SlideShare a Scribd company logo
1 of 38
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRONG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM
1.1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT
1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học
Giáo dục được coi là một hiện tượng phổ biến và luôn tồn tại cùng xã hội
loài người. Đã có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày khái niệm về giáo
dục, có thể đưa ra một số khái niệm chung nhất về giáo dục như sau:
Tác giả Kelly theo quan điểm phát triển cho rằng: “Giáo dục là sự phát
triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển tối đa mọi khả năng tiềm ẩn
trong mỗi con người làm cho con người có khả năng làm chủ được tình huống,
đương đầu với những thách thức mà mình sẽ gặp phải trong đời một cách chủ
động và sáng tạo”. Theo quan điểm này, giáo dục là quá trình tiếp diễn liên tục,
suốt đời [5].
Savin – một nhà giáo dục học đã định nghĩa rằng: “Theo nghĩa rộng,
khái niệm giáo dục là tất cả quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên bước
vào cuộc sống, bao gồm cả quá trình dạy học và đào tạo”. Theo khái niệm này,
giáo dục được hiểu là gồm cả giáo dục và đào tạo, tuy nhiên nó chỉ đề cập đến
một mặt: “Quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên…”. Trên thực tế thì giáo
dục bao gồm tất cả các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng của con
người trong suốt cả cuộc đời[5].
Gillis đã đưa ra khái niệm tổng quát hơn về giáo dục: “Theo nghĩa rộng,
giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người, hay hẹp hơn đó là một quá
trình có ở những nới đã được chuyên môn hóa gọi là trường học”. Giáo dục là
một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo những
khía cạnh khác nhau. Giáo dục với khái niệm rộng hơn gần giống
12
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
với nghĩa “nghiên cứu”. Theo đó Gillis cho rằng có ba loại giáo dục là giáo dục
chính quy, giáo dục không chính quy và giáo dục không chính thức [5].
Luật Giáo dục Việt Nam 2005, Điều 4 quy định: Hệ thống giáo dục quốc
dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục thường xuyên
là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Do
vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức giáo dục chính quy
trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường xuyên, người ta hiểu rằng
đó là giáo dục tiếp tục. Điều 44 quy định giáo dục thường xuyên giúp mọi người
vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở
rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện
chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống
xã hội. Tuy nhiên, sự phân loại này trong thực tế chỉ là tương đối nhằm để thuận
tiện cho việc tổ chức và quản lý trên cơ sở đa dạng hóa, xã hội hóa cùng bình
đẳng thực hiện mục tiêu chung của giáo dục.
Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam bao gồm: Giáo dục mầm non
có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung
học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề;
Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo
trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Như vậy,
giáo dục đại học là bộ phận kết nối sau cùng trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Quan niệm về giáo dục đại học được Tổ chức văn hóa, Giáo dục - Xã hội
Liên hợp quốc (UNESCO) đề xuất từ 1968 và được nhiều nước thừa nhận với
tên gọi là “Giáo dục bậc ba”. Nhưng từ sau Hội nghị quốc tế về giáo dục đại
học ở Paris (Pháp) năm 1998 có quan điểm mới: GDĐH ở thế kỷ 21 là học tập
suốt đời và bao gồm tất cả các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào tạo
13
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cho nghiên cứu ở đình độ sau bậc trung học được cung cấp bởi các viện đại học
hay các tổ chức giáo dục đã được các cấp thẩm quyền công nhận là cơ sở GDĐH
[5].
Theo quan điểm đó, GDĐH còn được coi là giáo dục sau trung học bao
gồm không chỉ GDĐH truyền thống như cao đẳng, đại học mà còn tất cả trình
độ học vấn cung cấp cho những người tốt nghiệp phổ thông trung học. Vậy
GDĐH với quan niệm là giáo dục sau trung học, thực chất là không gian mở
cho đào tạo đại học và học tập suốt đời.
Ở nước ta, theo Điều 38, Mục 4 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định
giáo dục đại học bao gồm:
Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành;
Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo
ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc
bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm
học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành;
Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với
người có bằng tốt nghiệp đại học;
Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người
có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc
sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo
dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Theo điểm 8, Điều 4, Chương I Luật Giáo dục đại học: Đaịhoc ̣là cơ sở
giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện
14
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ
chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học [16].
Trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học được quy định tại
Điều 6: Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình
độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng
dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn
đặc thù; Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học được thực hiện theo hai hinh̀
thức làgiáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên.
Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học trong hê ̣thống giáo duc ̣quốc dân
gồm: Trường cao đẳng; Trường đại học, học viện; Đại học vùng, đại học quốc
gia;Viện nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học
- Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc sau cùng trong hệ thống giáo dục và
đào tạo mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà khoa
học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các trình độ
khác nhau.
GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy, không
trực tiếp không tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên theo phân công lao
động xã hội, GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị
cho họ tài khéo léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản
thân và cho xã hội, gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc
với năng suất lao động cao hơn của mỗi người.
Theo Manuel (1991), GDĐH có 3 chức năng quan trọng. Trước hết, nó
bao gồm các nền văn hóa và tri thức nhân loại; tái tạo hoặc phản biện ý thức hệ
chi phối của quốc gia. Thứ hai, nó lựa chọn những người ưu tú giới thiệu
15
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cho đất nước và cuối cùng, nó sáng tạo ra kho tàng tri thức mới. GDĐH không
chỉ tái tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp
dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học
vào sản xuất và đời sống cho toàn bộ các thành viên trong xã hội; góp phần xóa
bỏ khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo thông qua việc trang
bị cho người học những tri thức và kỹ năng cần thiết để kiếm sống.
GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh
tế hiện đại – nền “kinh tế tri thức”, được dự báo sẽ ngày càng có ý nghĩa quyết
định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai. Liên hợp quốc xác định
giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng là quyền con người, là phương tiện phát
triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền
thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một phương tiện tích
lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội.
Như vậy, về mặt nhận thức tính chất của GDĐH có thể nêu ra hai thuộc
tính về mặt kinh tế và mặt xã hội:
- GDĐH vừa thực hiện chức năng phúc lợi vừa thực hiện chức năng
dịch vụ
Dưới góc độ xã hội, đối với nước ta hay bất kỳ quốc gia nào, xuất phát
từ truyền thống ham hiểu biết, hiếu học của mỗi dân tộc chính sách công bằng
xã hội được trong giáo dục cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật và các văn bản
dưới luật, mọi người đều có quyền được học tập, nhà nước khuyến khích và tạo
mọi điều kiện để người dân tham gia vào quá trình học tập. Xem xét trên góc
độ này lĩnh vực giáo dục đã thực hiện chức năng phúc lợi, giáo dục đảm bảo
quyền được học tập của mọi người.
Dưới góc độ lý thuyết kinh tế, sản phẩm GDĐH được thực hiện dưới
hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và
16
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
người học mua sức lao động của người dạy bằng phí, học phí hoặc đóng thuế
để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dựa trên phân công lao động xã hội
trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng
viên không sản xuất ra tư bản.
Theo K. Marx , đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi nó được
mua bán như một dịch vụ và hàng hóa thông thường. K.Marx viết: “Trong
trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản
xuất ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như
một dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà
lao động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hóa khác”.
GDĐH là loại sản phẩm đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không theo
một tỉ lệ nhất định với năng suất lao động. Đối với một sản phẩm bất kỳ, khi
lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó để khuyến khích tiêu dùng xã
hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho chi phí cá nhân.Việc bù đắp thuộc trách
nhiệm của nhà nước hoặc của ai đó theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi
nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác động bởi năng xuất lao động.
- GDĐH là sản phẩm mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội
GDĐH có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với các loại sản phẩm
dịch vụ khác. Sản phẩm dịch vụ GDĐH là những người công dân có ích với
chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Người mua sản
phẩm GDĐH không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và
lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên
nếu như loại sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn.
GDĐH là một loại sản phẩm dịch vụ có đầy đủ các tính chất kinh tế giống
như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp
với việc mua bán hàng hóa.
17
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1.2. Đầu tƣ trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu
đặt ra
1.2.1. Khái niệm
 Khái niệm đầu tư
“Đầu tư” không còn là khái niệm xa lạ hay trừu tượng, tuy nhiên trên thế
giới không có khái niệm “đầu tư” duy nhất và bất biến. WTO – Tổ chức thương
mại thế giới là mô hình tối cao của hội nhập cũng không quy đình gì về vấn đề
đầu tư. Nhiều vòng đàm phán không giải quyết được bất đồng xung quanh khái
niệm “đầu tư” nên mặc dù có ý định soạn thảo Hiệp ước đa phương tiện về các
vấn đề đầu tư vào năm 1978 nhưng OECD – Tổ chức hợp tác và phát triển kinh
tế - cũng không thành công. Pháp luật các nước trên thế giới có các cách nhìn
nhận khái niệm “đầu tư” khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng 2003,
tr301) khái niệm đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì,
trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội”. Trong kinh tế học, đầu tư là hoạt
động được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho
nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã
sử dụng để đạt được những kết quả đó.
Theo quan điểm của các nhà luật học, hoạt động đầu tư là việc nhà đầu
tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực
hiện nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác. Hoạt động
đầu tư có thể có tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong
khoa học pháp lý cũng như thực tiễn sử dụng chính sách, pháp luật về đầu tư,
hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, theo
Black’s Law bản chất là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá
trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận.
18
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, khái niệm đầu tư trong kinh doanh
chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Hoạt động đầu
tư được điều chỉnh bởi Luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Luật đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm
mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn
bằng các tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các
hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan”[14]. Luật đầu tư thống nhất và có phân biệt về thuật ngữ
giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được hiểu là hoạt
động của các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu
tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư.
Dưới góc độ điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh,
có thể thấy hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2005 chính là một
bộ phận của hoạt động thương mại, phù hợp với khái niệm của Luật thương mại
(Khoản 1 Điều 3). Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương
mại nói chung đó chính là mục đích lợi nhuận, đồng thời hoạt động đầu tư cũng
có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động thương mại khác nhau như mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại,… Tuy nhiên, hoạt động đầu tư là hoạt
động có tính chất tạo lập, là sự bỏ vốn, tài sản… nhằm hình thành cơ sở vật
chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi
nhuận.
 Khái niệm đầu tư trong giáo dục đại học
Hoạt động đầu tư trong giáo dục nói chung và đầu tư trong giáo dục đại
học nói riêng là một hoạt động đầu tư đặc thù, là một bộ phận của hoạt động
đầu tư nói chung, chủ yếu liên quan đến sự điều chỉnh của Luật Đầu tư 2005,
Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục đại học 2012.
19
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Điều 5, Luật Đầu tư 2005 quy định về áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước
quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế: Hoạt động đầu tư của
nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan; Hoạt động đầu tư đặc thù được quy
định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó; Trường hợp điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó;
Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam
chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp
luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước
ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam [14]. Cũng theo Luật đầu tư 2005“Phát triển sự nghiệp giáo dục,
đào tạo” được quy định là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Điều 27) và là lĩnh vực đầu
tư có điều kiện (Điều 29). Theo Luật giáo dục 2005, “phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu”(Điều 9); “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển”
(Điều 13); “Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học” (Điều
12 Luật Giáo dục đại học 2012).
Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, việc đầu tư cho giáo dục được quy
định theo hướng thống nhất, đồng bộ giữa Luật đầu tư và Luật giáo dục, là hoạt
động chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nhưng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực
giáo dục lại được thực hiện theo quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành.
Đầu tư cho giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu
tư. Hoạt động cho giáo dục có những đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư nói
chung, đều là sự hy sinh nguồn lực trong hiện tại để tiến hành những hoạt động
trong môi trường giáo dục nhằm thu được những kết quả trong tương lai và kết
quả thu được từ hoạt động đó phải lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra.
20
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động
và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền
vốn); tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, quản lý, khoa học,…) và nguồn nhân
lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất
xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả xã hội được thụ hưởng.
Chẳng hạn, một trường học được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư
trực tiếp tăng thêm, đồng thời xã hội cũng được hưởng thành quả của hoạt động
đầu tư này.
Hoạt động đầu tư cho giáo dục không chỉ đem lại kết quả cho nhà đầu tư
mà còn cả nền kinh tế-xã hội được thụ hưởng chính là đầu tư phát triển. Còn
các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động
gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua đóng góp tài chính tích lũy
của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động
đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối do kết quả của hoạt
động đầu tư phát triển tạo ra thì đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Như vậy, đầu tư cho GDĐH là một bộ phận của đầu tư nói chung, đều
mang lại những lợi ích tăng thêm cho nhà đầu tư và góp phần mang lại cho xã
hội những giá trị quan trọng như nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tƣ trong giáo dục đại học
- Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư phát triển
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư. Là việc chi dùng trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…) vì mục
tiêu phát triển.
21
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Đầu tư phát triển đòi hỏi phải có nhiều loại nguồn lực. Với xu hướng
phát triển hiện tại, nguồn lực đầu tư có thể đến từ nhà nước, cũng có thể do tổ
chức cá nhân trong và ngoài nước bỏ ra. Phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư
ngoài nhà nước mở rộng theo lộ trình xã hội hóa giáo dục. Hoạt động đầu tư có
hiệu quả cao là kết quả của việc huy động tích cực nguồn lực đầu tư trong xã
hội. Đa số đầu tư nguồn lực nhằm mục đích sinh lời, cũng có chủ đầu tư vì tâm
huyết với sự học, vì trách nhiệm với xã hội.
Đối tượng của đầu tư trong giáo dục là tập hợp các yếu tố được chủ đầu
tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm
của phân công lao động xã hội thì đây là đầu tư theo ngành. Dưới góc độ tính
chất đầu tư thì đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng thì
yêu cầu đặt ra đối với đầu tư trong giáo dục đại học phải đảm bảo tính chất phi
lợi nhuận (mục tiêu lợi nhuận không phải là tuyệt đối). Trên góc độ xem xét sự
quan trọng, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có đối tượng được khuyến khích đầu
tư.
Kết quả của đầu tư cho GDĐH là sự tăng thêm về tài sản trí tuệ (trình độ
văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…), tài sản vật chất (trường học, trang
thiết bị…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, công trình khoa học…). Các
kết quả của hoạt động đầu tư cho GDĐH góp phần làm tăng thêm những giá trị
và chất lượng cho xã hội. Đặc thù của kết quả đầu tư cho GDĐH so với các
hoạt động đầu tư khác chính là tương quan so sách kết quả kinh tế xã hội thu
được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển
cần được xem xét trên cả phương diện đối với chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo
hài hòa giữa các lợi ích, khuyến khích vai trò chủ động của chủ đầu tư, vai trò
quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước các cấp. Đầu tư trong GDĐH
tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động
22
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
như các hoạt động đầu tư khác nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lược
cuộc sống và vì mục tiêu phát triển.
Mục đích của hoạt động đầu tư cho GDĐH là vì sự phát triển bền vững,
lợi ích quốc gia, cộng đồng và của nhà đầu tư.
Đầu tư cho GDĐH thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định.
Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói
chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức
chính trị-xã hội, cộng đồng dân cư, nhà đầu tư nước ngoài,…
Hoạt động đầu tư trong GDĐH là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài
và tồn tại vấn đề “độ trễ về thời gian”. Đó là sự không trùng hợp giữ thời gian
đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả
đầu tư thường thu được trong tương lai xa.
Nội dung đầu tư trong GDĐH được quy định trong pháp luật về đầu tư
và pháp luật về giáo dục. Bao gồm các hình thức đầu tư, điều kiện đầu tư, quyền
và nghĩa vụ của nhà đầu tư; trình tự, thủ tục và triển khai dự án đầu tư; bảo đảm
khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư.
- Đầu tư cho GDĐH là hoạt động đầu tư đặc thù
+ Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là một loại hình dịch vụ đặc
biệt. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò và tính cao đẹp của giáo
dục. Coi giáo dục là một loại dịch vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước có nghĩa
là đã đặt giáo dục vào vị trí hàng đầu, vị trí tạo tiền đề, tạo động lực cho mọi sự
phát triển. Trên thực tế không một ngành nào là không cần đến nhân lực, không
thừa hưởng kết quả đào tạo của giáo dục. Một kết quả của GDĐH sẽ đi liền với
kết quả cộng hưởng của những ngành kinh tế, xã hội. Một xã hội đi lên bằng
những chương trình được hoạch định một cách khoa học, phù hợp với nhu cầu
khách quan của cuộc sống, phù hợp với xu thế của thời đại thì
23
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
giáo dục phải là một bộ phận khăng khít hữu cơ, phải là hoạt động tiền đề của
mọi hoạt động.
Giáo dục vừa là một ngành hoàn chỉnh, hoạt động với tinh thần chủ động,
sáng tạo theo mục tiêu nhiệm vụ của chính phủ giao cho nhưng cũng lại vừa là
một bộ phận chủ chốt trong hệ thống tổng thể của đất nước với tư cách là một
loại dịch vụ quan trọng, hoạt động theo cơ chế thị trường.
GDĐH là một lĩnh vực đặc thù, khác với lĩnh vực kinh tế, trong đó đối
tượng là con người chứ không phải là hàng hóa hay lợi nhuận, do đó cần phải
khẳng định một số quan điểm và phải có những giải pháp hết sức cụ thể. Sẽ còn
rất nhiều ý kiến bàn luận xung quanh vấn đề này, vì đây vẫn là vấn đề nhạy cảm
nhưng cũng phải thống nhất rằng giáo dục không phải là thị trường nhưng giáo
dục có nhiệm vụ cung ứng dịch vụ học tập cho xã hội, bản thân nó cũng có tính
cạnh tranh, có sự đầu tư để đạt những lợi ích cho cả nhà đầu tư và cho xã hội.
Bởi lẽ chúng ta không nên né tránh khái niệm dịch vụ trong giáo dục đào tạo
mà nên coi đó là cơ hội nâng cao chất lượng giáo dục, mang lại những giá trị
cao quý cho xã hội nhất là con người được đào tạo bài bản có tri thức.
Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng vẫn phải là sự nghiệp của nhà
nước chăm lo cho nhân dân chứ không được hiểu xã hội hóa giáo dục là chuyển
tất cả các hoạt động giáo dục đào tạo cho các thành phần “phi nhà nước” tổ
chức và quản lý. Vai trò của xã hội hóa là chấm dứt một số hoạt động bao cấp
không cần thiết trong giáo dục, cung cấp các tiện nghi tốt hơn cho một bộ phận
nhân dân có điều kiện tài chính cao hơn, làm nhẹ gánh nặng ngân sách nhà nước
để tập trung nguồn lực cho đại bộ phận người dân còn khó khăn.
+ Hoạt động đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là hoạt
động đầu tư có điều kiện và được hưởng ưu đãi đầu tư.
24
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Theo Luật đầu tư 2005 về ưu đãi đầu tư giáo dục nói chung và GDĐH
nói riêng được coi là ngành nghề được khuyến khích trên cơ sở có chọn lọc
giữa các ngành trong toàn xã hội. Nhà nước dành cho GDĐH một cơ chế ưu
tiên, tạo điều kiện để thu hút, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những quy định về ưu đãi đầu tư được ghi
nhận cả trong pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục, tạo nên một khung
pháp lý chung cho các nhà đầu tư trên cơ sở không phân biệt giữa đầu tư trong
nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung của ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực GDĐH
bao gồm ưu đãi về tài chính, về đất đai cho xây dựng trường học, ưu đãi về thuế
thu nhập; đảm bảo về cân đối ngoại tệ đối với các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư
nước ngoài.
Về điều kiện đầu tư, gồm điều kiện đối với chủ thể đầu tư, điều kiện
thành lập và hoạt động của cơ sở giáo dục, điều kiện về vốn đầu tư và cơ sở vật
chất,…Tuy trên thực tế chúng ta hướng tới mục đích đảm bảo đối xử công bằng
giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhưng trong lĩnh vực GDĐH
là lĩnh vực đầu tư đặc biệt, vẫn có sự phân biệt nhất định giữa hai loại chủ thể
đầu tư này.
1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học ở
Việt Nam
1.3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục
đại học
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh được xem là một quy
luật tất yếu, là nền tảng phát triển. Cung và cầu thị trường đóng vai trò nền tảng
trong phát triển, phân phối và sử dụng các nguồn lực xã hội.
Quan điểm của các nhà đầu tư là chi phí cực tiểu và đạt lợi ích tối đa cả
về phương diện cá nhân và xã hội, được lấy làm thước đo cho việc tính toán,
25
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
xem xét và đưa ra quyết định đầu tư một ngành, nghề hay lĩnh vực đào tạo cụ
thể nào đó.
Môi trường pháp luật với khung pháp lý hoàn chỉnh và hệ thống các văn
bản pháp quy minh bạch điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường dịch vụ
sản phẩm GDĐH sẽ bảo đảm và giúp cho thị trường này hoạt động an toàn, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường. Hệ
thống pháp luật đầy đủ sẽ hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng
bất công trong xã hội nói chung, trong lĩnh vực GDĐH nói riêng. Chỉ có dựa
trên một hệ thống công cụ pháp luật đầy đủ và vững chắc, nhà nước mới có thể
điều tiết xã hội thực hiện phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo
hướng bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm lợi ích bình đẳng trước cơ hội
nhập học. Chỉ có một hệ thống luật pháp vững chắc thì nhà nước mới có thể
xây dựng được cơ chế, chính sách tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công
khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương cho các chủ thể tham gia quản lý, điều
hành các hoạt động GDĐH để huy động và phát huy các nguồn lực xã hội phát
triển GDĐH.
Nghiên cứu các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khi
những người nghèo không có cơ hội và điều kiện tiếp cận GDĐH, nhà nước
thông qua các chính sách phát triển điều chỉnh lại mức độ thụ hưởng các giá trị
định hướng trong các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trong cộng đồng,
cả về phương diện vật chất, cũng như về phương diện tinhh thần. Nhà nước sử
dụng công cụ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH để tác động, can thiệp vào
quá trình vận động của hệ thông GDĐH nhằm loại bỏ, hoặc hạn chế những ảnh
hưởng xấu của kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích công cộng của GDĐH.
Thông qua hệ thống pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH, nhà nước
định hướng cho GDĐH phát triển theo đúng mục tiêu và tạo lòng tin cho các
26
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển GDĐH, đồng thời nó còn là
cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, cho các nhà đầu tư trong toàn xã hội tham
gia phát triển GDĐH. Thực tế của các nước phát triển chỉ ra rằng, GDĐH chỉ
có thể phát triển bền vững, lành mạnh và đúng định hướng dựa trên nền tảng
của một hệ thống thể chế, pháp luật đầy đủ, ổn định. Với ý nghĩa đó, việc hoàn
chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật đầu tư
GDĐH ở cấp độ vĩ mô cần được tiến hành thường xuyên để theo kịp với quá
trình phát triển kinh tế-xã hội. Hệ thống thể chế mới càng phải tăng cường chức
năng quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời nâng cao quyền chủ động cho các
cơ sở đào tạo. Nhà nước chỉ nên thể hiện vai trò, chức năng của người trọng tài
điều khiển hơn là trực tiếp tham gia.
Tuy nhiên hiện nay, việc chi đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước
quá lớn, đứng trước bối cảnh suy thoái kinh tế, việc xã hội hóa đầu tư cho giáo
dục đại học là cần thiết, để đáp ứng các yêu cầu nâng cao cả về số lượng và
chất lượng đào tạo, đảm bảo tính công bằng trong giáo dục đào tạo, vừa giảm
bớt gánh nặng chi từ ngân sách, vừa khuyến khích được các nhà đầu tư trong
và ngoài nước, các nhà hảo tâm, và của chính người học.
Ngoài ra, khi hội nhập vào khu vực ASEAN và thế giới, muốn tồn tại và
phát triển bắt buộc chúng ta phải có sức mạnh cạnh tranh. Muốn có sức mạnh
cạnh tranh cao và dài hơi, bắt buộc chúng ta phải đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục,
nhất là giáo dục đại học và phải bắt đầu ngay tức thì để có chất lượng ngày
càng cao.
Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Số: 760 /BC-BGDĐT) ngày
29 tháng 10 năm 2009 cả nước có 376 trường, đến nay trên cả nước chúng ta
đã có trên 412 trường ĐH và CĐ. Hầu hết các tỉnh thành chúng ta đều có trường
ĐH, CĐ. Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định, công tác xã hội hoá
giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu
27
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
tư cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các cơ sở giáo dục
đại học đã dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan trọng
trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và cả nước.
Ngày 15/5, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Hữu Đức
cho biết theo Bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symond) vừa công bố kết quả
xếp hạng các trường đại học châu Á năm 2014, lần đầu tiên, Việt Nam có ba cơ
sở giáo dục đại học được lọt vào danh sách năm nay gồm Đại học Quốc gia Hà
Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa Hà Nội.
Về xếp hạng, Đại học Quốc gia Hà Nội thuộc nhóm 161-170, Đại học Quốc gia
thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm 191-200 và Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội thuộc nhóm 251-300. Hai năm trước đây, Việt Nam chỉ mới có Đại học
Quốc gia Hà Nội xếp trong nhóm 201-250 [11]. Tuy nhiên, ở nước ta, các đại
học lớn vẫn chưa được đứng trong bảng xếp hạng 150 trường đại học tốp đầu
châu Á, trong khi nhiều trường đại học của các nước láng giềng như Philippin,
Inđônêsia đã có mặt. Đặc biệt, theo Bảng xếp hạng QS năm 2014, tốp những
cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của châu Á là Đại học Quốc gia Singapore
(NUS), tiếp đến là Viện Khoa học Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST),
Đại học Hong Kong, Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc), Đại học Khoa học
và Công nghệ Hong Kong, Đại học Công nghệ Nanyang (NTU - Singapore),
Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang
(POSTECH - Hàn Quốc) và thứ 10 là Đại học Tokyo (Nhật Bản)[11].
Theo Giáo sư Hoàng Tụy, trên Tuổi trẻ Online (ngày 25/10/2007): “…
Có lẽ chỉ 15 - 20% số tiến sĩ có trình độ thật sự tương xứng với bằng cấp đó
trên quốc tế. Tương tự, cũng chỉ 15 - 20% số giáo sư, phó giáo sư có trình độ
28
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
thật sự tương xứng. Còn lại không chỉ thấp, mà có đến hơn một phần ba thấp
đến tệ hại, nhiều người không đứng nổi trong phạm trù “dạy đại học”, dù ở
mức thấp. Rất nhiều tiến sĩ của ta trình độ không hơn gì cử nhân ở các nước,
rất đông phó giáo sư của ta không so sánh nổi với trợ giảng mới ra trường của
họ” . Bài viết của tác giả Chi Mai, trên vietnam.net ngày 3/3/2014: “24.000
tiến sỹ Việt Nam đang làm gì?” đã đưa ra số liệu thống kê mới nhất của Bộ GD-
ĐT, tính đến năm 2013 Việt Nam có khoảng 24.300 tiến sỹ, trong đó có 633
tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường
đại học, còn khoảng 15.000 tiến sĩ đang làm việc ở những đâu? Bài viết cũng
chỉ ra đích danh một số tên dỹ rởm “bị lộ” hiện nay đang làm việc ở đâu [17].
Mặt khác theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngân sách Nhà nước
cấp cho các trường đại học thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tăng
hằng năm (năm 2006: hơn 259,5 tỷ, năm 2008: hơn 264 tỷ đồng, năm 2011:
151,200 tỷ đồng, năm 2012: 170.349 tỷ đồng). Tuy nhiên, nguồn thu từ hoạt
động khoa học và công nghệ của các trường đại học từ năm 2006 đến năm 2008
còn rất thấp, chỉ chiếm 3,92% trong tổng nguồn tài chính của các trường đại
học. Thực tế vẫn chưa có một thống kê nào đánh giá cụ thể tỷ lệ các đề tài
nghiên cứu được đưa vào áp dụng, nhưng theo các chuyên gia nhận định, có
khoảng 60% kết quả nghiên cứu khoa học được đưa vào ứng dụng, nghĩa là còn
40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”. Các nhà khoa học không biết giới
sản xuất đang cần gì ở họ, còn các doanh nghiệp cũng chẳng hiểu công nghệ
mình cần trong nước đã có hay chưa và không thể chủ động đưa ra yêu cầu của
mình. Hậu quả là doanh nghiệp tìm đến với công nghệ nước ngoài, nhà khoa
học nghiên cứu theo sở thích và chuyện kết quả nghiên cứu “trùm mền” chẳng
có gì là khó hiểu[45].
29
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Tại “Đối thoại giáo dục VN: Cải cách giáo dục ĐH” diễn ra trong hai
ngày 31/7 và 1/8/2014, là chủ đề được lựa chọn cho hội thảo do Nhóm đối thoại
giáo dục phối hợp với Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức tại Trung tâm Hoa Kỳ
(TP.HCM). Tại đối thoại GS Ngô Bảo Châu và gần 100 học giả, các giáo sư và
đại diện các trường ĐH trong và ngoài nước đều nhất chí giáo dục ĐH trong
nước đã và đang tụt hậu ngay trong khu vực [4]. Theo PGS.TS Phan Thanh
Bình, giám đốc ĐHQG TP.HCM, Việt Nam đang xếp trong nhóm các nước tụt
hậu về giáo dục trong ASEAN[11].
Ngoài ra, vấn đề đang được các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia,
các nhà đầu tư và của người dân quan tâm, đó chính là câu chuyện “phi lợi
nhuận” trong giáo dục đại học.
Xin được trích dẫn một phần trong bài viết của tác giả Thuận Nhiên được
báo Diễn đàn doanh nghiệp đăng ngày 9/8/2014 với nhan đề: “Đầu tư giáo dục
nhìn từ trường ĐH Hoa Sen: Mập mờ lợi nhuận-phi lợi nhuận”.
“Có DN phi lợi nhuận?
Trường Đại học Hoa Sen được thành lập năm 2006 với tên gọi Trường
Cao đẳng Bán công Hoa Sen. Tiền thân của trường là cơ sở đào tạo nghiệp vụ
tin học và quản lí Hoa Sen, có mặt kể từ năm 1991. Khi thành lập, Hoa Sen
hoạt động theo tôn chỉ là môi trường tư thục hoạt động không vì mục tiêu lợi
nhuận, trực thuộc UBND TP HCM và có cơ chế tự chủ tài chính. Theo quy định
của Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực từ năm 2013, các trường đại học tư thục
sẽ được tổ chức theo mô hình DN, tức có cổ đông và đại hội đồng cổ đông quyết
định các chính sách lớn của nhà trường, bầu ra hội đồng quản trị, ban kiểm
soát, và hội đồng quản trị bầu ra ban giám hiệu. Nói một cách khác
ở một khía cạnh nào đó, ĐH Hoa Sen còn chịu quy định của Luật Đầu tư và
Luật DN, Luật Chứng khoán, khi Trường vừa hoạt động trong một lĩnh vực đặc
thù vừa như một DN, dù là DN…“phi lợi nhuận”.
30
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Sự bất nhất ngay từ ban đầu của các quy định pháp lí và chịu sự chi phối
của nhiều Luật khác nhau khiến hoạt động của Hoa Sen dễ bị xáo trộn, càng
dễ bị rơi vào trường hợp sao nhãng mục tiêu ban đầu là hoạt động phi lợi
nhuận. Trên thực tế Trường được cơ quan chủ quản địa phương hỗ trợ nhiều
chính sách và ưu đãi, song thay vì đầu tư toàn phần cho các hạng mục phát
triển giáo dục, khoa học, công nghệ, Trường đã mở ra một số các công ty dựa
trên cổ phần vốn góp của mình để thực hiện các thu chi tài chính trái quy định,
trong đó có thu vượt học phí của sinh viên – một sai phạm hoàn toàn không
đáng có ở một Trường mang danh không vì mục tiêu lợi nhuận - ngoại trừ mục
đích rất đáng hoan nghênh của Trường là liên kết mở thêm chương trình để đa
dạng hóa nội dung đào tạo đáp ứng nhu cầu của sinh viên”[27].
Như vậy, xuất phát từ lý luận và thực tiễn pháp luật đầu tư trong giáo dục
đại học có ý nghĩa quan trọng trong thể hiện vai trò, định hướng mục tiêu phát
triển của Đảng và Nhà nước, góp phần hoàn thiện và đổi mới giáo dục đại học;
đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ cho các nhà đầu tư; là yếu tố
quan trọng trong việc phát huy vai trò của các trường đại học, cao đẳng trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; và cũng là cơ sở pháp lý cho
việc hội nhập quốc tế về giáo dục đại học. Việc điều chỉnh các quy định của
pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học để giải quyêt những vấn đề mang
tính hệ thống và cụ thể như hiện nay là cần thiết.
1.3.2. Các nguyên tắc của pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học
- Nguyên tắc phi lợi nhuận
Khái niệm “đại học phi lợi nhuận” đã được nhắc đến nhiều lần trong hơn
20 năm trở lại đây – kể từ khi đại học ngoài công lập đầu tiên ra đời năm 1989,
đến năm 2012 khi Luật Giáo dục đại học được ban hành, khái niệm “phi lợi
nhuận” mới được “thể chế hoá” và định nghĩa cụ thể lần đầu tiên.
31
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Mục 7 điều 4 của Luật Giáo dục đại học 2012 giải thích: Cơ sở giáo dục
đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động
không lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học mà phần lợi nhuận tích lũy hằng năm
là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, các
cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức
hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ [16].
Điều 20 Luật Giáo dục 2005 và khoản 3 điều 11 của Luật GDĐH 2013
đều ghi rõ việc cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi.
Điều 6, Nghị định số 141 ngày ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính
phủ quy định “Cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn
đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận” [25].
Theo quan điểm của giáo sư Trần Văn Thọ trên báo tuổi trẻ ngày
7/8/2014 “Những người có vốn muốn kinh doanh nên tránh xa lĩnh vực giáo
dục và nhà nước phải có cơ chế để những người đó không kinh doanh được
trong giáo dục”[43].
Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của đầu tư giáo dục nói chung, và giáo
dục đại học nói riêng là đầu tư phát triển, đầu tư mang tính đặt thù riêng, không
giống như đầu tư trong các lĩnh vực khác. Nguyên tắc phi lợi nhuận cần phải
thực hiện đúng với chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
- Nguyên tắc công bằng, dân chủ
Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời
hạn đối với việc đào tạo một số ngành nghề quan trọng, thiết yếu, một số mục
tiêu, một số địa bàn, không phân biệt thành phần kinh tế. Xóa bỏ độc quyền và
đặc quyền của các trường đại học công lập và bảo đảm cho các trường đại học
công lập được thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đào tạo,
32
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
cạnh tranh và chấp nhận rủ ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của cán
bộ giảng dạy, quản lý với kết quả học động của trường đại học.
Nhà nước tạo ra một môi trường pháp luật phù hợp đòi hỏi phải xóa bỏ
mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Mọi công dân có quyền tự do
đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành
nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền
sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận
các cơ hội và các nguồn lực phát triển cũng nhưng trong cung cấp và tiếp cận
thông tin.
Chính sách phát triển GDĐH phải tối đa hóa được tất cả các lợi ích. Nó
vừa thừa nhận một cách tự nhiên và tôn trọng các lợi ích cá nhân với những
mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng. Giữ gìn nguyên tắc công
bằng xã hội; đảm bảo tính đa dạng của hệ thống; đảm bảo chất lượng đào tạo.
- Nguyên tắc công khai minh bạch
Vốn đầu tư cho giáo dục đại học của các nước đang phát triển nói chung,
Việt Nam nói riêng được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn trong nước và
vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong nước bao gồm vốn tích lũy từ ngân sách
nhà nước (vốn ngân sách nhà nước), vốn tự tạo của trường, vốn của dân cư.
Vốn ngoài nước được hình thành chủ yếu từ viện trợ phát triển chính thức.
Luật giáo dục Việt Nam đã ghi rõ vốn đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam
được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn ngân sách nhà nước,
+ Học phí, tiền đóng góp xây dựng trường học, các khoản thu từ hoạt
động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ sở giáo
dục, các khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước
theo quy định của pháp luật.
33
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Trên thực tê, vốn ngân sách được hình thành dựa trên sự đóng góp của
nhân dân thông qua thuế, nhà nhàng năm nhà nước ta phải bỏ ra hàng ngàn tỷ
đồng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học [45]. Vì vậy yêu cầu tiên quyết để
thực hiện mục tiêu giáo dục, đầu tư tài chính cho giáo dục đại học cần phải
được công khai, minh bạch.
Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa rất rõ trong các văn bản pháp luật của
Nhà nước ta hiện nay.
Luật Ngân sách Nhà nước hiện hành đã quy định Ngân sách Nhà nước
được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh
bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm.
Điều 66, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định về quản lý tài chính của
cơ sở giáo dục đại học “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chế độ tài chính, kế
toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật”[16].
Điều 102, Luật Giáo dục năm 2005 quy định về ngân sách chi cho giáo
dục “Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc
công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển
kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước
đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng
có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [15].
- Nguyên tắc phòng ngửa rủi ro
Đầu tư cho giáo dục khác với các đầu tư khác, đầu tư cho giáo dục mang
lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Lợi ích của một khoản đầu tư cho giáo dục
được đo bằng khoản thu nhập bổ sung trung bình cho những người tốt nghiệp
ở bậc học cao hơn so với những người tốt nghiệp ở bậc học thấp hơn, trong khi
khống chế các yếu tố xác định thu nhập khác. Chi phí đầu tư cho giáo dục bao
gồm các chi phí trực tiếp – đối với cá nhân, bao gồm tất cả các chi tiêu liên
quan đến việc đi học và đối với xã hội, chi phí đầy đủ của các
34
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nguồn lực cung cấp dịch vụ giáo dục bao gồm những khoản chi phí trợ cấp mà
các cá nhân hoặc gia đình của các cá nhân đó không phải trả, cộng với chi phí
trung bình phải từ bỏ do việc đầu tư này. Sinh viên còn phải chịu chi phí cơ hội
vì mất cơ hội việc làm trong thời gian theo học. Mặt khác, đầu tư cho giáo dục
là đầu tư mang tính dài hạn, trung bình một khóa học của sinh viên từ 3,5 đến
4 năm, nên nhà đầu tư cần phải tính toán kỹ về nguồn vốn đầu tư.
Khắc phục vấn đề đang diễn ra ở ĐH Hoa Sen hiện nay, việc điều chỉnh
pháp luật phải tính toán được các yếu tố có thể xảy ra, phòng ngừa những rủi
ro, làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo, ảnh hưởng đến
quyền lợi của các nhà đầu tư, đến người học.
1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt
Nam
- Quy định về chủ thể đầu tư
Quan hệ đầu tư nói chung cũng như quan hệ đầu tư trong lĩnh vực giáo
dục đề có tính xác định về cơ cấu chủ thể. Pháp luật quy định những chủ thể
được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục xuất phát tính
chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và của toàn
xã hội. Các chủ thể đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định để tham
gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực pháp luật đầu tư. Hai nhóm chủ thể
cơ bản của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học gồm nhà đầu tư và
cơ quản lý nhà nước về đầu tư.
- Quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại
học
Một trong những đặc điểm đặc thù của hoạt động đầu tư trong GDĐH đó
là “điều kiện đầu tư”. Nó thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm điều
kiện đối với nhà đầu tư; hình thức đầu tư; thành lập tổ chức kinh tế; điều
35
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
kiện về vốn và cơ sở vật chất; điều kiện về chương trình giáo dục; mở cưa thị
trường đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và rất nhiều điều kiện khác nữa.
Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện đầu tư trong giáo dục đại học
theo hướng phân chia chủ thể đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật quy định về điều kiện đầu tư căn cứ vào thực
tế hoạt động đầu tư và cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam
là thành viên.
- Quy định về hình thức đầu tư
Hình thức đầu tư là một vấn đề quan trọng, là cách tiến hành hoạt động
đầu tư sinh lợi của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật, không những
thể hiện quyền lợi của nhà đầu tư mà còn nói lên thái độ của nhà nước đối với
nhà đầu tư trong mỗi thời kỳ phát triển. Kết hợp tìm hiểu luật đầu tư và phạm
vi đầu tư trong GDĐH để thấy được nhà nước đang tạo cơ hội cho nhà đầu tư
được tiến hành các hoạt động đầu tư dưới những hình thức khác nhau.
Các quy định về hình thức đầu tư trong Luật đầu tư 2005 thể hiện một
bước tiến rất lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng, không phân
biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, cũng như bảo đảm tính toàn diện, thống nhất
cho pháp luật đầu tư của Việt Nam, góp phần đưa pháp luật đầu tư của Việt
Nam tiến gần hơn tới mức tiêu chuẩn của sự phù hợp xu hướng hội nhập. Theo
quy định của pháp luật, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư được phép tiến hành
bao gồm hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực
tiếp là hình thưc đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia hoạt động quản lý
(Khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư), thể hiện qua các hình thức cụ thể: thành lập tổ
chức kinh tế 100% vốn nhà đầu tư nước ngoài; thành lập tổ chức kinh tế liên
doanh; ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT, BCC; đầu tư phát triển kinh doanh;
mua cổ phần hoặc sát nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp. Đầu tư gián
tiếp là đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu,
36
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
các giấy tờ có giá, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các chế định tài chính
trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu
tư [14].
Trong điều kiện và môi trường GDĐH, hình thức đầu tư là cách thức mà
pháp luật cho phép các nhà đầu tư sử dụng nguồn lực đầu tư, liên kết và thụ
hưởng kết quả đầu tư.
- Quy định về thủ tục đầu tư
Theo quy định của Luật đầu tư 2005 thì thủ tục đầu tư được quy định khá
đơn giản và thuận tiện cho các nhà đầu tư. Theo đó dự án đầu tư được phân chia
thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư. Đầu tư trong GDĐH là lĩnh
vực đầu tư có điều kiện nên các dự án đầu tư phải tiến hành thủ tục thẩm tra
đầu tư theo quy định chung. Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng chung cho cả
đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung thẩm tra bao gồm các nội
dung: Sự phù hợp quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng; Nhu cầu sử dụng đất: tiến độ thực hiện dự án; Giải pháp về môi
trường. Đối với dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm
tra chính là thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng.
1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học
Pháp luật đầu tư cho giáo dục nói chung và pháp luật đầu tư cho GDĐH
chỉ thực sự được xây dựng sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương
Đảng khóa VIII (họp từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 12 năm 1997) chính thức
đưa “xã hội hóa giáo dục” vào đời sống. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP
ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng xã hội hóa các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hóa và nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999
về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73, Chính phủ đã quyết định ban hành
Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh và nâng cao
37
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
chất lượng xã hội hóa trong các lĩnh vực nói trên trong đó có giáo dục nhằm
thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương, có cơ chế, chính sách cụ thể,
có giải pháp bước đi thích hợp. Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 (đã hết hiệu
lực), đã ghi nhận “xã hội hóa giáo dục” tại Điều 12, coi giáo dục là sự nghiệp
của nhà nước và toàn dân. Như vậy chủ trương xã hội hóa giáo dục đã đi dần
vào đời sống, được pháp luật ghi nhận và đã trở thành một khái niệm quen
thuộc. Theo cách hiểu chung nhất thì chính là khuyến khích sự tham gia rộng
rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục, mở rộng
các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng, nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài
nước, phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực này để phát triển giáo dục. Thực
hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn; thứ nhất là phát triển tiềm năng trí tuệ
và vật chất trong nhân dân, hhhuy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục;
thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách,
người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày càng cao.
Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước nó phải tạo ra không gian xã
hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đó
ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về
chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội.
Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về chủ trương này nhưng đây thực
sự là nền tảng cho các quy định pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục phát
triển và hoàn thiện.
Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001
của Quốc Hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định tại điều 36.
“Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương
trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ
thống văn bằng.
38
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: Giáo dục mầm mon, giáo dục
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập
giáo dục tiểu học, xóa mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân
lập và các hình thức giáo dục khác.
Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư
khác…”[9].
Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 39 khẳng định quyền và nghĩa vụ
học tập của người dân và Điều 61 thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với
việc phát triển giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu; đã khái quát được hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp học, các
loại hình nhà trường; phát triển giáo dục đồng đều giữa các vùng miền, ưu tiên
những vùng ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; quan tâm đến đối tượng là người
khuyết tập và người nghèo. Ngoài ra, xã hội hóa giáo dục cũng ưu tiên thực
hiện nhằm huy động được những nguồn lực khác trong xã hội đầu tư cho giáo
dục và đào tạo [10].
Trong pháp luật đầu tư, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng
được quy định là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư từ rất sớm (Khoản 2, Điều
15 Luật khuyến khích đầu tư trong nước – sửa đổi năm 1998 – đã hết hiệu lực).
Cùng thời điểm đó, Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 quy định về xã hội hóa
giáo dục và đầu tư cho giáo dục trên cơ sở phù hợp với chủ trương của Đảng
và pháp luật về đầu tư.
Điều 12 Luật Giáo dục 1998 quy định Đầu tư cho giáo dục là đầu tư
phát triển.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho
giáo dục.
39
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu
tư cho giáo dục”.
Có thể thấy, các văn bản pháp luật đầu tư và pháp luật về giáo dục đã
bước đầu quy định về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và
giáo dục đại học nói riêng là hoạt động quan trọng và được khuyến khích, ưu
đãi.
Luật đầu tư 2005 ra đời là kết quả của quá phát triển các quy định pháp
luật về đầu tư. Luật đầu tư 2005 thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước
và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo Luật đầu tư 2005 thì “phát triển
sự nghiệp giáo dục đào tạo” là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Khoản 6 – Điều 27), và
là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điểm h – Khoản 1 – Điều 29). Cùng năm 2005,
Luật Giáo dục mới ra đời, quán triệt tinh thần phát triển giáo dục là quốc sách
hàng đầu (Điều 9), Luật Giáo dục 2005 quy định về đầu tư cho giáo dục tại
Điều 13 như sau:“ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên
đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá
nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu
trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”[15].
Mục 2, Chương VII Luật Giáo dục 2005 cũng quy định về đầu tư cho
giáo dục, từ Điều 101 đến Điều 106. Các quy định này thể hiện chính sách phát
triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước,
từ sự đóng góp, đầu tư từ những tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng
chung tay vì sự nghiệp giáo dục nước nhà.
Mục 3, Chương VII Luật Giáo dục 2005 (từ Điều 107 đến Điều 110) quy
định về hợp tác quốc tế về giáo dục, với tinh thần mở rộng, phát triển hợp tác
quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình
đẳng và các bên cùng có lợi. Theo quy định của mùa này thì tổ chức, cá nhân
nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được
40
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư về giáo dục đại học ở
Việt Nam, được bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Trong Luật đầu tư và Luật Giáo dục đều căn cứ vào vai trò, chức năng
của Chính phủ, giao cho chính phủ việc quy định chi tiết các vấn đề về hợp tác
đầu tư trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng của các nhà đầu
tư trên lãnh thổ Việt Nam. Thời gian qua, chính phủ với nhiệm vụ của mình đã
có những hoạt động tích cực, hiệu quả trong việc ban hành những văn bản dưới
luật, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục
đại học. Trong hệ thống các văn bản dưới luật, cũng có rất nhiều văn bản do Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành, cụ thể hóa quy định về
đầu tư trong Luật Đầu tư 2005 và Luật giáo dục 2005.
Luật Giáo dục đại học 2012 (GDĐH) Việt Nam, được ban hành và có
hiệu lực từ 1-1-2013, đã xác định rõ chủ trương của Nhà nước về xây dựng một
hệ thống GDĐH có tính chất đa dạng, với những loại trường khác nhau nhằm
thực hiện những sứ mạng khác nhau và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của
xã hội. Trong ba loại trường ĐH (nghiên cứu, ứng dụng và thực hành), trường
ĐH nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra những kiến
thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng như thúc
đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Do vai trò đặc biệt đó, trường ĐH nghiên cứu
cần có những đặc quyền, không chỉ về nguồn lực, mà còn là một môi trường hỗ
trợ nhằm bảo đảm cho nó thực hiện được những nhiệm vụ trọng yếu của mình.
Căn cứ Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012, chính thức có
hiệu lực năm 2013 (Điều 64) quy định rõ về nguồn tài chính của các cơ sở giáo
dục đại học bao gồm ngân sách nhà nước; học phí và lệ phí tuyển sinh; thu từ các
hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; Tài trợ,
viện trợ, quà biếu, tặng, cho của các cá nhân, tổ chức trong nước và nước
41
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ngoài; Đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Nguồn thu
hợp pháp khác theo quy định của pháp luật[16].
Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục đại học.
Nghị định của chính phủ số 06/2000 ngày 06/03/2000 về việc hợp tác đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa
học.
Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo
dục và Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng
8 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục [21];
Thông tư liên tịch Bộ giáo dục và Đào tạo – Bộ kế hoạch và Đầu tư số
14/2005/TTLT – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Khoa học và Công nghệ ngày
14 tháng 04 năm 2005 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 06/2000/NĐ-
CP ngày 06/03/2000 của chính phủ về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong
lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Đối với việc thu hút đâu tư trong nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
những văn bản quy định về quy chế tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo
dục ngoài quốc dân. Việc tổ chức và thành lập các cơ sở giáo dục có vốn đầu
tư nước ngoài ngân sách nhà nước này hoạt động theo quy chế riêng, theo điều
lệ tương ứng với cấp học và bậc học.
Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2005 của Thủ
tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại
học tư thục [33].
42
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9 năm 2010 của Thủ
tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Trường đại học [34].
Từ những văn bản quy quạm pháp luật trên, hoạt động góp vốn thành lập
các cơ sở giáo dục nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng của các
nhà đầu tư trong nước chủ yếu được quy định chi tiết ở các bản quy chế, điều
lệ. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu điều chỉnh của các quy
định về hợp tác quốc tế trong Luật giáo dục và các văn bản hướng dẫn. Trong
hệ thống các văn bản quy phạp pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực
giáo dục không thể không kể đến những điều ước quốc tế, những bản cam kết
mà Việt Nam đã ra nhập. Tiêu biểu nhất là Biểu cam kết cụ thể về thuwong mại
dịch vụ - là kết quả đàm phám quan trọng giữa Cộng hòa xã hội Việt Nam với
các thành viên WTO và là phụ lục của Nghị định thư gia nhập WTO của Việt
Nam. Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: Cam kết chung, cam kết cụ thể và danh
mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN) [3].
1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học
1.4.1. Yếu tố kinh tế
Sự phát triển khoa học công nghệ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu
ngành nghề của lực lượng lao động trong xã hội. Những thay đổi này đòi hỏi
ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải luôn điều chỉnh
chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ, hình thức tổ chức
đào tạo, phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế
tri thức đang hình thành. Một khi phương tiện internet đã trở nên thông dụng,
mọi thứ đều có thể trình diễn trên internet thì giáo dục từ xa là một hình thức
học tập phổ biến cho tất cả mọi người.
Sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế, xã hội, công nghệ, các trường đại
học phải điều chỉnh vai trò của mình như là trung tâm nâng cao tri thức để đáp
43
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
ứng nhu cầu nhận thức của mỗi quốc gia. Vai trò truyền thống của các trường
đại học như là người canh giữ tri thức của nhân loại hay là người truyền thụ
những kiến thức thu nhận được sẽ không còn phát huy được trong thời đại ngày
nay. Nhiệm vụ của các trường đại học không chỉ đơn thuần là đào tạo nhân lực
mà điều quan trọng hơn là đào tạo được các nhà chuyên gia giỏi và thích ứng
nhanh, có khả năng làm chủ và điều khiển được các tình huống thay đổi đáp
ứng được nhu cầu của xã hội.
Kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường là động được hình thành, Người
đi học và người sử dụng lao động có khả năng thu được lợi ích khi tham gia thị
trường lao động. Vì vậy họ phải chia sẻ kinh phí cho hoạt động giáo dục đào
tạo. Đó là cơ hội cho giáo dục đại học có thêm nguồn lực để phát triển. Như
vậy cả người học lẫn người sử dụng đều phải đối mặt với bài toán chi phí
– lợi ích. Tất cả điều đó ảnh hưởng đến quyết định động cơ học tập, việc lựa
chọn ngành nghề, tác động đến quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội.
Trong bối cảnh này quyền tự chủ của các trường đại học và việc đảm bảo
tự do học thuật phải được tôn trọng. Đây là điều cần thiết để cho các cơ
sở giáo dục có thể hoàn thành sứ mệnh của mình, cho hệ thống giáo dục đại học
hoạt động có hiệu quả, tăng cường khả năng thay đổi và đón trước. Ở cấp quốc
gia, số lượng ngày càng nhiều cơ sở đào tạo hết sức đa dạng cần thiết để đáp
ứng các xu hướng đang thay đổi về nhu cầu, sẽ không thể quản lý đúng đắn
được chúng nếu không có các cơ chế mềm rẻo, một mức độ phân quyền nhất
định. Chính những yếu tốt này ảnh tác động, hưởng đến việc xây dựng và thực
hiện pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam.
1.4.2. Yếu tố chính trị
Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, pháp luật đầu tư GDĐH tồn tại
và phát triển song hành với bộ máy cai trị khi xã hội có sự không bình đẳng
trong việc phân chia quyền sở hữu dẫn đến xuất hiện các nhóm lợi ích
44
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
khác nhau và là sản phẩm của con người. Vì vậy nó luôn luôn chịu ảnh hưởng
của các nhân tố bên ngoài hoặc tác nhân môi trường gián tiếp chứa đựng những
tư tưởng, động cơ chính trị, năng lực tri thức, ham muốn lợi ích vật chất và tình
cảm của con người thông qua bộ máy cai trị và những người làm ra chính sách.
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng công cụ của giai cấp cầm
quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội dung và
phương pháp giáo dục.
Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục đào tạo cùng với khoa học công
nghệ là quốc sách hàng đầu. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều
hướng tới đáp ứng mục tiêu giáo dục nước nhà. Cụ thể đó là việc chi ngân sách
nhà nước hàng năm là nguồn cung cấp tài chính cơ bản để duy trì định hướng
sự phát triển hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân theo đúng đường lối, chủ
chương của Đảng và Nhà nước. Từ năm 2001 đến nay Nhà nước đã dành nguồn
ngân sách đầu tư đáng kể cho giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng.
Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trong tổng chi ngân sách
nhà nước tăng dần theo hướng năm sau cao hơn năm trước.
Đảng và Nhà nước quán triệt quan điểm ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đặc
biệt là giáo dục ở khu vực khó khăn, vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam, đồng
thời thực hiện chính sách xã hội hóa mạnh hơn ở khu vực đào tạo.
1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, ý thức xã hội
Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc
sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại
sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi trói cho nông dân và cho các
nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh nghiệp phát triển? Tại sao
45
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
chúng ta không cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát triển? Ai trói buộc và ai
sẽ cởi trói cho giáo dục?
Chính là tư tưởng bao cấp, quan liêu và cào bằng, xa rời thực tế, duy ý
chí, phân biệt đối xử cũng như việc lẫn lộn chức năng của cơ quan này với cơ
quan khác hiện phổ biến ở nhiều nơi đang tự trói buộc chúng ta. Chẳng hạn như
chức năng quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục đang lẫn
lộn với chức năng thực hành giáo dục của các cơ sở giáo dục. Như hiện nay Bộ
đang làm công tác tuyển sinh thay cho các trường đại học trong khi mỗi trường
đại học có những yêu cầu khác nhau, lại có một đội ngũ tri thức lớn, làm sao
Bộ thay thế nổi.
Những việc cần làm thì chưa làm, hay làm chưa tốt, trong khi lại lấn sân
sang công việc của các cơ sở giáo dục, khiến ách tắc, rối bời, làm cho tê liệt
tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, làm tăng gấp bội “tinh thần
nặng óc khoa cử, luyện thi trong xã hội”, “bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”,
“bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực” đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể
cả thầy lẫn trò mà hiện tượng quay cóp đang hoành hành, trở thành quốc nạn!
Như một thầy thuốc cần chẩn đoán đúng bệnh và cho đúng thuốc, thuốc
đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được! Phải thẳng thắn nhìn vào sự
thật những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải biết trị
tận căn, mới mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện.
1.4.4. Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội
Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội trong chừng mực nhất định có tác
động không nhỏ tới sự hình thành quan điểm, đường lối chỉ đạo của các nhà
quản lý, nhà giáo dục, người học cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động
đầu tư của các nhà đầu tư.
46
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
Nhân dân ta từ xưa đã có truyền thống hiếu học, sẵn sàng đầu tư tiền của
cho sự nghiệp giáo dục bản thân và nước nhà. Tuy nhiên do lịch sử thời bao
cấp và thời chiến tranh để lại. Tình trạng thầy không ra thầy, trò không ra trò,
trường không ra trường, lớp không ra lớp là chúng ta hiểu được và đành chấp
nhận trong hoàn cảnh lịch sử đó, vì yêu cầu của đấu tranh, một mất một còn,
không thể nào khác. Đặc biệt hiện nay trong thời kỳ đổi mới và hội nhập với
khu vực và thế giới, yêu cầu hoàn toàn khác, cách làm phải theo quy luật hoàn
toàn khác, nếu ta muốn tồn tại và phát triển.
Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu của chuyên môn, yêu cầu cao của khoa học kỹ
thuật giáo dục chưa phải là yêu cầu hàng đầu.
Ngoài ra, do tư tưởng, con người, cách làm của thời bao cấp, thời chiến
tranh manh mún, tùy tiện, quan liêu không dễ gì một sớm một chiều có thể thay
đổi ngay được. Đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng
đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách
nhiệm chuyên môn của họ. Không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa nơi họ vì họ đã
chịu đựng như thế là quá phi thường, quá sức chịu đựng của họ rồi, nhất là đối
với những người có khả năng và trách nhiệm cao.
Vì vậy, yếu tố truyền thống phong tục tác động không nhỏ tới hoạt động
đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam.
1.4.5. Yếu tố hội nhập quốc tế
Toàn cầu hóa và quốc tế hóa đã trở thành xu hướng không thể đảo ngược
trong cuộc sống xã hội hiện đại. Thực hiện tốt quá trình quốc tế hóa và toàn cầu
hóa giáo dục đại học có thể sẽ mang lại ý nghĩa quyết định cho những thành
công về giáo dục của đất nước.
Theo Avis et al. (1996), trong xu thế toàn cầu hóa, để không bị mất độc
lập và chủ quyền kinh tế, lãnh thổ quốc gia, chính phủ cần duy trì quyền kiểm
soát giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, nếu đóng cửa trong hoạch định chính
47
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
sách phát triển GDĐH sẽ tạo ra sự lạc hậu của hệ thống. Hơn mọi lĩnh vực trong
nền kinh tế, lĩnh vực GDĐH cần phải hướng ra thế giới bên ngoài, tiếp cận
những tinh hoa của thế giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo.
Mở rộng cửa ra thế giới bên ngoài và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác,
trao đổi quốc tế thực chất là quá trình thực hiện quốc tế hóa nền GDĐH, trên
cơ sở đó nâng cao chất lượng, uy tín và sức cạnh tranh với hệ thống giáo dục
thế giới. Nó có vai trò thúc đẩy quá trình hiện đại học và nâng vị thế của cả hệ
thống GDĐH. Nó cũng là phương tiện tốt nhất để tạo ra thế chủ động trong việc
chống lại chủ nghĩa thực dân mới trong học thuật. Thông qua hội nhập và mở
cửa hợp tác quốc tế để từng bước điều chỉnh cấu trúc và cải cách GDĐH theo
hướng cạnh tranh quốc tế; phấn đấu đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất
lượng đào tạo và học thuật.
Tuy nhiên, vị thế giáo dục đại học nước ta trong thế giới toàn cầu hóa và
quốc tế hóa không có nhiều lợi thế. Điều này có nghĩa là giáo dục đại học Việt
Nam có thể sẽ bị phụ thuộc nhiều hơn vào các siêu cường học thuật nếu không
có những giải pháp hợp lý. Trong nước các trường đại học mạnh luôn giữ vai
trò chủ đạo trong việc hình thành và phân phối kiến thức, trong khi các cơ sở
và các hệ thống yếu hơn với nguồn lực ít ở và các chuẩn mực học thuật thấp
hơn đành phải chấp nhận sự phụ thuộc.
Vì vậy, hội nhập đồng nghĩa với việc tạo ra áp lực không nhỏ đối với các
nhà quản lý, các nhà làm luật, và chính người học. Làm sao tạo môi trường đầu
tư thông thoáng, công bằng, dân chủ để khuyến khích đầu tư? Làm thế nào để
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong nước đáp ứng nhu cầu hội nhập?
Làm sao để giám sát được chất lượng tổ chức hoạt động giảng dạy và học
tập?...Các văn bản quy phạm pháp luật về hoặc động đầu tư cũng như
48
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng cần phải được điều chỉnh,
bổ sung cho phù hợp với hội nhập quốc tế.
Kết luận chƣơng 1
Trong quá trình phát triển của xã hội với trình độ khoa học kỹ thuật, ngày
càng cao, vai trò của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng ngày
càng trở nên quan trọng đối với cá nhân và đối với cả xã hội.
Đầu tư cho giáo dục đại học là việc làm cần thiết không chỉ đối với nhà
nước ta mà nó còn ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ cuộc qua nào trên
thế giới. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học phù hợp với chủ trương, đường
lối của Đảng và nhà nước ta.
Tuy nhiên, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học cũng chịu ảnh hưởng
rất lớn từ các yếu tố chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán, ý thức xã hội và yếu
tố hội nhập quốc tế.
Những nguyên tắc trong đầu tư giáo dục nói chung và đầu tư giáo dục
đại học nói riêng phải được giữ vững. Chính vì vậy việc hình thành, xây dựng,
bổ sung điều chỉnh chính sách, pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại
học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định đến mục tiêu giáo dục nước nhà.

More Related Content

Similar to Cơ sở lý luận về đầu tư và pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam.docx

Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dụcLuật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
Thcsphanboichautp
 
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docxCơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍
 

Similar to Cơ sở lý luận về đầu tư và pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam.docx (20)

NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HIỆN NAY.pdf
NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HIỆN NAY.pdfNHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HIỆN NAY.pdf
NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC HIỆN NAY.pdf
 
Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dụcLuật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
Luật số 38/2005/QH11 của Quốc hội : Luật Giáo dục
 
Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo đại học.docx
Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo đại học.docxCơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo đại học.docx
Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo đại học.docx
 
Đề tài: Quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục huyện Từ Liêm
Đề tài: Quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục huyện Từ LiêmĐề tài: Quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục huyện Từ Liêm
Đề tài: Quản lý chi ngân sách cho sự nghiệp giáo dục huyện Từ Liêm
 
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC TIỂU HỌC.docx
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC TIỂU HỌC.docxCƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC TIỂU HỌC.docx
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC TIỂU HỌC.docx
 
Luận văn: Đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ
Luận văn: Đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợLuận văn: Đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ
Luận văn: Đào tạo nghề cho người khuyết tật tại Trung tâm Bảo trợ
 
Nghiên cứu giải pháp quy hoạch, thiết kế hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc trường h...
Nghiên cứu giải pháp quy hoạch, thiết kế hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc trường h...Nghiên cứu giải pháp quy hoạch, thiết kế hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc trường h...
Nghiên cứu giải pháp quy hoạch, thiết kế hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc trường h...
 
Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.docx
Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.docxCơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.docx
Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.docx
 
29-NQ-TW-4-11-2013.doc
29-NQ-TW-4-11-2013.doc29-NQ-TW-4-11-2013.doc
29-NQ-TW-4-11-2013.doc
 
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 1
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 1 GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 1
GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC - TẬP 1
 
Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Vào Việc Xây Dựng Đội Ngũ Giáo Viên...
Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Vào Việc Xây Dựng Đội Ngũ Giáo Viên...Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Vào Việc Xây Dựng Đội Ngũ Giáo Viên...
Vận Dụng Tư Tưởng Hồ Chí Minh Về Giáo Dục Vào Việc Xây Dựng Đội Ngũ Giáo Viên...
 
Đổi mới giáo dục đại học - Bài viết cho Hội thảo quốc gia năm 2015
Đổi mới giáo dục đại học - Bài viết cho Hội thảo quốc gia năm 2015Đổi mới giáo dục đại học - Bài viết cho Hội thảo quốc gia năm 2015
Đổi mới giáo dục đại học - Bài viết cho Hội thảo quốc gia năm 2015
 
Bài viết hội thảo quốc gia 2015
Bài viết hội thảo quốc gia 2015Bài viết hội thảo quốc gia 2015
Bài viết hội thảo quốc gia 2015
 
Luận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồng
Luận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồngLuận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồng
Luận văn: Hoạt động liên kết đào tạo tại Trường CĐ Cộng đồng
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
 
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
Luận Văn Quản Lý Hoạt Động Trải Nghiệm Sáng Tạo Của Học Sinh Ở Các Trường Tru...
 
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docxCơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
Cơ sở lý luận quản lý chất lượng đội ngũ giáo viên tiểu học.docx
 
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
Một số giải pháp quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở trường trung học phổ ...
 
Đề tài: Quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật tại TPHCM, HOTĐề tài: Quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật tại TPHCM, HOT
Đề tài: Quản lý đào tạo nghề cho người khuyết tật tại TPHCM, HOT
 
LV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
LV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc TrăngLV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
LV: Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường cao đẳng cộng đồng Sóc Trăng
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤

Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói 🥳🥳 Liên hệ ZALO/TELE: 0917.193.864 ❤❤ (20)

Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở.docx
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở.docxCơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở.docx
Cơ sở lý luận về hợp đồng mua bán nhà ở.docx
 
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã...
 
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp.docx
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp.docxCơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp.docx
Cơ sở khoa học của quản lý nhà nước đối với hợp tác xã trong nông nghiệp.docx
 
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ.docx
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ.docxCơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ.docx
Cơ sở lý luận về động lực và tạo động lực làm việc cho công chức nữ.docx
 
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng.docx
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng.docxCơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng.docx
Cơ sở khoa học về quản lý nhà nước đối với dịch vụ công cộng.docx
 
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp.docxCơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp.docx
Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước trong nông nghiệp.docx
 
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc.docx
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc.docxCơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc.docx
Cơ sở lý luận của thực hiện chính sách dân tộc.docx
 
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc.docx
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc.docxCơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc.docx
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về công tác dân tộc.docx
 
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá.docx
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá.docxCơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá.docx
Cơ sở lý luận quản lý nhà nước về di tích lịch sử - văn hoá.docx
 
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng...
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng...Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng...
Cơ sở lý luận về vai trò của thanh tra nhà nước trong phòng, chống tham nhũng...
 
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội.docx
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội.docxCơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội.docx
Cơ sở lý luận về thu bảo hiểm xã hội và pháp luật về thu bảo hiểm xã hội.docx
 
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế.docx
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế.docxCơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế.docx
Cơ sở lý luận hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ HÀNH CHÍNH CÔNG.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN LỰC.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ DU LỊCH.docx
 
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.docx
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.docxCơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.docx
Cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.docx
 
Cơ sở lý luận về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai.docx
Cơ sở lý luận về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai.docxCơ sở lý luận về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai.docx
Cơ sở lý luận về thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai.docx
 

Recently uploaded

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
ltbdieu
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
Xem Số Mệnh
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
dnghia2002
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
DungxPeach
 

Recently uploaded (20)

SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docxbài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
bài thi bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.docx
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 

Cơ sở lý luận về đầu tư và pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam.docx

  • 1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ VÀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRONG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 1.1. GIÁO DỤC ĐẠI HỌC: KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ TÍNH CHẤT 1.1.1. Khái niệm giáo dục và giáo dục đại học Giáo dục được coi là một hiện tượng phổ biến và luôn tồn tại cùng xã hội loài người. Đã có nhiều quan điểm khác nhau khi trình bày khái niệm về giáo dục, có thể đưa ra một số khái niệm chung nhất về giáo dục như sau: Tác giả Kelly theo quan điểm phát triển cho rằng: “Giáo dục là sự phát triển với nghĩa là phát triển con người, phát triển tối đa mọi khả năng tiềm ẩn trong mỗi con người làm cho con người có khả năng làm chủ được tình huống, đương đầu với những thách thức mà mình sẽ gặp phải trong đời một cách chủ động và sáng tạo”. Theo quan điểm này, giáo dục là quá trình tiếp diễn liên tục, suốt đời [5]. Savin – một nhà giáo dục học đã định nghĩa rằng: “Theo nghĩa rộng, khái niệm giáo dục là tất cả quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên bước vào cuộc sống, bao gồm cả quá trình dạy học và đào tạo”. Theo khái niệm này, giáo dục được hiểu là gồm cả giáo dục và đào tạo, tuy nhiên nó chỉ đề cập đến một mặt: “Quá trình chuẩn bị cho thế hệ đang lớn lên…”. Trên thực tế thì giáo dục bao gồm tất cả các hoạt động nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời[5]. Gillis đã đưa ra khái niệm tổng quát hơn về giáo dục: “Theo nghĩa rộng, giáo dục là tất cả các dạng học tập của con người, hay hẹp hơn đó là một quá trình có ở những nới đã được chuyên môn hóa gọi là trường học”. Giáo dục là một dạng quan trọng nhất của sự phát triển tiềm năng con người theo những khía cạnh khác nhau. Giáo dục với khái niệm rộng hơn gần giống 12
  • 2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 với nghĩa “nghiên cứu”. Theo đó Gillis cho rằng có ba loại giáo dục là giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy và giáo dục không chính thức [5]. Luật Giáo dục Việt Nam 2005, Điều 4 quy định: Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Giáo dục thường xuyên là một hệ thống gồm các loại hình học tập thuộc phạm vi giáo dục tiếp tục. Do vậy, giáo dục thường xuyên không bao hàm các hình thức giáo dục chính quy trong hệ giáo dục ban đầu. Nói đến giáo dục thường xuyên, người ta hiểu rằng đó là giáo dục tiếp tục. Điều 44 quy định giáo dục thường xuyên giúp mọi người vừa học vừa làm, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Tuy nhiên, sự phân loại này trong thực tế chỉ là tương đối nhằm để thuận tiện cho việc tổ chức và quản lý trên cơ sở đa dạng hóa, xã hội hóa cùng bình đẳng thực hiện mục tiêu chung của giáo dục. Hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam bao gồm: Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; Giáo dục đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ. Như vậy, giáo dục đại học là bộ phận kết nối sau cùng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Quan niệm về giáo dục đại học được Tổ chức văn hóa, Giáo dục - Xã hội Liên hợp quốc (UNESCO) đề xuất từ 1968 và được nhiều nước thừa nhận với tên gọi là “Giáo dục bậc ba”. Nhưng từ sau Hội nghị quốc tế về giáo dục đại học ở Paris (Pháp) năm 1998 có quan điểm mới: GDĐH ở thế kỷ 21 là học tập suốt đời và bao gồm tất cả các loại hình học tập, đào tạo hoặc đào tạo 13
  • 3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cho nghiên cứu ở đình độ sau bậc trung học được cung cấp bởi các viện đại học hay các tổ chức giáo dục đã được các cấp thẩm quyền công nhận là cơ sở GDĐH [5]. Theo quan điểm đó, GDĐH còn được coi là giáo dục sau trung học bao gồm không chỉ GDĐH truyền thống như cao đẳng, đại học mà còn tất cả trình độ học vấn cung cấp cho những người tốt nghiệp phổ thông trung học. Vậy GDĐH với quan niệm là giáo dục sau trung học, thực chất là không gian mở cho đào tạo đại học và học tập suốt đời. Ở nước ta, theo Điều 38, Mục 4 của Luật Giáo dục năm 2005 quy định giáo dục đại học bao gồm: Đào tạo trình độ cao đẳng được thực hiện từ hai đến ba năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; Đào tạo trình độ đại học được thực hiện từ bốn đến sáu năm học tùy theo ngành nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông hoặc bằng tốt nghiệp trung cấp; từ hai năm rưỡi đến bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp trung cấp cùng chuyên ngành; từ một năm rưỡi đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp cao đẳng cùng chuyên ngành; Đào tạo trình độ thạc sĩ được thực hiện từ một đến hai năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học; Đào tạo trình độ tiến sĩ được thực hiện trong bốn năm học đối với người có bằng tốt nghiệp đại học, từ hai đến ba năm học đối với người có bằng thạc sĩ. Trong trường hợp đặc biệt, thời gian đào tạo trình độ tiến sĩ có thể được kéo dài theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Theo điểm 8, Điều 4, Chương I Luật Giáo dục đại học: Đaịhoc ̣là cơ sở giáo dục đại học bao gồm tổ hợp các trường cao đẳng, trường đại học, viện 14
  • 4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nghiên cứu khoa học thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, để đào tạo các trình độ của giáo dục đại học [16]. Trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học được quy định tại Điều 6: Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học gồm trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định cụ thể việc đào tạo trình độ kỹ năng thực hành, ứng dụng chuyên sâu cho người đã tốt nghiệp đại học ở một số ngành chuyên môn đặc thù; Các trình độ đào tạo của giáo dục đại học được thực hiện theo hai hinh̀ thức làgiáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên. Theo đó, các cơ sở giáo dục đại học trong hê ̣thống giáo duc ̣quốc dân gồm: Trường cao đẳng; Trường đại học, học viện; Đại học vùng, đại học quốc gia;Viện nghiên cứu khoa học. 1.1.2. Đặc điểm, tính chất của giáo dục đại học - Giáo dục đại học (GDĐH) là bậc sau cùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo mỗi nước; đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia, kỹ sư và những cán bộ chuyên môn kỹ thuật ở các trình độ khác nhau. GDĐH không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và vì vậy, không trực tiếp không tạo ra các sản phẩm vật chất. Tuy nhiên theo phân công lao động xã hội, GDĐH làm tăng giá trị cho mỗi cá nhân thông qua việc trang bị cho họ tài khéo léo, sự hiểu biết để làm ra nhiều của cải vật chất hơn cho bản thân và cho xã hội, gắn liền với sự bảo đảm quyền được sống và được làm việc với năng suất lao động cao hơn của mỗi người. Theo Manuel (1991), GDĐH có 3 chức năng quan trọng. Trước hết, nó bao gồm các nền văn hóa và tri thức nhân loại; tái tạo hoặc phản biện ý thức hệ chi phối của quốc gia. Thứ hai, nó lựa chọn những người ưu tú giới thiệu 15
  • 5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cho đất nước và cuối cùng, nó sáng tạo ra kho tàng tri thức mới. GDĐH không chỉ tái tạo ra một lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, biết chắt lọc và áp dụng các tri thức thu được từ kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học vào sản xuất và đời sống cho toàn bộ các thành viên trong xã hội; góp phần xóa bỏ khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo thông qua việc trang bị cho người học những tri thức và kỹ năng cần thiết để kiếm sống. GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng cho sự phồn thịnh của một nền kinh tế hiện đại – nền “kinh tế tri thức”, được dự báo sẽ ngày càng có ý nghĩa quyết định đến sự thịnh vượng của nhân loại trong tương lai. Liên hợp quốc xác định giáo dục nói chung, GDĐH nói riêng là quyền con người, là phương tiện phát triển riêng của mỗi cá nhân, phương tiện xây dựng nền văn hóa, chia sẻ truyền thống và cung cấp sức mạnh cho xã hội nói chung và là một phương tiện tích lũy tài sản và khả năng cạnh tranh của cá nhân và xã hội. Như vậy, về mặt nhận thức tính chất của GDĐH có thể nêu ra hai thuộc tính về mặt kinh tế và mặt xã hội: - GDĐH vừa thực hiện chức năng phúc lợi vừa thực hiện chức năng dịch vụ Dưới góc độ xã hội, đối với nước ta hay bất kỳ quốc gia nào, xuất phát từ truyền thống ham hiểu biết, hiếu học của mỗi dân tộc chính sách công bằng xã hội được trong giáo dục cụ thể hóa trong Hiến pháp, Luật và các văn bản dưới luật, mọi người đều có quyền được học tập, nhà nước khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người dân tham gia vào quá trình học tập. Xem xét trên góc độ này lĩnh vực giáo dục đã thực hiện chức năng phúc lợi, giáo dục đảm bảo quyền được học tập của mọi người. Dưới góc độ lý thuyết kinh tế, sản phẩm GDĐH được thực hiện dưới hình thức cung cấp sức lao động của các giáo sư, giảng viên cho người học và 16
  • 6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 người học mua sức lao động của người dạy bằng phí, học phí hoặc đóng thuế để nhà nước trả công, trả lương cho họ. Dựa trên phân công lao động xã hội trong nền sản xuất hàng hóa, loại lao động giảng dạy của các giáo sư, giảng viên không sản xuất ra tư bản. Theo K. Marx , đó là loại lao động phi sản xuất và khi trao đổi nó được mua bán như một dịch vụ và hàng hóa thông thường. K.Marx viết: “Trong trường hợp tiền trực tiếp được trao đổi lấy loại lao động sản xuất không sản xuất ra tư bản, do đó là lao động phi sản xuất thì lao động ấy được mua như một dịch vụ. Biểu hiện ấy nói chung chẳng qua là giá trị sử dụng đặc biệt mà lao động ấy cung cấp, giống như mọi hàng hóa khác”. GDĐH là loại sản phẩm đặc biệt vì giá cả dịch vụ biến động không theo một tỉ lệ nhất định với năng suất lao động. Đối với một sản phẩm bất kỳ, khi lợi ích xã hội lớn hơn lợi ích cá nhân và do đó để khuyến khích tiêu dùng xã hội, nhà nước cần có sự bù đắp cho chi phí cá nhân.Việc bù đắp thuộc trách nhiệm của nhà nước hoặc của ai đó theo nguyên tắc không vì mục tiêu lợi nhuận. Sản phẩm dịch vụ GDĐH không bị tác động bởi năng xuất lao động. - GDĐH là sản phẩm mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội GDĐH có những đặc điểm riêng biệt khi so sánh với các loại sản phẩm dịch vụ khác. Sản phẩm dịch vụ GDĐH là những người công dân có ích với chính mình, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Người mua sản phẩm GDĐH không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân mà còn cho cả xã hội và lợi ích xã hội luôn luôn lớn hơn lợi ích cá nhân. Tổng lợi ích xã hội sẽ tăng lên nếu như loại sản phẩm này được sản xuất nhiều hơn. GDĐH là một loại sản phẩm dịch vụ có đầy đủ các tính chất kinh tế giống như các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ khác, nhưng nó không thích hợp với việc mua bán hàng hóa. 17
  • 7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 1.2. Đầu tƣ trong giáo dục đại học Việt Nam: Khái niệm và các yêu cầu đặt ra 1.2.1. Khái niệm  Khái niệm đầu tư “Đầu tư” không còn là khái niệm xa lạ hay trừu tượng, tuy nhiên trên thế giới không có khái niệm “đầu tư” duy nhất và bất biến. WTO – Tổ chức thương mại thế giới là mô hình tối cao của hội nhập cũng không quy đình gì về vấn đề đầu tư. Nhiều vòng đàm phán không giải quyết được bất đồng xung quanh khái niệm “đầu tư” nên mặc dù có ý định soạn thảo Hiệp ước đa phương tiện về các vấn đề đầu tư vào năm 1978 nhưng OECD – Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - cũng không thành công. Pháp luật các nước trên thế giới có các cách nhìn nhận khái niệm “đầu tư” khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (NXB Đà Nẵng 2003, tr301) khái niệm đầu tư là việc “bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế xã hội”. Trong kinh tế học, đầu tư là hoạt động được hiểu là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn những nguồn lực đã sử dụng để đạt được những kết quả đó. Theo quan điểm của các nhà luật học, hoạt động đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận hoặc mục đích kinh tế xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực tiễn sử dụng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề cập là hoạt động đầu tư kinh doanh, theo Black’s Law bản chất là sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận. 18
  • 8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, khái niệm đầu tư trong kinh doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Hoạt động đầu tư được điều chỉnh bởi Luật khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật đầu tư 2005 với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra định nghĩa: “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”[14]. Luật đầu tư thống nhất và có phân biệt về thuật ngữ giữa đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó hoạt động đầu tư được hiểu là hoạt động của các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Dưới góc độ điều chỉnh các hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh, có thể thấy hoạt động đầu tư theo quy định của Luật đầu tư 2005 chính là một bộ phận của hoạt động thương mại, phù hợp với khái niệm của Luật thương mại (Khoản 1 Điều 3). Hoạt động đầu tư có những đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung đó chính là mục đích lợi nhuận, đồng thời hoạt động đầu tư cũng có mối liên hệ mật thiết với các hoạt động thương mại khác nhau như mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại,… Tuy nhiên, hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất tạo lập, là sự bỏ vốn, tài sản… nhằm hình thành cơ sở vật chất, kỹ thuật cũng như các điều kiện khác để thực hiện hoạt động tìm kiếm lợi nhuận.  Khái niệm đầu tư trong giáo dục đại học Hoạt động đầu tư trong giáo dục nói chung và đầu tư trong giáo dục đại học nói riêng là một hoạt động đầu tư đặc thù, là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, chủ yếu liên quan đến sự điều chỉnh của Luật Đầu tư 2005, Luật Giáo dục 2005 và Luật Giáo dục đại học 2012. 19
  • 9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Điều 5, Luật Đầu tư 2005 quy định về áp dụng pháp luật đầu tư, điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế: Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam phải tuân theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; Hoạt động đầu tư đặc thù được quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của luật đó; Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó; Đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài và tập quán đầu tư quốc tế đó không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam [14]. Cũng theo Luật đầu tư 2005“Phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo” được quy định là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Điều 27) và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điều 29). Theo Luật giáo dục 2005, “phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”(Điều 9); “Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển” (Điều 13); “Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học” (Điều 12 Luật Giáo dục đại học 2012). Giáo dục là loại hình dịch vụ đặc biệt, việc đầu tư cho giáo dục được quy định theo hướng thống nhất, đồng bộ giữa Luật đầu tư và Luật giáo dục, là hoạt động chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nhưng hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục lại được thực hiện theo quy định của hệ thống pháp luật chuyên ngành. Đầu tư cho giáo dục là lĩnh vực đầu tư có điều kiện và được ưu đãi đầu tư. Hoạt động cho giáo dục có những đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư nói chung, đều là sự hy sinh nguồn lực trong hiện tại để tiến hành những hoạt động trong môi trường giáo dục nhằm thu được những kết quả trong tương lai và kết quả thu được từ hoạt động đó phải lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra. 20
  • 10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nguồn lực hi sinh có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản chính (tiền vốn); tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, quản lý, khoa học,…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả xã hội được thụ hưởng. Chẳng hạn, một trường học được xây dựng, tài sản vật chất của người đầu tư trực tiếp tăng thêm, đồng thời xã hội cũng được hưởng thành quả của hoạt động đầu tư này. Hoạt động đầu tư cho giáo dục không chỉ đem lại kết quả cho nhà đầu tư mà còn cả nền kinh tế-xã hội được thụ hưởng chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua đóng góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông, phân phối do kết quả của hoạt động đầu tư phát triển tạo ra thì đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Như vậy, đầu tư cho GDĐH là một bộ phận của đầu tư nói chung, đều mang lại những lợi ích tăng thêm cho nhà đầu tư và góp phần mang lại cho xã hội những giá trị quan trọng như nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 1.2.2. Đặc điểm, yêu cầu của hoạt động đầu tƣ trong giáo dục đại học - Đầu tư cho giáo dục đại học là đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư. Là việc chi dùng trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…) vì mục tiêu phát triển. 21
  • 11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Đầu tư phát triển đòi hỏi phải có nhiều loại nguồn lực. Với xu hướng phát triển hiện tại, nguồn lực đầu tư có thể đến từ nhà nước, cũng có thể do tổ chức cá nhân trong và ngoài nước bỏ ra. Phạm vi đầu tư của các nhà đầu tư ngoài nhà nước mở rộng theo lộ trình xã hội hóa giáo dục. Hoạt động đầu tư có hiệu quả cao là kết quả của việc huy động tích cực nguồn lực đầu tư trong xã hội. Đa số đầu tư nguồn lực nhằm mục đích sinh lời, cũng có chủ đầu tư vì tâm huyết với sự học, vì trách nhiệm với xã hội. Đối tượng của đầu tư trong giáo dục là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm của phân công lao động xã hội thì đây là đầu tư theo ngành. Dưới góc độ tính chất đầu tư thì đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng thì yêu cầu đặt ra đối với đầu tư trong giáo dục đại học phải đảm bảo tính chất phi lợi nhuận (mục tiêu lợi nhuận không phải là tuyệt đối). Trên góc độ xem xét sự quan trọng, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục có đối tượng được khuyến khích đầu tư. Kết quả của đầu tư cho GDĐH là sự tăng thêm về tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…), tài sản vật chất (trường học, trang thiết bị…) và tài sản vô hình (phát minh, sáng chế, công trình khoa học…). Các kết quả của hoạt động đầu tư cho GDĐH góp phần làm tăng thêm những giá trị và chất lượng cho xã hội. Đặc thù của kết quả đầu tư cho GDĐH so với các hoạt động đầu tư khác chính là tương quan so sách kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét trên cả phương diện đối với chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích, khuyến khích vai trò chủ động của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước các cấp. Đầu tư trong GDĐH tuy không trực tiếp tạo ra tài sản cố định và tài sản lưu động 22
  • 12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 như các hoạt động đầu tư khác nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lược cuộc sống và vì mục tiêu phát triển. Mục đích của hoạt động đầu tư cho GDĐH là vì sự phát triển bền vững, lợi ích quốc gia, cộng đồng và của nhà đầu tư. Đầu tư cho GDĐH thường được thực hiện bởi một chủ đầu tư nhất định. Xác định rõ chủ đầu tư có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quản lý đầu tư nói chung và vốn đầu tư nói riêng. Chủ đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị-xã hội, cộng đồng dân cư, nhà đầu tư nước ngoài,… Hoạt động đầu tư trong GDĐH là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề “độ trễ về thời gian”. Đó là sự không trùng hợp giữ thời gian đầu tư với thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai xa. Nội dung đầu tư trong GDĐH được quy định trong pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục. Bao gồm các hình thức đầu tư, điều kiện đầu tư, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; trình tự, thủ tục và triển khai dự án đầu tư; bảo đảm khuyến khích và ưu đãi đầu tư; quản lý nhà nước về đầu tư. - Đầu tư cho GDĐH là hoạt động đầu tư đặc thù + Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là một loại hình dịch vụ đặc biệt. Nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp vai trò và tính cao đẹp của giáo dục. Coi giáo dục là một loại dịch vụ đào tạo nguồn lực cho đất nước có nghĩa là đã đặt giáo dục vào vị trí hàng đầu, vị trí tạo tiền đề, tạo động lực cho mọi sự phát triển. Trên thực tế không một ngành nào là không cần đến nhân lực, không thừa hưởng kết quả đào tạo của giáo dục. Một kết quả của GDĐH sẽ đi liền với kết quả cộng hưởng của những ngành kinh tế, xã hội. Một xã hội đi lên bằng những chương trình được hoạch định một cách khoa học, phù hợp với nhu cầu khách quan của cuộc sống, phù hợp với xu thế của thời đại thì 23
  • 13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 giáo dục phải là một bộ phận khăng khít hữu cơ, phải là hoạt động tiền đề của mọi hoạt động. Giáo dục vừa là một ngành hoàn chỉnh, hoạt động với tinh thần chủ động, sáng tạo theo mục tiêu nhiệm vụ của chính phủ giao cho nhưng cũng lại vừa là một bộ phận chủ chốt trong hệ thống tổng thể của đất nước với tư cách là một loại dịch vụ quan trọng, hoạt động theo cơ chế thị trường. GDĐH là một lĩnh vực đặc thù, khác với lĩnh vực kinh tế, trong đó đối tượng là con người chứ không phải là hàng hóa hay lợi nhuận, do đó cần phải khẳng định một số quan điểm và phải có những giải pháp hết sức cụ thể. Sẽ còn rất nhiều ý kiến bàn luận xung quanh vấn đề này, vì đây vẫn là vấn đề nhạy cảm nhưng cũng phải thống nhất rằng giáo dục không phải là thị trường nhưng giáo dục có nhiệm vụ cung ứng dịch vụ học tập cho xã hội, bản thân nó cũng có tính cạnh tranh, có sự đầu tư để đạt những lợi ích cho cả nhà đầu tư và cho xã hội. Bởi lẽ chúng ta không nên né tránh khái niệm dịch vụ trong giáo dục đào tạo mà nên coi đó là cơ hội nâng cao chất lượng giáo dục, mang lại những giá trị cao quý cho xã hội nhất là con người được đào tạo bài bản có tri thức. Giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng vẫn phải là sự nghiệp của nhà nước chăm lo cho nhân dân chứ không được hiểu xã hội hóa giáo dục là chuyển tất cả các hoạt động giáo dục đào tạo cho các thành phần “phi nhà nước” tổ chức và quản lý. Vai trò của xã hội hóa là chấm dứt một số hoạt động bao cấp không cần thiết trong giáo dục, cung cấp các tiện nghi tốt hơn cho một bộ phận nhân dân có điều kiện tài chính cao hơn, làm nhẹ gánh nặng ngân sách nhà nước để tập trung nguồn lực cho đại bộ phận người dân còn khó khăn. + Hoạt động đầu tư cho giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng là hoạt động đầu tư có điều kiện và được hưởng ưu đãi đầu tư. 24
  • 14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Theo Luật đầu tư 2005 về ưu đãi đầu tư giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng được coi là ngành nghề được khuyến khích trên cơ sở có chọn lọc giữa các ngành trong toàn xã hội. Nhà nước dành cho GDĐH một cơ chế ưu tiên, tạo điều kiện để thu hút, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những quy định về ưu đãi đầu tư được ghi nhận cả trong pháp luật về đầu tư và pháp luật về giáo dục, tạo nên một khung pháp lý chung cho các nhà đầu tư trên cơ sở không phân biệt giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung của ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực GDĐH bao gồm ưu đãi về tài chính, về đất đai cho xây dựng trường học, ưu đãi về thuế thu nhập; đảm bảo về cân đối ngoại tệ đối với các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài. Về điều kiện đầu tư, gồm điều kiện đối với chủ thể đầu tư, điều kiện thành lập và hoạt động của cơ sở giáo dục, điều kiện về vốn đầu tư và cơ sở vật chất,…Tuy trên thực tế chúng ta hướng tới mục đích đảm bảo đối xử công bằng giữa nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài nhưng trong lĩnh vực GDĐH là lĩnh vực đầu tư đặc biệt, vẫn có sự phân biệt nhất định giữa hai loại chủ thể đầu tư này. 1.3. Những vấn đề lý luận về pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học ở Việt Nam 1.3.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh được xem là một quy luật tất yếu, là nền tảng phát triển. Cung và cầu thị trường đóng vai trò nền tảng trong phát triển, phân phối và sử dụng các nguồn lực xã hội. Quan điểm của các nhà đầu tư là chi phí cực tiểu và đạt lợi ích tối đa cả về phương diện cá nhân và xã hội, được lấy làm thước đo cho việc tính toán, 25
  • 15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 xem xét và đưa ra quyết định đầu tư một ngành, nghề hay lĩnh vực đào tạo cụ thể nào đó. Môi trường pháp luật với khung pháp lý hoàn chỉnh và hệ thống các văn bản pháp quy minh bạch điều chỉnh các mặt hoạt động của thị trường dịch vụ sản phẩm GDĐH sẽ bảo đảm và giúp cho thị trường này hoạt động an toàn, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia thị trường. Hệ thống pháp luật đầy đủ sẽ hạn chế một cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công trong xã hội nói chung, trong lĩnh vực GDĐH nói riêng. Chỉ có dựa trên một hệ thống công cụ pháp luật đầy đủ và vững chắc, nhà nước mới có thể điều tiết xã hội thực hiện phân phối lại những kết quả hoạt động kinh tế theo hướng bảo đảm công bằng xã hội cho các nhóm lợi ích bình đẳng trước cơ hội nhập học. Chỉ có một hệ thống luật pháp vững chắc thì nhà nước mới có thể xây dựng được cơ chế, chính sách tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, có trật tự, kỷ cương cho các chủ thể tham gia quản lý, điều hành các hoạt động GDĐH để huy động và phát huy các nguồn lực xã hội phát triển GDĐH. Nghiên cứu các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khi những người nghèo không có cơ hội và điều kiện tiếp cận GDĐH, nhà nước thông qua các chính sách phát triển điều chỉnh lại mức độ thụ hưởng các giá trị định hướng trong các mối quan hệ xã hội giữa các thành viên trong cộng đồng, cả về phương diện vật chất, cũng như về phương diện tinhh thần. Nhà nước sử dụng công cụ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH để tác động, can thiệp vào quá trình vận động của hệ thông GDĐH nhằm loại bỏ, hoặc hạn chế những ảnh hưởng xấu của kinh tế thị trường, bảo vệ lợi ích công cộng của GDĐH. Thông qua hệ thống pháp luật đầu tư trong lĩnh vực GDĐH, nhà nước định hướng cho GDĐH phát triển theo đúng mục tiêu và tạo lòng tin cho các 26
  • 16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển GDĐH, đồng thời nó còn là cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng, cho các nhà đầu tư trong toàn xã hội tham gia phát triển GDĐH. Thực tế của các nước phát triển chỉ ra rằng, GDĐH chỉ có thể phát triển bền vững, lành mạnh và đúng định hướng dựa trên nền tảng của một hệ thống thể chế, pháp luật đầy đủ, ổn định. Với ý nghĩa đó, việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, các quy phạm pháp luật đầu tư GDĐH ở cấp độ vĩ mô cần được tiến hành thường xuyên để theo kịp với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Hệ thống thể chế mới càng phải tăng cường chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước, đồng thời nâng cao quyền chủ động cho các cơ sở đào tạo. Nhà nước chỉ nên thể hiện vai trò, chức năng của người trọng tài điều khiển hơn là trực tiếp tham gia. Tuy nhiên hiện nay, việc chi đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước quá lớn, đứng trước bối cảnh suy thoái kinh tế, việc xã hội hóa đầu tư cho giáo dục đại học là cần thiết, để đáp ứng các yêu cầu nâng cao cả về số lượng và chất lượng đào tạo, đảm bảo tính công bằng trong giáo dục đào tạo, vừa giảm bớt gánh nặng chi từ ngân sách, vừa khuyến khích được các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các nhà hảo tâm, và của chính người học. Ngoài ra, khi hội nhập vào khu vực ASEAN và thế giới, muốn tồn tại và phát triển bắt buộc chúng ta phải có sức mạnh cạnh tranh. Muốn có sức mạnh cạnh tranh cao và dài hơi, bắt buộc chúng ta phải đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục, nhất là giáo dục đại học và phải bắt đầu ngay tức thì để có chất lượng ngày càng cao. Theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Số: 760 /BC-BGDĐT) ngày 29 tháng 10 năm 2009 cả nước có 376 trường, đến nay trên cả nước chúng ta đã có trên 412 trường ĐH và CĐ. Hầu hết các tỉnh thành chúng ta đều có trường ĐH, CĐ. Từ quy mô như trên chúng ta có thể khẳng định, công tác xã hội hoá giáo dục ngày càng được đẩy mạnh, nguồn lực trong xã hội đầu 27
  • 17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 tư cho giáo dục được huy động ngày càng nhiều. Sự phân bố các cơ sở giáo dục đại học đã dần rộng khắp trên phạm vi cả nước. Điều này là hết sức quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ có chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của từng địa phương và cả nước. Ngày 15/5, Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội Nguyễn Hữu Đức cho biết theo Bảng xếp hạng QS (Quacquarelli Symond) vừa công bố kết quả xếp hạng các trường đại học châu Á năm 2014, lần đầu tiên, Việt Nam có ba cơ sở giáo dục đại học được lọt vào danh sách năm nay gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Bách khoa Hà Nội. Về xếp hạng, Đại học Quốc gia Hà Nội thuộc nhóm 161-170, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh thuộc nhóm 191-200 và Trường Đại học Bách khoa Hà Nội thuộc nhóm 251-300. Hai năm trước đây, Việt Nam chỉ mới có Đại học Quốc gia Hà Nội xếp trong nhóm 201-250 [11]. Tuy nhiên, ở nước ta, các đại học lớn vẫn chưa được đứng trong bảng xếp hạng 150 trường đại học tốp đầu châu Á, trong khi nhiều trường đại học của các nước láng giềng như Philippin, Inđônêsia đã có mặt. Đặc biệt, theo Bảng xếp hạng QS năm 2014, tốp những cơ sở giáo dục đại học hàng đầu của châu Á là Đại học Quốc gia Singapore (NUS), tiếp đến là Viện Khoa học Công nghệ Tiên tiến Hàn Quốc (KAIST), Đại học Hong Kong, Đại học Quốc gia Seoul (Hàn Quốc), Đại học Khoa học và Công nghệ Hong Kong, Đại học Công nghệ Nanyang (NTU - Singapore), Đại học Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại học Khoa học và Công nghệ Pohang (POSTECH - Hàn Quốc) và thứ 10 là Đại học Tokyo (Nhật Bản)[11]. Theo Giáo sư Hoàng Tụy, trên Tuổi trẻ Online (ngày 25/10/2007): “… Có lẽ chỉ 15 - 20% số tiến sĩ có trình độ thật sự tương xứng với bằng cấp đó trên quốc tế. Tương tự, cũng chỉ 15 - 20% số giáo sư, phó giáo sư có trình độ 28
  • 18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 thật sự tương xứng. Còn lại không chỉ thấp, mà có đến hơn một phần ba thấp đến tệ hại, nhiều người không đứng nổi trong phạm trù “dạy đại học”, dù ở mức thấp. Rất nhiều tiến sĩ của ta trình độ không hơn gì cử nhân ở các nước, rất đông phó giáo sư của ta không so sánh nổi với trợ giảng mới ra trường của họ” . Bài viết của tác giả Chi Mai, trên vietnam.net ngày 3/3/2014: “24.000 tiến sỹ Việt Nam đang làm gì?” đã đưa ra số liệu thống kê mới nhất của Bộ GD- ĐT, tính đến năm 2013 Việt Nam có khoảng 24.300 tiến sỹ, trong đó có 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường đại học, còn khoảng 15.000 tiến sĩ đang làm việc ở những đâu? Bài viết cũng chỉ ra đích danh một số tên dỹ rởm “bị lộ” hiện nay đang làm việc ở đâu [17]. Mặt khác theo Báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ngân sách Nhà nước cấp cho các trường đại học thực hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ tăng hằng năm (năm 2006: hơn 259,5 tỷ, năm 2008: hơn 264 tỷ đồng, năm 2011: 151,200 tỷ đồng, năm 2012: 170.349 tỷ đồng). Tuy nhiên, nguồn thu từ hoạt động khoa học và công nghệ của các trường đại học từ năm 2006 đến năm 2008 còn rất thấp, chỉ chiếm 3,92% trong tổng nguồn tài chính của các trường đại học. Thực tế vẫn chưa có một thống kê nào đánh giá cụ thể tỷ lệ các đề tài nghiên cứu được đưa vào áp dụng, nhưng theo các chuyên gia nhận định, có khoảng 60% kết quả nghiên cứu khoa học được đưa vào ứng dụng, nghĩa là còn 40% kết quả nghiên cứu phải “trùm mền”. Các nhà khoa học không biết giới sản xuất đang cần gì ở họ, còn các doanh nghiệp cũng chẳng hiểu công nghệ mình cần trong nước đã có hay chưa và không thể chủ động đưa ra yêu cầu của mình. Hậu quả là doanh nghiệp tìm đến với công nghệ nước ngoài, nhà khoa học nghiên cứu theo sở thích và chuyện kết quả nghiên cứu “trùm mền” chẳng có gì là khó hiểu[45]. 29
  • 19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Tại “Đối thoại giáo dục VN: Cải cách giáo dục ĐH” diễn ra trong hai ngày 31/7 và 1/8/2014, là chủ đề được lựa chọn cho hội thảo do Nhóm đối thoại giáo dục phối hợp với Lãnh sự quán Hoa Kỳ tổ chức tại Trung tâm Hoa Kỳ (TP.HCM). Tại đối thoại GS Ngô Bảo Châu và gần 100 học giả, các giáo sư và đại diện các trường ĐH trong và ngoài nước đều nhất chí giáo dục ĐH trong nước đã và đang tụt hậu ngay trong khu vực [4]. Theo PGS.TS Phan Thanh Bình, giám đốc ĐHQG TP.HCM, Việt Nam đang xếp trong nhóm các nước tụt hậu về giáo dục trong ASEAN[11]. Ngoài ra, vấn đề đang được các nhà quản lý giáo dục, các chuyên gia, các nhà đầu tư và của người dân quan tâm, đó chính là câu chuyện “phi lợi nhuận” trong giáo dục đại học. Xin được trích dẫn một phần trong bài viết của tác giả Thuận Nhiên được báo Diễn đàn doanh nghiệp đăng ngày 9/8/2014 với nhan đề: “Đầu tư giáo dục nhìn từ trường ĐH Hoa Sen: Mập mờ lợi nhuận-phi lợi nhuận”. “Có DN phi lợi nhuận? Trường Đại học Hoa Sen được thành lập năm 2006 với tên gọi Trường Cao đẳng Bán công Hoa Sen. Tiền thân của trường là cơ sở đào tạo nghiệp vụ tin học và quản lí Hoa Sen, có mặt kể từ năm 1991. Khi thành lập, Hoa Sen hoạt động theo tôn chỉ là môi trường tư thục hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, trực thuộc UBND TP HCM và có cơ chế tự chủ tài chính. Theo quy định của Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực từ năm 2013, các trường đại học tư thục sẽ được tổ chức theo mô hình DN, tức có cổ đông và đại hội đồng cổ đông quyết định các chính sách lớn của nhà trường, bầu ra hội đồng quản trị, ban kiểm soát, và hội đồng quản trị bầu ra ban giám hiệu. Nói một cách khác ở một khía cạnh nào đó, ĐH Hoa Sen còn chịu quy định của Luật Đầu tư và Luật DN, Luật Chứng khoán, khi Trường vừa hoạt động trong một lĩnh vực đặc thù vừa như một DN, dù là DN…“phi lợi nhuận”. 30
  • 20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Sự bất nhất ngay từ ban đầu của các quy định pháp lí và chịu sự chi phối của nhiều Luật khác nhau khiến hoạt động của Hoa Sen dễ bị xáo trộn, càng dễ bị rơi vào trường hợp sao nhãng mục tiêu ban đầu là hoạt động phi lợi nhuận. Trên thực tế Trường được cơ quan chủ quản địa phương hỗ trợ nhiều chính sách và ưu đãi, song thay vì đầu tư toàn phần cho các hạng mục phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ, Trường đã mở ra một số các công ty dựa trên cổ phần vốn góp của mình để thực hiện các thu chi tài chính trái quy định, trong đó có thu vượt học phí của sinh viên – một sai phạm hoàn toàn không đáng có ở một Trường mang danh không vì mục tiêu lợi nhuận - ngoại trừ mục đích rất đáng hoan nghênh của Trường là liên kết mở thêm chương trình để đa dạng hóa nội dung đào tạo đáp ứng nhu cầu của sinh viên”[27]. Như vậy, xuất phát từ lý luận và thực tiễn pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học có ý nghĩa quan trọng trong thể hiện vai trò, định hướng mục tiêu phát triển của Đảng và Nhà nước, góp phần hoàn thiện và đổi mới giáo dục đại học; đảm bảo tính khách quan, công bằng, dân chủ cho các nhà đầu tư; là yếu tố quan trọng trong việc phát huy vai trò của các trường đại học, cao đẳng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; và cũng là cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế về giáo dục đại học. Việc điều chỉnh các quy định của pháp luật về đầu tư trong giáo dục đại học để giải quyêt những vấn đề mang tính hệ thống và cụ thể như hiện nay là cần thiết. 1.3.2. Các nguyên tắc của pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học - Nguyên tắc phi lợi nhuận Khái niệm “đại học phi lợi nhuận” đã được nhắc đến nhiều lần trong hơn 20 năm trở lại đây – kể từ khi đại học ngoài công lập đầu tiên ra đời năm 1989, đến năm 2012 khi Luật Giáo dục đại học được ban hành, khái niệm “phi lợi nhuận” mới được “thể chế hoá” và định nghĩa cụ thể lần đầu tiên. 31
  • 21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Mục 7 điều 4 của Luật Giáo dục đại học 2012 giải thích: Cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không lợi nhuận là cơ sở giáo dục đại học mà phần lợi nhuận tích lũy hằng năm là tài sản chung không chia, để tái đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, các cổ đông hoặc các thành viên góp vốn không hưởng lợi tức hoặc hưởng lợi tức hằng năm không vượt quá lãi suất trái phiếu Chính phủ [16]. Điều 20 Luật Giáo dục 2005 và khoản 3 điều 11 của Luật GDĐH 2013 đều ghi rõ việc cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi. Điều 6, Nghị định số 141 ngày ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định “Cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận” [25]. Theo quan điểm của giáo sư Trần Văn Thọ trên báo tuổi trẻ ngày 7/8/2014 “Những người có vốn muốn kinh doanh nên tránh xa lĩnh vực giáo dục và nhà nước phải có cơ chế để những người đó không kinh doanh được trong giáo dục”[43]. Xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của đầu tư giáo dục nói chung, và giáo dục đại học nói riêng là đầu tư phát triển, đầu tư mang tính đặt thù riêng, không giống như đầu tư trong các lĩnh vực khác. Nguyên tắc phi lợi nhuận cần phải thực hiện đúng với chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. - Nguyên tắc công bằng, dân chủ Nhà nước thực hiện chính sách ưu đãi hoặc hỗ trợ có điều kiện, có thời hạn đối với việc đào tạo một số ngành nghề quan trọng, thiết yếu, một số mục tiêu, một số địa bàn, không phân biệt thành phần kinh tế. Xóa bỏ độc quyền và đặc quyền của các trường đại học công lập và bảo đảm cho các trường đại học công lập được thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động đào tạo, 32
  • 22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 cạnh tranh và chấp nhận rủ ro. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của cán bộ giảng dạy, quản lý với kết quả học động của trường đại học. Nhà nước tạo ra một môi trường pháp luật phù hợp đòi hỏi phải xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử theo hình thức sở hữu. Mọi công dân có quyền tự do đầu tư thành lập các cơ sở đào tạo đại học và đào tạo những lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn mà pháp luật không cấm; có quyền bất khả xâm phạm về quyền sở hữu tài sản hợp pháp; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội và các nguồn lực phát triển cũng nhưng trong cung cấp và tiếp cận thông tin. Chính sách phát triển GDĐH phải tối đa hóa được tất cả các lợi ích. Nó vừa thừa nhận một cách tự nhiên và tôn trọng các lợi ích cá nhân với những mục tiêu kinh tế độc lập và địa vị pháp lý bình đẳng. Giữ gìn nguyên tắc công bằng xã hội; đảm bảo tính đa dạng của hệ thống; đảm bảo chất lượng đào tạo. - Nguyên tắc công khai minh bạch Vốn đầu tư cho giáo dục đại học của các nước đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng được hình thành từ hai nguồn cơ bản là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Trong đó vốn trong nước bao gồm vốn tích lũy từ ngân sách nhà nước (vốn ngân sách nhà nước), vốn tự tạo của trường, vốn của dân cư. Vốn ngoài nước được hình thành chủ yếu từ viện trợ phát triển chính thức. Luật giáo dục Việt Nam đã ghi rõ vốn đầu tư cho giáo dục ở Việt Nam được hình thành từ các nguồn sau: + Nguồn ngân sách nhà nước, + Học phí, tiền đóng góp xây dựng trường học, các khoản thu từ hoạt động tư vấn, chuyển giao công nghệ, sản xuất kinh doanh của các cơ sở giáo dục, các khoản tài trợ khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật. 33
  • 23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Trên thực tê, vốn ngân sách được hình thành dựa trên sự đóng góp của nhân dân thông qua thuế, nhà nhàng năm nhà nước ta phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng đầu tư ngân sách cho giáo dục đại học [45]. Vì vậy yêu cầu tiên quyết để thực hiện mục tiêu giáo dục, đầu tư tài chính cho giáo dục đại học cần phải được công khai, minh bạch. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa rất rõ trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta hiện nay. Luật Ngân sách Nhà nước hiện hành đã quy định Ngân sách Nhà nước được quản lý thống nhất theo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, minh bạch, có phân công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Điều 66, Luật Giáo dục đại học 2012 quy định về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chế độ tài chính, kế toán, kiểm toán, thuế và công khai tài chính theo quy định của pháp luật”[16]. Điều 102, Luật Giáo dục năm 2005 quy định về ngân sách chi cho giáo dục “Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc công khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn” [15]. - Nguyên tắc phòng ngửa rủi ro Đầu tư cho giáo dục khác với các đầu tư khác, đầu tư cho giáo dục mang lại lợi ích cho cá nhân và xã hội. Lợi ích của một khoản đầu tư cho giáo dục được đo bằng khoản thu nhập bổ sung trung bình cho những người tốt nghiệp ở bậc học cao hơn so với những người tốt nghiệp ở bậc học thấp hơn, trong khi khống chế các yếu tố xác định thu nhập khác. Chi phí đầu tư cho giáo dục bao gồm các chi phí trực tiếp – đối với cá nhân, bao gồm tất cả các chi tiêu liên quan đến việc đi học và đối với xã hội, chi phí đầy đủ của các 34
  • 24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nguồn lực cung cấp dịch vụ giáo dục bao gồm những khoản chi phí trợ cấp mà các cá nhân hoặc gia đình của các cá nhân đó không phải trả, cộng với chi phí trung bình phải từ bỏ do việc đầu tư này. Sinh viên còn phải chịu chi phí cơ hội vì mất cơ hội việc làm trong thời gian theo học. Mặt khác, đầu tư cho giáo dục là đầu tư mang tính dài hạn, trung bình một khóa học của sinh viên từ 3,5 đến 4 năm, nên nhà đầu tư cần phải tính toán kỹ về nguồn vốn đầu tư. Khắc phục vấn đề đang diễn ra ở ĐH Hoa Sen hiện nay, việc điều chỉnh pháp luật phải tính toán được các yếu tố có thể xảy ra, phòng ngừa những rủi ro, làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển giáo dục đào tạo, ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư, đến người học. 1.3.3. Nội dung điều chỉnh pháp luật đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam - Quy định về chủ thể đầu tư Quan hệ đầu tư nói chung cũng như quan hệ đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đề có tính xác định về cơ cấu chủ thể. Pháp luật quy định những chủ thể được tham gia quan hệ pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục xuất phát tính chất của hoạt động đầu tư, để bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và của toàn xã hội. Các chủ thể đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định để tham gia quan hệ đầu tư được coi là có năng lực pháp luật đầu tư. Hai nhóm chủ thể cơ bản của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học gồm nhà đầu tư và cơ quản lý nhà nước về đầu tư. - Quy định về điều kiện đối với hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học Một trong những đặc điểm đặc thù của hoạt động đầu tư trong GDĐH đó là “điều kiện đầu tư”. Nó thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm điều kiện đối với nhà đầu tư; hình thức đầu tư; thành lập tổ chức kinh tế; điều 35
  • 25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 kiện về vốn và cơ sở vật chất; điều kiện về chương trình giáo dục; mở cưa thị trường đối với hoạt động đầu tư nước ngoài và rất nhiều điều kiện khác nữa. Pháp luật hiện hành quy định về điều kiện đầu tư trong giáo dục đại học theo hướng phân chia chủ thể đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, pháp luật quy định về điều kiện đầu tư căn cứ vào thực tế hoạt động đầu tư và cam kết quốc tế trong các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. - Quy định về hình thức đầu tư Hình thức đầu tư là một vấn đề quan trọng, là cách tiến hành hoạt động đầu tư sinh lợi của các nhà đầu tư theo quy định của pháp luật, không những thể hiện quyền lợi của nhà đầu tư mà còn nói lên thái độ của nhà nước đối với nhà đầu tư trong mỗi thời kỳ phát triển. Kết hợp tìm hiểu luật đầu tư và phạm vi đầu tư trong GDĐH để thấy được nhà nước đang tạo cơ hội cho nhà đầu tư được tiến hành các hoạt động đầu tư dưới những hình thức khác nhau. Các quy định về hình thức đầu tư trong Luật đầu tư 2005 thể hiện một bước tiến rất lớn trong việc bảo đảm tính công bằng, bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư, cũng như bảo đảm tính toàn diện, thống nhất cho pháp luật đầu tư của Việt Nam, góp phần đưa pháp luật đầu tư của Việt Nam tiến gần hơn tới mức tiêu chuẩn của sự phù hợp xu hướng hội nhập. Theo quy định của pháp luật, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư được phép tiến hành bao gồm hình thức đầu tư trực tiếp và hình thức đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thưc đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia hoạt động quản lý (Khoản 2 Điều 3 Luật đầu tư), thể hiện qua các hình thức cụ thể: thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn nhà đầu tư nước ngoài; thành lập tổ chức kinh tế liên doanh; ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT, BCC; đầu tư phát triển kinh doanh; mua cổ phần hoặc sát nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp. Đầu tư gián tiếp là đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, 36
  • 26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 các giấy tờ có giá, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các chế định tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư [14]. Trong điều kiện và môi trường GDĐH, hình thức đầu tư là cách thức mà pháp luật cho phép các nhà đầu tư sử dụng nguồn lực đầu tư, liên kết và thụ hưởng kết quả đầu tư. - Quy định về thủ tục đầu tư Theo quy định của Luật đầu tư 2005 thì thủ tục đầu tư được quy định khá đơn giản và thuận tiện cho các nhà đầu tư. Theo đó dự án đầu tư được phân chia thành hai loại: đăng ký đầu tư và thẩm tra đầu tư. Đầu tư trong GDĐH là lĩnh vực đầu tư có điều kiện nên các dự án đầu tư phải tiến hành thủ tục thẩm tra đầu tư theo quy định chung. Dự án thuộc diện thẩm tra áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nội dung thẩm tra bao gồm các nội dung: Sự phù hợp quy hoạch kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng; Nhu cầu sử dụng đất: tiến độ thực hiện dự án; Giải pháp về môi trường. Đối với dự án thuộc danh mục đầu tư có điều kiện thì nội dung thẩm tra chính là thẩm tra các điều kiện mà dự án phải đáp ứng. 1.3.4. Nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học Pháp luật đầu tư cho giáo dục nói chung và pháp luật đầu tư cho GDĐH chỉ thực sự được xây dựng sau khi Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII (họp từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 12 năm 1997) chính thức đưa “xã hội hóa giáo dục” vào đời sống. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương hướng xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và Nghị định 73, Chính phủ đã quyết định ban hành Nghị quyết 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh và nâng cao 37
  • 27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 chất lượng xã hội hóa trong các lĩnh vực nói trên trong đó có giáo dục nhằm thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương, có cơ chế, chính sách cụ thể, có giải pháp bước đi thích hợp. Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 (đã hết hiệu lực), đã ghi nhận “xã hội hóa giáo dục” tại Điều 12, coi giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và toàn dân. Như vậy chủ trương xã hội hóa giáo dục đã đi dần vào đời sống, được pháp luật ghi nhận và đã trở thành một khái niệm quen thuộc. Theo cách hiểu chung nhất thì chính là khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục, mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng, nhân lực, vật lực, tài lực trong và ngoài nước, phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực này để phát triển giáo dục. Thực hiện xã hội hóa nhằm hai mục tiêu lớn; thứ nhất là phát triển tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, hhhuy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục ở mức độ ngày càng cao. Xã hội hóa giáo dục có ý nghĩa là nhà nước nó phải tạo ra không gian xã hội, luật pháp và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đó ai cũng có quyền đóng góp vì sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội. Tuy còn nhiều cách hiểu khác nhau về chủ trương này nhưng đây thực sự là nền tảng cho các quy định pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục phát triển và hoàn thiện. Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc Hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định tại điều 36. “Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng. 38
  • 28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nhà nước phát triển cân đối hệ thống giáo dục: Giáo dục mầm mon, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác…”[9]. Hiến pháp năm 2013 quy định tại Điều 39 khẳng định quyền và nghĩa vụ học tập của người dân và Điều 61 thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với việc phát triển giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; đã khái quát được hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm các cấp học, các loại hình nhà trường; phát triển giáo dục đồng đều giữa các vùng miền, ưu tiên những vùng ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; quan tâm đến đối tượng là người khuyết tập và người nghèo. Ngoài ra, xã hội hóa giáo dục cũng ưu tiên thực hiện nhằm huy động được những nguồn lực khác trong xã hội đầu tư cho giáo dục và đào tạo [10]. Trong pháp luật đầu tư, giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng được quy định là lĩnh vực được ưu đãi đầu tư từ rất sớm (Khoản 2, Điều 15 Luật khuyến khích đầu tư trong nước – sửa đổi năm 1998 – đã hết hiệu lực). Cùng thời điểm đó, Luật Giáo dục số 11/1998/QH10 quy định về xã hội hóa giáo dục và đầu tư cho giáo dục trên cơ sở phù hợp với chủ trương của Đảng và pháp luật về đầu tư. Điều 12 Luật Giáo dục 1998 quy định Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. 39
  • 29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”. Có thể thấy, các văn bản pháp luật đầu tư và pháp luật về giáo dục đã bước đầu quy định về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng là hoạt động quan trọng và được khuyến khích, ưu đãi. Luật đầu tư 2005 ra đời là kết quả của quá phát triển các quy định pháp luật về đầu tư. Luật đầu tư 2005 thay thế Luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Theo Luật đầu tư 2005 thì “phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo” là lĩnh vực ưu đãi đầu tư (Khoản 6 – Điều 27), và là lĩnh vực đầu tư có điều kiện (Điểm h – Khoản 1 – Điều 29). Cùng năm 2005, Luật Giáo dục mới ra đời, quán triệt tinh thần phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu (Điều 9), Luật Giáo dục 2005 quy định về đầu tư cho giáo dục tại Điều 13 như sau:“ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục. Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu tư cho giáo dục”[15]. Mục 2, Chương VII Luật Giáo dục 2005 cũng quy định về đầu tư cho giáo dục, từ Điều 101 đến Điều 106. Các quy định này thể hiện chính sách phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, huy động nguồn lực từ ngân sách nhà nước, từ sự đóng góp, đầu tư từ những tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng chung tay vì sự nghiệp giáo dục nước nhà. Mục 3, Chương VII Luật Giáo dục 2005 (từ Điều 107 đến Điều 110) quy định về hợp tác quốc tế về giáo dục, với tinh thần mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có lợi. Theo quy định của mùa này thì tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được 40
  • 30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 nhà nước Việt Nam khuyến khích, tạo điều kiện đầu tư về giáo dục đại học ở Việt Nam, được bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trong Luật đầu tư và Luật Giáo dục đều căn cứ vào vai trò, chức năng của Chính phủ, giao cho chính phủ việc quy định chi tiết các vấn đề về hợp tác đầu tư trong giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng của các nhà đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Thời gian qua, chính phủ với nhiệm vụ của mình đã có những hoạt động tích cực, hiệu quả trong việc ban hành những văn bản dưới luật, hướng dẫn cụ thể việc thực hiện hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học. Trong hệ thống các văn bản dưới luật, cũng có rất nhiều văn bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành, cụ thể hóa quy định về đầu tư trong Luật Đầu tư 2005 và Luật giáo dục 2005. Luật Giáo dục đại học 2012 (GDĐH) Việt Nam, được ban hành và có hiệu lực từ 1-1-2013, đã xác định rõ chủ trương của Nhà nước về xây dựng một hệ thống GDĐH có tính chất đa dạng, với những loại trường khác nhau nhằm thực hiện những sứ mạng khác nhau và đáp ứng những nhu cầu khác nhau của xã hội. Trong ba loại trường ĐH (nghiên cứu, ứng dụng và thực hành), trường ĐH nghiên cứu có vai trò đặc biệt trong việc duy trì sự ưu tú, tạo ra những kiến thức mới, ý tưởng mới, sáng tạo mới nhằm dẫn dắt tiến bộ xã hội cũng như thúc đẩy sự giàu mạnh của quốc gia. Do vai trò đặc biệt đó, trường ĐH nghiên cứu cần có những đặc quyền, không chỉ về nguồn lực, mà còn là một môi trường hỗ trợ nhằm bảo đảm cho nó thực hiện được những nhiệm vụ trọng yếu của mình. Căn cứ Luật Giáo dục đại học ngày 18 tháng 6 năm 2012, chính thức có hiệu lực năm 2013 (Điều 64) quy định rõ về nguồn tài chính của các cơ sở giáo dục đại học bao gồm ngân sách nhà nước; học phí và lệ phí tuyển sinh; thu từ các hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, sản xuất, kinh doanh và dịch vụ; Tài trợ, viện trợ, quà biếu, tặng, cho của các cá nhân, tổ chức trong nước và nước 41
  • 31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 ngoài; Đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài; Nguồn thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật[16]. Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục đại học. Nghị định của chính phủ số 06/2000 ngày 06/03/2000 về việc hợp tác đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học. Căn cứ Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục và Nghị định số 31/2011/NĐ-CP ngày 11 tháng 5 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục [21]; Thông tư liên tịch Bộ giáo dục và Đào tạo – Bộ kế hoạch và Đầu tư số 14/2005/TTLT – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 14 tháng 04 năm 2005 hướng dẫn một số điều của Nghị định số 06/2000/NĐ- CP ngày 06/03/2000 của chính phủ về việc hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học. Đối với việc thu hút đâu tư trong nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành những văn bản quy định về quy chế tổ chức và hoạt động của các cơ sở giáo dục ngoài quốc dân. Việc tổ chức và thành lập các cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài ngân sách nhà nước này hoạt động theo quy chế riêng, theo điều lệ tương ứng với cấp học và bậc học. Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2005 của Thủ tướng chính phủ về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục [33]. 42
  • 32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Trường đại học [34]. Từ những văn bản quy quạm pháp luật trên, hoạt động góp vốn thành lập các cơ sở giáo dục nói chung và các cơ sở giáo dục đại học nói riêng của các nhà đầu tư trong nước chủ yếu được quy định chi tiết ở các bản quy chế, điều lệ. Hoạt động đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu điều chỉnh của các quy định về hợp tác quốc tế trong Luật giáo dục và các văn bản hướng dẫn. Trong hệ thống các văn bản quy phạp pháp luật về hoạt động đầu tư trong lĩnh vực giáo dục không thể không kể đến những điều ước quốc tế, những bản cam kết mà Việt Nam đã ra nhập. Tiêu biểu nhất là Biểu cam kết cụ thể về thuwong mại dịch vụ - là kết quả đàm phám quan trọng giữa Cộng hòa xã hội Việt Nam với các thành viên WTO và là phụ lục của Nghị định thư gia nhập WTO của Việt Nam. Biểu cam kết dịch vụ gồm 3 phần: Cam kết chung, cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc (MFN) [3]. 1.4. Các yếu tố chi phối pháp luật đầu tƣ trong giáo dục đại học 1.4.1. Yếu tố kinh tế Sự phát triển khoa học công nghệ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu ngành nghề của lực lượng lao động trong xã hội. Những thay đổi này đòi hỏi ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải luôn điều chỉnh chương trình đào tạo, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu trình độ, hình thức tổ chức đào tạo, phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tri thức đang hình thành. Một khi phương tiện internet đã trở nên thông dụng, mọi thứ đều có thể trình diễn trên internet thì giáo dục từ xa là một hình thức học tập phổ biến cho tất cả mọi người. Sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế, xã hội, công nghệ, các trường đại học phải điều chỉnh vai trò của mình như là trung tâm nâng cao tri thức để đáp 43
  • 33. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 ứng nhu cầu nhận thức của mỗi quốc gia. Vai trò truyền thống của các trường đại học như là người canh giữ tri thức của nhân loại hay là người truyền thụ những kiến thức thu nhận được sẽ không còn phát huy được trong thời đại ngày nay. Nhiệm vụ của các trường đại học không chỉ đơn thuần là đào tạo nhân lực mà điều quan trọng hơn là đào tạo được các nhà chuyên gia giỏi và thích ứng nhanh, có khả năng làm chủ và điều khiển được các tình huống thay đổi đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Kinh tế hàng hóa phát triển, thị trường là động được hình thành, Người đi học và người sử dụng lao động có khả năng thu được lợi ích khi tham gia thị trường lao động. Vì vậy họ phải chia sẻ kinh phí cho hoạt động giáo dục đào tạo. Đó là cơ hội cho giáo dục đại học có thêm nguồn lực để phát triển. Như vậy cả người học lẫn người sử dụng đều phải đối mặt với bài toán chi phí – lợi ích. Tất cả điều đó ảnh hưởng đến quyết định động cơ học tập, việc lựa chọn ngành nghề, tác động đến quan hệ trong nhà trường và ngoài xã hội. Trong bối cảnh này quyền tự chủ của các trường đại học và việc đảm bảo tự do học thuật phải được tôn trọng. Đây là điều cần thiết để cho các cơ sở giáo dục có thể hoàn thành sứ mệnh của mình, cho hệ thống giáo dục đại học hoạt động có hiệu quả, tăng cường khả năng thay đổi và đón trước. Ở cấp quốc gia, số lượng ngày càng nhiều cơ sở đào tạo hết sức đa dạng cần thiết để đáp ứng các xu hướng đang thay đổi về nhu cầu, sẽ không thể quản lý đúng đắn được chúng nếu không có các cơ chế mềm rẻo, một mức độ phân quyền nhất định. Chính những yếu tốt này ảnh tác động, hưởng đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học ở Việt Nam. 1.4.2. Yếu tố chính trị Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, pháp luật đầu tư GDĐH tồn tại và phát triển song hành với bộ máy cai trị khi xã hội có sự không bình đẳng trong việc phân chia quyền sở hữu dẫn đến xuất hiện các nhóm lợi ích 44
  • 34. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 khác nhau và là sản phẩm của con người. Vì vậy nó luôn luôn chịu ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài hoặc tác nhân môi trường gián tiếp chứa đựng những tư tưởng, động cơ chính trị, năng lực tri thức, ham muốn lợi ích vật chất và tình cảm của con người thông qua bộ máy cai trị và những người làm ra chính sách. Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng công cụ của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội dung và phương pháp giáo dục. Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều hướng tới đáp ứng mục tiêu giáo dục nước nhà. Cụ thể đó là việc chi ngân sách nhà nước hàng năm là nguồn cung cấp tài chính cơ bản để duy trì định hướng sự phát triển hệ thống giáo dục đào tạo quốc dân theo đúng đường lối, chủ chương của Đảng và Nhà nước. Từ năm 2001 đến nay Nhà nước đã dành nguồn ngân sách đầu tư đáng kể cho giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. Tỷ trọng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo trong tổng chi ngân sách nhà nước tăng dần theo hướng năm sau cao hơn năm trước. Đảng và Nhà nước quán triệt quan điểm ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục ở khu vực khó khăn, vùng dân tộc thiểu số của Việt Nam, đồng thời thực hiện chính sách xã hội hóa mạnh hơn ở khu vực đào tạo. 1.4.3. Yếu tố tâm lý xã hội, ý thức xã hội Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi trói cho nông dân và cho các nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh nghiệp phát triển? Tại sao 45
  • 35. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 chúng ta không cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát triển? Ai trói buộc và ai sẽ cởi trói cho giáo dục? Chính là tư tưởng bao cấp, quan liêu và cào bằng, xa rời thực tế, duy ý chí, phân biệt đối xử cũng như việc lẫn lộn chức năng của cơ quan này với cơ quan khác hiện phổ biến ở nhiều nơi đang tự trói buộc chúng ta. Chẳng hạn như chức năng quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo về giáo dục đang lẫn lộn với chức năng thực hành giáo dục của các cơ sở giáo dục. Như hiện nay Bộ đang làm công tác tuyển sinh thay cho các trường đại học trong khi mỗi trường đại học có những yêu cầu khác nhau, lại có một đội ngũ tri thức lớn, làm sao Bộ thay thế nổi. Những việc cần làm thì chưa làm, hay làm chưa tốt, trong khi lại lấn sân sang công việc của các cơ sở giáo dục, khiến ách tắc, rối bời, làm cho tê liệt tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, làm tăng gấp bội “tinh thần nặng óc khoa cử, luyện thi trong xã hội”, “bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”, “bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực” đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể cả thầy lẫn trò mà hiện tượng quay cóp đang hoành hành, trở thành quốc nạn! Như một thầy thuốc cần chẩn đoán đúng bệnh và cho đúng thuốc, thuốc đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được! Phải thẳng thắn nhìn vào sự thật những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải biết trị tận căn, mới mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện. 1.4.4. Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội Yếu tố truyền thống, tập quán xã hội trong chừng mực nhất định có tác động không nhỏ tới sự hình thành quan điểm, đường lối chỉ đạo của các nhà quản lý, nhà giáo dục, người học cũng như ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. 46
  • 36. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 Nhân dân ta từ xưa đã có truyền thống hiếu học, sẵn sàng đầu tư tiền của cho sự nghiệp giáo dục bản thân và nước nhà. Tuy nhiên do lịch sử thời bao cấp và thời chiến tranh để lại. Tình trạng thầy không ra thầy, trò không ra trò, trường không ra trường, lớp không ra lớp là chúng ta hiểu được và đành chấp nhận trong hoàn cảnh lịch sử đó, vì yêu cầu của đấu tranh, một mất một còn, không thể nào khác. Đặc biệt hiện nay trong thời kỳ đổi mới và hội nhập với khu vực và thế giới, yêu cầu hoàn toàn khác, cách làm phải theo quy luật hoàn toàn khác, nếu ta muốn tồn tại và phát triển. Trong hoàn cảnh đó, yêu cầu của chuyên môn, yêu cầu cao của khoa học kỹ thuật giáo dục chưa phải là yêu cầu hàng đầu. Ngoài ra, do tư tưởng, con người, cách làm của thời bao cấp, thời chiến tranh manh mún, tùy tiện, quan liêu không dễ gì một sớm một chiều có thể thay đổi ngay được. Đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chuyên môn của họ. Không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa nơi họ vì họ đã chịu đựng như thế là quá phi thường, quá sức chịu đựng của họ rồi, nhất là đối với những người có khả năng và trách nhiệm cao. Vì vậy, yếu tố truyền thống phong tục tác động không nhỏ tới hoạt động đầu tư trong giáo dục đại học ở Việt Nam. 1.4.5. Yếu tố hội nhập quốc tế Toàn cầu hóa và quốc tế hóa đã trở thành xu hướng không thể đảo ngược trong cuộc sống xã hội hiện đại. Thực hiện tốt quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa giáo dục đại học có thể sẽ mang lại ý nghĩa quyết định cho những thành công về giáo dục của đất nước. Theo Avis et al. (1996), trong xu thế toàn cầu hóa, để không bị mất độc lập và chủ quyền kinh tế, lãnh thổ quốc gia, chính phủ cần duy trì quyền kiểm soát giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, nếu đóng cửa trong hoạch định chính 47
  • 37. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 sách phát triển GDĐH sẽ tạo ra sự lạc hậu của hệ thống. Hơn mọi lĩnh vực trong nền kinh tế, lĩnh vực GDĐH cần phải hướng ra thế giới bên ngoài, tiếp cận những tinh hoa của thế giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Mở rộng cửa ra thế giới bên ngoài và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, trao đổi quốc tế thực chất là quá trình thực hiện quốc tế hóa nền GDĐH, trên cơ sở đó nâng cao chất lượng, uy tín và sức cạnh tranh với hệ thống giáo dục thế giới. Nó có vai trò thúc đẩy quá trình hiện đại học và nâng vị thế của cả hệ thống GDĐH. Nó cũng là phương tiện tốt nhất để tạo ra thế chủ động trong việc chống lại chủ nghĩa thực dân mới trong học thuật. Thông qua hội nhập và mở cửa hợp tác quốc tế để từng bước điều chỉnh cấu trúc và cải cách GDĐH theo hướng cạnh tranh quốc tế; phấn đấu đạt được các tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng đào tạo và học thuật. Tuy nhiên, vị thế giáo dục đại học nước ta trong thế giới toàn cầu hóa và quốc tế hóa không có nhiều lợi thế. Điều này có nghĩa là giáo dục đại học Việt Nam có thể sẽ bị phụ thuộc nhiều hơn vào các siêu cường học thuật nếu không có những giải pháp hợp lý. Trong nước các trường đại học mạnh luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc hình thành và phân phối kiến thức, trong khi các cơ sở và các hệ thống yếu hơn với nguồn lực ít ở và các chuẩn mực học thuật thấp hơn đành phải chấp nhận sự phụ thuộc. Vì vậy, hội nhập đồng nghĩa với việc tạo ra áp lực không nhỏ đối với các nhà quản lý, các nhà làm luật, và chính người học. Làm sao tạo môi trường đầu tư thông thoáng, công bằng, dân chủ để khuyến khích đầu tư? Làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo trong nước đáp ứng nhu cầu hội nhập? Làm sao để giám sát được chất lượng tổ chức hoạt động giảng dạy và học tập?...Các văn bản quy phạm pháp luật về hoặc động đầu tư cũng như 48
  • 38. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 trong lĩnh vực giáo dục nói chung và GDĐH nói riêng cần phải được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với hội nhập quốc tế. Kết luận chƣơng 1 Trong quá trình phát triển của xã hội với trình độ khoa học kỹ thuật, ngày càng cao, vai trò của giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng ngày càng trở nên quan trọng đối với cá nhân và đối với cả xã hội. Đầu tư cho giáo dục đại học là việc làm cần thiết không chỉ đối với nhà nước ta mà nó còn ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bất kỳ cuộc qua nào trên thế giới. Đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và nhà nước ta. Tuy nhiên, đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học cũng chịu ảnh hưởng rất lớn từ các yếu tố chính trị, kinh tế, phong tục, tập quán, ý thức xã hội và yếu tố hội nhập quốc tế. Những nguyên tắc trong đầu tư giáo dục nói chung và đầu tư giáo dục đại học nói riêng phải được giữ vững. Chính vì vậy việc hình thành, xây dựng, bổ sung điều chỉnh chính sách, pháp luật về đầu tư trong lĩnh vực giáo dục đại học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định đến mục tiêu giáo dục nước nhà.