Tóm tắt: Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay đã đặt ra yêu cầu mới trong công tác quản lí, đào tạo giáo viên - yếu tố quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Đảm bảo chất lượng trong đào tạo giáo viên là một trong những nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của các cơ sở giáo dục có đào tạo sư phạm. Bài viết này đề cập thực trạng chất lượng giáo viên trung học phổ thông và đề xuất nhóm giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo giáo viên trung học phổ thông phù hợp với bối cảnh hiện nay.
Từ khóa: Giải pháp, chương trình đào tạo, đảm bảo chất lượng, đào tạo giáo viên.
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo giáo viên THPT trong bối cảnh hiện nay
1. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
15
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
GIÁO VIÊN TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Phan Hùng Thư - Trường Đại học Vinh
Ngày nhận bài: 23/11/2017; ngày sửa chữa: 01/12/2017; ngày duyệt đăng: 07/12/2017.
Abstract: Improvement of quality of teacher training management is required to enhance quality
of the education in the context of fundamental and comprehensive reform of education and training
inVietnam today. Also, the quality assurance of training teachers is one of key tasks of pedagogical
institutions. In this article, author emphasizes the current state of quality of high school teachers
and proposes solutions to guarantee quality of training high school teachers in current period.
Keywords: Solutions, training programs, quality assurance, teacher training.
1. Mở đầu
Giáo viên (GV) là nhân tố quyết định không chỉ với
chất lượng giáo dục trong nhà trường mà còn ảnh hưởng
quan trọng đến năng lực, phẩm chất trong cả cuộc đời
mỗi con người. Nghiên cứu tại Tennessee và Dallas ở
Hoa Kì [1] đã khẳng định chất lượng GV ảnh hưởng tới
thành tích học tập của học sinh (HS) nhiều hơn các yếu
tố khác. Điều 15 Luật Giáo dục 2009 [2] Việt Nam đã
nhấn mạnh, nhà giáo có vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng (ĐBCL) giáo dục. Muốn hoàn thành tốt
nhiệm vụ đó, GV phải có trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cao, cập nhật thường xuyên các thay đổi của thời đại
về giáo dục, có phẩm chất đạo đức tốt. Do vậy công tác
đào tạo (ĐT), bồi dưỡng đội ngũ GV đóng vai trò hết sức
quantrọng. Tuy nhiên,trước nhữngthay đổi của nền kinh
tế toàn cầu, đặc biệt là sự tác động của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục Việt Nam hiện nay, đội ngũ GV đang bộc
lộ những hạn chế, bất cập; đặc biệt là chưa thể hiện được
tính hệ thống, đồng bộ, cập nhậtthường xuyên và liên tục
để đáp ứng những thay đổi trên. Những bất cập trên đòi
hỏi các cơ sở đào tạo giáo viên (ĐTGV) cần đổi mới
trong công tác xây dựng và quản lí chương trình đào tạo
(CTĐT) để sản phẩm đầu ra (GV tương lai) đáp ứng
được nhu cầu xã hội mà cụ thể là nguồn nhân lực cho các
trường phổ thông trong bối cảnh hội nhập.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1.ThựctrạngchấtlượngđộingũGVphổthônghiệnnay
Trong một khảo sát gần đây về năng lực của đội ngũ
GV tham gia giảng dạy 12 môn học ở trường trung học
phổ thông (THPT) của tác giả Phạm Kim Anh [3] cho
kết quả khảo sát như sau (xem bảng 1):
Kết quả bảng 1 cho thấy, có 31,8% cho rằng GV đang
có nhiều bất cập về chuyên môn; 27,3% không thừa nhận
điều này; 40,9% ý kiến còn phân vân. Điều này cho thấy sự
bấtcậpvềchuyênmôncủaGVlàmộtvấnđềcầngiảiquyết.
Về năng lực dạy học của GV, có: 13,6% đánh giá là còn
yếu; 27,3% không đồng ý điềuđó, nhưng tỉ lệphân vân khá
cao (51,9%). Điều này cho thấy mức độ tin tưởng vào năng
lực dạy học của GV chưa được khẳng định rõ ràng. Về việc
triển khai thực hiện các PPDH mới, tuy có 40,9 % ý
kiến không đồng ýnhưngcótới 54,5%ý kiếnvẫncòn phân
vân. Như vậy, việc GV thực hiện các PPDH mới vẫn còn là
vấn đề chưa được khẳng định rõ ràng [4].
Chất lượng đội ngũ nhà giáo chưa đáp ứng yêu cầu
đổi mới căn bản, toàn diện, đặc biệt là trong bối cảnh mới
nhằm đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp
4.0. Hầu hết GV THPT đạt chuẩn và trên chuẩn tới
97,5% [5], con số này là rất cao, nhưng năng lực và trình
Bảng 1. Thực trạng chất lượng GV THPT
TT Nội dung khảo sát
Tỉ lệ %
Điểm
trung bình
Đồng ý
Phân
vân
Không
đồng ý
1 Về cơ bản đáp ứng được yêu cầu 81,8 18,2 0,0 2,8
2 Đang có nhiều bất cập về chuyên môn 31,8 40,9 27,3 2,0
3 Đang có chiều hướng tích cực 59,1 40,9 0,0 2,6
4 Năng lực dạy học của GV còn yếu 13,6 51,9 27,3 1,9
5 Các phương pháp dạy học (PPDH) mới chưa được triển khai 4,5 54,5 40,9 1,6
2. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
16
độ chuyên môn nghiệp vụ của nhiều GV còn hạn chế,
chưa thực sự đổi mới PPDH, vẫn còn GV xếp loại yếu
về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là GV công tác ở
miền núi, ít có điều kiện nâng cao trình độ, cập nhật kiến
thức. Về nghiệp vụ sư phạm: phần lớn GV đều đã qua
ĐT, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, trình độ tin học và
ngoại ngữ của đội ngũ GV đã được nâng lên. Tuy nhiên,
vẫn còn một bộ phận không nhỏ chưa đạt yêu cầu về
năng lực sư phạm, trình độ tin học và ngoại ngữ. Đây là
nguyên nhân dẫn tới tình trạng GV gặp khó khăn trong
việc tiếp cận với PPDH tiên tiến, hạn chế khả năng
nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.
Công tác đánh giá phân loại GV còn bộc lộ nhiều bất
cập, hạn chế trong công tác này là nhận thức và trách
nhiệm của một bộ phận GV và cán bộ quản lí giáo dục
chưa đầy đủ, còn né tránh, nể nang; chưa ban hành kịp
thời các tiêu chí đánh giá, thiếu các tiêu chí cụ thể, định
lượng nên việc đánh giá chưa thật chính xác, khách quan,
chưa phản ánh đúng thực chất về đội ngũ; bất cập trong
việc thực hiện các chính sách đãi ngộ đối với GV, cụ thể
như: chưa giải quyết triệt để bất hợp lí trong hệ thống
thang, bảng lương, chế độ phụ cấp cho nhà giáo, chính
sách tiền lương đối với GV mầm non và chế độ đối với
GV hợp đồng; thu nhập của nhà giáo ở các trường công
lập và ngoài công lập có khác biệt lớn; đời sống của phần
đông nhà giáo vẫn còn khó khăn, điều kiện làm việc còn
hạn chế nên bản thân họ chưa thực sự yên tâm công tác,
thậm chí ở một số thành phố lớn đã có hiện tượng GV
xin nghỉ việc, chuyển chỗ, làm nghề khác...
2.2. Sự cần thiết phải xây dựng các giải pháp đảm bảo
chất lượng trong ĐTGV THPT
Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của
Thủ tướng Chính phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện
giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam giai đoạn 2006-
2020 nêu rõ một trong những nhiệm vụ và giải pháp đổi
mới giáo dục là: Triển khai đổi mới phương pháp ĐT
theo 3 tiêu chí: trang bị cách học; phát huy tính chủ động
của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông trong hoạt động dạy và học. Khai thác các nguồn
tư liệu giáo dục mở và nguồn tư liệu trên mạng Internet.
Lựa chọn, sử dụng các chương trình, giáo trình tiên tiến
của các nước [6].
Hướng tới xây dựng chuẩn chất lượng đã được ngành
giáo dục đặt ra là vấn đề trọng tâm cần giải quyết, được
coi như mốc cơ bản đối với những trường muốn khẳng
định chất lượng ĐT, trong đó có các CTĐT GV THPT.
Tuy nhiên, xu thế hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu
rộng khiến cáctrường đại học bắt buộc phải tìmcho mình
những thước đo mới tầm cỡ quốc tế; trong đó, xây dựng
CTĐT GV theo hướng tiếp cận năng lực là một giải pháp
đảm bảo tính khả thi và phù hợp với sự phát triển của xã
hội. Những hạn chế, yếu kém trong GDĐH đã cho thấy,
CTĐT GV hiện nay chưa thực sự hiệu quả, cần có những
giải pháp, cách tiếp cận mới để xây dựng CTĐT phù hợp
hơn với xu thế đổi mới GDĐH trong quá trình hội nhập
quốc tế. Hiệu quả của CTĐT phải được thể hiện qua chất
lượng “đầu ra” của người học. Những GV tương lai cần
phải được trang bị kiến thức, kĩ năng và tố chất cá nhân
trong hoạt động nghề nghiệp, kĩ năng giao tiếp và hợp tác
và những năng lực quan trọng của người GV trong một
nền giáo dục hiện đại.
2.3. Giải pháp ĐBCL ĐTGV THPT trong bối cảnh
hiện nay
Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để quản lí một
CTĐT như: Quản lí chất lượng theo mô hình ISO; TQM;
CIPO; AUN-QA... trong đó, chúng tôi cho rằng hướng
tiếp cận quản lí CTĐT theo AUN-QA là một cách tiếp
cận khoa học và phù hợp với các trường đại học Việt
Nam và phù hợp với xu thế phát triển của khu vực và thế
giới khi mà thế giới đang đi vào kỉ nguyên nền công
nghiệp 4.0. Theo cách tiếp cận quản lí theo AUN-QA,
chúng tôi đề xuất một số giải pháp quản lí CTĐT GV
THPT như sau:
2.3.1. Cải tiến quản lí nâng cao chất lượng giảng dạy/ĐT
học tập và các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ học tập. Nâng cao
chất lượng “chuẩn đầu ra”, phát huy tối đa niềm tin người
học, tạo cho sinh viên (SV) sư phạm có niềm tin vào
nghề. Vì vậy, phải trang bị đầy đủ kĩ năng cho họ. Trong
đó cốt lõi là kĩ năng xử lí nghiệp vụ sư phạm, kĩ năng ứng
xử, kĩ năng giao tiếp và thích nghi với hoàn cảnh mới với
sự thay đổi trong môi trường sống, môi trường làm việc.
Yếu tố quyết định cho các nhà tuyển dụng lựa chọn
không gì khác đó là kĩ năng, năng lực rèn luyện và nâng
cao tính chuyên nghiệp, tính linh hoạt. Phát triển các dịch
vụ hỗ trợ học tập, các dịch vụ tư vấn và hỗ trợ SV trong
quá trình học tập như: Trung tâm hỗ trợ SV, Trung tâm
khởi nghiệp sáng tạo... tạo điều kiện tốt nhất cho SV có
môi trường rèn luyện các kĩ năng cũng như cơ hội việc
làm sau khi tốt nghiệp.
2.3.2. Tăng cường tổ chức phát triển nghề nghiệp cho đội
ngũ giảng viên. Xuất phát từ những yêu cầu trên và thực
trạng đội ngũ GV hiện nay, chúng tôi đề xuất quy trình
bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên đại
học sư phạm như sau:
- Xác định mục tiêu bồi dưỡng, phát triển nghề nghiệp
chođộingũgiảngviên:Mụctiêubồidưỡngnângcaonăng
lựcchogiảngviênlàtrangbị,cậpnhật,nângcaokiếnthức,
kĩ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong bối cảnh
mớicủagiáodục;NângcaonănglựcĐT,nghiêncứukhoa
học,chuyểngiaocôngnghệvàhợptácquốctếchođộingũ
giảng viên, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp đổi
mới căn bản, toàn diện GD-ĐT hiện nay.
3. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
17
- Xác định nhu cầu bồi dưỡng của đội ngũ giảng viên:
Để xác định nhu cầu bồi dưỡng của đội ngũ GV, các
trường đại học cần phải thực hiện 2 việc: + Phântích thực
trạng đội ngũ giảng viên để làm rõ: họ là ai? họ có vai trò
như thế nào trong sự nghiệp đổi mới giáo dục? họ đang
ở trình độ nào? năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học
như thế nào? điểm mạnh, điểm yếu của họ là gì? phải bồi
dưỡng cho họ cái gì, phương pháp, hình thức bồi dưỡng
như thế nào?; + Xuất phát từ chính nhu cầu hiện nay của
đội ngũ giảng viên, trên cơ sở đó xây dựng chương trình
bồi dưỡng cho phù hợp.
- Xây dựng nội dung bồi dưỡng, xác định căn cứ xây
dựng CTĐT, bồi dưỡng giảng viên:
+ Những căn cứ pháp lí: Luật Giáo dục đại học của
Việt Nam; Điều lệ trường đại học; Chiến lược phát triển
giáo dục 2011-2020, giải pháp phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lí giáo dục; Chương trình phát triển
ngành sư phạm và các trường sư phạm từ năm 2011 đến
năm 2020 (ETEP, RGEP).
+ Căn cứ vào thực trạng đội ngũ giảng viên; Xây
dựng chương trình bồi dưỡng giảng viên; Phát triển đội
ngũ giảng viên các trường đại học sư phạm; Nghị quyết
số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản, toàn
diện GD-ĐT đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế; Giải pháp phát triển đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lí, đáp ứng yêu cầu đổi mới GD-ĐT;
Chiến lược phát triển của các trường/khoa sư phạm giai
đoạn 2011-2020, giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên.
2.3.3. ĐBCL cơ sở vật chất, phương tiện dạy - học. Các
điều kiện về học liệu, trang thiết bị học tập, cơ sở vật chất
đóng một vai trò quan trọng trong việc ĐBCL ĐT của
trường đại học. Vì thế, các điều kiện này phải đáp ứng
những yêu cầu sau đây: - Thư viện của trường được nối
mạng, có đầy đủ sách, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng
Việt và tiếng nước ngoài; - Có đủ số phòng học, giảng
đường lớn, phòng thực hành, thí nghiệm phục vụ cho
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học của từng
ngành ĐT; - Đủ trang thiết bị giảng dạy và học tập để hỗ
trợ cho các hoạt động ĐT và nghiên cứu khoa học, đảm
bảo về chất lượng và sử dụng có hiệu quả; - Cung cấp
đầy đủ thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả các hoạt động
giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học và quản lí; - Đủ
diện tích lớp học theo quy định cho việc giảng dạy và học
tập; có kí túc xá, đảm bảo đủ diện tích nhà ở và sinh hoạt
cho SV nội trú; có trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao theo quy định;
- Quy hoạch tổng thể về sử dụng và phát triển cơ sở vật
chất trong kế hoạch chiến lược của trường...
2.3.4. Xây dựng hệ thống và công cụ kiểm soát, đánh giá
chất lượng ĐTGV THPT và phản hồi thông tin. Thiết lập
một hệ thống ĐBCL nội bộ trường sư phạm. Theo quy
định của Luật Giáo dục đại học năm 2012, các tổ chức
giáo dục đại học có trách nhiệm duy trì và phát triển các
điều kiện ĐBCL ĐT, bao gồm: - Giảng viên, nhân viên
hành chính; - CTĐT, giáo trình, tài liệu giảng dạy và học
tập; - Phòng học, văn phòng, thư viện, hệ thống công
nghệ thông tin, phòng thí nghiệm, cơ sở thực hành, kí túc
xá và các cơ sở khác; - Các nguồn lực tài chính.
Bên cạnh đó, các cơ sở ĐTGV phổ thông phải tiến
hành công tác tự đánh giá 5 năm/lần theo quy định của
Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT ngày 28/12/2012 và
theo các tiêu chuẩn đánh giá quy định tại Quyết định
65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 1/11/2007 của Bộ trưởng Bộ
GD-ĐT về việc ban hành tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
trường đại học. Vì vậy, hơn bao giờ hết, các cơ sở GDĐH
cần thiết lập, xây dựng hệ thống ĐBCL bên trong đáp
ứng yêu cầu nâng cao và ĐBCL ĐT.
Theo Vroeijenstijin (1995), để ĐBCL, các trường đại
học cần phải thiết lập hệ thống ĐBCL bên trong đáp ứng
các yêu cầu cơ bản về giám sát, đánh giá và cải tiến chất
lượng. Ít nhất, trong hệ thống ĐBCL bên trong phải có
các thành tố của vòng trong Deming, đó là: Lập kế hoạch
(Plan); tổ chức thực hiện (Do); kiểm tra (Check) và hành
động (Action) (P-D-C-A). Trên cơ sở chu trình P-D-C-
A, Vroeijenstijin (1995) cho rằng hệ thống ĐBCL bên
trong cần có các thành tố sau: Mục tiêu của tổ chức; các
công cụ giám sát; các công cụ đánh giá; cải tiến chất
lượng (xem hình).
Hình. Chu trình PDCA của Demming
Xây dựng công cụ kiểm soát, lựa chọn các công cụ
mà cơ sở GDĐH sử dụng để thu thập thông tin và xác
định các đơn vị đo lường khi cơ sở giáo dục đã biết được
đâu là số liệu thực tế và tuyên bố sự hài lòng; phải xác
định làm thế nào để thu thập được những thông tin này
và đơn vị đo lường sẽ là gì (xem bảng 2 trang bên):
2.3.5. Nâng cao năng lực quản lí ĐTGV THPT ở các
trường sư phạm. Phát triển năng lực đội ngũ GV cốt cán
để họ có đủ năng lực hỗ trợ việc bồi dưỡng thường xuyên,
liên tục, ngay tại chỗ cho tất cả GV phổ thông; Nâng cao
năng lực các trường sư phạm chủ chốt về đội ngũ giảng
viên,CTĐT,bồidưỡng,cơsởvậtchất,nềntảngICT,quản
trị; Bổ sung và hoàn thiện hệ thống quản lí và các chính
sách về ĐT, bồi dưỡng; phát triển, khai thác và duy trì sử
4. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
18
dụng hạtầngcông nghệthông tin,hệthống quản lítrithức,
họcliệumở(LMS), hệthốngdữ liệu(TEMIS)và hệthống
kiểm định chất lượng ĐT, bồi dưỡng [8].
Trong giai đoạn hiện nay, các trường sư phạm tập
trung vào ĐT mới nguồn nhân lực giáo dục chất lượng
cao; ưu tiên hoạt động bồi dưỡng nâng cao năng lực cho
đội ngũ GV theo hướng chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục. Nên chú trọng việc đầu tư cho các trường
sư phạm và phải được thực hiện theo quy hoạch ngành,
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT và
đổi mới giáo dục phổ thông. Đây là một nhiệm vụ khó
khăn, vì giáo dục con người là một quá trình, phải vài
năm mới có thể có sự thay đổi về chất; do vậy không thể
nóng vội, kiên quyết không làm chắp vá, phải đầu tư
đúng hướng và đạt hiệu quả cao.
Xây dựng được hệ thống tiêu chuẩn trường sư phạm
hiện đại, năng động, tự chủ cao; sử dụng các tiêu chuẩn
này để kiểm định phân tầng xếp hạng các trường sư phạm
và lấy kết quả này để sắp xếp lại mạng lưới các trường
sư phạm một cách khoa học, công bằng, khách quan; cần
phân cấp quản lí mạnh mẽ trong hệ thống sư phạm để
tăng tính tự chủ và trách nhiệm giải trình của các trường,
tạo cơ hội để các trường huy động tối đa các nguồn lực
xã hội vào hoạt động ĐT, bồi dưỡng GV; đồng thời, hỗ
trợ các trường sư phạm hình thành các dịch vụ ĐT, bồi
dưỡng đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng, suốt đời của xã
hội, đáp ứng nhu cầu cung ứng nguồn nhân lực giáo dục
chất lượng cao cho cả khu vực công và khu vực tư nhân.
Bên cạnh đó, các trường sư phạm cũng chủ động trong
việc nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, năng lực
nghiên cứu khoa học sư phạm trong mối quan hệ với việc
tăng cường hợp tác quốc tế.
2.3.6. Các điều kiện ĐBCL hoạt động ĐTGV:
- Công tác tuyển sinh: Kịp thời điều chỉnh các phương
án tuyển sinh ngành sư phạm trong đó chú trọng chất
lượng đầu vào như điểm chuẩn, năng khiếu (đối với các
ngành có năng khiếu), lựa chọn những SV có đủ phẩm
chất,kĩnăngđểtrởthànhGVtươnglai.Dựbáo nguồn GV
trong tương lai thông qua việc khảo sát nhu cầu của địa
phương. Để làm tốt công tác dự báo cần có sự phối hợp
của nhiều ngành, của địa phương và nhu cầu thực sự về
đội ngũ GV trong từng giai đoạn (5 năm, 10 năm...).
- Đa dạng hóa các loại hình ĐT trong đó chú trọng
ĐT chất lượng cao: Phát triển đa dạng các hình thức ĐT,
trong đó ĐT SV sư phạm chất lượng cao là một hình thức
ĐT mang tính khả thi và có hiệu quả.
- Điều tra, khảo sát tình hình SV sau tốt nghiệp: Khảo
sát tình hình việc làm của SV sư phạm sau khi ra trường.
Sự đáp ứng cầu SV với các cơ sở giáo dục phổ thông, lấy
ý kiến phản hồi của các nhà quản lí và xác định được tỉ
lệ SV có việc làm sau khi ra trường.
- Tăng cường thực hành, rèn nghề ở các trường phổ
thông: Các trường sư phạm phối hợp với các trường phổ
thông trong công tác ĐT, tổ chức cho SV thực hành tại
các trường phổ thông để nâng cao năng lực phát triển
nghề nghiệp, tăng cường kĩ năng mềm cho SV ra trường
đáp ứng được các yêu cầu của nhà giáo. Thực hiện sự kết
nối giữa cơ sở ĐT sư phạm với hệ thống các trường phổ
thông thành mạng lưới để SV sau khi ra trường có thêm
thông tin và cơ hội việc làm cao hơn.
- Đảm bảo cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đáp
ứng yêu cầu ĐT: Các trường sư phạm phải được đầu tư
về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; trong đó chú trọng các
thiết bị liên quan đến rèn luyện kĩ năng, kĩ năng mềm,
thực hành cho SV. Đảm bảo diện tích phòng học, tỉ lệ
SV/lớp, tỉ lệ giảng viên/SV, khuôn viên nhà trường...
- Chính sách hỗ trợ giảng viên: Phát triển đội ngũ
giảng viên sư phạm, ổn định quy mô và nâng cao chất
lượng giảng viên, xây dựng các chính sách hỗ trợ giảng
viên, tạo các điều kiện và cơ chế để họ yên tâm công tác,
đảm bảo đội ngũ giảng viên có điều kiện phát huytốt nhất
khả năng của mình trong công tác ĐT vì họ là những
người trực tiếp đào tạo ra sản phẩm đặc thù “người thầy”.
3. Kết luận
ĐBCL ĐTGV là trách nhiệm của các trường sư
phạm, để thực hiện tốt công tác này một cách có hiệu quả
đáp ứng nhu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. Căn
cứ từ thực trạng đội ngũ GV THPT, những yêu cầu thực
tiễn của xã hội, sự phát triển của giáo dục quốc tế trong
xu thế toàn cầu hóa cùng với sự tác động của cuộc cách
mạng 4.0 với mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt là với
Bảng 2. Các công cụ và đơn vị đo lường chất lượng các mục tiêu
Chất lượng các mục tiêu Công cụ Đơn vị đo lường
Quá trình
- Chất lượng của việc thẩm định/đánh giá
- Chất lượng của việc dạy và học
- Chất lượng của môi trường học tập
- Các câu hỏi về lĩnh vực chuyên môn
- Các câu hỏi về SV
- Các câu hỏi về SV
-Tỉlệsựhàilòngvềlĩnhvựcchuyênmôn
- Tỉ lệ sự hài lòng của SV
- Tỉ lệ sự hài lòng của SV
Tổ chức
- Chất lượng của lãnh đạo
- Chất lượng của đội ngũ giảng viên
- Tính theo đơn vị quảng cáo, tiếp thị
- Tính theo đội ngũ giảng viên
- Tổng số các mục trong bài báo khu
vực/quốc gia
- Tỉ lệ giảng viên với chuyên môn của họ
5. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 421 (Kì 1 - 1/2018), tr 15-19
19
GD-ĐT, theo chúng tôi các nhóm giải pháp mà chúng tôi
đề xuất trong bài viết là cơ sở để các trường đại học sư
phạm nghiên cứu và áp dụng một cách cụ thể, linh hoạt
góp phần nâng cao chất lượng ĐTGV THPT trong bối
cảnh hiện nay.
Tài liệu tham khảo
[1] Tennessee - Dallas (2012). Introduction: From
Quality Assurance to Quality Culture. In Quality
Assurance and Teacher Education, ed J.
[2] Quốc hội (2009). Luật Giáo dục. NXB Chính trị
Quốc gia - Sự thật.
[3] PhạmKim Anh (2016). Thựctrạng năng lực đội ngũ
giáo viên phổ thông trung học trước yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông. Kỉ yếu hội thảo quốc tế, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội, 12/2016, tr 58-65.
[4] Bộ GD-ĐT (2015). Những vấn đề chung về phát
triển chương trình đào tạo giáo viên (Tài liệu tập
huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo giáo viên
phổ thông về phát triển chương trình đào tạo).
[5] Đặng Thành Hưng (2012). Năng lực và giáo dục
theo tiếp cận năng lực. Tạp chí Quản lí giáo dục, số
43, 12/2012, tr 18-26.
[6] Chính phủ (2005). Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP
ngày 2/11/2005 về đổi mới căn bản toàn diện giáo
dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020.
[7] Nguyễn Cảnh Toàn (1998). Tự giáo dục, tự học, tự
nghiên cứu. NXB Giáo dục.
NÂNGCAOCHẤTLƯỢNGNGUỒNNHÂNLỰC...
(Tiếp theo trang 21)
Suốt đời phải gắn liền lí luận với công tác thực tế.
Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi”
[1; tr 215]. Lênin, trong tác phẩm “Thà ít mà tốt” cũng
đã đề cao vai trò của việc học tập khi nhấn mạnh rằng:
“Không có cách nào khác ngoài việc học tập,... học tập,...
học tập mãi và phải làm sao cho việc học tập thực sự ăn
sâu vào tiềm thức của mỗi người, hoàn toàn và thực tế
trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống” [2].
Tài liệu tham khảo
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997). Hồ Chí Minh toàn
tập (tập 8). NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[2] Đỗ Tư (2001). Thà ít mà tốt - Di chúc chính trị cuối
cùng của Lênin. Tạp chí Lí luận Chính trị, số 4, tr 3.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc
gia - Sự thật.
[4] Nguyễn Thanh (2005). Phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
[5] Vũ Minh Mão - Hoàng Xuân Hoà (2004) . Dân số và
chất lượngnguồnnhânlực ở Việt Namtrong quátrình
phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, tr 65.
[6] TrầnKhánhĐức(2004).Quảnlívàkiểmđịnhchấtlượng
đàotạonhânlựctheoISO&TQM.NXBGiáodục.
CÁCHMẠNGCÔNG NGHIỆP 4.0...
(Tiếp theo trang 46)
Mỗi khi mô hình giáo dục tiên tiến được vận dụng sẽ
kéotheonhữngthayđổivềthiếtkếhệthốngmangtínhtổng
thể với chương trình linh động hơn, kiến thức cập nhật hơn,
hướng tới phát triển các kĩ năng, năng lực phát triển tư duy
hệthốngvàliênngànhtheohướngsốhóatạoranguồnnhân
lực lao động chất lượng đáp ứng xu thế của thị trường công
nghiệp 4.0 với những công nghệ vuợt trội của trí tuệ nhân
tạo, của người máy và internet vạn vật.
Tài liệu tham khảo
[1] Hermann, Pentek - Otto (2016). Design Principles
for Industrie 4.0. Scenarios IEEE: 10.1109/
HICSS.2016.488.
[2] Weller - Anderson (2013). Digital resilience in
higher education. European Journal of Open,
Distance and E-Learning, Vol 16 (1), pp. 53-66.
[3] Weinberger - Fischer - Mandl (2002). Fostering
individual transfer and knowledge convergence in
text-based computer-mediated communication.
Proceedings of CSCL 2002. Mahwah, NJ:
Lawrence Erlbaum.
[4] Lu J - Lu C - Yu CS - Yao JE (2014). Fostering
individual transfer and knowledge convergence in
text-based computer-mediated communication. In
G. Stahl (Ed.), Pedagogical Roles and
Competencies of University Teachers Practicing in
the E-Learning Environment 2014.
[5] A. Abdelrazeq - D. Janssen - C. Tummel - A.
Richert - S. Jeschke (2016). Teacher 4.0:
Requirements of the teacher of the future in context
of the fourth industrial revolution. ICERI 2016.
[6] Jayendrakumar N. Amin1 (2016). Redefining the
Role of Teachers in the Digital Era. The
International Journal of Indian Psychology, Vol 3,
Issues 3, No 6, pp. 40-45.
[7] TrầnKhánhĐức(2014). Giáodụcvàphát triểnnguồn
nhân lực trong thế kỉ XXI. NXB Giáo dục Việt Nam.