SlideShare a Scribd company logo
1 of 104
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THU NHUNG
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ
LUẬN VĂN
THẠC SĨ VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM
Thừa Thiên Huế, năm 2018
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
PHẠM THỊ THU NHUNG
ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TÔN THẤT DỤNG
Thừa Thiên Huế, năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép
sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Phạm Thị Thu Nhung
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này, tôi
đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và chỉ bảo nhiệt tình của thầy cô,
gia đình và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới quý thầy cô giáo Khoa
Ngữ Văn và Phòng Sau Đại học- Trường ĐHSP Huế đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi
điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian tôi học tập.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến TS. Tôn Thất Dụng
đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin tỏ lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng
Trị, Ban Giám hiệu Trường THPT Nguyễn Huệ- TX Quảng Trị đã tạo mọi điều
kiện, giúp đỡ và khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình,
bạn bè và đồng nghiệp luôn bên tôi, quan tâm, động viên tôi trong suốt quá trình
học tập.
1
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục.......................................................................................................................1
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................3
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài...................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7
3.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................7
3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................8
4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................8
5. Đóng góp của luận văn...........................................................................................9
6. Cấu trúc luận văn....................................................................................................9
NỘI DUNG...............................................................................................................10
Chương 1: Ý thức sáng tạo và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thụy Vũ.....10
1.1. Sáng tạo nghệ thuật............................................................................................10
1.1.1. Những trang văn giàu sự trải nghiệm..............................................................10
1.1.2. Sự đa dạng, mạnh bạo trong đề tài.................................................................12
1.1.3. Sự khẳng định bản lĩnh cá tính sáng tạo.........................................................15
1.2. Quan niệm về nghệ thuật...................................................................................17
1.2.1. Quan niệm về hiện thực trong văn chương....................................................17
1.2.2. Quan niệm về nhà văn, nghề văn...................................................................19
1.3. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dòng chung của văn học nữ Nam Bộ
trước 1975.................................................................................................................21
Chương 2: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Cảm quan về hiện thực cuộc sống và
con người.................................................................................................................. 24
2.1. Cảm quan về hiện thực cuộc sống......................................................................24
2.1.1. Cuộc sống đời thường.....................................................................................24
2
2.1.2. Cuộc sống đô thị.............................................................................................41
2.2. Cảm quan về con người.....................................................................................52
2.2.1. Con người cô đơn............................................................................................53
2.2.2. Con người nổi loạn..........................................................................................57
2.2.3. Con người lo âu...............................................................................................61
2.2.4. Con người bản năng........................................................................................64
Chương 3: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Những hình thức thể hiện...................70
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật...........................................................................70
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật.........................................................71
3.1.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật............................................74
3.2. Ngôn ngữ............................................................................................................78
3.2.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................................78
3.2.2. Hệ thống ngôn từ đậm sắc thái Nam Bộ.........................................................82
3.3. Giọng điệu..........................................................................................................86
3.3.1. Giọng trữ tình, thương cảm.............................................................................87
3.3.2. Giọng suồng sã, đời thường............................................................................89
3.3.3. Giọng lạnh lùng, điềm nhiên, trầm tĩnh..........................................................93
KẾT LUẬN...............................................................................................................96
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................98
3
MỞ ĐẦU
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài
Văn xuôi là thể loại có khả năng miêu tả cuộc sống bề bộn, phức tạp; cũng là nơi
mà nhà văn có thể tung tẩy các yếu tố kỹ thuật, nghệ thuật. Văn xuôi, trong bản chất
của nó, luôn hướng đến những vấn đề muôn sắc màu của đời sống xã hội và con
người. Đi tìm vẻ đẹp văn chương, đi tìm những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật
có lẽ là một trong những hành trình vô cùng thú vị cho những ai yêu văn học.
Văn học Việt Nam đã và đang chứng kiến nhiều hiện tượng văn học thăng trầm.
Nỗ lực đánh giá, định danh trên bản đồ văn chương nước nhà cho một nhà văn
không phải là điều đơn giản. Nhưng độc giả vẫn rất trân trọng gọi tên họ: thế hệ các
cây bút trên hành trình làm mới thể loại và tìm kiếm, khẳng định bản ngã. Để hiểu
rõ và sâu sắc hơn diện mạo nền văn xuôi Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn văn
xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ để tìm hiểu, khám phá. Có thể nói rằng, văn xuôi
Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những hiện tượng văn học góp phần tạo nên tính
đa dạng của văn xuôi đô thị miền Nam trước năm 1975.
Khám phá thế giới văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, một lần nữa chúng ta có
dịp nhìn lại những giai đoạn phát triển, những bước chuyển mình, vận động của văn
xuôi đô thị miền Nam- một trong những bộ phận văn học quan trọng làm nên diện
mạo hoàn chỉnh của văn học Việt Nam, mà trong thực tế chúng ta vô tình lãng quên
hoặc không chú ý đến bộ phận văn học này. Trong dòng chảy của văn học Việt
Nam, bộ phận văn học miền Nam là một trong những bộ phận văn học hòa nhịp rất
nhanh vào dòng chảy của văn học thế giới. Vì vậy, tiếp nhận các tác phẩm Nguyễn
Thị Thụy Vũ cũng là cách để chúng ta thấy một phần nào đó sự chuyển mình của
văn học Việt Nam trong sự phát triển chung của thời đại. Khi làm đề tài Đặc điểm
văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói trong việc
đọc lại, đánh giá lại, giới thiệu lại một số giá trị của văn học miền Nam nói chung
cũng như văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Tìm hiểu về Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những vấn đề khá mới mẻ.
Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những
4
cây bút có hướng đi riêng, phản ánh hiện thực trong cảm quan của một nhà văn nữ ở
miền Nam trước 1975. Các truyện ngắn và truyện dài của bà ra đời từ khoảng thời
gian 1965- 1975. Vào tháng 3 năm 2017, Hội Nhà văn đã tái bản lại mười tác phẩm
của bà.
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tìm thấy một số tài liệu liên quan đến
văn học miền Nam nói chung cũng như về Nguyễn Thị Thụy Vũ nói riêng.
Trước hết, phải kể đến công trình nghiên cứu của Võ Phiến, Văn học miền
Nam- Tổng quan (tháng 5,1986). Đây là một trong những cuốn sách không những
giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn
cung cấp cho người đọc một khối tài liệu khá lớn và đáng tin cậy về một nền văn
học ngỡ đã bị quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa
như thế, bộ Văn học Miền Nam của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu: “Tổng quan”, đã
cung cấp những tư liệu, nhận định riêng về văn học miền Nam giúp người nghiên
cứu có cái nhìn bao quát hơn về bộ phận văn học này. Tác giả Võ Phiến đã khảo sát
một số yếu tố chính trong sinh hoạt văn học miền Nam như: nhà văn, độc giả và
xuất bản; sau đó, ông lần lượt trình bày các giai đoạn chính và phân tích những đặc
điểm nổi bật nhất; cuối cùng, đối chiếu sơ lược văn học miền Nam với văn học
miền Bắc và văn học “tiền chiến” để thấy được tiến trình vận động của mỗi bộ phận
văn học. Từ đó, có cái nhìn, sự đánh giá về đóng góp và thành tựu mỗi miền cũng
như sự đa dạng của văn học Việt Nam.
Tác giả Thụy Khê trong công trình nghiên cứu “Văn học miền Nam từ
1954-1975” (Pari, tháng 10/2007, đọc lại và sửa chữa 04/07/2014) mang đến sự
đánh giá khá khái quát, công phu về văn học miền Nam: tác giả, chữ quốc ngữ,
hoàn cảnh lịch sử tác động đến văn học, và đặc biệt là đưa ra những nhận xét đánh
giá của mình về văn học miền Nam từ 1945- 1975 khi tìm hiểu các khuynh hướng,
đặc điểm của văn học giai đoạn này “Đặc điểm chính của nền văn học miền Nam từ
1954 đến 1975, là đã thoát khỏi văn học thế kỷ XIX, giã từ lãng mạn tiền chiến.
Nhiều nhà văn tìm cách xây dựng tư tưởng trên nền triết học hiện đại, đưa con
người về hướng tìm hiểu chính mình. Triết học hiện sinh xuất hiện dưới nhiều hình
thức: phòng trà tửu quán, ăn chơi, bụi đời, là từng thấp nhất; ở mức cao hơn, nó
5
hậu thuẫn cho tác phẩm: con người quay về khảo sát chính mình, nhận thức chính
mình” [50]. Với bài viết này, ông đã cung cấp cho độc giả nhiều thông tin khá quan
trọng về văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954- 1975.
Tác giả Trần Doãn Nho đã có bài thuyết trình trong buổi hội thảo về “Hai
mươi năm Văn học miền Nam 1954-1975” tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt
vào ngày 06/12/2014. Trần Doãn Nho đã trình bày về Tính văn học trong văn học
miền Nam. Ông đã nêu những tác động ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của văn
học miền Nam. Theo ông,“Văn học miền Nam như một cánh rừng bạt ngàn. Nó
dung chứa hết thảy hình thức văn chương, từ bình dân đến cao cấp, từ hữu khuynh
đến tả khuynh, từ cổ điển đến hiện đại. Nhiều trào lưu, khuynh hướng chống đối
nhau vẫn cùng hiện diện. Trào lưu nào, khuynh hướng nào có độc giả của trào lưu
và khuynh hướng đó” [52].
Bài tham luận của nhà văn Bùi Vĩnh Phúc trong “Hội thảo hai mươi năm văn
học miền Nam 1954- 1975”, tại California, (06/12/2014) đã trình bày phẩm tính và
ý nghĩa của nền văn học này. Nhà văn khẳng định “Văn học miền Nam, từ 1954 đến
1975, là một đóng góp và một thành tựu của văn học Việt Nam, trong một giai đoạn
thuộc nửa sau thế kỷ XX. Nó chỉ tồn tại trong vòng 20 năm, nhưng nó đã là một tồn
tại quan trọng và không thể thiếu của giai đoạn này. Nói một cách thẳng thắn, nền
văn học này nối kết Việt Nam với thế giới, với nhân loại, trong những khía cạnh
hiện hữu người một cách vừa bao quát vừa thâm sâu nhất. Nó chia sẻ và phản ánh
thân phận và những tình cảm của con người ở những độ rung, những bảng mầu gần
gũi với các nền văn học hiện đại của thế giới, dĩ nhiên với những âm vang và sắc độ
riêng của đời sống xã hội và tinh thần của người Việt” [53]. Nhà văn đã nhận định
văn học miền Nam là một nền văn học đậm tính nhân bản, nhân văn. Đây là nền văn
học khai phóng, đa sắc và đa dạng.
Việc tìm hiểu đời sống văn học miền Nam 1954- 1975 trên các phương diện
từ lý luận, phê bình văn học, đến thực tế sáng tác đã được các nhà nghiên cứu, phê
bình văn học trước và sau 1975, cả trong Nam ngoài Bắc và người Việt ở hải ngoại
đề cập đến. Những công trình nghiên cứu hoặc các bài báo về vấn đề này, với
những quy mô khác nhau, xuất phát từ những “điểm nhìn”, quan điểm chính trị,
6
thẩm mỹ khác nhau đã đem đến người đọc những cách tiếp cận khác nhau (về văn
học đô thị miền Nam từ 1954 đến 1975) thì cũng có những nhận xét, đánh giá về
văn học giai đoạn này rất khác nhau. Từ đó, nó sẽ hỗ trợ, cung cấp cái nhìn toàn
diện hơn khi nghiên cứu về một tác giả cụ thể.
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ vào thập niên 1960-1970 từng nổi lên như
một trong năm nhà văn nữ hàng đầu của Sài Gòn. Trước đó nữa, vào năm 1969, nhà
phê bình Nguyễn Đình Tuyến cũng nhìn thấy ở văn chương Nguyễn Thị Thụy Vũ
những giá trị có tính thời đại: “Truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ thật là táo bạo. Đọc
xong truyện, tôi nghĩ đây mới thật là những truyện trình bày những sự kiện sống
thực nhất của thời đại chúng ta. Thời đại này rồi sẽ đi qua. Những cái gì của thời
này nếu không ghi kịp thì ngày mai sẽ mất” [49].
Vào năm 1973, nhà phê bình Uyên Thao từng dành cho Nguyễn Thị Thụy
Vũ những nhận định có tính gợi mở cho học giới về sau nghiên cứu văn của bà:
“Nguyễn Thị Thụy Vũ đã cho thấy tất cả những người đang sống chỉ thực sự được
sống bằng cách chạy trốn. Trong khi những kẻ yếu đuối chạy trốn vào vùng trời
tưởng tượng bi thảm của mình thì những kẻ tương đối mạnh dạn hơn chạy trốn vào
trong sự giả dối, che đậy. Ngoài hai lớp người ấy là một lớp người chạy trốn thực
sự, chạy trốn bằng cách ném mình vào những cuộc phiêu lưu mà mọi tính toán chỉ
dừng lại ở một điểm duy nhất: miễn là tách xa được thế giới tù hãm này” [49].
Tác giả Lam Điền có bài viết “Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ sau gần 50 năm ẩn
dật” đăng ngày 19/3/2017 đã giới thiệu những nét khái quát về con người cũng như
phong cách của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dịp tái bản lại mười tác phẩm.
Đặc biệt, tác giả Du Tử Lê đã có một bài viết khá hay về “Sự khác biệt về tính
dục trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ và các nhà văn nữ khác” (27/10/2010). Ông
đưa ra nhận xét về sự khác biệt cơ bản của Nguyễn Thị Thụy Vũ khi viết về đề tài
tính dục với các cây bút nữ cùng thời. Theo ông, trong số các nhà văn nữ ở Sài Gòn,
Nguyễn Thị Thụy Vũ là nhà văn tôi trân trọng nhất. “Ngòi bút của chị chứa đựng
tất cả những gì làm nên một cây bút có cá tính. Cùng một vấn đề tình dục, các nhà
văn nữ khác sùng bái khoái cảm, đẩy tình dục đến chỗ ca tụng thân xác, Thụy Vũ
cũng khát khao thân xác- nhưng là những cơn khát khao u uẩn, khoái cảm tan
7
nhanh trong hoài niệm, hoang đường, giữa bản năng và siêu linh mang một chút
âm sắc của trăm năm cô đơn” [51].
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã có bài viết “Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trở
lại” (17/03/2017) in trên báo Người lao động, tóm tắt một cách sơ lược về đề tài,
văn phong của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Theo tác giả, điều làm nên thành công trong
các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đó chính là chất hiện thực và văn phong rặt
chất Nam Bộ.
Tác giả Gia Bảo đã có bài giới thiệu: “Nguyễn Thị Thụy Vũ- Người vẽ chân
dung con người trong thời loạn ly giông bão” (21/03/2017) đã viết: “Nguyễn Thị
Thụy Vũ tái ngộ bạn đọc nhân dịp 10 tác phẩm của bà được tái bản với diện mạo
hoàn toàn mới. Như vậy là, sau hơn 41 năm kể từ ngày gác bút, ở độ tuổi tròn 80,
bà vẫn được chứng kiến một sự kiện lớn trong cuộc đời mình. Còn với khán giả trót
yêu văn bà, hay chỉ đơn giản là yêu sách, yêu văn chương, cũng thật khó để không
nóng lòng khi thấy một phần của di sản văn học Việt Nam vốn chìm sâu hơn 41 năm
nay đã trở lại, thật sự tươi mới và rạng rỡ” [48].
Nhìn chung, các ý kiến, bài viết, tài liệu liên quan đến đề tài Đặc điểm văn
xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ rất ít, chỉ dừng lại ở những nhận xét rất chung, khái quát,
chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống nội dung và nghệ thuật tác phẩm của nhà
văn nữ này. Có chăng là những bài báo trên mạng internet, những bài phỏng vấn,
những ý kiến đánh giá, nhận xét của những người nghiên cứu về văn học miền Nam
trước 1975, của Hội Nhà văn Việt Nam khi xuất bản lại 10 tác phẩm của Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Các bài viết này chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tác giả, tác phẩm và
đưa ra một số nhận xét, ý kiến đánh giá ngắn gọn về vẻ đẹp văn chương của Nguyễn
Thị Thụy Vũ. Và các bài viết, các ý kiến trên đây vẫn là những gợi mở quý báu giúp
chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài Đặc điểm văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy
Vũ. Vì thế, luận văn là một trong những bước khám phá, tìm tòi của người viết
trong việc tìm hiểu những đặc điểm của văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
8
Với đề tài Đặc điểm văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, đối tượng nghiên cứu
của luận văn là các tác phẩm truyện ngắn và truyện dài của Nguyễn Thị Thụy Vũ,
trong đó chú ý những đặc điểm về nội dung- cảm quan về hiện thực cuộc sống và
con người trong bối cảnh Sài Gòn- Việt Nam những năm trước 1975 và hình thức
thể hiện mới mẻ, sáng tạo về nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu…
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ từ năm 1965-1975:
Tập truyện ngắn:
- Mèo đêm, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1966, Hiện Đại tái bản 1968.
- Lao vào lửa, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1967.
- Chiều mênh mông, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1968.
Tiểu thuyết:
- Thú hoang, truyện dài, nhà xuất bản Hồng Đức 1968.
- Ngọn pháo bông, truyện dài, nhà xuất bản Hiện Đại 1968.
- Khung rêu, truyện dài, nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1969 (Giải nhì Văn chương toàn
quốc 1970).
- Nhang tàn thắp khuya
- Như thiên đường lạnh
- Chiều xuống êm đềm
- Cho trận gió kinh thiên
Mười tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ được nhà xuất bản Văn học tái bản lại
đầy đủ vào tháng 3 năm 2017.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp cấu trúc- hệ thống: chúng tôi đặt văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ
như một chỉnh thể thống nhất trong diện mạo chung của văn học Nam Bộ trước
1975 nói riêng cũng như văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Đồng thời, khi tiếp
cận từng tác phẩm cụ thể, chúng tôi cũng quan tâm đến tính chỉnh thể trong cấu trúc
của nó. Phương pháp này cũng hỗ trợ đắc lực cho chúng tôi trong việc triển khai các
bình diện nghiên cứu của luận văn một cách logic và chặt chẽ.
9
- Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích chỉ ra
điểm tương đồng và khác biệt giữa văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ với văn học miền
Nam trước 1975 nói riêng cũng như văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
- Phương pháp liên ngành: dùng để khảo sát và nghiên cứu đặc thù lịch sử, văn
hóa, văn học trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như: Phân tích, tổng
hợp, thống kê; lý thuyết về Thi pháp học và Tự sự học.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn đóng góp thêm một tiếng nói trong việc khẳng định giá trị những tác
phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Những tác phẩm truyện ngắn và truyện dài đã góp
phần làm đa dạng hơn sự phát triển của văn xuôi miền Nam trước 1975 nói chung
và văn học nữ hiện đại Việt Nam nói riêng.
Đặc biệt, luận văn góp phần dựng lại bức chân dung nghệ thuật Nguyễn Thị
Thụy Vũ với những gì mà nhà văn suy nghĩ, trải nghiệm và thể nghiệm trên trang
viết của mình- cảm quan về cuộc sống và con người, những tìm tòi sáng tạo về đề
tài, phương thức thể hiện: nhân vật, ngôn từ, giọng điệu... Qua đó, làm nổi bật lên
được phong cách của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Ý thức sáng tạo và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thụy Vũ
Chương 2: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Cảm quan về hiện thực cuộc sống và
con người
Chương 3: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Những hình thức thể hiện
10
NỘI DUNG
Chƣơng 1
Ý THỨC SÁNG TẠO VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ
1.1. Sáng tạo nghệ thuật
1.1.1. Những trang văn giàu sự trải nghiệm
Bản chất của nghệ thuật là sự sáng tạo và sáng tạo không ngừng. Tuy nhiên,
sự sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ cuộc sống. Hiện thực cuộc sống chính là
mảnh đất màu mỡ để mỗi nhà văn khai thác và biểu hiện vào trong tác phẩm của
mình.
Trong thi đàn văn học Việt Nam, phụ nữ cầm bút, có mấy ai không đa đoan,
trắc trở. Dường như cái sự viết, những đa đoan phận người đã đánh đắm họ trong bể
dâu cuộc đời như một lẽ thường của đàn bà làm nghề viết. Nguyễn Vũ Thụy Vũ
cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, khi chọn đi trên
con đường với văn chương thì cũng có nghĩa ở một khía cạnh nào đó bà chấp nhận
những hy sinh, thiệt thòi. Có thể là hy sinh một cuộc hôn nhân khi không nhận được
sự cảm thông của người đồng hành hoặc đôi khi là chấp nhận một cuộc sống ít nhẹ
nhàng (trong tâm tưởng), một hạnh phúc theo nghĩa thông thường như những người
phụ nữ làm nghề khác. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là ngay từ những mất mát, thiệt
thòi ấy, những trang văn của họ vẫn chan chứa yêu thương, thắm xanh hy vọng.
Đàn bà viết văn thường đa đoan. Bởi họ quá nhạy cảm. Mà nhạy cảm thường đi đôi
với những chênh vênh, khó nắm bắt: “Nhạy cảm quá đôi khi thành nghiệt ngã”.
Thật khó có thể tin một phụ nữ sống hời hợt, nhạt nhẽo lại có thể viết được những
đoạn văn, những câu thơ chạm tới tận đáy sâu trái tim bạn đọc. Có thể tùy tính cách,
tùy hoàn cảnh sống, những người phụ nữ ấy quan tâm hơn tới điều này điều kia
hoặc đơn giản chỉ là cách biểu hiện bên ngoài. Còn trước trang giấy, những người
đàn bà cầm bút luôn trung thực với trái tim của mình. Họ viết về những đau đớn,
mất mát, những dằn vặt nhưng chưa bao giờ thôi khát khao về một cuộc sống đầy
ắp tin yêu. Bên cạnh những giây phút bận rộn, vất vả lo toan như bao người phụ nữ
khác, khi ngồi trước trang giấy, họ được sống thật với mình nhất. Tác phẩm chính là
11
cách họ trò chuyện với chính mình, với cuộc sống, là cách họ khoác lên tâm hồn
mình đôi cánh để phiêu du trong trí tưởng tượng và những đắm say...
Nguyễn Thị Thụy Vũ, tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 ở
Vĩnh Long, trong một gia đình khá giả. Cha bà là nhà văn Mặc Khải, cô là thi sĩ
Phương Đài đều hoạt động kháng chiến. Bà viết văn từ năm 1965. Bà chung sống
với nhà thơ Tô Thùy Yên và có đến bốn mặt con. Cuộc hôn nhân không êm đềm,
đến năm 1980, Nguyễn Thị Thụy Vũ chấp nhận một mình nuôi con.
Cuộc sống của bà là những thăng trầm. Khoảng 1960-1965, bà dạy tiểu học
tại Vĩnh Long, rồi không chấp nhận được môi trường sư phạm bó hẹp, khăn gói lên
Sài Gòn học Anh ngữ ở Hội Việt Mỹ. Tại đây, ngay từ năm đầu tiên học tiếng Anh,
bà được một bạn học giới thiệu đi dạy tiếng Anh cho các cô gái làm snack bar,
những phụ nữ Việt Nam cặp kè binh lính, sĩ quan Mỹ... Nhiều người trong số đó
đem tâm sự tỉ tê với bà. Cuộc đời và tâm sự của họ gây xúc động, làm thành đề tài
sáng tác của bà. Người đọc nhận thấy trong các truyện của bà Nguyễn thi thoảng có
cô giáo dạy Anh văn xuất hiện. Những đổi thay của cuộc đời, thời cuộc cùng với
thực tế trần trụi, khốc liệt, thấm đẫm buồn đau về đời sống con người, những cô gái
làm ở các snack bar, dan díu với lính Mỹ đã đi vào trang viết của Nguyễn Thị Thụy
Vũ, gây chấn động dư luận vào khoảng cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970.
Với các tập: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông, Ngọn pháo bông, Khung
rêu, Thú hoang… Nguyễn Thị Thụy Vũ trở thành một hiện tượng văn học gây ngạc
nhiên trên văn đàn miền Nam. Nguyễn Thị Thụy Vũ mạnh dạn phơi bày một
phương diện thực trạng xã hội ta vào một thời điểm đặc biệt. Bà xông vào cơn gió
bụi, phanh phui những cảnh đời lầm than, cùng đáy xã hội làm lắm kẻ sững sờ,
nhăn mặt.
Bên cạnh đó, chính những tháng ngày gắn bó với mảnh đất, văn hóa và con
người Nam Bộ, đặc biệt là quê hương Vĩnh Long- nơi bà sinh ra và lớn lên, đã làm
nên những trang viết ăm ắp hơi thở về cuộc sống, con người Nam Bộ. Cảnh sông
nước, miệt vườn, lời ăn, tiếng nói, dáng điệu, cử chỉ, phong tục, tập quán, món ăn,
những lời ca tiếng hát... của các nhân vật trong tác phẩm của bà Nguyễn thật sống
động và vẹn nguyên. Con người nơi đây phóng khoáng với một cuộc sống giản dị
12
mà chan chứa tình người. Nguyễn Thị Thụy Vũ phải là người yêu hết mực mảnh đất
này mới có những trang viết thắm đượm tình quê như thế.
Đến với những trang văn của Nguyễn Thị Thụy Vũ, tuy có sự pha trộn giữa
sự thật và hư cấu nhưng sự thật và tính chân thực được đặc biệt chú trọng, trong đó,
tỷ lệ cái thật trội hơn so với hư cấu, thậm chí là bộ xương để kiến tạo cốt truyện.
Những yếu tố này được bà đưa vào tác phẩm một cách hệ thống, có ý nghĩa trong
việc hình thành tính cách nhân vật. Chúng tôi cho rằng, khi viết các tác phẩm,
Nguyễn Thị Thụy Vũ từ những trải nghiệm, chiêm nghiệm, giọng kể tự thú, nhất là
khuynh hướng xoáy sâu vào lý giải quá trình hình thành nhân cách nhân vật chính,
độc giả cảm nhận được màu sắc hiện thực rõ rệt (Như thiên đường lạnh, Nhang tàn
thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Khung rêu, Thú hoang, Như ngọn pháo bông,
Cho trận gió kinh thiên …). Nhân vật trong các tác phẩm của bà hiện lên một cách
chân thực. Những vui buồn, ghét thương, trăn trở, ước vọng, sự chua chát, niềm tin,
rạn vỡ ước mơ, cô đơn... của thân phận con người trong các trang văn của bà hiện
lên một cách tự nhiên nhưng cũng rất ám ảnh. Đó là những thân phận kiếp người
cùng đáy xã hội. Trong truyện ngắn Lao vào lửa, các cô gái bar: Tâm (Chiếc
giường), Tú- Tina (Lao vào lửa), Hạnh, Bích, Nga (Đêm nổi lửa), Mi-sen (Nắng
chiều vàng), Loan (Mèo đêm) mỗi người mỗi hoàn cảnh bị sa chân vào cuộc sống
của các cô gái làm điếm. Họ mênh mông, vô định, bị cuốn vào vòng xoáy của ánh
đèn, men rượu, tiếng nhạc của quán bar, những va đập của xác thịt, những trải
nghiệm giường chiếu của bạn tình… Họ triền miên trong nỗi đau, cô độc, lo sợ tuổi
già sắp đến nhưng khi được bắt đầu lại từ đầu, họ hoài nghi, họ không muốn, không
quen, họ không biết sống như thế nào và phải làm những gì. Họ cứ trượt dài, trôi
mãi giữa dòng đời.
Chính tất cả những hiện thực mà Nguyễn Thị Thụy Vũ chứng kiến, chiêm
nghiệm, thấm thía... đã góp phần tạo nên các tác phẩm văn xuôi ngồn ngộn hiện
thực. Bà viết như là một hình thức để trải lòng. Dù bà đề cập tới những vấn đề vĩ
mô hay nhỏ bé, xa xôi hay gần gụi thì vẫn bộc lộ sự tinh tế, sâu lắng, những góc
nhìn rất riêng về thời cuộc và con người.
1.1.2. Sự đa dạng, mạnh bạo trong đề tài
13
Đọc các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng ta không khỏi ngỡ
ngàng, sửng sốt bởi những trang văn đầy táo bạo. Những gì người ta nghe thấy,
chứng kiến ngoài đời, người ta ngại nói hoặc nhắc đến thì bà lại đề cập một cách tự
nhiên, không hề e ngại, giấu diếm.
Giai đoạn 1945- 1975, văn xuôi hầu hết đề cập đến các đề tài tập trung thể
hiện, phản ánh kịp thời nhịp sống cách mạng, kháng chiến của toàn dân tộc. Tinh
thần ngợi ca bao trùm lên toàn bộ đời sống văn học cách mạng. Miêu tả cái bi phải
là bi hùng, bi tráng, tuyệt nhiên không được phép bi lụy. Người cán bộ chiến sĩ và
quần chúng cách mạng là hai mảng đề tài lớn nhất, hút vào những đề tài khác: đề tài
chiến tranh, cách mạng, đề tài lịch sử, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách
ruộng đất, đề tài đấu tranh thống nhất đất nước: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy
Tưởng), Những người thợ mỏ (Võ Huy Tâm), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),
Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Hòn đất (Anh Đức), Bão biển (Chu
Văn), Chủ tịch huyện ( Nguyễn Khải)… Nhà văn viết về đề tài chiến tranh và con
người trong kháng chiến đã miêu tả hiện thực sống động, chân thật. Con người
trong các mảng đề tài, chủ đề tiểu thuyết chiến tranh, cách mạng chủ yếu được miêu
tả ở khía cạnh chung, tiêu biểu cho giai cấp, dân tộc. Vẻ đẹp lý tưởng của họ được
hòa chung với cộng đồng, thời đại. Do đó, văn xuôi giai đoạn này giới hạn đời sống
chủ yếu miêu tả ở bề nổi, mang cảm hứng ngợi ca.
Trong khi văn xuôi đang khai thác những vấn đề thời thượng thì Nguyễn Thị
Thụy Vũ lại chọn cho mình một hướng đi riêng, đi sâu vào đề tài thế sự, đời tư.
Nhìn chung, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ thể hiện rõ nét, xuyên suốt
ở hai mảng đề tài: đời sống của bà con nông dân (Thú hoang, Như thiên đường
lạnh, Khung rêu) và đời sống của những cô gái bar (Lao vào lửa, Mèo đêm, Chiều
mênh mông, Ngọn pháo bông...). Hai đề tài này đặt vào hai không gian cụ thể: Thứ
nhất, không gian sinh hoạt nông thôn miền Nam, tỉnh Vĩnh Long. Đó là biểu tượng
của một vùng sông nước trù phú, ôn hòa, màu mỡ, làm nền cho những gia đình
quyền quý, cầu kỳ hay cuộc sống đời thường với những nếp sống sinh hoạt thường
nhật với tình yêu, tuổi trẻ, đời sống gia đình... của bà con thôn quê. Thứ hai, đó là
không gian của đô thị Sài Gòn. Đó là không gian của các cô gái bar tiếp khách trong
14
ánh đèn mờ, men rượu, không gian phòng ngủ, bệnh viện, phòng trọ, xóm lao động
nghèo... Dù là ở không gian nghệ thuật nào thì ngòi bút của Nguyễn Thị Thụy Vũ
cũng muốn phản ánh một cách sinh động, chi tiết để nói lên những vẻ đẹp xưa cũ
nay đã bị hoàn cảnh thời cuộc tác động. Bà khai thác câu chuyện của nhân vật đến
từ nhiều tầng lớp khác nhau: là gia đình của một ông Phủ về hưu trong Khung rêu,
người phụ nữ từ khuôn đúc lễ giáo bài bản để làm vợ, làm mẹ trong Nhang tàn thắp
khuya, đám học trò lớp Đệ tứ A trong Thú hoang… hay thậm chí, đó là những cô
gái bán bar lấy Mỹ ở Sài Gòn trước 1975 trong Lao vào lửa, Mèo đêm, Chiều mênh
mông... Cuộc sống con người trong những hoàn cảnh đó, có lúc, họ muốn vượt thoát
nhưng lại không tìm thấy lối thoát, hoặc họ tưởng rằng đã thay đổi, đã vượt thoát
nhưng thực tại thì thấy lạc lõng, bơ vơ, chưa tìm thấy được niềm vui sống. Phía sau
sự giản dị của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đó là tầng tầng lớp lớp số phận kẹt
trong những khúc mắc cuộc đời- bức bối, đa đoan và mải miết kiếm tìm một lối
thoát.
Ở đề tài cuộc sống của bà con nông dân, đây là đề tài không mới. Trước bà,
ta có thể bắt gặp đề tài này trong các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn, Nam Cao, Vũ
Trọng Phụng... Với Thụy Vũ, đây là đề tài được phản ánh dưới một cái nhìn mới
mẻ. Đó là cuộc sống của những người nông dân sống mòn, sống mỏi với những bi
kịch tình yêu, hôn nhân, gia đình, xói mòn đạo đức bởi hoàn cảnh xã hội mà họ
không tìm được lối đi. Họ khắc khoải chờ đợi một điều gì mới mẻ, thay đổi tốt đẹp
nhưng rốt cục họ bị vây bủa, nhấn chìm bởi những quan niệm đạo đức, trách nhiệm,
gia đình và xa rộng hơn đó là hoàn cảnh xã hội khi có chiến tranh cứ bào mòn tâm
hồn họ.
Ở đề tài cuộc sống của những cô gái bar, đây là đề tài mà các nhà văn trước
đó ít nói đến hoặc ngại viết đến. Nhưng ở Nguyễn Thị Thụy Vũ, ta thấy bà phản ánh
trực tiếp và dành một vị trí đặc biệt khi viết về đề tài này. Hầu hết các truyện ngắn
của bà đều phản ánh cuộc đời những cô gái bar. Bà miêu tả chân thực, thậm chí có
lúc thô nhám và trần trụi. Đây là những thân phận người xuất hiện khá nhiều khi đế
quốc Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Những cô gái bar- thân phận của những
nạn nhân thấp cổ bé họng của chiến tranh. Hầu hết trong số họ là những cô gái quê
15
nghèo khổ, không biết chữ, không có cách nuôi thân nào khác ngoài việc sống như
những con ve trên bộ lông người lính Mỹ. Bà đi sâu vào cách sống, thói quen, nếp
nghĩ, ngôn ngữ, hành động, cách mời khách, chiều lòng khách... của họ cụ thể và
làm cho người đọc phải nghĩ suy. Vì vậy, có thể nhận định đây là nhà văn viết về
những gái điếm.
Bà Thụy Vũ đã chọn cách đối diện với chiến tranh và hiện thực tang thương
của nó bằng một cái nhìn thấu cảm khiến ta có thể thổn thức khi chạm tới đáy thân
phận những con người này. Và giữa nỗi đau sâu thẳm và sự vô nghĩa của chiến
tranh, những tác phẩm của bà sẽ nâng ta lên, để ta có thể nhìn thấy ở giữa vực thẳm
của bóng tối, vẫn còn le lói hơi ấm của tình người.
1.1.3. Sự khẳng định bản lĩnh cá tính sáng tạo
Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ
với lối đi, tạo riêng mình một thế đứng, một cương vị trong nền văn học Việt Nam
hiện đại. Mỗi truyện của Thụy Vũ không nằm trong khuôn nếp thông thường của
một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng. Các sáng tác của bà không đi theo
những chủ đề thời thượng lúc bấy giờ mà rẽ sang một lối riêng mà nhiều người ngại
nói đến hay nhắc đến (viết về những thân phận cùng đáy xã hội, những cô gái
điếm...). Nguyễn Thị Thụy Vũ mở đầu văn nghiệp bằng những truyện ngắn đăng rải
rác trong các tạp chí văn nghệ. “Sự đóng góp của Thụy Vũ trong khu vườn văn
chương đã gây ngay sự chú ý, nhờ vào một bút pháp mạnh mẽ xuyên qua từng dòng
chữ bỏng cháy với suy nghĩ về tình dục, về xã hội trong nét sống đặc biệt của các cô
gái thuộc giới snack bar thành phố. Và trong các truyện dài của mình, bà đi sâu vào
số phận những con người bình thường nhưng có một đời sống nội tâm không hề
bằng phẳng. Với cá tính bản lĩnh của mình, nhà văn muốn những điều mình viết ra,
nó phải được chứng minh qua sự thật” (Lời nói đầu- Hội Nhà văn). Các tác phẩm
của bà đã cất lên tiếng nói thấm thía về thân phận con người do hoàn cảnh xã hội
tác động. Đó là thân phận cô độc, bơ vơ trong một không gian bế tắc. Sự cô độc như
một thứ định mệnh mà con người dẫu có cố gắng vùng vẫy đến đâu cũng không thể
thoát ra. Từ gia đình một ông Phủ về hưu hết thời trong Khung rêu, ba cô nữ sinh tại
trường công lập tỉnh lẻ trong Thú hoang, xóm lao động nghèo trong Cho trận gió
16
kinh thiên, cô đào hát bội tài sắc Năm Thàng bỏ đi tu trước biến cố cuộc đời trong
Lòng trần đến giới bán phấn buôn hương, các me Mỹ và chuyện phá thai, những
giấc mơ bị cưỡng hiếp, những người đàn bà bán trôn nuôi miệng luôn ám ảnh nỗi sợ
hãi một ngày nào đó mông teo ngực nhão không còn kiếm ra tiền, đói nghèo sẽ tới,
bệnh hoạn sẽ cướp đi cuộc sống… trong Lao vào lửa, Chiều mênh mông, Ngọn
pháo bông... “Tất cả họ, dù là ai, thuộc tầng lớp nào, kẹt ở đâu trong khúc mắc cuộc
đời, đều hiện lên trên trang viết của Thụy Vũ sống động, tươi mới. Bà không phẩm
bình họ đáng thương hay đáng trách, chỉ lẳng lặng vẽ lại chân dung từng người,
gom góp lại thành chân dung của một “nhóm người” trong suốt những năm vừa viết
văn, vừa đi dạy tiếng Anh cho các cô gái snack bar để kiếm sống. Không ngợi ca
phụ nữ, cũng chẳng tô hồng họ, không nói về nữ quyền mà giọng văn Thụy Vũ vẫn
cứ tràn đầy nữ tính, đầy sự thấu cảm và sẻ chia. Những nhân vật của Thụy Vũ, dù
thuộc đề tài nào thì hầu hết đều mang trong lòng một cơn bão, chực chờ xổ khỏi
không khí ngột ngạt, rồi sẽ bộc lộ thành hành động với mức độ khác nhau tùy điều
kiện và sự gan góc” [48]. Chúng ta hãy nghe lời bộc bạch tâm sự của bà trong lời
tựa Khung rêu: “Từ hồi còn nhỏ tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên:
sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. Nguyên nhân chánh của
sự suy sụp bệ rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. (…) Tôi không hề có ý định làm
công việc của nhà xã hội học hay của nhà đạo đức học. (…) Tôi cũng không có ý
định phân tích các nguyên nhân, và nhất là phê phán một ai hay một điều gì. Cho
riêng tôi, tôi chỉ muốn dựng lại cái thế giới khốn đốn đã bao trùm tôi cho đến ngày
nay. Tôi chỉ muốn mô tả một hiện tượng xã hội hoàn toàn thân thuộc mà thôi. Tiểu
thuyết là tưởng tượng, ai cũng biết vậy, nhưng có tưởng tượng nào không bắt nguồn
từ một phần sự thật” (Lời tác giả trong Khung rêu). Thụy Vũ có thái độ sống rạch
ròi và bình thản. Như cách bà viết. Viết vì cần phải thế, vì đó là sinh kế, chân chính
và nhọc nhằn. “Tôi từng là địa chủ mà. Tôi không ủng hộ người nông dân nhưng tôi
cũng không phê phán họ. Tôi chỉ viết những gì mình cần phải viết, những gì mà tôi
biết là sẽ cuốn độc giả của mình đến trang sách cuối cùng” [47, tr.18]. Trong thời
cuộc nhá nhem, không phải cây bút nào cũng giữ được sự bản lĩnh như Thụy Vũ!
17
Cuộc sống đã thử thách Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều và bà đón nhận bằng
một sự can đảm dung dị đặc biệt. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trải hồn mình trên trang
giấy và vẽ vào đó những nét mạnh bạo, đôi khi phũ phàng để bắt người đọc phải
cùng chung vui buồn với mình trong một khoảng thời gian ngắn, dài nào đó (Mèo
đêm, Chiều mênh mông, Cho trận gió kinh thiên...). Dù là viết truyện ngắn hay
truyện dài, mỗi tác phẩm đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong vấn đề tình
yêu, cũng như nỗi đau về thân phận. Bởi vậy, đọc các tác phẩm của bà ta thấy có
một số yếu tố hiện sinh. Đó là một trong những triết lý nhân bản trong các tác phẩm
của bà.
Có thể nhận thấy rằng, văn xuôi của bà Thụy Vũ tiếp xúc với cái đời thường,
xóa mờ khoảng cách sử thi, mở rộng biên độ phản ánh hiện thực. Văn xuôi của bà
Thụy Vũ áp sát đời sống, tiếp cận với cái hiện tại chưa hoàn kết, đầy rẫy những biến
động, những bất ngờ, vấn đề đạo đức xã hội được quan tâm. Văn xuôi Nguyễn Thị
Thụy Vũ chăm chú vào bản ngã, những cá nhân lạc hệ thống (các cô gái điếm,
những người trí thức sống mơ hồ về lý tưởng, một số người sống không có ngày
mai, những tình yêu đi bên nhau nhưng chán ngán, vô vị...), con người được soi
chiếu từ nhiều góc độ (Khung rêu, Cho trận gió kinh thiên). Nhân vật trong văn
xuôi của bà Nguyễn khẳng định mình bằng cách quăng mình vào tình yêu, khoái
lạc, họ hành động, khóc cười để được là mình. Văn xuôi của bà có lúc chạm đến
những chủ đề thân phận với những môtip biểu hiện khủng hoảng hiện sinh: cô đơn
bản thể, lo âu, nổi loạn, cái chết (Lòng trần, Trôi sông, Khung rêu, Cho trận gió
kinh thiên...). Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, các tác phẩm là tiếng nói của thân phận.
Viết là để hiện tồn, để khẳng định nhân vị.
1.2. Quan niệm về nghệ thuật
1.2.1. Quan niệm về hiện thực trong văn chương
Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và con người. Với Nguyễn Thị Thụy
Vũ, hiện thực trong các tác phẩm là quê nhà Vĩnh Long và đô thị Sài Gòn. Quê nhà
cung cấp cho bà những câu chuyện về gia đình, tình yêu, vợ chồng (Như thiên
đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Khung rêu), về trường
lớp, bạn bè (Thú hoang). Sài Gòn mang đến cho bà những câu chuyện về cuộc đời
18
các cô gái bán phấn buôn hương, những dan díu Việt- Mỹ, những người cùng đáy
trong xã hội… (Như ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên, Mèo đêm, Lao vào
lửa, Chiều mênh mông). Hiện thực trong các tác phẩm này là hiện thực ám ảnh.
Những vấn đề người ta ngại nói, cố tránh, làm ngơ đi thì đều được bà gợi mở, phơi
bày một cách tự nhiên.
Có thể nói, từ một cô giáo tỉnh lẻ, lên Sài Gòn, nhờ dạy kèm tiếng Anh cho
giới bán bar, giới làm sở Mỹ nên Nguyễn Thị Thụy Vũ có cơ hội giao tiếp, tìm hiểu
mặt trái của cuộc sống để làm chất liệu cho ngòi bút. Hiện thực cuộc sống, con
người không còn được nhìn ở bề mặt, bề nổi mà được nhìn ở phần đời tư sâu kín,
khuất lấp với những nghĩ suy, cô đơn, biến động dữ dội, mâu thuẫn... Do đó, hiện
thực trong các tác phẩm của bà hiện lên một cách trần trụi, chân thực.
Sự đổi mới quan niệm về hiện thực của Nguyễn Thị Thụy Vũ gắn với nhu
cầu được “nói thật”. Ở đó, hiện thực được nhìn nhận, phản ánh không giản đơn,
xuôi chiều mà được phân tích, mổ xẻ ở một chiều sâu mới. Đó không phải là hiện
thực “dâng sẵn, đón chờ” như trước, mà là hiện thực đa dạng, nhiều chiều, ẩn chứa
biết bao điều phức tạp, đòi hỏi nhà văn phải “suy ngẫm”, “nghiền ngẫm”, phải đi
sâu khám phá- thứ hiện thực “chưa hoàn kết” theo quan niệm của M.Bakhtin. Từ
“phản ánh hiện thực” đến “nghiền ngẫm hiện thực” là một sự chuyển đổi đáng kể
của văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ. Ở đó, vai trò chủ thể của nhà văn được đề cao.
Người cầm bút có thể thoát khỏi sự ràng buộc của “chủ nghĩa đề tài”, chủ động lựa
chọn hiện thực, suy ngẫm và lí giải, khám phá một cách năng động hiện thực.
Chính sự đổi mới quan niệm về hiện thực đã mở rộng biên độ, đem lại cho
văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều nội dung phong phú, mới mẻ. Hiện thực
đời sống không chỉ thu gọn trong những biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà
rộng hơn, sâu hơn, “đời” hơn là cái thường nhật với bao mối quan hệ chằng chịt,
chìm ẩn trong những mối quan hệ xã hội, cộng đồng và cá nhân. Hiện thực trong
văn xuôi của bà Thụy Vũ thô nhám, trần trụi. Và bởi thế, cái nhìn thế sự, đời tư thực
sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Ví như trước đây,
chiến tranh được nhìn nhận và phản ánh chủ yếu qua những chiến công hiển hách
của dân tộc, của con người, thì giờ đây, với Khung rêu, bà Nguyễn nhìn chiến tranh
19
từ phần khuất chìm, suy ngẫm về chiến tranh từ số phận của con người và phản ánh
chiến tranh bằng những “nghịch lí”, trái với những “thuận lí” vốn rất quen thuộc
của tư duy văn học một thời. Nhờ thế đã đem lại cho người đọc một cái nhìn mới,
đa chiều, sâu sắc về hậu quả của chiến tranh. Các tác phẩm không còn trôi trong
cảm hứng ngợi ca như những tác phẩm cùng thời mà giàu chất suy tư, lí giải khi
được chiêm nghiệm từ thân phận con người. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ không
ngần ngại trước những vấn đề gai góc, thậm chí những vấn đề kiêng kị trước đó như
đời sống bản năng tính dục, phê phán những ngộ nhận và bệnh cuồng tín, tệ nạn xã
hội, đánh bạc, hút chích, sự tha hóa xuống cấp về đạo đức, đạo lí, gái bán bar bị lính
Mỹ hành hạ thể xác, lính Mỹ biểu tình chống “Sàigòn-tea” tại vài đường phố Sài
Gòn để phản đối chủ các bar chém quá nặng, gái bán bar lường gạt lính Mỹ, đi phá
thai, bị bệnh hoa liễu, gái mới nhập môn học các ngón nghề của bậc đàn chị trong
nghệ thuật bán bar, và đôi khi đi khách như một gái hạng khá đắt tiền... (Khung rêu,
Cho trận gió kinh thiên, Thú hoang, Lao vào lửa, Mèo đêm...). Chính ở những
“vùng thẩm mĩ” mới mẻ này văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã kết tinh những
tác phẩm được độc giả khẳng định. Tuy có những đánh giá khen chê khác nhau,
nhưng theo thời gian, tính dân chủ trong văn học đã trả lời đầy đủ nhất cho những
tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ.
1.2.2. Quan niệm về nhà văn, nghề văn
Văn chương đến với bà Nguyễn Thị Thụy Vũ như một nhân duyên. Cuộc đời
với những thăng trầm, hiện thực phơi bày trước mắt bà như ám ảnh thôi thúc con
người văn chương trong bà không thể ngủ yên. Dẫu biết rằng, có thể cuộc sống mưu
sinh đòi hỏi phải viết, nhưng có thể duyên nợ với đời khiến bà không thể nhắm mắt
làm ngơ. Tác phẩm của bà trần trụi, đầy gai góc nhưng đó là hiện thực ám ảnh mà
đầy nhân văn. Phơi bày hiện thực, phản ánh chân thực là cách để bà nói lên khát
vọng được sống, được yêu đương, được làm người một cách đúng nghĩa.“Tôi ngồi
lại bàn viết, dở chồng sách cũ. Tôi nghĩ mình nên ghi những cảm tưởng lên giấy. Từ
lâu tôi có một cao vọng viết một tập tùy bút lẫn truyện ngắn. Ở ngoài đời tôi thất
bại, cô đơn. Chắc hẳn văn chương không cấm những giấc mơ lẫn ảo tưởng của tôi
thao túng, vẽ vời” [45, tr.28].
20
Bà Nguyễn không hề tuyên ngôn hay lên tiếng về nghề nghiệp, sứ mệnh văn
chương của mình, nhưng đọc các tác phẩm, thì đó là cách gián tiếp để ta hiểu được
quan niệm nghiêm túc của bà với nghề, với văn học nghệ thuật.
Nguyễn Thị Thụy Vũ từng nói rằng truyện của bà có 70% là câu chuyện thật.
Như vậy, trải nghiệm của bà trong cuộc đời thật phong phú. Và khả năng tự ý thức
của bà cũng thật rõ ràng: “Ðời sống thực tế với những kinh nghiệm nếm trải đã làm
cho độc giả quên đi một phần nào bút pháp rặt một giọng miền Nam đầy gai góc
của tôi”. Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn là một “người ghi chép” trung thành về cuộc
sống mà bà đã tham dự với tư cách người cầm bút. “Quan sát tận tường, miêu tả táo
bạo, phơi mở nhiều cảnh huống, dõi theo nhiều số phận, chạm khắc những tâm
trạng... truyện dài và truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói với chúng ta qua
từng mảnh đời của mỗi người Việt Nam bình thường nhất cũng đều phản chiếu lại
một phần nào đó của lịch sử và chiến tranh. Bóng dáng thời cuộc phả trên làng quê,
những phận người, những cuộc tình, luồn sâu vào đô thị, phát tác nơi lớp người ít
học, cùng khổ” (Lời nói đầu- Hội Nhà văn).
Đọc kỹ các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi nhận thấy rằng bà
là một nhà văn tả chân. Nhà văn tả chân phải là người từng trải cuộc đời, chú mục
phơi bày những cảnh đời bình dị, những con người bình thường. Tác phẩm của bà
phô diễn tính tình và hành động của các hạng người thật sinh động, thanh thoát, tự
nhiên. Trong tác phẩm của bà, con người không còn là những chính nhân quân tử
nữa mà là những con người nhỏ bé mang đầy những khát khao bản năng, vừa tốt lại
vừa xấu, mất tính giáo huấn.
Qua sự cảm nhận và trải nghiệm của mình, các trang văn xuôi của Nguyễn
Thị Thụy Vũ viết theo khuynh hướng tả chân giúp người đọc tỏ tường các mặt thực
của đời, chiều sâu của đời sống xã hội, sự phồn tạp trong hoạt động tinh thần, tâm -
sinh lý của các hạng người đời. Không thể kết án nhà văn tả chân khi họ miêu tả
những thói xấu của xã hội, những cái đê tiện của người đời và gọi chúng bằng tên
thật của nó. Nguyễn Thị Thụy Vũ dũng cảm đối diện với sự thật, dù nó tàn nhẫn,
khắc nghiệt, trái với sự mong đợi của mình. Nguyễn Thị Thụy Vũ khi viết không
đổi trắng ra đen, không che đậy hay huyễn hoặc lừa mình, dối người, cũng không
21
cốt làm hại đến luân lý, phong hóa cần được tôn trọng. Viết trung thực, có sao nói
vậy, không thêm bớt, tô điểm, vẽ vời, tức là tôn trọng người đọc, để có thể khám
phá chân lý cuộc sống. Khuynh hướng tả chân như vậy là phù hợp với sự phát triển
của thể loại văn xuôi nói riêng cũng như là sự phát triển của văn học nói chung. Do
vậy, có một thời gian tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ bị cấm đoán, nhưng tinh
thần hiện sinh đã trả về đúng giá trị của nó.
Đối với Thụy Vũ, văn chương cũng là một nghề để kiếm sống. Cuộc sống
thường nhật đã thôi thúc bà viết. Tuy nhiên, bà luôn ý thức đó là một nghề nghiêm
túc. Mỗi tác phẩm của bà là những thổn thức, trăn trở rất đời, rất thực, rất văn
chương (Khung rêu, Lao vào lửa, Mèo đêm,...). Bà lắng nghe những tâm sự của các
cô gái điếm, mỗi người mỗi cảnh. Bà chứng kiến những sự thật phũ phàng trong
cuộc đời họ khi dan díu với khách, với binh lính Mỹ. Bà trải lòng và thấu hiểu với
những thân phận cùng đáy xã hội, những cuộc đời con người ở nơi tỉnh lẻ. Để rồi,
tất cả hiện lên trên trang giấy với đầy đủ màu sắc (Khung rêu, Thú hoang, Cho trận
gió kinh thiên...).
Giá trị lớn nhất của văn chương là đi tìm bản chất. Cuộc sống không hoàn
toàn là cái mà ta nhìn thấy hàng ngày, với đôi mắt trần trụi. Chỉ nhà văn, bằng tác
phẩm của mình, mới có khả năng chạm đến tính đa chiều phức hợp trong mỗi con
người. Với người cầm bút, viết còn là cuộc phiêu lưu tới những cái tôi khác. Nhà
văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã hoàn thành được sứ mệnh của mình.
1.3. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dòng chung của văn học nữ
Nam Bộ trƣớc 1975
Văn xuôi, đặc biệt tiểu thuyết là thể loại bùng nổ của văn học đô thị miền
Nam, tạo thành một hiện tượng văn học trong thời kỳ này. Văn học đô thị miền
Nam 1954- 1975 đã tập hợp được một đội ngũ tác giả tiểu thuyết hùng hậu với số
lượng tác phẩm đồ sộ, với nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, đặc biệt là văn
học nữ. Lần đầu tiên, người ta thấy số lượng tác phẩm phong phú và đa dạng như
thế. Đọc các tác phẩm, người ta thấy sự thay đổi, phá cách trong văn chương của
các nhà văn nữ được chú ý nhiều hơn so với nam văn sĩ. Tuy nhiên, đó là những
bước thử nghiệm để tìm lối đi riêng của các cây bút nữ. Sáng tác của các cây bút nữ
22
miền Nam thực sự mới mẻ về giọng điệu, ngôn từ; đặc biệt là việc khai thác và thể
hiện các yếu tố tình dục, bản năng, lối sống hiện sinh. Đó là những tên tuổi: Tùng
Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Nhã Ca, Lệ Hằng, Nguyễn
Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị Ng.H... Văn học nữ đã góp thêm một
thanh âm để làm nên sự đa dạng, phong phú của một bản nhạc văn chương Việt
Nam hiện đại. Văn học nữ Nam bộ trước 1975 có những diện mạo riêng. Văn học
nữ trở thành một điểm nhấn kỳ lạ, như chính sự phát triển lạ kỳ của văn học Việt
Nam đương đại. Với ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, sáng tác văn học miền
Nam nói chung và văn học nữ nói riêng có sự chuyển mình lớn: sự cảm nhận sâu
sắc và đau đớn về thân phận bi đát của con người trong thế giới đầy phi lý. Thấp
thoáng trong các tác phẩm, chúng ta bắt gặp dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh ám ảnh từ
nhan đề cho đến nội dung tác phẩm. Ngay nhan đề cũng thấy sự hư vô, buồn thảm
trong cuộc sống con người: Bóng tối, Môi hôn và nghĩa trang, Chết không nhắm
mắt, Lửa mù, Sau cơn mộng dữ, Xâu chuỗi bọt nước, Thềm lục địa, Tiếng khóc vào
đời... của Nguyên Vũ; Bóng tối thời con gái, Cô Hippy lạc loài, Sống một ngày...
của Nhã Ca; Khung rêu, Lao vào lửa, Cho trận gió kinh thiên, Nhang tàn thắp
khuya, Thú hoang... của Thụy Vũ; Biển đêm, Mối thù rực rỡ, Tôi nhìn tôi trên
vách... của Túy Hồng; Bóng tối cuối cùng, Buồn như đời người, Vực nước mắt, Một
ngày rồi thôi, Năm tháng đìu hiu, Ngày qua bóng tối, Cho những mùa xuân phai,
Tình yêu địa ngục, Dưới vực sâu này... của Nguyễn Thị Hoàng, ...v.v. Đời sống
luôn được miêu tả như thảm kịch, là hư vô, phi lý. Con người bé bỏng, kiếp người
mong manh, chới với trong ngập tràn đau khổ, cô đơn, chia lìa. Những cái chết xuất
hiện rất nhiều trong văn xuôi miền Nam trước 1975. Trong sự vô nghĩa, chán
chường của cuộc đời, các nhân vật của văn xuôi đã vùng vẫy, nổi loạn để chống trả,
cho dù đó là sự vùng vẫy, chống trả trong tuyệt vọng. Họ muốn chống lại sự phi lý,
muốn tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, để đừng sống buồn nôn, đừng bị cuốn
theo cái vũng “cát lầy” kinh khủng của cuộc đời. Thế nhưng họ lại rơi vào bi kịch
của tuyệt vọng. Văn xuôi viết nhiều về sự vô định, mong manh, hư vô của kiếp
người, về cái chết, nỗi buồn đau trĩu nặng, sự xa lạ của thế nhân, sự đổ vỡ của niềm
tin và mơ ước.
23
Trong dòng chảy của văn học nữ, Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong số các
nhà văn trưởng thành trong giai đoạn chiến tranh, trước 1975. Nguyễn Thị Thụy Vũ
trở thành một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam trước 1975. Các
tác phẩm của bà không chỉ táo bạo trong đề tài, cách xây dựng nhân vật, mà còn
trong việc cách tân ngôn ngữ. Nguyễn Thị Thụy Vũ mở ra một cánh cửa để nhìn
vào thế giới nội tâm tuy đơn giản bên ngoài nhưng lại vô cùng phức tạp, tinh tế bên
trong của nữ giới, nhất là nữ giới trong thời hiện đại. Các vấn đề được bà khai thác
là những trần trụi của cuộc đời khi Mỹ vào đô hộ Sài Gòn, làm thay đổi cuộc sống
con người. Con người đời tư được bà khai thác triệt để. Các tác phẩm của bà không
hô hào, kêu gọi mà là sự gợi mở, phơi bày về những thân phận con người. Đó là các
cô gái buôn hương bán phấn, những người cùng đáy trong xóm lao động nghèo,
cuộc sống sinh hoạt của các nhân vật trong gia đình nhiều biến cố có liên quan đến
thời cuộc và những khúc quanh của lịch sử. Mỗi tác phẩm là mỗi mảng màu sắc
phản ánh hiện thực của Thụy Vũ, “là tả chân câu chuyện của các nhân vật đến từ
nhiều tầng lớp thay vì quẩn quanh với chuyện tình ái lâm ly như đa phần các cây
bút nữ cùng thời khác” [51]. Đó là thứ văn chương hiện thực xã hội pha trộn một
chút bóng dáng văn chương nổi loạn của chủ nghĩa hiện sinh. Nguyễn Thị Thụy Vũ
là một trong những nhà văn nữ tiên phong tự tìm cho các tác phẩm một phong cách
riêng, để sau đó là sự tiếp nối của nhiều nữ nhà văn thuộc nhiều thế hệ, bắt đầu bằng
những cách tân trong thơ, rồi xen gài giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là với
truyện ngắn, văn học nữ dần định hình diện mạo từ sau Đổi mới (1986).
Tiểu kết: Như vậy, có thể nhận thấy nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã có ý
thức sáng tạo và quan niệm nghệ thuật mới mẻ khi sáng tác các tác phẩm của mình.
Nguyễn Thị Thụy Vũ đã chọn cho mình một hướng đi riêng, đi sâu vào đề tài thế
sự, đời tư. Trên cơ sở lựa chọn hai mảng đề tài: đời sống của bà con nông dân và
đời sống những cô gái bar, nhà văn đã phơi bày những hiện thực ám ảnh nhưng đầy
nhân văn về thân phận con người. Những trang văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ
đã khẳng định một bản lĩnh cá tính sáng tạo cũng như một quan niệm nghệ thuật
nghiêm túc trong dòng chung của văn học nữ Nam Bộ trước 1975.
24
Chƣơng 2
VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ – CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC
CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI
2.1. Cảm quan về hiện thực cuộc sống
2.1.1. Cuộc sống đời thường
Trong các trang văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, cuộc sống đời thường
hiện lên với những nét thường nhật. Cuộc sống đời thường được bà biểu hiện trong
tác phẩm với những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Đó là cuộc sống
thường nhật với cơm, áo, gạo, tiền, ăn, mặc, hít thở, yêu đương, mơ ước, khát vọng,
tự do... Nơi đó, đời thường được miêu tả rất gần, rất thật và cũng đầy nhức nhối.
Cuộc sống đời thường được tác giả lấy bối cảnh sinh hoạt nông thôn miền
Nam, cụ thể là tỉnh Vĩnh Long- nơi tác giả sinh ra, nơi cất giấu những kỉ niệm đẹp
về tuổi trẻ, tình yêu, ta bắt gặp những câu chuyện gia đình, tình đời trong sự thay
đổi của thời cuộc. Ở đây, ta không chỉ bắt gặp những biến động dữ dội bên ngoài
thời cuộc mà còn là sự giằng xé, hỗn tạp, đa chiều từ nội tâm bên trong của những
mẫu nhân vật. Thời cuộc hỗn loạn mà cuộc sống của con người cũng hoang mang,
đảo lộn.
Một điều dễ nhận thấy là cuộc sống đời thường của bà con nông dân thay đổi
do yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa thay đổi. Như chúng ta đã thấy, Nam Bộ là
mảnh đất dễ sống. Hơn nữa, con người nơi đây luôn là những người tiên phong
trong việc tiếp nhận những cái mới. Khi đế quốc Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt
Nam thì đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong đời sống của con người nơi đây. Bên
cạnh một Nam Bộ với văn hóa truyền thống ngay thẳng, phóng khoáng, yêu ghét
rạch ròi, nhân hậu, thủy chung, nhân- lễ- nghĩa- trí- tín... thì còn có một văn hóa tiếp
nhận của phương Tây. Sự va chạm văn hóa này đã làm cho cuộc sống đời thường
của những con người Nam Bộ có những xáo trộn, thay đổi. Cuộc sống đời thường
được bà phản ánh đa dạng, nhiều màu sắc. Dù họ là ai, thuộc tầng lớp nào đi chăng
nữa thì cuộc sống của họ không bình thường, phẳng lặng mà luôn luôn chất chứa
những bộn bề, luôn có sự đấu tranh giữa việc gìn giữ và phá bỏ, giữa lưu giữ và tiếp
nhận. Cái nhìn của Nguyễn Thị Thụy Vũ với cuộc sống đời thường thật phong phú.
25
Bà phản ánh những con người cụ thể, trong môi trường, hoàn cảnh cụ thể; thế
nhưng khi đọc các tác phẩm ta thấy bà có khả năng khái quát thật sâu sắc. Đó là ông
giáo, anh trí thức, những ông phủ, cô gái mới lớn, những người phụ nữ gia đình,
những cô cậu học trò.... Đàn ông thì thích một cuộc sống nhiều màu sắc nhưng lại bị
chi phối bởi công việc, trách nhiệm làm con, làm chồng, làm cha. Phụ nữ thì ý thức
học nữ công gia chánh, lễ nghĩa để đối nhân xử thế mong yên ổn gia thất, êm ấm
bên chồng nhưng lại dễ rơi vào cảm giác đơn điệu, cuộc sống tẻ nhạt và khát khao
được tự do, sống lãng mạn, sung sướng. Những cô cậu thanh niên thì mộng tưởng
tương lai, đắm say với tình yêu đầu đời nhưng lại luẩn quẩn trong gia đình, tương
lai nghề nghiệp mịt mù. Cuộc sống làm họ ngột ngạt. Tất cả đều muốn thay đổi,
nhưng chẳng biết bắt đầu thay đổi từ đâu và làm như thế nào. Dường như họ mơ hồ,
hoài nghi, khắc khoải... Họ tự bằng lòng chấp nhận, sống một cuộc đời nhàn nhạt và
ủ ê. Đôi khi, họ có phá phách, nổi loạn nhưng rồi lại lặng lẽ trở về với nếp sống cũ.
Những tác phẩm ở mảng này xoay quanh những tình yêu, cuộc hôn nhân éo le, gãy
đổ do ràng buộc nghiêm ngặt của quan niệm cũ kỹ và những thay đổi bên ngoài của
thời cuộc. Các nhân vật với những cá tính, quấn riết lấy nhau, hành hạ lẫn nhau,
trong một môi trường sắp vỡ nát và mỗi thân phận cuối cùng đều tan rã như bọt bèo
trôi nổi trong đại dương cuộc đời hay khuất chìm vĩnh viễn vào lòng đất. Các câu
chuyện ấy có lúc lặng lẽ, lãng mạn, có lúc gay cấn, đau đớn, quằn quại, nhiều màu
sắc hỉ, nộ, ái, ố ... nhưng tất cả đều thấy được những khát khao về hạnh phúc lứa
đôi, hạnh phúc gia đình, sống một cuộc đời tốt đẹp.
Trước hết, ở không gian quê nhà, Nguyễn Thị Thụy Vũ quan tâm đến cuộc
sống đời thường của những thành viên trong gia đình.
Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối
quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và
quan hệ giáo dục. Do đó, nhà văn đi sâu vào phản ánh cuộc sống gia đình cũng là
cách gián tiếp để phản ánh xã hội.
Trong gia đình, sự va chạm về văn hóa như vùng miền, phong tục, tập quán,
địa vị, tích cách, quan điểm, lý tưởng... của các thành viên luôn xảy ra hằng ngày.
Dường như cách nghĩ, nếp sống truyền thống gia đình đang phải tiếp nhận và thích
26
nghi với luồng văn hóa phương Tây ào ạt chảy vào mỗi nếp nhà người Việt. Do
vậy, mỗi nhân vật dường như chất chứa những băn khoăn giữa cái cũ và cái mới,
giữa truyền thống và hiện đại, giữa gìn giữ và phá vỡ, giữa hiện thực và lý tưởng...
Họ muốn nương tựa vào một chỗ dựa cả về tinh thần và vật chất để sống qua những
tháng ngày chiến tranh nhưng cảm giác hoang mang, lạc loài luôn thường trực trong
mỗi con người. Họ bơ vơ trong chính gia đình của mình, họ lạc lõng ngay trong tình
yêu của họ, họ tha hương ngay trên chính quê hương của mình.
Trước hết, Nguyễn Thị Thụy Vũ phơi bày hiện thực cuộc sống gia đình với
những thành viên sống bên nhau nhưng thiếu vắng sự gần gũi, chia sẻ; mỗi người
lao vào một ốc đảo để thỏa mãn mộng tưởng của mình trong một xã hội loạn lạc.
Cụ thể, đó là những người đàn ông trong gia đình. Người đàn ông trong đời
sống gia đình có vai trò của người làm chủ, tức là điều khiển. Trước hết họ làm chủ
trong gia đình, kế đó làm chủ ngoài xã hội. Bản tính thiết yếu là chỉ huy, điều khiển,
nên tâm lý người đàn ông luôn thể hiện sức mạnh, sống lý trí. Thế nhưng, những
người đàn ông trong cuộc sống đời thường của Nguyễn Thị Thụy Vũ dường như
mất phương hướng, không tìm thấy lối thoát cho cuộc đời mình. Cuộc đời họ thụ
động, các dự định chỉ bỏ ngỏ, ước mơ cứ mờ nhạt dần, họ tự chôn chân trong mái
nhà của mình.
Tưởng- một thầy giáo trong Thiên đường lạnh, “yêu Khương ngay từ buổi sơ
kiến, chàng về nhà kèo nài cha mẹ đi cưới Khương” [43, tr.20]. Năm đầu, họ rất
mực hạnh phúc. Nhưng rồi theo đà lôi cuốn của lũ bạn, Tưởng bắt đầu đi ngang về
tắt. Lúc đầu Khương còn cằn nhằn, khuyên dứt. Sau đó, thấy Tưởng miệng tuy hứa
hẹn trăm điều, nhưng cái nết đánh chết không chừa, nàng bèn thay đổi thái độ, đay
nghiến chồng mỗi khi chàng đi chơi về khuya. “Chàng sống lông bông, thả rề rề
những giấc mộng nóng hổi theo ngày tháng, dòng đời. Chàng nhớ rõ từng ngày giỗ
của nhà người quen, chòm xóm, bạn bè. Chàng ưa nhập theo đám thợ cắt tóc, đờn
ca, hát xướng rồi cao hứng ngoại tình” [43, tr.22]. Đối với bản thân, Tưởng cảm
thấy công việc gõ đâu trẻ thật nhàm chán, nhưng với gia đình “dòng họ mình chỉ có
chú là ăn học, chữ nghĩa. Chàng mang máng nhận thức là nhịp sống sẽ trải qua
những biến chuyển quan trọng, bỏ lại một cách tàn nhẫn những người ra đời với mớ
27
chữ nghĩa lem nhem như chàng ” [43, tr.105]. Tưởng buồn vì cuộc sống cứ nhàm tẻ.
“Chàng lại nhiễm cái thói quen lười biếng, mệt mỏi, không thích ánh sáng tưng
bừng và cuộc đời hoạt động ngoài mái nhà. Cái thói quen đó dìm chàng lún xuống
một cơn chiêm bao vô vị, nhưng chàng cảm thấy bạc nhược không muốn tỉnh dậy
chút nào” [43, tr.61]. Và để liên lạc với cuộc sống, Tưởng bắt đầu vào những cuộc
phiêu lưu ái tình cùng Hương quản Mão. Tưởng mê cô Bảy Chợ Lách, với Tưởng
“nếu không ăn vụng chắc moa sống không nổi” [43, tr.81].
Hương quản Mão tính tình trẻ trung, hoạt động, yêu đời. Làm việc sanh lợi
hoặc chơi bời du hí, ông đều thành thạo. Đó là hai môi trường dẫu khác biệt nhau
xa, nhưng chỗ nào, ông cũng lao vào thao túng một cách dễ dàng. Lúc nào, ông
cũng vui vẻ, giao thiệp buôn bán một cách lanh lẹ, duyên dáng, hầu như không có
thì giờ để mệt mỏi, bâng khuâng. Ấy vậy mà “suốt cuộc đời, Hương quản Mão đã
sống hết mình, chơi hết mình mà sao ông ta vẫn than rằng thiếu thốn? Rồi đó, ông
ta cứ chạy đuổi, hết người đàn bà này tới người đàn bà khác để rồi chán chê là đá đít
tất cả” [43, tr.163].
Cả Tưởng và Hương quản Mão đều cảm thấy thiếu thốn. “Tâm hồn chàng
hụt hỏng, cần phải có một lý tưởng gì đó lấp đầy. Mà lý tưởng đòi hỏi biết bao công
trình đeo đuổi. Nhưng bây giờ, chàng mệt mỏi quá rồi, thân xác bèo nhèo, rã rời.
Cuộc sống đời thường như ngưng đọng, như chảy ngầm dưới bình điện đìu hiu”
[43,tr.164]. Gia đình bề ngoài làm họ nhàm mắt nhưng đã buộc họ bởi một sợi dây
vô hình bền chặt, ra khỏi gia đình, họ đã có cảm tưởng ra khỏi vùng an toàn. Dẫu
vậy, họ vẫn cứ để cuộc đời cuốn lấy họ. Họ tự nguyện chui vào cuộc sống buồn tẻ
đó.
Những người đàn ông trong Khung Rêu: Canh, Tường, Thụ, Chiêu cũng rơi
vào bi kịch. Gia đình ông Phủ, đất bị Việt Minh sung công cấp phát cho tá điền,
vườn bị người Pháp phát quang để tránh những trận phục kích của đối phương,
nhưng gia đình ông vẫn khá nhàn hạ nhờ vào tài vén khéo của bà Phủ “bây giờ bà
hết cậy trông Nhà nước bảo hộ có đủ sức bảo vệ tài sản của bà nữa khi mà bà phải
treo bảng trước nhà nhận nuôi cơm tháng và cho học trò ở trọ” [47, tr.30].
28
Cái bi kịch của gia đình ông Phủ không phải ở vật chất, mà ở những thành
viên trong gia đình.“Trong ngôi nhà thừa tự đó, mỗi người là một hòn đảo của
những thói hư tật xấu... Có phải con người khi đã mất thăng bằng trong cuộc sống
vật chất thường để lộ ra rõ rệt hơn bao giờ hết những xấu xa tàn tệ của mình? Và
một giai cấp cũng vậy” (Lời của tác giả trong Khung rêu). Mỗi người đều lựa chọn
một cách sống khác nhau. Và mỗi sự lựa chọn ấy phải chăng phản ánh một thế giới
bên trong đầy những trăn trở.
Ông Phủ- luôn mang nặng tâm hồn hoài cổ, vợ chết để lại ba đứa con trai,
nhưng “các con ông từ Canh cho đến Tường đều ỷ lại vào tài sản ông cha” [47].
Ông lấy thêm vợ nữa, sinh ra Chiêu. Thế nhưng, gia đình ông luôn luôn ẩn hiện các
mâu thuẫn. Ông muốn giữ gìn truyền thống gia đình, nề nếp gia phong, luôn trông
chờ vào những đứa con, nhưng đáp lại sự kỳ vọng ấy là những muộn phiền mà các
con mang lại.
Con trai đầu- Canh, được ông Phủ cho đi Tây học mấy năm, đến khi về
nước, chỉ mang theo cấp bằng ăn chơi, lái xe, khiêu vũ. Ba tháng sau, Canh bươn bả
lấy vợ và chẳng thiết làm lụng gì cả. Suốt ngày cậu la cà đến nhà bạn bè để nhảy
nhót, bài bạc, trai gái rồi hút sách. Kho lúa góp mỗi mùa gặt một phần tiêu tan theo
khói thuốc của cậu ta. Người vợ của cậu thua buồn bỏ về nhà cha mẹ ruột. Nỗi đau
đớn và bất lực của một người cha khiến ông Phủ phải thốt lên: “có con như thằng
Canh thà tuyệt tự sướng hơn. Từ mấy năm nay, tôi coi nó như một thứ giặc trong
nhà...” [47, tr.71- 72].
Tường- con trai thứ của ông Phủ là một cậu thanh niên non nớt khi bước vào
đời. “Tường mười chín tuổi, đang sức lớn vạm vỡ. Chàng cao to, hồng hào. Sinh lực
phong phú đó hứa hẹn sau này sẽ làm cho chàng điển trai, quyến rũ. Chỉ tiếc là tại
tánh hời hợt, thích nói hớt, nói leo nên chàng có vẻ là một thứ trẻ ranh tinh quái.
Tường yêu Ngự, nhưng tâm tánh Tường nay vầy mai khác. Có đôi lúc chàng ỷ lại
nơi phần đất hương hỏa của cha mình sẽ đảm bảo cho Ngự và chàng một cuộc đời
phủ phê, sung sướng. Nhưng đôi khi bất mãn, Tường lại suy tính đến đời sống tự
lập, không thèm cậy trông vào của phụ ấm nữa. Không có việc gì có thế làm chàng
say mê đeo đuổi lâu” [47, tr.242]. Tường sống trong tình yêu với Ngự và “nuông
29
chiều buông thả theo cơn thúc giục của trái tim và xác thịt” [47, tr.145] , không nghĩ
được gì thêm về con đường tương lai của mình. Tường muốn sống như ý mình
nhưng không cần phải làm việc, chỉ cần yêu đương. Do vậy, Tường đã nhiều đêm
thao thức cân nhắc thấp thỏm trước khi bắt tay vào công việc mà từ nhỏ tới bây giờ
chàng chưa hề nghĩ tới: lấy trộm gia sản: đồ sứ, chén, dĩa, lọ cổ... mà ông Phủ dày
công sưu tầm mấy chục năm nay. Chàng nghĩ tới một mái nhà đơn sơ ở một xứ lạ
hoắc, trong đó Ngự và chàng có một đời sống tự do, công khai yêu nhau, thoát khỏi
những tầm mắt soi bói. Tường lấy ba chục ngàn tiền mặt và vài món nữ trang để
làm vốn. Hai tháng đầu, Tường và Ngự ngụp lặn trong tình yêu, niềm hạnh phúc
mới mẻ. Nhưng Ngự càng ngày càng thấy Tường bất tài, vô tướng. Và ngày ngày,
đôi tình nhân này phải chịu đựng nhau bằng những tiếng cãi vã, khó chịu, ánh mắt
coi thường. Không có lối thoát, họ đành quay trở về ngôi nhà xưa, sinh con. Để
chứng tỏ mình, trong lúc chàng chỉ hiểu mù nờ về thời cuộc và lý tưởng, ý nghĩa
cuộc đời, Tường tham gia vào chiến khu. Sau đó, Ngự ở nhà ngoại tình, bỏ con lên
Sài Gòn. Tường thì trái ngược lại. Chàng cưới một người vợ quê mùa nhưng xinh
đẹp và sinh sống bằng nghề chích dạo... Và có lẽ cuộc đời của chàng đúng như Thụ
định nghĩa “Tường: một thằng người không có tiểu sử” [47].
Chiêu- cậu con trai của ông Phủ với bà Phủ, lại chịu bất hạnh trong hình hài
bán nam bán nữ. Đó là niềm mong mỏi của hai vợ chồng như một cứu cánh để có
thể ông bà nương nhờ lúc tuổi già nhưng lại là một nốt lặng buồn đối với ông bà khi
Chiêu đặc biệt, khác người. “Những lúc thay cho con tả lót, hoặc quần may bít
đũng, bà Phủ không sao nghĩ ngợi. Ngày mà Chiêu ý thức được cái thân xác của nó
đang đứng cháng ràng giữa hai cánh cửa nam, nữ trong các cầu tiêu của rạp hát,
tiệm ăn, nó sẽ chọn cánh cửa nào? Chắc chắn người ta không hề nghĩ đến gian
phòng vệ sinh dành cho loại người lưng chừng vì một chút lơ đãng lười biếng của
mười hai Mụ Bà” [47, tr.58]. Thiên hạ thì được dịp để vui với bất hạnh của người
khác: “Ráng mau lớn, ăn học cho giỏi để sau này vua tiến vào cung làm hoạn quan
nghe chú bé” [47,tr.58]. Chiêu lớn lên trong mặc cảm bị lạc loài. Chiêu không biết
mình là ai, và nên làm gì. Nhưng cũng như những người bình thường, Chiêu cũng
khao khát được yêu đương. Chiêu yêu Hoàng “Nếu Thượng đế cho tôi làm con gái
30
thật sự, chắc tôi phải có chửa vì tiếng đàn huyền hoặc của anh từ lâu rồi”
[47,tr.189]. Và để khẳng định sự tồn tại của mình, Chiêu rời khỏi nhà, đi học, tham
gia phong trào. Dường như, chàng đi bởi nhất định phải thế và không còn con
đường nào khác. Đi để tìm thấy một lối thoát cho mình nhưng chẳng hiểu gì nhiều
về con đường mình đang đi. Chiêu biệt vô âm tính. Hình như có người đồn rằng
Chiêu bị Tây bắt và xử bắn ở kinh Nước Lạnh. Cái biệt tích của Chiêu như để
khẳng định sự vô nghĩa của mình khi sống trong cuộc đời này.
Đối với các con trai, ông Phủ cảm thấy mệt mỏi, không còn đặt kỳ vọng vào
một đứa nào. Chỉ còn có Thụ. “Thụ có tinh thần gia tộc nặng. Cách đối xử của Thụ
sẽ gắn liền người sống của dòng họ Nguyễn để tránh khỏi sự phân tán, và nhứt là
phần hương hỏa mấy đời không suy suyển” [47, tr.134]. Nhưng trên hành trình tìm
kiếm ý nghĩa của cuộc sống, Thụ tham gia vào cơn trốt khuấy phá chính quyền và
cổ võ thanh niên bỏ học đi khu. Thụ về thăm nhà và sửa soạn tham gia lịch sử.
Chàng bị kích thích bởi cơn bão thời cuộc đang huyên náo vần vũ ngoài mái nhà và
chàng mộng đến những chân trời xa lạ, những cơ hội sống hào hùng. Hăm hở là thế
nhưng con người Thụ chưa được trang bị đầy đủ vốn sống, kinh nghiệm, sự từng
trải, lý tưởng nên Thụ sống co ro với cái mặc cảm thất bại của cuộc mưu đồ đại sự.
Thụ trở về, buồn bã, đơn độc trong ngôi nhà từ đường “Ngôi nhà đó bây giờ xiêu
vẹo- mái ngói quằn xuống bờ tường, hàng kèo cột bị mối mọt ăn rệu và loang lở
những dấu vết chiến tranh” [47]. Thụ không còn nhìn cuộc đời háo hức nữa. Tất cả
đều vô ích. Con người bất quá cũng như một con bọ chét sống trong bộ lông của
một con vật khổng lồ... Có những đêm mưa, chàng bừng thức giấc vì trận gió ào ào
đổ tới. Chàng khêu ngọn đèn chong, hướng mắt theo đường song cửa nhìn lên ngôi
nhà thừa tự, lo lắng...
Và chính ông Phủ cũng bế tắc, bất lực với chính mình. “Trí óc ông lại quay
về đứa nhỏ bất đắc dĩ của ông hiện nằm trong bụng Ngà. Thật không ngờ ông lại
thêm một gánh nặng nữa. Điều gì đã khiến ông đi quá xa...? Trong thời kỳ còn xông
pha vào vòng quan lại, ông đã không chuốc lấy những mối tình vụng trộm. Bây giờ,
bỗng dưng một chút rạo rực gì đó mọc lên trên nắm xương bắt đầu tàn tạ của ông,
để ông thông gian cùng Ngà... Có phải vì một nỗi thất vọng về con cái mà ông lại
31
xoay qua tìm một cảm giác mới bên thân thể tràn trề nhựa sống của người tớ gái?”
[47, tr.135]. Ông sống trong cô đơn và vô nghĩa, khi bà Phủ xây tư trang ra ở riêng
và không còn quan tâm đến ông nữa.
Dường như tất cả những người đàn ông trong văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy
Vũ đều thất bại. Trong cuộc sống đời thường, họ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc
đời mình. Họ tự thả trôi cuộc đời mình. Gia đình, tình yêu, công danh, nghề nghiệp,
ước vọng... đều mờ ảo. Họ lờ mờ trên con đường đời của mình và tự để cho dòng
đời cuốn đi.
Bên cạnh đó, cuộc sống đời thường của những người phụ nữ cũng được
Nguyễn Thị Thụy Vũ biểu hiện cụ thể. Đời sống riêng tư cùng những suy nghĩ của
họ trong cuộc sống hằng ngày bây giờ chứa đầy mâu thuẫn, nhiều cung bậc. Ta
đồng thời vừa thấy một người phụ nữ hiền lành, yêu chồng thương con hết mực,
quán xuyến gia đình chu đáo, vừa thấy một người phụ nữ phá phách, quyết liệt, sẵn
sàng từ bỏ tình yêu, thay đổi mình để làm chủ cuộc sống.
Với họ, tình yêu là tất cả lẽ sống, là điều thiêng liêng để giữ gìn. Tình yêu là
nơi để họ bám víu, tìm thấy ý nghĩa, tăng dư vị cuộc sống và họ sẵn sàng làm tất cả.
Do đó, những người phụ nữ trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ rất chú ý đến việc
hoàn thiện bản thân để làm sao bảo vệ tình yêu ấy. Họ rất tháo vát, đảm đang quán
xuyến việc gia đình, đối nhân xử thế, tề gia nội trợ, chăm chồng chăm con.
Thế nhưng, cuộc sống đời thường ấy là cả một trời tâm tư, nguyện vọng, ước
mơ của những người phụ nữ. Họ không phải là những người phụ nữ cam chịu, dễ
thỏa hiệp với cuộc sống mà bên trong họ luôn là những con sóng, có lúc dịu êm
nhưng cũng có lúc dữ dội không ngờ.
Trong truyện dài Nhang tàn thắp khuya, ta đến với cuộc sống trôi qua êm
đềm trong “ngôi nhà ngói năm căn giữa một khu vườn ruộng hai mẫu Kim Mã
Trang” [47]. Nhưng đằng sau sự vương giả, êm đềm ấy đời sống hôn nhân mỗi
thành viên trong gia đình đều không hề bằng phẳng.
Cuộc hôn nhân của Đức và Thục Nghi, tưởng là viên mãn, vẹn đầy nhưng
đằng sau là những cơn sóng lòng âm ỉ. Đức- người đàn ông sành đời lớn hơn Thục
Nghi chục tuổi từng du học ở phương Tây, sau khi lấy Thục Nghi làm vợ với tất cả
32
sự thành ý thì lao mình vào công việc, gánh vác trách nhiệm gia đình, dòng họ.
Thục Nghi là con một ông giáo học người Huế, về làm vợ với vai trò dâu trưởng
trong một gia đình ông Đốc phủ sứ tiếng tăm, Thục Nghi đã khôn khéo làm đẹp
lòng từ bà mẹ kế của chồng đến các cô em chồng đầy soi mói đến kẻ ăn người ở
trong nhà. Từ đồ ăn thức uống cầu kỳ sang trọng mỗi ngày tới những lo toan tay
hòm chìa khóa cho sinh hoạt đại gia đình, nàng đều chu toàn. Xoay quanh cuộc
sống thường nhật của Thục Nghi trong gia đình ông Đốc phủ sứ, người đọc thấy cả
một hiện thực gần gũi với mình hơn bao giờ hết. Cuộc sống trôi qua êm đềm, người
đàn ông hăm hở, lãng tử không còn ở Đức; sự lãng mạn, cuồng nhiệt không đủ sức
làm hài lòng cô vợ trẻ. Vì vậy, cuộc sống của Thục Nghi bỗng dưng thay đổi, không
ngờ Duy- một người bạn chồng, đến. Duy lãng mạn, đầy mơ mộng, luôn đem tiếng
đàn để bộc lộ một tâm hồn nồng cháy, trái hẳn với cái vững chãi, lành mạnh nhưng
đã trở nên lơ là trong cuộc sống lứa đôi là chồng nàng. Thục Nghi vốn là người đa
cảm, rất bao dung và hay mềm lòng đối với kẻ yếu đuối. Nàng không ngờ từ tấm
lòng hào sảng của mình, nàng lún sâu vào tình yêu. Người bạn chồng và nàng đều
hiểu rằng họ đã yêu nhau, anh ta hăm hở tiến tới còn người vợ vì lễ giáo nên chỉ biết
đau khổ trốn vào bổn phận vợ hiền. Song song với tình yêu chồng, người vợ có một
niềm bí mật vạn phần lộng lẫy để cất giấu trong kho tàng kỉ niệm của riêng mình.
Nàng đã có tất cả mọi thứ, trừ điều mà chồng nàng không thể mang lại, như cách
Duy đã làm. Có lẽ, đó là một loại bi kịch: không phải cứ sống trong sự no đủ, thỏa
mãn về vật chất thì người ta có thể đạt tới một hạnh phúc như mình mong đợi.
Các nhân vật nữ khác trong Nhang tàn thắp khuya cũng có những biểu hiện
khác nhau về đời sống hôn nhân.
Cô Hai Diệm suốt ngày mè nheo yêu sách chồng phải lo tiến thân, làm khổ
Phương không ít. Lâu rồi, chồng cô lén có vợ bé. Cô nổi ghen, mướn nặc nô lột
truồng tình địch giữa chợ cho bõ ghét. Tức nước vỡ bờ, Phương lén đem người vợ
bé lên Lèo lập nghiệp. Cô Hai Diệm tức tốc theo kiếm, làm dữ, hăm he. Nhưng
người vợ bé đã có mang trong khi đó cô vẫn chưa chửa nghén. Thế là cô phải chịu
phép cho chồng lấy vợ bé.
33
Cô Ba Ngoạn đã từng yêu một người đàn ông không cùng giai cấp- con
người tá điền của má, “ảnh hiếu học, nhưng vì nhà nghèo nên đậu xong bằng sơ học
là ảnh về nhà phụ giúp tía ảnh việc đồng áng. Tôi muốn giúp đỡ anh học tốt nghiệp
lớp đào tạo điều dưỡng y tế, để ảnh có nghề riêng đỡ cực thân” [42, tr.98], nhưng
khi bỏ nhà lên thành phố, cô Ba Ngoạn “mê lú thằng Tây mắt mèo, mũi lõ đó lắm”
và quyết định kết hôn- lấy ông chủ báo tờ Viễn Đông người Pháp. Đối với mọi
người, cô làm xấu hổ cho họ hàng, “ông Năm coi như cô đã chết từ lúc lọt lòng”
[42, tr.293].
Cô Tư Kiên lấy bác sĩ Thạch. Từ lúc nắm được thóp chồng, an nhiên hưởng
hạnh phúc viên mãn. Cô làm lơ vài mối tình phất phơ nữa của bác sĩ Thạch và tự tin
ở tài sắc của mình. Cô ăn ở kiệm, mua thêm ruộng đất, mua phố cho mướn.
Cô Sáu Niệm đi lấy chồng, nhưng coi thường gia đình chồng “Nó ỷ thế nó là
một vị quan Đốc phủ sứ nên coi gia đình bên chồng như rơm, như rác. Đi đâu, nó
không cần trình thưa với ba má chồng. Đã vậy, khi làm những món ngon vật lạ, nó
chỉ làm đủ cho vợ chồng nó thưởng thức. Tiền lương của thằng Đán bao nhiêu nó
cũng dành tất cả. Đã vậy, nó lại còn nuôi thêm hai đứa ở gái, một đứa chuyên lo hầu
quạt, đấm bóp, sai vặt, còn đứa kia lo nấu ăn cho nó” [42, tr.260]. Cô thỉnh thoảng
vẫn gây gổ, xẹo nạy mấy chị em bên chồng.
Tất cả các đôi vợ chồng trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đều mang
đến cho người đọc một cảm giác: Hạnh phúc gia đình sao mà khó nắm bắt, nắm giữ.
Niềm vui chỉ le lói mà nỗi buồn thì thường nhật. Người vợ và người chồng sống bên
nhau nhưng chỉ nhìn thấy sự tàn lụi của nhau “Ngọn nhang đã tàn làm sao có thể
thắp tới khuya? Phải chăng chàng thích sống cái nghĩa vợ chồng, trong lúc đó hồn
phách, xương thịt của chàng đã trao gửi cho một ai chăng?” [ 42, tr.123].
Hòa vào đời sống hôn nhân gia đình, truyện Như thiên đường lạnh, miêu tả
đời sống của đôi vợ chồng Tường- Khương, định cư trên một giang đảo (Cù lao An
Thành đối diện với chợ tỉnh Vĩnh Long, qua nhánh sông Cổ Chiên) mang đến cho
chúng ta một biểu hiện khác của cuộc sống hôn nhân. Chồng là thầy giáo tiểu học,
tánh lông bông, ưa ngoại tình không hẳn là người tham thanh chuộng lạ, không hẳn
là thứ ưa vui tửu sắc, mà chán cái lặp đi lặp lại rất vô vị của cuộc sống không biến
34
cố. Vợ là người đàn bà đảm đang, ghen tuông, hỗn hào nhưng hết dạ yêu chồng.
Người chồng vốn thích cuộc sống thay đổi nhưng không dám sống dù có sự thay
đổi thực sự đi nữa. Y cảm thấy cuộc sống hầu như ngưng đọng ở vùng nửa chợ nửa
quê, rồi vì tinh thần bạc nhược nên y ta vẫn giữ nghề gõ đầu trẻ, lóng ngóng một sự
thay đổi, nhưng sự thay đổi không hề xảy đến. Tác phẩm toát ra không khí uể oải,
chán nản, băn khoăn, hư vô, không tìm thấy lý tưởng cuộc đời để vui sống. Các
nhân vật bị hoàn cảnh nhấn chìm, đôi lúc họ muốn trỗi dậy nhưng không đủ sức
mạnh để bứt ra.
Đặc biệt, qua khảo sát của chúng tôi, bên cạnh các tác phẩm viết về cuộc
sống gia đình, Nguyễn Thị Thụy Vũ trải lòng mình với những người phụ nữ có cuộc
sống không may mắn, đặc biệt là gái ế và bà góa.
Bà góa- hiểu nôm na, đó là người đàn bà bị chết chồng. Chẳng may số phận
cười cợt, họ phải chịu nỗi đau chồng chết, một mình côi cút giữa cuộc đời. Đây là
nỗi lòng của bà Hảo : “Cô lấy chồng chỉ vui được ba tháng, rồi buồn ba năm và khổ
héo một đời. Cô tin rằng hôn nhân là một cuộc xổ số các em à” [41, tr.59].
Những người phụ nữ này phải gồng mình lên để sống, để nuôi con, bươn
chải giữa đời. Thế nhưng, thiên hạ vẫn thường có một cái nhìn xoi mói với những
người phụ nữ bất hạnh này. Trong mắt nhìn của các đấng mày râu, đó đích thị là
những người đàn bà cô đơn cần được những an ủi vuốt ve chăm sóc của một người
đàn ông nào đó. Nên cứ việc mạnh mồm, bạo tay, trêu chọc, bỡn cợt - bởi vui đùa
với gái góa một tí cũng chẳng chết ai. Thậm chí còn có thể coi đó là hành động hào
phóng ban ân ! “Ậy, đời nầy, thanh niên mê bà góa, hơn là mê gái còn trinh, cô Ba
biết không” [43, tr.48]. Những cố gắng của một người phụ nữ thay chồng trụ cột
trong gia đình hầu như thiên hạ đều không thấy, vì tự trong tâm thức, đó vốn là sự
đương nhiên. Dường như, Nguyễn Thị Thụy Vũ là nhà văn của nữ nên đã hiểu được
ngọn nguồn của những nếp nghĩ của cuộc đời. Điều người ta quan tâm, nhìn ngắm,
quan sát, là gái góa có ở được một mình mãi mãi, có thủ tiết, chung thủy với đức
ông chồng quá cố, để nuôi dạy con nên người không? “Tụi bay rình rập gì tao đó?
Tao không có đem thằng nào về ngủ đâu” [45, tr.45]. Đòi hỏi nghiêm là thế, nhưng
ngặt nỗi, nếu gái góa ở một mình để làm trinh phụ thì mấy cô gái ế chồng, mấy bà
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY
Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY

More Related Content

What's hot

Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfKHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfNuioKila
 
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...PinkHandmade
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...nataliej4
 
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Dịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

What's hot (20)

Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...
Luận văn: Dạy học đọc hiểu văn bản thơ trữ tình trong trường Trung học phổ th...
 
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdfKHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
KHÓA LUẬN ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT TRINH THÁM HIGASHINO KEIGO 5652858.pdf
 
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
Luận án: Thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng trước năm 1945
 
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
Luận văn: Tích hợp văn hóa trong dạy học văn học nước ngoài ở chương trình Ng...
 
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
ANH EM NHÀ KARAMAZOV CỦA DOSTOYEVSKY DƯỚI GÓC NHÌN PHÂN TÂM HỌC - TẢI FREE ZA...
 
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
Luận án: Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trước 1945)
 
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
Luận án: Phát triển năng lực đọc hiểu văn bản cho học sinh trung học phổ thôn...
 
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAYLuận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
Luận án: Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975, HAY
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY_1024...
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốcLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện đại hàn quốc
 
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
Diễn ngôn tính dục trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại (Qua một số tác giả v...
 
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAYLuận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
Luận văn: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết Murakami Haruki, HAY
 
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOTCảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam (1986 - 2010), HOT
 
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAYCảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
Cảm hứng về người anh hùng trong văn xuôi Nguyên Ngọ, HAY
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bảnLuận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
Luận văn: Tiểu thuyết Nguyễn Xuân Khánh từ góc nhìn liên văn bản
 
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
Nghiên cứu yếu tố Kỳ Ảo qua cách sử dụng từ điểm âm trong Truyền Kỳ Mạn Lục c...
 
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAYLuận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
Luận văn: Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, HAY
 

Similar to Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY

TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019phamhieu56
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424nataliej4
 
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpLiên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpMan_Ebook
 

Similar to Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY (20)

Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và InrasaraLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara
 
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAYLuận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
Luận văn: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Hoàng Hưng và Inrasara, HAY
 
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
TƢ DUY NGHỆ THUẬT THƠ NGUYỄN KHẮC THẠCH_10303312052019
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAYLuận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
Luận văn: Chất thơ trong Truyện đường rừng của Lan Khai, HAY
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAYLuận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
Luận văn: Thiên nhiên trong thơ chữ hán Nguyễn Du, HAY
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn trần thùy mai và quế hương
 
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
Thơ nữ việt nam sau 1975, những tìm tòi và cách tân 7774424
 
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy ThiệpLuận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Luận văn: Đặc điểm lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
 
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệpLiên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
Liên văn bản trong sáng tác nguyễn huy thiệp
 
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện KiềuBút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
Bút pháp tả cảnh ngụ tình từ Chinh phụ ngâm khúc đến Truyện Kiều
 
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca TàyẢnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
Ảnh hưởng của văn học dân gian trong văn xuôi và thơ ca Tày
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAYLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt, HAY
 
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đLuận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
Luận văn: Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Hồ Phương, 9đ
 
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đLuận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
Luận văn: Tản văn Việt Linh và Nguyễn Ngọc Tư – từ đặc trưng thể loại, 9đ
 
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đLuận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
Luận văn: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi, HAY, 9đ
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi phápLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp
 
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAYLuận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
Luận văn: Thơ cổ phong Nguyễn Trãi, Nguyễn Du từ góc nhìn thi pháp, HAY
 
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAYLuận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
Luận văn: Những hình ảnh biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Tuân, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 

Recently uploaded (20)

BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 

Luận văn: Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, 9đ, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ THU NHUNG ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM Thừa Thiên Huế, năm 2018
  • 2. ĐẠI HỌC HUẾ TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM PHẠM THỊ THU NHUNG ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TÔN THẤT DỤNG Thừa Thiên Huế, năm 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả luận văn Phạm Thị Thu Nhung
  • 4. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập, nghiên cứu cũng như hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến và chỉ bảo nhiệt tình của thầy cô, gia đình và bạn bè. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới quý thầy cô giáo Khoa Ngữ Văn và Phòng Sau Đại học- Trường ĐHSP Huế đã tận tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất trong suốt thời gian tôi học tập. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc đến TS. Tôn Thất Dụng đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, chỉ bảo và động viên tôi hoàn thành luận văn này. Tôi xin tỏ lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Trị, Ban Giám hiệu Trường THPT Nguyễn Huệ- TX Quảng Trị đã tạo mọi điều kiện, giúp đỡ và khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn. Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới những người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn bên tôi, quan tâm, động viên tôi trong suốt quá trình học tập.
  • 5. 1 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cảm ơn Mục lục.......................................................................................................................1 MỞ ĐẦU.....................................................................................................................3 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài...................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề.........................................................................................................3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7 3.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................7 3.2. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................8 4. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................8 5. Đóng góp của luận văn...........................................................................................9 6. Cấu trúc luận văn....................................................................................................9 NỘI DUNG...............................................................................................................10 Chương 1: Ý thức sáng tạo và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thụy Vũ.....10 1.1. Sáng tạo nghệ thuật............................................................................................10 1.1.1. Những trang văn giàu sự trải nghiệm..............................................................10 1.1.2. Sự đa dạng, mạnh bạo trong đề tài.................................................................12 1.1.3. Sự khẳng định bản lĩnh cá tính sáng tạo.........................................................15 1.2. Quan niệm về nghệ thuật...................................................................................17 1.2.1. Quan niệm về hiện thực trong văn chương....................................................17 1.2.2. Quan niệm về nhà văn, nghề văn...................................................................19 1.3. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dòng chung của văn học nữ Nam Bộ trước 1975.................................................................................................................21 Chương 2: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Cảm quan về hiện thực cuộc sống và con người.................................................................................................................. 24 2.1. Cảm quan về hiện thực cuộc sống......................................................................24 2.1.1. Cuộc sống đời thường.....................................................................................24
  • 6. 2 2.1.2. Cuộc sống đô thị.............................................................................................41 2.2. Cảm quan về con người.....................................................................................52 2.2.1. Con người cô đơn............................................................................................53 2.2.2. Con người nổi loạn..........................................................................................57 2.2.3. Con người lo âu...............................................................................................61 2.2.4. Con người bản năng........................................................................................64 Chương 3: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Những hình thức thể hiện...................70 3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật...........................................................................70 3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình nhân vật.........................................................71 3.1.2. Nghệ thuật miêu tả và biểu hiện tâm lý nhân vật............................................74 3.2. Ngôn ngữ............................................................................................................78 3.2.1. Ngôn ngữ trần thuật........................................................................................78 3.2.2. Hệ thống ngôn từ đậm sắc thái Nam Bộ.........................................................82 3.3. Giọng điệu..........................................................................................................86 3.3.1. Giọng trữ tình, thương cảm.............................................................................87 3.3.2. Giọng suồng sã, đời thường............................................................................89 3.3.3. Giọng lạnh lùng, điềm nhiên, trầm tĩnh..........................................................93 KẾT LUẬN...............................................................................................................96 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................98
  • 7. 3 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài Văn xuôi là thể loại có khả năng miêu tả cuộc sống bề bộn, phức tạp; cũng là nơi mà nhà văn có thể tung tẩy các yếu tố kỹ thuật, nghệ thuật. Văn xuôi, trong bản chất của nó, luôn hướng đến những vấn đề muôn sắc màu của đời sống xã hội và con người. Đi tìm vẻ đẹp văn chương, đi tìm những đặc điểm của văn xuôi nghệ thuật có lẽ là một trong những hành trình vô cùng thú vị cho những ai yêu văn học. Văn học Việt Nam đã và đang chứng kiến nhiều hiện tượng văn học thăng trầm. Nỗ lực đánh giá, định danh trên bản đồ văn chương nước nhà cho một nhà văn không phải là điều đơn giản. Nhưng độc giả vẫn rất trân trọng gọi tên họ: thế hệ các cây bút trên hành trình làm mới thể loại và tìm kiếm, khẳng định bản ngã. Để hiểu rõ và sâu sắc hơn diện mạo nền văn xuôi Việt Nam, chúng tôi quyết định chọn văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ để tìm hiểu, khám phá. Có thể nói rằng, văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những hiện tượng văn học góp phần tạo nên tính đa dạng của văn xuôi đô thị miền Nam trước năm 1975. Khám phá thế giới văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, một lần nữa chúng ta có dịp nhìn lại những giai đoạn phát triển, những bước chuyển mình, vận động của văn xuôi đô thị miền Nam- một trong những bộ phận văn học quan trọng làm nên diện mạo hoàn chỉnh của văn học Việt Nam, mà trong thực tế chúng ta vô tình lãng quên hoặc không chú ý đến bộ phận văn học này. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, bộ phận văn học miền Nam là một trong những bộ phận văn học hòa nhịp rất nhanh vào dòng chảy của văn học thế giới. Vì vậy, tiếp nhận các tác phẩm Nguyễn Thị Thụy Vũ cũng là cách để chúng ta thấy một phần nào đó sự chuyển mình của văn học Việt Nam trong sự phát triển chung của thời đại. Khi làm đề tài Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi muốn góp thêm một tiếng nói trong việc đọc lại, đánh giá lại, giới thiệu lại một số giá trị của văn học miền Nam nói chung cũng như văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói riêng. 2. Lịch sử vấn đề Tìm hiểu về Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những vấn đề khá mới mẻ. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những
  • 8. 4 cây bút có hướng đi riêng, phản ánh hiện thực trong cảm quan của một nhà văn nữ ở miền Nam trước 1975. Các truyện ngắn và truyện dài của bà ra đời từ khoảng thời gian 1965- 1975. Vào tháng 3 năm 2017, Hội Nhà văn đã tái bản lại mười tác phẩm của bà. Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tìm thấy một số tài liệu liên quan đến văn học miền Nam nói chung cũng như về Nguyễn Thị Thụy Vũ nói riêng. Trước hết, phải kể đến công trình nghiên cứu của Võ Phiến, Văn học miền Nam- Tổng quan (tháng 5,1986). Đây là một trong những cuốn sách không những giúp người đọc nhận diện một khía cạnh khác trong tài năng của Võ Phiến mà còn cung cấp cho người đọc một khối tài liệu khá lớn và đáng tin cậy về một nền văn học ngỡ đã bị quên lãng: văn học Miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Với ý nghĩa như thế, bộ Văn học Miền Nam của Võ Phiến, đặc biệt tập đầu: “Tổng quan”, đã cung cấp những tư liệu, nhận định riêng về văn học miền Nam giúp người nghiên cứu có cái nhìn bao quát hơn về bộ phận văn học này. Tác giả Võ Phiến đã khảo sát một số yếu tố chính trong sinh hoạt văn học miền Nam như: nhà văn, độc giả và xuất bản; sau đó, ông lần lượt trình bày các giai đoạn chính và phân tích những đặc điểm nổi bật nhất; cuối cùng, đối chiếu sơ lược văn học miền Nam với văn học miền Bắc và văn học “tiền chiến” để thấy được tiến trình vận động của mỗi bộ phận văn học. Từ đó, có cái nhìn, sự đánh giá về đóng góp và thành tựu mỗi miền cũng như sự đa dạng của văn học Việt Nam. Tác giả Thụy Khê trong công trình nghiên cứu “Văn học miền Nam từ 1954-1975” (Pari, tháng 10/2007, đọc lại và sửa chữa 04/07/2014) mang đến sự đánh giá khá khái quát, công phu về văn học miền Nam: tác giả, chữ quốc ngữ, hoàn cảnh lịch sử tác động đến văn học, và đặc biệt là đưa ra những nhận xét đánh giá của mình về văn học miền Nam từ 1945- 1975 khi tìm hiểu các khuynh hướng, đặc điểm của văn học giai đoạn này “Đặc điểm chính của nền văn học miền Nam từ 1954 đến 1975, là đã thoát khỏi văn học thế kỷ XIX, giã từ lãng mạn tiền chiến. Nhiều nhà văn tìm cách xây dựng tư tưởng trên nền triết học hiện đại, đưa con người về hướng tìm hiểu chính mình. Triết học hiện sinh xuất hiện dưới nhiều hình thức: phòng trà tửu quán, ăn chơi, bụi đời, là từng thấp nhất; ở mức cao hơn, nó
  • 9. 5 hậu thuẫn cho tác phẩm: con người quay về khảo sát chính mình, nhận thức chính mình” [50]. Với bài viết này, ông đã cung cấp cho độc giả nhiều thông tin khá quan trọng về văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954- 1975. Tác giả Trần Doãn Nho đã có bài thuyết trình trong buổi hội thảo về “Hai mươi năm Văn học miền Nam 1954-1975” tổ chức tại tòa soạn nhật báo Người Việt vào ngày 06/12/2014. Trần Doãn Nho đã trình bày về Tính văn học trong văn học miền Nam. Ông đã nêu những tác động ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của văn học miền Nam. Theo ông,“Văn học miền Nam như một cánh rừng bạt ngàn. Nó dung chứa hết thảy hình thức văn chương, từ bình dân đến cao cấp, từ hữu khuynh đến tả khuynh, từ cổ điển đến hiện đại. Nhiều trào lưu, khuynh hướng chống đối nhau vẫn cùng hiện diện. Trào lưu nào, khuynh hướng nào có độc giả của trào lưu và khuynh hướng đó” [52]. Bài tham luận của nhà văn Bùi Vĩnh Phúc trong “Hội thảo hai mươi năm văn học miền Nam 1954- 1975”, tại California, (06/12/2014) đã trình bày phẩm tính và ý nghĩa của nền văn học này. Nhà văn khẳng định “Văn học miền Nam, từ 1954 đến 1975, là một đóng góp và một thành tựu của văn học Việt Nam, trong một giai đoạn thuộc nửa sau thế kỷ XX. Nó chỉ tồn tại trong vòng 20 năm, nhưng nó đã là một tồn tại quan trọng và không thể thiếu của giai đoạn này. Nói một cách thẳng thắn, nền văn học này nối kết Việt Nam với thế giới, với nhân loại, trong những khía cạnh hiện hữu người một cách vừa bao quát vừa thâm sâu nhất. Nó chia sẻ và phản ánh thân phận và những tình cảm của con người ở những độ rung, những bảng mầu gần gũi với các nền văn học hiện đại của thế giới, dĩ nhiên với những âm vang và sắc độ riêng của đời sống xã hội và tinh thần của người Việt” [53]. Nhà văn đã nhận định văn học miền Nam là một nền văn học đậm tính nhân bản, nhân văn. Đây là nền văn học khai phóng, đa sắc và đa dạng. Việc tìm hiểu đời sống văn học miền Nam 1954- 1975 trên các phương diện từ lý luận, phê bình văn học, đến thực tế sáng tác đã được các nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước và sau 1975, cả trong Nam ngoài Bắc và người Việt ở hải ngoại đề cập đến. Những công trình nghiên cứu hoặc các bài báo về vấn đề này, với những quy mô khác nhau, xuất phát từ những “điểm nhìn”, quan điểm chính trị,
  • 10. 6 thẩm mỹ khác nhau đã đem đến người đọc những cách tiếp cận khác nhau (về văn học đô thị miền Nam từ 1954 đến 1975) thì cũng có những nhận xét, đánh giá về văn học giai đoạn này rất khác nhau. Từ đó, nó sẽ hỗ trợ, cung cấp cái nhìn toàn diện hơn khi nghiên cứu về một tác giả cụ thể. Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ vào thập niên 1960-1970 từng nổi lên như một trong năm nhà văn nữ hàng đầu của Sài Gòn. Trước đó nữa, vào năm 1969, nhà phê bình Nguyễn Đình Tuyến cũng nhìn thấy ở văn chương Nguyễn Thị Thụy Vũ những giá trị có tính thời đại: “Truyện của Nguyễn Thị Thụy Vũ thật là táo bạo. Đọc xong truyện, tôi nghĩ đây mới thật là những truyện trình bày những sự kiện sống thực nhất của thời đại chúng ta. Thời đại này rồi sẽ đi qua. Những cái gì của thời này nếu không ghi kịp thì ngày mai sẽ mất” [49]. Vào năm 1973, nhà phê bình Uyên Thao từng dành cho Nguyễn Thị Thụy Vũ những nhận định có tính gợi mở cho học giới về sau nghiên cứu văn của bà: “Nguyễn Thị Thụy Vũ đã cho thấy tất cả những người đang sống chỉ thực sự được sống bằng cách chạy trốn. Trong khi những kẻ yếu đuối chạy trốn vào vùng trời tưởng tượng bi thảm của mình thì những kẻ tương đối mạnh dạn hơn chạy trốn vào trong sự giả dối, che đậy. Ngoài hai lớp người ấy là một lớp người chạy trốn thực sự, chạy trốn bằng cách ném mình vào những cuộc phiêu lưu mà mọi tính toán chỉ dừng lại ở một điểm duy nhất: miễn là tách xa được thế giới tù hãm này” [49]. Tác giả Lam Điền có bài viết “Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ sau gần 50 năm ẩn dật” đăng ngày 19/3/2017 đã giới thiệu những nét khái quát về con người cũng như phong cách của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dịp tái bản lại mười tác phẩm. Đặc biệt, tác giả Du Tử Lê đã có một bài viết khá hay về “Sự khác biệt về tính dục trong truyện Nguyễn Thị Thụy Vũ và các nhà văn nữ khác” (27/10/2010). Ông đưa ra nhận xét về sự khác biệt cơ bản của Nguyễn Thị Thụy Vũ khi viết về đề tài tính dục với các cây bút nữ cùng thời. Theo ông, trong số các nhà văn nữ ở Sài Gòn, Nguyễn Thị Thụy Vũ là nhà văn tôi trân trọng nhất. “Ngòi bút của chị chứa đựng tất cả những gì làm nên một cây bút có cá tính. Cùng một vấn đề tình dục, các nhà văn nữ khác sùng bái khoái cảm, đẩy tình dục đến chỗ ca tụng thân xác, Thụy Vũ cũng khát khao thân xác- nhưng là những cơn khát khao u uẩn, khoái cảm tan
  • 11. 7 nhanh trong hoài niệm, hoang đường, giữa bản năng và siêu linh mang một chút âm sắc của trăm năm cô đơn” [51]. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân đã có bài viết “Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trở lại” (17/03/2017) in trên báo Người lao động, tóm tắt một cách sơ lược về đề tài, văn phong của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Theo tác giả, điều làm nên thành công trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đó chính là chất hiện thực và văn phong rặt chất Nam Bộ. Tác giả Gia Bảo đã có bài giới thiệu: “Nguyễn Thị Thụy Vũ- Người vẽ chân dung con người trong thời loạn ly giông bão” (21/03/2017) đã viết: “Nguyễn Thị Thụy Vũ tái ngộ bạn đọc nhân dịp 10 tác phẩm của bà được tái bản với diện mạo hoàn toàn mới. Như vậy là, sau hơn 41 năm kể từ ngày gác bút, ở độ tuổi tròn 80, bà vẫn được chứng kiến một sự kiện lớn trong cuộc đời mình. Còn với khán giả trót yêu văn bà, hay chỉ đơn giản là yêu sách, yêu văn chương, cũng thật khó để không nóng lòng khi thấy một phần của di sản văn học Việt Nam vốn chìm sâu hơn 41 năm nay đã trở lại, thật sự tươi mới và rạng rỡ” [48]. Nhìn chung, các ý kiến, bài viết, tài liệu liên quan đến đề tài Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ rất ít, chỉ dừng lại ở những nhận xét rất chung, khái quát, chưa đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống nội dung và nghệ thuật tác phẩm của nhà văn nữ này. Có chăng là những bài báo trên mạng internet, những bài phỏng vấn, những ý kiến đánh giá, nhận xét của những người nghiên cứu về văn học miền Nam trước 1975, của Hội Nhà văn Việt Nam khi xuất bản lại 10 tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Các bài viết này chỉ dừng lại ở việc giới thiệu tác giả, tác phẩm và đưa ra một số nhận xét, ý kiến đánh giá ngắn gọn về vẻ đẹp văn chương của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Và các bài viết, các ý kiến trên đây vẫn là những gợi mở quý báu giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài Đặc điểm văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Vì thế, luận văn là một trong những bước khám phá, tìm tòi của người viết trong việc tìm hiểu những đặc điểm của văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu
  • 12. 8 Với đề tài Đặc điểm văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, đối tượng nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm truyện ngắn và truyện dài của Nguyễn Thị Thụy Vũ, trong đó chú ý những đặc điểm về nội dung- cảm quan về hiện thực cuộc sống và con người trong bối cảnh Sài Gòn- Việt Nam những năm trước 1975 và hình thức thể hiện mới mẻ, sáng tạo về nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu… 3.2. Phạm vi nghiên cứu: Các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ từ năm 1965-1975: Tập truyện ngắn: - Mèo đêm, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1966, Hiện Đại tái bản 1968. - Lao vào lửa, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1967. - Chiều mênh mông, tập truyện, nhà xuất bản Kim Anh 1968. Tiểu thuyết: - Thú hoang, truyện dài, nhà xuất bản Hồng Đức 1968. - Ngọn pháo bông, truyện dài, nhà xuất bản Hiện Đại 1968. - Khung rêu, truyện dài, nhà xuất bản Kẻ Sĩ 1969 (Giải nhì Văn chương toàn quốc 1970). - Nhang tàn thắp khuya - Như thiên đường lạnh - Chiều xuống êm đềm - Cho trận gió kinh thiên Mười tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ được nhà xuất bản Văn học tái bản lại đầy đủ vào tháng 3 năm 2017. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp cấu trúc- hệ thống: chúng tôi đặt văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ như một chỉnh thể thống nhất trong diện mạo chung của văn học Nam Bộ trước 1975 nói riêng cũng như văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Đồng thời, khi tiếp cận từng tác phẩm cụ thể, chúng tôi cũng quan tâm đến tính chỉnh thể trong cấu trúc của nó. Phương pháp này cũng hỗ trợ đắc lực cho chúng tôi trong việc triển khai các bình diện nghiên cứu của luận văn một cách logic và chặt chẽ.
  • 13. 9 - Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng nhằm mục đích chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt giữa văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ với văn học miền Nam trước 1975 nói riêng cũng như văn học Việt Nam hiện đại nói chung. - Phương pháp liên ngành: dùng để khảo sát và nghiên cứu đặc thù lịch sử, văn hóa, văn học trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như: Phân tích, tổng hợp, thống kê; lý thuyết về Thi pháp học và Tự sự học. 5. Đóng góp của luận văn Luận văn đóng góp thêm một tiếng nói trong việc khẳng định giá trị những tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ. Những tác phẩm truyện ngắn và truyện dài đã góp phần làm đa dạng hơn sự phát triển của văn xuôi miền Nam trước 1975 nói chung và văn học nữ hiện đại Việt Nam nói riêng. Đặc biệt, luận văn góp phần dựng lại bức chân dung nghệ thuật Nguyễn Thị Thụy Vũ với những gì mà nhà văn suy nghĩ, trải nghiệm và thể nghiệm trên trang viết của mình- cảm quan về cuộc sống và con người, những tìm tòi sáng tạo về đề tài, phương thức thể hiện: nhân vật, ngôn từ, giọng điệu... Qua đó, làm nổi bật lên được phong cách của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Ý thức sáng tạo và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Thị Thụy Vũ Chương 2: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Cảm quan về hiện thực cuộc sống và con người Chương 3: Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ- Những hình thức thể hiện
  • 14. 10 NỘI DUNG Chƣơng 1 Ý THỨC SÁNG TẠO VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN THỊ THỤY VŨ 1.1. Sáng tạo nghệ thuật 1.1.1. Những trang văn giàu sự trải nghiệm Bản chất của nghệ thuật là sự sáng tạo và sáng tạo không ngừng. Tuy nhiên, sự sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ cuộc sống. Hiện thực cuộc sống chính là mảnh đất màu mỡ để mỗi nhà văn khai thác và biểu hiện vào trong tác phẩm của mình. Trong thi đàn văn học Việt Nam, phụ nữ cầm bút, có mấy ai không đa đoan, trắc trở. Dường như cái sự viết, những đa đoan phận người đã đánh đắm họ trong bể dâu cuộc đời như một lẽ thường của đàn bà làm nghề viết. Nguyễn Vũ Thụy Vũ cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, khi chọn đi trên con đường với văn chương thì cũng có nghĩa ở một khía cạnh nào đó bà chấp nhận những hy sinh, thiệt thòi. Có thể là hy sinh một cuộc hôn nhân khi không nhận được sự cảm thông của người đồng hành hoặc đôi khi là chấp nhận một cuộc sống ít nhẹ nhàng (trong tâm tưởng), một hạnh phúc theo nghĩa thông thường như những người phụ nữ làm nghề khác. Tuy nhiên, một điều đặc biệt là ngay từ những mất mát, thiệt thòi ấy, những trang văn của họ vẫn chan chứa yêu thương, thắm xanh hy vọng. Đàn bà viết văn thường đa đoan. Bởi họ quá nhạy cảm. Mà nhạy cảm thường đi đôi với những chênh vênh, khó nắm bắt: “Nhạy cảm quá đôi khi thành nghiệt ngã”. Thật khó có thể tin một phụ nữ sống hời hợt, nhạt nhẽo lại có thể viết được những đoạn văn, những câu thơ chạm tới tận đáy sâu trái tim bạn đọc. Có thể tùy tính cách, tùy hoàn cảnh sống, những người phụ nữ ấy quan tâm hơn tới điều này điều kia hoặc đơn giản chỉ là cách biểu hiện bên ngoài. Còn trước trang giấy, những người đàn bà cầm bút luôn trung thực với trái tim của mình. Họ viết về những đau đớn, mất mát, những dằn vặt nhưng chưa bao giờ thôi khát khao về một cuộc sống đầy ắp tin yêu. Bên cạnh những giây phút bận rộn, vất vả lo toan như bao người phụ nữ khác, khi ngồi trước trang giấy, họ được sống thật với mình nhất. Tác phẩm chính là
  • 15. 11 cách họ trò chuyện với chính mình, với cuộc sống, là cách họ khoác lên tâm hồn mình đôi cánh để phiêu du trong trí tưởng tượng và những đắm say... Nguyễn Thị Thụy Vũ, tên thật là Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1937 ở Vĩnh Long, trong một gia đình khá giả. Cha bà là nhà văn Mặc Khải, cô là thi sĩ Phương Đài đều hoạt động kháng chiến. Bà viết văn từ năm 1965. Bà chung sống với nhà thơ Tô Thùy Yên và có đến bốn mặt con. Cuộc hôn nhân không êm đềm, đến năm 1980, Nguyễn Thị Thụy Vũ chấp nhận một mình nuôi con. Cuộc sống của bà là những thăng trầm. Khoảng 1960-1965, bà dạy tiểu học tại Vĩnh Long, rồi không chấp nhận được môi trường sư phạm bó hẹp, khăn gói lên Sài Gòn học Anh ngữ ở Hội Việt Mỹ. Tại đây, ngay từ năm đầu tiên học tiếng Anh, bà được một bạn học giới thiệu đi dạy tiếng Anh cho các cô gái làm snack bar, những phụ nữ Việt Nam cặp kè binh lính, sĩ quan Mỹ... Nhiều người trong số đó đem tâm sự tỉ tê với bà. Cuộc đời và tâm sự của họ gây xúc động, làm thành đề tài sáng tác của bà. Người đọc nhận thấy trong các truyện của bà Nguyễn thi thoảng có cô giáo dạy Anh văn xuất hiện. Những đổi thay của cuộc đời, thời cuộc cùng với thực tế trần trụi, khốc liệt, thấm đẫm buồn đau về đời sống con người, những cô gái làm ở các snack bar, dan díu với lính Mỹ đã đi vào trang viết của Nguyễn Thị Thụy Vũ, gây chấn động dư luận vào khoảng cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970. Với các tập: Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông, Ngọn pháo bông, Khung rêu, Thú hoang… Nguyễn Thị Thụy Vũ trở thành một hiện tượng văn học gây ngạc nhiên trên văn đàn miền Nam. Nguyễn Thị Thụy Vũ mạnh dạn phơi bày một phương diện thực trạng xã hội ta vào một thời điểm đặc biệt. Bà xông vào cơn gió bụi, phanh phui những cảnh đời lầm than, cùng đáy xã hội làm lắm kẻ sững sờ, nhăn mặt. Bên cạnh đó, chính những tháng ngày gắn bó với mảnh đất, văn hóa và con người Nam Bộ, đặc biệt là quê hương Vĩnh Long- nơi bà sinh ra và lớn lên, đã làm nên những trang viết ăm ắp hơi thở về cuộc sống, con người Nam Bộ. Cảnh sông nước, miệt vườn, lời ăn, tiếng nói, dáng điệu, cử chỉ, phong tục, tập quán, món ăn, những lời ca tiếng hát... của các nhân vật trong tác phẩm của bà Nguyễn thật sống động và vẹn nguyên. Con người nơi đây phóng khoáng với một cuộc sống giản dị
  • 16. 12 mà chan chứa tình người. Nguyễn Thị Thụy Vũ phải là người yêu hết mực mảnh đất này mới có những trang viết thắm đượm tình quê như thế. Đến với những trang văn của Nguyễn Thị Thụy Vũ, tuy có sự pha trộn giữa sự thật và hư cấu nhưng sự thật và tính chân thực được đặc biệt chú trọng, trong đó, tỷ lệ cái thật trội hơn so với hư cấu, thậm chí là bộ xương để kiến tạo cốt truyện. Những yếu tố này được bà đưa vào tác phẩm một cách hệ thống, có ý nghĩa trong việc hình thành tính cách nhân vật. Chúng tôi cho rằng, khi viết các tác phẩm, Nguyễn Thị Thụy Vũ từ những trải nghiệm, chiêm nghiệm, giọng kể tự thú, nhất là khuynh hướng xoáy sâu vào lý giải quá trình hình thành nhân cách nhân vật chính, độc giả cảm nhận được màu sắc hiện thực rõ rệt (Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Khung rêu, Thú hoang, Như ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên …). Nhân vật trong các tác phẩm của bà hiện lên một cách chân thực. Những vui buồn, ghét thương, trăn trở, ước vọng, sự chua chát, niềm tin, rạn vỡ ước mơ, cô đơn... của thân phận con người trong các trang văn của bà hiện lên một cách tự nhiên nhưng cũng rất ám ảnh. Đó là những thân phận kiếp người cùng đáy xã hội. Trong truyện ngắn Lao vào lửa, các cô gái bar: Tâm (Chiếc giường), Tú- Tina (Lao vào lửa), Hạnh, Bích, Nga (Đêm nổi lửa), Mi-sen (Nắng chiều vàng), Loan (Mèo đêm) mỗi người mỗi hoàn cảnh bị sa chân vào cuộc sống của các cô gái làm điếm. Họ mênh mông, vô định, bị cuốn vào vòng xoáy của ánh đèn, men rượu, tiếng nhạc của quán bar, những va đập của xác thịt, những trải nghiệm giường chiếu của bạn tình… Họ triền miên trong nỗi đau, cô độc, lo sợ tuổi già sắp đến nhưng khi được bắt đầu lại từ đầu, họ hoài nghi, họ không muốn, không quen, họ không biết sống như thế nào và phải làm những gì. Họ cứ trượt dài, trôi mãi giữa dòng đời. Chính tất cả những hiện thực mà Nguyễn Thị Thụy Vũ chứng kiến, chiêm nghiệm, thấm thía... đã góp phần tạo nên các tác phẩm văn xuôi ngồn ngộn hiện thực. Bà viết như là một hình thức để trải lòng. Dù bà đề cập tới những vấn đề vĩ mô hay nhỏ bé, xa xôi hay gần gụi thì vẫn bộc lộ sự tinh tế, sâu lắng, những góc nhìn rất riêng về thời cuộc và con người. 1.1.2. Sự đa dạng, mạnh bạo trong đề tài
  • 17. 13 Đọc các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng, sửng sốt bởi những trang văn đầy táo bạo. Những gì người ta nghe thấy, chứng kiến ngoài đời, người ta ngại nói hoặc nhắc đến thì bà lại đề cập một cách tự nhiên, không hề e ngại, giấu diếm. Giai đoạn 1945- 1975, văn xuôi hầu hết đề cập đến các đề tài tập trung thể hiện, phản ánh kịp thời nhịp sống cách mạng, kháng chiến của toàn dân tộc. Tinh thần ngợi ca bao trùm lên toàn bộ đời sống văn học cách mạng. Miêu tả cái bi phải là bi hùng, bi tráng, tuyệt nhiên không được phép bi lụy. Người cán bộ chiến sĩ và quần chúng cách mạng là hai mảng đề tài lớn nhất, hút vào những đề tài khác: đề tài chiến tranh, cách mạng, đề tài lịch sử, đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội, cải cách ruộng đất, đề tài đấu tranh thống nhất đất nước: Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Những người thợ mỏ (Võ Huy Tâm), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Hòn đất (Anh Đức), Bão biển (Chu Văn), Chủ tịch huyện ( Nguyễn Khải)… Nhà văn viết về đề tài chiến tranh và con người trong kháng chiến đã miêu tả hiện thực sống động, chân thật. Con người trong các mảng đề tài, chủ đề tiểu thuyết chiến tranh, cách mạng chủ yếu được miêu tả ở khía cạnh chung, tiêu biểu cho giai cấp, dân tộc. Vẻ đẹp lý tưởng của họ được hòa chung với cộng đồng, thời đại. Do đó, văn xuôi giai đoạn này giới hạn đời sống chủ yếu miêu tả ở bề nổi, mang cảm hứng ngợi ca. Trong khi văn xuôi đang khai thác những vấn đề thời thượng thì Nguyễn Thị Thụy Vũ lại chọn cho mình một hướng đi riêng, đi sâu vào đề tài thế sự, đời tư. Nhìn chung, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ thể hiện rõ nét, xuyên suốt ở hai mảng đề tài: đời sống của bà con nông dân (Thú hoang, Như thiên đường lạnh, Khung rêu) và đời sống của những cô gái bar (Lao vào lửa, Mèo đêm, Chiều mênh mông, Ngọn pháo bông...). Hai đề tài này đặt vào hai không gian cụ thể: Thứ nhất, không gian sinh hoạt nông thôn miền Nam, tỉnh Vĩnh Long. Đó là biểu tượng của một vùng sông nước trù phú, ôn hòa, màu mỡ, làm nền cho những gia đình quyền quý, cầu kỳ hay cuộc sống đời thường với những nếp sống sinh hoạt thường nhật với tình yêu, tuổi trẻ, đời sống gia đình... của bà con thôn quê. Thứ hai, đó là không gian của đô thị Sài Gòn. Đó là không gian của các cô gái bar tiếp khách trong
  • 18. 14 ánh đèn mờ, men rượu, không gian phòng ngủ, bệnh viện, phòng trọ, xóm lao động nghèo... Dù là ở không gian nghệ thuật nào thì ngòi bút của Nguyễn Thị Thụy Vũ cũng muốn phản ánh một cách sinh động, chi tiết để nói lên những vẻ đẹp xưa cũ nay đã bị hoàn cảnh thời cuộc tác động. Bà khai thác câu chuyện của nhân vật đến từ nhiều tầng lớp khác nhau: là gia đình của một ông Phủ về hưu trong Khung rêu, người phụ nữ từ khuôn đúc lễ giáo bài bản để làm vợ, làm mẹ trong Nhang tàn thắp khuya, đám học trò lớp Đệ tứ A trong Thú hoang… hay thậm chí, đó là những cô gái bán bar lấy Mỹ ở Sài Gòn trước 1975 trong Lao vào lửa, Mèo đêm, Chiều mênh mông... Cuộc sống con người trong những hoàn cảnh đó, có lúc, họ muốn vượt thoát nhưng lại không tìm thấy lối thoát, hoặc họ tưởng rằng đã thay đổi, đã vượt thoát nhưng thực tại thì thấy lạc lõng, bơ vơ, chưa tìm thấy được niềm vui sống. Phía sau sự giản dị của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đó là tầng tầng lớp lớp số phận kẹt trong những khúc mắc cuộc đời- bức bối, đa đoan và mải miết kiếm tìm một lối thoát. Ở đề tài cuộc sống của bà con nông dân, đây là đề tài không mới. Trước bà, ta có thể bắt gặp đề tài này trong các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Với Thụy Vũ, đây là đề tài được phản ánh dưới một cái nhìn mới mẻ. Đó là cuộc sống của những người nông dân sống mòn, sống mỏi với những bi kịch tình yêu, hôn nhân, gia đình, xói mòn đạo đức bởi hoàn cảnh xã hội mà họ không tìm được lối đi. Họ khắc khoải chờ đợi một điều gì mới mẻ, thay đổi tốt đẹp nhưng rốt cục họ bị vây bủa, nhấn chìm bởi những quan niệm đạo đức, trách nhiệm, gia đình và xa rộng hơn đó là hoàn cảnh xã hội khi có chiến tranh cứ bào mòn tâm hồn họ. Ở đề tài cuộc sống của những cô gái bar, đây là đề tài mà các nhà văn trước đó ít nói đến hoặc ngại viết đến. Nhưng ở Nguyễn Thị Thụy Vũ, ta thấy bà phản ánh trực tiếp và dành một vị trí đặc biệt khi viết về đề tài này. Hầu hết các truyện ngắn của bà đều phản ánh cuộc đời những cô gái bar. Bà miêu tả chân thực, thậm chí có lúc thô nhám và trần trụi. Đây là những thân phận người xuất hiện khá nhiều khi đế quốc Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Những cô gái bar- thân phận của những nạn nhân thấp cổ bé họng của chiến tranh. Hầu hết trong số họ là những cô gái quê
  • 19. 15 nghèo khổ, không biết chữ, không có cách nuôi thân nào khác ngoài việc sống như những con ve trên bộ lông người lính Mỹ. Bà đi sâu vào cách sống, thói quen, nếp nghĩ, ngôn ngữ, hành động, cách mời khách, chiều lòng khách... của họ cụ thể và làm cho người đọc phải nghĩ suy. Vì vậy, có thể nhận định đây là nhà văn viết về những gái điếm. Bà Thụy Vũ đã chọn cách đối diện với chiến tranh và hiện thực tang thương của nó bằng một cái nhìn thấu cảm khiến ta có thể thổn thức khi chạm tới đáy thân phận những con người này. Và giữa nỗi đau sâu thẳm và sự vô nghĩa của chiến tranh, những tác phẩm của bà sẽ nâng ta lên, để ta có thể nhìn thấy ở giữa vực thẳm của bóng tối, vẫn còn le lói hơi ấm của tình người. 1.1.3. Sự khẳng định bản lĩnh cá tính sáng tạo Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ với lối đi, tạo riêng mình một thế đứng, một cương vị trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi truyện của Thụy Vũ không nằm trong khuôn nếp thông thường của một nữ nhi, nó đã bay ra ngoài quỹ đạo dự tưởng. Các sáng tác của bà không đi theo những chủ đề thời thượng lúc bấy giờ mà rẽ sang một lối riêng mà nhiều người ngại nói đến hay nhắc đến (viết về những thân phận cùng đáy xã hội, những cô gái điếm...). Nguyễn Thị Thụy Vũ mở đầu văn nghiệp bằng những truyện ngắn đăng rải rác trong các tạp chí văn nghệ. “Sự đóng góp của Thụy Vũ trong khu vườn văn chương đã gây ngay sự chú ý, nhờ vào một bút pháp mạnh mẽ xuyên qua từng dòng chữ bỏng cháy với suy nghĩ về tình dục, về xã hội trong nét sống đặc biệt của các cô gái thuộc giới snack bar thành phố. Và trong các truyện dài của mình, bà đi sâu vào số phận những con người bình thường nhưng có một đời sống nội tâm không hề bằng phẳng. Với cá tính bản lĩnh của mình, nhà văn muốn những điều mình viết ra, nó phải được chứng minh qua sự thật” (Lời nói đầu- Hội Nhà văn). Các tác phẩm của bà đã cất lên tiếng nói thấm thía về thân phận con người do hoàn cảnh xã hội tác động. Đó là thân phận cô độc, bơ vơ trong một không gian bế tắc. Sự cô độc như một thứ định mệnh mà con người dẫu có cố gắng vùng vẫy đến đâu cũng không thể thoát ra. Từ gia đình một ông Phủ về hưu hết thời trong Khung rêu, ba cô nữ sinh tại trường công lập tỉnh lẻ trong Thú hoang, xóm lao động nghèo trong Cho trận gió
  • 20. 16 kinh thiên, cô đào hát bội tài sắc Năm Thàng bỏ đi tu trước biến cố cuộc đời trong Lòng trần đến giới bán phấn buôn hương, các me Mỹ và chuyện phá thai, những giấc mơ bị cưỡng hiếp, những người đàn bà bán trôn nuôi miệng luôn ám ảnh nỗi sợ hãi một ngày nào đó mông teo ngực nhão không còn kiếm ra tiền, đói nghèo sẽ tới, bệnh hoạn sẽ cướp đi cuộc sống… trong Lao vào lửa, Chiều mênh mông, Ngọn pháo bông... “Tất cả họ, dù là ai, thuộc tầng lớp nào, kẹt ở đâu trong khúc mắc cuộc đời, đều hiện lên trên trang viết của Thụy Vũ sống động, tươi mới. Bà không phẩm bình họ đáng thương hay đáng trách, chỉ lẳng lặng vẽ lại chân dung từng người, gom góp lại thành chân dung của một “nhóm người” trong suốt những năm vừa viết văn, vừa đi dạy tiếng Anh cho các cô gái snack bar để kiếm sống. Không ngợi ca phụ nữ, cũng chẳng tô hồng họ, không nói về nữ quyền mà giọng văn Thụy Vũ vẫn cứ tràn đầy nữ tính, đầy sự thấu cảm và sẻ chia. Những nhân vật của Thụy Vũ, dù thuộc đề tài nào thì hầu hết đều mang trong lòng một cơn bão, chực chờ xổ khỏi không khí ngột ngạt, rồi sẽ bộc lộ thành hành động với mức độ khác nhau tùy điều kiện và sự gan góc” [48]. Chúng ta hãy nghe lời bộc bạch tâm sự của bà trong lời tựa Khung rêu: “Từ hồi còn nhỏ tôi đã phải chịu đựng một ám ảnh thường xuyên: sự suy sụp bệ rạc của một gia đình thịnh mãn ở miền Nam. Nguyên nhân chánh của sự suy sụp bệ rạc này thì ai cũng biết: chiến tranh. (…) Tôi không hề có ý định làm công việc của nhà xã hội học hay của nhà đạo đức học. (…) Tôi cũng không có ý định phân tích các nguyên nhân, và nhất là phê phán một ai hay một điều gì. Cho riêng tôi, tôi chỉ muốn dựng lại cái thế giới khốn đốn đã bao trùm tôi cho đến ngày nay. Tôi chỉ muốn mô tả một hiện tượng xã hội hoàn toàn thân thuộc mà thôi. Tiểu thuyết là tưởng tượng, ai cũng biết vậy, nhưng có tưởng tượng nào không bắt nguồn từ một phần sự thật” (Lời tác giả trong Khung rêu). Thụy Vũ có thái độ sống rạch ròi và bình thản. Như cách bà viết. Viết vì cần phải thế, vì đó là sinh kế, chân chính và nhọc nhằn. “Tôi từng là địa chủ mà. Tôi không ủng hộ người nông dân nhưng tôi cũng không phê phán họ. Tôi chỉ viết những gì mình cần phải viết, những gì mà tôi biết là sẽ cuốn độc giả của mình đến trang sách cuối cùng” [47, tr.18]. Trong thời cuộc nhá nhem, không phải cây bút nào cũng giữ được sự bản lĩnh như Thụy Vũ!
  • 21. 17 Cuộc sống đã thử thách Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều và bà đón nhận bằng một sự can đảm dung dị đặc biệt. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã trải hồn mình trên trang giấy và vẽ vào đó những nét mạnh bạo, đôi khi phũ phàng để bắt người đọc phải cùng chung vui buồn với mình trong một khoảng thời gian ngắn, dài nào đó (Mèo đêm, Chiều mênh mông, Cho trận gió kinh thiên...). Dù là viết truyện ngắn hay truyện dài, mỗi tác phẩm đều hàm chứa sự cuồng nhiệt của tuổi trẻ trong vấn đề tình yêu, cũng như nỗi đau về thân phận. Bởi vậy, đọc các tác phẩm của bà ta thấy có một số yếu tố hiện sinh. Đó là một trong những triết lý nhân bản trong các tác phẩm của bà. Có thể nhận thấy rằng, văn xuôi của bà Thụy Vũ tiếp xúc với cái đời thường, xóa mờ khoảng cách sử thi, mở rộng biên độ phản ánh hiện thực. Văn xuôi của bà Thụy Vũ áp sát đời sống, tiếp cận với cái hiện tại chưa hoàn kết, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, vấn đề đạo đức xã hội được quan tâm. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ chăm chú vào bản ngã, những cá nhân lạc hệ thống (các cô gái điếm, những người trí thức sống mơ hồ về lý tưởng, một số người sống không có ngày mai, những tình yêu đi bên nhau nhưng chán ngán, vô vị...), con người được soi chiếu từ nhiều góc độ (Khung rêu, Cho trận gió kinh thiên). Nhân vật trong văn xuôi của bà Nguyễn khẳng định mình bằng cách quăng mình vào tình yêu, khoái lạc, họ hành động, khóc cười để được là mình. Văn xuôi của bà có lúc chạm đến những chủ đề thân phận với những môtip biểu hiện khủng hoảng hiện sinh: cô đơn bản thể, lo âu, nổi loạn, cái chết (Lòng trần, Trôi sông, Khung rêu, Cho trận gió kinh thiên...). Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, các tác phẩm là tiếng nói của thân phận. Viết là để hiện tồn, để khẳng định nhân vị. 1.2. Quan niệm về nghệ thuật 1.2.1. Quan niệm về hiện thực trong văn chương Văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và con người. Với Nguyễn Thị Thụy Vũ, hiện thực trong các tác phẩm là quê nhà Vĩnh Long và đô thị Sài Gòn. Quê nhà cung cấp cho bà những câu chuyện về gia đình, tình yêu, vợ chồng (Như thiên đường lạnh, Nhang tàn thắp khuya, Chiều xuống êm đềm, Khung rêu), về trường lớp, bạn bè (Thú hoang). Sài Gòn mang đến cho bà những câu chuyện về cuộc đời
  • 22. 18 các cô gái bán phấn buôn hương, những dan díu Việt- Mỹ, những người cùng đáy trong xã hội… (Như ngọn pháo bông, Cho trận gió kinh thiên, Mèo đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông). Hiện thực trong các tác phẩm này là hiện thực ám ảnh. Những vấn đề người ta ngại nói, cố tránh, làm ngơ đi thì đều được bà gợi mở, phơi bày một cách tự nhiên. Có thể nói, từ một cô giáo tỉnh lẻ, lên Sài Gòn, nhờ dạy kèm tiếng Anh cho giới bán bar, giới làm sở Mỹ nên Nguyễn Thị Thụy Vũ có cơ hội giao tiếp, tìm hiểu mặt trái của cuộc sống để làm chất liệu cho ngòi bút. Hiện thực cuộc sống, con người không còn được nhìn ở bề mặt, bề nổi mà được nhìn ở phần đời tư sâu kín, khuất lấp với những nghĩ suy, cô đơn, biến động dữ dội, mâu thuẫn... Do đó, hiện thực trong các tác phẩm của bà hiện lên một cách trần trụi, chân thực. Sự đổi mới quan niệm về hiện thực của Nguyễn Thị Thụy Vũ gắn với nhu cầu được “nói thật”. Ở đó, hiện thực được nhìn nhận, phản ánh không giản đơn, xuôi chiều mà được phân tích, mổ xẻ ở một chiều sâu mới. Đó không phải là hiện thực “dâng sẵn, đón chờ” như trước, mà là hiện thực đa dạng, nhiều chiều, ẩn chứa biết bao điều phức tạp, đòi hỏi nhà văn phải “suy ngẫm”, “nghiền ngẫm”, phải đi sâu khám phá- thứ hiện thực “chưa hoàn kết” theo quan niệm của M.Bakhtin. Từ “phản ánh hiện thực” đến “nghiền ngẫm hiện thực” là một sự chuyển đổi đáng kể của văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ. Ở đó, vai trò chủ thể của nhà văn được đề cao. Người cầm bút có thể thoát khỏi sự ràng buộc của “chủ nghĩa đề tài”, chủ động lựa chọn hiện thực, suy ngẫm và lí giải, khám phá một cách năng động hiện thực. Chính sự đổi mới quan niệm về hiện thực đã mở rộng biên độ, đem lại cho văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ nhiều nội dung phong phú, mới mẻ. Hiện thực đời sống không chỉ thu gọn trong những biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà rộng hơn, sâu hơn, “đời” hơn là cái thường nhật với bao mối quan hệ chằng chịt, chìm ẩn trong những mối quan hệ xã hội, cộng đồng và cá nhân. Hiện thực trong văn xuôi của bà Thụy Vũ thô nhám, trần trụi. Và bởi thế, cái nhìn thế sự, đời tư thực sự giữ vai trò cốt yếu trong cảm quan nghệ thuật của nhà văn. Ví như trước đây, chiến tranh được nhìn nhận và phản ánh chủ yếu qua những chiến công hiển hách của dân tộc, của con người, thì giờ đây, với Khung rêu, bà Nguyễn nhìn chiến tranh
  • 23. 19 từ phần khuất chìm, suy ngẫm về chiến tranh từ số phận của con người và phản ánh chiến tranh bằng những “nghịch lí”, trái với những “thuận lí” vốn rất quen thuộc của tư duy văn học một thời. Nhờ thế đã đem lại cho người đọc một cái nhìn mới, đa chiều, sâu sắc về hậu quả của chiến tranh. Các tác phẩm không còn trôi trong cảm hứng ngợi ca như những tác phẩm cùng thời mà giàu chất suy tư, lí giải khi được chiêm nghiệm từ thân phận con người. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ không ngần ngại trước những vấn đề gai góc, thậm chí những vấn đề kiêng kị trước đó như đời sống bản năng tính dục, phê phán những ngộ nhận và bệnh cuồng tín, tệ nạn xã hội, đánh bạc, hút chích, sự tha hóa xuống cấp về đạo đức, đạo lí, gái bán bar bị lính Mỹ hành hạ thể xác, lính Mỹ biểu tình chống “Sàigòn-tea” tại vài đường phố Sài Gòn để phản đối chủ các bar chém quá nặng, gái bán bar lường gạt lính Mỹ, đi phá thai, bị bệnh hoa liễu, gái mới nhập môn học các ngón nghề của bậc đàn chị trong nghệ thuật bán bar, và đôi khi đi khách như một gái hạng khá đắt tiền... (Khung rêu, Cho trận gió kinh thiên, Thú hoang, Lao vào lửa, Mèo đêm...). Chính ở những “vùng thẩm mĩ” mới mẻ này văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã kết tinh những tác phẩm được độc giả khẳng định. Tuy có những đánh giá khen chê khác nhau, nhưng theo thời gian, tính dân chủ trong văn học đã trả lời đầy đủ nhất cho những tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ. 1.2.2. Quan niệm về nhà văn, nghề văn Văn chương đến với bà Nguyễn Thị Thụy Vũ như một nhân duyên. Cuộc đời với những thăng trầm, hiện thực phơi bày trước mắt bà như ám ảnh thôi thúc con người văn chương trong bà không thể ngủ yên. Dẫu biết rằng, có thể cuộc sống mưu sinh đòi hỏi phải viết, nhưng có thể duyên nợ với đời khiến bà không thể nhắm mắt làm ngơ. Tác phẩm của bà trần trụi, đầy gai góc nhưng đó là hiện thực ám ảnh mà đầy nhân văn. Phơi bày hiện thực, phản ánh chân thực là cách để bà nói lên khát vọng được sống, được yêu đương, được làm người một cách đúng nghĩa.“Tôi ngồi lại bàn viết, dở chồng sách cũ. Tôi nghĩ mình nên ghi những cảm tưởng lên giấy. Từ lâu tôi có một cao vọng viết một tập tùy bút lẫn truyện ngắn. Ở ngoài đời tôi thất bại, cô đơn. Chắc hẳn văn chương không cấm những giấc mơ lẫn ảo tưởng của tôi thao túng, vẽ vời” [45, tr.28].
  • 24. 20 Bà Nguyễn không hề tuyên ngôn hay lên tiếng về nghề nghiệp, sứ mệnh văn chương của mình, nhưng đọc các tác phẩm, thì đó là cách gián tiếp để ta hiểu được quan niệm nghiêm túc của bà với nghề, với văn học nghệ thuật. Nguyễn Thị Thụy Vũ từng nói rằng truyện của bà có 70% là câu chuyện thật. Như vậy, trải nghiệm của bà trong cuộc đời thật phong phú. Và khả năng tự ý thức của bà cũng thật rõ ràng: “Ðời sống thực tế với những kinh nghiệm nếm trải đã làm cho độc giả quên đi một phần nào bút pháp rặt một giọng miền Nam đầy gai góc của tôi”. Nguyễn Thị Thụy Vũ vẫn là một “người ghi chép” trung thành về cuộc sống mà bà đã tham dự với tư cách người cầm bút. “Quan sát tận tường, miêu tả táo bạo, phơi mở nhiều cảnh huống, dõi theo nhiều số phận, chạm khắc những tâm trạng... truyện dài và truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ nói với chúng ta qua từng mảnh đời của mỗi người Việt Nam bình thường nhất cũng đều phản chiếu lại một phần nào đó của lịch sử và chiến tranh. Bóng dáng thời cuộc phả trên làng quê, những phận người, những cuộc tình, luồn sâu vào đô thị, phát tác nơi lớp người ít học, cùng khổ” (Lời nói đầu- Hội Nhà văn). Đọc kỹ các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ, chúng tôi nhận thấy rằng bà là một nhà văn tả chân. Nhà văn tả chân phải là người từng trải cuộc đời, chú mục phơi bày những cảnh đời bình dị, những con người bình thường. Tác phẩm của bà phô diễn tính tình và hành động của các hạng người thật sinh động, thanh thoát, tự nhiên. Trong tác phẩm của bà, con người không còn là những chính nhân quân tử nữa mà là những con người nhỏ bé mang đầy những khát khao bản năng, vừa tốt lại vừa xấu, mất tính giáo huấn. Qua sự cảm nhận và trải nghiệm của mình, các trang văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ viết theo khuynh hướng tả chân giúp người đọc tỏ tường các mặt thực của đời, chiều sâu của đời sống xã hội, sự phồn tạp trong hoạt động tinh thần, tâm - sinh lý của các hạng người đời. Không thể kết án nhà văn tả chân khi họ miêu tả những thói xấu của xã hội, những cái đê tiện của người đời và gọi chúng bằng tên thật của nó. Nguyễn Thị Thụy Vũ dũng cảm đối diện với sự thật, dù nó tàn nhẫn, khắc nghiệt, trái với sự mong đợi của mình. Nguyễn Thị Thụy Vũ khi viết không đổi trắng ra đen, không che đậy hay huyễn hoặc lừa mình, dối người, cũng không
  • 25. 21 cốt làm hại đến luân lý, phong hóa cần được tôn trọng. Viết trung thực, có sao nói vậy, không thêm bớt, tô điểm, vẽ vời, tức là tôn trọng người đọc, để có thể khám phá chân lý cuộc sống. Khuynh hướng tả chân như vậy là phù hợp với sự phát triển của thể loại văn xuôi nói riêng cũng như là sự phát triển của văn học nói chung. Do vậy, có một thời gian tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ bị cấm đoán, nhưng tinh thần hiện sinh đã trả về đúng giá trị của nó. Đối với Thụy Vũ, văn chương cũng là một nghề để kiếm sống. Cuộc sống thường nhật đã thôi thúc bà viết. Tuy nhiên, bà luôn ý thức đó là một nghề nghiêm túc. Mỗi tác phẩm của bà là những thổn thức, trăn trở rất đời, rất thực, rất văn chương (Khung rêu, Lao vào lửa, Mèo đêm,...). Bà lắng nghe những tâm sự của các cô gái điếm, mỗi người mỗi cảnh. Bà chứng kiến những sự thật phũ phàng trong cuộc đời họ khi dan díu với khách, với binh lính Mỹ. Bà trải lòng và thấu hiểu với những thân phận cùng đáy xã hội, những cuộc đời con người ở nơi tỉnh lẻ. Để rồi, tất cả hiện lên trên trang giấy với đầy đủ màu sắc (Khung rêu, Thú hoang, Cho trận gió kinh thiên...). Giá trị lớn nhất của văn chương là đi tìm bản chất. Cuộc sống không hoàn toàn là cái mà ta nhìn thấy hàng ngày, với đôi mắt trần trụi. Chỉ nhà văn, bằng tác phẩm của mình, mới có khả năng chạm đến tính đa chiều phức hợp trong mỗi con người. Với người cầm bút, viết còn là cuộc phiêu lưu tới những cái tôi khác. Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã hoàn thành được sứ mệnh của mình. 1.3. Văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ trong dòng chung của văn học nữ Nam Bộ trƣớc 1975 Văn xuôi, đặc biệt tiểu thuyết là thể loại bùng nổ của văn học đô thị miền Nam, tạo thành một hiện tượng văn học trong thời kỳ này. Văn học đô thị miền Nam 1954- 1975 đã tập hợp được một đội ngũ tác giả tiểu thuyết hùng hậu với số lượng tác phẩm đồ sộ, với nhiều khuynh hướng sáng tác khác nhau, đặc biệt là văn học nữ. Lần đầu tiên, người ta thấy số lượng tác phẩm phong phú và đa dạng như thế. Đọc các tác phẩm, người ta thấy sự thay đổi, phá cách trong văn chương của các nhà văn nữ được chú ý nhiều hơn so với nam văn sĩ. Tuy nhiên, đó là những bước thử nghiệm để tìm lối đi riêng của các cây bút nữ. Sáng tác của các cây bút nữ
  • 26. 22 miền Nam thực sự mới mẻ về giọng điệu, ngôn từ; đặc biệt là việc khai thác và thể hiện các yếu tố tình dục, bản năng, lối sống hiện sinh. Đó là những tên tuổi: Tùng Long, Nguyễn Thị Vinh, Ái Lan, Linh Bảo, Vân Trang, Nhã Ca, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trần Thị Ng.H... Văn học nữ đã góp thêm một thanh âm để làm nên sự đa dạng, phong phú của một bản nhạc văn chương Việt Nam hiện đại. Văn học nữ Nam bộ trước 1975 có những diện mạo riêng. Văn học nữ trở thành một điểm nhấn kỳ lạ, như chính sự phát triển lạ kỳ của văn học Việt Nam đương đại. Với ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, sáng tác văn học miền Nam nói chung và văn học nữ nói riêng có sự chuyển mình lớn: sự cảm nhận sâu sắc và đau đớn về thân phận bi đát của con người trong thế giới đầy phi lý. Thấp thoáng trong các tác phẩm, chúng ta bắt gặp dấu ấn chủ nghĩa hiện sinh ám ảnh từ nhan đề cho đến nội dung tác phẩm. Ngay nhan đề cũng thấy sự hư vô, buồn thảm trong cuộc sống con người: Bóng tối, Môi hôn và nghĩa trang, Chết không nhắm mắt, Lửa mù, Sau cơn mộng dữ, Xâu chuỗi bọt nước, Thềm lục địa, Tiếng khóc vào đời... của Nguyên Vũ; Bóng tối thời con gái, Cô Hippy lạc loài, Sống một ngày... của Nhã Ca; Khung rêu, Lao vào lửa, Cho trận gió kinh thiên, Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang... của Thụy Vũ; Biển đêm, Mối thù rực rỡ, Tôi nhìn tôi trên vách... của Túy Hồng; Bóng tối cuối cùng, Buồn như đời người, Vực nước mắt, Một ngày rồi thôi, Năm tháng đìu hiu, Ngày qua bóng tối, Cho những mùa xuân phai, Tình yêu địa ngục, Dưới vực sâu này... của Nguyễn Thị Hoàng, ...v.v. Đời sống luôn được miêu tả như thảm kịch, là hư vô, phi lý. Con người bé bỏng, kiếp người mong manh, chới với trong ngập tràn đau khổ, cô đơn, chia lìa. Những cái chết xuất hiện rất nhiều trong văn xuôi miền Nam trước 1975. Trong sự vô nghĩa, chán chường của cuộc đời, các nhân vật của văn xuôi đã vùng vẫy, nổi loạn để chống trả, cho dù đó là sự vùng vẫy, chống trả trong tuyệt vọng. Họ muốn chống lại sự phi lý, muốn tìm ý nghĩa đích thực của cuộc đời, để đừng sống buồn nôn, đừng bị cuốn theo cái vũng “cát lầy” kinh khủng của cuộc đời. Thế nhưng họ lại rơi vào bi kịch của tuyệt vọng. Văn xuôi viết nhiều về sự vô định, mong manh, hư vô của kiếp người, về cái chết, nỗi buồn đau trĩu nặng, sự xa lạ của thế nhân, sự đổ vỡ của niềm tin và mơ ước.
  • 27. 23 Trong dòng chảy của văn học nữ, Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong số các nhà văn trưởng thành trong giai đoạn chiến tranh, trước 1975. Nguyễn Thị Thụy Vũ trở thành một trong năm nhà văn nữ nổi tiếng nhất của miền Nam trước 1975. Các tác phẩm của bà không chỉ táo bạo trong đề tài, cách xây dựng nhân vật, mà còn trong việc cách tân ngôn ngữ. Nguyễn Thị Thụy Vũ mở ra một cánh cửa để nhìn vào thế giới nội tâm tuy đơn giản bên ngoài nhưng lại vô cùng phức tạp, tinh tế bên trong của nữ giới, nhất là nữ giới trong thời hiện đại. Các vấn đề được bà khai thác là những trần trụi của cuộc đời khi Mỹ vào đô hộ Sài Gòn, làm thay đổi cuộc sống con người. Con người đời tư được bà khai thác triệt để. Các tác phẩm của bà không hô hào, kêu gọi mà là sự gợi mở, phơi bày về những thân phận con người. Đó là các cô gái buôn hương bán phấn, những người cùng đáy trong xóm lao động nghèo, cuộc sống sinh hoạt của các nhân vật trong gia đình nhiều biến cố có liên quan đến thời cuộc và những khúc quanh của lịch sử. Mỗi tác phẩm là mỗi mảng màu sắc phản ánh hiện thực của Thụy Vũ, “là tả chân câu chuyện của các nhân vật đến từ nhiều tầng lớp thay vì quẩn quanh với chuyện tình ái lâm ly như đa phần các cây bút nữ cùng thời khác” [51]. Đó là thứ văn chương hiện thực xã hội pha trộn một chút bóng dáng văn chương nổi loạn của chủ nghĩa hiện sinh. Nguyễn Thị Thụy Vũ là một trong những nhà văn nữ tiên phong tự tìm cho các tác phẩm một phong cách riêng, để sau đó là sự tiếp nối của nhiều nữ nhà văn thuộc nhiều thế hệ, bắt đầu bằng những cách tân trong thơ, rồi xen gài giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, nhất là với truyện ngắn, văn học nữ dần định hình diện mạo từ sau Đổi mới (1986). Tiểu kết: Như vậy, có thể nhận thấy nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ đã có ý thức sáng tạo và quan niệm nghệ thuật mới mẻ khi sáng tác các tác phẩm của mình. Nguyễn Thị Thụy Vũ đã chọn cho mình một hướng đi riêng, đi sâu vào đề tài thế sự, đời tư. Trên cơ sở lựa chọn hai mảng đề tài: đời sống của bà con nông dân và đời sống những cô gái bar, nhà văn đã phơi bày những hiện thực ám ảnh nhưng đầy nhân văn về thân phận con người. Những trang văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ đã khẳng định một bản lĩnh cá tính sáng tạo cũng như một quan niệm nghệ thuật nghiêm túc trong dòng chung của văn học nữ Nam Bộ trước 1975.
  • 28. 24 Chƣơng 2 VĂN XUÔI NGUYỄN THỊ THỤY VŨ – CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI 2.1. Cảm quan về hiện thực cuộc sống 2.1.1. Cuộc sống đời thường Trong các trang văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ, cuộc sống đời thường hiện lên với những nét thường nhật. Cuộc sống đời thường được bà biểu hiện trong tác phẩm với những nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Đó là cuộc sống thường nhật với cơm, áo, gạo, tiền, ăn, mặc, hít thở, yêu đương, mơ ước, khát vọng, tự do... Nơi đó, đời thường được miêu tả rất gần, rất thật và cũng đầy nhức nhối. Cuộc sống đời thường được tác giả lấy bối cảnh sinh hoạt nông thôn miền Nam, cụ thể là tỉnh Vĩnh Long- nơi tác giả sinh ra, nơi cất giấu những kỉ niệm đẹp về tuổi trẻ, tình yêu, ta bắt gặp những câu chuyện gia đình, tình đời trong sự thay đổi của thời cuộc. Ở đây, ta không chỉ bắt gặp những biến động dữ dội bên ngoài thời cuộc mà còn là sự giằng xé, hỗn tạp, đa chiều từ nội tâm bên trong của những mẫu nhân vật. Thời cuộc hỗn loạn mà cuộc sống của con người cũng hoang mang, đảo lộn. Một điều dễ nhận thấy là cuộc sống đời thường của bà con nông dân thay đổi do yếu tố chính trị, xã hội, văn hóa thay đổi. Như chúng ta đã thấy, Nam Bộ là mảnh đất dễ sống. Hơn nữa, con người nơi đây luôn là những người tiên phong trong việc tiếp nhận những cái mới. Khi đế quốc Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam thì đã tạo nên một sự thay đổi lớn trong đời sống của con người nơi đây. Bên cạnh một Nam Bộ với văn hóa truyền thống ngay thẳng, phóng khoáng, yêu ghét rạch ròi, nhân hậu, thủy chung, nhân- lễ- nghĩa- trí- tín... thì còn có một văn hóa tiếp nhận của phương Tây. Sự va chạm văn hóa này đã làm cho cuộc sống đời thường của những con người Nam Bộ có những xáo trộn, thay đổi. Cuộc sống đời thường được bà phản ánh đa dạng, nhiều màu sắc. Dù họ là ai, thuộc tầng lớp nào đi chăng nữa thì cuộc sống của họ không bình thường, phẳng lặng mà luôn luôn chất chứa những bộn bề, luôn có sự đấu tranh giữa việc gìn giữ và phá bỏ, giữa lưu giữ và tiếp nhận. Cái nhìn của Nguyễn Thị Thụy Vũ với cuộc sống đời thường thật phong phú.
  • 29. 25 Bà phản ánh những con người cụ thể, trong môi trường, hoàn cảnh cụ thể; thế nhưng khi đọc các tác phẩm ta thấy bà có khả năng khái quát thật sâu sắc. Đó là ông giáo, anh trí thức, những ông phủ, cô gái mới lớn, những người phụ nữ gia đình, những cô cậu học trò.... Đàn ông thì thích một cuộc sống nhiều màu sắc nhưng lại bị chi phối bởi công việc, trách nhiệm làm con, làm chồng, làm cha. Phụ nữ thì ý thức học nữ công gia chánh, lễ nghĩa để đối nhân xử thế mong yên ổn gia thất, êm ấm bên chồng nhưng lại dễ rơi vào cảm giác đơn điệu, cuộc sống tẻ nhạt và khát khao được tự do, sống lãng mạn, sung sướng. Những cô cậu thanh niên thì mộng tưởng tương lai, đắm say với tình yêu đầu đời nhưng lại luẩn quẩn trong gia đình, tương lai nghề nghiệp mịt mù. Cuộc sống làm họ ngột ngạt. Tất cả đều muốn thay đổi, nhưng chẳng biết bắt đầu thay đổi từ đâu và làm như thế nào. Dường như họ mơ hồ, hoài nghi, khắc khoải... Họ tự bằng lòng chấp nhận, sống một cuộc đời nhàn nhạt và ủ ê. Đôi khi, họ có phá phách, nổi loạn nhưng rồi lại lặng lẽ trở về với nếp sống cũ. Những tác phẩm ở mảng này xoay quanh những tình yêu, cuộc hôn nhân éo le, gãy đổ do ràng buộc nghiêm ngặt của quan niệm cũ kỹ và những thay đổi bên ngoài của thời cuộc. Các nhân vật với những cá tính, quấn riết lấy nhau, hành hạ lẫn nhau, trong một môi trường sắp vỡ nát và mỗi thân phận cuối cùng đều tan rã như bọt bèo trôi nổi trong đại dương cuộc đời hay khuất chìm vĩnh viễn vào lòng đất. Các câu chuyện ấy có lúc lặng lẽ, lãng mạn, có lúc gay cấn, đau đớn, quằn quại, nhiều màu sắc hỉ, nộ, ái, ố ... nhưng tất cả đều thấy được những khát khao về hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình, sống một cuộc đời tốt đẹp. Trước hết, ở không gian quê nhà, Nguyễn Thị Thụy Vũ quan tâm đến cuộc sống đời thường của những thành viên trong gia đình. Gia đình là một cộng đồng người sống chung và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và quan hệ giáo dục. Do đó, nhà văn đi sâu vào phản ánh cuộc sống gia đình cũng là cách gián tiếp để phản ánh xã hội. Trong gia đình, sự va chạm về văn hóa như vùng miền, phong tục, tập quán, địa vị, tích cách, quan điểm, lý tưởng... của các thành viên luôn xảy ra hằng ngày. Dường như cách nghĩ, nếp sống truyền thống gia đình đang phải tiếp nhận và thích
  • 30. 26 nghi với luồng văn hóa phương Tây ào ạt chảy vào mỗi nếp nhà người Việt. Do vậy, mỗi nhân vật dường như chất chứa những băn khoăn giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại, giữa gìn giữ và phá vỡ, giữa hiện thực và lý tưởng... Họ muốn nương tựa vào một chỗ dựa cả về tinh thần và vật chất để sống qua những tháng ngày chiến tranh nhưng cảm giác hoang mang, lạc loài luôn thường trực trong mỗi con người. Họ bơ vơ trong chính gia đình của mình, họ lạc lõng ngay trong tình yêu của họ, họ tha hương ngay trên chính quê hương của mình. Trước hết, Nguyễn Thị Thụy Vũ phơi bày hiện thực cuộc sống gia đình với những thành viên sống bên nhau nhưng thiếu vắng sự gần gũi, chia sẻ; mỗi người lao vào một ốc đảo để thỏa mãn mộng tưởng của mình trong một xã hội loạn lạc. Cụ thể, đó là những người đàn ông trong gia đình. Người đàn ông trong đời sống gia đình có vai trò của người làm chủ, tức là điều khiển. Trước hết họ làm chủ trong gia đình, kế đó làm chủ ngoài xã hội. Bản tính thiết yếu là chỉ huy, điều khiển, nên tâm lý người đàn ông luôn thể hiện sức mạnh, sống lý trí. Thế nhưng, những người đàn ông trong cuộc sống đời thường của Nguyễn Thị Thụy Vũ dường như mất phương hướng, không tìm thấy lối thoát cho cuộc đời mình. Cuộc đời họ thụ động, các dự định chỉ bỏ ngỏ, ước mơ cứ mờ nhạt dần, họ tự chôn chân trong mái nhà của mình. Tưởng- một thầy giáo trong Thiên đường lạnh, “yêu Khương ngay từ buổi sơ kiến, chàng về nhà kèo nài cha mẹ đi cưới Khương” [43, tr.20]. Năm đầu, họ rất mực hạnh phúc. Nhưng rồi theo đà lôi cuốn của lũ bạn, Tưởng bắt đầu đi ngang về tắt. Lúc đầu Khương còn cằn nhằn, khuyên dứt. Sau đó, thấy Tưởng miệng tuy hứa hẹn trăm điều, nhưng cái nết đánh chết không chừa, nàng bèn thay đổi thái độ, đay nghiến chồng mỗi khi chàng đi chơi về khuya. “Chàng sống lông bông, thả rề rề những giấc mộng nóng hổi theo ngày tháng, dòng đời. Chàng nhớ rõ từng ngày giỗ của nhà người quen, chòm xóm, bạn bè. Chàng ưa nhập theo đám thợ cắt tóc, đờn ca, hát xướng rồi cao hứng ngoại tình” [43, tr.22]. Đối với bản thân, Tưởng cảm thấy công việc gõ đâu trẻ thật nhàm chán, nhưng với gia đình “dòng họ mình chỉ có chú là ăn học, chữ nghĩa. Chàng mang máng nhận thức là nhịp sống sẽ trải qua những biến chuyển quan trọng, bỏ lại một cách tàn nhẫn những người ra đời với mớ
  • 31. 27 chữ nghĩa lem nhem như chàng ” [43, tr.105]. Tưởng buồn vì cuộc sống cứ nhàm tẻ. “Chàng lại nhiễm cái thói quen lười biếng, mệt mỏi, không thích ánh sáng tưng bừng và cuộc đời hoạt động ngoài mái nhà. Cái thói quen đó dìm chàng lún xuống một cơn chiêm bao vô vị, nhưng chàng cảm thấy bạc nhược không muốn tỉnh dậy chút nào” [43, tr.61]. Và để liên lạc với cuộc sống, Tưởng bắt đầu vào những cuộc phiêu lưu ái tình cùng Hương quản Mão. Tưởng mê cô Bảy Chợ Lách, với Tưởng “nếu không ăn vụng chắc moa sống không nổi” [43, tr.81]. Hương quản Mão tính tình trẻ trung, hoạt động, yêu đời. Làm việc sanh lợi hoặc chơi bời du hí, ông đều thành thạo. Đó là hai môi trường dẫu khác biệt nhau xa, nhưng chỗ nào, ông cũng lao vào thao túng một cách dễ dàng. Lúc nào, ông cũng vui vẻ, giao thiệp buôn bán một cách lanh lẹ, duyên dáng, hầu như không có thì giờ để mệt mỏi, bâng khuâng. Ấy vậy mà “suốt cuộc đời, Hương quản Mão đã sống hết mình, chơi hết mình mà sao ông ta vẫn than rằng thiếu thốn? Rồi đó, ông ta cứ chạy đuổi, hết người đàn bà này tới người đàn bà khác để rồi chán chê là đá đít tất cả” [43, tr.163]. Cả Tưởng và Hương quản Mão đều cảm thấy thiếu thốn. “Tâm hồn chàng hụt hỏng, cần phải có một lý tưởng gì đó lấp đầy. Mà lý tưởng đòi hỏi biết bao công trình đeo đuổi. Nhưng bây giờ, chàng mệt mỏi quá rồi, thân xác bèo nhèo, rã rời. Cuộc sống đời thường như ngưng đọng, như chảy ngầm dưới bình điện đìu hiu” [43,tr.164]. Gia đình bề ngoài làm họ nhàm mắt nhưng đã buộc họ bởi một sợi dây vô hình bền chặt, ra khỏi gia đình, họ đã có cảm tưởng ra khỏi vùng an toàn. Dẫu vậy, họ vẫn cứ để cuộc đời cuốn lấy họ. Họ tự nguyện chui vào cuộc sống buồn tẻ đó. Những người đàn ông trong Khung Rêu: Canh, Tường, Thụ, Chiêu cũng rơi vào bi kịch. Gia đình ông Phủ, đất bị Việt Minh sung công cấp phát cho tá điền, vườn bị người Pháp phát quang để tránh những trận phục kích của đối phương, nhưng gia đình ông vẫn khá nhàn hạ nhờ vào tài vén khéo của bà Phủ “bây giờ bà hết cậy trông Nhà nước bảo hộ có đủ sức bảo vệ tài sản của bà nữa khi mà bà phải treo bảng trước nhà nhận nuôi cơm tháng và cho học trò ở trọ” [47, tr.30].
  • 32. 28 Cái bi kịch của gia đình ông Phủ không phải ở vật chất, mà ở những thành viên trong gia đình.“Trong ngôi nhà thừa tự đó, mỗi người là một hòn đảo của những thói hư tật xấu... Có phải con người khi đã mất thăng bằng trong cuộc sống vật chất thường để lộ ra rõ rệt hơn bao giờ hết những xấu xa tàn tệ của mình? Và một giai cấp cũng vậy” (Lời của tác giả trong Khung rêu). Mỗi người đều lựa chọn một cách sống khác nhau. Và mỗi sự lựa chọn ấy phải chăng phản ánh một thế giới bên trong đầy những trăn trở. Ông Phủ- luôn mang nặng tâm hồn hoài cổ, vợ chết để lại ba đứa con trai, nhưng “các con ông từ Canh cho đến Tường đều ỷ lại vào tài sản ông cha” [47]. Ông lấy thêm vợ nữa, sinh ra Chiêu. Thế nhưng, gia đình ông luôn luôn ẩn hiện các mâu thuẫn. Ông muốn giữ gìn truyền thống gia đình, nề nếp gia phong, luôn trông chờ vào những đứa con, nhưng đáp lại sự kỳ vọng ấy là những muộn phiền mà các con mang lại. Con trai đầu- Canh, được ông Phủ cho đi Tây học mấy năm, đến khi về nước, chỉ mang theo cấp bằng ăn chơi, lái xe, khiêu vũ. Ba tháng sau, Canh bươn bả lấy vợ và chẳng thiết làm lụng gì cả. Suốt ngày cậu la cà đến nhà bạn bè để nhảy nhót, bài bạc, trai gái rồi hút sách. Kho lúa góp mỗi mùa gặt một phần tiêu tan theo khói thuốc của cậu ta. Người vợ của cậu thua buồn bỏ về nhà cha mẹ ruột. Nỗi đau đớn và bất lực của một người cha khiến ông Phủ phải thốt lên: “có con như thằng Canh thà tuyệt tự sướng hơn. Từ mấy năm nay, tôi coi nó như một thứ giặc trong nhà...” [47, tr.71- 72]. Tường- con trai thứ của ông Phủ là một cậu thanh niên non nớt khi bước vào đời. “Tường mười chín tuổi, đang sức lớn vạm vỡ. Chàng cao to, hồng hào. Sinh lực phong phú đó hứa hẹn sau này sẽ làm cho chàng điển trai, quyến rũ. Chỉ tiếc là tại tánh hời hợt, thích nói hớt, nói leo nên chàng có vẻ là một thứ trẻ ranh tinh quái. Tường yêu Ngự, nhưng tâm tánh Tường nay vầy mai khác. Có đôi lúc chàng ỷ lại nơi phần đất hương hỏa của cha mình sẽ đảm bảo cho Ngự và chàng một cuộc đời phủ phê, sung sướng. Nhưng đôi khi bất mãn, Tường lại suy tính đến đời sống tự lập, không thèm cậy trông vào của phụ ấm nữa. Không có việc gì có thế làm chàng say mê đeo đuổi lâu” [47, tr.242]. Tường sống trong tình yêu với Ngự và “nuông
  • 33. 29 chiều buông thả theo cơn thúc giục của trái tim và xác thịt” [47, tr.145] , không nghĩ được gì thêm về con đường tương lai của mình. Tường muốn sống như ý mình nhưng không cần phải làm việc, chỉ cần yêu đương. Do vậy, Tường đã nhiều đêm thao thức cân nhắc thấp thỏm trước khi bắt tay vào công việc mà từ nhỏ tới bây giờ chàng chưa hề nghĩ tới: lấy trộm gia sản: đồ sứ, chén, dĩa, lọ cổ... mà ông Phủ dày công sưu tầm mấy chục năm nay. Chàng nghĩ tới một mái nhà đơn sơ ở một xứ lạ hoắc, trong đó Ngự và chàng có một đời sống tự do, công khai yêu nhau, thoát khỏi những tầm mắt soi bói. Tường lấy ba chục ngàn tiền mặt và vài món nữ trang để làm vốn. Hai tháng đầu, Tường và Ngự ngụp lặn trong tình yêu, niềm hạnh phúc mới mẻ. Nhưng Ngự càng ngày càng thấy Tường bất tài, vô tướng. Và ngày ngày, đôi tình nhân này phải chịu đựng nhau bằng những tiếng cãi vã, khó chịu, ánh mắt coi thường. Không có lối thoát, họ đành quay trở về ngôi nhà xưa, sinh con. Để chứng tỏ mình, trong lúc chàng chỉ hiểu mù nờ về thời cuộc và lý tưởng, ý nghĩa cuộc đời, Tường tham gia vào chiến khu. Sau đó, Ngự ở nhà ngoại tình, bỏ con lên Sài Gòn. Tường thì trái ngược lại. Chàng cưới một người vợ quê mùa nhưng xinh đẹp và sinh sống bằng nghề chích dạo... Và có lẽ cuộc đời của chàng đúng như Thụ định nghĩa “Tường: một thằng người không có tiểu sử” [47]. Chiêu- cậu con trai của ông Phủ với bà Phủ, lại chịu bất hạnh trong hình hài bán nam bán nữ. Đó là niềm mong mỏi của hai vợ chồng như một cứu cánh để có thể ông bà nương nhờ lúc tuổi già nhưng lại là một nốt lặng buồn đối với ông bà khi Chiêu đặc biệt, khác người. “Những lúc thay cho con tả lót, hoặc quần may bít đũng, bà Phủ không sao nghĩ ngợi. Ngày mà Chiêu ý thức được cái thân xác của nó đang đứng cháng ràng giữa hai cánh cửa nam, nữ trong các cầu tiêu của rạp hát, tiệm ăn, nó sẽ chọn cánh cửa nào? Chắc chắn người ta không hề nghĩ đến gian phòng vệ sinh dành cho loại người lưng chừng vì một chút lơ đãng lười biếng của mười hai Mụ Bà” [47, tr.58]. Thiên hạ thì được dịp để vui với bất hạnh của người khác: “Ráng mau lớn, ăn học cho giỏi để sau này vua tiến vào cung làm hoạn quan nghe chú bé” [47,tr.58]. Chiêu lớn lên trong mặc cảm bị lạc loài. Chiêu không biết mình là ai, và nên làm gì. Nhưng cũng như những người bình thường, Chiêu cũng khao khát được yêu đương. Chiêu yêu Hoàng “Nếu Thượng đế cho tôi làm con gái
  • 34. 30 thật sự, chắc tôi phải có chửa vì tiếng đàn huyền hoặc của anh từ lâu rồi” [47,tr.189]. Và để khẳng định sự tồn tại của mình, Chiêu rời khỏi nhà, đi học, tham gia phong trào. Dường như, chàng đi bởi nhất định phải thế và không còn con đường nào khác. Đi để tìm thấy một lối thoát cho mình nhưng chẳng hiểu gì nhiều về con đường mình đang đi. Chiêu biệt vô âm tính. Hình như có người đồn rằng Chiêu bị Tây bắt và xử bắn ở kinh Nước Lạnh. Cái biệt tích của Chiêu như để khẳng định sự vô nghĩa của mình khi sống trong cuộc đời này. Đối với các con trai, ông Phủ cảm thấy mệt mỏi, không còn đặt kỳ vọng vào một đứa nào. Chỉ còn có Thụ. “Thụ có tinh thần gia tộc nặng. Cách đối xử của Thụ sẽ gắn liền người sống của dòng họ Nguyễn để tránh khỏi sự phân tán, và nhứt là phần hương hỏa mấy đời không suy suyển” [47, tr.134]. Nhưng trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống, Thụ tham gia vào cơn trốt khuấy phá chính quyền và cổ võ thanh niên bỏ học đi khu. Thụ về thăm nhà và sửa soạn tham gia lịch sử. Chàng bị kích thích bởi cơn bão thời cuộc đang huyên náo vần vũ ngoài mái nhà và chàng mộng đến những chân trời xa lạ, những cơ hội sống hào hùng. Hăm hở là thế nhưng con người Thụ chưa được trang bị đầy đủ vốn sống, kinh nghiệm, sự từng trải, lý tưởng nên Thụ sống co ro với cái mặc cảm thất bại của cuộc mưu đồ đại sự. Thụ trở về, buồn bã, đơn độc trong ngôi nhà từ đường “Ngôi nhà đó bây giờ xiêu vẹo- mái ngói quằn xuống bờ tường, hàng kèo cột bị mối mọt ăn rệu và loang lở những dấu vết chiến tranh” [47]. Thụ không còn nhìn cuộc đời háo hức nữa. Tất cả đều vô ích. Con người bất quá cũng như một con bọ chét sống trong bộ lông của một con vật khổng lồ... Có những đêm mưa, chàng bừng thức giấc vì trận gió ào ào đổ tới. Chàng khêu ngọn đèn chong, hướng mắt theo đường song cửa nhìn lên ngôi nhà thừa tự, lo lắng... Và chính ông Phủ cũng bế tắc, bất lực với chính mình. “Trí óc ông lại quay về đứa nhỏ bất đắc dĩ của ông hiện nằm trong bụng Ngà. Thật không ngờ ông lại thêm một gánh nặng nữa. Điều gì đã khiến ông đi quá xa...? Trong thời kỳ còn xông pha vào vòng quan lại, ông đã không chuốc lấy những mối tình vụng trộm. Bây giờ, bỗng dưng một chút rạo rực gì đó mọc lên trên nắm xương bắt đầu tàn tạ của ông, để ông thông gian cùng Ngà... Có phải vì một nỗi thất vọng về con cái mà ông lại
  • 35. 31 xoay qua tìm một cảm giác mới bên thân thể tràn trề nhựa sống của người tớ gái?” [47, tr.135]. Ông sống trong cô đơn và vô nghĩa, khi bà Phủ xây tư trang ra ở riêng và không còn quan tâm đến ông nữa. Dường như tất cả những người đàn ông trong văn xuôi của Nguyễn Thị Thụy Vũ đều thất bại. Trong cuộc sống đời thường, họ không tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời mình. Họ tự thả trôi cuộc đời mình. Gia đình, tình yêu, công danh, nghề nghiệp, ước vọng... đều mờ ảo. Họ lờ mờ trên con đường đời của mình và tự để cho dòng đời cuốn đi. Bên cạnh đó, cuộc sống đời thường của những người phụ nữ cũng được Nguyễn Thị Thụy Vũ biểu hiện cụ thể. Đời sống riêng tư cùng những suy nghĩ của họ trong cuộc sống hằng ngày bây giờ chứa đầy mâu thuẫn, nhiều cung bậc. Ta đồng thời vừa thấy một người phụ nữ hiền lành, yêu chồng thương con hết mực, quán xuyến gia đình chu đáo, vừa thấy một người phụ nữ phá phách, quyết liệt, sẵn sàng từ bỏ tình yêu, thay đổi mình để làm chủ cuộc sống. Với họ, tình yêu là tất cả lẽ sống, là điều thiêng liêng để giữ gìn. Tình yêu là nơi để họ bám víu, tìm thấy ý nghĩa, tăng dư vị cuộc sống và họ sẵn sàng làm tất cả. Do đó, những người phụ nữ trong văn xuôi Nguyễn Thị Thụy Vũ rất chú ý đến việc hoàn thiện bản thân để làm sao bảo vệ tình yêu ấy. Họ rất tháo vát, đảm đang quán xuyến việc gia đình, đối nhân xử thế, tề gia nội trợ, chăm chồng chăm con. Thế nhưng, cuộc sống đời thường ấy là cả một trời tâm tư, nguyện vọng, ước mơ của những người phụ nữ. Họ không phải là những người phụ nữ cam chịu, dễ thỏa hiệp với cuộc sống mà bên trong họ luôn là những con sóng, có lúc dịu êm nhưng cũng có lúc dữ dội không ngờ. Trong truyện dài Nhang tàn thắp khuya, ta đến với cuộc sống trôi qua êm đềm trong “ngôi nhà ngói năm căn giữa một khu vườn ruộng hai mẫu Kim Mã Trang” [47]. Nhưng đằng sau sự vương giả, êm đềm ấy đời sống hôn nhân mỗi thành viên trong gia đình đều không hề bằng phẳng. Cuộc hôn nhân của Đức và Thục Nghi, tưởng là viên mãn, vẹn đầy nhưng đằng sau là những cơn sóng lòng âm ỉ. Đức- người đàn ông sành đời lớn hơn Thục Nghi chục tuổi từng du học ở phương Tây, sau khi lấy Thục Nghi làm vợ với tất cả
  • 36. 32 sự thành ý thì lao mình vào công việc, gánh vác trách nhiệm gia đình, dòng họ. Thục Nghi là con một ông giáo học người Huế, về làm vợ với vai trò dâu trưởng trong một gia đình ông Đốc phủ sứ tiếng tăm, Thục Nghi đã khôn khéo làm đẹp lòng từ bà mẹ kế của chồng đến các cô em chồng đầy soi mói đến kẻ ăn người ở trong nhà. Từ đồ ăn thức uống cầu kỳ sang trọng mỗi ngày tới những lo toan tay hòm chìa khóa cho sinh hoạt đại gia đình, nàng đều chu toàn. Xoay quanh cuộc sống thường nhật của Thục Nghi trong gia đình ông Đốc phủ sứ, người đọc thấy cả một hiện thực gần gũi với mình hơn bao giờ hết. Cuộc sống trôi qua êm đềm, người đàn ông hăm hở, lãng tử không còn ở Đức; sự lãng mạn, cuồng nhiệt không đủ sức làm hài lòng cô vợ trẻ. Vì vậy, cuộc sống của Thục Nghi bỗng dưng thay đổi, không ngờ Duy- một người bạn chồng, đến. Duy lãng mạn, đầy mơ mộng, luôn đem tiếng đàn để bộc lộ một tâm hồn nồng cháy, trái hẳn với cái vững chãi, lành mạnh nhưng đã trở nên lơ là trong cuộc sống lứa đôi là chồng nàng. Thục Nghi vốn là người đa cảm, rất bao dung và hay mềm lòng đối với kẻ yếu đuối. Nàng không ngờ từ tấm lòng hào sảng của mình, nàng lún sâu vào tình yêu. Người bạn chồng và nàng đều hiểu rằng họ đã yêu nhau, anh ta hăm hở tiến tới còn người vợ vì lễ giáo nên chỉ biết đau khổ trốn vào bổn phận vợ hiền. Song song với tình yêu chồng, người vợ có một niềm bí mật vạn phần lộng lẫy để cất giấu trong kho tàng kỉ niệm của riêng mình. Nàng đã có tất cả mọi thứ, trừ điều mà chồng nàng không thể mang lại, như cách Duy đã làm. Có lẽ, đó là một loại bi kịch: không phải cứ sống trong sự no đủ, thỏa mãn về vật chất thì người ta có thể đạt tới một hạnh phúc như mình mong đợi. Các nhân vật nữ khác trong Nhang tàn thắp khuya cũng có những biểu hiện khác nhau về đời sống hôn nhân. Cô Hai Diệm suốt ngày mè nheo yêu sách chồng phải lo tiến thân, làm khổ Phương không ít. Lâu rồi, chồng cô lén có vợ bé. Cô nổi ghen, mướn nặc nô lột truồng tình địch giữa chợ cho bõ ghét. Tức nước vỡ bờ, Phương lén đem người vợ bé lên Lèo lập nghiệp. Cô Hai Diệm tức tốc theo kiếm, làm dữ, hăm he. Nhưng người vợ bé đã có mang trong khi đó cô vẫn chưa chửa nghén. Thế là cô phải chịu phép cho chồng lấy vợ bé.
  • 37. 33 Cô Ba Ngoạn đã từng yêu một người đàn ông không cùng giai cấp- con người tá điền của má, “ảnh hiếu học, nhưng vì nhà nghèo nên đậu xong bằng sơ học là ảnh về nhà phụ giúp tía ảnh việc đồng áng. Tôi muốn giúp đỡ anh học tốt nghiệp lớp đào tạo điều dưỡng y tế, để ảnh có nghề riêng đỡ cực thân” [42, tr.98], nhưng khi bỏ nhà lên thành phố, cô Ba Ngoạn “mê lú thằng Tây mắt mèo, mũi lõ đó lắm” và quyết định kết hôn- lấy ông chủ báo tờ Viễn Đông người Pháp. Đối với mọi người, cô làm xấu hổ cho họ hàng, “ông Năm coi như cô đã chết từ lúc lọt lòng” [42, tr.293]. Cô Tư Kiên lấy bác sĩ Thạch. Từ lúc nắm được thóp chồng, an nhiên hưởng hạnh phúc viên mãn. Cô làm lơ vài mối tình phất phơ nữa của bác sĩ Thạch và tự tin ở tài sắc của mình. Cô ăn ở kiệm, mua thêm ruộng đất, mua phố cho mướn. Cô Sáu Niệm đi lấy chồng, nhưng coi thường gia đình chồng “Nó ỷ thế nó là một vị quan Đốc phủ sứ nên coi gia đình bên chồng như rơm, như rác. Đi đâu, nó không cần trình thưa với ba má chồng. Đã vậy, khi làm những món ngon vật lạ, nó chỉ làm đủ cho vợ chồng nó thưởng thức. Tiền lương của thằng Đán bao nhiêu nó cũng dành tất cả. Đã vậy, nó lại còn nuôi thêm hai đứa ở gái, một đứa chuyên lo hầu quạt, đấm bóp, sai vặt, còn đứa kia lo nấu ăn cho nó” [42, tr.260]. Cô thỉnh thoảng vẫn gây gổ, xẹo nạy mấy chị em bên chồng. Tất cả các đôi vợ chồng trong tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ đều mang đến cho người đọc một cảm giác: Hạnh phúc gia đình sao mà khó nắm bắt, nắm giữ. Niềm vui chỉ le lói mà nỗi buồn thì thường nhật. Người vợ và người chồng sống bên nhau nhưng chỉ nhìn thấy sự tàn lụi của nhau “Ngọn nhang đã tàn làm sao có thể thắp tới khuya? Phải chăng chàng thích sống cái nghĩa vợ chồng, trong lúc đó hồn phách, xương thịt của chàng đã trao gửi cho một ai chăng?” [ 42, tr.123]. Hòa vào đời sống hôn nhân gia đình, truyện Như thiên đường lạnh, miêu tả đời sống của đôi vợ chồng Tường- Khương, định cư trên một giang đảo (Cù lao An Thành đối diện với chợ tỉnh Vĩnh Long, qua nhánh sông Cổ Chiên) mang đến cho chúng ta một biểu hiện khác của cuộc sống hôn nhân. Chồng là thầy giáo tiểu học, tánh lông bông, ưa ngoại tình không hẳn là người tham thanh chuộng lạ, không hẳn là thứ ưa vui tửu sắc, mà chán cái lặp đi lặp lại rất vô vị của cuộc sống không biến
  • 38. 34 cố. Vợ là người đàn bà đảm đang, ghen tuông, hỗn hào nhưng hết dạ yêu chồng. Người chồng vốn thích cuộc sống thay đổi nhưng không dám sống dù có sự thay đổi thực sự đi nữa. Y cảm thấy cuộc sống hầu như ngưng đọng ở vùng nửa chợ nửa quê, rồi vì tinh thần bạc nhược nên y ta vẫn giữ nghề gõ đầu trẻ, lóng ngóng một sự thay đổi, nhưng sự thay đổi không hề xảy đến. Tác phẩm toát ra không khí uể oải, chán nản, băn khoăn, hư vô, không tìm thấy lý tưởng cuộc đời để vui sống. Các nhân vật bị hoàn cảnh nhấn chìm, đôi lúc họ muốn trỗi dậy nhưng không đủ sức mạnh để bứt ra. Đặc biệt, qua khảo sát của chúng tôi, bên cạnh các tác phẩm viết về cuộc sống gia đình, Nguyễn Thị Thụy Vũ trải lòng mình với những người phụ nữ có cuộc sống không may mắn, đặc biệt là gái ế và bà góa. Bà góa- hiểu nôm na, đó là người đàn bà bị chết chồng. Chẳng may số phận cười cợt, họ phải chịu nỗi đau chồng chết, một mình côi cút giữa cuộc đời. Đây là nỗi lòng của bà Hảo : “Cô lấy chồng chỉ vui được ba tháng, rồi buồn ba năm và khổ héo một đời. Cô tin rằng hôn nhân là một cuộc xổ số các em à” [41, tr.59]. Những người phụ nữ này phải gồng mình lên để sống, để nuôi con, bươn chải giữa đời. Thế nhưng, thiên hạ vẫn thường có một cái nhìn xoi mói với những người phụ nữ bất hạnh này. Trong mắt nhìn của các đấng mày râu, đó đích thị là những người đàn bà cô đơn cần được những an ủi vuốt ve chăm sóc của một người đàn ông nào đó. Nên cứ việc mạnh mồm, bạo tay, trêu chọc, bỡn cợt - bởi vui đùa với gái góa một tí cũng chẳng chết ai. Thậm chí còn có thể coi đó là hành động hào phóng ban ân ! “Ậy, đời nầy, thanh niên mê bà góa, hơn là mê gái còn trinh, cô Ba biết không” [43, tr.48]. Những cố gắng của một người phụ nữ thay chồng trụ cột trong gia đình hầu như thiên hạ đều không thấy, vì tự trong tâm thức, đó vốn là sự đương nhiên. Dường như, Nguyễn Thị Thụy Vũ là nhà văn của nữ nên đã hiểu được ngọn nguồn của những nếp nghĩ của cuộc đời. Điều người ta quan tâm, nhìn ngắm, quan sát, là gái góa có ở được một mình mãi mãi, có thủ tiết, chung thủy với đức ông chồng quá cố, để nuôi dạy con nên người không? “Tụi bay rình rập gì tao đó? Tao không có đem thằng nào về ngủ đâu” [45, tr.45]. Đòi hỏi nghiêm là thế, nhưng ngặt nỗi, nếu gái góa ở một mình để làm trinh phụ thì mấy cô gái ế chồng, mấy bà