáo mới. Những nội dung trên là cơ sở quan trọng để tác giả phân tích, đánh giá thực trạng công tác QLNN đối với hoạt động tôn giáo được trình bày ở chương sau.
  • 41. 34 Chương 2 CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN – THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 2.1. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên Kể từ sau Đại hội VI năm 1986, cùng với những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, kinh tế trên địa bàn huyện Điện Biên đạt tốc độ tăng trưởng ngày càng tốt hơn. Đặc biệt, kể từ sau năm 1990 (đánh dấu đổi mới trong lĩnh vực tôn giáo bằng Nghị quyết số 24 – NQ/TW của Đảng), kinh tế ở các địa bàn có tín đồ, hoạt động tôn giáo đã ngày càng phát triển, cải thiện tốt hơn đời sống vật chất của nhân dân, góp phần củng cố tinh thần cho đồng bào có đạo. Đời sống văn hóa của nhân dân huyện Điện Biên từng bước được nâng lên. Những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc như lòng nhân ái, nghĩa tình, giúp đỡ người nghèo, năng động sáng tạo được chú trọng phát huy… Các chương trình an sinh và công tác xã hội đạt nhiều kết quả có ý nghĩa quan trọng. Những phong tục, lễ nghi, lễ hội của các dân tộc đồng bào ở huyện Điện Biên được giữ gìn và tổ chức định kỳ, phong phú và đầy đủ. Huyện Điện Biên giữ vững ổn định chính trị , bảo đảm trật tự xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, tăng cường, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, đã có nhiều hoạt động phong phú, góp phần xây dựng quê hương đất nước (như các chương trình từ thiện nhân đạo, an sinh xã hội của Phật giáo, Công giáo năm 2017 và 2018 tại địa bàn huyện Điện Biên). Bên cạnh đó, các chỉ thị, chủ trương, chính sách về tôn giáo ngày càng cởi mở: Chỉ thị 37- CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999của Chính phủ về các hoạt động tôn giáo, các Thông tư của Ban Tôn giáo Chính phủ, đặc biệt Thông tư bổ sung sửa đổi Thông tư số 01/1999/TT/TGCP của Ban Tôn giáo Chính phủ: Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định của Chính phủ số
  • 42. 35 26/1999/NĐ-CP của Ban Tôn giáo Chính phủ đã có tác dụng tốt, giúp công tác QLNN về hoạt động tôn giáo đạt hiệu quả cao hơn. Nghị quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo được chức sắc và tín đồ các tôn giáo tiếp nhận với thái độ phấn khởi và tin tưởng hơn. Sự kiện lớn trong năm 2004 là Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo được ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004, được Chủ tịch nước ký lệnh ban hành vào ngày 29 tháng 6 và Pháp lệnh có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 11 năm 2004. Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo ban hành là sự thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Nội dung Pháp lệnh được đa số chức sắc các tôn giáo đồng tình, phấn khởi an tâm hành đạo. Tiếp theo, ngày 01 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nhằm cụ thể hóa tư tưởng – tinh thần Pháp lệnh, hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện tốt công tác QLNN về tôn giáo trong tình hình hiện nay. Luật số 02/2016/QH14 của Quốc hội: Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 162/2017/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo đã cụ thể hóa hơn về các lĩnh vực của đời sống Tín ngưỡng, Tôn giáo, là căn cứ pháp lý quan trọng giúp việc triển khai các hoạt động liên quan đến tôn giáo được thống nhất, rõ ràng hơn. Bên cạnh những thuận lợi vừa nêu, công tác QLNN về hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên cũng có một số khó khăn nhất định, như: việc quản lý các điểm nhóm Tin lành (đặc biệt là điểm nhóm Tin lành của người Mông), vấn đề các tổ chức phi chính phủ nước ngoài; và đặc biệt là vấn đề an ninh tôn giáo, chống lại các âm mưu thủ đoạn của các phần tử xấu trong tôn giáo và bọn phản động lưu vong ở nước ngoài cấu kết với các thế lực thù địch quốc tế, lợi dụng tôn giáo phá hoại công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Đánh giá chung có thể thấy rõ rằng với huyện Điện Biên là một huyện lớn nhất của tỉnh Điện Biên, một tỉnh vào cuối năm 2010 và đầu năm 2011 có bất ổn về vấn đề tôn giáo, dân tộc (sự phá rối, gây mất an ninh ở Mường Nhé). Trong bối