SlideShare a Scribd company logo
1 of 161
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG
NGỮ ÂM TIẾNG LỘC HÀ – HÀ TĨNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------------------
NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG
NGỮ ÂM TIẾNG LỘC HÀ - HÀ TĨNH
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án dựa trên các số liệu, tư liệu
là khách quan, khoa học và chưa được các tác giả khác công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Thị Lệ Hằng
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
1 Lí do chọn đề tài......................................................................................... 8
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ......................................... 9
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 9
4 Phương pháp nghiên cứu của luận án ......................................................10
5 Tư liệu nghiên cứu ...................................................................................15
6 Đóng góp của luận án...............................................................................15
7 Bố cục của luận án ...................................................................................15
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHƯƠNG NGỮ
TIẾNG VIỆT VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN .......................16
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt......................16
1.1.1 Đối với các nghiên cứu của học giả nước ngoài .........................16
1.1.2 Đối với các tác giả trong nước.......................................................20
1.2 Các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài ..............................................23
1.3 Các hướng tiếp cận nghiên cứu phương ngữ hiện nay .........................30
1.4. Cơ sở nhận diện, miêu tả phương ngữ, thổ ngữ...................................36
1.4.1 Ngữ âm học (phonetics).................................................................36
1.4.2 Âm vị học (phonology)..................................................................40
1.4.3 Âm tiết và các thành tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt .........................41
1.5 Vài nét về vùng đất Lộc Hà ..................................................................43
1.5.1 Đặc điểm lịch sử - xã hội vùng đất Lộc Hà ...................................44
1.5.2 Tiếng Lộc Hà.................................................................................44
CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM PHỤ ÂM ĐẦU TIẾNG LỘC HÀ.................46
2.1 Dẫn nhập ...............................................................................................46
2.2 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Hà Nội.........................51
2.3 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Hà Tĩnh .......................52
2.4 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Lộc Hà ........................53
CHƯƠNG III. ĐẶC ĐIỂM VẦN TIẾNG LỘC HÀ.................................72
2
3.1 Dẫn nhập ...............................................................................................72
3.2 Mô tả đặc điểm ngữ âm vần Lộc Hà.....................................................76
3.2.1 Đặc điểm các loại vần không có âm đệm ......................................79
3.2.2 Đặc điểm các loại vần có âm đệm................................................102
CHƯƠNG IV. ĐẶC ĐIỂM THANH ĐIỆU TIẾNG LỘC HÀ..............108
4.1 Dẫn nhập .............................................................................................108
4.1.1. Nhận xét chung về thanh điệu tiếng Việt....................................108
4.2.1 Hệ thống thanh điệu Thịnh Lộc ...................................................117
4.2.2 Hệ thống thanh điệu An Lộc........................................................120
4.2.3 Hệ thống thanh điệu Thạch Kim..................................................122
4.2.4 Hệ thống thanh điệu Thạch Châu.................................................124
4.3 Khái quát hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà............................127
4.4 So sánh hệ thống thanh điệu tiếng Lộc Hà với tiếng Hà Tĩnh, Tiếng Nghĩa
Đàn (Nghệ An) và tiếng Hà Nội ...............................................................129
4.4.1 So sánh hệ thống thanh điệu tiếng Lộc Hà với tiếng Hà Tĩnh trung
tâm.........................................................................................................129
4.4.2. So sánh hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà với hệ thống thanh
điệu tiếng Hà Nội ..................................................................................131
4.4.3 So sánh hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà với hệ thống thanh
điệu Bắc Trung Bộ ................................................................................132
4.5 Quá trình biến đổi lịch sử thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà .................138
4.5.1 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ
Bắc Bộ ..................................................................................................138
4.5.2 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ Bắc
Trung Bộ ...............................................................................................139
4.5.3 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng HTTT và các
thổ ngữ Lộc Hà......................................................................................140
KẾT LUẬN..................................................................................................143
DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN ...........................................................................................146
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................147
3
CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ KIỆU
ÂT : âm tiết
CTV : cộng tác viên
dB : deciBel
ĐĐT : điểm điều tra
GTTB : giá trị trung bình
GTTBTĐ : giá trị trung bình tương đối
Hz : Hert
LH : luồng hơi
ms : Milisecond
NNTD : ngôn ngữ toàn dân
PÂĐ : phụ âm đầu
PN : phương ngữ
PNB : phương ngữ Bắc
PNN : phương ngữ Nam
PNT : phương ngữ Trung
PNTV : phương ngữ tiếng Việt
TN : thổ ngữ
tr. : trang
4
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt
Bảng 2.2. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Hà Nội
Bảng 2.3. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Hà Tĩnh (vùng TTTP)
Bảng 2.4. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Lộc Hà
Bảng 2.5. So sánh các thông số âm học của 3 loại phụ âm /d/, // và /z/
Bảng 3.1. Danh sách các vần mở tiếng Lộc Hà
Bảng 3.2. Đặc điểm ngữ âm của các vần mở tiếng Lộc Hà
Bảng 3.3. Thực trạng và các biến thể vần mở không có âm đệm tại Lộc Hà
Bảng 3.4. Thực trạng và các biến thể vần nửa mở không âm đệm của tiếng Lộc Hà
Bảng 3.5. Các vần nửa khép không có âm đệm trong tiếng Lộc Hà
Bảng 3.6. Tình hình phát âm các vần nửa khép không âm đệm tại các ĐĐT ở Lộc
Hà
Bảng 3. 7. Danh sách các vần khép không âm đệm trong tiếng Lộc Hà
Bảng 3.8. Các biến thể vần khép không âm đệm trong tiếng Lộc Hà
Bảng 3.9. Thực trạng phát âm các vần mở có âm đệm của tiếng Lộc Hà
Bảng 3.10. Thực trạng và các biến thể vần nửa mở có âm đệm của tiếng Lộc Hà
Bảng 3.11. Danh sách các vần nửa khép có âm đệm trong tiếng Lộc Hà
Bảng 3.12. Tình hình phát âm các vần nửa khép có âm đệm ở các ĐĐT huyện Lộc
Hà - Hà Tĩnh
Bảng 3.13. Các vần khép có âm đệm trong tiếng LH-HT
Bảng 3.14. Tình hình phát âm các vần khép có âm đệm ở Lộc Hà
Bảng 4.1. Hệ thống 8 thanh điệu tiếng Việt theo cách phân loại truyền thống
Bảng 4.2. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu phương
ngữ Bắc Bộ (giọng Hà Nội)
Bảng 4.3. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
HTTT
Bảng 4.4. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
Thịnh Lộc
Bảng 4.5. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
An Lộc
5
Bảng 4.6. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
Thạch Kim
Bảng 4.7. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
Thạch Châu
Bảng 4.8. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu các thổ Lộc Hà
Bảng 4.9. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng HTTT và các
thổ ngữ Lộc Hà
Bảng 4.10. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng
Nghĩa Đàn (Nghệ An)
Bảng 4.11. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn
và các thổ ngữ Lộc Hà
Bảng 4.12. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ Bắc Bộ
Bảng 4.13. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn
Bảng 4.14. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng HTTT
Bảng 4.15. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng Thịnh Lộc
Bảng 4.16. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng An Lộc
6
DANH MỤC HÌNH
Hình 0.1. Máy ghi âm số chuyên dụng ZOOM H2N
Hình 0.2. Các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà bằng chương trình WIN
CECIL
Hình 0.3. Các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh Lộc được phân tích
bằng chương trình SA
Hình 0.4. Các thông số âm học của các âm tiết tiếng Thịnh Lộc được phân tích
bằng chương trình PRAAT
Hình 2.1. Dạng sóng âm giữa phụ âm /b/ và //
Hình 2.2. Phụ âm // trong âm tiết ba /a/
Hình 2.3. Dạng sóng âm, cường độ, phổ đồ và ảnh phổ phụ âm // trong âm tiết /a/
Hình 2.4. Dạng sóng âm, cường độ, phổ đồ và ảnh phổ nửa đầu âm tiết /da/
Hình 2.5. Dạng sóng âm, ảnh phổ với cấu trúc formant của 3 phụ âm /d/, // và / z /
tiếng Việt
Hình 2.6. Dạng sóng âm, ảnh phổ, cường độ của các âm tiết /a/, /a/, /sa/
Hình 2.7. Dạng sóng âm, cường độ và ảnh phổ của phụ âm /Ɂ/ trong âm tiết ăn
Hình 2.8. Dạng sóng âm, F0, cường độ, ảnh phổ của nửa đầu âm tiết /Ɂɛƞ/
Hình 3.1 Thông số âm học của vần không có âm đệm /-an/ trong âm tiết LAN /lan/
so sánh với vần có âm đệm /-wan/ trong từ LOAN /lwan/
Hình 3.2. Dạng sóng âm, diễn tiến formant thứ nhất (F1) và thứ 2 (F2) âm tiết BÈ
Hình 3.3. Dạng sóng âm, cường độ, diễn tiến F1 và F2 của âm tiết CỎ
Hình 3.4. Thông số âm học của từ “anh”
Hình 3.5. Thông số âm học của âm tiết “anh”
Hình 3.5. Thông số âm học của âm tiết “anh”
Hình 3.6. Thông số âm học của vần /e/
Hình 3.7. Thông số âm học của từ “xong”
Hình 3.8. Thông số âm học của từ “ông”
Hình 3.9. Thông số âm học của vần /ɛk/
Hình 3.10. Thông số âm học của từ ếch /Ɂek/ với vần /-ek/.
Hình 3.11. Thông số âm học của từ học /hɔk/ với vần /-ɔk
Hình 3.12. Thông số âm học của từ ốc /Ɂok/ với vần /-ok/
1
2 4
3
7
Hình 4.1. Âm tiết “ta” trong cách phát âm tiếng Lộc Hà
Hình 4.2. Sóng âm, các xung thanh môn, ảnh phổ của thanh 3 tiếng HTTT
Hình 4.3. Sóng âm, các xung thanh môn, ảnh phổ của thanh 4 tiếng HTTT
Hình 4.4. Sóng âm và thanh phổ của âm tiết “tá” trong thổ ngữ Thịnh Lộc
Hình 4.5. Sóng âm và thanh phổ của âm tiết “tả” trong thổ ngữ Thịnh Lộc
Hình 4.6. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng An Lộc được phân tích bằng chương trình
SA
Hình 4.7. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ
An Lộc
Hình 4.8. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng Thạch Kim được phân tích bằng chương
trình SA
Hình 4.9. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ
Thạch Kim
Hình 4.10. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng Thạch Châu được phân tích bằng chương
trình SA
Hình 4.11. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ
Thạch Châu
Hình 4.12. Đồ thị 5 thanh điệu phương ngữ Bắc Trung Bộ
Hình 4.13. Đồ thị F0 các thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn
Hình 4.14. Đặc trưng âm học của 5 thanh tiếng Nghĩa Đàn (Nghệ An) được phân
tích theo chương trình PRAAT
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 4.1. Hệ thống thanh điệu tiếng Hà Nội
Sơ đồ 4.2. Đồ thị F0 5 thanh điệu tiếng Hà Tĩnh (vùng trung tâm - thành phố Hà
Tĩnh)
Sơ đồ 4.3. Hệ thống thanh điệu Thịnh Lộc
MỞ ĐẦU
8
1 Lí do chọn đề tài
Hiện nay, tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia thống nhất trên mọi miền đất nước
từ Bắc tới Nam, từ miền xuôi lên miền ngược. Đặc điểm này rõ ràng là một lợi thế,
không phải đất nước nào, ngôn ngữ nào cũng có được. Bên cạnh tính thống nhất đó
còn tồn tại những khác biệt. Sự khác biệt nằm ngay trong các phương ngữ ở mỗi vùng
miền khác nhau tạo nên tính đa dạng của tiếng Việt. Chúng ta vẫn thường nghe nói
tiếng Hà Nội, tiếng Nghệ Tĩnh, tiếng Huế, tiếng miền Nam, tiếng Nghi Lộc (Nghệ
An) hay tiếng Hội An (Đà Nẵng) ... v.v, tất cả đều nhằm biểu hiện sự khác nhau trong
cách nói, đặc trưng ngôn ngữ của mỗi vùng, miền. Đó là sự khác nhau về tiếng nói,
cách nói của mỗi vùng, mỗi địa phương mà chúng ta thường quen gọi là phương ngữ
(dialect), phương ngôn hay thổ ngữ (patois). Có thể xác định ranh giới phương ngữ
nhưng rất khó để chúng ta có thể thống kê tiếng Việt có bao nhiêu thổ ngữ và cách
phân định ranh giới của chúng.
Lộc Hà là một địa phương có giọng nói khá đặc biệt trong tương quan với
tiếng Việt toàn dân và phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung. Nét đặc biệt của tiếng Lộc
Hà không chỉ được cảm nhận qua thính giác của người dân địa phương Hà Tĩnh mà
còn qua các giai thoại dân gian và một số công trình nghiên cứu văn hóa, dân tộc, lịch
sử,… Giọng nói của người dân nơi đây có những khác biệt rõ nét so với giọng nói
của nhân dân các huyện khác. Một số làng, một số xã ở trên địa bàn huyện có những
giọng nói riêng biệt khác nhau khiến cho du khách khi đến đây cảm thấy rất hiếu kì
và khó hiểu. Do những nét khác lạ và đặc biệt như thế nên chúng tôi chọn tiếng Lộc
Hà làm đối tượng nghiên cứu của luận án này. Chúng tôi muốn tìm hiểu về giọng của
người dân nơi đây như một cách tìm hiểu về những nét độc đáo trong ngôn ngữ và
văn hóa của Hà Tĩnh nói chung và của huyện Lộc Hà nói riêng.
Phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu, song,
cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về tiếng địa phương Lộc Hà,
đặc điểm ngữ âm tiếng Lộc Hà. Do những đặc điểm riêng về lãnh thổ, địa lí, lịch sử,
dân cư, tiếng Lộc Hà được đánh giá là có đặc trưng giọng nói cao hơn hẳn so với
nhiều tiếng địa phương lân cận khác ở Hà Tĩnh cũng như trong cả khu vực Nghệ Tĩnh.
Do đó, chúng tôi muốn nghiên cứu ngữ âm của tiếng Lộc Hà để tìm hiểu những tương
đồng và đặc biệt là những nét khác biệt giữa giọng nói ở Lộc Hà với hệ thống ngữ
9
âm của phương ngữ Nghệ Tĩnh nói riêng và hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân
nói chung.
2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Luận án hướng đến mục tiêu:
- Miêu tả những đặc điểm ngữ âm – âm vị học của tiếng Lộc Hà bao gồm hệ thống
phụ âm đầu, hệ thống vần, và hệ thống thanh điệu.
- Chỉ ra những đặc điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm giữa tiếng Lộc Hà
với hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ Hà Tĩnh.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Với các mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau:
- Tiến hành điều tra điền dã thu thập tư liệu ngữ âm một số thổ ngữ tiêu biểu
trên địa bàn huyện Lộc Hà.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu ngữ âm các thổ ngữ Lộc Hà
- Phân tích tư liệu ngữ âm tiếng Lộc Hà: a) Phân tích bằng cảm thụ thính giác
các đặc điểm ngữ âm – âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà; b) Phân tích bằng các phần
mềm máy tính đặc điểm ngữ âm - âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà;
- Miêu tả hệ thống ngữ âm phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu
các đặc điểm ngữ âm - âm vị học của các thổ ngữ Lộc Hà.
- Xác định các đặc điểm giống và khác nhau giữa hệ thống phụ âm đầu, vần
các thổ ngữ Lộc Hà trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân và PNNT.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh
ở ba phần: Hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh ở một số thổ
ngữ tiêu biểu trên địa bàn huyện Lộc Hà, cụ thể ở đây là các xã: An Lộc, Thịnh Lộc,
Thạch Châu, Thạch Kim. Sở dĩ chúng tôi chọn các điểm điều tra nghiên cứu như vậy
bởi đây được cho là bốn xã có những đặc điểm ngữ âm đặc trưng đại diện cho vùng
địa lí gần biển và xa biển dựa trên cảm nhận thính giác của người dân địa phương,
10
của người nghiên cứu cũng như dựa trên các tư liệu nghiên cứu từ trước về phương
ngữ Nghệ Tĩnh.
- Địa điểm điều tra
Địa điểm điều tra (ĐĐT), gồm 4 điểm là các địa bàn: xã An Lộc, xã Thịnh
Lộc, xã Thạch Kim và xã Thạch Châu.
- Tiêu chuẩn lựa chọn cộng tác viên (CTV)
+ CTV là những người sinh ra và đã sống liên tục ở địa phương từ 2 đến 3 đời.
Về độ tuổi là những người từ 30 đến 50 tuổi, không đi làm ăn ở nơi khác. Do vậy họ
được xem là những người bảo lưu ngôn ngữ của mình, không bị pha trộn, có giọng
nói được người địa phương xác định và công nhận là đúng “chất giọng” của tiếng Lộc
Hà.
+ Đối tượng điều tra, ghi thu là các phát âm mẫu của 24 cộng tác viên, gồm 12
nam và 12 nữ ở tại 4 điểm điều tra (ĐĐT).
- Kết quả ghi âm
Tổng số dữ liệu âm thanh thu thập được của 24 CTV gồm 24 File dữ liệu âm
thanh có dung lượng ghi âm là 26 MB (có văn bản kèm theo).
Đó là nguồn dữ liệu phục vụ cho việc phân tích đặc điểm ngữ âm của tiếng
Lộc Hà cả về mặt cảm thụ thính giác và phân tích thực nghiệm.
4 Phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ trên chúng tôi áp dụng các phương
pháp nghiên cứu sau:
4.1 Điều tra điền dã:
a) Nghe và cảm thụ bằng thính giác, ghi lại bằng kí hiệu phiên âm quốc tế IPA
theo các bảng từ các thổ ngữ ở Lộc Hà
b) Tiến hành ghi âm bằng máy ghi âm kĩ thuật số.
 Hình thức ghi âm: Có 2 hình thức ghi dữ liệu âm thanh đối với mỗi CTV:
+ CTV đọc 2 bảng từ âm tiết tách biệt (xem Phụ lục) phục vụ phân tích các thông
số âm học của phụ âm đầu, vần và thanh điệu.
+ CTV được ghi âm tự do phục vụ cho các mục đích nghiên cứu lời nói tự nhiên.
 Phương tiện ghi âm
11
Hình 0.1. Máy ghi âm số chuyên dụng ZOOM H2N
Chúng tôi sử dụng máy ghi âm số chuyên dụng: ZOOM H2N của hãng ZOOM
JAPAN. Mẫu ghi âm 41.100 Hz, 16 bit. Các file ghi âm có dạng wav.
4.2 Phương pháp phân tích các đơn vị âm thanh bằng các chương trình bằng máy
tính
Tư liệu ghi âm được phân tích những đặc điểm ngữ âm bằng các chương trình
máy tính sau:
- Chương trình WIN CECIL: Chương trình do tổ chức SIL Hoa Kỳ thực hiện.
WIN CECIL có thể phân tích được các thông số âm học của các yếu tố ngôn điệu
ngôn ngữ. Chương trình này đặc biệt thích hợp để nghiên cứu thanh điệu và ngữ
điệu trong các ngôn ngữ đơn lập đơn tiết như tiếng Việt. Trong luận án này chúng
tôi sử dụng chương trình WIN CECIL để phân tích và miêu tả các thông số âm học
của hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà .
Hình 0.2. Các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà bằng
chương trình WIN CECIL
12
Trên đây là các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà: 1. Dạng sóng âm,
2. Cường độ, 3. Sự thay đổi trong cấu âm, 4. Thanh điệu dạng thô, 5. Thanh điệu số
hóa dạng tương đối hoàn chỉnh, 6. Thanh điệu dạng hoàn chỉnh.
- Chương trình SA (Speech analyzer 3.1.0) Chương trình phân tích tiếng nói SA
cho phép chúng ta phân tích các thông số âm học của các đơn vị chiết đoạn và siêu
đoạn của tiếng nói. Dưới đây là các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh
Lộc được phân tích bằng chương trình SA: 1. Dạng sóng âm, 2. Ảnh phổ
(Spectrogram), 3. F0 (thanh điệu), 4. Cường độ, 5. Phổ đồ (Spectrum).
1
2
3
4
5
6
13
Hình 0.3. Các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh Lộc được
phân tích bằng chương trình SA
Trong luận án này chúng tôi sử dụng chương trình SA để phân tích và miêu tả hệ
thống phụ âm đầu, vần và thanh điệu trong tiếng Lộc Hà.
- Chương trình PRAAT phiên bản 6.0.35 (16/10/2017): Chương trình PRAAT
cho phép chúng ta phân tích, miêu tả theo định lượng các thông số âm học của các
đơn vị chiết đoạn và siêu đoạn lời nói. Dưới đây là các thông số âm học của các âm
tiết tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình PRAAT.
1
2
3
4
5
14
Hình 0.4. Các thông số âm học của các âm tiết tiếng Thịnh Lộc được phân
tích bằng chương trình PRAAT
1. Hình 1: Dạng sóng âm và các đường sọc chỉ các xung thanh môn.
2. Hình 2: Ảnh phổ , F0, Cường độ, cấu trúc formant (F1, F2, F3).
Trong luận án này chúng tôi phân tích hệ thống vần thanh điệu các thổ ngữ
Lộc Hà theo các thông số âm học (định lượng) F0 tính bằng tấn số thanh cơ bản tính
bằng Hezt (Hz), trường độ tính bằng ms (mili giây= 0,001ms), cường độ tính bằng
dB, Formant tính bằng Herzt (Hz).
4.3. Phương pháp miêu tả ngữ âm - âm vị học
Phương pháp miêu tả ngữ âm - âm vị học áp dụng các thao tác cơ bản trong
miêu tả các đặc điểm cấu âm và âm học hệ thống phụ âm đầu, vần, thanh điệu các thổ
ngữ tiếng Lộc Hà.
4.4. Phương pháp so sánh lịch sử
Trong luận án, chúng tôi áp dụng các thao tác phân tích, đối chiếu về mặt lịch
đại của phương pháp so sánh lịch sử để miêu tả hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc
Hà trong quan hệ với thanh điệu tiếng Việt toàn dân và các thổ ngữ Nghệ Tĩnh về mặt
lịch sử.
1
2
15
5. Tư liệu nghiên cứu
Luận án dựa trên tư liệu nghiên cứu là những ghi chép điền dã dựa trên cảm thụ
thính giác và những tư liệu phân tích trên cơ sở dữ liệu số hóa ngữ âm các thổ ngữ ở
Lộc Hà. Cơ sở dữ liệu số hóa gồm các file âm thanh (định dạng Wav. (dùng cho SA
và PRAAT) và Utt (dùng cho WIN CECIL) ghi âm phát âm của các nghiệm viên theo
bảng từ về phụ âm đầu, vần và thanh điệu các thổ ngữ, danh sách các nghiệm viên
(xem phụ lục).
6. Đóng góp của luận án
Luận án có một số đóng góp sau đây:
Thứ nhất, miêu tả các đặc điểm ngữ âm - âm vị học hệ thống phụ âm đầu, vần
và thanh điệu các thổ ngữ tiếng Lộc Hà dựa trên cảm thụ thính giác và kết quả phân
tích bằng các chương trình máy tính.
Trong luận án này, lần đầu tiên những miêu tả ngữ âm - âm vị học của tiếng
Lộc Hà được miêu tả một cách chính xác nhờ được phân tích theo các thông số âm
học bằng các chương trình phân tích tiếng nói.
Thứ hai, luận án chỉ ra những đồng nhất và khác biệt trong hệ thống phụ âm
đầu, vần, thanh điệu của các thổ ngữ Lộc Hà trong mối quan hệ với hệ thống ngữ âm
- âm vị học của ngôn ngữ toàn dân và PNNT.
7 . Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm
4 chương:
Chương I. Tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt và cơ sở lí
thuyết của luận án
Chương II. Đặc điểm phụ âm đầu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh
Chương III. Đặc điểm vần tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh
Chương IV. Đặc điểm thanh điệu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh
16
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt
Phương ngữ (PN) tiếng Việt đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu ngoài và
trong nước quan tâm đến từ lâu. Ngay những năm đầu thế kỉ XX đã có nhiều công
trình nghiên cứu tập trung vào PN tiếng Việt và những vấn đề liên quan đến phương
ngữ tiếng Việt (PNTV). Một trong những vấn đề nổi bật mà hầu như nhà nghiên cứu
nào cũng quan tâm đến đầu tiên khi nghiên cứu về PNTV, đó là vấn đề miêu tả đặc
điểm các phương ngữ và phân vùng các phương ngữ tiếng Việt ở Việt Nam.
1.1.1 Đối với các nghiên cứu của học giả nước ngoài
Đối với các học giả nước ngoài, chúng tôi thấy trong các công trình nghiên cứu
của họ nổi lên có ba mục tiêu tiếp cận (khuynh hướng) chủ yếu sau:
a) hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề phân chia các vùng phương ngữ của tiếng
Việt; b) hướng nghiên cứu PN gắn với việc tìm hiểu lịch sử và tiến trình phát triển
của tiếng Việt, và c) hướng nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu đặc điểm ngữ âm, từ
vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp của các PN, thổ ngữ tiếng Việt ở những vùng, miền khác
nhau trên lãnh thổ Việt Nam.
Với hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề phân vùng các PNTV có thể coi
L. Cadière (Pháp) là một trong những người đầu tiên quan tâm đến phương ngữ tiếng
Việt và vấn đề phân vùng PNTV. Trong công trình Ngữ âm tiếng Việt (phương ngữ
miền thượng Trung kỳ và phương ngữ miền hạ Trung kỳ, 1902), mặc nhiên ông đã
phân PNTV thành bốn (04) vùng phương ngữ: phương ngữ miền thượng Trung kỳ
được ông phân định từ phía bắc tỉnh Nghệ An đến Huế; còn phương ngữ hạ Trung kỳ
kéo dài từ đèo Hải Vân đến nam Bình Thuận. Hai vùng còn lại là phương ngữ Bắc kỳ
và Nam kỳ mặc nhiên được thừa nhận.
H. Maspero, trong công trình Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt (1912) chia
tiếng Việt thành 2 vùng PN: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung. Theo ông phương
ngữ Nam có nhiều điểm giống phương ngữ Bắc vì người miền Nam hiện nay đều có
gốc từ miền Bắc di cư vào. M.V. Gordina & I.S. Bustrov (1970) cũng chia tiếng Việt
thành 2 vùng PN. Khác với lập luận của H. Maspero, ranh giới 2 vùng chạy qua phía
17
nam tỉnh Quảng Trị. Tiếng Huế, theo các tác giả này chỉ là vùng đệm. Cơ sở để Gordina
& Bustrov phân thành 2 vùng PN chủ yếu dựa vào sự khác nhau của hệ thống âm cuối
tiếng Việt.
Không đồng ý với những cách phân vùng PNTV của các tác giả trên, L.C.
Thompson (1959), trong Ngữ pháp tiếng Việt đưa ra ý kiến cho rằng, không nên chia
Tiếng Việt thành các vùng PN. Bởi, theo ông, ranh giới giữa các vùng PNTV là không
rõ ràng. Hơn nữa, bên cạnh các phương ngữ tiêu biểu, như phương ngữ Hà Nội,
phương ngữ Vinh, phương ngữ Huế, phương ngữ Đà Nẵng, phương ngữ Sài Gòn,
v.v… luôn tồn tai các trạng thái chuyển tiếp giữa các vùng.
Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu PN gắn với việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt là
các tác giả L. Cadière (1902); H. Maspero (1912); A.G. Haudricour (1952); M. Ferlus
(1991); W. Schmidt (1926); H.J. Pinnow (1963); S.E. Yakhontov (1969),… v.v. Mục
đích của hướng nghiên cứu này là dựa trên các cứ liệu ngôn ngữ, chủ yếu bình diện
ngữ âm tiếng Việt ở các địa phương khác nhau đưa ra những kiến giải liên quan đến
lịch sử tiếng Việt cũng như cách phân xếp tiếng Việt vào các họ khác nhau.
Năm 1902, L. Cadière, trong nghiên cứu tiếng địa phương miền Trung đã
không chỉ so sánh PN Trung với các phương ngữ khác của tiếng Việt mà còn so sánh
cách đọc các từ Hán - Việt của PN này với cách đọc các từ Hán - Việt tương ứng trong
các phương ngữ tiếng Trung, và ông chỉ ra rằng những khác biệt về cách đọc các từ
Hán - Việt trong phương ngữ Trung của tiếng Việt có quan hệ mức độ khác nhau với
những hiện tượng mà người ta đã nhận thấy trong chính các phương ngữ tiếng Trung.
H. Maspero, trong Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt: các âm đầu đã sử
dụng một nguồn tư liệu hết sức đa dạng, gồm các PN tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng
Mường, tiếng Hán, tiếng Môn - Khme. Ông còn sử dụng tư liệu chữ Nôm trong từ
điển “Việt- Bồ - La” của A. de. Rhodes (1651). Sau khi phân tích, ông đã đi đến kết
luận: “Tiếng tiền Việt đã sinh ra từ sự hòa đúc của một ngôn ngữ Môn-Khme, một
phương ngữ Thái và có thể của cả một ngôn ngữ thứ 3 còn chưa biết, rồi sau đó tiếng
Việt đã mượn một số rất lớn những từ tiếng Hán. Nhưng, cái ngôn ngữ mà ảnh hưởng
quyết định đã tạo cho tiếng Việt trạng thái hiện đại của nó là chắc chắn theo ý kiến
tôi, một ngôn ngữ Thái, và tôi nghĩ rằng tiếng Việt phải được qui vào họ Thái”. Ý
kiến này đã được sự ủng hộ của W. Schmidt (1926); H.J. Pinnow (1963), v.v…
18
A.G. Haudricourt trong 2 bài báo Vị trí của Tiếng Việt trong các ngôn ngữ
Nam Á (1953), và Về nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt (1954), đã chứng minh ngược
lại ý kiến của H. Maspero, và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ xác đáng, thuyết phục về
nguồn gốc họ Nam Á của tiếng Việt. Quan điểm này, về sau được S.E. Yakhontov (1969,
1973) và M. Ferlus (1975, 1979) củng cố thêm.
Còn đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu đặc điểm ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp của các phương ngữ, thổ ngữ tiếng Việt ở những vùng, miền khác
nhau trên lãnh thổ Việt Nam thì nhìn chung, các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào ngữ âm và một vài địa hạt liên quan đến từ vựng, hầu như rất ít có công trình nào
tìm hiểu địa hạt ngữ pháp. Cụ thể:
 Đối với phương ngữ Bắc, các nghiên cứu tập trung chủ yếu về ngữ âm tiếng
Việt nói chung nhưng lấy cách phát âm của Hà Nội làm đối tượng miêu tả và xem
tiếng Hà Nội là đại diện cho ngôn ngữ toàn dân. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này
là các công trình của T.T. Mkhitarian (1959) trong Ngữ âm tiếng Việt, Thompson
(1959) trong Ngữ pháp tiếng Việt; Sampson & Geoffrey (1969) trong Nghiên cứu hệ
âm cuối tiếng Hà Nội (Hanoi dorsal finals); Michaud Alexis (2004) nghiên cứu về
Hệ thống phụ âm cuối và hiện tượng tắc họng trong tiếng Hà Nội (Final Consonants
and glottalization: New prespectives from Hanoi, Vietnam); J.P Kirby (2011) trong
nghiên cứu Tiếng Việt Hà Nội, đã miêu tả một bức tranh khá chi tiết về ngữ âm tiếng
Hà Nội, đề cập đến cả hiện tượng lẫn lộn [l/n]; cách phát âm [c] với đặc trưng [+xát;
+ bật hơi] hay cách phát âm các vần [-iu] và [-ieu], v.v… Một số đặc điểm ngữ âm
của các thổ ngữ cũng được chú ý đến. Tiêu biểu Le Van Ly (1948), nghiên cứu phương
ngữ Bắc thông qua việc miêu tả đặc điểm ngữ âm của thổ ngữ vùng Phát Diệm (Ninh
Bình), …v.v.
 Đối với phương ngữ Trung, các nghiên cứu cũng tập trung chủ yếu vào các
vấn đề ngữ âm ở khu vực từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế, tiêu biểu L. Cadière
(1902) trong Ngữ âm tiếng Việt (PN miền thượng Trung kỳ) dựa chủ yếu vào ngữ âm
tiếng Quảng Bình để miêu tả PN Trung. Ông đã chỉ ra một cách tương đối rõ ràng
những sự chuyển hóa ngữ âm xảy ra trong toàn hệ thống (bao gồm cả phụ âm đầu,
âm đệm, âm chính và thanh điệu) của PN này, đặc biệt trong đó, ông nhấn mạnh hai
hệ thống phụ âm đầu và âm chính là những nơi sự chuyển hóa ngữ âm diễn ra mạnh
nhất. Nguyên nhân, theo ông là ở hai tiểu hệ thống này, sự chuyển hoá xảy ra do sự
19
kết hợp cả hai nguyên nhân, nguyên nhân bên ngoài (mặt tự nhiên) và nguyên nhân
bên trong (sự cố ý). Từ đó, ông đã đưa ra một hình dung khá rõ nét về chân dung của
PN Trung giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tiếp theo là các công trình của M.B. Emeneau
(1951) trong Study in Vietnamese Grammar, đã chọn phương ngữ Vinh làm đối tượng
khảo sát; M. Harvey & Taylo (1962), trong Miêu tả đặc điểm ngữ âm thanh điệu Huế,
Việt Nam (A phonetic description of the tone of the Hue dialect of Vietnam) đã dựa
vào cảm thụ thính giác để miêu tả hệ thanh điệu tiếng Huế; tiếp đó M. Ferlus đã
nghiên cứu tiếng Vinh (1995) và tiến hành mô tả ngữ âm ở Cao Lao Hạ (Quảng Bình);
rồi, M. Alves & Nguyen Duy Huong (1998), nghiên cứu thổ ngữ Thanh Chương
(Nghệ An); Andre Hoa Phạm (2005) nghiên cứu thanh điệu Nghi Lộc (Nghệ An);
Honda Koichi (2006, 2008) nghiên cứu Fo và thức tạo thanh trong tiếng Nghệ Tĩnh
ở khu vực bờ sông Lam, v.v…
 Đối với phương ngữ Nam, các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước
ngoài tập trung chủ yếu vào tiếng Sài Gòn, Đà Nẵng và những thành phố lớn.
Thompson (1959) miêu tả âm vị tiếng Sài Gòn trong Saigon Phonemics. Bằng việc
khảo sát và phân tích lời nói của các cộng tác viên có trình độ Trung học phổ thông,
ông đã khái quát hệ thống âm vị tiếng Sài Gòn gồm 22 phụ âm đầu (PÂĐ); có sự khác
biệt giữa hệ thống nguyên âm (NÂ) đôi và vần so với tiếng Hà Nội. Công trình này,
tiếp tục được ông nghiên cứu và phát triển trong A Vietnamese Grammar (1965) về
cách phát âm một số từ địa phương; ranh giới các vùng PNTV, đặc điểm ngữ âm của
PN Bắc, Trung và Nam và một số đặc điểm ngữ âm của tiếng Đà Nẵng, Sài Gòn, Trà
Vinh, v.v… Còn M.V. Gordina (1965) đã chọn nghiên cứu hệ thống thanh điệu tiếng
Đà Nẵng bằng phương pháp phân tích thực nghiệm trong The System of tones of the
Danang dialect of Vietnam. Công trình này về sau (1976), được tác giả và cộng sự
I.S. Bustrov nghiên cứu khá kĩ; tiếp đó, Shimizu Masaki (2013) nghiên cứu về tiếng
Quảng Nam, trong công trình Vị trí của tiếng Quảng Nam trong quá trình biến đổi
âm cuối gốc lưỡi. Bằng việc khảo sát từ hai góc độ, cả lịch đại và đồng đại, tác giả
cho rằng, tiếng Quảng Nam được coi như là đang ở giai đoạn giữa của chính tả tiếng
Việt hiện nay và phương ngữ Nam bộ, v.v.…
Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu PN tập trung vào hướng cộng
đồng sử dụng theo cách tiếp cận của các tác giả thuộc trường phái biến thể học như
W. Labov (1972); R. Lakoff (1974); R. Fasold (1974); P. Trudgill (1986). Hướng
20
nghiên cứu này đề cập đến mặt xã hội của PN cũng như ảnh hưởng của các nhân tố
xã hội đối với ngôn ngữ nói chung và PN nói riêng. Một mặt, cho thấy được đặc điểm
ngôn ngữ của PN; mặt khác cũng cho thấy sự ảnh hưởng của nhân tố xã hội đối với
việc sử dụng/ thể hiện các đặc điểm của phương ngữ. Đây được xem là hướng nghiên
cứu mới của thời kỳ hậu cấu trúc luận. Theo hướng này có thể kế đến các công trình
của Luong Van Huy (2000), của M. Brunell, trong Tone perception in Vietnamese
dialect (2006) và của M. Brunell kết hợp với Stefani Jannedy trong Social effects on
the perception of Vietnaemese tones (2007).
1.1.2 Đối với các tác giả trong nước
So với các tác giả nước ngoài, mục tiêu (khuynh hướng) nghiên cứu PNTV của
các học giả trong nước có phần được mở rộng hơn; nhiều nội dung nghiên cứu, tìm
hiểu liên quan đến PNTV được các tác giả gắn với nhu cầu thực tiễn, giải quyết những
vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt là “công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”,
…v.v. Trên đại thể, ngoài công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước (Phương ngữ
học) của Hoàng Thị Châu (1989) được xem là một nghiên cứu đầy đủ nhất về diện
mạo tiếng Việt qua các PN theo hướng tiếp cận ngôn ngữ học - địa lý kết hợp với
ngôn ngữ học lịch sử, các nghiên cứu PN trong nước đã tập trung và hướng chú ý tới
những vấn đề sau:
a. Tiêu chuẩn và nguyên tắc phân vùng phương ngữ. Theo hướng này có
khá nhiều tác giả. Tiêu biểu: Hồng Giao (1957), Nguyễn Bạt Tụy (1961); Nguyễn
Đình Hòa (1962); Hoàng Phê (1963); Nguyễn Văn Tu (1968); Đỗ Tiến Chung (1981);
Hoàng thị Châu (1989),…v.v. Tiêu chuẩn và nguyên tắc phân vùng PNTV được coi
là vấn đề quan trọng nhất với hầu hết các công trình nghiên cứu PNTV theo xu hướng
này. Phần lớn các công trình đã cố gắng xác định nguyên tắc phân vùng PNTV. Theo
ý kiến được đa phần các tác giả đưa ra, là chủ yếu dựa vào các đặc điểm ngữ âm tiếng
Việt kết hợp với đặc điểm lịch sử hay quá trình hình thành và phát triển của PN. Dù
còn có ý kiến khác nhau về phân vùng PN, cũng như xác định số lượng, ranh giới
phương ngữ, nhưng đến nay, ý kiến phân thành 3 vùng phương ngữ tiếng Việt đang
nhận nhiều ý kiến đồng thuận, trong đó nghiên cứu của Hoàng Thị Châu được xem
là tiêu biểu. Cụ thể:
- Phương ngữ Bắc, gồm các tỉnh Bắc bộ đến ranh giới tỉnh Thanh Hóa
- Phương ngữ Trung, gồm từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân
21
- Phương ngữ Nam, gồm từ đèo Hải Vân trở vào
Ngoài ra, ở mỗi phương ngữ lại có thể có các thổ ngữ, biệt ngữ dựa trên đặc
điểm ngôn ngữ của từng vùng
b. Nghiên cứu phương ngữ gắn với việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt. Các tác
giả tiêu biểu: Trần Trí Dõi (1991); Võ Xuân Trang (1997); Nguyễn Văn Nguyên
(2003); Nguyễn Văn Lợi (2009),… v.v. Mục đích nghiên cứu của các tác giả và những
công trình này là thông qua việc tìm hiểu PN nhằm tìm ra các cứ liệu mang dấu vết
cổ của tiếng Việt hiện còn lưu giữ ở các PN, thổ ngữ, biệt ngữ để bổ sung chứng cứ
cho nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Cụ thể Trần Trí Dõi, từ nghiên cứu thanh điệu khu
vực Cửa Lò, Nghệ An đã chỉ ra có sự tương ứng giữa thanh điệu Cửa Lò và các ngôn
ngữ Việt – Mường; Nguyễn Văn Lợi dựa trên tư liệu thanh điệu ở Xứ Đoài (cụ thể
vùng Thạch Thất, Hà Nội) cho thấy quá trình tiếp xúc và mối quan hệ giữa thanh điệu
tiếng Việt và tiếng Mường…v.v. Có thể thấy, đây là những nguồn tư liệu hết sức quí
góp phần khẳng định về nguồn gốc thuộc nhóm Việt – Mường của tiếng Việt, mà
A.G. Haudricour đã đưa ra phản bác lại ý kiến của H. Maspero về xung quanh nguồn
gốc của tiếng Việt.
c. Nghiên cứu phương ngữ gắn với yêu cầu chuẩn hóa tiếng Việt. Các tác
giả tiêu biểu: Nguyễn Trí Niên và Nguyễn Phan Cảnh (1961), Hoàng Phê (1975);
Nguyễn Thiện Chí (1981); Trương Văn Sình (1981); Nguyễn Văn Ái (1981), Phạm
Văn Hảo (1981); Hồng Dân (1981); Vũ Bá Hùng (1994)…v.v. Mục đích nghiên cứu
của các tác giả theo hướng này là tìm hiểu và chỉ rõ những sự khác biệt giữa PN và
ngôn ngữ toàn dân; tư vấn, đưa ra ý kiến trong việc sử dụng đúng, chính xác các yếu
tố tích cực của PN phục vụ yêu cầu chuẩn hóa, thúc đẩy công cuộc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt; góp phần hình thành cơ sở cho việc đề ra chiến lược chung trong
chính sách giáo dục ngôn ngữ…
d. Nghiên cứu phương ngữ gắn với các vấn đề của đời sống: báo chí, văn
học, nhà trường, sân khấu, điện ảnh… Các tác giả tiêu biểu: Ngô Ngọc Bích Tiên
(1968); Hoàng Thị Châu (1970); Vũ Kim Bảng (2006, 2008); Nguyễn Quang Hồng
(1981); Vũ bá Hùng (1980); Hoàng Tuệ (1982); Nguyễn Văn Hòa (1983); Trịnh Sâm
(1983)… v.v. Mục đích và những kết quả nghiên cứu: 1) tìm hiểu vai trò, chức năng
của tiếng địa phương trong đời sống xã hội hiện nay; 2) cung cấp một bức tranh chung
về thực tế sử dụng từ địa phương trong sách vở, báo chí, văn học, sân khấu, điện
22
ảnh,…; 3) đồng thời, cũng cho thấy một số đặc trưng văn hóa tiêu biểu của vùng,
miền qua hoạt động hành chức của chúng; 4) phát hiện những lỗi sai về phát âm,
chính tả do thói quen địa phương, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục cho nhóm
học sinh tiểu học và THPT trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay.
e. Nghiên cứu phương ngữ trong sự vận động và phát triển của xã hội cũng
như quá trình đô thị hóa. Các tác giả tiêu biểu: Hoàng Thị Châu (1972); Trần Thị
Thìn (1981); Võ Xuân Trang (1981); Trần Thị Ngọc Lang (1986); Trịnh Cẩm Lan
(2007), …v.v. Mục đích nghiên cứu của các tác giả này là áp dụng các lý thuyết của
ngôn ngữ học xã hội để luận giải các vấn đề của phương ngữ. Cụ thể: 1) sự thay đổi
ngữ âm ở các vùng nông thôn; 2) phương ngữ ở thành thị; 3) sự tiếp xúc giữa các
phương ngữ; 4) sự biến đổi ngôn ngữ ở các cộng đồng chuyển cư đến thành phố lớn
và thủ đô…v.v.
f. Nghiên cứu đặc điểm các phương ngữ, thổ ngữ cụ thể
 Đối với phương ngữ Nam: Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Bạt Tụy (1961);
Nguyễn Kim Thản (1964); Vương Hữu Lễ (1981); Nguyễn Văn Ái (1982); Cao Xuân
Hạo (1986); Trần Thị Ngọc Lang (1983); Trịnh Sâm (1986), Huỳnh Công Tín (1999),
v.v… Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu và khái quát tương đối đầy đủ diện mạo,
đặc điểm ngôn ngữ của các phương ngữ Nam từ Đà Nẵng đến cực Nam. Đồng thời
cũng nghiên cứu hầu hết các bình diện cũng như sự hành chức trong đời sống xã hội
của phương ngữ đã được đề cập, phản ánh sức sống mạnh mẽ của từ ngữ địa phương
miền Nam trong sự phát triển chung của Tiếng Việt.
 Đối với phương ngữ Trung: Các tác giả tiêu biểu: Phạm Văn Hảo (1991);
Võ Xuân Quế (1993); Võ Xuân Trang (1997); Hoàng Trọng Canh (2001);
Nguyễn Văn Lợi (2002); Nguyễn Văn Nguyên (2003); Trần Trí Dõi (2007),
v.v.…Các nghiên cứu theo hướng này đã chứng minh và cho thấy: phương ngữ
Trung được xem là phương ngữ còn bảo lưu nhiều dấu vết cổ của có liên quan
đến lịch sử Tiếng Việt; đồng thời đã cung cấp một bức tranh khái quát về đặc
điểm ngữ âm, từ vựng của các phương ngữ Trung từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên
Huế; phương pháp nghiên cứu đã có sự kết hợp đồng đại/lịch đại; cảm thụ thính
giác/ thực nghiệm… khá tin cậy… v.v.
 Đối với phương ngữ Bắc: Các tác giả tiêu biểu: Vũ Bá Hùng (1980); Hoàng
Cao Cương (1986); Nguyễn Văn Lợi & J. Edmondson (1997); Trần Thị Thìn (1981);
23
Đinh Lê Thư (1984); Vũ Kim Bảng (2001); Văn Tú Anh (2002); Tạ Thành Tấn (2014);
Nguyễn Tài Thái (2015)…v.v. Mục đích và những kết quả nghiên cứu: 1) PN Bắc được
coi là cơ sở của tiếng Việt văn hóa, do đó trên thực tế chưa được nghiên cứu nhiều; 2)
những công trình nghiên cứu về phương ngữ Bắc, chủ yếu về tiếng Hà Nội, hoặc dựa
trên tư liệu tiếng Hà Nội; 3) giải pháp âm vị học cho hệ thanh điệu tiếng Việt gồm 8
thanh của Hoàng Cao Cương; 4) khái niệm “sinh âm” (Hoàng Cao Cương) hay “chất
giọng” (Nguyễn văn Lợi & A. Edmondson) là một tiêu chí quan trong để khu biệt thanh
điệu tiếng Việt; 5) đã đưa ra một số kiến giải về hiện tượng biến đổi hệ thống phụ âm
đầu trong các phương ngữ miền Bắc (chiều hướng giảm dần) và giải pháp khắc phục một
số lỗi phát âm do ảnh hưởng của thói quen đối với chính tả tiếng Việt hiện nay: hiện
tượng “l/n; ui; ieu”…v.v.
1.2 Các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài
1.2.1 Phương ngữ và các khái niệm liên quan
1.2.1.1 Khái niệm phương ngữ
Phương ngữ (dialect), là một khái niệm mang tính phổ quát. Ngôn ngữ nào
cũng tồn tại các phương ngữ trong cơ tầng của nó. Nói như F. de Saussure, “có bao
nhiêu địa phương thì có bấy nhiêu phương ngữ”. Trong tiếng Việt, phương ngữ
(dialect) còn có những tên gọi khác: phương ngôn hay tiếng địa phương. Khái niệm
này xuất hiện khá nhiều và được các học giả chú ý đến không chỉ trong các công trình
nghiên cứu về ngôn ngữ mà còn cả trong các nghiên cứu về văn hóa, dân tộc học và
xã hội học…v.v.
Các nhà phương ngữ học đều coi Phriđrich Ăngghen (Friedrich Engels) là
người đầu tiên đề cập đến khái niệm phương ngữ. Ông cho rằng: “phương ngữ hay
phương ngôn là biến dạng địa lý (địa phương) của một hệ thống ngôn ngữ đã được
hình thành trong quá trình lịch sử”
Các nhà ngữ pháp trẻ thế kỉ XIX, lại cho rằng, “phương ngữ là một nhánh của
ngôn ngữ toàn dân”. Trên thực tế, PN không phải là một nhánh của ngôn ngữ toàn
dân mà là ngôn ngữ được sử dụng trong một phạm vi, một vùng hay một lãnh thổ
(khu vực địa lý) nhất định. Giữa các ngôn ngữ ở đây có những điểm chung và những
điểm khác biệt.
Chambers J.K. và Peter Trudgill (1998) trong PN học (Dialectology) đã đặt
câu hỏi “Chính xác phương ngữ là gì?” và cho rằng PN đề cập đến các biến thể mang
24
tính ngữ pháp (và cũng có thể là từ vựng) cũng như những khác biệt âm vị học của
các biến thể. Và nhấn mạnh rằng “Phương ngữ học, rõ ràng là việc nghiên cứu về
phương ngữ, tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu tiếng địa phương. Nó là một phần
nhỏ trong một phạm vi nghiên cứu rộng hơn, đó là ngôn ngữ học xã hội. Phương ngữ
đề cập đến các biến thể mang tính ngữ pháp (và cũng có thể là từ vựng) cũng như
các khác biệt âm vị học của các biến thể” [107;5].
Cũng với Haugen (1966), Chambers J.K. và Peter Trudgill cũng cho rằng
“Phương ngữ là những hình thức mộc mạc hay mức độ thấp và không đạt chuẩn ngôn
ngữ, được những tầng lớp thấp hoặc thiếu uy tín trong xã hội sử dụng. Mặt khác,
phương ngữ thường dùng để chỉ các hình thức ngôn ngữ được sử dụng ở các khu vực
hoặc các nơi bị tách rời với các khu vực khác, nó không có hình thức chữ viết. Phương
ngữ được xem là sự lệch chuẩn ngôn ngữ”. Phương ngữ và “giọng” (accent) là như
nhau bởi lẽ phương ngữ và giọng hòa trộn vào nhau và rất khó để tách rời” [109;5].
Theo cách hiểu này, PN bị coi là một hình thức “không chuẩn” hay “dưới chuẩn” và
được những người thuộc tầng lớp thấp sử dụng. Phương ngữ bao gồm cả tiếng nói
của khu vực (địa lý) lẫn tiếng nói của cả các nhóm người khác nhau trong xã hội.
Phương ngữ được xác định chủ yếu là do sự “lệch chuẩn” hay “không chuẩn” của
một ngôn ngữ một vùng, hay khu vực và mặt khác, chính do bản thân người sử dụng
nó.
J. Edward (2009), trong Ngôn ngữ và Tư duy, đưa ra định nghĩa về phương
ngữ: “phương ngữ là các biến thể của ngôn ngữ, trong đó sự khác nhau được thể hiện
ở 3 bình diện là từ vựng, ngữ pháp và cách phát âm (giọng) bởi vì đó là các hình thức
khác nhau của cùng một ngôn ngữ” [115; 63]. Theo ông, sự khác nhau ở bất cứ bình
diện nào của ngôn ngữ đều là phương ngữ.
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống từng địa phương.
Hoàng Thị Châu, trong “Tiếng Việt trên các miền đất nước” (1989) & “Phương ngữ
học tiếng Việt” (2004), đã đưa ra định nghĩa về phương ngữ “Phương ngữ là một
thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương
cụ thể với những nét khác biệt của nó với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ
khác” [16;29]. Tác giả đã nhấn mạnh “phương ngữ là “hiện thực hóa”, là sự “biểu
hiện” của ngôn ngữ toàn dân; đồng thời khẳng định sự tồn tại của những khác biệt
khi so sánh giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân và so với các phương ngữ khác.
25
Võ Xuân Quế (1993), trong Những đặc điểm ngữ âm giọng Nghi lộc (Luận
án tiến sĩ), cũng đã đưa ra định nghĩa về phương ngữ: “Phương ngữ là ngôn ngữ toàn
dân được sử dụng trong một vùng lãnh thổ nhất định với một điểm dân cư; là biến
thể của ngôn ngữ toàn dân ở các vùng lãnh thổ” [82;24].
Nguyễn Tài Thái, trong Đặc điểm ngữ âm tiếng Sơn Tây (Luận án tiến sĩ) đã
cho rằng: “Phương ngữ là những biến thể của ngôn ngữ toàn dân ở các vùng lãnh
thổ khác nhau, nói trong mối quan hệ giữa chúng với nhau và với ngôn ngữ toàn dân,
thể hiện sự phát triển không đồng đều của ngôn ngữ toàn dân trong lịch sử” [86;31].
Trịnh Cẩm Lan, trong “Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến
thủ đô” đưa ra cách hiểu về phương ngữ “Nhìn từ góc độ cấu trúc gọi là phương ngữ
của của một ngôn ngữ khi phương ngữ đó có cùng hệ thống, cấu trúc với ngôn ngữ
như là hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Còn nếu nhìn từ góc độ chức năng thì
phương ngữ là một loại biến thể ngôn ngữ mà các chức năng giao tiếp chịu sự hạn
chế mang tính địa phương và sự phát triển của nó chưa đạt đến mức tiêu chuẩn hóa”
[56;55]…v.v.
Tóm lại, nội hàm khái niệm phương ngữ cần bao chứa những nội dung sau:
a) phương ngữ được dùng trong một phạm vi địa lý, khu vực (lãnh thổ) hoặc một
phạm vi xã hội; b) phương ngữ không hoàn toàn độc lập mà luôn có mối quan hệ với
ngôn ngữ toàn dân, nơi mà nó là biến thể hoặc với các phương ngữ khác; c) chức
năng của phương ngữ, do đó cũng hẹp (về mặt địa lý) hoặc hạn chế (về mặt xã hội)
hơn ngôn ngữ toàn dân; d) sự tồn tại của phương ngữ là do sự phát triển không đồng
đều giữa các vùng khác nhau trong lịch sử.
1.2.1.2 Ngôn ngữ toàn dân, thổ ngữ và biến thể ngôn ngữ
a. Ngôn ngữ toàn dân
Ngôn ngữ toàn dân (NNTD) còn được gọi là ngôn ngữ quốc gia hay ngôn ngữ
dân tộc. Ngôn ngữ toàn dân là ngôn ngữ hành chức trong phạm vi một xã hội được
xác định như một dân tộc, quốc gia.
Ngôn ngữ toàn dân được lưu giữ trong các phương ngữ lãnh thổ, và được một
dân tộc, quốc gia công nhận với tư cách là phương tiện giao tiếp chính thức. Ví dụ,
tiếng Việt ở Việt Nam là phương tiện giao tiếp của mọi người Việt (dân tộc Kinh),
được lưu giữ trong các phương ngữ trên mọi miền đất nước.
26
Ngôn ngữ toàn dân bao gồm ngôn ngữ văn học và các dạng ngôn ngữ có tính
chất trung gian giữa phương ngữ và ngôn ngữ văn học. Các dạng ngôn ngữ trung gian
này vừa có những đặc điểm của phương ngữ vừa mang những đặc điểm của ngôn ngữ
văn học (có người gọi là bán phương ngữ). Chẳng hạn, tiếng Vinh là dạng có tính chất
trung gian vì nó vừa có đặc điểm của phương ngữ Trung vừa có đặc điểm của ngôn
ngữ văn học. Tương tự như vậy, tiếng Huế, tiếng Sài Gòn cũng là những dạng ngôn
ngữ trung gian.
Các ngôn ngữ văn học, phương ngữ, thổ ngữ (biệt ngữ), mặc dù hợp nhất trong
ngôn ngữ toàn dân nhưng chúng lại có những đặc trưng và chức năng xã hội khác
nhau: ngôn ngữ văn học tồn tại ở cả dạng nói và viết, đồng thời có sự chia cắt lãnh
thổ xét về phạm vị sử dụng (việc sử dụng vốn từ địa phương trong các tác phẩm văn
học). Trái lại, các phương ngữ, thổ ngữ chỉ hoạt động ở dạng nói và bao giờ cũng
được định vị trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Vì vậy, các phương ngữ, thổ ngữ
khác với ngôn ngữ văn học là có giới hạn về mặt xã hội “Mỗi một phương ngữ là một
ngôn ngữ nhưng ngược lại một ngôn ngữ không phải là một phương ngữ” (H.
Heghel).
Tuy nhiên, PN cũng như ngôn ngữ văn học đều là phương tiện giao tiếp của
một tập người nhất định và trong quan hệ với ngôn bản. Sự tương hợp giữa nội dung
và hình thức trong phương ngữ cũng như trong ngôn ngữ văn học đều có sự tương
ứng 1:1. Chẳng hạn, một người Nam bộ nói từ “mận” thì người Bắc bộ phải hiểu
“doi”; hay ở một ngữ cảnh nào đó, người Trung bộ nói từ “dì”, người Bắc bộ phải
hiểu “cô, bác”…v.v.
b. Khái niệm thổ ngữ (idiom, patois)
Thổ ngữ (TN) là khái niệm dùng để chỉ “tiếng địa phương ở một khu vực,
phạm vi nhỏ hơn như huyện, xã, thôn” [16; 30]. Sự tồn tại của TN cũng là một thực
tế đối với nhiều ngôn ngữ. Từ góc nhìn ngôn ngữ học địa lý, khác với PN, thổ ngữ là
ngôn ngữ được sử dụng trong một vùng lãnh thổ hẹp hơn. Nói một cách khác, TN là
biến thể của phương ngữ ở những vùng lãnh thổ nhỏ, hẹp.
Ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ có nhiều thổ ngữ,
nhiều nơi mỗi làng là một thổ ngữ. Các thổ ngữ khác nhau nhờ các “biến dạng”.
Nguyên nhân biến dạng, còn tranh luận nhưng có thể do một số nguyên nhân sau: 1)
khả năng lưu giữ các đặc điểm cấu trúc của một ngôn ngữ được thể hiện khác nhau ở
27
các thổ ngữ, khi có điều kiện mới bộc lộ ra; 2) do ảnh hưởng trực tiếp của tình trạng
cát cứ phong kiến mà ngôn ngữ được sử dụng ở các vùng lãnh thổ phát triển những
chiều hướng khác nhau, không đồng đều; 3) do vị trí địa lí, sự giao lưu và tiếp xúc về
chính trị, kinh tế, giao thông, văn hóa… v.v, cũng dẫn đến những biến dạng ngôn ngữ;
4) cũng giống như PN, về mặt ngôn ngữ học, thổ ngữ cũng có hệ ngữ âm, từ vựng và
ngữ pháp riêng như một ngôn ngữ. Do đó, khi nghiên cứu các TN, phương ngữ học
không chỉ giới hạn ở một mặt nào đấy mà nghiên cứu tất cả các mặt vốn có của thổ
ngữ giống như khi miêu tả một ngôn ngữ. Mặt khác, phương ngữ học còn có nhiệm
vụ so sánh, đối chiếu các trạng thái đồng đại của các TN thông qua việc mô tả chúng
để tìm ra xu hướng phát triển của các thổ ngữ và phương ngữ.
Về sự khác nhau giữa các thổ ngữ, L. Bloofield cũng đã từng lý giải: “những
sự khác nhau giữa các lời nói địa phương lân cận thường là rất nhỏ, nhưng có thể
nhận ra được. Những người trong làng sẵn sàng cho ta biết ngôn ngữ của làng bên
cạnh khác ngôn ngữ của họ ở chỗ nào và thường đùa bỡn những người ở làng bên về
những điểm đặc thù này”…v.v. Đối với trường hợp tiếng Việt, theo Hoàng Thị Châu
“thổ ngữ là biến thể địa phương của tiếng Việt thống nhất cũng như xã, thôn là một
bộ phận của quốc gia thống nhất” [16; 240]. Hay, Vương Toàn cho rằng: “đối với
tiếng Việt, phương ngữ lãnh thổ là những biến thể địa lý khu vực của nó. Bên trong
mỗi phương ngữ lại có những thổ ngữ, là những biến thể của phương ngữ ở khu vực
địa lý hẹp hơn (như tỉnh, huyện, hoặc làng)” [96; 275].
Từ góc nhìn ngôn ngữ học xã hội, Ronald Wardhaugh (2010), trong “Dẫn luận
ngôn ngữ học xã hội” (An Introduction to Sociolinguistics), khi phân biệt khái niệm
phương ngữ (dialect) và khái niệm thổ ngữ (patois) đã cho rằng: “Thổ ngữ thường chỉ
được sử dụng để nói về hình thái nông thôn của ngôn ngữ. Chúng ta có thể nói về
phương ngữ thành thị (urban dialect), nhưng để nói thổ ngữ thành thị (urban patois)
thì có vẻ khá lạ. Thổ ngữ dường như chỉ dùng để nói về ngôn ngữ của các tầng lớp
thấp trong xã hội, do đó, chỉ có thể nói về phương ngữ của tầng lớp trung lưu nhưng
không thể nói về thổ ngữ của tầng lớp này” [126; 4]. Cuối cùng, tác giả khẳng định:
“Phương ngữ có sự phân bố về mặt địa lí rộng hơn thổ ngữ, như vậy, phương ngữ
thuộc về khu vực (regional dialect) còn thổ ngữ thuộc phạm vi hẹp hơn, đó là làng
(village patois)”. Theo cách hiểu này, PN và thổ ngữ phân biệt nhau trước hết ở phạm
vi sử dụng và thứ hai, phụ thuộc vào đặc trưng của từng tầng lớp xã hội.
28
Như vậy, sự phân bố của thổ ngữ là ở các khu vực hẹp. “Thổ ngữ là biến thể
địa phương của tiếng Việt thống nhất. Bên trong mỗi phương ngữ lại có những thổ
ngữ là biến thể của phương ngữ ở khu vực địa lí hẹp hơn. Tuy nhiên, việc nhận diện
phương ngữ hay thổ ngữ không đơn thuần dựa vào ranh giới địa lí, bởi lẽ, ngay trong
một khu vực địa lí hẹp như thôn, làng, xã đôi khi có nhiều tiếng nói khác nhau. Do
vậy, việc xác định thổ ngữ cần dựa vào những đặc điểm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp
riêng như một ngôn ngữ của một khu vực địa lí hẹp. Nói cách khác, thổ ngữ là “biến
thể” của phương ngữ ở những vùng lãnh thổ hẹp. Các thổ ngữ khác nhau nhờ các biến
dạng.
c. Biến thể và biến thể ngôn ngữ
Nghiên cứu PN, thực chất là việc tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ riêng của
phương ngữ trong so sánh với ngôn ngữ toàn dân và miêu tả chúng với tư cách là các
biến thể. Theo Từ điển Ngôn ngữ học và Ngữ âm học (A Dictionary of Languistics
and Phonetics), biến thể được định nghĩa là “một thuật ngữ dùng để chỉ một hình thức
ngôn ngữ được lựa chọn dung trong một bối cảnh cụ thể. Đó là loại ngôn ngữ “đặc
biệt” được dùng trong phương ngữ”. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ
học”, Nguyễn Như Ý, giải thích rằng: “biến thể là sự thể hiện cụ thể ở các vị trí khác
nhau trong chuỗi lời nói nhưng về bản chất cùng thuộc về một đơn vị ngôn ngữ”. Từ
điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, định nghĩa về biến thể: “thể đã biến đổi ít nhiều so
với thể gốc” …v.v.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng, biến thể ngôn ngữ thực chất là một đơn vị
nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội và nhấn mạnh rằng, chỉ có ngôn ngữ học xã hội
mới quan tâm đến việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ. Những nghiên cứu về việc sử
dụng các biến thể [r], [th] trong các tầng lớp xã hội ở New York của Labov (1966);
các biến thể của [n], [t], [h] ở Norwich của Trudgill (1974); các biến thể của [th] và
[d] ở cuối các từ “path”, “word” ở các tầng lớp xã hội tại Detroit của Wolfram (1974);
các biến thể của 5 thanh điệu, các phụ âm uốn lưỡi và hai vần [ưu] và [ươu] của cộng
đồng cư dân Nghệ Tĩnh ở Hà Nội của Trịnh Cẩm Lan (2007); biến thể của [dz] khi
thể hiện các từ “gia” (gia đình); “giá” (giá trị) của một số người có tuổi ở Hà Nội để
chứng tỏ là người Hà Nội “gốc” …v.v, là những nghiên cứu tiêu biểu cho nghiên cứu
biến thể của ngôn ngữ.
29
Tuy nhiên, trong nghiên cứu PN, từ góc nhìn phương ngữ học địa lý (lãnh thổ)
việc chỉ ra các biến thể ngôn ngữ ở các phương ngữ, thổ ngữ, đặc ngữ ở những vùng,
miền khác nhau so với hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt toàn dân trên cơ sở các bộ phận
cấu thành của chúng (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) cũng là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng. Về vấn đề này, Hoàng Thị Châu cho rằng: “Nếu ta nghiên cứu một phương
ngữ như một ngôn ngữ, tức là không đặt nó đối lập với các phương ngữ khác, không
xem nó là biến thể của ngôn ngữ toàn dân, thì công trình đó, dù là miêu tả hay lịch
sử cũng không phải là một công trình phương ngữ học” [16; 31].
Như vậy, “trong hoạt động hành chức, với tư cách là một công cụ giao tiếp,
các cá nhân vận dụng khả năng ngôn ngữ của mình để thực hiện các hành vi giao
tiếp. Thực tế của quá trình giao tiếp, các cá nhân sử dụng ngôn ngữ cũng chính là
việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ. Các biến thể này có thể là biến thể địa lý (phương
ngữ địa lý – đối với các cá nhân ở các khu vực địa lý khác nhau) hoặc cũng có thể là
các biến thể xã hội (phương ngữ xã hội – đối với các cá nhân thuộc các nhóm xã hội
khác nhau)” [16]. Do đó, biến thể ngôn ngữ, hiểu một cách đầy đủ dưới góc nhìn của
phương ngữ học chính là việc thể hiện khác nhau của các đơn vị ngôn ngữ như ngữ
âm, từ vựng, ngữ pháp… của mỗi cá nhân.
“Biến thể (variety) ngôn ngữ có thể được hiểu là các hình thức tồn tại và biến
đổi của ngôn ngữ. Nói cách khác, đó là hình thức biểu hiện của ngôn ngữ được sử
dụng phổ biến trong hoàn cảnh xã hội giống nhau với các đặc trưng xã hội giống
nhau” [54;37].
Biến thể ngôn ngữ thường được phân thành hai loại: biến thể chuẩn (hay tiêu
chuẩn) và biến thể phi chuẩn (hay phi tiêu chuẩn) do biến thể ngôn ngữ mang đặc
trưng đa dạng, tùy thuộc vào mỗi cá nhân cũng như cộng động sử dụng ngôn ngữ; có
vai trò, vị trí khác nhau trong mỗi cộng đồng. Biến thể chuẩn thường gắn với một PN
khu vực có ảnh hưởng nhiều mặt đến toàn xã hội và thường đó là biến thể ngôn ngữ
có uy tín xã hội cao. Nó có thể trở thành công cụ giao tiếp chính thức của toàn cộng
đồng, toàn xã hội. Thông thường, người ta thường dựa trên một số cơ sở để thừa nhận
và lựa chọn một biến thể ngôn ngữ nào đó được coi là biến thể chuẩn. Có thể đó là
biến thể ngôn ngữ của một khu vực trung tâm về chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…,
của một quốc gia; có thể đó là biến thể ngôn ngữ của một vùng lãnh thổ có ảnh hưởng
lớn, quan trọng và quyết định đến sự phát triển mọi mặt của toàn xã hội…v.v. Chẳng
30
hạn, tiếng Hà Nội với vị thế thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước,
có thể được coi là biến thể chuẩn của tiếng Việt, là tiếng “phổ thông” hay “giọng
chuẩn” mặc dù trên thực tế, xét về cơ cấu ngôn ngữ học, giọng Hà Nội vẫn tồn tại
những bất cập và chưa phản ánh đầy đủ những đặc trưng của chữ quốc ngữ. Khác với
biến thể chuẩn, biến thể phi chuẩn thường là loại biến thể không mang tính phổ biến,
có địa vị và chức năng xã hội thấp hơn. Biến thể phi chuẩn thường gắn với một phạm
vi, khu vực hẹp.
1.3 Các hướng tiếp cận nghiên cứu phương ngữ hiện nay
Theo Hoàng Thị Châu “Ngôn ngữ thông thường được xét trên 2 chiều là thời
gian (lịch sử) và chiều không gian. Hai chiều này có quan hệ với nhau. Nhưng ngôn
ngữ với tư cách là công cụ giao tiếp quan trọng nhất giữa người với người, nó còn có
chiều thứ ba, phản ánh mặt xã hội nữa, phản ánh sự phân chia xã hội thành tầng lớp, nghề
nghiệp, môi trường sinh hoạt…” [14; 3].
1.3.1 Ở chiều thứ nhất, theo thời gian, phương ngữ học được tiếp cận với
mục tiêu chủ yếu là cung cấp cứ liệu (minh chứng) về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp
hiện còn được lưu giữ trong các phương ngữ, thổ ngữ cho ngôn ngữ học lịch sử.
“Người ta nói hai hay nhiều ngôn ngữ cùng một họ hay một hệ thân thuộc gọi là ngữ
tộc khi ta có thể chứng minh được rằng đằng sau các mã của các ngôn ngữ còn có
một cái mã chung cho tất cả các ngôn ngữ này, cái mã ấy rất rõ ràng, hiển nhiên đến
nỗi ta có thể phục hồi lại toàn bộ. Rồi căn cứ vào cái mã chung này mà ta quyết định
là các ngôn ngữ này đều là phát triển từ một ngôn ngữ chung, gọi là ngôn ngữ mẹ và
dĩ nhiên ngôn ngữ này hiện nay đã mất…” . Bằng phương pháp so sánh lịch sử, người
ta có thể phục nguyên: a) từng từ một; b) phổ hệ của các ngôn ngữ cách đây hàng
nghìn năm; c) có thể đoán định cái tộc người nói ngôn ngữ đó sống như thế nào, văn
hóa vật chất và tinh thần của họ ra sao; c) góp phần vào việc lý giải những vấn đề lịch
sử hiện còn tranh cãi, trả lại cho mỗi tộc người cái phần cống hiến của họ trong trường
kỳ lịch sử mà chính họ cũng không biết đến. Chẳng hạn, với trường hợp tiếng Việt,
ta có thể so sánh với tiếng Mường và phát hiện ra cái mã chung giữa hai ngôn ngữ,
gọi là tiếng Việt – Mường chung. Sau đó, so sánh tiếng Việt – Mường chung với
những tiếng Chứt, tiếng Poọng để phục nguyên lại ngôn ngữ tiền Việt – Mường, bao
gồm cả tiếng nói của người Việt, người Mường, người Chứt, người Poọng hiện nay
vào khoảng thời gian đầu công nguyên. Rồi đi ngược lên đến cái thời người Bahnar
31
và nhiều dân tộc trên Trường Sơn nói chung một thứ tiếng để cuối cùng với phương
pháp so sánh lịch sử, phục nguyên và xây dựng nên mô hình của ngữ hệ Nam – Á cổ
xưa.
1.3.2 Ở chiều thứ hai, còn gọi là ngôn ngữ học địa lý (hay PN học địa lý).
Phương ngữ học có nhiệm vụ khảo sát cách biểu hiện của ngôn ngữ (trên các địa hạt:
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp toàn dân dưới hình thức các biến thể địa phương của
chúng. Nói cách khác, ở chiều thứ hai, phương ngữ học xác định xem những sự khác
nhau (hay biến thể) này đụng chạm đến cái mã ngôn ngữ chung (ngôn ngữ toàn dân)
đến mức độ nào. Phân chia các vùng PN rồi vẽ bản đồ PN dựa trên cơ sở có chung
một số hiện tượng ngữ âm, từ vựng,… cũng là một nhiệm vụ quan trọng của ngôn
ngữ học – địa lý.
Điều tra, khảo sát, phân tích trên cơ sở so sánh đối chiếu sự tương đồng và
những khác biệt (gọi là các biến thể) về các mặt thuộc cơ cấu ngôn ngữ là một trong
những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của phương ngữ học theo hướng ngôn ngữ
học địa lý. Không kể những sự khác nhau về từ vựng trong các PN do tiếp xúc với
những ngôn ngữ lân cận, hầu hết những biến đổi về hình thức trong phương ngữ đều
xuất phát từ sự biến đổi ngữ âm học và âm vị học. “Biến đổi ngữ âm là sự biến đổi
xảy ra đồng loạt trong mọi từ có âm ấy không trừ một ngoại lệ nào. Còn biến đổi âm
vị học là âm vị mới đến thay thế cho âm vị cũ lần lượt hết từ này sang từ khác”
[16;24]. Chẳng hạn, ở Thanh Hóa, người ta nói “chị” là “chậy” mà cả hai cách nói
này đối với bản thân họ đều có giá trị ngang nhau thì lúc đó có thể coi [ei] là biến thể
ngữ âm của [i] trong phương ngữ Thanh Hóa. Nhưng đối với các PN khác, phương
ngữ Hà Nội chẳng hạn thì “chị” và “chậy” là hai từ khác nhau không phải là biến thể
của nhau.
Các biến thể ngữ âm có thể xuất hiện trong những bối cảnh ngữ âm khác nhau:
trong thế phân bố bổ túc/ không trong thế phân bố bổ túc, biến đổi mang tính chất
đều đặn, nhất loạt/biến đổi không đều đặn, nhất loạt, …v.v. Cụ thể, hiện tượng biến
đổi của hai phụ âm cuối /- ŋ ; - k/ phân bố sau các nguyên âm dòng trước thành [- nh;
-ch], sau các nguyên âm dòng giữa thành [- ng, - k] và sau các nguyên âm tròn môi
dòng sau thành [-ngm
, -kp
] ở phương ngữ Bắc bộ được coi là những biến đổi ngữ âm
trong thế phân bố bổ túc; còn sự biến đổi [l/n] là những biến đổi không ở trong thế
phân bố bổ túc. Hiện tượng biến đổi từ [s --> x; r --> z; tr --> ch] xuất hiện hầu khắp
32
đồng bằng Bắc bộ có tính chất đều đặn, có quy luật, bắt gặp ở tất cả các từ mang âm
vị này, không loại trừ một từ nào được xác định là những biến đổi mang tính chất đều
đặn, nhất loạt. Còn các hiện tượng biến đổi mang tính không đều đặn, không nhất loạt
là trường hợp chỉ thấy xuất hiện ở những từ này mà không xuất hiện ở trong những
từ khác (cùng bối cảnh ngữ âm), như [-ă-] --> [-â-]: “tằm” --> “tầm”; “màu” -->
“mầu”; “thày” --> “thầy”; “ cày” --> “cầy”; “bảy” --> “bẩy”, …v.v trong đối sánh
những từ khác cùng bối cảnh ngữ âm thì không thấy biến đổi, như “cau - câu”; “sau
– sâu”; “may – mây”,…v.v, chúng là những từ khác nhau.
Hướng nghiên cứu ngôn ngữ học địa lý được các nhà phương ngữ học tiếp cận
khá sớm. Tiêu chí (hay cơ sở) phân vùng các phương ngữ theo cách tiếp cận ngôn
ngữ học địa lý, chủ yếu dựa trên những đặc điểm tương đồng và dị biệt về ngữ âm,
từ vựng (ngôn ngữ) và ranh giới lãnh thổ (địa lý) để xác lập các vùng phương ngữ.
Đối với trường hợp tiếng Việt, Hoàng Thị Châu đã vạch ra đường phân giới thành ba
vùng phương ngữ chính: a) phương ngữ Bắc: gồm các tỉnh Bắc bộ đến ranh giới tỉnh
Thanh Hóa; b) phương ngữ Trung: gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân; và
c) phương ngữ Nam: gồm các tỉnh từ đèo Hải Vân trở vào
Trong mỗi vùng PN, cũng căn cứ trên cơ sở khác biệt về ngữ âm, lại có thể
phân thành các tiểu vùng PN, cùng với các thổ ngữ, biệt ngữ… Các nghiên cứu
phương ngữ theo cách tiếp cận ngôn ngữ học địa lý có đặc điểm: a) các nhà nghiên
cứu thường căn cứ vào mặt không gian, ranh giới lãnh thổ để xác định, phân vùng
phương ngữ; b) các biến thể địa phương, khu vực chủ yếu được tìm hiểu, xem xét, và
miêu tả theo cấu trúc luận; c) tập trung miêu tả các đặc điểm ngôn ngữ, như ngữ âm,
từ vựng và ngữ pháp của các phương ngữ, thổ ngữ; d) đặc điểm của các phương ngữ,
thổ ngữ được miêu tả chi tiết trong đối lập, đối sánh với ngôn ngữ toàn dân (tiếng phổ
thông), do đó mới dừng lại ở trạng thái tĩnh, nghĩa là miêu tả đặc điểm ngôn ngữ trong
nội tại bản thân nó.
1.3.3 Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ ba (mặt xã hội) là đối tượng của
ngôn ngữ học xã hội (hay phương ngữ học xã hội). Theo Hoàng Thị Châu [16], có
bốn cơ sở cho việc hình thành phương ngữ học xã hội. Một là, “ở trong một nước, ta
thấy có sự phân chia giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ nhân dân, trong đó cái thứ
nhất có thể có nguồn gốc ngoại lai hay là một ngôn ngữ cổ, còn cái thứ hai là ngôn
ngữ sinh động của quần chúng”. Hai là, “có sự phân chia thành ngôn ngữ văn học và
33
ngôn ngữ hàng ngày”, một bên là ngôn ngữ được trau chuốt, có quá trình phát triển
gắn với quá trình chuẩn hóa với một bên là cách nói năng tự nhiên, chủ yếu trong sinh
hoạt hàng ngày. Ba là, “có sự phân chia rất quan trọng giữa phương ngữ thành thị
với phương ngữ nông thôn, phương ngữ thành thị thường tiến bộ hơn và góp phần
vào việc đẩy mạnh quá trình thống nhất ngôn ngữ; còn phương ngữ nông thông bảo
thủ hơn, trong đó chứa đựng nhiều dấu vết của những từ, những hình thái cổ”. Và
bốn là, “có sự khác nhau trong cách nói năng của những người làm nghề khác nhau
như công nhân, nông dân, học sinh, người buôn bán, các nhà khoa học,…v.v”.
Bên cạnh các PN xã hội còn tồn tại các biệt ngữ (jargon) và tiếng lóng (argot).
Biệt ngữ “là lối nói đặc biệt của một số tầng lớp trong xã hội: giai cấp quý tộc do cố
ý nói cho cầu kỳ, đài các để tự phân biệt với người dân thường; học sinh, quân nhân
do môi trường sinh hoạt tập thể cũng có cách nói riêng biệt của mình,…v.v.”. Tiếng
lóng là loại ngôn ngữ tạo ra cốt nói chỉ cho một nhóm người biết. Cả biệt ngữ và tiếng
lóng đều có mục đích nhằm che đậy những việc làm không muốn cho những người
ngoài nhóm của mình biết cho nên tất cả những từ gì có thể khiến người ta phỏng
đoán được nội dung của công việc đều bị thay thế. Do đó, tiếng lóng chủ yếu là ngôn
ngữ của những người thuộc các nhóm xã hội làm nghề phi pháp, bất lương, bị xã hội
cấm đoán, như cờ bạc, buôn lậu, ăn cắp, ăn trộm,…v.v.
1.3.4 Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ tư là hướng tiếp cận phương ngữ
từ khu vực học. Các học giả và các nhà nghiên cứu PN học nhận thấy rằng, trong suốt
nhiều thập kỷ, sự phát triển của ngôn ngữ học chủ yếu được đánh dấu bằng những
nghiên cứu chuyên ngành (đơn ngành) đi sâu khảo sát những đặc điểm về cơ cấu ngôn
ngữ trên các bình diện, các cấp độ, các đơn vị ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp với mục
tiêu nghiên cứu “cho ngôn ngữ” và vì ngôn ngữ, ở một ý nghĩa nào đó, nó tách biệt
hoàn toàn với môi trường tồn tại thực tế của nó.
Tuy vậy, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học, trào lưu nghiên cứu liên
ngành kết hợp giữa nghiên cứu ngôn ngữ học với một ngành khoa học khác nhằm
nghiên cứu ngôn ngữ trong những mối quan hệ đa diện, phong phú đang ngày càng
phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học
tâm lý, ngôn ngữ dân tộc học, ngôn ngữ học địa lý….v.v, là những bộ môn ra đời do
kết quả của khuynh hướng liên ngành trên nhằm nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ
34
mang tính xã hội, tính tâm lý, tính dân tộc…, hoặc sự biến đổi của ngôn ngữ dưới tác
động của các yếu tố đó.
Đối với nghiên cứu khu vực học, nghiên cứu ngôn ngữ giữ một vị trí, vai trò
đáng kể. Với ba nhiệm vụ cơ bản đối với việc nghiên cứu khu vực trên, nghiên cứu
ngôn ngữ học với những chuyên ngành của nó đã và đang có những đóng góp quan
trọng trong việc hình thành một bức tranh tổng thể về một khu vực hoàn chỉnh với tất
cả các yếu tố cấu thành của nó.
a. Với tư cách là một ngành khoa học mang tính liên ngành điển hình, khu vực
học chọn một vùng lãnh thổ làm đối tượng nghiên cứu từ nhiều góc độ: kinh tế, văn
hóa, xã hội, tôn giáo, địa lý, lịch sử,… trong mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau.
Ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp, là một bộ phận cấu thành không thể
thiếu của mọi cộng đồng dân cư, do vậy cũng trở thành một đối tượng không thể thiếu
trong khu vực học. Nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ khu vực học là một nghiên cứu
mang tính liên ngành với ba nhiệm vụ cơ bản: 1) nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
tình hình sử dụng ngôn ngữ của khu vực đó, nghiên cứu quan hệ và tác dụng tương
hỗ giữa ngôn ngữ và sự phát triển của xã hội như ngôn ngữ và dân tộc, chính sách
ngôn ngữ, qui hoạch ngôn ngữ, kế hoạch hóa ngôn ngữ…; 2) nghiên cứu nhằm miêu
tả diện mạo ngôn ngữ (ở dạng tĩnh) của khu vực đó một cách toàn diện trên mọi bình
diện, cấp độ…; 3) nghiên cứu ngôn ngữ với chức năng là công cụ giao tiếp của cộng
đồng, xem xét mối quan hệ và tác động của những đặc trưng xã hội, tâm lý người sử
dụng nhằm miêu tả tình trạng hoạt động ngôn ngữ của cộng đồng sống trong khu vực
đó…
b. Do tính giao động linh hoạt của khái niệm “khu vực” mà các vấn đề đặt ra
không hoàn toàn như nhau. Trong phương ngữ học, một ngành khoa học ngôn ngữ
chọn khu vực hay vùng lãnh thổ được khu biệt về mặt địa lý làm đối tượng nghiên
cứu, khái niệm “vùng lãnh thổ” hay “vùng địa lý có thể biểu thị một vùng rộng lớn
với những ranh giới địa lý có tính tương đối (ví dụ PNTV có thể chia thành ba vùng
lớn: PN Bắc, PN Trung và PN Nam), nhưng cũng có thể là những khu vực trùng với
sự phân chia về địa giới hành chính (phương ngữ Nghệ Tĩnh, phương ngữ Thanh Hóa,
phương ngữ Bình Trị Thiên,…). Có một số trường hợp, thay vì thuật ngữ “phương
ngữ”, người ta đã sử dụng một thuật ngữ khác với nội hàm tương đương “tiếng” như
tiếng Hà Nội, tiếng Sài Gòn, tiếng Huế, tiếng Sơn Tây…, mặc dù chúng cũng chỉ là
35
những biến thể địa lý của một ngôn ngữ chung. Cũng có khi biến thể ngôn ngữ của
một vùng lãnh thổ hẹp như một làng, một xã hay một huyện (thổ ngữ Nghi Lộc, thổ
ngữ Hội An,…v.v.).
Theo Hoàng Thị Châu, sự ra đời của các PN là kết quả của hai tác động chính:
“tác động bên trong từ cấu trúc ngôn ngữ do sự thay đổi trong hoạt động giao tiếp
của cộng đồng, và tác động bên ngoài, do lịch sử phát triển của ngôn ngữ ánh xạ lên
sự phân bố về địa lý. Ngoài ra, còn do một tác động thứ ba, đó là tác động của những
nhân tố xã hội như thể chế chính trị, kinh tế văn hóa, giáo dục…” [16; 240]. Do vậy,
bản thân phương ngữ học mang tính liên ngành rất cao bởi cùng một lúc, nó phải tiếp
cận với rất nhiều hiện tượng. Một người nghiên cứu phương ngữ học, bên cạnh các
kiến thức về cấu trúc ngôn ngữ học còn cần phải trang bị các kiến thức về địa lý, dân
tộc, lịch sử, văn hóa… của vùng địa phương được khảo sát. Các kiến thức đó sẽ giúp
cho việc khảo sát, nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc ngôn ngữ của vùng PN đó.
c. Bên cạnh những nghiên cứu về trạng thái tồn tại tĩnh của ngôn ngữ, phương
ngữ và về cảnh huống ngôn ngữ, phương ngữ của một khu vực; nghiên cứu sự lựa
chọn ngôn ngữ ở cấp độ hành vi cá nhân theo sự phân tầng xã hội cũng là một nhiệm
vụ không thể thiếu trong nghiên cứu khu vực. Mỗi khu vực, dù là một quốc gia độc
lập, hay một tỉnh, một huyện, một làng đều được cấu thành bởi những con người –
chủ nhân chính của các vùng lãnh thổ đó. Đây không phải là những cộng đồng thuần
nhất mà một cách tự nhiên, luôn được phân thành nhóm theo những tiêu chí về tầng
lớp xã hội, trình độ văn hóa, lứa tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, giới tính…. Những sự
khác biệt này đều để lại dấu ấn trong việc lựa chọn ngôn ngữ hoặc biến thể ngôn ngữ
với tư cách là công cụ giao tiếp, công cụ thể hiện tư tưởng, tình cảm hoặc công cụ
“có tính biểu trưng” nhằm xác định địa vị, tầng lớp xã hội của bản thân người sử
dụng. Vấn đề này đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ
trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Các công trình nghiên cứu của các
nhà ngôn ngữ học Trung Quốc “khảo sát sự phân tầng xã hội thông qua việc sử dụng
các từ xưng gọi chỉ quan hệ thân thuộc và không thân thuộc”; nghiên cứu của W.
Labov “khảo sát đặc trưng phát âm của người Mỹ da đen ở New York”; nghiên cứu
của R. Lakoff về “sự phân biệt đối xử giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ”… v.v; hay
ở Việt Nam, nghiên cứu về “quan hệ giao tiếp giữa các thế hệ trong gia đình trung
lưu ở một số quận của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội” (nhóm nghiên cứu của
36
Viện Ngôn ngữ học & Lương Văn Hy); “miêu tả về sự khác biệt trong sử dụng ngôn
từ của nam và nữ”; “đặc trưng ngôn ngữ của trẻ em tuổi tiền học đường ở thôn Hoài
Thị (Bắc Ninh), Khánh Hậu (Long An); “nghiên cứu về sử dụng các biến thể [l] hay
[n] ở thôn Bịu Sim (Bắc Ninh)”, [54;43]… luôn được coi là những công trình tiêu
biểu cho hướng nghiên cứu này.
1.4. Cơ sở nhận diện, miêu tả phương ngữ, thổ ngữ
Để nhận diện một phương ngữ, người ta thường không chỉ dựa vào những tiêu
chí thuộc về cấu trúc của ngôn ngữ mà còn dựa vào cả những tiêu chí ngoài ngôn
ngữ. Đối với trường hợp tiếng Việt, mặc dù còn sử dụng những thuật ngữ khác
nhau như trên đã đề cập, song nhìn chung, nội dung khái niệm, cơ sở nhận diện và
nội dung miêu tả cơ cấu “phương ngữ” trong tiếng Việt được các nhà Việt ngữ học
quan niệm một cách tương đối thống nhất.
1.4.1 Ngữ âm học (phonetics)
Ngữ âm học là khoa học nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ; cơ chế tạo
ra âm thanh và bản chất (hay đặc trưng) tiếng nói của con người. Âm thanh của ngôn
ngữ cũng như âm thanh trong thế giới tự nhiên, về bản chất đều tồn tại dưới dạng
những sóng âm được truyền trong môi trường nhất định và môi trường đó thường là
không khí. Nhưng khác với âm thanh khác trong tự nhiên, âm thanh ngôn ngữ được
tạo thành do sự rung động của dây thanh và sự hoạt động của các khí quan khác thuộc
bộ máy cấu âm con người. Mặt khác, âm thanh của ngôn ngữ chỉ là những chấn động
tạo sóng âm mà bộ máy thính giác của con người có thể cảm được. Những chấn động
tạo sóng âm mà tai con người không nghe được không thuộc âm thanh của ngôn ngữ.
Do đó, khi miêu tả âm thanh của ngôn ngữ nói chung, các phương ngữ, thổ
ngữ của một ngôn ngữ nói riêng (ở đây là trường hợp tiếng Việt), người ta miêu tả
các yếu tố ngữ âm về mặt vật lý (tức âm học), mặt sinh lý (tức cấu âm) và cả mặt xã
hội (bình diện chức năng). “Mặt thứ nhất nhằm giải thích những sự khác biệt của ngữ
âm đối với sự cảm thụ. Mặt thứ hai nhằm thuyết minh những sự khu biệt xét về nguồn
gốc cấu tạo. Với sự trợ lực của máy móc ngày nay, người ta có thể miêu tả các yếu
tố ngữ âm khá chính xác về cả hai mặt” [92; 26]. Nói cách khác, ngữ âm học (theo
nghĩa hẹp) tập trung nghiên cứu, tìm hiểu mặt tự nhiên của âm thanh còn âm vị học
hướng đến mặt xã hội của cùng một đối tượng.
37
1.4.1.1 Nghiên cứu và tìm hiểu cách thức hoạt động của bộ máy cấu âm con
người để tạo ra âm thanh của ngôn ngữ, của lời nói là đối tượng, nhiệm vụ của phân
ngành Ngữ âm học cấu âm (Articulatory Phonetics). Âm thanh của con người được
cấu tạo và phát ra do sự hoạt động của bộ máy cấu âm. Bộ máy cấu âm con người
gồm ba bộ phận chính: cơ quan hô hấp (gồm phổi và hai lá phổi); thanh hầu (gồm
thanh môn và hai dây thanh) và các khoang cộng hưởng phía trên thanh hầu (gồm
khoang yết hầu, khoang miệng, khoang mũi). Cơ quan hô hấp có vai trò tạo ra năng
lượng (hay còn gọi là luồng hơi); thanh hầu, nhất là hai dây thanh dưới tác động của
luồng hơi, tùy theo mức độ chấn động khác nhau tạo ra các sóng âm; còn các khoang
cộng hưởng phía trên thanh hầu có vai trò như những cộng minh trường. Riêng
khoang yết hầu và miệng do hoạt động của lưỡi và môi mà có thể thay đổi về thể tích,
hình dáng và lối thoát của không khí, tức những nhân tố quyết định khả năng cộng
hưởng và làm biến đổi âm sắc của âm thanh khi đi qua chúng.
Do vậy, khi tìm hiểu đặc trưng âm thanh từ cơ sở sinh lý cấu âm, người ta chú
trọng vào việc tìm hiểu vai trò của các cơ quan cấu âm tham gia vào quá trình cấu tạo
âm thanh. Đặc biệt là hoạt động cụ thể của các yếu tố, bộ phận trong mỗi cơ quan cấu
âm để từ đó có cơ sở xác định về mặt phương thức cũng như vị trí cấu âm của âm
thanh. Chẳng hạn, về cơ chế tạo luồng hơi, xem xét âm thanh được cấu tạo từ những
cơ chế luồng hơi (LH) nào: LH từ phổi (lung), LH từ thanh hầu (glottalic), LH từ mạc
(velaric), thậm chí xem xét cả mối quan hệ giữa cơ chế hoạt động của LH với môi
trường không khí bên ngoài,… Về phương thức tạo âm thanh, căn cứ vào cách thức
hoạt động của hai dây thanh sẽ cho các cách thức cấu tạo âm thanh khác nhau. “Theo
quan điểm của John Clark và Colin Yallop; Gordon và Ladefoget, về cơ bản các ngôn
ngữ trên thế giới sử dụng 5 thức tạo thanh khác nhau: vô thanh (voicelessness), hữu
thanh (voice), thở (breathy), thường (modal) và kẹt thanh (creaky). Đây là cơ sở để
tạo ra các chất giọng như: chất giọng thường (gồm cả vô thanh và hữu thanh), chất
giọng thở, chất giọng kẹt thanh (thanh quản hóa)”. [dẫn theo [86]), …v.v.
1.4.1.2 Nghiên cứu và tìm hiểu những đặc trưng vật lý (mặt âm học) của âm
thanh là đối tượng, nhiệm vụ của phân ngành Ngữ âm học âm học (Acoustic
Phonetics). Âm thanh ngôn ngữ được tạo thành trước hết là do sự chấn động tạo sóng
âm. Các âm thanh ngôn ngữ được tạo ra phân biệt nhau bởi những đặc trưng âm học:
độ cao (cao độ), độ mạnh (cường độ), độ dài (trường độ) và âm sắc,… v.v.
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY
Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY

More Related Content

What's hot

Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnMan_Ebook
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX nataliej4
 
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...nataliej4
 
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...https://www.facebook.com/garmentspace
 

What's hot (20)

Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt namLuận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
Luận văn: Văn hóa tâm linh trong truyện ngắn, tiểu thuyết việt nam
 
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt NamLuận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
Luận án: Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam
 
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hửLuận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
Luận văn: Phương thức biểu hiện nhân vật anh hùng trong thủy hử
 
Văn chính luận Hồ Chí Minh từ góc nhìn phân tích diễn ngôn, HAY
Văn chính luận Hồ Chí Minh từ góc nhìn phân tích diễn ngôn, HAYVăn chính luận Hồ Chí Minh từ góc nhìn phân tích diễn ngôn, HAY
Văn chính luận Hồ Chí Minh từ góc nhìn phân tích diễn ngôn, HAY
 
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đLuận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
Luận văn: Đặc điểm truyện ngắn Lưu Trọng Lư, HAY, 9đ
 
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt NamLuận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
Luận văn: Vấn đề bản chất và đặc trưng của văn học Việt Nam
 
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết ThiệnSự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ 1986 đến nay, Trần Viết Thiện
 
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt NamLuận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
Luận án: Ba mô hình truyện lịch sử trong văn xuôi hiện đại Việt Nam
 
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đLuận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
Luận văn: Biểu tượng nước và đá trong thơ Hồ Xuân Hương, 9đ
 
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC NGA THẾ KỶ XIX
 
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...
TIỂU THUYẾT VÀ HỒI KÍ TÔ HOÀI SAU 1945 DƯỚI GÓC NHÌN THỂ LOẠI. LUẬN ÁN TIẾN S...
 
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAYLuận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
Luận văn: Dấu ấn văn hóa trong truyện ngắn Quế Hương, HAY
 
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
Bước đầu hình thành kỹ năng tạo lập văn bản đa phương thức bằng megastory cho...
 
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đLuận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
Luận văn: Nét đẹp nhân văn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, 9đ
 
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAYLuận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
Luận án: Tiểu thuyết Việt Nam từ góc nhìn phê bình sinh thái, HAY
 
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoáLuận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
Luận văn: Yếu tố phong tục trong truyện cổ tích người Việt từ góc nhìn văn hoá
 
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAYLuận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
Luận văn: Truyện ngắn Nguyễn Dậu dưới góc nhìn văn hóa, HAY
 
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đLuận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
Luận văn: Truyện Nôm trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, 9đ
 
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung BộLuận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
 
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế HươngLuận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
Luận văn: Yếu tố trữ tình trong truyện ngắn Trần Thùy Mai và Quế Hương
 

Similar to Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY

Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...
Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...
Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...https://www.facebook.com/garmentspace
 
Lythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatLythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatDuy Vọng
 
Lythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatLythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatDuy Vọng
 
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAY
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAYLuận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAY
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) nataliej4
 

Similar to Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY (20)

Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...
Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...
Th s17.016 đặc điểm của các địa danh thuộc huyện võ nhai (thái nguyên) từ góc...
 
Luận văn: Dạy học kỹ thuật legato cho giọng soprano, HAY, 9đ
Luận văn: Dạy học kỹ thuật legato cho giọng soprano, HAY, 9đLuận văn: Dạy học kỹ thuật legato cho giọng soprano, HAY, 9đ
Luận văn: Dạy học kỹ thuật legato cho giọng soprano, HAY, 9đ
 
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạmĐề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
Đề tài: Dàn dựng làn điệu hát Then dân ca Tày tại trường sư phạm
 
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đLuận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
Luận văn: Từ ngữ Hán Việt trong ca dao Nam Bộ, HAY, 9đ
 
Đề tài: Dạy đàn tam thập lục tại ĐH sân khấu điện ảnh Hà Nội, 9đ
Đề tài: Dạy đàn tam thập lục tại ĐH sân khấu điện ảnh Hà Nội, 9đĐề tài: Dạy đàn tam thập lục tại ĐH sân khấu điện ảnh Hà Nội, 9đ
Đề tài: Dạy đàn tam thập lục tại ĐH sân khấu điện ảnh Hà Nội, 9đ
 
Lythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatLythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtat
 
Ly thuyet-am-nhac-co-ban
Ly thuyet-am-nhac-co-banLy thuyet-am-nhac-co-ban
Ly thuyet-am-nhac-co-ban
 
Lythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtatLythuyet an tomtat
Lythuyet an tomtat
 
Ly thuyet am_nhac_co_ban1_3279
Ly thuyet am_nhac_co_ban1_3279Ly thuyet am_nhac_co_ban1_3279
Ly thuyet am_nhac_co_ban1_3279
 
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAY
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAYLuận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAY
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa, HAY
 
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh HóaLuận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa
Luận án: Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa
 
Xh318
Xh318Xh318
Xh318
 
Đề tài: Dạy học hòa tấu dàn nhạc chèo tại Nhà hát Chèo, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy học hòa tấu dàn nhạc chèo tại Nhà hát Chèo, HAY, 9đĐề tài: Dạy học hòa tấu dàn nhạc chèo tại Nhà hát Chèo, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy học hòa tấu dàn nhạc chèo tại Nhà hát Chèo, HAY, 9đ
 
Đề tài: Dạy hòa tấu ban nhạc đệm cho ca khúc nhạc nhẹ, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy hòa tấu ban nhạc đệm cho ca khúc nhạc nhẹ, HAY, 9đĐề tài: Dạy hòa tấu ban nhạc đệm cho ca khúc nhạc nhẹ, HAY, 9đ
Đề tài: Dạy hòa tấu ban nhạc đệm cho ca khúc nhạc nhẹ, HAY, 9đ
 
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh) Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
Đặc điểm định danh tên cây thuốc Việt Nam (có liên hệ tiếng Latinh)
 
Đề tài: Dạy ca khúc về Điện Biên cho sinh viên Giáo dục Tiểu học
Đề tài: Dạy ca khúc về Điện Biên cho sinh viên Giáo dục Tiểu họcĐề tài: Dạy ca khúc về Điện Biên cho sinh viên Giáo dục Tiểu học
Đề tài: Dạy ca khúc về Điện Biên cho sinh viên Giáo dục Tiểu học
 
Đề tài tìm hiểu từ ngữ tiếng Hàn gốc Anh, HOT 2018
Đề tài  tìm hiểu từ ngữ tiếng Hàn gốc Anh, HOT 2018Đề tài  tìm hiểu từ ngữ tiếng Hàn gốc Anh, HOT 2018
Đề tài tìm hiểu từ ngữ tiếng Hàn gốc Anh, HOT 2018
 
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAYLuận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
Luận án: Nghiên cứu văn bản Then cấp sắc Nôm Tày, HAY
 
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...
ĐỐI CHIẾU TỪ NGỮ CHỈ HOA TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT - TẢI FREE ZALO: 093 4...
 
1 the loai_ppthe_hien_bai_hat_3288
1 the loai_ppthe_hien_bai_hat_32881 the loai_ppthe_hien_bai_hat_3288
1 the loai_ppthe_hien_bai_hat_3288
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Luận án: Hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG NGỮ ÂM TIẾNG LỘC HÀ – HÀ TĨNH LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------------------- NGUYỄN THỊ LỆ HẰNG NGỮ ÂM TIẾNG LỘC HÀ - HÀ TĨNH Ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9.22.90.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận của luận án dựa trên các số liệu, tư liệu là khách quan, khoa học và chưa được các tác giả khác công bố. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Lệ Hằng
  • 4. 1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7 1 Lí do chọn đề tài......................................................................................... 8 2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ......................................... 9 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 9 4 Phương pháp nghiên cứu của luận án ......................................................10 5 Tư liệu nghiên cứu ...................................................................................15 6 Đóng góp của luận án...............................................................................15 7 Bố cục của luận án ...................................................................................15 CHƯƠNG I. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN .......................16 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt......................16 1.1.1 Đối với các nghiên cứu của học giả nước ngoài .........................16 1.1.2 Đối với các tác giả trong nước.......................................................20 1.2 Các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài ..............................................23 1.3 Các hướng tiếp cận nghiên cứu phương ngữ hiện nay .........................30 1.4. Cơ sở nhận diện, miêu tả phương ngữ, thổ ngữ...................................36 1.4.1 Ngữ âm học (phonetics).................................................................36 1.4.2 Âm vị học (phonology)..................................................................40 1.4.3 Âm tiết và các thành tố cấu tạo âm tiết tiếng Việt .........................41 1.5 Vài nét về vùng đất Lộc Hà ..................................................................43 1.5.1 Đặc điểm lịch sử - xã hội vùng đất Lộc Hà ...................................44 1.5.2 Tiếng Lộc Hà.................................................................................44 CHƯƠNG II. ĐẶC ĐIỂM PHỤ ÂM ĐẦU TIẾNG LỘC HÀ.................46 2.1 Dẫn nhập ...............................................................................................46 2.2 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Hà Nội.........................51 2.3 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Hà Tĩnh .......................52 2.4 Mô tả đặc điểm ngữ âm các phụ âm đầu tiếng Lộc Hà ........................53 CHƯƠNG III. ĐẶC ĐIỂM VẦN TIẾNG LỘC HÀ.................................72
  • 5. 2 3.1 Dẫn nhập ...............................................................................................72 3.2 Mô tả đặc điểm ngữ âm vần Lộc Hà.....................................................76 3.2.1 Đặc điểm các loại vần không có âm đệm ......................................79 3.2.2 Đặc điểm các loại vần có âm đệm................................................102 CHƯƠNG IV. ĐẶC ĐIỂM THANH ĐIỆU TIẾNG LỘC HÀ..............108 4.1 Dẫn nhập .............................................................................................108 4.1.1. Nhận xét chung về thanh điệu tiếng Việt....................................108 4.2.1 Hệ thống thanh điệu Thịnh Lộc ...................................................117 4.2.2 Hệ thống thanh điệu An Lộc........................................................120 4.2.3 Hệ thống thanh điệu Thạch Kim..................................................122 4.2.4 Hệ thống thanh điệu Thạch Châu.................................................124 4.3 Khái quát hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà............................127 4.4 So sánh hệ thống thanh điệu tiếng Lộc Hà với tiếng Hà Tĩnh, Tiếng Nghĩa Đàn (Nghệ An) và tiếng Hà Nội ...............................................................129 4.4.1 So sánh hệ thống thanh điệu tiếng Lộc Hà với tiếng Hà Tĩnh trung tâm.........................................................................................................129 4.4.2. So sánh hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà với hệ thống thanh điệu tiếng Hà Nội ..................................................................................131 4.4.3 So sánh hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà với hệ thống thanh điệu Bắc Trung Bộ ................................................................................132 4.5 Quá trình biến đổi lịch sử thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà .................138 4.5.1 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ Bắc Bộ ..................................................................................................138 4.5.2 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ Bắc Trung Bộ ...............................................................................................139 4.5.3 Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng HTTT và các thổ ngữ Lộc Hà......................................................................................140 KẾT LUẬN..................................................................................................143 DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ...........................................................................................146 TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................147
  • 6. 3 CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ KIỆU ÂT : âm tiết CTV : cộng tác viên dB : deciBel ĐĐT : điểm điều tra GTTB : giá trị trung bình GTTBTĐ : giá trị trung bình tương đối Hz : Hert LH : luồng hơi ms : Milisecond NNTD : ngôn ngữ toàn dân PÂĐ : phụ âm đầu PN : phương ngữ PNB : phương ngữ Bắc PNN : phương ngữ Nam PNT : phương ngữ Trung PNTV : phương ngữ tiếng Việt TN : thổ ngữ tr. : trang
  • 7. 4 DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Việt Bảng 2.2. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Hà Nội Bảng 2.3. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Hà Tĩnh (vùng TTTP) Bảng 2.4. Hệ thống phụ âm đầu tiếng Lộc Hà Bảng 2.5. So sánh các thông số âm học của 3 loại phụ âm /d/, // và /z/ Bảng 3.1. Danh sách các vần mở tiếng Lộc Hà Bảng 3.2. Đặc điểm ngữ âm của các vần mở tiếng Lộc Hà Bảng 3.3. Thực trạng và các biến thể vần mở không có âm đệm tại Lộc Hà Bảng 3.4. Thực trạng và các biến thể vần nửa mở không âm đệm của tiếng Lộc Hà Bảng 3.5. Các vần nửa khép không có âm đệm trong tiếng Lộc Hà Bảng 3.6. Tình hình phát âm các vần nửa khép không âm đệm tại các ĐĐT ở Lộc Hà Bảng 3. 7. Danh sách các vần khép không âm đệm trong tiếng Lộc Hà Bảng 3.8. Các biến thể vần khép không âm đệm trong tiếng Lộc Hà Bảng 3.9. Thực trạng phát âm các vần mở có âm đệm của tiếng Lộc Hà Bảng 3.10. Thực trạng và các biến thể vần nửa mở có âm đệm của tiếng Lộc Hà Bảng 3.11. Danh sách các vần nửa khép có âm đệm trong tiếng Lộc Hà Bảng 3.12. Tình hình phát âm các vần nửa khép có âm đệm ở các ĐĐT huyện Lộc Hà - Hà Tĩnh Bảng 3.13. Các vần khép có âm đệm trong tiếng LH-HT Bảng 3.14. Tình hình phát âm các vần khép có âm đệm ở Lộc Hà Bảng 4.1. Hệ thống 8 thanh điệu tiếng Việt theo cách phân loại truyền thống Bảng 4.2. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu phương ngữ Bắc Bộ (giọng Hà Nội) Bảng 4.3. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng HTTT Bảng 4.4. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Thịnh Lộc Bảng 4.5. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng An Lộc
  • 8. 5 Bảng 4.6. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Thạch Kim Bảng 4.7. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Thạch Châu Bảng 4.8. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu các thổ Lộc Hà Bảng 4.9. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng HTTT và các thổ ngữ Lộc Hà Bảng 4.10. Ma trận nhận diện các tiêu chí âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn (Nghệ An) Bảng 4.11. Đặc điểm ngữ âm - âm vị học của hệ thống thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn và các thổ ngữ Lộc Hà Bảng 4.12. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu phương ngữ Bắc Bộ Bảng 4.13. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn Bảng 4.14. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng HTTT Bảng 4.15. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng Thịnh Lộc Bảng 4.16. Quá trình hình thành và phát triển sau thanh điệu tiếng An Lộc
  • 9. 6 DANH MỤC HÌNH Hình 0.1. Máy ghi âm số chuyên dụng ZOOM H2N Hình 0.2. Các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà bằng chương trình WIN CECIL Hình 0.3. Các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình SA Hình 0.4. Các thông số âm học của các âm tiết tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình PRAAT Hình 2.1. Dạng sóng âm giữa phụ âm /b/ và // Hình 2.2. Phụ âm // trong âm tiết ba /a/ Hình 2.3. Dạng sóng âm, cường độ, phổ đồ và ảnh phổ phụ âm // trong âm tiết /a/ Hình 2.4. Dạng sóng âm, cường độ, phổ đồ và ảnh phổ nửa đầu âm tiết /da/ Hình 2.5. Dạng sóng âm, ảnh phổ với cấu trúc formant của 3 phụ âm /d/, // và / z / tiếng Việt Hình 2.6. Dạng sóng âm, ảnh phổ, cường độ của các âm tiết /a/, /a/, /sa/ Hình 2.7. Dạng sóng âm, cường độ và ảnh phổ của phụ âm /Ɂ/ trong âm tiết ăn Hình 2.8. Dạng sóng âm, F0, cường độ, ảnh phổ của nửa đầu âm tiết /Ɂɛƞ/ Hình 3.1 Thông số âm học của vần không có âm đệm /-an/ trong âm tiết LAN /lan/ so sánh với vần có âm đệm /-wan/ trong từ LOAN /lwan/ Hình 3.2. Dạng sóng âm, diễn tiến formant thứ nhất (F1) và thứ 2 (F2) âm tiết BÈ Hình 3.3. Dạng sóng âm, cường độ, diễn tiến F1 và F2 của âm tiết CỎ Hình 3.4. Thông số âm học của từ “anh” Hình 3.5. Thông số âm học của âm tiết “anh” Hình 3.5. Thông số âm học của âm tiết “anh” Hình 3.6. Thông số âm học của vần /e/ Hình 3.7. Thông số âm học của từ “xong” Hình 3.8. Thông số âm học của từ “ông” Hình 3.9. Thông số âm học của vần /ɛk/ Hình 3.10. Thông số âm học của từ ếch /Ɂek/ với vần /-ek/. Hình 3.11. Thông số âm học của từ học /hɔk/ với vần /-ɔk Hình 3.12. Thông số âm học của từ ốc /Ɂok/ với vần /-ok/ 1 2 4 3
  • 10. 7 Hình 4.1. Âm tiết “ta” trong cách phát âm tiếng Lộc Hà Hình 4.2. Sóng âm, các xung thanh môn, ảnh phổ của thanh 3 tiếng HTTT Hình 4.3. Sóng âm, các xung thanh môn, ảnh phổ của thanh 4 tiếng HTTT Hình 4.4. Sóng âm và thanh phổ của âm tiết “tá” trong thổ ngữ Thịnh Lộc Hình 4.5. Sóng âm và thanh phổ của âm tiết “tả” trong thổ ngữ Thịnh Lộc Hình 4.6. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng An Lộc được phân tích bằng chương trình SA Hình 4.7. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ An Lộc Hình 4.8. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng Thạch Kim được phân tích bằng chương trình SA Hình 4.9. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ Thạch Kim Hình 4.10. Đồ thị F0 của thanh điệu tiếng Thạch Châu được phân tích bằng chương trình SA Hình 4.11. Các đặc trưng âm học về thanh phổ, cường độ và F0 của 5 thanh thổ ngữ Thạch Châu Hình 4.12. Đồ thị 5 thanh điệu phương ngữ Bắc Trung Bộ Hình 4.13. Đồ thị F0 các thanh điệu tiếng Nghĩa Đàn Hình 4.14. Đặc trưng âm học của 5 thanh tiếng Nghĩa Đàn (Nghệ An) được phân tích theo chương trình PRAAT DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 4.1. Hệ thống thanh điệu tiếng Hà Nội Sơ đồ 4.2. Đồ thị F0 5 thanh điệu tiếng Hà Tĩnh (vùng trung tâm - thành phố Hà Tĩnh) Sơ đồ 4.3. Hệ thống thanh điệu Thịnh Lộc MỞ ĐẦU
  • 11. 8 1 Lí do chọn đề tài Hiện nay, tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia thống nhất trên mọi miền đất nước từ Bắc tới Nam, từ miền xuôi lên miền ngược. Đặc điểm này rõ ràng là một lợi thế, không phải đất nước nào, ngôn ngữ nào cũng có được. Bên cạnh tính thống nhất đó còn tồn tại những khác biệt. Sự khác biệt nằm ngay trong các phương ngữ ở mỗi vùng miền khác nhau tạo nên tính đa dạng của tiếng Việt. Chúng ta vẫn thường nghe nói tiếng Hà Nội, tiếng Nghệ Tĩnh, tiếng Huế, tiếng miền Nam, tiếng Nghi Lộc (Nghệ An) hay tiếng Hội An (Đà Nẵng) ... v.v, tất cả đều nhằm biểu hiện sự khác nhau trong cách nói, đặc trưng ngôn ngữ của mỗi vùng, miền. Đó là sự khác nhau về tiếng nói, cách nói của mỗi vùng, mỗi địa phương mà chúng ta thường quen gọi là phương ngữ (dialect), phương ngôn hay thổ ngữ (patois). Có thể xác định ranh giới phương ngữ nhưng rất khó để chúng ta có thể thống kê tiếng Việt có bao nhiêu thổ ngữ và cách phân định ranh giới của chúng. Lộc Hà là một địa phương có giọng nói khá đặc biệt trong tương quan với tiếng Việt toàn dân và phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung. Nét đặc biệt của tiếng Lộc Hà không chỉ được cảm nhận qua thính giác của người dân địa phương Hà Tĩnh mà còn qua các giai thoại dân gian và một số công trình nghiên cứu văn hóa, dân tộc, lịch sử,… Giọng nói của người dân nơi đây có những khác biệt rõ nét so với giọng nói của nhân dân các huyện khác. Một số làng, một số xã ở trên địa bàn huyện có những giọng nói riêng biệt khác nhau khiến cho du khách khi đến đây cảm thấy rất hiếu kì và khó hiểu. Do những nét khác lạ và đặc biệt như thế nên chúng tôi chọn tiếng Lộc Hà làm đối tượng nghiên cứu của luận án này. Chúng tôi muốn tìm hiểu về giọng của người dân nơi đây như một cách tìm hiểu về những nét độc đáo trong ngôn ngữ và văn hóa của Hà Tĩnh nói chung và của huyện Lộc Hà nói riêng. Phương ngữ Nghệ Tĩnh nói chung từ lâu đã được quan tâm nghiên cứu, song, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về tiếng địa phương Lộc Hà, đặc điểm ngữ âm tiếng Lộc Hà. Do những đặc điểm riêng về lãnh thổ, địa lí, lịch sử, dân cư, tiếng Lộc Hà được đánh giá là có đặc trưng giọng nói cao hơn hẳn so với nhiều tiếng địa phương lân cận khác ở Hà Tĩnh cũng như trong cả khu vực Nghệ Tĩnh. Do đó, chúng tôi muốn nghiên cứu ngữ âm của tiếng Lộc Hà để tìm hiểu những tương đồng và đặc biệt là những nét khác biệt giữa giọng nói ở Lộc Hà với hệ thống ngữ
  • 12. 9 âm của phương ngữ Nghệ Tĩnh nói riêng và hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân nói chung. 2 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1 Mục đích nghiên cứu Luận án hướng đến mục tiêu: - Miêu tả những đặc điểm ngữ âm – âm vị học của tiếng Lộc Hà bao gồm hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần, và hệ thống thanh điệu. - Chỉ ra những đặc điểm tương đồng và khác biệt về ngữ âm giữa tiếng Lộc Hà với hệ thống ngữ âm của ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ Hà Tĩnh. 2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Với các mục đích trên, luận án đặt ra các nhiệm vụ sau: - Tiến hành điều tra điền dã thu thập tư liệu ngữ âm một số thổ ngữ tiêu biểu trên địa bàn huyện Lộc Hà. - Xây dựng cơ sở dữ liệu ngữ âm các thổ ngữ Lộc Hà - Phân tích tư liệu ngữ âm tiếng Lộc Hà: a) Phân tích bằng cảm thụ thính giác các đặc điểm ngữ âm – âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà; b) Phân tích bằng các phần mềm máy tính đặc điểm ngữ âm - âm vị học các thổ ngữ Lộc Hà; - Miêu tả hệ thống ngữ âm phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu các đặc điểm ngữ âm - âm vị học của các thổ ngữ Lộc Hà. - Xác định các đặc điểm giống và khác nhau giữa hệ thống phụ âm đầu, vần các thổ ngữ Lộc Hà trong hệ thống ngôn ngữ toàn dân và PNNT. 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh ở ba phần: Hệ thống phụ âm đầu, hệ thống vần và hệ thống thanh điệu. 3.2 Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu ngữ âm tiếng Lộc Hà - Hà Tĩnh ở một số thổ ngữ tiêu biểu trên địa bàn huyện Lộc Hà, cụ thể ở đây là các xã: An Lộc, Thịnh Lộc, Thạch Châu, Thạch Kim. Sở dĩ chúng tôi chọn các điểm điều tra nghiên cứu như vậy bởi đây được cho là bốn xã có những đặc điểm ngữ âm đặc trưng đại diện cho vùng địa lí gần biển và xa biển dựa trên cảm nhận thính giác của người dân địa phương,
  • 13. 10 của người nghiên cứu cũng như dựa trên các tư liệu nghiên cứu từ trước về phương ngữ Nghệ Tĩnh. - Địa điểm điều tra Địa điểm điều tra (ĐĐT), gồm 4 điểm là các địa bàn: xã An Lộc, xã Thịnh Lộc, xã Thạch Kim và xã Thạch Châu. - Tiêu chuẩn lựa chọn cộng tác viên (CTV) + CTV là những người sinh ra và đã sống liên tục ở địa phương từ 2 đến 3 đời. Về độ tuổi là những người từ 30 đến 50 tuổi, không đi làm ăn ở nơi khác. Do vậy họ được xem là những người bảo lưu ngôn ngữ của mình, không bị pha trộn, có giọng nói được người địa phương xác định và công nhận là đúng “chất giọng” của tiếng Lộc Hà. + Đối tượng điều tra, ghi thu là các phát âm mẫu của 24 cộng tác viên, gồm 12 nam và 12 nữ ở tại 4 điểm điều tra (ĐĐT). - Kết quả ghi âm Tổng số dữ liệu âm thanh thu thập được của 24 CTV gồm 24 File dữ liệu âm thanh có dung lượng ghi âm là 26 MB (có văn bản kèm theo). Đó là nguồn dữ liệu phục vụ cho việc phân tích đặc điểm ngữ âm của tiếng Lộc Hà cả về mặt cảm thụ thính giác và phân tích thực nghiệm. 4 Phương pháp nghiên cứu của luận án Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ trên chúng tôi áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 4.1 Điều tra điền dã: a) Nghe và cảm thụ bằng thính giác, ghi lại bằng kí hiệu phiên âm quốc tế IPA theo các bảng từ các thổ ngữ ở Lộc Hà b) Tiến hành ghi âm bằng máy ghi âm kĩ thuật số.  Hình thức ghi âm: Có 2 hình thức ghi dữ liệu âm thanh đối với mỗi CTV: + CTV đọc 2 bảng từ âm tiết tách biệt (xem Phụ lục) phục vụ phân tích các thông số âm học của phụ âm đầu, vần và thanh điệu. + CTV được ghi âm tự do phục vụ cho các mục đích nghiên cứu lời nói tự nhiên.  Phương tiện ghi âm
  • 14. 11 Hình 0.1. Máy ghi âm số chuyên dụng ZOOM H2N Chúng tôi sử dụng máy ghi âm số chuyên dụng: ZOOM H2N của hãng ZOOM JAPAN. Mẫu ghi âm 41.100 Hz, 16 bit. Các file ghi âm có dạng wav. 4.2 Phương pháp phân tích các đơn vị âm thanh bằng các chương trình bằng máy tính Tư liệu ghi âm được phân tích những đặc điểm ngữ âm bằng các chương trình máy tính sau: - Chương trình WIN CECIL: Chương trình do tổ chức SIL Hoa Kỳ thực hiện. WIN CECIL có thể phân tích được các thông số âm học của các yếu tố ngôn điệu ngôn ngữ. Chương trình này đặc biệt thích hợp để nghiên cứu thanh điệu và ngữ điệu trong các ngôn ngữ đơn lập đơn tiết như tiếng Việt. Trong luận án này chúng tôi sử dụng chương trình WIN CECIL để phân tích và miêu tả các thông số âm học của hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà . Hình 0.2. Các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà bằng chương trình WIN CECIL
  • 15. 12 Trên đây là các thông số âm học của thanh điệu tiếng Lộc Hà: 1. Dạng sóng âm, 2. Cường độ, 3. Sự thay đổi trong cấu âm, 4. Thanh điệu dạng thô, 5. Thanh điệu số hóa dạng tương đối hoàn chỉnh, 6. Thanh điệu dạng hoàn chỉnh. - Chương trình SA (Speech analyzer 3.1.0) Chương trình phân tích tiếng nói SA cho phép chúng ta phân tích các thông số âm học của các đơn vị chiết đoạn và siêu đoạn của tiếng nói. Dưới đây là các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình SA: 1. Dạng sóng âm, 2. Ảnh phổ (Spectrogram), 3. F0 (thanh điệu), 4. Cường độ, 5. Phổ đồ (Spectrum). 1 2 3 4 5 6
  • 16. 13 Hình 0.3. Các thông số âm học của các từ (âm tiết) tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình SA Trong luận án này chúng tôi sử dụng chương trình SA để phân tích và miêu tả hệ thống phụ âm đầu, vần và thanh điệu trong tiếng Lộc Hà. - Chương trình PRAAT phiên bản 6.0.35 (16/10/2017): Chương trình PRAAT cho phép chúng ta phân tích, miêu tả theo định lượng các thông số âm học của các đơn vị chiết đoạn và siêu đoạn lời nói. Dưới đây là các thông số âm học của các âm tiết tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình PRAAT. 1 2 3 4 5
  • 17. 14 Hình 0.4. Các thông số âm học của các âm tiết tiếng Thịnh Lộc được phân tích bằng chương trình PRAAT 1. Hình 1: Dạng sóng âm và các đường sọc chỉ các xung thanh môn. 2. Hình 2: Ảnh phổ , F0, Cường độ, cấu trúc formant (F1, F2, F3). Trong luận án này chúng tôi phân tích hệ thống vần thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà theo các thông số âm học (định lượng) F0 tính bằng tấn số thanh cơ bản tính bằng Hezt (Hz), trường độ tính bằng ms (mili giây= 0,001ms), cường độ tính bằng dB, Formant tính bằng Herzt (Hz). 4.3. Phương pháp miêu tả ngữ âm - âm vị học Phương pháp miêu tả ngữ âm - âm vị học áp dụng các thao tác cơ bản trong miêu tả các đặc điểm cấu âm và âm học hệ thống phụ âm đầu, vần, thanh điệu các thổ ngữ tiếng Lộc Hà. 4.4. Phương pháp so sánh lịch sử Trong luận án, chúng tôi áp dụng các thao tác phân tích, đối chiếu về mặt lịch đại của phương pháp so sánh lịch sử để miêu tả hệ thống thanh điệu các thổ ngữ Lộc Hà trong quan hệ với thanh điệu tiếng Việt toàn dân và các thổ ngữ Nghệ Tĩnh về mặt lịch sử. 1 2
  • 18. 15 5. Tư liệu nghiên cứu Luận án dựa trên tư liệu nghiên cứu là những ghi chép điền dã dựa trên cảm thụ thính giác và những tư liệu phân tích trên cơ sở dữ liệu số hóa ngữ âm các thổ ngữ ở Lộc Hà. Cơ sở dữ liệu số hóa gồm các file âm thanh (định dạng Wav. (dùng cho SA và PRAAT) và Utt (dùng cho WIN CECIL) ghi âm phát âm của các nghiệm viên theo bảng từ về phụ âm đầu, vần và thanh điệu các thổ ngữ, danh sách các nghiệm viên (xem phụ lục). 6. Đóng góp của luận án Luận án có một số đóng góp sau đây: Thứ nhất, miêu tả các đặc điểm ngữ âm - âm vị học hệ thống phụ âm đầu, vần và thanh điệu các thổ ngữ tiếng Lộc Hà dựa trên cảm thụ thính giác và kết quả phân tích bằng các chương trình máy tính. Trong luận án này, lần đầu tiên những miêu tả ngữ âm - âm vị học của tiếng Lộc Hà được miêu tả một cách chính xác nhờ được phân tích theo các thông số âm học bằng các chương trình phân tích tiếng nói. Thứ hai, luận án chỉ ra những đồng nhất và khác biệt trong hệ thống phụ âm đầu, vần, thanh điệu của các thổ ngữ Lộc Hà trong mối quan hệ với hệ thống ngữ âm - âm vị học của ngôn ngữ toàn dân và PNNT. 7 . Bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án gồm 4 chương: Chương I. Tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt và cơ sở lí thuyết của luận án Chương II. Đặc điểm phụ âm đầu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh Chương III. Đặc điểm vần tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh Chương IV. Đặc điểm thanh điệu tiếng Lộc Hà, Hà Tĩnh
  • 19. 16 CHƯƠNG I TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHƯƠNG NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN 1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu phương ngữ tiếng Việt Phương ngữ (PN) tiếng Việt đã được nhiều học giả, nhà nghiên cứu ngoài và trong nước quan tâm đến từ lâu. Ngay những năm đầu thế kỉ XX đã có nhiều công trình nghiên cứu tập trung vào PN tiếng Việt và những vấn đề liên quan đến phương ngữ tiếng Việt (PNTV). Một trong những vấn đề nổi bật mà hầu như nhà nghiên cứu nào cũng quan tâm đến đầu tiên khi nghiên cứu về PNTV, đó là vấn đề miêu tả đặc điểm các phương ngữ và phân vùng các phương ngữ tiếng Việt ở Việt Nam. 1.1.1 Đối với các nghiên cứu của học giả nước ngoài Đối với các học giả nước ngoài, chúng tôi thấy trong các công trình nghiên cứu của họ nổi lên có ba mục tiêu tiếp cận (khuynh hướng) chủ yếu sau: a) hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề phân chia các vùng phương ngữ của tiếng Việt; b) hướng nghiên cứu PN gắn với việc tìm hiểu lịch sử và tiến trình phát triển của tiếng Việt, và c) hướng nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu đặc điểm ngữ âm, từ vựng - ngữ nghĩa, ngữ pháp của các PN, thổ ngữ tiếng Việt ở những vùng, miền khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam. Với hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề phân vùng các PNTV có thể coi L. Cadière (Pháp) là một trong những người đầu tiên quan tâm đến phương ngữ tiếng Việt và vấn đề phân vùng PNTV. Trong công trình Ngữ âm tiếng Việt (phương ngữ miền thượng Trung kỳ và phương ngữ miền hạ Trung kỳ, 1902), mặc nhiên ông đã phân PNTV thành bốn (04) vùng phương ngữ: phương ngữ miền thượng Trung kỳ được ông phân định từ phía bắc tỉnh Nghệ An đến Huế; còn phương ngữ hạ Trung kỳ kéo dài từ đèo Hải Vân đến nam Bình Thuận. Hai vùng còn lại là phương ngữ Bắc kỳ và Nam kỳ mặc nhiên được thừa nhận. H. Maspero, trong công trình Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt (1912) chia tiếng Việt thành 2 vùng PN: phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung. Theo ông phương ngữ Nam có nhiều điểm giống phương ngữ Bắc vì người miền Nam hiện nay đều có gốc từ miền Bắc di cư vào. M.V. Gordina & I.S. Bustrov (1970) cũng chia tiếng Việt thành 2 vùng PN. Khác với lập luận của H. Maspero, ranh giới 2 vùng chạy qua phía
  • 20. 17 nam tỉnh Quảng Trị. Tiếng Huế, theo các tác giả này chỉ là vùng đệm. Cơ sở để Gordina & Bustrov phân thành 2 vùng PN chủ yếu dựa vào sự khác nhau của hệ thống âm cuối tiếng Việt. Không đồng ý với những cách phân vùng PNTV của các tác giả trên, L.C. Thompson (1959), trong Ngữ pháp tiếng Việt đưa ra ý kiến cho rằng, không nên chia Tiếng Việt thành các vùng PN. Bởi, theo ông, ranh giới giữa các vùng PNTV là không rõ ràng. Hơn nữa, bên cạnh các phương ngữ tiêu biểu, như phương ngữ Hà Nội, phương ngữ Vinh, phương ngữ Huế, phương ngữ Đà Nẵng, phương ngữ Sài Gòn, v.v… luôn tồn tai các trạng thái chuyển tiếp giữa các vùng. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu PN gắn với việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt là các tác giả L. Cadière (1902); H. Maspero (1912); A.G. Haudricour (1952); M. Ferlus (1991); W. Schmidt (1926); H.J. Pinnow (1963); S.E. Yakhontov (1969),… v.v. Mục đích của hướng nghiên cứu này là dựa trên các cứ liệu ngôn ngữ, chủ yếu bình diện ngữ âm tiếng Việt ở các địa phương khác nhau đưa ra những kiến giải liên quan đến lịch sử tiếng Việt cũng như cách phân xếp tiếng Việt vào các họ khác nhau. Năm 1902, L. Cadière, trong nghiên cứu tiếng địa phương miền Trung đã không chỉ so sánh PN Trung với các phương ngữ khác của tiếng Việt mà còn so sánh cách đọc các từ Hán - Việt của PN này với cách đọc các từ Hán - Việt tương ứng trong các phương ngữ tiếng Trung, và ông chỉ ra rằng những khác biệt về cách đọc các từ Hán - Việt trong phương ngữ Trung của tiếng Việt có quan hệ mức độ khác nhau với những hiện tượng mà người ta đã nhận thấy trong chính các phương ngữ tiếng Trung. H. Maspero, trong Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt: các âm đầu đã sử dụng một nguồn tư liệu hết sức đa dạng, gồm các PN tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Mường, tiếng Hán, tiếng Môn - Khme. Ông còn sử dụng tư liệu chữ Nôm trong từ điển “Việt- Bồ - La” của A. de. Rhodes (1651). Sau khi phân tích, ông đã đi đến kết luận: “Tiếng tiền Việt đã sinh ra từ sự hòa đúc của một ngôn ngữ Môn-Khme, một phương ngữ Thái và có thể của cả một ngôn ngữ thứ 3 còn chưa biết, rồi sau đó tiếng Việt đã mượn một số rất lớn những từ tiếng Hán. Nhưng, cái ngôn ngữ mà ảnh hưởng quyết định đã tạo cho tiếng Việt trạng thái hiện đại của nó là chắc chắn theo ý kiến tôi, một ngôn ngữ Thái, và tôi nghĩ rằng tiếng Việt phải được qui vào họ Thái”. Ý kiến này đã được sự ủng hộ của W. Schmidt (1926); H.J. Pinnow (1963), v.v…
  • 21. 18 A.G. Haudricourt trong 2 bài báo Vị trí của Tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Á (1953), và Về nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt (1954), đã chứng minh ngược lại ý kiến của H. Maspero, và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ xác đáng, thuyết phục về nguồn gốc họ Nam Á của tiếng Việt. Quan điểm này, về sau được S.E. Yakhontov (1969, 1973) và M. Ferlus (1975, 1979) củng cố thêm. Còn đối với hướng nghiên cứu tập trung vào tìm hiểu đặc điểm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của các phương ngữ, thổ ngữ tiếng Việt ở những vùng, miền khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam thì nhìn chung, các nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào ngữ âm và một vài địa hạt liên quan đến từ vựng, hầu như rất ít có công trình nào tìm hiểu địa hạt ngữ pháp. Cụ thể:  Đối với phương ngữ Bắc, các nghiên cứu tập trung chủ yếu về ngữ âm tiếng Việt nói chung nhưng lấy cách phát âm của Hà Nội làm đối tượng miêu tả và xem tiếng Hà Nội là đại diện cho ngôn ngữ toàn dân. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là các công trình của T.T. Mkhitarian (1959) trong Ngữ âm tiếng Việt, Thompson (1959) trong Ngữ pháp tiếng Việt; Sampson & Geoffrey (1969) trong Nghiên cứu hệ âm cuối tiếng Hà Nội (Hanoi dorsal finals); Michaud Alexis (2004) nghiên cứu về Hệ thống phụ âm cuối và hiện tượng tắc họng trong tiếng Hà Nội (Final Consonants and glottalization: New prespectives from Hanoi, Vietnam); J.P Kirby (2011) trong nghiên cứu Tiếng Việt Hà Nội, đã miêu tả một bức tranh khá chi tiết về ngữ âm tiếng Hà Nội, đề cập đến cả hiện tượng lẫn lộn [l/n]; cách phát âm [c] với đặc trưng [+xát; + bật hơi] hay cách phát âm các vần [-iu] và [-ieu], v.v… Một số đặc điểm ngữ âm của các thổ ngữ cũng được chú ý đến. Tiêu biểu Le Van Ly (1948), nghiên cứu phương ngữ Bắc thông qua việc miêu tả đặc điểm ngữ âm của thổ ngữ vùng Phát Diệm (Ninh Bình), …v.v.  Đối với phương ngữ Trung, các nghiên cứu cũng tập trung chủ yếu vào các vấn đề ngữ âm ở khu vực từ Nghệ An đến Thừa Thiên Huế, tiêu biểu L. Cadière (1902) trong Ngữ âm tiếng Việt (PN miền thượng Trung kỳ) dựa chủ yếu vào ngữ âm tiếng Quảng Bình để miêu tả PN Trung. Ông đã chỉ ra một cách tương đối rõ ràng những sự chuyển hóa ngữ âm xảy ra trong toàn hệ thống (bao gồm cả phụ âm đầu, âm đệm, âm chính và thanh điệu) của PN này, đặc biệt trong đó, ông nhấn mạnh hai hệ thống phụ âm đầu và âm chính là những nơi sự chuyển hóa ngữ âm diễn ra mạnh nhất. Nguyên nhân, theo ông là ở hai tiểu hệ thống này, sự chuyển hoá xảy ra do sự
  • 22. 19 kết hợp cả hai nguyên nhân, nguyên nhân bên ngoài (mặt tự nhiên) và nguyên nhân bên trong (sự cố ý). Từ đó, ông đã đưa ra một hình dung khá rõ nét về chân dung của PN Trung giai đoạn đầu thế kỷ XX. Tiếp theo là các công trình của M.B. Emeneau (1951) trong Study in Vietnamese Grammar, đã chọn phương ngữ Vinh làm đối tượng khảo sát; M. Harvey & Taylo (1962), trong Miêu tả đặc điểm ngữ âm thanh điệu Huế, Việt Nam (A phonetic description of the tone of the Hue dialect of Vietnam) đã dựa vào cảm thụ thính giác để miêu tả hệ thanh điệu tiếng Huế; tiếp đó M. Ferlus đã nghiên cứu tiếng Vinh (1995) và tiến hành mô tả ngữ âm ở Cao Lao Hạ (Quảng Bình); rồi, M. Alves & Nguyen Duy Huong (1998), nghiên cứu thổ ngữ Thanh Chương (Nghệ An); Andre Hoa Phạm (2005) nghiên cứu thanh điệu Nghi Lộc (Nghệ An); Honda Koichi (2006, 2008) nghiên cứu Fo và thức tạo thanh trong tiếng Nghệ Tĩnh ở khu vực bờ sông Lam, v.v…  Đối với phương ngữ Nam, các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài tập trung chủ yếu vào tiếng Sài Gòn, Đà Nẵng và những thành phố lớn. Thompson (1959) miêu tả âm vị tiếng Sài Gòn trong Saigon Phonemics. Bằng việc khảo sát và phân tích lời nói của các cộng tác viên có trình độ Trung học phổ thông, ông đã khái quát hệ thống âm vị tiếng Sài Gòn gồm 22 phụ âm đầu (PÂĐ); có sự khác biệt giữa hệ thống nguyên âm (NÂ) đôi và vần so với tiếng Hà Nội. Công trình này, tiếp tục được ông nghiên cứu và phát triển trong A Vietnamese Grammar (1965) về cách phát âm một số từ địa phương; ranh giới các vùng PNTV, đặc điểm ngữ âm của PN Bắc, Trung và Nam và một số đặc điểm ngữ âm của tiếng Đà Nẵng, Sài Gòn, Trà Vinh, v.v… Còn M.V. Gordina (1965) đã chọn nghiên cứu hệ thống thanh điệu tiếng Đà Nẵng bằng phương pháp phân tích thực nghiệm trong The System of tones of the Danang dialect of Vietnam. Công trình này về sau (1976), được tác giả và cộng sự I.S. Bustrov nghiên cứu khá kĩ; tiếp đó, Shimizu Masaki (2013) nghiên cứu về tiếng Quảng Nam, trong công trình Vị trí của tiếng Quảng Nam trong quá trình biến đổi âm cuối gốc lưỡi. Bằng việc khảo sát từ hai góc độ, cả lịch đại và đồng đại, tác giả cho rằng, tiếng Quảng Nam được coi như là đang ở giai đoạn giữa của chính tả tiếng Việt hiện nay và phương ngữ Nam bộ, v.v.… Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu PN tập trung vào hướng cộng đồng sử dụng theo cách tiếp cận của các tác giả thuộc trường phái biến thể học như W. Labov (1972); R. Lakoff (1974); R. Fasold (1974); P. Trudgill (1986). Hướng
  • 23. 20 nghiên cứu này đề cập đến mặt xã hội của PN cũng như ảnh hưởng của các nhân tố xã hội đối với ngôn ngữ nói chung và PN nói riêng. Một mặt, cho thấy được đặc điểm ngôn ngữ của PN; mặt khác cũng cho thấy sự ảnh hưởng của nhân tố xã hội đối với việc sử dụng/ thể hiện các đặc điểm của phương ngữ. Đây được xem là hướng nghiên cứu mới của thời kỳ hậu cấu trúc luận. Theo hướng này có thể kế đến các công trình của Luong Van Huy (2000), của M. Brunell, trong Tone perception in Vietnamese dialect (2006) và của M. Brunell kết hợp với Stefani Jannedy trong Social effects on the perception of Vietnaemese tones (2007). 1.1.2 Đối với các tác giả trong nước So với các tác giả nước ngoài, mục tiêu (khuynh hướng) nghiên cứu PNTV của các học giả trong nước có phần được mở rộng hơn; nhiều nội dung nghiên cứu, tìm hiểu liên quan đến PNTV được các tác giả gắn với nhu cầu thực tiễn, giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, đặc biệt là “công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, …v.v. Trên đại thể, ngoài công trình Tiếng Việt trên các miền đất nước (Phương ngữ học) của Hoàng Thị Châu (1989) được xem là một nghiên cứu đầy đủ nhất về diện mạo tiếng Việt qua các PN theo hướng tiếp cận ngôn ngữ học - địa lý kết hợp với ngôn ngữ học lịch sử, các nghiên cứu PN trong nước đã tập trung và hướng chú ý tới những vấn đề sau: a. Tiêu chuẩn và nguyên tắc phân vùng phương ngữ. Theo hướng này có khá nhiều tác giả. Tiêu biểu: Hồng Giao (1957), Nguyễn Bạt Tụy (1961); Nguyễn Đình Hòa (1962); Hoàng Phê (1963); Nguyễn Văn Tu (1968); Đỗ Tiến Chung (1981); Hoàng thị Châu (1989),…v.v. Tiêu chuẩn và nguyên tắc phân vùng PNTV được coi là vấn đề quan trọng nhất với hầu hết các công trình nghiên cứu PNTV theo xu hướng này. Phần lớn các công trình đã cố gắng xác định nguyên tắc phân vùng PNTV. Theo ý kiến được đa phần các tác giả đưa ra, là chủ yếu dựa vào các đặc điểm ngữ âm tiếng Việt kết hợp với đặc điểm lịch sử hay quá trình hình thành và phát triển của PN. Dù còn có ý kiến khác nhau về phân vùng PN, cũng như xác định số lượng, ranh giới phương ngữ, nhưng đến nay, ý kiến phân thành 3 vùng phương ngữ tiếng Việt đang nhận nhiều ý kiến đồng thuận, trong đó nghiên cứu của Hoàng Thị Châu được xem là tiêu biểu. Cụ thể: - Phương ngữ Bắc, gồm các tỉnh Bắc bộ đến ranh giới tỉnh Thanh Hóa - Phương ngữ Trung, gồm từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân
  • 24. 21 - Phương ngữ Nam, gồm từ đèo Hải Vân trở vào Ngoài ra, ở mỗi phương ngữ lại có thể có các thổ ngữ, biệt ngữ dựa trên đặc điểm ngôn ngữ của từng vùng b. Nghiên cứu phương ngữ gắn với việc tìm hiểu lịch sử tiếng Việt. Các tác giả tiêu biểu: Trần Trí Dõi (1991); Võ Xuân Trang (1997); Nguyễn Văn Nguyên (2003); Nguyễn Văn Lợi (2009),… v.v. Mục đích nghiên cứu của các tác giả và những công trình này là thông qua việc tìm hiểu PN nhằm tìm ra các cứ liệu mang dấu vết cổ của tiếng Việt hiện còn lưu giữ ở các PN, thổ ngữ, biệt ngữ để bổ sung chứng cứ cho nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Cụ thể Trần Trí Dõi, từ nghiên cứu thanh điệu khu vực Cửa Lò, Nghệ An đã chỉ ra có sự tương ứng giữa thanh điệu Cửa Lò và các ngôn ngữ Việt – Mường; Nguyễn Văn Lợi dựa trên tư liệu thanh điệu ở Xứ Đoài (cụ thể vùng Thạch Thất, Hà Nội) cho thấy quá trình tiếp xúc và mối quan hệ giữa thanh điệu tiếng Việt và tiếng Mường…v.v. Có thể thấy, đây là những nguồn tư liệu hết sức quí góp phần khẳng định về nguồn gốc thuộc nhóm Việt – Mường của tiếng Việt, mà A.G. Haudricour đã đưa ra phản bác lại ý kiến của H. Maspero về xung quanh nguồn gốc của tiếng Việt. c. Nghiên cứu phương ngữ gắn với yêu cầu chuẩn hóa tiếng Việt. Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Trí Niên và Nguyễn Phan Cảnh (1961), Hoàng Phê (1975); Nguyễn Thiện Chí (1981); Trương Văn Sình (1981); Nguyễn Văn Ái (1981), Phạm Văn Hảo (1981); Hồng Dân (1981); Vũ Bá Hùng (1994)…v.v. Mục đích nghiên cứu của các tác giả theo hướng này là tìm hiểu và chỉ rõ những sự khác biệt giữa PN và ngôn ngữ toàn dân; tư vấn, đưa ra ý kiến trong việc sử dụng đúng, chính xác các yếu tố tích cực của PN phục vụ yêu cầu chuẩn hóa, thúc đẩy công cuộc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt; góp phần hình thành cơ sở cho việc đề ra chiến lược chung trong chính sách giáo dục ngôn ngữ… d. Nghiên cứu phương ngữ gắn với các vấn đề của đời sống: báo chí, văn học, nhà trường, sân khấu, điện ảnh… Các tác giả tiêu biểu: Ngô Ngọc Bích Tiên (1968); Hoàng Thị Châu (1970); Vũ Kim Bảng (2006, 2008); Nguyễn Quang Hồng (1981); Vũ bá Hùng (1980); Hoàng Tuệ (1982); Nguyễn Văn Hòa (1983); Trịnh Sâm (1983)… v.v. Mục đích và những kết quả nghiên cứu: 1) tìm hiểu vai trò, chức năng của tiếng địa phương trong đời sống xã hội hiện nay; 2) cung cấp một bức tranh chung về thực tế sử dụng từ địa phương trong sách vở, báo chí, văn học, sân khấu, điện
  • 25. 22 ảnh,…; 3) đồng thời, cũng cho thấy một số đặc trưng văn hóa tiêu biểu của vùng, miền qua hoạt động hành chức của chúng; 4) phát hiện những lỗi sai về phát âm, chính tả do thói quen địa phương, từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục cho nhóm học sinh tiểu học và THPT trong hệ thống giáo dục Việt Nam hiện nay. e. Nghiên cứu phương ngữ trong sự vận động và phát triển của xã hội cũng như quá trình đô thị hóa. Các tác giả tiêu biểu: Hoàng Thị Châu (1972); Trần Thị Thìn (1981); Võ Xuân Trang (1981); Trần Thị Ngọc Lang (1986); Trịnh Cẩm Lan (2007), …v.v. Mục đích nghiên cứu của các tác giả này là áp dụng các lý thuyết của ngôn ngữ học xã hội để luận giải các vấn đề của phương ngữ. Cụ thể: 1) sự thay đổi ngữ âm ở các vùng nông thôn; 2) phương ngữ ở thành thị; 3) sự tiếp xúc giữa các phương ngữ; 4) sự biến đổi ngôn ngữ ở các cộng đồng chuyển cư đến thành phố lớn và thủ đô…v.v. f. Nghiên cứu đặc điểm các phương ngữ, thổ ngữ cụ thể  Đối với phương ngữ Nam: Các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Bạt Tụy (1961); Nguyễn Kim Thản (1964); Vương Hữu Lễ (1981); Nguyễn Văn Ái (1982); Cao Xuân Hạo (1986); Trần Thị Ngọc Lang (1983); Trịnh Sâm (1986), Huỳnh Công Tín (1999), v.v… Mục đích nghiên cứu nhằm tìm hiểu và khái quát tương đối đầy đủ diện mạo, đặc điểm ngôn ngữ của các phương ngữ Nam từ Đà Nẵng đến cực Nam. Đồng thời cũng nghiên cứu hầu hết các bình diện cũng như sự hành chức trong đời sống xã hội của phương ngữ đã được đề cập, phản ánh sức sống mạnh mẽ của từ ngữ địa phương miền Nam trong sự phát triển chung của Tiếng Việt.  Đối với phương ngữ Trung: Các tác giả tiêu biểu: Phạm Văn Hảo (1991); Võ Xuân Quế (1993); Võ Xuân Trang (1997); Hoàng Trọng Canh (2001); Nguyễn Văn Lợi (2002); Nguyễn Văn Nguyên (2003); Trần Trí Dõi (2007), v.v.…Các nghiên cứu theo hướng này đã chứng minh và cho thấy: phương ngữ Trung được xem là phương ngữ còn bảo lưu nhiều dấu vết cổ của có liên quan đến lịch sử Tiếng Việt; đồng thời đã cung cấp một bức tranh khái quát về đặc điểm ngữ âm, từ vựng của các phương ngữ Trung từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế; phương pháp nghiên cứu đã có sự kết hợp đồng đại/lịch đại; cảm thụ thính giác/ thực nghiệm… khá tin cậy… v.v.  Đối với phương ngữ Bắc: Các tác giả tiêu biểu: Vũ Bá Hùng (1980); Hoàng Cao Cương (1986); Nguyễn Văn Lợi & J. Edmondson (1997); Trần Thị Thìn (1981);
  • 26. 23 Đinh Lê Thư (1984); Vũ Kim Bảng (2001); Văn Tú Anh (2002); Tạ Thành Tấn (2014); Nguyễn Tài Thái (2015)…v.v. Mục đích và những kết quả nghiên cứu: 1) PN Bắc được coi là cơ sở của tiếng Việt văn hóa, do đó trên thực tế chưa được nghiên cứu nhiều; 2) những công trình nghiên cứu về phương ngữ Bắc, chủ yếu về tiếng Hà Nội, hoặc dựa trên tư liệu tiếng Hà Nội; 3) giải pháp âm vị học cho hệ thanh điệu tiếng Việt gồm 8 thanh của Hoàng Cao Cương; 4) khái niệm “sinh âm” (Hoàng Cao Cương) hay “chất giọng” (Nguyễn văn Lợi & A. Edmondson) là một tiêu chí quan trong để khu biệt thanh điệu tiếng Việt; 5) đã đưa ra một số kiến giải về hiện tượng biến đổi hệ thống phụ âm đầu trong các phương ngữ miền Bắc (chiều hướng giảm dần) và giải pháp khắc phục một số lỗi phát âm do ảnh hưởng của thói quen đối với chính tả tiếng Việt hiện nay: hiện tượng “l/n; ui; ieu”…v.v. 1.2 Các vấn đề lí thuyết liên quan đến đề tài 1.2.1 Phương ngữ và các khái niệm liên quan 1.2.1.1 Khái niệm phương ngữ Phương ngữ (dialect), là một khái niệm mang tính phổ quát. Ngôn ngữ nào cũng tồn tại các phương ngữ trong cơ tầng của nó. Nói như F. de Saussure, “có bao nhiêu địa phương thì có bấy nhiêu phương ngữ”. Trong tiếng Việt, phương ngữ (dialect) còn có những tên gọi khác: phương ngôn hay tiếng địa phương. Khái niệm này xuất hiện khá nhiều và được các học giả chú ý đến không chỉ trong các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ mà còn cả trong các nghiên cứu về văn hóa, dân tộc học và xã hội học…v.v. Các nhà phương ngữ học đều coi Phriđrich Ăngghen (Friedrich Engels) là người đầu tiên đề cập đến khái niệm phương ngữ. Ông cho rằng: “phương ngữ hay phương ngôn là biến dạng địa lý (địa phương) của một hệ thống ngôn ngữ đã được hình thành trong quá trình lịch sử” Các nhà ngữ pháp trẻ thế kỉ XIX, lại cho rằng, “phương ngữ là một nhánh của ngôn ngữ toàn dân”. Trên thực tế, PN không phải là một nhánh của ngôn ngữ toàn dân mà là ngôn ngữ được sử dụng trong một phạm vi, một vùng hay một lãnh thổ (khu vực địa lý) nhất định. Giữa các ngôn ngữ ở đây có những điểm chung và những điểm khác biệt. Chambers J.K. và Peter Trudgill (1998) trong PN học (Dialectology) đã đặt câu hỏi “Chính xác phương ngữ là gì?” và cho rằng PN đề cập đến các biến thể mang
  • 27. 24 tính ngữ pháp (và cũng có thể là từ vựng) cũng như những khác biệt âm vị học của các biến thể. Và nhấn mạnh rằng “Phương ngữ học, rõ ràng là việc nghiên cứu về phương ngữ, tập trung chủ yếu vào việc tìm hiểu tiếng địa phương. Nó là một phần nhỏ trong một phạm vi nghiên cứu rộng hơn, đó là ngôn ngữ học xã hội. Phương ngữ đề cập đến các biến thể mang tính ngữ pháp (và cũng có thể là từ vựng) cũng như các khác biệt âm vị học của các biến thể” [107;5]. Cũng với Haugen (1966), Chambers J.K. và Peter Trudgill cũng cho rằng “Phương ngữ là những hình thức mộc mạc hay mức độ thấp và không đạt chuẩn ngôn ngữ, được những tầng lớp thấp hoặc thiếu uy tín trong xã hội sử dụng. Mặt khác, phương ngữ thường dùng để chỉ các hình thức ngôn ngữ được sử dụng ở các khu vực hoặc các nơi bị tách rời với các khu vực khác, nó không có hình thức chữ viết. Phương ngữ được xem là sự lệch chuẩn ngôn ngữ”. Phương ngữ và “giọng” (accent) là như nhau bởi lẽ phương ngữ và giọng hòa trộn vào nhau và rất khó để tách rời” [109;5]. Theo cách hiểu này, PN bị coi là một hình thức “không chuẩn” hay “dưới chuẩn” và được những người thuộc tầng lớp thấp sử dụng. Phương ngữ bao gồm cả tiếng nói của khu vực (địa lý) lẫn tiếng nói của cả các nhóm người khác nhau trong xã hội. Phương ngữ được xác định chủ yếu là do sự “lệch chuẩn” hay “không chuẩn” của một ngôn ngữ một vùng, hay khu vực và mặt khác, chính do bản thân người sử dụng nó. J. Edward (2009), trong Ngôn ngữ và Tư duy, đưa ra định nghĩa về phương ngữ: “phương ngữ là các biến thể của ngôn ngữ, trong đó sự khác nhau được thể hiện ở 3 bình diện là từ vựng, ngữ pháp và cách phát âm (giọng) bởi vì đó là các hình thức khác nhau của cùng một ngôn ngữ” [115; 63]. Theo ông, sự khác nhau ở bất cứ bình diện nào của ngôn ngữ đều là phương ngữ. Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống từng địa phương. Hoàng Thị Châu, trong “Tiếng Việt trên các miền đất nước” (1989) & “Phương ngữ học tiếng Việt” (2004), đã đưa ra định nghĩa về phương ngữ “Phương ngữ là một thuật ngữ ngôn ngữ học để chỉ sự biểu hiện của ngôn ngữ toàn dân ở một địa phương cụ thể với những nét khác biệt của nó với ngôn ngữ toàn dân hay với một phương ngữ khác” [16;29]. Tác giả đã nhấn mạnh “phương ngữ là “hiện thực hóa”, là sự “biểu hiện” của ngôn ngữ toàn dân; đồng thời khẳng định sự tồn tại của những khác biệt khi so sánh giữa phương ngữ với ngôn ngữ toàn dân và so với các phương ngữ khác.
  • 28. 25 Võ Xuân Quế (1993), trong Những đặc điểm ngữ âm giọng Nghi lộc (Luận án tiến sĩ), cũng đã đưa ra định nghĩa về phương ngữ: “Phương ngữ là ngôn ngữ toàn dân được sử dụng trong một vùng lãnh thổ nhất định với một điểm dân cư; là biến thể của ngôn ngữ toàn dân ở các vùng lãnh thổ” [82;24]. Nguyễn Tài Thái, trong Đặc điểm ngữ âm tiếng Sơn Tây (Luận án tiến sĩ) đã cho rằng: “Phương ngữ là những biến thể của ngôn ngữ toàn dân ở các vùng lãnh thổ khác nhau, nói trong mối quan hệ giữa chúng với nhau và với ngôn ngữ toàn dân, thể hiện sự phát triển không đồng đều của ngôn ngữ toàn dân trong lịch sử” [86;31]. Trịnh Cẩm Lan, trong “Sự biến đổi ngôn từ của các cộng đồng chuyển cư đến thủ đô” đưa ra cách hiểu về phương ngữ “Nhìn từ góc độ cấu trúc gọi là phương ngữ của của một ngôn ngữ khi phương ngữ đó có cùng hệ thống, cấu trúc với ngôn ngữ như là hệ thống ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Còn nếu nhìn từ góc độ chức năng thì phương ngữ là một loại biến thể ngôn ngữ mà các chức năng giao tiếp chịu sự hạn chế mang tính địa phương và sự phát triển của nó chưa đạt đến mức tiêu chuẩn hóa” [56;55]…v.v. Tóm lại, nội hàm khái niệm phương ngữ cần bao chứa những nội dung sau: a) phương ngữ được dùng trong một phạm vi địa lý, khu vực (lãnh thổ) hoặc một phạm vi xã hội; b) phương ngữ không hoàn toàn độc lập mà luôn có mối quan hệ với ngôn ngữ toàn dân, nơi mà nó là biến thể hoặc với các phương ngữ khác; c) chức năng của phương ngữ, do đó cũng hẹp (về mặt địa lý) hoặc hạn chế (về mặt xã hội) hơn ngôn ngữ toàn dân; d) sự tồn tại của phương ngữ là do sự phát triển không đồng đều giữa các vùng khác nhau trong lịch sử. 1.2.1.2 Ngôn ngữ toàn dân, thổ ngữ và biến thể ngôn ngữ a. Ngôn ngữ toàn dân Ngôn ngữ toàn dân (NNTD) còn được gọi là ngôn ngữ quốc gia hay ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ toàn dân là ngôn ngữ hành chức trong phạm vi một xã hội được xác định như một dân tộc, quốc gia. Ngôn ngữ toàn dân được lưu giữ trong các phương ngữ lãnh thổ, và được một dân tộc, quốc gia công nhận với tư cách là phương tiện giao tiếp chính thức. Ví dụ, tiếng Việt ở Việt Nam là phương tiện giao tiếp của mọi người Việt (dân tộc Kinh), được lưu giữ trong các phương ngữ trên mọi miền đất nước.
  • 29. 26 Ngôn ngữ toàn dân bao gồm ngôn ngữ văn học và các dạng ngôn ngữ có tính chất trung gian giữa phương ngữ và ngôn ngữ văn học. Các dạng ngôn ngữ trung gian này vừa có những đặc điểm của phương ngữ vừa mang những đặc điểm của ngôn ngữ văn học (có người gọi là bán phương ngữ). Chẳng hạn, tiếng Vinh là dạng có tính chất trung gian vì nó vừa có đặc điểm của phương ngữ Trung vừa có đặc điểm của ngôn ngữ văn học. Tương tự như vậy, tiếng Huế, tiếng Sài Gòn cũng là những dạng ngôn ngữ trung gian. Các ngôn ngữ văn học, phương ngữ, thổ ngữ (biệt ngữ), mặc dù hợp nhất trong ngôn ngữ toàn dân nhưng chúng lại có những đặc trưng và chức năng xã hội khác nhau: ngôn ngữ văn học tồn tại ở cả dạng nói và viết, đồng thời có sự chia cắt lãnh thổ xét về phạm vị sử dụng (việc sử dụng vốn từ địa phương trong các tác phẩm văn học). Trái lại, các phương ngữ, thổ ngữ chỉ hoạt động ở dạng nói và bao giờ cũng được định vị trong một phạm vi lãnh thổ nhất định. Vì vậy, các phương ngữ, thổ ngữ khác với ngôn ngữ văn học là có giới hạn về mặt xã hội “Mỗi một phương ngữ là một ngôn ngữ nhưng ngược lại một ngôn ngữ không phải là một phương ngữ” (H. Heghel). Tuy nhiên, PN cũng như ngôn ngữ văn học đều là phương tiện giao tiếp của một tập người nhất định và trong quan hệ với ngôn bản. Sự tương hợp giữa nội dung và hình thức trong phương ngữ cũng như trong ngôn ngữ văn học đều có sự tương ứng 1:1. Chẳng hạn, một người Nam bộ nói từ “mận” thì người Bắc bộ phải hiểu “doi”; hay ở một ngữ cảnh nào đó, người Trung bộ nói từ “dì”, người Bắc bộ phải hiểu “cô, bác”…v.v. b. Khái niệm thổ ngữ (idiom, patois) Thổ ngữ (TN) là khái niệm dùng để chỉ “tiếng địa phương ở một khu vực, phạm vi nhỏ hơn như huyện, xã, thôn” [16; 30]. Sự tồn tại của TN cũng là một thực tế đối với nhiều ngôn ngữ. Từ góc nhìn ngôn ngữ học địa lý, khác với PN, thổ ngữ là ngôn ngữ được sử dụng trong một vùng lãnh thổ hẹp hơn. Nói một cách khác, TN là biến thể của phương ngữ ở những vùng lãnh thổ nhỏ, hẹp. Ở Việt Nam, nhất là vùng đồng bằng Bắc bộ và Trung bộ có nhiều thổ ngữ, nhiều nơi mỗi làng là một thổ ngữ. Các thổ ngữ khác nhau nhờ các “biến dạng”. Nguyên nhân biến dạng, còn tranh luận nhưng có thể do một số nguyên nhân sau: 1) khả năng lưu giữ các đặc điểm cấu trúc của một ngôn ngữ được thể hiện khác nhau ở
  • 30. 27 các thổ ngữ, khi có điều kiện mới bộc lộ ra; 2) do ảnh hưởng trực tiếp của tình trạng cát cứ phong kiến mà ngôn ngữ được sử dụng ở các vùng lãnh thổ phát triển những chiều hướng khác nhau, không đồng đều; 3) do vị trí địa lí, sự giao lưu và tiếp xúc về chính trị, kinh tế, giao thông, văn hóa… v.v, cũng dẫn đến những biến dạng ngôn ngữ; 4) cũng giống như PN, về mặt ngôn ngữ học, thổ ngữ cũng có hệ ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp riêng như một ngôn ngữ. Do đó, khi nghiên cứu các TN, phương ngữ học không chỉ giới hạn ở một mặt nào đấy mà nghiên cứu tất cả các mặt vốn có của thổ ngữ giống như khi miêu tả một ngôn ngữ. Mặt khác, phương ngữ học còn có nhiệm vụ so sánh, đối chiếu các trạng thái đồng đại của các TN thông qua việc mô tả chúng để tìm ra xu hướng phát triển của các thổ ngữ và phương ngữ. Về sự khác nhau giữa các thổ ngữ, L. Bloofield cũng đã từng lý giải: “những sự khác nhau giữa các lời nói địa phương lân cận thường là rất nhỏ, nhưng có thể nhận ra được. Những người trong làng sẵn sàng cho ta biết ngôn ngữ của làng bên cạnh khác ngôn ngữ của họ ở chỗ nào và thường đùa bỡn những người ở làng bên về những điểm đặc thù này”…v.v. Đối với trường hợp tiếng Việt, theo Hoàng Thị Châu “thổ ngữ là biến thể địa phương của tiếng Việt thống nhất cũng như xã, thôn là một bộ phận của quốc gia thống nhất” [16; 240]. Hay, Vương Toàn cho rằng: “đối với tiếng Việt, phương ngữ lãnh thổ là những biến thể địa lý khu vực của nó. Bên trong mỗi phương ngữ lại có những thổ ngữ, là những biến thể của phương ngữ ở khu vực địa lý hẹp hơn (như tỉnh, huyện, hoặc làng)” [96; 275]. Từ góc nhìn ngôn ngữ học xã hội, Ronald Wardhaugh (2010), trong “Dẫn luận ngôn ngữ học xã hội” (An Introduction to Sociolinguistics), khi phân biệt khái niệm phương ngữ (dialect) và khái niệm thổ ngữ (patois) đã cho rằng: “Thổ ngữ thường chỉ được sử dụng để nói về hình thái nông thôn của ngôn ngữ. Chúng ta có thể nói về phương ngữ thành thị (urban dialect), nhưng để nói thổ ngữ thành thị (urban patois) thì có vẻ khá lạ. Thổ ngữ dường như chỉ dùng để nói về ngôn ngữ của các tầng lớp thấp trong xã hội, do đó, chỉ có thể nói về phương ngữ của tầng lớp trung lưu nhưng không thể nói về thổ ngữ của tầng lớp này” [126; 4]. Cuối cùng, tác giả khẳng định: “Phương ngữ có sự phân bố về mặt địa lí rộng hơn thổ ngữ, như vậy, phương ngữ thuộc về khu vực (regional dialect) còn thổ ngữ thuộc phạm vi hẹp hơn, đó là làng (village patois)”. Theo cách hiểu này, PN và thổ ngữ phân biệt nhau trước hết ở phạm vi sử dụng và thứ hai, phụ thuộc vào đặc trưng của từng tầng lớp xã hội.
  • 31. 28 Như vậy, sự phân bố của thổ ngữ là ở các khu vực hẹp. “Thổ ngữ là biến thể địa phương của tiếng Việt thống nhất. Bên trong mỗi phương ngữ lại có những thổ ngữ là biến thể của phương ngữ ở khu vực địa lí hẹp hơn. Tuy nhiên, việc nhận diện phương ngữ hay thổ ngữ không đơn thuần dựa vào ranh giới địa lí, bởi lẽ, ngay trong một khu vực địa lí hẹp như thôn, làng, xã đôi khi có nhiều tiếng nói khác nhau. Do vậy, việc xác định thổ ngữ cần dựa vào những đặc điểm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp riêng như một ngôn ngữ của một khu vực địa lí hẹp. Nói cách khác, thổ ngữ là “biến thể” của phương ngữ ở những vùng lãnh thổ hẹp. Các thổ ngữ khác nhau nhờ các biến dạng. c. Biến thể và biến thể ngôn ngữ Nghiên cứu PN, thực chất là việc tìm ra những đặc điểm ngôn ngữ riêng của phương ngữ trong so sánh với ngôn ngữ toàn dân và miêu tả chúng với tư cách là các biến thể. Theo Từ điển Ngôn ngữ học và Ngữ âm học (A Dictionary of Languistics and Phonetics), biến thể được định nghĩa là “một thuật ngữ dùng để chỉ một hình thức ngôn ngữ được lựa chọn dung trong một bối cảnh cụ thể. Đó là loại ngôn ngữ “đặc biệt” được dùng trong phương ngữ”. Trong “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học”, Nguyễn Như Ý, giải thích rằng: “biến thể là sự thể hiện cụ thể ở các vị trí khác nhau trong chuỗi lời nói nhưng về bản chất cùng thuộc về một đơn vị ngôn ngữ”. Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, định nghĩa về biến thể: “thể đã biến đổi ít nhiều so với thể gốc” …v.v. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, biến thể ngôn ngữ thực chất là một đơn vị nghiên cứu của ngôn ngữ học xã hội và nhấn mạnh rằng, chỉ có ngôn ngữ học xã hội mới quan tâm đến việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ. Những nghiên cứu về việc sử dụng các biến thể [r], [th] trong các tầng lớp xã hội ở New York của Labov (1966); các biến thể của [n], [t], [h] ở Norwich của Trudgill (1974); các biến thể của [th] và [d] ở cuối các từ “path”, “word” ở các tầng lớp xã hội tại Detroit của Wolfram (1974); các biến thể của 5 thanh điệu, các phụ âm uốn lưỡi và hai vần [ưu] và [ươu] của cộng đồng cư dân Nghệ Tĩnh ở Hà Nội của Trịnh Cẩm Lan (2007); biến thể của [dz] khi thể hiện các từ “gia” (gia đình); “giá” (giá trị) của một số người có tuổi ở Hà Nội để chứng tỏ là người Hà Nội “gốc” …v.v, là những nghiên cứu tiêu biểu cho nghiên cứu biến thể của ngôn ngữ.
  • 32. 29 Tuy nhiên, trong nghiên cứu PN, từ góc nhìn phương ngữ học địa lý (lãnh thổ) việc chỉ ra các biến thể ngôn ngữ ở các phương ngữ, thổ ngữ, đặc ngữ ở những vùng, miền khác nhau so với hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt toàn dân trên cơ sở các bộ phận cấu thành của chúng (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) cũng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Về vấn đề này, Hoàng Thị Châu cho rằng: “Nếu ta nghiên cứu một phương ngữ như một ngôn ngữ, tức là không đặt nó đối lập với các phương ngữ khác, không xem nó là biến thể của ngôn ngữ toàn dân, thì công trình đó, dù là miêu tả hay lịch sử cũng không phải là một công trình phương ngữ học” [16; 31]. Như vậy, “trong hoạt động hành chức, với tư cách là một công cụ giao tiếp, các cá nhân vận dụng khả năng ngôn ngữ của mình để thực hiện các hành vi giao tiếp. Thực tế của quá trình giao tiếp, các cá nhân sử dụng ngôn ngữ cũng chính là việc sử dụng các biến thể ngôn ngữ. Các biến thể này có thể là biến thể địa lý (phương ngữ địa lý – đối với các cá nhân ở các khu vực địa lý khác nhau) hoặc cũng có thể là các biến thể xã hội (phương ngữ xã hội – đối với các cá nhân thuộc các nhóm xã hội khác nhau)” [16]. Do đó, biến thể ngôn ngữ, hiểu một cách đầy đủ dưới góc nhìn của phương ngữ học chính là việc thể hiện khác nhau của các đơn vị ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp… của mỗi cá nhân. “Biến thể (variety) ngôn ngữ có thể được hiểu là các hình thức tồn tại và biến đổi của ngôn ngữ. Nói cách khác, đó là hình thức biểu hiện của ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong hoàn cảnh xã hội giống nhau với các đặc trưng xã hội giống nhau” [54;37]. Biến thể ngôn ngữ thường được phân thành hai loại: biến thể chuẩn (hay tiêu chuẩn) và biến thể phi chuẩn (hay phi tiêu chuẩn) do biến thể ngôn ngữ mang đặc trưng đa dạng, tùy thuộc vào mỗi cá nhân cũng như cộng động sử dụng ngôn ngữ; có vai trò, vị trí khác nhau trong mỗi cộng đồng. Biến thể chuẩn thường gắn với một PN khu vực có ảnh hưởng nhiều mặt đến toàn xã hội và thường đó là biến thể ngôn ngữ có uy tín xã hội cao. Nó có thể trở thành công cụ giao tiếp chính thức của toàn cộng đồng, toàn xã hội. Thông thường, người ta thường dựa trên một số cơ sở để thừa nhận và lựa chọn một biến thể ngôn ngữ nào đó được coi là biến thể chuẩn. Có thể đó là biến thể ngôn ngữ của một khu vực trung tâm về chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế…, của một quốc gia; có thể đó là biến thể ngôn ngữ của một vùng lãnh thổ có ảnh hưởng lớn, quan trọng và quyết định đến sự phát triển mọi mặt của toàn xã hội…v.v. Chẳng
  • 33. 30 hạn, tiếng Hà Nội với vị thế thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước, có thể được coi là biến thể chuẩn của tiếng Việt, là tiếng “phổ thông” hay “giọng chuẩn” mặc dù trên thực tế, xét về cơ cấu ngôn ngữ học, giọng Hà Nội vẫn tồn tại những bất cập và chưa phản ánh đầy đủ những đặc trưng của chữ quốc ngữ. Khác với biến thể chuẩn, biến thể phi chuẩn thường là loại biến thể không mang tính phổ biến, có địa vị và chức năng xã hội thấp hơn. Biến thể phi chuẩn thường gắn với một phạm vi, khu vực hẹp. 1.3 Các hướng tiếp cận nghiên cứu phương ngữ hiện nay Theo Hoàng Thị Châu “Ngôn ngữ thông thường được xét trên 2 chiều là thời gian (lịch sử) và chiều không gian. Hai chiều này có quan hệ với nhau. Nhưng ngôn ngữ với tư cách là công cụ giao tiếp quan trọng nhất giữa người với người, nó còn có chiều thứ ba, phản ánh mặt xã hội nữa, phản ánh sự phân chia xã hội thành tầng lớp, nghề nghiệp, môi trường sinh hoạt…” [14; 3]. 1.3.1 Ở chiều thứ nhất, theo thời gian, phương ngữ học được tiếp cận với mục tiêu chủ yếu là cung cấp cứ liệu (minh chứng) về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp hiện còn được lưu giữ trong các phương ngữ, thổ ngữ cho ngôn ngữ học lịch sử. “Người ta nói hai hay nhiều ngôn ngữ cùng một họ hay một hệ thân thuộc gọi là ngữ tộc khi ta có thể chứng minh được rằng đằng sau các mã của các ngôn ngữ còn có một cái mã chung cho tất cả các ngôn ngữ này, cái mã ấy rất rõ ràng, hiển nhiên đến nỗi ta có thể phục hồi lại toàn bộ. Rồi căn cứ vào cái mã chung này mà ta quyết định là các ngôn ngữ này đều là phát triển từ một ngôn ngữ chung, gọi là ngôn ngữ mẹ và dĩ nhiên ngôn ngữ này hiện nay đã mất…” . Bằng phương pháp so sánh lịch sử, người ta có thể phục nguyên: a) từng từ một; b) phổ hệ của các ngôn ngữ cách đây hàng nghìn năm; c) có thể đoán định cái tộc người nói ngôn ngữ đó sống như thế nào, văn hóa vật chất và tinh thần của họ ra sao; c) góp phần vào việc lý giải những vấn đề lịch sử hiện còn tranh cãi, trả lại cho mỗi tộc người cái phần cống hiến của họ trong trường kỳ lịch sử mà chính họ cũng không biết đến. Chẳng hạn, với trường hợp tiếng Việt, ta có thể so sánh với tiếng Mường và phát hiện ra cái mã chung giữa hai ngôn ngữ, gọi là tiếng Việt – Mường chung. Sau đó, so sánh tiếng Việt – Mường chung với những tiếng Chứt, tiếng Poọng để phục nguyên lại ngôn ngữ tiền Việt – Mường, bao gồm cả tiếng nói của người Việt, người Mường, người Chứt, người Poọng hiện nay vào khoảng thời gian đầu công nguyên. Rồi đi ngược lên đến cái thời người Bahnar
  • 34. 31 và nhiều dân tộc trên Trường Sơn nói chung một thứ tiếng để cuối cùng với phương pháp so sánh lịch sử, phục nguyên và xây dựng nên mô hình của ngữ hệ Nam – Á cổ xưa. 1.3.2 Ở chiều thứ hai, còn gọi là ngôn ngữ học địa lý (hay PN học địa lý). Phương ngữ học có nhiệm vụ khảo sát cách biểu hiện của ngôn ngữ (trên các địa hạt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp toàn dân dưới hình thức các biến thể địa phương của chúng. Nói cách khác, ở chiều thứ hai, phương ngữ học xác định xem những sự khác nhau (hay biến thể) này đụng chạm đến cái mã ngôn ngữ chung (ngôn ngữ toàn dân) đến mức độ nào. Phân chia các vùng PN rồi vẽ bản đồ PN dựa trên cơ sở có chung một số hiện tượng ngữ âm, từ vựng,… cũng là một nhiệm vụ quan trọng của ngôn ngữ học – địa lý. Điều tra, khảo sát, phân tích trên cơ sở so sánh đối chiếu sự tương đồng và những khác biệt (gọi là các biến thể) về các mặt thuộc cơ cấu ngôn ngữ là một trong những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của phương ngữ học theo hướng ngôn ngữ học địa lý. Không kể những sự khác nhau về từ vựng trong các PN do tiếp xúc với những ngôn ngữ lân cận, hầu hết những biến đổi về hình thức trong phương ngữ đều xuất phát từ sự biến đổi ngữ âm học và âm vị học. “Biến đổi ngữ âm là sự biến đổi xảy ra đồng loạt trong mọi từ có âm ấy không trừ một ngoại lệ nào. Còn biến đổi âm vị học là âm vị mới đến thay thế cho âm vị cũ lần lượt hết từ này sang từ khác” [16;24]. Chẳng hạn, ở Thanh Hóa, người ta nói “chị” là “chậy” mà cả hai cách nói này đối với bản thân họ đều có giá trị ngang nhau thì lúc đó có thể coi [ei] là biến thể ngữ âm của [i] trong phương ngữ Thanh Hóa. Nhưng đối với các PN khác, phương ngữ Hà Nội chẳng hạn thì “chị” và “chậy” là hai từ khác nhau không phải là biến thể của nhau. Các biến thể ngữ âm có thể xuất hiện trong những bối cảnh ngữ âm khác nhau: trong thế phân bố bổ túc/ không trong thế phân bố bổ túc, biến đổi mang tính chất đều đặn, nhất loạt/biến đổi không đều đặn, nhất loạt, …v.v. Cụ thể, hiện tượng biến đổi của hai phụ âm cuối /- ŋ ; - k/ phân bố sau các nguyên âm dòng trước thành [- nh; -ch], sau các nguyên âm dòng giữa thành [- ng, - k] và sau các nguyên âm tròn môi dòng sau thành [-ngm , -kp ] ở phương ngữ Bắc bộ được coi là những biến đổi ngữ âm trong thế phân bố bổ túc; còn sự biến đổi [l/n] là những biến đổi không ở trong thế phân bố bổ túc. Hiện tượng biến đổi từ [s --> x; r --> z; tr --> ch] xuất hiện hầu khắp
  • 35. 32 đồng bằng Bắc bộ có tính chất đều đặn, có quy luật, bắt gặp ở tất cả các từ mang âm vị này, không loại trừ một từ nào được xác định là những biến đổi mang tính chất đều đặn, nhất loạt. Còn các hiện tượng biến đổi mang tính không đều đặn, không nhất loạt là trường hợp chỉ thấy xuất hiện ở những từ này mà không xuất hiện ở trong những từ khác (cùng bối cảnh ngữ âm), như [-ă-] --> [-â-]: “tằm” --> “tầm”; “màu” --> “mầu”; “thày” --> “thầy”; “ cày” --> “cầy”; “bảy” --> “bẩy”, …v.v trong đối sánh những từ khác cùng bối cảnh ngữ âm thì không thấy biến đổi, như “cau - câu”; “sau – sâu”; “may – mây”,…v.v, chúng là những từ khác nhau. Hướng nghiên cứu ngôn ngữ học địa lý được các nhà phương ngữ học tiếp cận khá sớm. Tiêu chí (hay cơ sở) phân vùng các phương ngữ theo cách tiếp cận ngôn ngữ học địa lý, chủ yếu dựa trên những đặc điểm tương đồng và dị biệt về ngữ âm, từ vựng (ngôn ngữ) và ranh giới lãnh thổ (địa lý) để xác lập các vùng phương ngữ. Đối với trường hợp tiếng Việt, Hoàng Thị Châu đã vạch ra đường phân giới thành ba vùng phương ngữ chính: a) phương ngữ Bắc: gồm các tỉnh Bắc bộ đến ranh giới tỉnh Thanh Hóa; b) phương ngữ Trung: gồm các tỉnh từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân; và c) phương ngữ Nam: gồm các tỉnh từ đèo Hải Vân trở vào Trong mỗi vùng PN, cũng căn cứ trên cơ sở khác biệt về ngữ âm, lại có thể phân thành các tiểu vùng PN, cùng với các thổ ngữ, biệt ngữ… Các nghiên cứu phương ngữ theo cách tiếp cận ngôn ngữ học địa lý có đặc điểm: a) các nhà nghiên cứu thường căn cứ vào mặt không gian, ranh giới lãnh thổ để xác định, phân vùng phương ngữ; b) các biến thể địa phương, khu vực chủ yếu được tìm hiểu, xem xét, và miêu tả theo cấu trúc luận; c) tập trung miêu tả các đặc điểm ngôn ngữ, như ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của các phương ngữ, thổ ngữ; d) đặc điểm của các phương ngữ, thổ ngữ được miêu tả chi tiết trong đối lập, đối sánh với ngôn ngữ toàn dân (tiếng phổ thông), do đó mới dừng lại ở trạng thái tĩnh, nghĩa là miêu tả đặc điểm ngôn ngữ trong nội tại bản thân nó. 1.3.3 Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ ba (mặt xã hội) là đối tượng của ngôn ngữ học xã hội (hay phương ngữ học xã hội). Theo Hoàng Thị Châu [16], có bốn cơ sở cho việc hình thành phương ngữ học xã hội. Một là, “ở trong một nước, ta thấy có sự phân chia giữa ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ nhân dân, trong đó cái thứ nhất có thể có nguồn gốc ngoại lai hay là một ngôn ngữ cổ, còn cái thứ hai là ngôn ngữ sinh động của quần chúng”. Hai là, “có sự phân chia thành ngôn ngữ văn học và
  • 36. 33 ngôn ngữ hàng ngày”, một bên là ngôn ngữ được trau chuốt, có quá trình phát triển gắn với quá trình chuẩn hóa với một bên là cách nói năng tự nhiên, chủ yếu trong sinh hoạt hàng ngày. Ba là, “có sự phân chia rất quan trọng giữa phương ngữ thành thị với phương ngữ nông thôn, phương ngữ thành thị thường tiến bộ hơn và góp phần vào việc đẩy mạnh quá trình thống nhất ngôn ngữ; còn phương ngữ nông thông bảo thủ hơn, trong đó chứa đựng nhiều dấu vết của những từ, những hình thái cổ”. Và bốn là, “có sự khác nhau trong cách nói năng của những người làm nghề khác nhau như công nhân, nông dân, học sinh, người buôn bán, các nhà khoa học,…v.v”. Bên cạnh các PN xã hội còn tồn tại các biệt ngữ (jargon) và tiếng lóng (argot). Biệt ngữ “là lối nói đặc biệt của một số tầng lớp trong xã hội: giai cấp quý tộc do cố ý nói cho cầu kỳ, đài các để tự phân biệt với người dân thường; học sinh, quân nhân do môi trường sinh hoạt tập thể cũng có cách nói riêng biệt của mình,…v.v.”. Tiếng lóng là loại ngôn ngữ tạo ra cốt nói chỉ cho một nhóm người biết. Cả biệt ngữ và tiếng lóng đều có mục đích nhằm che đậy những việc làm không muốn cho những người ngoài nhóm của mình biết cho nên tất cả những từ gì có thể khiến người ta phỏng đoán được nội dung của công việc đều bị thay thế. Do đó, tiếng lóng chủ yếu là ngôn ngữ của những người thuộc các nhóm xã hội làm nghề phi pháp, bất lương, bị xã hội cấm đoán, như cờ bạc, buôn lậu, ăn cắp, ăn trộm,…v.v. 1.3.4 Tiếp cận phương ngữ theo chiều thứ tư là hướng tiếp cận phương ngữ từ khu vực học. Các học giả và các nhà nghiên cứu PN học nhận thấy rằng, trong suốt nhiều thập kỷ, sự phát triển của ngôn ngữ học chủ yếu được đánh dấu bằng những nghiên cứu chuyên ngành (đơn ngành) đi sâu khảo sát những đặc điểm về cơ cấu ngôn ngữ trên các bình diện, các cấp độ, các đơn vị ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp với mục tiêu nghiên cứu “cho ngôn ngữ” và vì ngôn ngữ, ở một ý nghĩa nào đó, nó tách biệt hoàn toàn với môi trường tồn tại thực tế của nó. Tuy vậy, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ học, trào lưu nghiên cứu liên ngành kết hợp giữa nghiên cứu ngôn ngữ học với một ngành khoa học khác nhằm nghiên cứu ngôn ngữ trong những mối quan hệ đa diện, phong phú đang ngày càng phát triển và đạt được những thành tựu đáng kể. Ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học tâm lý, ngôn ngữ dân tộc học, ngôn ngữ học địa lý….v.v, là những bộ môn ra đời do kết quả của khuynh hướng liên ngành trên nhằm nghiên cứu các vấn đề ngôn ngữ
  • 37. 34 mang tính xã hội, tính tâm lý, tính dân tộc…, hoặc sự biến đổi của ngôn ngữ dưới tác động của các yếu tố đó. Đối với nghiên cứu khu vực học, nghiên cứu ngôn ngữ giữ một vị trí, vai trò đáng kể. Với ba nhiệm vụ cơ bản đối với việc nghiên cứu khu vực trên, nghiên cứu ngôn ngữ học với những chuyên ngành của nó đã và đang có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành một bức tranh tổng thể về một khu vực hoàn chỉnh với tất cả các yếu tố cấu thành của nó. a. Với tư cách là một ngành khoa học mang tính liên ngành điển hình, khu vực học chọn một vùng lãnh thổ làm đối tượng nghiên cứu từ nhiều góc độ: kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo, địa lý, lịch sử,… trong mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau. Ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp, là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của mọi cộng đồng dân cư, do vậy cũng trở thành một đối tượng không thể thiếu trong khu vực học. Nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ khu vực học là một nghiên cứu mang tính liên ngành với ba nhiệm vụ cơ bản: 1) nghiên cứu các vấn đề liên quan đến tình hình sử dụng ngôn ngữ của khu vực đó, nghiên cứu quan hệ và tác dụng tương hỗ giữa ngôn ngữ và sự phát triển của xã hội như ngôn ngữ và dân tộc, chính sách ngôn ngữ, qui hoạch ngôn ngữ, kế hoạch hóa ngôn ngữ…; 2) nghiên cứu nhằm miêu tả diện mạo ngôn ngữ (ở dạng tĩnh) của khu vực đó một cách toàn diện trên mọi bình diện, cấp độ…; 3) nghiên cứu ngôn ngữ với chức năng là công cụ giao tiếp của cộng đồng, xem xét mối quan hệ và tác động của những đặc trưng xã hội, tâm lý người sử dụng nhằm miêu tả tình trạng hoạt động ngôn ngữ của cộng đồng sống trong khu vực đó… b. Do tính giao động linh hoạt của khái niệm “khu vực” mà các vấn đề đặt ra không hoàn toàn như nhau. Trong phương ngữ học, một ngành khoa học ngôn ngữ chọn khu vực hay vùng lãnh thổ được khu biệt về mặt địa lý làm đối tượng nghiên cứu, khái niệm “vùng lãnh thổ” hay “vùng địa lý có thể biểu thị một vùng rộng lớn với những ranh giới địa lý có tính tương đối (ví dụ PNTV có thể chia thành ba vùng lớn: PN Bắc, PN Trung và PN Nam), nhưng cũng có thể là những khu vực trùng với sự phân chia về địa giới hành chính (phương ngữ Nghệ Tĩnh, phương ngữ Thanh Hóa, phương ngữ Bình Trị Thiên,…). Có một số trường hợp, thay vì thuật ngữ “phương ngữ”, người ta đã sử dụng một thuật ngữ khác với nội hàm tương đương “tiếng” như tiếng Hà Nội, tiếng Sài Gòn, tiếng Huế, tiếng Sơn Tây…, mặc dù chúng cũng chỉ là
  • 38. 35 những biến thể địa lý của một ngôn ngữ chung. Cũng có khi biến thể ngôn ngữ của một vùng lãnh thổ hẹp như một làng, một xã hay một huyện (thổ ngữ Nghi Lộc, thổ ngữ Hội An,…v.v.). Theo Hoàng Thị Châu, sự ra đời của các PN là kết quả của hai tác động chính: “tác động bên trong từ cấu trúc ngôn ngữ do sự thay đổi trong hoạt động giao tiếp của cộng đồng, và tác động bên ngoài, do lịch sử phát triển của ngôn ngữ ánh xạ lên sự phân bố về địa lý. Ngoài ra, còn do một tác động thứ ba, đó là tác động của những nhân tố xã hội như thể chế chính trị, kinh tế văn hóa, giáo dục…” [16; 240]. Do vậy, bản thân phương ngữ học mang tính liên ngành rất cao bởi cùng một lúc, nó phải tiếp cận với rất nhiều hiện tượng. Một người nghiên cứu phương ngữ học, bên cạnh các kiến thức về cấu trúc ngôn ngữ học còn cần phải trang bị các kiến thức về địa lý, dân tộc, lịch sử, văn hóa… của vùng địa phương được khảo sát. Các kiến thức đó sẽ giúp cho việc khảo sát, nghiên cứu về đặc điểm cấu trúc ngôn ngữ của vùng PN đó. c. Bên cạnh những nghiên cứu về trạng thái tồn tại tĩnh của ngôn ngữ, phương ngữ và về cảnh huống ngôn ngữ, phương ngữ của một khu vực; nghiên cứu sự lựa chọn ngôn ngữ ở cấp độ hành vi cá nhân theo sự phân tầng xã hội cũng là một nhiệm vụ không thể thiếu trong nghiên cứu khu vực. Mỗi khu vực, dù là một quốc gia độc lập, hay một tỉnh, một huyện, một làng đều được cấu thành bởi những con người – chủ nhân chính của các vùng lãnh thổ đó. Đây không phải là những cộng đồng thuần nhất mà một cách tự nhiên, luôn được phân thành nhóm theo những tiêu chí về tầng lớp xã hội, trình độ văn hóa, lứa tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, giới tính…. Những sự khác biệt này đều để lại dấu ấn trong việc lựa chọn ngôn ngữ hoặc biến thể ngôn ngữ với tư cách là công cụ giao tiếp, công cụ thể hiện tư tưởng, tình cảm hoặc công cụ “có tính biểu trưng” nhằm xác định địa vị, tầng lớp xã hội của bản thân người sử dụng. Vấn đề này đã và đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Các công trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc “khảo sát sự phân tầng xã hội thông qua việc sử dụng các từ xưng gọi chỉ quan hệ thân thuộc và không thân thuộc”; nghiên cứu của W. Labov “khảo sát đặc trưng phát âm của người Mỹ da đen ở New York”; nghiên cứu của R. Lakoff về “sự phân biệt đối xử giới tính trong giao tiếp ngôn ngữ”… v.v; hay ở Việt Nam, nghiên cứu về “quan hệ giao tiếp giữa các thế hệ trong gia đình trung lưu ở một số quận của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội” (nhóm nghiên cứu của
  • 39. 36 Viện Ngôn ngữ học & Lương Văn Hy); “miêu tả về sự khác biệt trong sử dụng ngôn từ của nam và nữ”; “đặc trưng ngôn ngữ của trẻ em tuổi tiền học đường ở thôn Hoài Thị (Bắc Ninh), Khánh Hậu (Long An); “nghiên cứu về sử dụng các biến thể [l] hay [n] ở thôn Bịu Sim (Bắc Ninh)”, [54;43]… luôn được coi là những công trình tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này. 1.4. Cơ sở nhận diện, miêu tả phương ngữ, thổ ngữ Để nhận diện một phương ngữ, người ta thường không chỉ dựa vào những tiêu chí thuộc về cấu trúc của ngôn ngữ mà còn dựa vào cả những tiêu chí ngoài ngôn ngữ. Đối với trường hợp tiếng Việt, mặc dù còn sử dụng những thuật ngữ khác nhau như trên đã đề cập, song nhìn chung, nội dung khái niệm, cơ sở nhận diện và nội dung miêu tả cơ cấu “phương ngữ” trong tiếng Việt được các nhà Việt ngữ học quan niệm một cách tương đối thống nhất. 1.4.1 Ngữ âm học (phonetics) Ngữ âm học là khoa học nghiên cứu mặt âm thanh của ngôn ngữ; cơ chế tạo ra âm thanh và bản chất (hay đặc trưng) tiếng nói của con người. Âm thanh của ngôn ngữ cũng như âm thanh trong thế giới tự nhiên, về bản chất đều tồn tại dưới dạng những sóng âm được truyền trong môi trường nhất định và môi trường đó thường là không khí. Nhưng khác với âm thanh khác trong tự nhiên, âm thanh ngôn ngữ được tạo thành do sự rung động của dây thanh và sự hoạt động của các khí quan khác thuộc bộ máy cấu âm con người. Mặt khác, âm thanh của ngôn ngữ chỉ là những chấn động tạo sóng âm mà bộ máy thính giác của con người có thể cảm được. Những chấn động tạo sóng âm mà tai con người không nghe được không thuộc âm thanh của ngôn ngữ. Do đó, khi miêu tả âm thanh của ngôn ngữ nói chung, các phương ngữ, thổ ngữ của một ngôn ngữ nói riêng (ở đây là trường hợp tiếng Việt), người ta miêu tả các yếu tố ngữ âm về mặt vật lý (tức âm học), mặt sinh lý (tức cấu âm) và cả mặt xã hội (bình diện chức năng). “Mặt thứ nhất nhằm giải thích những sự khác biệt của ngữ âm đối với sự cảm thụ. Mặt thứ hai nhằm thuyết minh những sự khu biệt xét về nguồn gốc cấu tạo. Với sự trợ lực của máy móc ngày nay, người ta có thể miêu tả các yếu tố ngữ âm khá chính xác về cả hai mặt” [92; 26]. Nói cách khác, ngữ âm học (theo nghĩa hẹp) tập trung nghiên cứu, tìm hiểu mặt tự nhiên của âm thanh còn âm vị học hướng đến mặt xã hội của cùng một đối tượng.
  • 40. 37 1.4.1.1 Nghiên cứu và tìm hiểu cách thức hoạt động của bộ máy cấu âm con người để tạo ra âm thanh của ngôn ngữ, của lời nói là đối tượng, nhiệm vụ của phân ngành Ngữ âm học cấu âm (Articulatory Phonetics). Âm thanh của con người được cấu tạo và phát ra do sự hoạt động của bộ máy cấu âm. Bộ máy cấu âm con người gồm ba bộ phận chính: cơ quan hô hấp (gồm phổi và hai lá phổi); thanh hầu (gồm thanh môn và hai dây thanh) và các khoang cộng hưởng phía trên thanh hầu (gồm khoang yết hầu, khoang miệng, khoang mũi). Cơ quan hô hấp có vai trò tạo ra năng lượng (hay còn gọi là luồng hơi); thanh hầu, nhất là hai dây thanh dưới tác động của luồng hơi, tùy theo mức độ chấn động khác nhau tạo ra các sóng âm; còn các khoang cộng hưởng phía trên thanh hầu có vai trò như những cộng minh trường. Riêng khoang yết hầu và miệng do hoạt động của lưỡi và môi mà có thể thay đổi về thể tích, hình dáng và lối thoát của không khí, tức những nhân tố quyết định khả năng cộng hưởng và làm biến đổi âm sắc của âm thanh khi đi qua chúng. Do vậy, khi tìm hiểu đặc trưng âm thanh từ cơ sở sinh lý cấu âm, người ta chú trọng vào việc tìm hiểu vai trò của các cơ quan cấu âm tham gia vào quá trình cấu tạo âm thanh. Đặc biệt là hoạt động cụ thể của các yếu tố, bộ phận trong mỗi cơ quan cấu âm để từ đó có cơ sở xác định về mặt phương thức cũng như vị trí cấu âm của âm thanh. Chẳng hạn, về cơ chế tạo luồng hơi, xem xét âm thanh được cấu tạo từ những cơ chế luồng hơi (LH) nào: LH từ phổi (lung), LH từ thanh hầu (glottalic), LH từ mạc (velaric), thậm chí xem xét cả mối quan hệ giữa cơ chế hoạt động của LH với môi trường không khí bên ngoài,… Về phương thức tạo âm thanh, căn cứ vào cách thức hoạt động của hai dây thanh sẽ cho các cách thức cấu tạo âm thanh khác nhau. “Theo quan điểm của John Clark và Colin Yallop; Gordon và Ladefoget, về cơ bản các ngôn ngữ trên thế giới sử dụng 5 thức tạo thanh khác nhau: vô thanh (voicelessness), hữu thanh (voice), thở (breathy), thường (modal) và kẹt thanh (creaky). Đây là cơ sở để tạo ra các chất giọng như: chất giọng thường (gồm cả vô thanh và hữu thanh), chất giọng thở, chất giọng kẹt thanh (thanh quản hóa)”. [dẫn theo [86]), …v.v. 1.4.1.2 Nghiên cứu và tìm hiểu những đặc trưng vật lý (mặt âm học) của âm thanh là đối tượng, nhiệm vụ của phân ngành Ngữ âm học âm học (Acoustic Phonetics). Âm thanh ngôn ngữ được tạo thành trước hết là do sự chấn động tạo sóng âm. Các âm thanh ngôn ngữ được tạo ra phân biệt nhau bởi những đặc trưng âm học: độ cao (cao độ), độ mạnh (cường độ), độ dài (trường độ) và âm sắc,… v.v.