SlideShare a Scribd company logo
1 of 89
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ BÍCH HỒNG
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO
THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Hữu Tráng
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công
bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác
Hà Nội,ngày 26 tháng 7 năm 2016
Tác giả luận văn
Phạm Thị Bích Hồng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG
ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................. 7
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ............................... 7
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ...................................................................11
1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với một số tội danh khác.................................................................15
1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm
2015.................................................................................................................19
Chƣơng 2: ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
NINH BÌNH....................................................................................................24
2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ...................................................................24
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình...................................................................28
2.3. Các giải pháp đảm bảo định tội danh tội đúng ........................................43
Chƣơng 3: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TỪ
THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH ...................................................................55
3.1. Khái quát lí luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ .................................................55
3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình ........................................................................................................60
3.3. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng..................................69
KẾT LUẬN.....................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................81
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
ATGT An toàn giao thông
CTTP Cấu thành tội phạm
HĐXX Hội đồng xét xử
HĐTP Hội đồng thẩm phán
HĐTP TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao
HSST Hình sự sơ thẩm
TAND Tòa án nhân dân
TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao
THTT Tiến hành tố tụng
TNHS Trách nhiệm hình sự
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
TNGT Tai nạn giao thông
QĐHP Quyết định hình phạt
VKS Viện kiểm sát
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. ..........................................................................15
Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời
khác ...........................................................................................................................17
Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép. ..................................................................18
Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011 – 2015............................................27
Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2011-2015..28
Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về
tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ....................28
Bảng 3.1: Cơ cấu loại hình phạt số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ năm 2011-2015.....................................59
.
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao thông đƣờng bộ có vị trí và vai trò quan trọng đối với quá trình phát
triển kinh tế, xã hội của các nƣớc trên thế giới. Trong những năm qua ở nƣớc ta nền
kinh tế thị trƣờng, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa có những khởi sắc đáng kể và
đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lính vực đem lại đới sống vật chất và tinh
thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên thì giao
thông vận tải thể hiện rõ.
Tuy nhiên cùng với sự phát triển, chuyển biến của hoạt động giao thông vận
tại thì tình hình tai nạn giao thông đƣờng bộ nói chung và tình hình tội phạm vi
phạm quy định về phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nói riêng trong những năm gần
đây tăng rất nhanh về số vụ việc và cả về mức độ nghiêm trọng đã gây ra và để lại
những hậu quả rất lớn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nƣớc và nhân dân,
làm ảnh hƣởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đảng, Nhà nƣớc và hệ
thống chính quyền các cấp từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng đã nỗ lực đề ra nhiều
nhóm giải pháp kiềm chế sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi tai nạn giao thông.
Trong xu hƣớng đổi mới hội nhập sâu rộng nền kinh tế, số lƣợng phƣơng tiện
tham gia giao thông đƣờng bộ ngày càng gia tăng, số ngƣời tham gia giao thông
cũng ngày càng nhiều hơn, ý thức tham gia giao thông của ngƣời dân chƣa đƣợc cải
thiện nhiều, cơ sở hạ tầng chƣa đáp ứng đƣợc, dẫn tới việc vi phạm các quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ngày cang nhiều về số vụ và hậu quả
xảy ra đặc biệt nghiêm trọng, đây là vấn đề đặt ra trách nhiệm nặng nề của cả hệ
thống chính trị.
Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định của BLHS là nhiệm
vụ quan trọng đối với các cơ quan THTT góp phần ngăn chặn và kiềm chế tai nạn
giao thông. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong những năm qua cho
thấy dù đƣợc sửa đổi, bổ sung ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan
2
Nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án
này, các cơ quan THTT còn gặp những khó khăn, vƣớng mắc. Nguyên nhân của
tình trạng này là một phần do bất cập của pháp luật về áp dụng các quy định của
BLHS do nhận thức thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận tội "vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ", tìm ra những bất cập, vƣớng mắc
trong thực tiễn áp dụng tội phạm này và nguyên nhân của chúng, để đƣa ra các kiến
nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng
cả về lý luận và thực tiễn. Đây chính là lý do học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài
"Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" làm luận văn Thạc sĩ luật học
chính là xuất phát từ sự cần thiết đó.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua, việc nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ
làm công tác thực tiễn xét xử. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực
đó là các giáo trình của các Trƣờng Đại học, các luận án, luận văn, các sách, tài liệu
tham khảo, bài viết liên quan đến tội phạm này đó là:
* Nhóm thứ nhất (Sách giáo trình, bài viết, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1)
GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chƣơng X – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng. trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm), do
GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 2) GS.TS
Nguyễn Ngọc Hòa, Chƣơng XXV – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Tập II) do GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) GS.TS. Đỗ
Ngọc Quang, Chƣơng XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm) Do GS.TS
Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001(tái bản năm 2003 và 2007).
4) Bình luận khoa học BLHS năm 1999, Chƣơng XIX các tội xâm phạm an toàn
3
công cộng, trật tự công cộng của PGS.TS. Phùng Thế Vắc, Tiến sỹ Nguyễn Đức
Mai; Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sỹ Đinh Văn Quế.
* Nhóm thứ hai (các luận văn, luận án tiến sỹ luật học) bao gồm: Luận văn
thạc sỹ luật học “Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên” của tác giả Nguyễn
Văn Tuấn năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Đắc Dũng, năm 2011. Luận án tiến sỹ luật học “Các biện pháp đấu tranh
phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
ở thủ đô Hà Nội”, của tác giả Bùi Kiến Quốc năm 2011.
* Nhóm thứ ba (Sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) TS Trần
Minh Hƣởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản
lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002; 2)Tạp chí Tòa án nhân dân số
01, tháng 1 năm 2012 “Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối
với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ một số
vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Văn Luật, Tạp chí Tòa án nhân
dân số 16, tháng 8 năm 2011; “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng
trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ”
của tác giả Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Tòa án số 9, tháng 5 năm 2007; “Một số
vƣớng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đƣờng
bộ” của tác giả Tiến Sỹ Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án số 22, tháng 11 năm
2009; Cần hình sự hóa hành vi đã uống rƣợu, bia hoặc các chất kích thích khác mà
vẫn điều khiển phƣơng tiện giao thông để phòng ngừa tai nạn” của PGS.TS Trần
Hữu Tráng, Tạp chí Tòa án số 16, tháng 8 năm 2012…
Nghiên cứu các tài liệu trên viết về tội phạm này đã đề cập nhiều vấn đề còn
vƣớng mắc về lý luận và thực tiễn áp dụng. Các luận án, luận văn và bài viết liên
quan đến vấn đề này chủ yếu từ góc độ tội phạm học. Tuy nhiên, trong phạm vi hệ
thống hai cấp Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình chƣa có công trình nào nghiên cứu
một cách sâu sắc và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ dƣới góc độ thực
4
tiễn xét xử. Vì vậy, việc nghiên cứu “Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” là nhu cầu cấp
thiết hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu
Học viên nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ từ lý luận đến thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình
hiện nay. Nghiên cứu các vụ án, bản án đã xét xử, tìm hiểu sâu sắc, toàn diện về vấn
đề định tội danh và quyết định hình phạt tội này qua các dấu hiệu pháp lý để thấy
đƣợc những điểm khác nhau giữa lý luận và thực tiễn. Quá trình nghiên cứu đề tài
còn dựa và các văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cũng nhƣ các Nghị
quyết, Công văn hƣớng dẫn trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao. Số
liệu từ các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình, kết hợp với các
kiến thức lý luận qua công tác thực tiễn xét xử.
* Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình dƣới
góc độ pháp lý hình sự trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong
BLHS; thực tiễn xét xử loại tội phạm này và những bất cập, vƣớng mắc trong thực
tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành trong quá trình xử lý các hành vi vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên cơ sở đó đề
xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về loại tội phạm này cũng
nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
danh này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Để đạt đƣợc mục đích trên đây học viên đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Trên cơ sở lý luận đƣa ra những phân tích về loại tội phạm vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, các yếu tố thuộc dấu hiệu
pháp lý đặc trƣng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
- Tổng kết, đánh giá thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây; đi
sâu phân tích đánh giá một số vụ án điển hình trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ đó rút
ra những ƣu điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử loại tội này, tìm ra nguyên nhân và
các giải pháp góp phần vào công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo
đảm quyền làm chủ của nhân dân và hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc.
- Đề xuất giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm tăng cƣờng
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và
pháp luật của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
qua thực tiễn công tác xét xử trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay.
Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phƣơng pháp nghiên
cứu cụ thể nhƣ phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn để làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Về mặt lý luận
Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tội vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn xét xử của hai cấp
Tòa án Tỉnh Ninh Bình ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Học viên đƣa ra những vƣớng
mắc bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế, vƣớng mắc trong
thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện Điều 202 của
6
BLHS cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội phạm này.
* Về mặt thực tiễn
Việc nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với
việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm
này. Qua kết quả nghiên cứu và những đề xuất, bản thân học viên mong muốn góp
một phần nhỏ của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện tội vi phạm quy định
về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ pháp luật hình sự Việt
Nam.
Luận văn khi hoàn thiện cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan
bảo vệ pháp luật, cho những ngƣời nghiên cứu và sinh viên, học viên trong các cơ
sở đào tạo luật.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, phục lục và tài liệu tham khảo, đề
tài đƣợc cấu trúc gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Viêt Nam.
Chƣơng 2: Định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
7
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội
vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
1.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự
năm 1985
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành đã công đập tan chế độ phong kiến,
đồng thời thiết lập nên Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc công nông
đầu tiên với hệ thống pháp luật, trong đó có các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tƣ
hƣớng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực hình sự.
Ngay sau khi giành đƣợc chính quyền về tay nhân dân, Nhà nƣớc Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự quy định các tội gián
điệp, tội âm mƣu lật đổ chính quyền, tội hoạt động phỉ…tại Sắc lệnh số 21 ngày 14
tháng 2 năm 1946. Tuy nhiên, lúc này tội vi phạm quy định về an toàn giao thông
đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định. Nhƣ vậy các tội chống chính quyền nhân dân đƣợc
quy định ngay từ khi Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, còn tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chỉ ra đời khi có các quy
định về an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ, tức là khi có Luật giao thông đƣờng bộ.
Trong suốt 10 năm từ năm 1945 đến năm 1954 thời kỳ thực dân Pháp tái chiếm Hà
Nội thì Nhà nƣớc ta chƣa có hệ thống luật bảo đảm an toàn giao thông vận tải. Vì
vậy, không có cơ sở để hình thành quy phạm pháp luật về tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trong thời kỳ này cả nƣớc vẫn áp dụng
luật của chế độ cũ để xét xử tội về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ.
Sau khi miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng. Ngày 03/10/1955, Luật đi
đƣờng bộ mới đƣợc ra đời kèm theo Nghị định số 348/NĐ của Bộ giao thông Bƣu
8
điện. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa về
an toàn giao thông, tạo cơ sở pháp lý hình thành tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau đó hàng loạt các văn bản pháp lý khác về an
toàn giao thông vận tải ra đời nhƣ: Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956; Nghị
định 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ giao thông Bƣu điện; Nghị định liên bộ giữa Bộ
giao thông Bƣu điện - Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm
thời về vận tải đƣờng bộ; Nghị định số 10/NĐ của Hội đồng Chính phủ ban hành
Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến; Nghị định 36/CP
ngày 29/5/1995 về tăng cƣờng bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ
và trật tự đô thị và đến nay là Nghị định số 36/CP ngày 10/7/2001 về bảo đảm trật
tự an toàn giao thông đƣờng bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Điểm nổi bật và
đáng chú ý nhất là Quốc Hội đã thông qua Luật giao thông đƣờng bộ đầu tiên vào
ngày 29/6/2001 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002.
Ngày 19/01/1955 Thủ tƣớng Chính phủ ra Thông tƣ số 442/TTg là văn bản
đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tội vi phạm quy
định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ . Tại Điểm 4 của Thông tƣ này
quy định: “Không cẩn thận khi không theo luật đi đường mà làm người khác bị
thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có
thể bị phạt tù đến 10 năm” [6,tr. 135].
Sau hơn một năm thực hiện Thông tƣ này, ngày 29/6/1956, Thủ tƣớng Chính
phủ đã ra Thông tƣ 556/TTg bổ sung điểm 4 Thông tƣ 442/TTg. Điểm 4 của Thông
tƣ 556/TTg quy định: “Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người
khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn chết người
thì có thể bị phạt tù đến 10 năm. Trong trường hợp gây tai nạn lớn làm chết nhiều
người và gây thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân thì có thể bị phạt đến tù chung
thân hay tử hình” [7,Tr. 135].
Trƣớc ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, các tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đều đƣợc điều tra, truy tố và xét xử
theo Thông tƣ 442/TTg và Thông tƣ 556/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ.
9
Đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn thì đƣờng lối xử lý ngƣời
phạm tội là “Trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị
đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận
trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”.
Khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ mới ban hành Sắc luật số
03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm
trật tự công công, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Tại Điều 9 Sắc luật
03 quy đinh về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe
của nhân dân nhƣ sau: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng với
các khung hình phạt từ 3 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù
đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng ngân hàng”.
Nhƣ vậy có thể thấy, trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các hành
vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc
quy định là một tội độc lập. Đƣờng lối xử lý vi phạm tội vi phạm luật lệ giao thông
gây tai nạn đƣợc thực hiện theo hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Bản sơ
kết kinh nghiệm về đƣờng lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn. Đến
năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dƣới dạng Sắc luật quy định tội
phạm và hình phạt đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng.
1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật
hình sự năm 1999
Tháng 9 năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra đời và có hiệu lực hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày
01/01/1986. Trong bộ luật này, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ cũng chƣa có tên riêng, mà đƣợc quy định chung với các hành vi vi
phạm quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186, Chƣơng VIII – Các tội xâm
phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính - BLHS 1985). Điều
luật quy định hành vi phạm tội của ngƣời “điều khiển phương tiện giao thông vận
tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt,
đường thủy, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản …,” [19]
10
So với Sắc luật số 03-SL/76 thì quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 1985
đã có bƣớc tiến bộ rất lớn về cả kỹ thuật lập pháp và nội dung. Cụ thể nhƣ sau:
- Tên của tội đã đƣợc xác định rõ là “Tội vi phạm các quy định về an toàn
giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng”
- Sắc luật số 03-SL/76 chỉ nêu tội danh và hình phạt mà không mô tả dấu
hiệu pháp lý đặc trƣng của tội phạm cũng nhƣ quy định các khung hình phạt tƣơng
ứng với các loại trƣờng hợp phạm tội khác nhau nhƣ quy định tại Điều 186 Bộ luật
hình sự năm 1985.
- Đƣờng lối xử lý tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây
hậu quả nghiêm trọng của Bộ luật hình sự năm 1985 có thay đổi mức hình phạt tù
theo hƣớng tăng nặng hơn tối đa từ 15 năm lên 20 năm cho phù hợp với các trƣờng
hợp đặc biệt nghiêm trọng của tội này.
- Các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự
năm 1985 cụ thể, đầy đủ và rõ ràng hơn. Nhiều tình tiết định khung tăng nặng khác
trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bổ sung (4 khung hình phạt khác nhau).
Tuy nhiên quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội vi phạm quy định
về an toàn giao thông vận tải cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là quy định cả 4 loại
hành vi vi phạm trong bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đƣờng bộ, đƣờng
sắt, đƣờng thủy và đƣờng không) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn
rất khác nhau vào cùng một điều luật. Điều này đã hạn chế nhiều đến việc quy định
cụ thể hành vi phạm tội cũng nhƣ việc phân hóa trách nhiệm hình sự của hành vi
phạm tội.
Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991,
1992, 1997 nhƣng nội dung của Điều 186 về tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ về cơ bản không thay đồi, mà chỉ có sự thay đổi
về tên tội (đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn
giao thông vận tải. Bỏ cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” nhằm cho tên tội phù
hợp với tất cả các trƣờng hợp bị coi là phạm tội này theo nội dung điều luật.
11
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
1.2.1.Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ
Tội phạm là một hiện tƣợng xã hội có tính lịch sử, phát sinh trong điều kiện
kinh tế, xã hội nhất định, đó là hiện tƣợng tiêu cực của xã hội, tội phạm luôn chứa
đựng trong nó tính chống đối lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, đi ngƣợc lại lợi ích
chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp
pháp của con ngƣời.
Tại Điều 8 BLHS năm 1999 hiện hành thì khái niệm tội phạm đƣợc định
nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khá của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. [20]. Khái niệm
tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là sự cụ thể
hóa khái niệm tội phạm, hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau.
Có tác giả cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy định của Nhà nước về an toàn
giao thông đường bộ” [13,tr.434]. Tác giả cho rằng khái niệm này còn khá chung
chung và chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn bình luận khoa học BLHS đã định nghĩa:
“Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi
phạm quy định về an toàn giao thông trong khi điều khiển các phương tiện giao
thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khỏe, tài sản của người khác” [18, tr. 6].
Giáo trình luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học luật Hà Nội thì định
nghĩa: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
12
hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy
định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [28, tr. 196].
Cả hai định nghĩa trên đều chƣa đề cập đến vấn đề năng lực TNHS của ngƣời
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ khi tham gia giao thông.
Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lí trong các định nghĩa trên, tác giả
xin đƣa ra định nghĩa về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ nhƣ sau:
"Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện khi điều khiển
phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vi phạm các quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác".
1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ
Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng (các yếu tố cấu thành tội phạm) là cơ sở pháp
lý của việc định tội danh. Cũng nhƣ các tội phạm khác, tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS 1999
có 4 yếu tố cấu thành là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể.
* Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc xác định là trật tự an toàn của hoạt động
giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời
tham gia giao thông. [41, tr 417]
* Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ bao gồm: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra,
thời gian, địa điểm, phƣơng tiện phạm tội.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ nhƣ: hành
13
vi vi phạm quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, sử dụng làn đƣờng, vƣợt
xe, chuyển hƣớng xe…[41,418]
Hậu quả do hành vi vi phạm tội này gây ra là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại
nghiêm trọng sức khoẻ, tài sản của Nhà nƣớc và công dân. Thiệt hại đƣợc coi là
nghiêm trọng thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây:
“ a. Làm chết một người;
b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của một người đến 4
người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
c. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với
tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
d. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người
này từ 41% trở lên;
e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ
thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu
đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
f. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ
thương tật của mỗi người dưới 21% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn
nhân từ 31% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đến
dưới năm mươi triệu;
g. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đến dưới năm trăm
triệu động”[34]
Giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành
vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ phải là nguyên
nhân phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm
xảy ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của ngƣời khác.
Khoản 4 Điều 202 BLHS đƣợc coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt đối với tội
vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên thực tế rất ít
xảy ra trƣờng hợp này. Đây là trƣờng hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông
đƣờng bộ mà nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời thì hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
14
nhất định xảy ra. Có quan điểm cho rằng, khoản 4 Điều 202 BLHS là cấu thành
hình thức, vì theo quy định của điều luật, không cần có hậu quả xảy ra tội phạm đã
hoàn thành. Nếu chỉ căn cứ vào quy định tại khoản 4 của điều luật này thì dƣờng
nhƣ đây là tội có cấu thành hình thức. Tuy nhiên, ở đây cần lƣu ý hậu quả chƣa xảy
ra là do “đƣợc ngăn chặn kịp thời” chứ không phải do “hành vi phạm tội mới đe dọa
xâm phạm đến các quan hệ xã hội” nhƣ đối với các tội phạm có cấu thành hình
thức. Vì vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của khoản này vẫn là cấu thành tội
phạm vật chất. Hậu quả của hành vi mặc dầu chƣa xảy ra nhƣng hoàn toàn có thể
suy đoán đƣợc dựa trên diễn tiến của hành vi nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời.
* Mặt chủ quan của tội phạm
Lỗi của ngƣời phạm tội trong tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
* Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 1999 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên,
nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”[20]. Tội vi phạm các quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS
là tội phạm nghiêm trọng; quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 202 BLHS là tội
phạm rất nghiêm trọng;quy định tại khoản 4 Điều 202 BLHS là tội phạm ít nghiêm
trọng. Nhƣ vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên có
đủ năng lực TNHS.
BLHS 2015 đã sửa đổi quy định về độ tuổi chịu TNHS, theo đó nhà làm luật
quy định cụ thể những trƣờng hợp ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu
TNHS tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015. Tuy nhiên, theo quy định này thì ngƣời từ
đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi cũng vẫn không phải chịu TNHS đối với tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015).
* Hình phạt đối với tội phạm
Điều 202 BLHS 1999 quy định bốn khung hình phạt với ngƣời phạm tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ: Khoản 1 Điều 202 của
15
BLHS quy định phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không
giam giữ đến ba năm, hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, khoản 2 Điều của 202
BLHS quy định phạt tù từ ba năm đến mƣời năm, khoản 3 Điều 202 của BLHS quy
định phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. Vi phạm quy định an toàn giao thông
đƣờng bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không
đƣợc ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù
từ ba tháng đến hai năm phải chịu TNHS theo khoản 4 Điều 202 của BLHS.
1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ với một số tội danh khác
* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội giết ngƣời.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ với tội giết người
Tiêu chí
Tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ
Tội giết ngƣời
Về khách
thể trực
tiếp
- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt
động giao thông đƣờng bộ và sự an
toàn về tính mạng, sức khỏe và tài
sản của ngƣời khác
- Xâm phạm đến quyền đƣợc
sống của con ngƣời
Hành vi
khác quan
- Hành vi vi phạm các quy định về
đảm bảo trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ của ngƣời điều khiển
phƣơng tiện tham gia giao thông đã
gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội (thiệt hại về tính mạng, tài sản
tính thành tiền và làm mất trật tự an
- Là hành vi tƣớc đoạt trái pháp
luật tính mạng của ngƣời khác,
là khả năng gây ra cái chết cho
con ngƣời, chấm dứt sự sống
của họ. Hành vi khách quan của
tội giết ngƣời có thể là hành
động hoặc là không hành động
16
toàn giao thông đƣờng bộ). Hành vi
khách quan của tội này thực hiện
bằng hành động.
Mặt chủ
quan của
tội phạm
- Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi
vô ý, tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà
lỗi của ngƣời phạm tội có thể là lỗi
vô ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì
cẩu thả. Trong cả hai trƣờng hợp lỗi
trên ngƣời phạm tội không mong
muốn hậu quả xảy ra.
- Tội phạm đƣợc thực hiện với
lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là
lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián
tiếp
Điều kiện
truy cứu
trách
nhiệm
hình sự
- Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây hậu quả nghiêm trọng cho sức
khỏe và tài sản của ngƣời khác
- Gây hậu quả chết ngƣời
Địa điểm
phạm tội
- Trên đƣờng trong khi tham gia
giao thông đƣờng bộ
- Bất kỳ đâu
* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời
khác.
Theo quy định tại Điều 108 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì tội vô ý gây
thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác là hành vi vô ý gây thƣơng
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mà tỷ lệ thƣơng tật từ 31% trở
lên do ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự thực hiện bởi hình thực lỗi vô ý, do tự tin hoặc cẩu thả mà gây thƣơng tích cho
nạn nhân. Khách thể của tội này là quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe của con ngƣời.
Nhƣ vậy, so sánh với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ cho thấy những điểm giống nhau nhƣ sau:
17
Tội phạm đƣợc thực hiện bởi hình thức lỗi vô ý, bao gồm cả lỗi vô ý do cẩu
thả và lỗi vô ý vì quá tự tin.
- Chủ thể của tội phạm là những ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và
đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
cho người khác
Tiêu chí
Tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
Tội vô ý gây thƣơng tích
hoặc gây tổn hại sức
khỏe cho ngƣời khác
Về khách thể
trực tiếp
- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt
động giao thông đƣờng bộ và sự an
toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản
của ngƣời khác
- Xâm phạm đến quyền
đƣợc bảo vệ về sức khỏe
của con ngƣời
Hành vi
khách quan
- Hành vi vi phạm các quy định về đảm
bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ
của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham
gia giao thông đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về
tính mạng, tài sản tính thành tiền và
làm mất trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ)
- Hành vi không thực hiện
hoặc thực hiện không
đúng, không đầy đủ các
quy tắc an toàn gây nên
thƣơng tích cho nạn nhân.
Điều kiện
truy cứu
trách nhiệm
hình sự
- Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và
tài sản của ngƣời khác
- Gây thƣơng tích với tỷ lệ
thƣơng tật từ 31% trở lên
cho nạn nhân mới cấu
thành
Địa điểm
phạm tội
- Trên đƣờng trong khi tham gia giao
thông đƣờng bộ
- Bất kỳ đâu
18
* Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ với tội đua xe trái phép.
Tội đua xe trái phép quy định tại Điều 207 là tội phạm mới đƣợc quy định
trong Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi của tội đua xe trái phép là hành vi đua trái
phép ôtô, xe máy hoặc các loại xe có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản
của ngƣời khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, do ngƣời có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội
đua xe trái phép đều xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và đều đe
dọa, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác.
Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau:
Bảng 1.3. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ và tội đua xe trái phép:
Tiêu chí
Tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
Tội đua xe trái phép
Về khách thể
trực tiếp
- Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt
động giao thông đƣờng bộ và sự an
toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản
của ngƣời khác
- Xâm phạm đến an toàn
công công, đồng thời tội
này còn đe đọa xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, tài
sản của ngƣời khác cũng
nhƣ gây ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến trật tự
công cộng.
Hành vi
khách quan
- Hành vi vi phạm các quy định về đảm
bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ
của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham
gia giao thông đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng cho xã hội(thiệt hại về
- Hành vi đua xe trái phép
ô tô, xe máy hoặc các loại
xe khác có gắn động cơ
gây thiệt hại cho sức khỏe,
tài sản của ngƣời khác,
19
tính mạng, tài sản tính thành tiền và
làm mất trật tự an toàn giao thông
đƣờng bộ)
gây ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến an toàn công
cộng.
Mặt chủ
quan của tội
phạm
- Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi vô ý,
tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà lỗi của
ngƣời phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá
tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Trong cả
hai trƣờng hợp lỗi trên ngƣời phạm tội
không mong muốn cho hậu quả xảy ra.
- Tội phạm đƣợc thực hiện
với lỗi cố ý trực tiếp. Mục
đích phạm tội và động cơ
phạm tội không phải là
dấu hiệu bắt buộc trong
mặt chủ quan của tội này.
Điều kiện
truy cứu
trách nhiệm
hình sự
- Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và
tài sản của ngƣời khác
- Gây thiệt hại cho sức
khỏe, tài sản của ngƣời
khác, hoặc đã bị xử phạt
hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội
này, chƣa đƣợc xóa án
tích mà còn vi phạm.
Địa điểm
- Trên đƣờng trong khi tham gia giao
thông đƣờng bộ
- Nơi công cộng nhƣng
chủ yếu trên các tuyến
đƣờng giao thông, tuyến
phố lớn, đƣờng quốc lộ,
tỉnh lộ nhân những ngày
lễ lớn hoặc khi có các sự
kiện văn hóa, thể thao…
1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình
sự năm 2015
Thực hiện tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW "Về Chiến lƣợc cải cách tƣ
pháp đến năm 2020" ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, nhằm khắc phục kịp thời
những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử nói chung và
20
các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ nói riêng, BLHS 2015 đã có
những sửa đổi bổ sung một số nội dung cụ thể, khắc phục cơ bản đƣợc những hạn
chế bất cập trong quy định của Điều 202 BLHS 1999, làm cho nó phù hợp hơn với
thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm về trật tự an toàn
giao thông đƣờng bộ. Những thiếu sót tại Điều 202 của BLHS hiện hành, đã đƣợc
bổ sung, sửa đổi trong Bộ luật hình sự 2015 (tại Điều 260 BLHS 2015), cụ thể là:
Một là: Sửa tên gọi của Điều luật. Tên của điều luật đƣợc đổi thành: Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015).
Hai là: Bổ sung nội dung quy định tại khoản 1 của Điều 260 BLHS năm
2015, bằng cách thay cụm từ "điều khiển phƣơng tiện" bằng từ "tham gia" để bao
quát đầy đủ các chủ thể tham gia giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ phù hợp với quy
định tại điểm 21 Điều 3 Luật giao thông đƣờng bộ năm 2008: "người tham gia giao
thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường
bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ"[23]
Ba là: Các quy định có tính định tính trong Điều 202 BLHS 1999 đƣợc
hƣớng dẫn cụ thể để thực hiện tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày
17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,đã đƣợc tiếp thu, bổ
sung cho hoàn chỉnh và pháp điển hóa vào trong các quy định của Điều 260 Bộ luật
hình sự năm 2015.
Bốn là: Điều 260 của BLHS sửa đổi năm 2015 về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đƣờng bộ, đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng thành 6 khoản, tăng
01 khoản so với Điều 202 của BLHS 1999. Mức án tại các khoản tƣơng ứng cũng
nhƣ hình phạt bổ sung quy định ở hai điều luật mới và cũ không có sự khác biệt lớn.
Nhƣng tại Điều 260 của BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 01 cấu thành giảm nhẹ ở
khoản 04 của điều luật để xử lý một số hành vi vi phạm quy định về an toàn giao
thông đƣờng bộ, nhƣng ở mức độ nhẹ hơn so với quy định tại khoản 01 điều này.
(Khoản 1 Điều 202 và văn bản hƣớng dẫn của nghị quyết HĐTP quy định là làm
chết 01 ngƣời hoặc gây thƣơng tích cho 01 ngƣời từ 31% trở lên…Còn ở Điều 260
của BLHS năm 2015 đã tách khoản 1 của Điều 202 cũ ra để quy định thành 2
khoản, là khoản 1 và khoản 4. Theo đó: Nếu gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho
21
sức khỏe của 01 ngƣời với tỷ lệ tổn thƣơng cơ thể 61% trở lên thì xử lý theo khoản
1 Điều 260, còn nếu gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 ngƣời
với tỷ lệ tổn thƣơng cơ thể từ 31% đến 60%... thì đƣợc tách ra quy định ở khoản 4
của Điều 260 với mức án nhẹ hơn rất nhiều (chỉ phạt tiền và cải tạo không giam giữ,
không có hình phạt tù).
Những bổ sung, sửa đổi của Điều 260 BLHS năm 2015 là phù hợp và đáp
ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn, do đó sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan pháp luật xử
lý có hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, góp phần bảo đảm
giữ gìn trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ. Tuy nhiên, những sửa đổi về kết cấu
của điều luật cần có hƣớng dẫn để áp dụng cho thống nhất trong thực tiễn. Cụ thể
nhƣ sau:
Nghiên cứu quy định tại Điều 260 của BLHS năm 2015 cho thấy kết cấu
điều luật là chƣa thực sự phù hợp. Điều luật có tới hai cấu thành cơ bản là cấu thành
ở khoản 1 và khoản 4. Kết cấu này sẽ gây ra những cách hiểu và áp dụng pháp luật
khác nhau, khó xác định đâu là cấu thành cơ bản. Bởi vì thông thƣờng, một ngƣời
khi phạm tội ở khoản 1(là cấu thành cơ bản) và có một trong những tình tiết định
khung ở khoản 2 sẽ phạm tội ở khoản 2 của điều luật.
Trƣờng hợp ngƣời tham gia giao thông vi phạm quy định về an toàn giao
thông đƣờng bộ gây thƣơng tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 ngƣời, với tỷ lệ
tổn thƣơng cơ thể từ 31% đến 60% và không phạm vào một trong những tình tiết
định khung tăng nặng của khoản 2. Khi đó ngƣời đó sẽ bị xem xét xử lý theo khoản
4 của điều luật và đƣợc hiểu là, đã có sửa đổi bổ sung thêm một cấu thành giảm nhẹ
trong điều luật để xử lý cho trƣờng hợp này với mức án nhẹ hơn khoản 01 của Điều
202 BLHS năm 1999.
Tuy nhiên, giả sử trƣờng hợp ngƣời tham gia giao thông vi phạm quy định về
an toàn giao thông đƣờng bộ, nhƣng không có giấy phép lái xe theo quy định thì
giải quyết thế nào cho đúng? Khi đó chuyển khung sang khoản 01 hay khoản 02 của
điều luật? Nếu theo tuần tự thì phải chuyển khung sang khoản 01, vì quy định nặng
hơn liền kề so với khoản 04 của điều luật. Nhƣng khoản 01 thì không có các cấu
thành tăng nặng ở đó. Nhƣ vậy, sẽ phải bỏ qua khoản 01 chuyển tăng nặng sang
22
khoản 02 của điều luật luôn chăng? Hay điều luật này có hai khung cơ bản là khoản
01 và khoản 04? khi đó một ngƣời phạm vào một trong hai khoản này (khoản 01 và
khoản 04), mà có tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 02 là đều chuyển khung
sang khoản 2. Về vấn đề này, hiện có một số quan điểm áp dụng pháp luật nhƣ sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định của điều luật thì khoản 4 là cấu
thành cơ bản của điều luật, vì nó quy định các yếu tố cấu thành cơ bản nhƣ tại
khoản 1 của điều luật nhƣng có hình phạt nhẹ hơn quy định của khoản 1 mà thôi.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Khoản 1 của điều luật là cấu thành cơ bản, chỉ
khi một hành vi thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản đƣợc quy
định tại khoản 1 của điều luật mà lại có thêm những tình tiết định khung tăng nặng
quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật thì sẽ áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3
của điều luật. Còn khoản 4 là cấu thành giảm nhẹ, vì không thể từ khoản 4 chuyển
thẳng vào khoản 2,3 mà bỏ qua khoản 1 của điều luật đƣợc.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Với kết cấu và cách hành văn của điều luật, thì một
hành vi khi có đủ các yếu tố định khung cơ bản quy định tại khoản 1 hoặc khoản 4 của
điều luật, mà lại có những tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 2 hoặc
khoản 3 thì sẽ phải áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật (Nhƣ vậy theo quan
điểm này thì ở điều luật này có tới hai khung cơ bản, hai cấu thành cơ bản).
So sánh hình phạt giữa Điều 202 của BLHS 1999 và Điều 260 của BLHS
2015 thì Điều 260 có quy định nhẹ hơn. Do đó, khi Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực
thi hành thì những quy định có lợi, tình tiết có lợi của luật mới sẽ đƣợc áp dụng.
Kết luận chƣơng 1
Chƣơng 1 của luận văn đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự
Việt Nam nhƣ: Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ; khái niệm tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình
sự Việt Nam, dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ; phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác. Đặc biệt, luận văn cũng đã nghiên
23
cứu so sánh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
theo BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Qua đó cho thấy việc sửa đổi và hoàn
thiện các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông
đƣờng bộ là cần thiết để đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn nhằm bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, duy trì trật tự xã hội.
Những lý luận cơ bản đƣợc trình bày trên đây có ý nghĩa quan trọng cho việc
định tội danh cũng nhƣ quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Việt nam nói chung và trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình nói riêng.
24
Chƣơng 2
ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN
PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NINH BÌNH
2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
2.1.1. Khái niệm định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ
Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự là
một quá trình phức tạp đƣợc tiến hành qua các giai đoạn nhất định nhƣ: Giải thích
pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật về không gian và thời gian, định tội
danh, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt, quyết định án
treo, xóa án tích… Trong các giai đoạn đó thì định tội danh là một trong những giai
đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật, một trong
những biện pháp, cách thức đƣa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Định tội
danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề
cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh,
chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp đúng các biện pháp ngăn chặn, xác định
thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng; Góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, pháp chế XHCN, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh không chính xác sẽ dẫn
đến hậu quả rất lớn và đặc biệt sẽ không bảo đảm đƣợc tính có căn cứ của hình phạt
đã tuyên và việc xét xử không đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật.
Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì: "Định tội danh là một dạng
hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lí
khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi
phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy
định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu
25
của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các
phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định".[45, tr.26,27].
GS.TSKH Lê Cảm thì định nghĩa: Định tội danh là quá trình nhận thức lý
luận logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như
pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu
thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm
đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt
pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự
một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [8].
Quan điểm của TS. Dƣơng Tuyết Miên thì: Định tội danh là hoạt động thực
tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và
một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác đinh một
người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì tội đó là tội gì, theo điều luật nào
của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy
hiểm đã thực hiện [16]
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội vi phạm quy đinh về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, kết hợp nghiên cứu các định nghĩa của các tác giả
kể trên, có thể đƣa ra định nghĩa định tội danh về tội vi phạm quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nhƣ sau: Đinh tội danh tội vi phạm quy định
về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là một phạm trù chủ quan trong
nhận thức lý luận có tính lôgic, là một dạng hoạt động thực tiễn của cơ quan tiến
hành tố tụng và các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm
xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ với điều, khoản nào của Điều 202 BLHS 1999.
2.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội vi phạm quy định về điêu khiển
phương tiện giao thông đường bộ
- Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính lôgic giữa lý luận và thực
tiễn. Quá trình này đƣợc thể hiện dƣới 2 khía cạnh đó là: Xác định xem hành vi
nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện (hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
26
tiện giao thông đƣờng bộ) có phù hợp với các dấu hiệu mô tả trong CTTP của Điều
202 BLHS 1999 cũng nhƣ các điều luật có liên quan và đƣa ra sự đánh giá nhất định
về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế.
- Việc định tội danh phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy phạm pháp luật của
BLHS với tƣ cách là luật nội dung (những quy định liên quan đến các yếu tố CTTP
và Điều 202 BLHS) cũng nhƣ các quy phạm pháp luật của Bộ luật TTHS (BL
TTHS) tƣ cách là luật hình thức.
- Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, của những ngƣời tiến
hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán) để cụ thể hóa các quy
phạm pháp luật hình sự vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ
các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ nội dung của
các quy phạm pháp luật hình sự.
- Định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm
tội đã xảy ra trong thực tế và đây là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp
luật hình sự.
2.1.3. Ý nghĩa của định tội danh
- Định tội danh là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể
hóa hình phạt một cách chính xác và có căn cứ pháp luật.
- Định tội danh chính xác sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện hàng loạt các nguyên
tắc tiến bộ đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc pháp quyền đó là các nguyên tắc:
nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc bình đẳng
trƣớc pháp luật, nguyên tắc công minh, nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi
trách nhiệm.
- Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
phạm pháp luật TTHS về tạm giữ, tạm giam, về thẩm quyền điều tra, truy tố và xét
xử và sẽ loại trừ việc kết án oan, sai đối với những ngƣời có hành vi không nguy
hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết
định hình phạt công minh đối với ngƣời phạm tội.
27
Ngƣợc lại, định tội danh sai không chỉ làm cho việc quyết định hình phạt
không đúng, không công bằng, mà còn áp dụng không có căn cứ hoặc không áp
dụng một loạt các biện pháp pháp lý khác nhƣ: quyết định hình phạt bổ sung, quyết
định trách nhiệm dân sự… Mặt khác định tội danh sai còn làm giảm uy tín của các
cơ quan tiến hành tố tụng, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hƣởng đến hiệu quả đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời định tội danh sai còn gây tốn kém cho việc
bồi thƣờng oan sai, về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm
quyền trong hoạt tố tụng hình sự gây ra.
2.1.4. Cơ sở pháp lý của định tội danh
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự thì BLHS
đƣợc coi là cơ sở pháp lý duy nhất của hoạt động định tội danh. Bản chất của hoạt
động định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm
cho xã hội đã đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tƣơng ứng do
luật hình sự quy định (trƣờng hợp cụ thể này là Điều 202 BLHS). Bên cạnh đó,
đến thời điểm này, BLHS là nguồn duy nhất của luật hình sự. Nó chứa đựng toàn
bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự hiện hành và chứa đựng tất cả các dấu
hiệu cấu thành tội phạm - cái đƣợc coi là mô hình pháp lý của tội phạm để dựa vào
đó các chủ thể định tội danh tiến hành so sánh, đối chiếu với các dấu hiệu của
hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện trên thực tế, phục vụ cho quá trình
định tội danh.
Hệ thống các nhóm quy phạm đƣợc sắp xếp trong BLHS thành hai phần:
phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định những vấn đề cơ
bản nhất làm cơ sở, nguyên tắc cho việc giải quyết các vụ án hình sự, phần các tội
phạm quy định mô hình pháp lý của các tội phạm cụ thể và các chế tài tƣơng ứng,
trong đó có quy định của Điều 202 BLHS. Hai phần của BLHS này có mối liên
quan chặt chẽ, thống nhất và lôgic với nhau, vì vậy trong quá trình định tội danh cần
phải áp dụng cả các quy định trong phần chung và các quy định trong phần các tội
phạm. Điều đó có nghĩa là, để xác định một hành vi có phạm tội theo Điều 202
BLHS không thì không chỉ căn cứ quy định của Điều 202 BLHS mà còn phải căn
28
cứ vào những quy định ở phần chung để xác định yếu tố năng lực chủ thể, độ tuổi,
trƣờng hợp miễn TNHS, lỗi…
Bên cạnh đó, còn có quan điểm cho rằng BLHS là cơ sở pháp lý chủ yếu thì
Bộ luật TTHS đƣợc coi là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho hoạt động định tội
danh, bởi lẽ Bộ luật TTHS chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định về các trình
tự, thủ tục, thời hạn, chứng cứ… đảm bảo cho quá trình định tội danh diễn ra đúng
đắn, chính xác và hợp pháp.
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình
2.2.1. Tình hình xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện
giao thông đường bộ ở Ninh Bình
Theo số liệu thống kê, trong 5 năm từ năm 2011 đến 2015, tổng số tội phạm
xảy ra trên địa bàn tỉnh Ninh Bình là 3.041 vụ, trong đó tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là 213 vụ, với 221 bị cáo chiếm tỷ lệ
không lớn trên tổng so các tội phạm khác, (chiếm tỷ lệ 7 %). Cụ thể nhƣ sau: Năm
2011, Toàn ngành Tòa án tỉnh Ninh Bình xét xử 571vụ/ 999 bị cáo; trong đó tội vi
phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 63 vụ/65
bị cáo (chiếm 11% số vụ, 6,5% số bị cáo). Năm 2012 xét xử 673 vụ/1366 bị cáo;
trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã
xét xử 46 vụ/47 bị cáo (chiếm 6,6% số vụ; 3,4 % số bị cáo). Năm 2013 xét xử
579vụ/1243 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ đã xét xử 37 vụ/ 39 bị cáo (chiếm 6,3% số vụ, 3,1% số bị cáo).
Năm 2014 xét xử 617 vụ/1444 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 27/28 bị cáo (chiếm 4,3% số vụ, 1,9%
số bị cáo). Năm 2015 xét xử 601 vụ/1423 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 40 vụ/42 bị cáo (chiếm 6,6%
số vụ, 3% số bị cáo).
29
Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011-2015.
Năm
Tổng số vụ án và bị
cáo (1)
Tổng số vụ án và bị
cáo phạm tội theo
Điều 202BLHS (2)
Tỷ lệ % số vụ
(2) so với (1)
Ghi chú
Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo
2011 571 999 63 65 11%
2012 673 1366 46 47 6,6%
2013 579 1243 37 39 6,3%
2014 617 1444 27 28 4,3%
2015 601 1423 40 42 6,6%
Tổng 3041 6475 213 221 7%
Trung
bình
Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm
2011 - 2015.
Năm
Tổng số vụ án, bị
cáo phạm tội Điều
202 BLHS
Số vụ án, bị cáo có
kháng cáo, kháng
nghị
Kết quả giải quyết
(Số vụ)
Y án Sửa án Hủy án
2011 63 vụ/ 65 bị cáo 09 vụ/ 09 bị cáo 07 02
2012 46 vụ/ 47 bị cáo 07 vụ/ 07 bị cáo 06 02 01
2013 37 vụ/ 39 bị cáo 05 vụ/ 05 bị cáo 07 02
2014 27 vụ/ 28 bị cáo 08 vụ/ 08 bị cáo 04 04
2015 40 vụ/ 42 bị cáo 07 vụ/ 08 bị cáo 05 02
Tổng số 213vụ/ 221 bị cáo 36 vụ/ 37 bị cáo 29 12 01
30
Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc
thẩm về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
Năm Tổng số vụ án (Số vụ)
Số vụ án phạm tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng
bộ
2011 65 09
2012 45 07
2013 55 5
2014 61 08
2015 50 07
Tổng 276 36
( Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình)
Từ kết quả trên cho thấy tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chiếm tỷ lệ nhỏ trong
tổng số các tội phạm khác và có diễn biến tăng, giảm không ổn định. Tuy nhiên theo
nhận định của các cơ quan chức năng trực tiếp tham gia công tác phòng chống tội vi
phạm an toàn giao thông thì tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ không có chiều hƣớng giảm, tính chất, mức độ hành vi
của tội phạm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Cùng với sự phát triển của đất
nƣớc nói chung và địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng thì số lƣợng ngƣời và phƣơng
tiện giao thông ngày càng gia tăng và phức tạp. Do vậy, trong những năm qua nhìn
vào kết quả về số vụ tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có thể nhận
thấy, trật tự ATGT vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ TNGT và
ùn tắc giao thông. Nguyên nhân xuất phát từ sự mất cân đối giữa phát triển của các
phƣơng tiện và hạ tầng giao thông ngày càng thêm gay gắt, cơ sở hạ tầng vẫn chƣa
đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi của công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông do sự
gia tăng nhanh của các phƣơng tiện tham gia giao thông. Thêm vào đó, việc tổ chức
giao thông ở một số nơi còn chƣa hợp lý và chậm khắc phục trong khi ý thức chấp
hành pháp luật kém khi tham gia giao thông của một bộ phận nhân dân nhƣng lại là
tác nhân lớn ảnh hƣởng đến trật tự an oàn giao thông. Ngƣời không đội mũ bảo
31
hiểm khi đi mô tô, xe máy, nhất là lứa tuổi thanh, thiếu niên có xu hƣớng gia tăng,
ngƣời dân còn tùy tiện trong hoạt động sản xuất, sinh hoạt gần đƣờng sắt, đƣờng bộ,
chiếm dụng lòng, lề đƣờng để buôn bán kinh doanh, làm sân phơi, họp chợ…Các
điểm đen đã đƣợc xác định vẫn chậm đƣợc khắc phục. Tình trạng xe quá tải trọng
cầu đƣờng vẫn tiếp diễn. Công tác quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông
của các địa phƣơng tuy đã đƣợc tăng cƣờng nhƣng còn thiếu đồng bộ. Qua một năm
thực hiện Nghị quyết 32 và các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, cùng với sự nỗ
lực của các cấp, các ngành thì tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bƣớc đầu đã đƣợc kiềm chế, tuy nhiên
vẫn diễn biến phức tạp, khó lƣờng. Thời gian tới, nhiệm vụ đặt ra với các cơ quan
tiến hành tố tụng Công an, Viện kiểm sát và Tòa án còn nhiều khó khăn, đòi hỏi sự
đồng thuận cao của toàn bộ hệ thống chính trị, hơn hết vẫn là ý thức chấp hành pháp
luật của ngƣời dân khi tham gia giao thông.
2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản
Cơ quan tiến hành tố tụng cần phải dựa vào mô hình pháp lý của việc định
tội danh đƣợc mô tả tại Điều 202 của BLHS 1999, đây cũng là mô hình pháp lý
chung nhất cho các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong nhóm các tội xâm phạm an
toàn công cộng. Dựa vào quy định của điều luật mà hành vi vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc phân chia thành 4 dạng tƣơng
ứng với 4 mức hình phạt quy định tại Điều luật này. Theo đó, các cơ quan tiến
hành tố tụng kiểm tra, đối chiếu, so sánh xem các dấu hiệu của hành vi vi phạm
quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ tƣơng ứng với mô hình
nào? Tức là thỏa mãn cấu thành cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ và thuộc khoản
nào trong điều luật.
- Đối với dạng hành vi thuộc khung cơ bản (khoản 1 Điều 202 của BLHS):
thực tế cho thấy việc xác định phạm tội ở khung cơ bản chiếm đa số trong quá trình
giải quyết vụ án. Trong tổng số 213 vụ án phạm tội vi phạm quy định về điều khiển
phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ giai đoạn 2011-2015 ở Ninh Bình thì có đến 145
vụ/165 bị cáo (chiếm tỷ lệ 68,1% số vụ và 74,7% số bị cáo) đƣợc xét xử theo khoản
1 Điều 202 BLHS.
32
Định tội trong trƣờng hợp này là trên cơ sở nhận thức các tình tiết thực tế của
hành vi nguy hiểm để so sánh, đối chiếu với các tình tiết đƣợc mô tả trong cấu thành
tội phạm cơ bản đƣợc quy định trong khoản 1 Điều 202 BLHS. Khoản 1 Điều 202
của Bộ luật hình sự quy định “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường
bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính
mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị
phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”[20]. Khoản 1 Điều 3 của Luật
Giao thông đƣờng bộ 2008 quy định: “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm
đường bộ, bến phà đường bộ . Khoản 17 Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ
quy định: “Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ”[23]. Khoản 23 Điều 3 của Luật
Giao thông đƣờng bộ: “Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ
giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ . Tình tiết “gây
thiệt hại cho tính mạng là làm người khác chết. Tình tiết “gây thiệt hại nghiêm
trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”[23]: Tiểu mục 4.1. Mục 4 Nghị quyết
02/2003/NQ-HĐTP hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự của
Tòa án nhân dân Tối cao quy định: “Người điều khiển phương tiện giao thông
đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào
thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho
sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:
a. Làm chết một người;
b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của
mỗi người từ 31% trở lên;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi
người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41%
đến 100%;
33
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến
30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm
mươi triệu đồng;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi
người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30%
đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng”.[34]
Lƣu ý: Khi xác định thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác thì chú ý đây chỉ
những tài sản do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao
thông đƣờng bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp không đƣợc tính là
thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Ví dụ: trƣờng hợp
do bị thƣơng nên phải chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí khác (mất thu
nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả...). Mặc dù các thiệt hại này ngƣời phạm tội vẫn
phải bồi thƣờng theo luật Dân sự nhƣng không đƣợc tính để xác định trách nhiệm
hình sự đối với hành vi phạm tội. Ngƣời phạm tội vi phạm các quy định về điều
khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự
tin hoặc vô ý vì cẩu thả).
Qua nghiên cứu số liệu thống kê cho thấy từ năm 2011 đến năm 2015 thí các
vụ án mà Tòa án hai cấp tỉnh Ninh Bình đã xét xử chủ yếu đƣợc điều tra truy tố và
xét xử ở khung cấu thành cơ bản là 145 vụ/165 bị cáo. Đa số các vụ án đều áp dụng
đúng các quy định của pháp luật để xét xử các bị cáo. Tuy nhiên cũng có vụ án mà
thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn khi vận dụng
tình tiết “Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác”
(Điểm b khoản 1 Điều 202 BLHS). Đó là vì trong thực tiễn, có ngƣời uống nhiều
rƣợu cũng chƣa say, tuy nhiên có ngƣời uống một chén cũng say. Do chƣa có cách
hiểu thống nhất về “tình trạng say” là nhƣ thế nào, cũng nhƣ chỉ có thể dựa trên kết
luận giám định về nồng độ cồn trong máu, trong hơi thở mới đƣợc dùng làm chứng
cứ kết tội bị cáo theo điểm b, khoản 2 Điều 202 của BLHS khi bị cáo có hành vi vi
34
phạm quy định tại khoản 1 Điều 202 của BLHS. Tòa án không đƣợc dùng những
chứng cứ khác nhƣ lời khai của ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại để thay thế cho kết
luận giám định. Điều này dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc định tội danh không đúng
khung hình phạt hoặc quyết định mức phạt không tƣơng xứng với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Ví dụ: Khoảng 21 giờ ngày 28 tháng 4 năm 2012, Vũ Văn Tài uống rƣợu tại
nhà bạn đã điều khiển xe môtô theo hƣớng Kim Sơn đi thành phố Ninh Bình chở
theo Nguyễn Thị Phƣơng khi đi đến ngã ba Thông tuy không đủ điều kiện sang
đƣờng nhƣng Tài vẫn điều khiển xe chuyển hƣớng sang đƣờng thì đâm vào xe ô tô
do anh Nguyễn Văn Chất điều khiển. Hậu quả Nguyễn Thị Phƣơng chết tại chỗ còn
Vũ Văn Tài bị thƣơng nhẹ. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 43/2012/HS-ST ngày 12
tháng 8 năm 2012 Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh đã xét xử bị cáo Vũ Văn Tài
theo khoản 1 Điều 202 của BLHS bởi trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án thì lời
khai của những ngƣời làm chứng đều khai bị cáo Vũ Văn Tài đã uống rƣợu trƣớc
khi tham gia giao thông nhƣng quá trình giải quyết ban đầu, Cơ quan cảnh sát điều
tra công an huyện Yên Khánh đã không lấy mẫu máu giám định và không xác định
đƣợc nồng độ cồn nên không có cơ sở để kết luận Vũ Văn Tài có nồng độ cồn vƣợt
quá mức quy định hay không để truy tố theo điểm b, khoản 2 Điều 202 của BLHS
mà chỉ có thể tuyên bị cáo Vũ Văn Tài phạm tội theo khoản 1 Điều 202 của BLHS.
Điều này là không đúng với sự thật khách quan của vụ án và từ đó dẫn đến việc
quyết định hình phạt đối với bị cáo là không chính xác, không tƣơng xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. [trích Bản án hình sự sơ thẩm số
43/2012/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2012 của TAND huyện Yên Khánh, tỉnh
Ninh Bình]
2.2.3. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 2 Điều 202
BLHS
- Đối với dạng hành vi thuộc khoản 2 Điều 202 của BLHS, ngƣời phạm tội
sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm nếu thuộc một trong các trƣờng hợp sau:
35
+ Điểm a, khoản 2, Điều 202 của BLHS: “Không có giấy phép lái xe hoặc
bằng lái xe theo quy định .
Điều 59 của Luật giao thông đƣờng bộ 2008 quy định về giấy phép lái xe:
“1. Căn cứ vào kiểu loại, công suất động cơ, tải trọng và công dụng của xe
cơ giới, giấy phép lái xe được phân thành giấy phép lái xe không thời hạn và giấy
phép lái xe có thời hạn.
2. Giấy phép lái xe không thời hạn bao gồm các hạng sau đây:
a) Hạng A1 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50 cm3 đến
dưới 175 cm3; b) Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh
từ 175 cm3 trở lên và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1;
c) Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh, các loại xe quy định cho
giấy phép lái xe hạng A1 và các xe tương tự.
3. Người khuyết tật điều khiển xe mô tô ba bánh dùng cho người khuyết tật
được cấp giấy phép lái xe hạng A1.
4. Giấy phép lái xe có thời hạn gồm các hạng sau đây:
a) Hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000 kg;
b) Hạng B1 cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở
người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg;
c) Hạng B2 cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến
9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg;
d) Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở
lên và các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2;
đ) Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi và các
loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C;
e) Hạng E cấp cho người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi và các loại
xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C, D;
g) Giấy phép lái xe hạng FB2, FD, FE cấp cho người lái xe đã có giấy phép
lái xe hạng B2, D, E để lái các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng này
khi kéo rơ moóc hoặc xe ô tô chở khách nối toa; hạng FC cấp cho người lái xe đã
36
có giấy phép lái xe hạng C để lái các loại xe quy định cho hạng C khi kéo rơ moóc,
đầu kéo kéo sơ mi rơ moóc.
5. Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và
lãnh thổ của nước hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam ký cam kết công nhận giấy phép
lái xe của nhau”.[23]
Nghiên cứu các vụ án đã đƣợc giải quyết ở Ninh Bình giai đoạn 2011-2015
cho thấy có 44 vụ với 44 bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt có tình tiết này,
chiếm tỷ lệ 20,65% số vụ và 19,9% số ngƣời phạm tội. Những trƣờng hợp phạm tội
này đa phần là những ngƣời chƣa thành niên phạm tội hoặc thuộc trƣờng hợp tự ý
lấy phƣơng tiện của ngƣời khác để tham gia giao thông (có đến 16 số vụ phạm tội
do ngƣời chƣa thành niên thực hiện và 13 số vụ do tự ý mƣợn phƣơng tiện của
ngƣời khác). Đa số các bản án đã xét xử theo khung tăng nặng này đều có căn cứ và
đúng pháp luật. Tuy nhiên cũng có vụ án còn vƣớng mắc khi áp dụng tình tiết liên
quan đến ngƣời điều khiển phƣơng tiện có giấy phép lái xe. Đặc biệt có trƣờng hợp
ngoại lệ Tòa án cứng nhắc không coi là có giấy phép lái xe khi điều khiển phƣơng
tiện tham gia giao thông đƣờng bộ khi ngƣời phạm tội đã có giấy chứng nhận tạm
thời đang chờ cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép chính thức…
Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 87/2014/HSST ngày 12 tháng 9 năm
2014 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình đã xét xử bị cáo Trần Văn Bình
theo điểm a khoản 2 Điều 202 của BLHS là không chính xác bởi lẽ Trần Văn Bình
vừa học và thi sát hạch xong và đã đỗ nhƣng đang trong thời gian chờ cấp giấy phép
lái xe thì gây tai nạn. Bản án đã bị Trần Văn Bình kháng cáo và Tại bản án hình sự
phúc thẩm số 12/2014/HSPT của Tòa án tỉnh Ninh Bình đã sửa bản án sơ thẩm và
xử bị cáo Trần Văn Bình theo khoản 1 Điều 202 của BLHS.
+ Điểm b, khoản 2, Điều 202 của BLHS: Trong tình trạng có sử dụng rượu,
bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy đinh hoặc có sử
dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;[20]
Đây là trƣờng hợp ngƣời phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
tiện giao thông đƣờng bộ đã sử dụng rƣợu, bia nhƣng vẫn điều khiển phƣơng tiện
giao thông đƣờng bộ nhƣ xe ô tô, xe mô tô và gây ra tai nạn dẫn đến hậu quả thiệt
37
hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của ngƣời
khác mà trong máu hoặc trong hơi thở có nồng độ cồn vƣợt quá mức quy định. Điều
8 của Luật giao thông đƣờng bộ 2008 quy định về các hành vi bị cấm trong đó
khoản 8: “Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá
50miligam/100mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.[23]
Giai đoạn 2011-2015, trong tổng số 213 vụ án phạm tội vi phạm quy định về
điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ mà TAND các cấp ở Ninh Bình đã giải
quyết thì có 112 vụ với 112 bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt có tình tiết này,
chiếm tỷ lệ 52,58% số vụ và 50,67% số ngƣời phạm tội. Đa số các vụ án, Tòa án đã
áp dụng đúng tình tiết này khi định tội danh, từ đó đƣa ra các bản án tƣơng xứng với
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Ví dụ:Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/12/2013, Lâm Quang Chiến sau khi
uống rƣợu ở nhà bạn về điều khiển xe ô tô. Khi đi đến khu phố 5, thị trấn Yên Ninh,
huyện Yên Khánh, do đi lấn phần đƣờng ngƣời đi ngƣợc chiều, xe ô tô của Chiến đã
đâm vào xe mô tô đi ngƣợc chiều. Hậu quả làm anh Đinh Xuân Lập chết tại chỗ còn
chị Phạm Thị Hằng bị thƣơng đƣa đi bệnh viện cấp cứu. Tại bản án hình sự sơ thẩm
số 29/2014/HS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh
đã xét xử bị cáo Lâm Quang Chiến theo điểm b, đ khoản 2 Điều 202 của BLHS là
chính xác và đúng pháp luật bởi lẽ bị cáo Lâm Quang Chiến đã điều khiển xe ô tô
khi vừa uống rƣợu, nồng độ cồn trong hơi thở của Chiến là 1,33mg/ lít khí thở và
hậu quả là anh Lập chết, chị Hằng bị tổn hại 45% sức khỏe.
+ Điểm c, khoản 2, Điều 202 của BLHS: Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn
tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn.
“Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” là trƣờng hợp ngƣời
phạm tội do vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ
gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản,
nhƣng sau đó đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Khoản 1 Điều 38 của Luật Giao
thông đƣờng bộ quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tình tiết tăng nặng theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà NộiLuận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
Luận văn: Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự tại Hà Nội
 
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sựLuận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Luận văn: Áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà NẵngLuận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt tiền theo pháp luật hình sự tại Tp Đà Nẵng
 
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOTLuận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
Luận văn: Tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HOT
 
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sựLuận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
Luận văn: Các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự
 
Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự
Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sựCác tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự
Các tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật hình sự
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt NamLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Pháp luật hình sự về tội gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOTLuận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
Luận văn: Kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng, HOT
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trườngLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
 
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội gây ô nhiễm môi trường trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAYLuận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
Luận văn: Hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Xử phạt hành chính về giao thông đường bộ, HAY
Luận văn: Xử phạt hành chính về giao thông đường bộ, HAYLuận văn: Xử phạt hành chính về giao thông đường bộ, HAY
Luận văn: Xử phạt hành chính về giao thông đường bộ, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình

Similar to Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình (20)

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Cà Mau
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Cà MauTội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Cà Mau
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Cà Mau
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
Luận văn: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thôngLuận văn: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
Luận văn: Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông
 
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộLuận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Luận văn: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
 
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hành vi phạm tội trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
 
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sựLuận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
Luận văn: Các tội xâm phạm trật tự công cộng trong luật hình sự
 
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOTLuận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
 
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCMLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật tại quận 1, TPHCM
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, 9d - Gửi miễn phí ...
 
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộKiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộKiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
Kiểm sát điều tra tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
 
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAYThực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
Thực hành kiểm sát hoạt động tư pháp đối với tội phạm ma tuý, HAY
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ trên địa bàn qu...
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
 
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đLuận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
Luận văn: Tái phạm nguy hiểm theo luật hình sự tỉnh Bắc Ninh, 9đ
 
Đề tài: Quản lý về trật tự an toàn giao thông đường bộ, HAY
Đề tài: Quản lý về trật tự an toàn giao thông đường bộ, HAYĐề tài: Quản lý về trật tự an toàn giao thông đường bộ, HAY
Đề tài: Quản lý về trật tự an toàn giao thông đường bộ, HAY
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Kabala
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
ChuThNgnFEFPLHN
 

Recently uploaded (20)

Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận HạnTử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
Tử Vi Là Gì Học Luận Giải Tử Vi Và Luận Đoán Vận Hạn
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
TUYỂN TẬP 50 ĐỀ LUYỆN THI TUYỂN SINH LỚP 10 THPT MÔN TOÁN NĂM 2024 CÓ LỜI GIẢ...
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 

Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ BÍCH HỒNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Hữu Tráng Hà Nội, 2016
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác Hà Nội,ngày 26 tháng 7 năm 2016 Tác giả luận văn Phạm Thị Bích Hồng
  • 3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM............................. 7 1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ............................... 7 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ...................................................................11 1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác.................................................................15 1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 2015.................................................................................................................19 Chƣơng 2: ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH....................................................................................................24 2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ...................................................................24 2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình...................................................................28 2.3. Các giải pháp đảm bảo định tội danh tội đúng ........................................43 Chƣơng 3: QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH ...................................................................55 3.1. Khái quát lí luận về quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ .................................................55 3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ........................................................................................................60 3.3. Các giải pháp bảo đảm quyết định hình phạt đúng..................................69 KẾT LUẬN.....................................................................................................79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................81
  • 4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự ATGT An toàn giao thông CTTP Cấu thành tội phạm HĐXX Hội đồng xét xử HĐTP Hội đồng thẩm phán HĐTP TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao HSST Hình sự sơ thẩm TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân Tối cao THTT Tiến hành tố tụng TNHS Trách nhiệm hình sự TNHH Trách nhiệm hữu hạn TNGT Tai nạn giao thông QĐHP Quyết định hình phạt VKS Viện kiểm sát XHCN Xã hội chủ nghĩa
  • 5. DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. ..........................................................................15 Bảng 1.2: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác ...........................................................................................................................17 Bảng 1.3: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép. ..................................................................18 Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011 – 2015............................................27 Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2011-2015..28 Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ....................28 Bảng 3.1: Cơ cấu loại hình phạt số bị cáo bị xét xử về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ năm 2011-2015.....................................59 .
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giao thông đƣờng bộ có vị trí và vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các nƣớc trên thế giới. Trong những năm qua ở nƣớc ta nền kinh tế thị trƣờng, theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa có những khởi sắc đáng kể và đem lại nhiều sự chuyển biến trên các lính vực đem lại đới sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt đẹp cho nhân dân. Trong những sự chuyển biến trên thì giao thông vận tải thể hiện rõ. Tuy nhiên cùng với sự phát triển, chuyển biến của hoạt động giao thông vận tại thì tình hình tai nạn giao thông đƣờng bộ nói chung và tình hình tội phạm vi phạm quy định về phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nói riêng trong những năm gần đây tăng rất nhanh về số vụ việc và cả về mức độ nghiêm trọng đã gây ra và để lại những hậu quả rất lớn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nƣớc và nhân dân, làm ảnh hƣởng không nhỏ đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Đảng, Nhà nƣớc và hệ thống chính quyền các cấp từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng đã nỗ lực đề ra nhiều nhóm giải pháp kiềm chế sự gia tăng, tiến tới đẩy lùi tai nạn giao thông. Trong xu hƣớng đổi mới hội nhập sâu rộng nền kinh tế, số lƣợng phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ ngày càng gia tăng, số ngƣời tham gia giao thông cũng ngày càng nhiều hơn, ý thức tham gia giao thông của ngƣời dân chƣa đƣợc cải thiện nhiều, cơ sở hạ tầng chƣa đáp ứng đƣợc, dẫn tới việc vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ngày cang nhiều về số vụ và hậu quả xảy ra đặc biệt nghiêm trọng, đây là vấn đề đặt ra trách nhiệm nặng nề của cả hệ thống chính trị. Việc xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định của BLHS là nhiệm vụ quan trọng đối với các cơ quan THTT góp phần ngăn chặn và kiềm chế tai nạn giao thông. Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS năm 1999 về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong những năm qua cho thấy dù đƣợc sửa đổi, bổ sung ban hành nhiều văn bản hƣớng dẫn của các cơ quan
  • 7. 2 Nhà nƣớc có thẩm quyền nhƣng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các vụ án này, các cơ quan THTT còn gặp những khó khăn, vƣớng mắc. Nguyên nhân của tình trạng này là một phần do bất cập của pháp luật về áp dụng các quy định của BLHS do nhận thức thiếu thống nhất trong áp dụng pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận tội "vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ", tìm ra những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng tội phạm này và nguyên nhân của chúng, để đƣa ra các kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây chính là lý do học viên lựa chọn nghiên cứu Đề tài "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình" làm luận văn Thạc sĩ luật học chính là xuất phát từ sự cần thiết đó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua, việc nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và cán bộ làm công tác thực tiễn xét xử. Đã có nhiều công trình nghiên cứu trên các lĩnh vực đó là các giáo trình của các Trƣờng Đại học, các luận án, luận văn, các sách, tài liệu tham khảo, bài viết liên quan đến tội phạm này đó là: * Nhóm thứ nhất (Sách giáo trình, bài viết, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chƣơng X – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 2) GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, Chƣơng XXV – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Tập II) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 3) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chƣơng XIX – Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam(Phần các tội phạm) Do GS.TS Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001(tái bản năm 2003 và 2007). 4) Bình luận khoa học BLHS năm 1999, Chƣơng XIX các tội xâm phạm an toàn
  • 8. 3 công cộng, trật tự công cộng của PGS.TS. Phùng Thế Vắc, Tiến sỹ Nguyễn Đức Mai; Bình luận khoa học BLHS năm 1999 của Thạc sỹ Đinh Văn Quế. * Nhóm thứ hai (các luận văn, luận án tiến sỹ luật học) bao gồm: Luận văn thạc sỹ luật học “Đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Hƣng Yên” của tác giả Nguyễn Văn Tuấn năm 2010; Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đắc Dũng, năm 2011. Luận án tiến sỹ luật học “Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở thủ đô Hà Nội”, của tác giả Bùi Kiến Quốc năm 2011. * Nhóm thứ ba (Sách chuyên khảo, tài liệu tham khảo) bao gồm: 1) TS Trần Minh Hƣởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2002; 2)Tạp chí Tòa án nhân dân số 01, tháng 1 năm 2012 “Xác định lỗi khi định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng” của tác giả Lê Văn Luật, Tạp chí Tòa án nhân dân số 16, tháng 8 năm 2011; “Một số vấn đề về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ” của tác giả Huỳnh Quốc Hùng, Tạp chí Tòa án số 9, tháng 5 năm 2007; “Một số vƣớng mắc trong thực tiễn giải quyết các vụ án về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ” của tác giả Tiến Sỹ Nguyễn Đức Mai, Tạp chí Tòa án số 22, tháng 11 năm 2009; Cần hình sự hóa hành vi đã uống rƣợu, bia hoặc các chất kích thích khác mà vẫn điều khiển phƣơng tiện giao thông để phòng ngừa tai nạn” của PGS.TS Trần Hữu Tráng, Tạp chí Tòa án số 16, tháng 8 năm 2012… Nghiên cứu các tài liệu trên viết về tội phạm này đã đề cập nhiều vấn đề còn vƣớng mắc về lý luận và thực tiễn áp dụng. Các luận án, luận văn và bài viết liên quan đến vấn đề này chủ yếu từ góc độ tội phạm học. Tuy nhiên, trong phạm vi hệ thống hai cấp Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện cả về mặt lý luận và thực tiễn xét xử đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ dƣới góc độ thực
  • 9. 4 tiễn xét xử. Vì vậy, việc nghiên cứu “Thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình” là nhu cầu cấp thiết hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Đối tƣợng nghiên cứu Học viên nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ lý luận đến thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình hiện nay. Nghiên cứu các vụ án, bản án đã xét xử, tìm hiểu sâu sắc, toàn diện về vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt tội này qua các dấu hiệu pháp lý để thấy đƣợc những điểm khác nhau giữa lý luận và thực tiễn. Quá trình nghiên cứu đề tài còn dựa và các văn bản của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền, cũng nhƣ các Nghị quyết, Công văn hƣớng dẫn trong thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Tối cao. Số liệu từ các báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình, kết hợp với các kiến thức lý luận qua công tác thực tiễn xét xử. * Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình dƣới góc độ pháp lý hình sự trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trong BLHS; thực tiễn xét xử loại tội phạm này và những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về loại tội phạm này cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội danh này. * Nhiệm vụ nghiên cứu
  • 10. 5 Để đạt đƣợc mục đích trên đây học viên đặt ra một số nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Trên cơ sở lý luận đƣa ra những phân tích về loại tội phạm vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, các yếu tố thuộc dấu hiệu pháp lý đặc trƣng theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình. - Tổng kết, đánh giá thực tiễn xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây; đi sâu phân tích đánh giá một số vụ án điển hình trên địa bàn tỉnh Ninh Bình từ đó rút ra những ƣu điểm, tồn tại trong hoạt động xét xử loại tội này, tìm ra nguyên nhân và các giải pháp góp phần vào công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và hiệu lực quản lý của Nhà nƣớc. - Đề xuất giải pháp để hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm tăng cƣờng hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về Nhà nƣớc và pháp luật của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ qua thực tiễn công tác xét xử trong công cuộc cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta hiện nay. Luận văn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn * Về mặt lý luận Đây là công trình nghiên cứu có hệ thống và toàn diện về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn xét xử của hai cấp Tòa án Tỉnh Ninh Bình ở cấp độ luận văn thạc sĩ. Học viên đƣa ra những vƣớng mắc bất cập trong các quy định của pháp luật, những hạn chế, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật, từ đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện Điều 202 của
  • 11. 6 BLHS cũng nhƣ nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm này. * Về mặt thực tiễn Việc nghiên cứu và những đề xuất của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này. Qua kết quả nghiên cứu và những đề xuất, bản thân học viên mong muốn góp một phần nhỏ của mình vào quá trình xây dựng và hoàn thiện tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn khi hoàn thiện cũng sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các cơ quan bảo vệ pháp luật, cho những ngƣời nghiên cứu và sinh viên, học viên trong các cơ sở đào tạo luật. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục, phục lục và tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc cấu trúc gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: Khái quát lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Viêt Nam. Chƣơng 2: Định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình. Chƣơng 3: Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
  • 12. 7 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 1.1.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến Bộ luật hình sự năm 1985 Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành đã công đập tan chế độ phong kiến, đồng thời thiết lập nên Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nƣớc công nông đầu tiên với hệ thống pháp luật, trong đó có các Sắc lệnh, Nghị định, Thông tƣ hƣớng dẫn thi hành thuộc lĩnh vực hình sự. Ngay sau khi giành đƣợc chính quyền về tay nhân dân, Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự quy định các tội gián điệp, tội âm mƣu lật đổ chính quyền, tội hoạt động phỉ…tại Sắc lệnh số 21 ngày 14 tháng 2 năm 1946. Tuy nhiên, lúc này tội vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định. Nhƣ vậy các tội chống chính quyền nhân dân đƣợc quy định ngay từ khi Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, còn tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chỉ ra đời khi có các quy định về an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ, tức là khi có Luật giao thông đƣờng bộ. Trong suốt 10 năm từ năm 1945 đến năm 1954 thời kỳ thực dân Pháp tái chiếm Hà Nội thì Nhà nƣớc ta chƣa có hệ thống luật bảo đảm an toàn giao thông vận tải. Vì vậy, không có cơ sở để hình thành quy phạm pháp luật về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trong thời kỳ này cả nƣớc vẫn áp dụng luật của chế độ cũ để xét xử tội về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau khi miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng. Ngày 03/10/1955, Luật đi đƣờng bộ mới đƣợc ra đời kèm theo Nghị định số 348/NĐ của Bộ giao thông Bƣu
  • 13. 8 điện. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa về an toàn giao thông, tạo cơ sở pháp lý hình thành tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Sau đó hàng loạt các văn bản pháp lý khác về an toàn giao thông vận tải ra đời nhƣ: Nghị định số 139/NĐ ngày 19/12/1956; Nghị định 44/NĐ ngày 27/5/1958 của Bộ giao thông Bƣu điện; Nghị định liên bộ giữa Bộ giao thông Bƣu điện - Công an số 09/NĐLB ngày 07/3/1956 ban hành thể lệ tạm thời về vận tải đƣờng bộ; Nghị định số 10/NĐ của Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải trong thời chiến; Nghị định 36/CP ngày 29/5/1995 về tăng cƣờng bảo đảm trật tự an toàn giao thông vận tải đƣờng bộ và trật tự đô thị và đến nay là Nghị định số 36/CP ngày 10/7/2001 về bảo đảm trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị. Điểm nổi bật và đáng chú ý nhất là Quốc Hội đã thông qua Luật giao thông đƣờng bộ đầu tiên vào ngày 29/6/2001 và Luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2002. Ngày 19/01/1955 Thủ tƣớng Chính phủ ra Thông tƣ số 442/TTg là văn bản đầu tiên của Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ . Tại Điểm 4 của Thông tƣ này quy định: “Không cẩn thận khi không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn làm chết người thì có thể bị phạt tù đến 10 năm” [6,tr. 135]. Sau hơn một năm thực hiện Thông tƣ này, ngày 29/6/1956, Thủ tƣớng Chính phủ đã ra Thông tƣ 556/TTg bổ sung điểm 4 Thông tƣ 442/TTg. Điểm 4 của Thông tƣ 556/TTg quy định: “Không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Nếu gây tai nạn chết người thì có thể bị phạt tù đến 10 năm. Trong trường hợp gây tai nạn lớn làm chết nhiều người và gây thiệt hại lớn đến tài sản của nhân dân thì có thể bị phạt đến tù chung thân hay tử hình” [7,Tr. 135]. Trƣớc ngày Miền Nam hoàn toàn giải phóng, các tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đều đƣợc điều tra, truy tố và xét xử theo Thông tƣ 442/TTg và Thông tƣ 556/TTg của Thủ tƣớng Chính phủ.
  • 14. 9 Đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn thì đƣờng lối xử lý ngƣời phạm tội là “Trừng trị thích đáng đối với những vi phạm nghiêm trọng, nghiêm trị đúng mức đối với những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng, đồng thời kết hợp với thận trọng để xem xét đầy đủ mọi tình tiết một cách toàn diện”. Khi Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Chính phủ mới ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định tội phạm và hình phạt đối với hành vi xâm phạm trật tự công công, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Tại Điều 9 Sắc luật 03 quy đinh về tội xâm phạm đến trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân nhƣ sau: “Tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng với các khung hình phạt từ 3 tháng đến 5 năm, trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm. Trong mọi trường hợp có thể bị phạt tiền đến 1000 đồng ngân hàng”. Nhƣ vậy có thể thấy, trƣớc khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985, các hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ chƣa đƣợc quy định là một tội độc lập. Đƣờng lối xử lý vi phạm tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn đƣợc thực hiện theo hƣớng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Bản sơ kết kinh nghiệm về đƣờng lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn. Đến năm 1976, Chính phủ mới ban hành một văn bản dƣới dạng Sắc luật quy định tội phạm và hình phạt đối với tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng. 1.1.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến Bộ luật hình sự năm 1999 Tháng 9 năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời và có hiệu lực hành thống nhất trong toàn quốc kể từ ngày 01/01/1986. Trong bộ luật này, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cũng chƣa có tên riêng, mà đƣợc quy định chung với các hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải (Điều 186, Chƣơng VIII – Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính - BLHS 1985). Điều luật quy định hành vi phạm tội của ngƣời “điều khiển phương tiện giao thông vận tải mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường không gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe người khác hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản …,” [19]
  • 15. 10 So với Sắc luật số 03-SL/76 thì quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự 1985 đã có bƣớc tiến bộ rất lớn về cả kỹ thuật lập pháp và nội dung. Cụ thể nhƣ sau: - Tên của tội đã đƣợc xác định rõ là “Tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng” - Sắc luật số 03-SL/76 chỉ nêu tội danh và hình phạt mà không mô tả dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội phạm cũng nhƣ quy định các khung hình phạt tƣơng ứng với các loại trƣờng hợp phạm tội khác nhau nhƣ quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985. - Đƣờng lối xử lý tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng của Bộ luật hình sự năm 1985 có thay đổi mức hình phạt tù theo hƣớng tăng nặng hơn tối đa từ 15 năm lên 20 năm cho phù hợp với các trƣờng hợp đặc biệt nghiêm trọng của tội này. - Các tình tiết định khung tăng nặng đƣợc quy định tại Điều 186 Bộ luật hình sự năm 1985 cụ thể, đầy đủ và rõ ràng hơn. Nhiều tình tiết định khung tăng nặng khác trong Bộ luật hình sự năm 1985 đã đƣợc bổ sung (4 khung hình phạt khác nhau). Tuy nhiên quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là quy định cả 4 loại hành vi vi phạm trong bốn lĩnh vực an toàn giao thông vận tải (đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng thủy và đƣờng không) có đặc điểm kỹ thuật và yêu cầu bảo đảm an toàn rất khác nhau vào cùng một điều luật. Điều này đã hạn chế nhiều đến việc quy định cụ thể hành vi phạm tội cũng nhƣ việc phân hóa trách nhiệm hình sự của hành vi phạm tội. Bộ luật hình sự năm 1985 đƣợc sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997 nhƣng nội dung của Điều 186 về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ về cơ bản không thay đồi, mà chỉ có sự thay đổi về tên tội (đƣợc sửa đổi bổ sung vào năm 1991), từ tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định về an toàn giao thông vận tải. Bỏ cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” nhằm cho tên tội phù hợp với tất cả các trƣờng hợp bị coi là phạm tội này theo nội dung điều luật.
  • 16. 11 1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lí của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 1.2.1.Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Tội phạm là một hiện tƣợng xã hội có tính lịch sử, phát sinh trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định, đó là hiện tƣợng tiêu cực của xã hội, tội phạm luôn chứa đựng trong nó tính chống đối lại Nhà nƣớc, chống đối lại xã hội, đi ngƣợc lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con ngƣời. Tại Điều 8 BLHS năm 1999 hiện hành thì khái niệm tội phạm đƣợc định nghĩa: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khá của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. [20]. Khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm, hiện nay vẫn còn một số quan điểm khác nhau. Có tác giả cho rằng: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi xâm phạm những quy định của Nhà nước về an toàn giao thông đường bộ” [13,tr.434]. Tác giả cho rằng khái niệm này còn khá chung chung và chƣa nêu cụ thể hành vi phạm tội và dấu hiệu chủ thể của tội phạm. Tác giả Đinh Văn Quế trong cuốn bình luận khoa học BLHS đã định nghĩa: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [18, tr. 6]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam của trƣờng Đại học luật Hà Nội thì định nghĩa: “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là
  • 17. 12 hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác” [28, tr. 196]. Cả hai định nghĩa trên đều chƣa đề cập đến vấn đề năng lực TNHS của ngƣời điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ khi tham gia giao thông. Trên cơ sở kế thừa những hạt nhân hợp lí trong các định nghĩa trên, tác giả xin đƣa ra định nghĩa về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nhƣ sau: "Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ, vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác". 1.2.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng (các yếu tố cấu thành tội phạm) là cơ sở pháp lý của việc định tội danh. Cũng nhƣ các tội phạm khác, tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS 1999 có 4 yếu tố cấu thành là khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể. * Khách thể của tội phạm: Khách thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc xác định là trật tự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời tham gia giao thông. [41, tr 417] * Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ bao gồm: hành vi khách quan; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, thời gian, địa điểm, phƣơng tiện phạm tội. Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Luật giao thông đƣờng bộ nhƣ: hành
  • 18. 13 vi vi phạm quy định về tốc độ và khoảng cách giữa các xe, sử dụng làn đƣờng, vƣợt xe, chuyển hƣớng xe…[41,418] Hậu quả do hành vi vi phạm tội này gây ra là thiệt hại về tính mạng, thiệt hại nghiêm trọng sức khoẻ, tài sản của Nhà nƣớc và công dân. Thiệt hại đƣợc coi là nghiêm trọng thuộc một trong các trƣờng hợp sau đây: “ a. Làm chết một người; b. Gây thương tích hoặc gây tổn hại nặng cho sức khỏe của một người đến 4 người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; c. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; d. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của những người này từ 41% trở lên; e. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; f. Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21% nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả các nạn nhân từ 31% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị ba mươi triệu đến dưới năm mươi triệu; g. Gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đến dưới năm trăm triệu động”[34] Giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả. Hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ phải là nguyên nhân phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm xảy ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của ngƣời khác. Khoản 4 Điều 202 BLHS đƣợc coi là cấu thành giảm nhẹ đặc biệt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ. Trên thực tế rất ít xảy ra trƣờng hợp này. Đây là trƣờng hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ mà nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời thì hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
  • 19. 14 nhất định xảy ra. Có quan điểm cho rằng, khoản 4 Điều 202 BLHS là cấu thành hình thức, vì theo quy định của điều luật, không cần có hậu quả xảy ra tội phạm đã hoàn thành. Nếu chỉ căn cứ vào quy định tại khoản 4 của điều luật này thì dƣờng nhƣ đây là tội có cấu thành hình thức. Tuy nhiên, ở đây cần lƣu ý hậu quả chƣa xảy ra là do “đƣợc ngăn chặn kịp thời” chứ không phải do “hành vi phạm tội mới đe dọa xâm phạm đến các quan hệ xã hội” nhƣ đối với các tội phạm có cấu thành hình thức. Vì vậy, về bản chất, cấu thành tội phạm của khoản này vẫn là cấu thành tội phạm vật chất. Hậu quả của hành vi mặc dầu chƣa xảy ra nhƣng hoàn toàn có thể suy đoán đƣợc dựa trên diễn tiến của hành vi nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời. * Mặt chủ quan của tội phạm Lỗi của ngƣời phạm tội trong tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả. * Chủ thể của tội phạm Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS 1999 “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”[20]. Tội vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 BLHS là tội phạm nghiêm trọng; quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 202 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng;quy định tại khoản 4 Điều 202 BLHS là tội phạm ít nghiêm trọng. Nhƣ vậy, chủ thể của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ quy định tại Điều 202 của BLHS là ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực TNHS. BLHS 2015 đã sửa đổi quy định về độ tuổi chịu TNHS, theo đó nhà làm luật quy định cụ thể những trƣờng hợp ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS tại khoản 2 Điều 12 BLHS 2015. Tuy nhiên, theo quy định này thì ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi cũng vẫn không phải chịu TNHS đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015). * Hình phạt đối với tội phạm Điều 202 BLHS 1999 quy định bốn khung hình phạt với ngƣời phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ: Khoản 1 Điều 202 của
  • 20. 15 BLHS quy định phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mƣơi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm, hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, khoản 2 Điều của 202 BLHS quy định phạt tù từ ba năm đến mƣời năm, khoản 3 Điều 202 của BLHS quy định phạt tù từ bảy năm đến mƣời lăm năm. Vi phạm quy định an toàn giao thông đƣờng bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không đƣợc ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm phải chịu TNHS theo khoản 4 Điều 202 của BLHS. 1.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác * Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội giết ngƣời. Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau: Bảng 1.1: Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với tội giết người Tiêu chí Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ Tội giết ngƣời Về khách thể trực tiếp - Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Xâm phạm đến quyền đƣợc sống của con ngƣời Hành vi khác quan - Hành vi vi phạm các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về tính mạng, tài sản tính thành tiền và làm mất trật tự an - Là hành vi tƣớc đoạt trái pháp luật tính mạng của ngƣời khác, là khả năng gây ra cái chết cho con ngƣời, chấm dứt sự sống của họ. Hành vi khách quan của tội giết ngƣời có thể là hành động hoặc là không hành động
  • 21. 16 toàn giao thông đƣờng bộ). Hành vi khách quan của tội này thực hiện bằng hành động. Mặt chủ quan của tội phạm - Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi vô ý, tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà lỗi của ngƣời phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Trong cả hai trƣờng hợp lỗi trên ngƣời phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra. - Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi cố ý. Lỗi cố ý ở đây có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự - Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Gây hậu quả chết ngƣời Địa điểm phạm tội - Trên đƣờng trong khi tham gia giao thông đƣờng bộ - Bất kỳ đâu * Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác. Theo quy định tại Điều 108 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác là hành vi vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngƣời khác mà tỷ lệ thƣơng tật từ 31% trở lên do ngƣời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện bởi hình thực lỗi vô ý, do tự tin hoặc cẩu thả mà gây thƣơng tích cho nạn nhân. Khách thể của tội này là quyền đƣợc bảo vệ sức khỏe của con ngƣời. Nhƣ vậy, so sánh với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ cho thấy những điểm giống nhau nhƣ sau:
  • 22. 17 Tội phạm đƣợc thực hiện bởi hình thức lỗi vô ý, bao gồm cả lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi vô ý vì quá tự tin. - Chủ thể của tội phạm là những ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau: Bảng 1.2. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác Tiêu chí Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ Tội vô ý gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho ngƣời khác Về khách thể trực tiếp - Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Xâm phạm đến quyền đƣợc bảo vệ về sức khỏe của con ngƣời Hành vi khách quan - Hành vi vi phạm các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội (thiệt hại về tính mạng, tài sản tính thành tiền và làm mất trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ) - Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các quy tắc an toàn gây nên thƣơng tích cho nạn nhân. Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự - Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Gây thƣơng tích với tỷ lệ thƣơng tật từ 31% trở lên cho nạn nhân mới cấu thành Địa điểm phạm tội - Trên đƣờng trong khi tham gia giao thông đƣờng bộ - Bất kỳ đâu
  • 23. 18 * Phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép. Tội đua xe trái phép quy định tại Điều 207 là tội phạm mới đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi của tội đua xe trái phép là hành vi đua trái phép ôtô, xe máy hoặc các loại xe có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản của ngƣời khác hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm, do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện. Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội đua xe trái phép đều xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công cộng và đều đe dọa, xâm phạm nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác. Giữa hai tội phạm này có một số điểm khác nhau nhƣ sau: Bảng 1.3. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và tội đua xe trái phép: Tiêu chí Tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ Tội đua xe trái phép Về khách thể trực tiếp - Xâm phạm đến sự an toàn của hoạt động giao thông đƣờng bộ và sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Xâm phạm đến an toàn công công, đồng thời tội này còn đe đọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của ngƣời khác cũng nhƣ gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng. Hành vi khách quan - Hành vi vi phạm các quy định về đảm bảo trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ của ngƣời điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội(thiệt hại về - Hành vi đua xe trái phép ô tô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản của ngƣời khác,
  • 24. 19 tính mạng, tài sản tính thành tiền và làm mất trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ) gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến an toàn công cộng. Mặt chủ quan của tội phạm - Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi vô ý, tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà lỗi của ngƣời phạm tội có thể là lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả. Trong cả hai trƣờng hợp lỗi trên ngƣời phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra. - Tội phạm đƣợc thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích phạm tội và động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội này. Điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự - Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe và tài sản của ngƣời khác - Gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản của ngƣời khác, hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chƣa đƣợc xóa án tích mà còn vi phạm. Địa điểm - Trên đƣờng trong khi tham gia giao thông đƣờng bộ - Nơi công cộng nhƣng chủ yếu trên các tuyến đƣờng giao thông, tuyến phố lớn, đƣờng quốc lộ, tỉnh lộ nhân những ngày lễ lớn hoặc khi có các sự kiện văn hóa, thể thao… 1.4. So sánh quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ trong Bộ luật hình sự năm 1999 với Bộ luật hình sự năm 2015 Thực hiện tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW "Về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020" ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, nhằm khắc phục kịp thời những bất cập, vƣớng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử nói chung và
  • 25. 20 các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ nói riêng, BLHS 2015 đã có những sửa đổi bổ sung một số nội dung cụ thể, khắc phục cơ bản đƣợc những hạn chế bất cập trong quy định của Điều 202 BLHS 1999, làm cho nó phù hợp hơn với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm về trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ. Những thiếu sót tại Điều 202 của BLHS hiện hành, đã đƣợc bổ sung, sửa đổi trong Bộ luật hình sự 2015 (tại Điều 260 BLHS 2015), cụ thể là: Một là: Sửa tên gọi của Điều luật. Tên của điều luật đƣợc đổi thành: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ (Điều 260 BLHS 2015). Hai là: Bổ sung nội dung quy định tại khoản 1 của Điều 260 BLHS năm 2015, bằng cách thay cụm từ "điều khiển phƣơng tiện" bằng từ "tham gia" để bao quát đầy đủ các chủ thể tham gia giao thông đƣờng bộ cũng nhƣ phù hợp với quy định tại điểm 21 Điều 3 Luật giao thông đƣờng bộ năm 2008: "người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ"[23] Ba là: Các quy định có tính định tính trong Điều 202 BLHS 1999 đƣợc hƣớng dẫn cụ thể để thực hiện tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao,đã đƣợc tiếp thu, bổ sung cho hoàn chỉnh và pháp điển hóa vào trong các quy định của Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Bốn là: Điều 260 của BLHS sửa đổi năm 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đƣờng bộ, đã sửa đổi, bổ sung và xây dựng thành 6 khoản, tăng 01 khoản so với Điều 202 của BLHS 1999. Mức án tại các khoản tƣơng ứng cũng nhƣ hình phạt bổ sung quy định ở hai điều luật mới và cũ không có sự khác biệt lớn. Nhƣng tại Điều 260 của BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 01 cấu thành giảm nhẹ ở khoản 04 của điều luật để xử lý một số hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ, nhƣng ở mức độ nhẹ hơn so với quy định tại khoản 01 điều này. (Khoản 1 Điều 202 và văn bản hƣớng dẫn của nghị quyết HĐTP quy định là làm chết 01 ngƣời hoặc gây thƣơng tích cho 01 ngƣời từ 31% trở lên…Còn ở Điều 260 của BLHS năm 2015 đã tách khoản 1 của Điều 202 cũ ra để quy định thành 2 khoản, là khoản 1 và khoản 4. Theo đó: Nếu gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho
  • 26. 21 sức khỏe của 01 ngƣời với tỷ lệ tổn thƣơng cơ thể 61% trở lên thì xử lý theo khoản 1 Điều 260, còn nếu gây thƣơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 ngƣời với tỷ lệ tổn thƣơng cơ thể từ 31% đến 60%... thì đƣợc tách ra quy định ở khoản 4 của Điều 260 với mức án nhẹ hơn rất nhiều (chỉ phạt tiền và cải tạo không giam giữ, không có hình phạt tù). Những bổ sung, sửa đổi của Điều 260 BLHS năm 2015 là phù hợp và đáp ứng đƣợc đòi hỏi của thực tiễn, do đó sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, góp phần bảo đảm giữ gìn trật tự an toàn giao thông đƣờng bộ. Tuy nhiên, những sửa đổi về kết cấu của điều luật cần có hƣớng dẫn để áp dụng cho thống nhất trong thực tiễn. Cụ thể nhƣ sau: Nghiên cứu quy định tại Điều 260 của BLHS năm 2015 cho thấy kết cấu điều luật là chƣa thực sự phù hợp. Điều luật có tới hai cấu thành cơ bản là cấu thành ở khoản 1 và khoản 4. Kết cấu này sẽ gây ra những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, khó xác định đâu là cấu thành cơ bản. Bởi vì thông thƣờng, một ngƣời khi phạm tội ở khoản 1(là cấu thành cơ bản) và có một trong những tình tiết định khung ở khoản 2 sẽ phạm tội ở khoản 2 của điều luật. Trƣờng hợp ngƣời tham gia giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ gây thƣơng tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 ngƣời, với tỷ lệ tổn thƣơng cơ thể từ 31% đến 60% và không phạm vào một trong những tình tiết định khung tăng nặng của khoản 2. Khi đó ngƣời đó sẽ bị xem xét xử lý theo khoản 4 của điều luật và đƣợc hiểu là, đã có sửa đổi bổ sung thêm một cấu thành giảm nhẹ trong điều luật để xử lý cho trƣờng hợp này với mức án nhẹ hơn khoản 01 của Điều 202 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, giả sử trƣờng hợp ngƣời tham gia giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông đƣờng bộ, nhƣng không có giấy phép lái xe theo quy định thì giải quyết thế nào cho đúng? Khi đó chuyển khung sang khoản 01 hay khoản 02 của điều luật? Nếu theo tuần tự thì phải chuyển khung sang khoản 01, vì quy định nặng hơn liền kề so với khoản 04 của điều luật. Nhƣng khoản 01 thì không có các cấu thành tăng nặng ở đó. Nhƣ vậy, sẽ phải bỏ qua khoản 01 chuyển tăng nặng sang
  • 27. 22 khoản 02 của điều luật luôn chăng? Hay điều luật này có hai khung cơ bản là khoản 01 và khoản 04? khi đó một ngƣời phạm vào một trong hai khoản này (khoản 01 và khoản 04), mà có tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 02 là đều chuyển khung sang khoản 2. Về vấn đề này, hiện có một số quan điểm áp dụng pháp luật nhƣ sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định của điều luật thì khoản 4 là cấu thành cơ bản của điều luật, vì nó quy định các yếu tố cấu thành cơ bản nhƣ tại khoản 1 của điều luật nhƣng có hình phạt nhẹ hơn quy định của khoản 1 mà thôi. Quan điểm thứ hai cho rằng: Khoản 1 của điều luật là cấu thành cơ bản, chỉ khi một hành vi thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản đƣợc quy định tại khoản 1 của điều luật mà lại có thêm những tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật thì sẽ áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Còn khoản 4 là cấu thành giảm nhẹ, vì không thể từ khoản 4 chuyển thẳng vào khoản 2,3 mà bỏ qua khoản 1 của điều luật đƣợc. Quan điểm thứ ba cho rằng: Với kết cấu và cách hành văn của điều luật, thì một hành vi khi có đủ các yếu tố định khung cơ bản quy định tại khoản 1 hoặc khoản 4 của điều luật, mà lại có những tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 thì sẽ phải áp dụng khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật (Nhƣ vậy theo quan điểm này thì ở điều luật này có tới hai khung cơ bản, hai cấu thành cơ bản). So sánh hình phạt giữa Điều 202 của BLHS 1999 và Điều 260 của BLHS 2015 thì Điều 260 có quy định nhẹ hơn. Do đó, khi Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành thì những quy định có lợi, tình tiết có lợi của luật mới sẽ đƣợc áp dụng. Kết luận chƣơng 1 Chƣơng 1 của luận văn đã nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam nhƣ: Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ; khái niệm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo pháp luật hình sự Việt Nam, dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ; phân biệt tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với một số tội danh khác. Đặc biệt, luận văn cũng đã nghiên
  • 28. 23 cứu so sánh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ theo BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015. Qua đó cho thấy việc sửa đổi và hoàn thiện các quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là cần thiết để đáp ứng kịp thời với yêu cầu thực tiễn nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản của nhân dân, duy trì trật tự xã hội. Những lý luận cơ bản đƣợc trình bày trên đây có ý nghĩa quan trọng cho việc định tội danh cũng nhƣ quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Việt nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.
  • 29. 24 Chƣơng 2 ĐỊNH TỘI DANH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐIỀU KHIỂN PHƢƠNG TIỆN GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH 2.1. Khái quát lí luận định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 2.1.1. Khái niệm định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp đƣợc tiến hành qua các giai đoạn nhất định nhƣ: Giải thích pháp luật hình sự, xác định hiệu lực pháp luật về không gian và thời gian, định tội danh, quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và hình phạt, quyết định án treo, xóa án tích… Trong các giai đoạn đó thì định tội danh là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật, một trong những biện pháp, cách thức đƣa các quy phạm pháp luật vào cuộc sống. Định tội danh là một vấn đề rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, chính xác, đồng thời làm cơ sở cho việc áp đúng các biện pháp ngăn chặn, xác định thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng; Góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân. Việc định tội danh không chính xác sẽ dẫn đến hậu quả rất lớn và đặc biệt sẽ không bảo đảm đƣợc tính có căn cứ của hình phạt đã tuyên và việc xét xử không đúng ngƣời, đúng tội, đúng pháp luật. Theo quan điểm của GS.TS Võ Khánh Vinh thì: "Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nhằm đi tới chân lí khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội được thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tương ứng và mối liên hệ tương đồng giữa các dấu hiệu
  • 30. 25 của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội bằng các phương pháp và thông qua các giai đoạn nhất định".[45, tr.26,27]. GS.TSKH Lê Cảm thì định nghĩa: Định tội danh là quá trình nhận thức lý luận logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật [8]. Quan điểm của TS. Dƣơng Tuyết Miên thì: Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác đinh một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội thì tội đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện [16] Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về tội vi phạm quy đinh về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ, kết hợp nghiên cứu các định nghĩa của các tác giả kể trên, có thể đƣa ra định nghĩa định tội danh về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nhƣ sau: Đinh tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là một phạm trù chủ quan trong nhận thức lý luận có tính lôgic, là một dạng hoạt động thực tiễn của cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ với điều, khoản nào của Điều 202 BLHS 1999. 2.1.2. Đặc điểm của định tội danh tội vi phạm quy định về điêu khiển phương tiện giao thông đường bộ - Định tội danh là một quá trình nhận thức có tính lôgic giữa lý luận và thực tiễn. Quá trình này đƣợc thể hiện dƣới 2 khía cạnh đó là: Xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện (hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng
  • 31. 26 tiện giao thông đƣờng bộ) có phù hợp với các dấu hiệu mô tả trong CTTP của Điều 202 BLHS 1999 cũng nhƣ các điều luật có liên quan và đƣa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế. - Việc định tội danh phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy phạm pháp luật của BLHS với tƣ cách là luật nội dung (những quy định liên quan đến các yếu tố CTTP và Điều 202 BLHS) cũng nhƣ các quy phạm pháp luật của Bộ luật TTHS (BL TTHS) tƣ cách là luật hình thức. - Định tội danh là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án, của những ngƣời tiến hành tố tụng (Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán) để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ nội dung của các quy phạm pháp luật hình sự. - Định tội danh thực chất là sự xác định về mặt pháp lý đối với hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế và đây là một dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự. 2.1.3. Ý nghĩa của định tội danh - Định tội danh là tiền đề cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách chính xác và có căn cứ pháp luật. - Định tội danh chính xác sẽ hỗ trợ cho việc thực hiện hàng loạt các nguyên tắc tiến bộ đƣợc thừa nhận trong Nhà nƣớc pháp quyền đó là các nguyên tắc: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi, trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc bình đẳng trƣớc pháp luật, nguyên tắc công minh, nhân đạo và nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm. - Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy phạm pháp luật TTHS về tạm giữ, tạm giam, về thẩm quyền điều tra, truy tố và xét xử và sẽ loại trừ việc kết án oan, sai đối với những ngƣời có hành vi không nguy hiểm cho xã hội, không trái pháp luật hình sự và tạo tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công minh đối với ngƣời phạm tội.
  • 32. 27 Ngƣợc lại, định tội danh sai không chỉ làm cho việc quyết định hình phạt không đúng, không công bằng, mà còn áp dụng không có căn cứ hoặc không áp dụng một loạt các biện pháp pháp lý khác nhƣ: quyết định hình phạt bổ sung, quyết định trách nhiệm dân sự… Mặt khác định tội danh sai còn làm giảm uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, vi phạm pháp chế XHCN, ảnh hƣởng đến hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời định tội danh sai còn gây tốn kém cho việc bồi thƣờng oan sai, về bồi thƣờng thiệt hại cho ngƣời bị oan do ngƣời có thẩm quyền trong hoạt tố tụng hình sự gây ra. 2.1.4. Cơ sở pháp lý của định tội danh Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự thì BLHS đƣợc coi là cơ sở pháp lý duy nhất của hoạt động định tội danh. Bản chất của hoạt động định tội danh là xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đƣợc thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tƣơng ứng do luật hình sự quy định (trƣờng hợp cụ thể này là Điều 202 BLHS). Bên cạnh đó, đến thời điểm này, BLHS là nguồn duy nhất của luật hình sự. Nó chứa đựng toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự hiện hành và chứa đựng tất cả các dấu hiệu cấu thành tội phạm - cái đƣợc coi là mô hình pháp lý của tội phạm để dựa vào đó các chủ thể định tội danh tiến hành so sánh, đối chiếu với các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện trên thực tế, phục vụ cho quá trình định tội danh. Hệ thống các nhóm quy phạm đƣợc sắp xếp trong BLHS thành hai phần: phần chung và phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định những vấn đề cơ bản nhất làm cơ sở, nguyên tắc cho việc giải quyết các vụ án hình sự, phần các tội phạm quy định mô hình pháp lý của các tội phạm cụ thể và các chế tài tƣơng ứng, trong đó có quy định của Điều 202 BLHS. Hai phần của BLHS này có mối liên quan chặt chẽ, thống nhất và lôgic với nhau, vì vậy trong quá trình định tội danh cần phải áp dụng cả các quy định trong phần chung và các quy định trong phần các tội phạm. Điều đó có nghĩa là, để xác định một hành vi có phạm tội theo Điều 202 BLHS không thì không chỉ căn cứ quy định của Điều 202 BLHS mà còn phải căn
  • 33. 28 cứ vào những quy định ở phần chung để xác định yếu tố năng lực chủ thể, độ tuổi, trƣờng hợp miễn TNHS, lỗi… Bên cạnh đó, còn có quan điểm cho rằng BLHS là cơ sở pháp lý chủ yếu thì Bộ luật TTHS đƣợc coi là cơ sở pháp lý gián tiếp, bổ trợ cho hoạt động định tội danh, bởi lẽ Bộ luật TTHS chứa đựng các quy phạm pháp luật quy định về các trình tự, thủ tục, thời hạn, chứng cứ… đảm bảo cho quá trình định tội danh diễn ra đúng đắn, chính xác và hợp pháp. 2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ ở Ninh Bình 2.2.1. Tình hình xét xử tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ ở Ninh Bình Theo số liệu thống kê, trong 5 năm từ năm 2011 đến 2015, tổng số tội phạm xảy ra trên địa bàn tỉnh Ninh Bình là 3.041 vụ, trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ là 213 vụ, với 221 bị cáo chiếm tỷ lệ không lớn trên tổng so các tội phạm khác, (chiếm tỷ lệ 7 %). Cụ thể nhƣ sau: Năm 2011, Toàn ngành Tòa án tỉnh Ninh Bình xét xử 571vụ/ 999 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 63 vụ/65 bị cáo (chiếm 11% số vụ, 6,5% số bị cáo). Năm 2012 xét xử 673 vụ/1366 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 46 vụ/47 bị cáo (chiếm 6,6% số vụ; 3,4 % số bị cáo). Năm 2013 xét xử 579vụ/1243 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 37 vụ/ 39 bị cáo (chiếm 6,3% số vụ, 3,1% số bị cáo). Năm 2014 xét xử 617 vụ/1444 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 27/28 bị cáo (chiếm 4,3% số vụ, 1,9% số bị cáo). Năm 2015 xét xử 601 vụ/1423 bị cáo; trong đó tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử 40 vụ/42 bị cáo (chiếm 6,6% số vụ, 3% số bị cáo).
  • 34. 29 Bảng 2.1: Số liệu, tỷ lệ tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ với tội phạm nói chung từ năm 2011-2015. Năm Tổng số vụ án và bị cáo (1) Tổng số vụ án và bị cáo phạm tội theo Điều 202BLHS (2) Tỷ lệ % số vụ (2) so với (1) Ghi chú Số vụ Số bị cáo Số vụ Số bị cáo 2011 571 999 63 65 11% 2012 673 1366 46 47 6,6% 2013 579 1243 37 39 6,3% 2014 617 1444 27 28 4,3% 2015 601 1423 40 42 6,6% Tổng 3041 6475 213 221 7% Trung bình Bảng 2.2: Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã xét xử có kháng cáo, kháng nghị từ năm 2011 - 2015. Năm Tổng số vụ án, bị cáo phạm tội Điều 202 BLHS Số vụ án, bị cáo có kháng cáo, kháng nghị Kết quả giải quyết (Số vụ) Y án Sửa án Hủy án 2011 63 vụ/ 65 bị cáo 09 vụ/ 09 bị cáo 07 02 2012 46 vụ/ 47 bị cáo 07 vụ/ 07 bị cáo 06 02 01 2013 37 vụ/ 39 bị cáo 05 vụ/ 05 bị cáo 07 02 2014 27 vụ/ 28 bị cáo 08 vụ/ 08 bị cáo 04 04 2015 40 vụ/ 42 bị cáo 07 vụ/ 08 bị cáo 05 02 Tổng số 213vụ/ 221 bị cáo 36 vụ/ 37 bị cáo 29 12 01
  • 35. 30 Bảng 2.3: Tổng số vụ án bị xét xử phúc thẩm và số vụ án bị xét xử phúc thẩm về tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ Năm Tổng số vụ án (Số vụ) Số vụ án phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ 2011 65 09 2012 45 07 2013 55 5 2014 61 08 2015 50 07 Tổng 276 36 ( Nguồn: Số liệu thống kê tội phạm của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình) Từ kết quả trên cho thấy tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số các tội phạm khác và có diễn biến tăng, giảm không ổn định. Tuy nhiên theo nhận định của các cơ quan chức năng trực tiếp tham gia công tác phòng chống tội vi phạm an toàn giao thông thì tình hình tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ không có chiều hƣớng giảm, tính chất, mức độ hành vi của tội phạm ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Cùng với sự phát triển của đất nƣớc nói chung và địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng thì số lƣợng ngƣời và phƣơng tiện giao thông ngày càng gia tăng và phức tạp. Do vậy, trong những năm qua nhìn vào kết quả về số vụ tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có thể nhận thấy, trật tự ATGT vẫn diễn biến hết sức phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ TNGT và ùn tắc giao thông. Nguyên nhân xuất phát từ sự mất cân đối giữa phát triển của các phƣơng tiện và hạ tầng giao thông ngày càng thêm gay gắt, cơ sở hạ tầng vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu đòi hỏi của công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông do sự gia tăng nhanh của các phƣơng tiện tham gia giao thông. Thêm vào đó, việc tổ chức giao thông ở một số nơi còn chƣa hợp lý và chậm khắc phục trong khi ý thức chấp hành pháp luật kém khi tham gia giao thông của một bộ phận nhân dân nhƣng lại là tác nhân lớn ảnh hƣởng đến trật tự an oàn giao thông. Ngƣời không đội mũ bảo
  • 36. 31 hiểm khi đi mô tô, xe máy, nhất là lứa tuổi thanh, thiếu niên có xu hƣớng gia tăng, ngƣời dân còn tùy tiện trong hoạt động sản xuất, sinh hoạt gần đƣờng sắt, đƣờng bộ, chiếm dụng lòng, lề đƣờng để buôn bán kinh doanh, làm sân phơi, họp chợ…Các điểm đen đã đƣợc xác định vẫn chậm đƣợc khắc phục. Tình trạng xe quá tải trọng cầu đƣờng vẫn tiếp diễn. Công tác quản lý nhà nƣớc về trật tự an toàn giao thông của các địa phƣơng tuy đã đƣợc tăng cƣờng nhƣng còn thiếu đồng bộ. Qua một năm thực hiện Nghị quyết 32 và các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, cùng với sự nỗ lực của các cấp, các ngành thì tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bƣớc đầu đã đƣợc kiềm chế, tuy nhiên vẫn diễn biến phức tạp, khó lƣờng. Thời gian tới, nhiệm vụ đặt ra với các cơ quan tiến hành tố tụng Công an, Viện kiểm sát và Tòa án còn nhiều khó khăn, đòi hỏi sự đồng thuận cao của toàn bộ hệ thống chính trị, hơn hết vẫn là ý thức chấp hành pháp luật của ngƣời dân khi tham gia giao thông. 2.2.2. Định tội danh theo cấu thành tội phạm cơ bản Cơ quan tiến hành tố tụng cần phải dựa vào mô hình pháp lý của việc định tội danh đƣợc mô tả tại Điều 202 của BLHS 1999, đây cũng là mô hình pháp lý chung nhất cho các hành vi nguy hiểm cho xã hội trong nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng. Dựa vào quy định của điều luật mà hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đƣợc phân chia thành 4 dạng tƣơng ứng với 4 mức hình phạt quy định tại Điều luật này. Theo đó, các cơ quan tiến hành tố tụng kiểm tra, đối chiếu, so sánh xem các dấu hiệu của hành vi vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ tƣơng ứng với mô hình nào? Tức là thỏa mãn cấu thành cơ bản, tăng nặng hay giảm nhẹ và thuộc khoản nào trong điều luật. - Đối với dạng hành vi thuộc khung cơ bản (khoản 1 Điều 202 của BLHS): thực tế cho thấy việc xác định phạm tội ở khung cơ bản chiếm đa số trong quá trình giải quyết vụ án. Trong tổng số 213 vụ án phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ giai đoạn 2011-2015 ở Ninh Bình thì có đến 145 vụ/165 bị cáo (chiếm tỷ lệ 68,1% số vụ và 74,7% số bị cáo) đƣợc xét xử theo khoản 1 Điều 202 BLHS.
  • 37. 32 Định tội trong trƣờng hợp này là trên cơ sở nhận thức các tình tiết thực tế của hành vi nguy hiểm để so sánh, đối chiếu với các tình tiết đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản đƣợc quy định trong khoản 1 Điều 202 BLHS. Khoản 1 Điều 202 của Bộ luật hình sự quy định “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”[20]. Khoản 1 Điều 3 của Luật Giao thông đƣờng bộ 2008 quy định: “Đường bộ gồm đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ . Khoản 17 Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ quy định: “Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ”[23]. Khoản 23 Điều 3 của Luật Giao thông đƣờng bộ: “Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ . Tình tiết “gây thiệt hại cho tính mạng là làm người khác chết. Tình tiết “gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác”[23]: Tiểu mục 4.1. Mục 4 Nghị quyết 02/2003/NQ-HĐTP hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự của Tòa án nhân dân Tối cao quy định: “Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự: a. Làm chết một người; b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
  • 38. 33 d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”.[34] Lƣu ý: Khi xác định thiệt hại về tài sản cho ngƣời khác thì chú ý đây chỉ những tài sản do hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ trực tiếp gây ra, còn những thiệt hại gián tiếp không đƣợc tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội. Ví dụ: trƣờng hợp do bị thƣơng nên phải chi phí cho việc điều trị và các khoản chi phí khác (mất thu nhập, làm chân giả, tay giả, mắt giả...). Mặc dù các thiệt hại này ngƣời phạm tội vẫn phải bồi thƣờng theo luật Dân sự nhƣng không đƣợc tính để xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội. Ngƣời phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả). Qua nghiên cứu số liệu thống kê cho thấy từ năm 2011 đến năm 2015 thí các vụ án mà Tòa án hai cấp tỉnh Ninh Bình đã xét xử chủ yếu đƣợc điều tra truy tố và xét xử ở khung cấu thành cơ bản là 145 vụ/165 bị cáo. Đa số các vụ án đều áp dụng đúng các quy định của pháp luật để xét xử các bị cáo. Tuy nhiên cũng có vụ án mà thực tiễn xét xử cho thấy các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn khi vận dụng tình tiết “Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác” (Điểm b khoản 1 Điều 202 BLHS). Đó là vì trong thực tiễn, có ngƣời uống nhiều rƣợu cũng chƣa say, tuy nhiên có ngƣời uống một chén cũng say. Do chƣa có cách hiểu thống nhất về “tình trạng say” là nhƣ thế nào, cũng nhƣ chỉ có thể dựa trên kết luận giám định về nồng độ cồn trong máu, trong hơi thở mới đƣợc dùng làm chứng cứ kết tội bị cáo theo điểm b, khoản 2 Điều 202 của BLHS khi bị cáo có hành vi vi
  • 39. 34 phạm quy định tại khoản 1 Điều 202 của BLHS. Tòa án không đƣợc dùng những chứng cứ khác nhƣ lời khai của ngƣời làm chứng, ngƣời bị hại để thay thế cho kết luận giám định. Điều này dễ dẫn đến bỏ lọt tội phạm hoặc định tội danh không đúng khung hình phạt hoặc quyết định mức phạt không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ví dụ: Khoảng 21 giờ ngày 28 tháng 4 năm 2012, Vũ Văn Tài uống rƣợu tại nhà bạn đã điều khiển xe môtô theo hƣớng Kim Sơn đi thành phố Ninh Bình chở theo Nguyễn Thị Phƣơng khi đi đến ngã ba Thông tuy không đủ điều kiện sang đƣờng nhƣng Tài vẫn điều khiển xe chuyển hƣớng sang đƣờng thì đâm vào xe ô tô do anh Nguyễn Văn Chất điều khiển. Hậu quả Nguyễn Thị Phƣơng chết tại chỗ còn Vũ Văn Tài bị thƣơng nhẹ. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 43/2012/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2012 Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh đã xét xử bị cáo Vũ Văn Tài theo khoản 1 Điều 202 của BLHS bởi trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án thì lời khai của những ngƣời làm chứng đều khai bị cáo Vũ Văn Tài đã uống rƣợu trƣớc khi tham gia giao thông nhƣng quá trình giải quyết ban đầu, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Yên Khánh đã không lấy mẫu máu giám định và không xác định đƣợc nồng độ cồn nên không có cơ sở để kết luận Vũ Văn Tài có nồng độ cồn vƣợt quá mức quy định hay không để truy tố theo điểm b, khoản 2 Điều 202 của BLHS mà chỉ có thể tuyên bị cáo Vũ Văn Tài phạm tội theo khoản 1 Điều 202 của BLHS. Điều này là không đúng với sự thật khách quan của vụ án và từ đó dẫn đến việc quyết định hình phạt đối với bị cáo là không chính xác, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. [trích Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2012/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2012 của TAND huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình] 2.2.3. Định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng khoản 2 Điều 202 BLHS - Đối với dạng hành vi thuộc khoản 2 Điều 202 của BLHS, ngƣời phạm tội sẽ bị phạt tù từ ba năm đến mƣời năm nếu thuộc một trong các trƣờng hợp sau:
  • 40. 35 + Điểm a, khoản 2, Điều 202 của BLHS: “Không có giấy phép lái xe hoặc bằng lái xe theo quy định . Điều 59 của Luật giao thông đƣờng bộ 2008 quy định về giấy phép lái xe: “1. Căn cứ vào kiểu loại, công suất động cơ, tải trọng và công dụng của xe cơ giới, giấy phép lái xe được phân thành giấy phép lái xe không thời hạn và giấy phép lái xe có thời hạn. 2. Giấy phép lái xe không thời hạn bao gồm các hạng sau đây: a) Hạng A1 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 50 cm3 đến dưới 175 cm3; b) Hạng A2 cấp cho người lái xe mô tô hai bánh có dung tích xi-lanh từ 175 cm3 trở lên và các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1; c) Hạng A3 cấp cho người lái xe mô tô ba bánh, các loại xe quy định cho giấy phép lái xe hạng A1 và các xe tương tự. 3. Người khuyết tật điều khiển xe mô tô ba bánh dùng cho người khuyết tật được cấp giấy phép lái xe hạng A1. 4. Giấy phép lái xe có thời hạn gồm các hạng sau đây: a) Hạng A4 cấp cho người lái máy kéo có trọng tải đến 1.000 kg; b) Hạng B1 cấp cho người không hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg; c) Hạng B2 cấp cho người hành nghề lái xe điều khiển xe ô tô chở người đến 9 chỗ ngồi; xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải dưới 3.500 kg; d) Hạng C cấp cho người lái xe ô tô tải, máy kéo có trọng tải từ 3.500 kg trở lên và các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2; đ) Hạng D cấp cho người lái xe ô tô chở người từ 10 đến 30 chỗ ngồi và các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C; e) Hạng E cấp cho người lái xe ô tô chở người trên 30 chỗ ngồi và các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng B1, B2, C, D; g) Giấy phép lái xe hạng FB2, FD, FE cấp cho người lái xe đã có giấy phép lái xe hạng B2, D, E để lái các loại xe quy định cho các giấy phép lái xe hạng này khi kéo rơ moóc hoặc xe ô tô chở khách nối toa; hạng FC cấp cho người lái xe đã
  • 41. 36 có giấy phép lái xe hạng C để lái các loại xe quy định cho hạng C khi kéo rơ moóc, đầu kéo kéo sơ mi rơ moóc. 5. Giấy phép lái xe có giá trị sử dụng trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam và lãnh thổ của nước hoặc vùng lãnh thổ mà Việt Nam ký cam kết công nhận giấy phép lái xe của nhau”.[23] Nghiên cứu các vụ án đã đƣợc giải quyết ở Ninh Bình giai đoạn 2011-2015 cho thấy có 44 vụ với 44 bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt có tình tiết này, chiếm tỷ lệ 20,65% số vụ và 19,9% số ngƣời phạm tội. Những trƣờng hợp phạm tội này đa phần là những ngƣời chƣa thành niên phạm tội hoặc thuộc trƣờng hợp tự ý lấy phƣơng tiện của ngƣời khác để tham gia giao thông (có đến 16 số vụ phạm tội do ngƣời chƣa thành niên thực hiện và 13 số vụ do tự ý mƣợn phƣơng tiện của ngƣời khác). Đa số các bản án đã xét xử theo khung tăng nặng này đều có căn cứ và đúng pháp luật. Tuy nhiên cũng có vụ án còn vƣớng mắc khi áp dụng tình tiết liên quan đến ngƣời điều khiển phƣơng tiện có giấy phép lái xe. Đặc biệt có trƣờng hợp ngoại lệ Tòa án cứng nhắc không coi là có giấy phép lái xe khi điều khiển phƣơng tiện tham gia giao thông đƣờng bộ khi ngƣời phạm tội đã có giấy chứng nhận tạm thời đang chờ cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép chính thức… Ví dụ: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 87/2014/HSST ngày 12 tháng 9 năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình đã xét xử bị cáo Trần Văn Bình theo điểm a khoản 2 Điều 202 của BLHS là không chính xác bởi lẽ Trần Văn Bình vừa học và thi sát hạch xong và đã đỗ nhƣng đang trong thời gian chờ cấp giấy phép lái xe thì gây tai nạn. Bản án đã bị Trần Văn Bình kháng cáo và Tại bản án hình sự phúc thẩm số 12/2014/HSPT của Tòa án tỉnh Ninh Bình đã sửa bản án sơ thẩm và xử bị cáo Trần Văn Bình theo khoản 1 Điều 202 của BLHS. + Điểm b, khoản 2, Điều 202 của BLHS: Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy đinh hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;[20] Đây là trƣờng hợp ngƣời phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ đã sử dụng rƣợu, bia nhƣng vẫn điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ nhƣ xe ô tô, xe mô tô và gây ra tai nạn dẫn đến hậu quả thiệt
  • 42. 37 hại về tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của ngƣời khác mà trong máu hoặc trong hơi thở có nồng độ cồn vƣợt quá mức quy định. Điều 8 của Luật giao thông đƣờng bộ 2008 quy định về các hành vi bị cấm trong đó khoản 8: “Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50miligam/100mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở”.[23] Giai đoạn 2011-2015, trong tổng số 213 vụ án phạm tội vi phạm quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ mà TAND các cấp ở Ninh Bình đã giải quyết thì có 112 vụ với 112 bị cáo bị xét xử theo khung hình phạt có tình tiết này, chiếm tỷ lệ 52,58% số vụ và 50,67% số ngƣời phạm tội. Đa số các vụ án, Tòa án đã áp dụng đúng tình tiết này khi định tội danh, từ đó đƣa ra các bản án tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Ví dụ:Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/12/2013, Lâm Quang Chiến sau khi uống rƣợu ở nhà bạn về điều khiển xe ô tô. Khi đi đến khu phố 5, thị trấn Yên Ninh, huyện Yên Khánh, do đi lấn phần đƣờng ngƣời đi ngƣợc chiều, xe ô tô của Chiến đã đâm vào xe mô tô đi ngƣợc chiều. Hậu quả làm anh Đinh Xuân Lập chết tại chỗ còn chị Phạm Thị Hằng bị thƣơng đƣa đi bệnh viện cấp cứu. Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/2014/HS-ST ngày 19 tháng 8 năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Yên Khánh đã xét xử bị cáo Lâm Quang Chiến theo điểm b, đ khoản 2 Điều 202 của BLHS là chính xác và đúng pháp luật bởi lẽ bị cáo Lâm Quang Chiến đã điều khiển xe ô tô khi vừa uống rƣợu, nồng độ cồn trong hơi thở của Chiến là 1,33mg/ lít khí thở và hậu quả là anh Lập chết, chị Hằng bị tổn hại 45% sức khỏe. + Điểm c, khoản 2, Điều 202 của BLHS: Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn. “Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm” là trƣờng hợp ngƣời phạm tội do vi phạm các quy định về điều khiển phƣơng tiện giao thông đƣờng bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản, nhƣng sau đó đã bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Khoản 1 Điều 38 của Luật Giao thông đƣờng bộ quy định về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi xảy ra