SlideShare a Scribd company logo
1 of 102
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ NGỌC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ NGỌC
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Lê Văn Cảm
Hà nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Lê Thị Ngọc
MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM 7
1.1 Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái
phạm
7
1.1.1 Khái niệm tái phạm 7
1.1.2 Các đặc điểm cơ bản của tái phạm 12
1.1.3 Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 17
1.2 Các hình thức tái phạm 21
1.2.1 Tái phạm 22
1.2.2 Tái phạm nguy hiểm 22
1.2.3 Tái phạm đặc biệt nguy hiểm 23
1.3 Phân biệt tái phạm với các dạng khác của đa (nhiều) tội phạm 24
1.3.1 Phân biệt tái phạm với phạm tội nhiều lần 25
1.3.2 Phân biệt tái phạm với phạm nhiều tội 28
1.3.3 Phân biệt tái phạm với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 30
1.4 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm và sự cần thiết phải trừng phạt
nghiêm khắc đối với tái phạm
33
1.4.1 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm 33
1.4.2 Sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm 35
1.5 Quy định về tái phạm trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 36
Kết luận chương 1 43
Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÁI PHẠM TRONG PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
46
2.1 Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 46
2.1.1 Các quy định về tái phạm từ năm 1945 đến trước năm 1985 46
2.1.2 Các quy định về tái phạm từ năm 1985 đến nay 50
2.2 Thực tiễn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay
62
2.2.1 Tình hình áp dụng chế định tái phạm 62
2.2.2 Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định tái phạm
và nguyên nhân
68
Kết luận chương 2 78
Chương 3. VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TÁI PHẠM
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ HƯỚNG DẪN
ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NÀY TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
81
3.1 Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 81
3.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự
Việt Nam
81
3.1.2 Phương hướng hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự
Việt Nam
83
3.2 Vấn đề hướng dẫn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự
86
3.3 Một số giải pháp phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định
tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự
87
Kết luận chương 3 89
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt Ý nghĩa
BLHS Bộ luật Hình sự
TNHS Trách nhiệm hình sự
TANDTC Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao
TP Tái phạm
TPNH Tái phạm nguy hiểm
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan
hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Khi một hành vi đã bị Nhà nước coi là tội
phạm (biểu hiện bằng việc quy định nó là một tội danh trong luật hình sự) thì
nhất định người thực hiện hành vi ấy phải chịu sự trừng phạt. Sự trừng phạt
tội phạm bằng các chế tài hình sự - biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất của
Nhà nước là rất cần thiết nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội;
khôi phục lại công bằng, trật tự cho xã hội; răn đe, ngăn ngừa sự phát sinh
những tội phạm mới.
So với tội phạm thông thường thì tái phạm là trường hợp phạm tội thể
hiện tính nguy hiểm cho xã cao hơn bởi vì tái phạm có nghĩa là sự phạm tội
lần nữa của người trước đây đã từng phạm tội và bị kết án về hành vi phạm
tội ấy. Tính nguy hiểm không phải chỉ thể hiện ở chỗ người này thực hiện
nhiều tội phạm mà quan trọng hơn nữa là người phạm tội đã từng gánh chịu
biện pháp xử lý về hình sự, từng được cơ quan chức năng giáo dục, cải tạo
nhưng không ăn năn, hối cải. Vì vậy, tái phạm bị coi là một yếu tố đặc biệt
xấu trong nhân thân người phạm tội và được quy định là một tình tiết làm
tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội ở hầu khắp
các quốc gia trên thế giới. Không có ai có thể nghi ngờ về tính đúng đắn,
công bằng và cần thiết của đường lối xử lý nghiêm khắc hơn đối với người tái
phạm so với trường hợp phạm tội thông thường.
Nhận thức được tính nguy hiểm cao cho xã hội trong trường hợp tái
phạm và sự cần thiết phải xử lý hình sự nghiêm khắc hơn đối với người tái
phạm, nhà làm luật nước ta đã sớm quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS)
năm 1985 và tái khẳng định trong BLHS năm 1999 về tái phạm là tình tiết
tăng nặng TNHS. Ngoài ra, tái phạm cũng là tình tiết định tội hoặc định
khung tăng nặng trong nhiều quy định của hai Bộ luật này. Ngoài quy định
trong hai lần pháp điển hóa luật hình sự nói trên, Nhà nước ta cũng ban hành
2
một số văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến việc áp dụng chế định tái
phạm. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng chế định này bên cạnh những kết quả
đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập như: xác định nhầm
lẫn tái phạm, bỏ lọt tái phạm, không thống nhất về áp dụng tái phạm giữa các
cơ quan áp dụng pháp luật...
Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu
sót của các quy định pháp luật về tái phạm, tính phức tạp tự thân của trường
hợp tái phạm, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật... Tuy
vậy nhưng trên tất cả các phương diện lý luận, lập pháp cũng như thực tiễn
vấn đề này chưa được quan tâm, nghiên cứu, khắc phục, dẫn đến tình trạng
hiệu quả áp dụng của chế định tái phạm chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm.
Vì những lý do đó nên tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn Thạc sĩ Luật học của mình. Khi thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến tái phạm, góp phần hoàn
thiện chế định tái phạm trong luật hình sự Việt Nam, tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế giải
quyết vụ án hình sự ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù còn tồn tại những thiếu sót về mặt lập pháp cũng như khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng nhưng trên phương diện lý luận chế định tái
phạm vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức để tìm ra giải pháp khắc
phục toàn diện những vấn đề đó. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, công phu và đầy đủ ở cấp độ một cuốn
sách chuyên khảo, một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài này.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, tái phạm mới chỉ được
nghiên cứu chung trong chế định nhiều (đa) tội phạm với tư cách là một dạng
của chế định này. Ví dụ như được đề cập đến trong sách tham khảo “Chế định
3
nhiều tội phạm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Lê Văn Đệ xuất
bản năm 2003 bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hay được phân tích trong
mục III - Chế định nhiều (đa) tội phạm, chương IV về Tội phạm trong Sách
chuyên khảo Sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự
- Phần chung” của PGS.TSKH. Lê Văn Cảm do Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia Hà Nội xuất bản năm 2005.
Tái phạm cũng được nghiên cứu với tư cách là một trong các tình tiết tăng
nặng TNHS trong các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo chuyên ngành
luật hoặc các sách bình luận khoa học về phần chung bộ luật hình sự. Chẳng hạn
như “Giáo trình luật hình sự Phần chung” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội xuất bản năm 2001 do TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên. Hay “Giáo trình luật
hình sự Việt Nam” Tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2007
bởi tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hoặc gần đây nhất là sách “Bình luận
khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần chung” do TS.
Nguyễn Đức Mai chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2012.
Tuy nhiên, trong các sách này thường chỉ đơn thuần phân tích nội dung quy
định pháp luật hình sự thực định về tái phạm.
Tái phạm còn được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành luật như: “Hoàn thiện chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của
tác giả Nguyễn Thị Xuân (Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 năm 2001); “Những quan
điểm khác nhau khi xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của
BLHS năm 1999 và Nghị quyết số 32/1999/NQ- QH10”của tác giả Nguyễn Thị
Mai (Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 2003); “Xác định tái phạm, tái phạm
nguy hiểm trong các tội chiếm đoạt có yếu tố đã bị kết án” của tác giả Nguyễn Chí
Công (Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 năm 2004); “Xóa án tích với việc xác định
tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Tòa án nhân
dân số 23 năm 2005)... Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở cấp độ
các bài viết hẹp, đề cập đến một khía cạnh của chế định tái phạm hay một vài
trường hợp áp dụng cụ thể của chế định nay. Có thể nói rằng, cho đến nay Luận văn
4
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” là công
trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ và cũng là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống, chuyên sâu về những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên
quan đến chế định tái phạm ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Tái phạm có thể được nghiên cứu bởi nhiều chuyên ngành khoa học
khác nhau như: khoa học luật hình sự, khoa học thi hành án, tội phạm học…
Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự phạm vi nghiên cứu của luận văn tập
trung vào những vấn đề sau:
1) Về nội dung: Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái
phạm; phân tích quá trình phát triển và nội dung quy định về tái phạm trong
pháp luật hình sự Việt Nam cũng như đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng
chế định này ở nước ta, làm rõ những nguyên nhân của tình hình đó. Trên cơ
sở những nghiên cứu này, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định tái phạm
trong pháp luật nước ta và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này.
2) Về thời gian và không gian liên quan đến đối tượng nghiên cứu: Đối
với các quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm, luận văn giới hạn nghiên
cứu trong khoảng từ năm 1945 đến nay. Đối với thực tiễn áp dụng chế định
tái phạm, luận văn tổng hợp và đánh giá số liệu xét xử trên toàn quốc trong
thời gian từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành (năm 2000) đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tái
phạm, tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm
và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau:
1) Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái phạm như: xây dựng khái
niệm khoa học về tái phạm, tìm ra các đặc điểm cơ bản của tái phạm, ý nghĩa
pháp lý hình sự của chế định này; so sánh, phân biệt tái phạm với các hình thức
đa tội phạm khác, chứng tỏ sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc hơn đối
với tái phạm so với các trường hợp phạm tội thông thường; nghiên cứu tham
5
chiếu quy định trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về tái phạm.
2) Phân tích quá trình hình thành, phát triển và nội dung quy định về tái
phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay.
3) Thống kê, phân tích tình hình áp dụng chế định tái phạm trong xét xử
vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2011; đánh giá kết quả áp
dụng, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng tái phạm và nguyên
nhân của chúng cả về mặt lập pháp cũng như thực tiễn.
4) Từ kết quả nghiên cứu trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế
định tái phạm trong pháp luật hình sự nước ta, hướng dẫn áp dụng chế định này
trong thực tiễn cũng như kiến nghị một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu
quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm tái phạm nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, phương pháp tổng
hợp, đồng thời ứng dụng những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học
luật tố tụng hình sự, tội phạm học, xã hội học pháp luật... trong các công trình
của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng trung thực các số liệu thống kê của các cơ
quan áp dụng pháp luật, các sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành để làm rõ
những tri thức khoa học liên quan đến đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương như sau:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái phạm.
- Chương 2: Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng.
- Chương 3: Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình
sự Việt Nam và hướng dẫn áp dụng chế định này trong quá trình giải quyết
6
các vụ án hình sự.
Nghiên cứu về tái phạm đòi hỏi đồng thời sự am hiểu sâu sắc khoa học
pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cả những kiến thức liên
ngành về xã hội học pháp luật, tội phạm học. Nghiên cứu đề tài cũng yêu cầu
khối lượng lớn thời gian, công sức nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn
của tình hình tội phạm tái phạm. Do chưa thể đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi
đó nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận
được và xin chân thành cảm ơn các ý kiến phê bình, đóng góp của mọi độc
giả quan tâm đến luận văn!
7
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM
Để đánh giá và hoàn thiện một chế định pháp luật không có cách nào khác
hơn là nghiên cứu so sánh nội dung quy định của chế định này với những nhận
thức lý luận chuẩn mực và thực tiễn áp dụng của chính nó. Theo đó, để đánh giá
và hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) hiện nay về tái phạm,
trước tiên phải nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận về tái phạm làm cơ sở
đối sánh. Những vấn đề lý luận cơ bản nhất về tái phạm cần phải làm rõ bao
gồm: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm; tính nguy hiểm
và sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với trường hợp tái phạm.
1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái
phạm
1.1.1. Khái niệm tái phạm
Tái phạm là một tình tiết tăng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái
niệm tái phạm chưa được các nhà khoa học quan tâm xây dựng. Trong các nghiên
cứu liên quan đến tình tiết này người ta thường sử dụng định nghĩa pháp lý về tái
phạm được quy định bởi BLHS. Tuy nhiên, vì mục đích đánh giá chính quy định
của BLHS về tái phạm bao gồm định nghĩa pháp lý nêu trên nên trong nghiên
cứu này cần phải xây dựng một khái niệm chuẩn về tái phạm để làm cơ sở so
sánh.
Thuật ngữ “tái phạm” trong tiếng Anh “ricidivism” có nguồn gốc từ
“recidivus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là sự lặp lại [40; tr.1083]. Còn trong
tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa, “tái phạm” là một từ ghép Hán Việt được cấu thành
bởi hai từ “tái” và “phạm”. Trong đó “phạm” có nghĩa là “làm tổn hại tới điều
cần gìn giữ”, “mắc phải điều cần né tránh” [37; tr.1235]. Những điều cần gìn
giữ, cần né tránh đó thường được xác định bởi những quy phạm xã hội như kỷ
luật, pháp luật, đạo đức… Nói cách khác, “phạm” là làm điều không nên làm,
điều không được làm, trái với các quy phạm xã hội. Còn “tái” là “lại một lần
8
nữa”, “lần thứ hai” [37; tr.1417]. Ghép hai từ lại, tái phạm có nghĩa là lại một lần
nữa/lần thứ hai vi phạm quy tắc.
Trong thực tiễn, tái phạm có thể được sử dụng để mô tả sự lặp lại hành vi
vi phạm các loại quy tắc điều chỉnh xã hội khác nhau nhưng chủ yếu và phổ biến
nhất là được sử dụng để chỉ sự lặp lại hành vi vi phạm pháp luật.
Dưới góc độ tội phạm học, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng “tái phạm
(hay tái phạm tội) là sự phạm tội trở lại của kẻ phạm tội đã mãn hạn tù hoặc thi
hành xong hình phạt” [38; tr.683]. Trong khái niệm này tái phạm có nghĩa là tái
phạm tội, tức sự phạm tội trở lại, phạm tội lần nữa của người phải thi hành và đã
thi hành xong một hình phạt. Theo đó một hành vi phạm tội có tính chất tái phạm
khi thỏa mãn các điều kiện sau:
1) Trước đây người phạm tội đã từng phạm tội, đã bị kết án và theo bản án
kết tội đó họ phải chịu hình phạt (có thể là hình phạt tù hoặc một hình phạt nào
khác);
2) Lần phạm tội này xảy ra khi chủ thể đã thi hành xong hình phạt nói
trên.
Theo quan điểm này thì người bị kết án nhưng được miễn hình phạt hay
người bị kết án nhưng chưa thi hành hoặc chưa thi hành xong hình phạt mà phạm
tội trở lại thì không phải là tái phạm. Chúng tôi có thể đồng ý về trường hợp
người được miễn hình phạt mà sau đó phạm tội trở lại thì không coi là tái phạm
vì người được miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích, không có án tích,
nghĩa là trước pháp luật người đó chưa từng phạm tội. Như vậy, xét trên phương
diện thực tế việc một người phạm tội sau khi được miễn hình phạt là phạm tội lần
nữa nhưng về mặt pháp lý thì người đó được coi như phạm tội lần đầu, không
phải là tái phạm. Nhưng trường hợp người đã bị kết án, phải chịu hình phạt, khi
chưa thi hành hay chưa thi hành xong hình phạt đã phạm tội trở lại thì không
giống như vậy. Khi bản án kết tội một người có hiệu lực pháp luật thì bất kể
người đó đã thi hành hình phạt hay chưa đều bị coi là người phạm tội. Về mặt
nhân thân người đó có dấu hiệu đã từng phạm tội cho đến khi nào được xóa án
9
tích. Người đã từng phạm tội mà sau đó phạm tội lần nữa thì có nghĩa là tái phạm
mà không liên quan đến việc người đó đã chấp hành xong hình phạt hay chưa. Ví
dụ: A bị kết án tù do phạm tội cướp, trong thời gian ở trại cải tạo A lại phạm tội
cố ý gây thương tích cho bạn tù. Hành vi phạm tội cố ý gây thương tích dứt
khoát phải là hành vi có tính chất tái phạm. Hoặc B phạm tội cho vay nặng lãi bị
Tòa án tuyên hình phạt tiền. Bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng hình phạt tiền
đối với B chưa được thi hành thì B lại bị bắt vì cho vay nặng lãi. Hành vi phạm
tội lần sau của B dứt khoát phải là hành vi tái phạm mặc dù B chưa thi hành xong
hình phạt đối với hành vi phạm tội lần trước. Do vậy, theo chúng tôi việc lấy dấu
hiệu đã chấp hành xong hình phạt để làm căn cứ xác định tái phạm là không
chính xác.
Tương tự với quan điểm của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, nhà tội phạm học Mỹ
Michael D.Maltz cho rằng: “Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực
hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp
tục phạm tội” [39; tr.54]. Quan điểm này thậm chí còn hẹp hơn quan điểm trên vì theo
Maltz: chỉ người đã từng phạm tội, bị tuyên hình phạt tù, đã thi hành xong hình phạt
tù mà thực hiện tội phạm lần nữa mới là tái phạm. Tức là hành vi được coi là tái phạm
khi thỏa mãn hai điều kiện:
1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội, đã bị kết án tù vì hành vi phạm
tội đó;
2) Lần phạm tội này được thực hiện khi người đó đã thi hành xong hình phạt tù
nói trên.
Theo đó những người đã bị kết án nhưng chỉ phải chịu hình phạt khác, không
phải hình phạt tù hoặc người bị kết án phạt tù nhưng chưa thi hành xong mà lại phạm
tội mới thì không phải là tái phạm. Việc lấy dấu hiệu thi hành xong hình phạt (mà ở
đây còn chỉ gồm hình phạt tù) để xác định tái phạm rõ ràng là chưa hợp lý như đã
phân tích ở trên.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm tái phạm lần đầu tiên
được nhắc đến ở cuốn “Đại Nam hình pháp” của TS. Lê Trung Chánh xuất bản
10
năm 1943: “Khi nào đã làm một điều phi vi, Tòa án đã xét xử xong rồi, và án đã
chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi, mà lại làm điều phi vi nữa thì mới
được gọi là tái phạm” [10; tr.102].
Khái niệm này mô tả tái phạm rất đơn giản, rõ ràng, đi thẳng vào bản chất
của tái phạm là sự phạm tội lần nữa. Tuy đơn giản nhưng trong khái niệm này
các điều kiện của tái phạm được xác định một cách chặt chẽ gồm:
1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội (đã làm một điều phi vi);
2) Tội phạm mà người ấy thực hiện trước đây đã bị xét xử (Tòa án đã xét
xử xong rồi) và bản án đã có hiệu lực pháp luật (án đã chung thẩm rồi, đã thành
bất canh cải rồi);
3) Tội phạm lần này được thực hiện sau khi bản án đối với tội phạm trước
đây có hiệu lực.
Những điều kiện để xác định tái phạm ở đây được cho là chặt chẽ bởi vì
theo nguyên nghĩa của tái phạm là sự phạm tội lần nữa thì dứt khoát người tái
phạm phải là người đã từng phạm tội. Mà một người chỉ bị coi là phạm tội khi
bị có bản án kết tội có hiệu lực của tòa án có thẩm quyền. Đây là nguyên tắc
pháp luật được nhân loại tiến bộ thừa nhận chung. Do vậy, Tiến sĩ Lê Trung
Chánh cho rằng tái phạm là việc một người trước kia đã phạm tội, đã bị xét xử
và bản án kết tội người đó đã có hiệu lực pháp luật mà nay lại phạm tội mới.
Tuy nhiên, có một vấn đề mà tác giả chưa đề cập đến, đó là điều kiện về án
tích. Trường hợp người đã từng phạm tội, đã bị kết án và bản án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng sau khi thi hành bản án họ đã được xóa án tích rồi mới phạm tội
lần nữa. Rõ ràng khi đã được xóa án tích thì trước pháp luật người đó chưa từng
phạm tội cho dù thực tế trước đó đã phạm tội, đã bị kết án. Nhưng sự thiếu sót
này không phải do tác giả tư duy phiến diện mà do ở thời đại của ông trong khoa
học pháp lý và pháp luật hình sự Việt Nam chưa hề có ý niệm về án tích và xóa
án tích.
Bên cạnh đó, cách diễn đạt trong khái niệm của TS. Lê Trung Chánh là văn
phong nói, các thuật ngữ sử dụng khá nôm na và có nhiều sự lạc hậu so với khoa
11
học pháp lý hiện đại. Chẳng hạn như: “đã làm một điều phi vi” (nghĩa là đã từng
phạm một tội); “Tòa án đã xét xử xong rồi” (nghĩa là đã bị Tòa án xét xử về tội
đó); “và án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi” (nghĩa là bản án kết tội
đã có hiệu lực pháp luật); “mà lại làm điều phi vi nữa” (nghĩa là lại phạm tội
mới).
Có quan điểm gần tương đồng với TS. Lê Trung Chánh, tác giả Đàm
Trung Mộc trong cuốn “Hình luật tập giảng” xuất bản năm 1961 đưa ra khái
niệm: “Tái phạm là tình trạng một người trước đã bị kết án về một tội, về sau
lại phạm và bị truy tố nữa” [20; tr.82]. Cũng cho rằng tái phạm là hành vi
phạm tội mới của người trước kia đã từng phạm một tội và đã bị kết án về tội
đó nhưng trong khái niệm này không đưa ra điều kiện bản án kết tội đó phải
đã có hiệu lực pháp luật khi chủ thể thực hiện tội phạm mới. Khi bản án kết
tội một người chưa có hiệu lực pháp luật nghĩa là người đó chưa có tội; người
chưa có tội mà phạm tội thì không phải là tái phạm. Do vậy, tuy quan điểm
gần nhau nhưng về điều kiện của tái phạm thì khái niệm của tác giả Đàm
Trung Mộc ít chặt chẽ hơn khái niệm của TS. Lê Trung Chánh phân tích ở
trên. Bên cạnh đó, tác giả này cũng không đề cập đến điều kiện người phạm
tội chưa được xóa án tích của lần phạm tội trước.
Tóm lại, tái phạm (tái phạm tội) phải là hành vi phạm tội lần nữa của người đã
từng phạm tội. Người đã từng phạm tội ở đây là dấu hiệu về mặt pháp lý chứ không
phải thực tế. Người đã từng phạm tội trên phương diện pháp lý hình sự là người đã bị
kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền và chưa được
xóa án tích. Theo đó, một hành vi phạm tội bị coi là tái phạm khi đáp ứng các điều
kiện sau:
Thứ nhất, người phạm tội là người đã từng bị kết án về một tội phạm nào đó
theo quy định pháp luật và bản án kết tội ấy phải đã có hiệu lực pháp luật;
Thứ hai, tội phạm đang xét xử phải được thực hiện sau khi bản án kết tội lần
trước có hiệu lực pháp luật;
Thứ ba, bản án kết tội lần trước để lại án tích, đến thời điểm thực hiện tội phạm
12
mới này án tích đó vẫn chưa được xóa.
Chỉ khi nào đáp ứng những điều kiện chung đó một hành vi phạm tội mới
bị coi là có tính chất tái phạm. Tất nhiên, phải khẳng định đây là những điều kiện
chung về mặt lý luận phản ánh bản chất của hành vi tái phạm còn tình tiết tái
phạm trong pháp luật mỗi quốc gia được quy định với những điều kiện, dấu hiệu
riêng theo quan điểm của nhà lập pháp. Ví dụ như, có quan điểm coi mọi hành vi
phạm tội lần nữa của người đã từng phạm tội là tái phạm nhưng có quan điểm chỉ
coi là tái phạm khi tội phạm mới được thực hiện với lỗi cố ý. Hoặc có quan điểm
coi cho rằng ngoài những điều kiện chung, tái phạm còn được xác định trên căn
cứ là loại hình phạt, mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu ở lần phạm
tội cũ hoặc lần tái phạm, hoặc cả hai lần…
Như vậy, về mặt lý luận, một cách rõ ràng nhất: Tái phạm là trường hợp
của người đã từng bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, chưa được xóa
án tích mà lại phạm tội lần nữa.
Pháp luật hình sự thực định có thể thêm những điều kiện, dấu hiệu khác
khi xác định tái phạm theo quan điểm của các nhà làm luật nhưng dứt khoát phải
bảo đảm những điều kiện chung có trong khái niệm này thì mới phản án đúng
bản chất của tái phạm.
1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tái phạm
Tái phạm là một trong các tình tiết tăng nặng TNHS, nó mang những đặc
điểm chung của các tình tiết tăng nặng TNHS và cũng có những đặc điểm riêng
làm cho nó khác biệt với các tình tiết tăng nặng TNHS khác.
Đặc điểm thứ nhất: với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS, tái phạm
phải được quy định trong pháp luật hình sự thực định. Việc áp dụng các tình tiết
tăng nặng TNHS, bao gồm tái phạm, sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý theo hướng bất
lợi hơn cho người bị xét xử nên việc xác định và áp dụng chúng không thể tùy
tiện. Để buộc tội hay tăng nặng biện pháp xử phạt đối với người phạm tội luôn
luôn phải căn cứ trên pháp luật thực định trong khi để gỡ tội hay giảm nhẹ biện
pháp xử phạt cho người phạm tội Tòa án, ngoài pháp luật thực định, có thể dựa
13
trên những căn cứ hợp lý khác. Đây là một nguyên tắc pháp luật quốc tế đã được
thừa nhận chung. Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc
nêu: “Không ai bị kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách không bị coi là
một tội hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia hay quốc tế vào thời điểm
đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối với một tội hình sự
nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ cho mức độ phạm tội cụ thể
như vậy”.
Điều 15 Công ước của Liên Hợp quốc về những quyền chính trị, dân sự
năm 1966 tiếp tục khẳng định: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do
những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội
hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng hồi đó; mà cũng
không bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời
gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt khoan hồng hơn
chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp”.
Do vậy, tái phạm với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS “nhất
thiết phải được các nhà làm luật ghi nhận chỉ trong pháp luật hình sự thực
định (mà ở nước ta là trong Bộ luật hình sự năm 1999), chứ không thể trong các
văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể do Tòa án tự xem xét để cân nhắc (như
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự)” [35; tr.36].
Đặc điểm thứ hai: tình tiết tái phạm chỉ xuất hiện (có mặt) trong vụ án cụ
thể, đối với người phạm tội cụ thể chứ không phải là yếu tố bắt buộc phải xem
xét ở mọi vụ án, đối với mọi người phạm tội. Các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm là đặc điểm chung về mặt lập pháp, là các thuộc tính điển hình và chủ yếu
hơn cả, đặc trưng cho tội phạm ấy [7; tr.334] phải xem xét đối với mọi hành vi
phạm tội và được áp dụng ngang nhau đối với mọi cá nhân phạm tội. Ngược lại,
tái phạm nói riêng và các tình tiết tăng nặng TNHS nói chung không có đặc tính
điển hình, phổ biến như vậy. Không phải vụ phạm tội nào cũng có tình tiết tái
phạm và ngay trong những vụ phạm tội có tình tiết tái phạm thì cũng không phải
tất cả những người phạm tội đó đều tái phạm. Ví dụ A và B cùng nhau đi cướp, A
14
có một tiền án về cướp còn B phạm tội lần đầu thì chỉ có A phải chịu tình tiết
tăng nặng TNHS do tái phạm, không thể áp dụng chung tình tiết đó cho B dù họ
cùng bị xem xét TNHS về một cấu thành tội phạm.
Đặc điểm thứ ba: sự có mặt của tình tiết tái phạm không làm thay đổi bản
chất của tội phạm mà chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội đó và tác động đến biện pháp TNHS sẽ áp dụng theo hướng nghiêm
khắc hơn (nhưng vẫn trong phạm vi cấu thành tội phạm tương ứng). Nếu cấu
thành tội phạm là công thức gồm những thành phần bắt buộc để làm nên một
món ăn thì tái phạm chỉ là gia vị gây ảnh hưởng đến độ đậm nhạt của món ăn đó
chứ không làm nó trở thành món ăn khác. Ví dụ một người đang mang tiền án về
tội cướp tài sản nay lại phạm tội trộm tài sản thì hành vi trộm tài sản đó có tính
chất tái phạm nhưng nó vẫn được định tội danh là trộm tài sản chứ không phải
cướp tài sản hay bất kỳ tội danh nào khác. Tình tiết tái phạm chỉ làm cho hành vi
phạm tội có tính nguy hiểm hơn và người phạm tội bị áp dụng mức hình phạt
nghiêm khắc hơn nhưng chỉ trong phạm vi của cấu thành tội phạm tương ứng.
Tức là người phạm tội phải chịu mức cao của khung hình phạt nhưng cũng không
vượt qua mức tối đa mà khung hình phạt đã quy định và không được là loại hình
phạt khác mà khung hình phạt không quy định.
Đặc điểm thứ tư: Trong trường hợp tái phạm đã được quy định làm yếu
tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với một tội phạm tương ứng cụ thể thì
nó không thể được xem xét với tư cách là tình tiết tăng nặng TNHS nữa.
Khi tái phạm là một tình tiết định tội của một tội phạm cụ thể có nghĩa là
nó thuộc yếu tố cấu thành bắt buộc của tội phạm ấy. Sự có mặt hay không có mặt
của nó khi đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi,
khiến hành vi bị coi là một tội phạm hoặc không phải là một tội phạm. Tình tiết
làm thay đổi tính chất (nguy hiểm) của hành vi đó sẽ không được sử dụng như
một tình tiết làm thay đổi mức độ (nguy hiểm) nữa vì nguyên tắc Không ai bị đưa
ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm. Ví dụ: theo Điều
248 của BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định về tội đánh bạc thì để bị
15
coi là có tội trong trường hợp giá trị đánh bạc dưới 2.000.000 đồng, người phạm
tội phải đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm. Như vậy tái phạm là yếu tố cấu thành bắt buộc để định tội đối
với người đánh bạc có giá trị thấp hơn 2.000.000 đồng. Tòa án khi xét xử không
thể tiếp tục lấy tình tiết tái phạm đó làm căn cứ quyết định hình phạt theo hướng
tăng nặng đối với người phạm tội này.
Tương tự như vậy, trường hợp tái phạm là tình tiết được luật quy định với
tính chất là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm thì không thể coi
nó là tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Khi được quy định là tình tiết định khung
tăng nặng có nghĩa tái phạm là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức hình phạt đối
với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn. Khi đó Tòa án
không được phép tiếp tục xử dụng tái phạm làm căn cứ để quyết định chọn hình
phạt cụ thể trong khung hình phạt này. Ví dụ khoản 2 Điều 161 BLHS Việt Nam
năm 1999 quy định phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt
tù từ sáu tháng đến ba năm là khung hình phạt tăng nặng của tội trốn thuế, áp
dụng khi giá trị trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 600.000.000 đồng hoặc
giá trị trốn thuế dưới 300.000.000 đồng những người phạm tội phải có dấu hiệu
tái phạm tội trốn thuế. Theo đó khi xét xử người trốn thuế với giá trị dưới
300.000.000 đồng (tất nhiên phải trên 100.000.000 đồng theo cấu thành cơ bản
của tội này) mà có dấu hiệu tái phạm tội trốn thuế thì có thể áp dụng khung hình
phạt từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba
năm. Sau đó, Tòa án không được tiếp tục dùng tình tiết tái phạm để cân nhắc mức
phạt cao trong khung được áp dụng nói trên vì không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị
trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm.
Tóm lại, khi tái phạm đã là dấu hiệu định tội hay định khung hình phạt thì
không được xem xét nó như một tình tiết tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Nguyên
tắc này cũng được ghi nhận tại khoản 2 Điều 48 BLHS Việt Nam năm 1999.
Đặc điểm thứ năm: Tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội. Đây là đặc điểm riêng có của tái phạm so với các tình tiết
16
tăng nặng TNHS khác.
Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết tăng nặng TNHS được chia thành
ba nhóm khác nhau: 1) Nhóm thứ nhất là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về
phương diện khách quan. Đây là những tình tiết thuộc về các dấu hiệu bên ngoài
của tội phạm (mặt khách quan của tội phạm) như: “phạm tội có tổ chức”; “xâm
phạm tài sản Nhà nước”; “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng
hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn
cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm
tội”… 2) Nhóm thứ hai là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về phương
diện chủ quan. Nhóm này gồm những tình tiết phản ánh quá trình hoạt động, diễn
biến tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội (mặt chủ quan của
tội phạm). Ví dụ: tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn”; “cố tình thực hiện tội
phạm đến cùng”... 3) Nhóm hứ ba là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân
thân người phạm tội. Các tình tiết này phản ánh những đặc điểm, đặc tính xã hội
khác nhau của một con người cụ thể với tư cách là chủ thể của tội phạm. Chẳng hạn
như: tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội”; “phạm tội nhiều lần”; “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”… [35; tr.36-42].
Là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội, tái
phạm không những làm tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà cả bản
thân người phạm tội cũng trở nên nguy hiểm hơn đối với xã hội. Cũng vì là một
đặc điểm thuộc nhân thân nên tái phạm không chỉ ảnh hưởng đến tính nguy hiểm
của hành vi phạm tội, mà còn thể hiện khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội
trong môi trường sống sau này... Người phạm tội mang trên mình án tích chứng
tỏ đã từng phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hình sự nhưng không khiếp
sợ hay ăn năn, hối cải mà vẫn tái phạm thì chứng tỏ đó là người ít có khả năng
giáo dục, cải tạo được.
Đặc điểm thứ sáu: Căn cứ xác định tái phạm không liên quan đến tội phạm
đang xem xét, mà thuộc về lý lịch (quá khứ) của người phạm tội. Để xác định một
hành vi phạm tội có phải tái phạm hay không thì không thể căn cứ vào diễn biến,
17
hành vi, hậu quả, công cụ, phương tiện, khách thể, đối tượng xâm hại, ý thức chủ
quan khi phạm tội… mà lại căn cứ trên lý lịch tư pháp của người phạm tội - một
tài liệu không liên quan trực tiếp đến sự việc phạm tội. Tái phạm chỉ được xác
định khi người phạm tội có tiền án, tức là trong lý lịch tư pháp của người ấy có
dấu tích của bản án kết tội mà đến khi phạm tội lần này dấu tích ấy vẫn chưa
được xóa bỏ. Điều đó có nghĩa, căn cứ của tái phạm có sẵn từ quá khứ của người
tái phạm chứ không phát sinh trong quá trình thực hiện tội phạm.
1.1.3. Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm
Với đặc điểm là một tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, có ảnh
hưởng làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tái phạm cần phải
được quy định trong pháp luật hình sự với tư cách là một tình tiết tăng nặng
TNHS. Bên cạnh đó, trong một số tội phạm cụ thể, tái phạm còn có thể được sử
dụng làm tình tiết định tội danh hoặc định khung hình phạt. Những quy định về tái
phạm đó có ý nghĩa pháp lý hình sự hết sức quan trọng:
Thứ nhất, việc ghi nhận tái phạm với tư cách một tình tiết tăng nặng TNHS
phản ánh chính sách hình sự nghiêm khắc và công bằng của Nhà nước. Coi tái
phạm là tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện thái độ lên án gay gắt của nhà nước
đối với người tái phạm. Người tái phạm cần thiết phải bị trừng phạt nghiêm khắc
hơn người phạm tội lần đầu bởi vì người tái phạm đã từng phạm tội, đã từng trải
qua các biện pháp trừng phạt, giáo dục, cải tạo do hành vi phạm tội trước đây mà
vẫn tiếp tục phạm tội chứng tỏ tính ngoan cố, không chịu phục thiện trong nhân
cách của họ. Những con người ấy đem đến mối nguy hiểm cao cho xã hội, họ
phải gánh chịu biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn trường hợp phạm tội lần đầu là
lẽ công bằng.
Thứ hai, tình tiết tái phạm là một trong những căn cứ phân hóa TNHS.
Theo các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam: “Căn cứ để tiến hành phân hoá
TNHS được hiểu là những tiêu chí giúp nhà làm luật xác định được những nhóm
trường hợp phạm tội khác nhau mà xuất phát từ hỏi của các nguyên tắc cơ bản
của luật hình sự như nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nhà làm luật
18
cần quy định đối với từng nhóm “liều lượng” TNHS phù hợp. Khi bàn đến vấn đề
TNHS, các nhà làm luật bao giờ cũng phải tính đến tính chất, mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm và những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Nói cách
khác, đây chính là các căn cứ của việc phân hóa TNHS.” [8; tr.6]
Như vậy, các đặc điểm nhân thân người phạm tội là một trong những căn
cứ phân hóa TNHS. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội bao gồm cả những
đặc điểm làm giảm bớt tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng
cải tạo cao của người phạm tội (phạm tội lần đầu, phạm tội do trình độ lạc hậu, do
trình độ nghiệp vụ non kém, tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công
chuộc tội hoặc cải tạo tốt, là người chưa thành niên…); đồmg thời gồm cả những
đặc điểm làm gia tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và phản ánh tình
trạng khó cải tạo của người phạm tội (như: phạm tội nhiều lần, đã có tiền sự, tái
phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp...). Trong các
đặc điểm về nhân thân nêu trên, tái phạm là đặc điểm làm gia tăng tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nên nó là căn cứ để áp dụng đường lối xử
lý nghiêm khắc, cứng rắn, không khoan nhượng với người phạm tội. Nói một
cách khác, sự có mặt của tình tiết tái phạm khiến cho hành vi phạm tội bị phân
hóa sang nhóm cần nghiêm trị chứ không thuộc nhóm hành vi được đối xử khoan
hồng, giảm nhẹ.
Thứ ba, tái phạm là một trong những căn cứ quyết định hình phạt.
Để hình phạt áp dụng với người phạm tội đạt được mục đích mang lại sự
công bằng cho xã hội; giáo dục, cải tạo, răn đe người phạm tội; giáo dục, răn đe
chung với xã hội thì hoạt động quyết định hình phạt phải căn cứ đồng thời trên:
1) quy định của BLHS; 2) tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; 3) nhân thân người phạm tội; 4) các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự.
Là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội nên tái
phạm là một trong những căn cứ để Tòa án cân nhắc mức hình phạt (theo hướng
nghiêm khắc hơn). Tuy nhiên, tình tiết tái phạm chỉ làm thay đổi “lượng” “mức”
19
hình phạt được quyết định trong phạm vi một khung hình phạt tương ứng được
quy định cho hành vi phạm tội ấy. Ví dụ như khung hình phạt tương ứng đối với
tội phạm đang xét xử được quy định là từ 12 đến 18 năm tù; nếu có tình tiết tái
phạm Tòa án có thể quyết định hình phạt trong khoảng nhiều hơn 12 năm tù, gần
đến và tối đa là 18 năm tù chứ không thể trên 18 năm tù. Điều này có thể hình
dung giống như khung hình phạt là một chiếc bình đựng nước có dung tích cố
định, người đổ nước vào là Tòa án, lượng nước chính là lượng hình phạt, Tòa án
không thể vì có tình tiết tái phạm hay tình tiết tăng nặng TNHS nào khác mà đổ
vào bình lượng nước lớn hơn dung tích của nó được. Nguyên lý này đảm bảo cho
tính linh hoạt của hoạt động quyết định hình phạt nhằm phù hợp với sự biểu hiện
đa dạng của tội phạm trong thực tế để hình phạt đạt được hiệu quả cao nhất
nhưng vẫn có sự khống chế, tránh tùy tiện khi quyết định hình phạt.
Với những trường hợp tái phạm được quy định là tình tiết định khung hình
phạt như phân tích trong mục 1.1.2 trên thì nó là căn cứ để quyết định áp dụng
khung hình phạt ấy chứ không được sử dụng làm căn cứ cân nhắc mức, lượng
hình phạt trong khung được áp dụng nữa.
Thứ tư, tái phạm trong một số trường hợp là căn cứ định tội danh.
Căn cứ của định tội danh là cấu thành tội phạm [6; tr.44] mà trong một số
trường hợp cụ thể tái phạm có thể có vai trò là một dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Đó là trường hợp của những cấu thành tội phạm mà trong đó dấu hiệu chủ thể
ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực TNHS còn phải có dấu hiệu đặc
biệt là tái phạm. Những cấu thành này thường là cấu thành có yếu tố thuộc mặt
khách quan được định lượng, nếu không đến “lượng” đó thì hành vi chưa bị coi là
nguy hiểm cho xã hội, chưa bị coi là tội phạm nhưng vì sự có mặt của tình tiết tái
phạm lại làm gia tăng tính nguy hiểm khiến hành vi đó trở nên nguy hiểm cho xã
hội và bị coi là tội phạm. Ví dụ như trường hợp hành vi đánh bạc với giá trị dưới
2.000.000 đồng đã phân tích ở mục 1.1.2 trên đây. Hoặc trường hợp của tội trộm
tài sản: các nhà làm luật Việt Nam hiện nay coi hành vi trộm tài sản có giá trị dưới
2.000.000 đồng là có tính nguy hiểm không đáng kể, không bị coi là tội phạm
20
nhưng nếu hành vi này được thực hiện bởi người đã từng bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án
tích thì tính nguy hiểm của nó gia tăng và nhà làm luật coi đó là hành vi phạm tội
trộm tài sản (khi thỏa mãn cả các dấu hiệu khác của tội này). Như vậy, tái phạm
(về hành vi chiếm đoạt tài sản) là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của tội trộm tài sản
trong trường hợp giá trị tài sản lấy trộm không đến 2.000.000 đồng và người phạm
tội chưa có tiền sự (chưa bị xử phạt hành chính) về hành vi chiếm đoạt tài sản. Với
mô hình như vậy, tình tiết tái phạm được xác định như một dấu hiệu định tội trong
tổng cộng 46 tội phạm của BLHS Việt Nam hiện nay.
Thứ năm, tái phạm là thước đo hiệu quả của hình phạt.
Một trong bốn mục đích cơ bản của hình phạt là “cải tạo và giáo dục người
bị kết án, đồng thời ngăn ngừa họ phạm tội mới” [7; tr.687]. Theo đó, sự xuất
hiện của tái phạm phản ánh tình trạng kém hiệu quả, “thất bại” của hình phạt đã
áp dụng. Người tái phạm đã từng bị xử lý về hình sự, từng phải gánh chịu hình
phạt mà vẫn không ăn năn, hối cải hay e sợ, lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ hình
phạt trước đây, không đủ sức răn đe, cải tạo họ. Tình trạng đó đòi hỏi phải áp
dụng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nữa. Chính vì thế, sự có mặt của tình tiết
tái phạm làm cho hình phạt áp dụng đối với bị cáo thay đổi theo chiều hướng
tăng nặng.
Tóm lại, qua những nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái
phạm ở trên có thể kết luận: xét về bản chất tái phạm là tình tiết làm thay
đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm
tội đó theo hướng nguy hiểm hơn, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa
án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn, áp
dụng mức hình phạt cao hơn trong phạm vi một khung hình phạt tương ứng.
1.2. Các hình thức tái phạm
Các hình thức của tái phạm chính là các cách thức biểu hiện của tái phạm
hay các dạng tái phạm. Tái phạm là tình tiết mà sự có mặt của nó trong vụ phạm
tội làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Theo đó các hình thức
21
tái phạm chính là các biểu hiện khác nhau về mức độ nguy hiểm của tái phạm.
Việc xác định các hình thức tái phạm khác nhau chính là cơ sở để phân hóa
TNHS, cá thể hóa TNHS. Nó vừa đảm bảo tính công bằng vừa tương ứng với sự
phân hóa giữa các loại tội phạm. Hành vi tái phạm loại tội nghiêm trọng chắc
chắn phải bị xử lý nghiêm khắc hơn hành vi tái phạm loại tội ít nghiêm trọng.
Bên cạnh đó tính nguy hiểm của tái phạm còn được gia tăng bởi số lần phạm
tội hoặc hình thức lỗi của các lần phạm tội (bao gồm cả lần phạm tội cũ và lần tái
phạm). Vậy nên, về mặt lý luận cũng như trong pháp luật thực định của các nước, tái
phạm thường được chia thành các hình thức khác nhau dựa trên mức độ nguy hiểm.
Cách phân chia đơn giản là quy định một hình thức tái phạm chung đáp ứng các
điều kiện cơ bản của tái phạm sau đó quy định các hình thức tái phạm có tính nguy
hiểm cao hơn trên cơ sở nâng cao các điều kiện về loại tội phạm, hình thức lỗi hoặc
khung hình phạt đối với tội phạm. Bằng cách đó, pháp luật hình sự Việt Nam mới
chỉ ghi nhận hai hình thức là tái phạm và tái phạm nguy hiểm nhưng một số nước
khác trên thế giới còn quy định hình thức thứ ba nữa là tái phạm đặc biệt nguy hiểm
(xem cụ thể ở mục 1.5 dưới đây).
1.2.1. Tái phạm
Về mặt lý luận, như đã chỉ ra ở trên, tái phạm tối thiểu phải thỏa mãn ba điều
kiện: 1) trước khi phạm tội này người phạm tội đã từng bị Toàn án kết tội; 2) bản án
kết tội đó đã có hiệu lực pháp luật và để lại án tích; 3) án tích chưa được xóa vào thời
điểm phạm tội mới. Tuy nhiên, tái phạm là tình tiết làm tăng nặng biện pháp TNHS
áp dụng với người phạm tội nên nhà làm luật chỉ xác định là tái phạm khi cho rằng
tính nguy hiểm của hành vi thật sự đáng kể, thật sự cao hơn bình thường, chứ không
phải cứ đáp ứng những điều lý luận trên thì đương nhiên quy định là tái phạm. Chính
vì lẽ đó nên quy định về tái phạm trong pháp luật các nước trên thế giới không hoàn
toàn giống nhau bởi sự nhận thức, đánh giá về mức độ nguy hiểm của hành vi tái
phạm ở các nhà làm luật là khác nhau. Ví dụ như ở Thụy Điển điều kiện xác định tái
phạm ngoài vấn đề cốt lõi là có hai lần phạm tội trở lên còn liên quan đến lượng hình
phạt (mà phải là hình phạt tù) áp dụng với các lần phạm tội đó. Nếu lượng hình phạt
22
không đến mức luật định thì không phải là tái phạm. Ở Trung Quốc hoặc Lào ngoài
điều kiện có hai lần phạm tội và loại hình phạt đối với hai lần phạm tội đó còn điều
kiện về khoảng thời gian từ khi chấp hành xong hình phạt cũ đến khi phạm tội mới
(Xem cụ thể ở phần 1.5 dưới đây). Ở Việt Nam, các điều kiện của tái phạm lại gồm
loại tội, hình thức lỗi và án tích (mà luận văn sẽ phân tích ở chương sau)… Trên cơ sở
quy định pháp luật hình sự nước mình, Tòa án chỉ được áp dụng tình tiết tái phạm để
xem xét TNHS của người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện luật định.
Tóm lại: Tái phạm (hay tái phạm chung) là hình thức tái phạm đáp ứng những
điều kiện cơ bản của chế định tái phạm trong pháp luật hình sự thực định.
1.2.2. Tái phạm nguy hiểm
Nếu như tái phạm chung bị áp dụng đường lối xử lý nghiêm khắc vì tính
nguy hiểm cao đáng kể của nó thì tái phạm nguy hiểm là trường hợp tái phạm có
tính nguy hiểm rất cao. Cũng có quốc gia thừa nhận trường hợp này mà cũng có
quốc gia chỉ quy định tái phạm chung. Việc xác định tái phạm nguy hiểm thường
dựa trên cơ sở những điều kiện đã gia tăng so với điều kiện xác định tái phạm
chung. Những điều kiện gia tăng đó có thể là về loại tội, về hình thức lỗi và về số
lần phạm tội. Ví dụ như trên cơ sở tái phạm chung là hành vi cố ý phạm tội bất
kỳ khi có một án tích chưa được xóa thì tái phạm nguy hiểm có thể là cố ý phạm
tội rất nghiêm trọng khi đang mang tiền án. Hoặc trên cơ sở tái phạm chung
phạm tội bất kỳ nào đó khi có một án tích chưa được xóa thì tái phạm nguy hiểm
có thể là phạm tội do cố ý khi đang mang tiền án. Hoặc cách khác như trên cở tái
phạm là bị kết án lần thứ hai thì tái phạm nguy hiểm có thể là bị kết án lần thứ ba,
là đã tái phạm một lần nay lại phạm tội… Dù bằng cách xác định nào đi chăng
nữa, tái phạm nguy hiểm phải thể hiện được nó là hình thức tái phạm có tính
nguy hiểm rất cao và tính nguy hiểm ấy rõ rệt là cao hơn tái phạm chung.
Tựu chung lại: Tái phạm nguy hiểm là hình thức tái phạm có tính nguy
hiểm rất cao mà để xác định nó phải thỏa mãn các điều kiện luật định có tính gia
tăng so với tái phạm chung.
1.2.3. Tái phạm đặc biệt nguy hiểm
23
Tương tự như tái phạm nguy hiểm, tái phạm đặc biệt nguy hiểm là một hình
thức biểu hiện khác của tái phạm nhưng mức độ nguy hiểm của nó đặc biệt cao so
với hai hình thức trước. Tái phạm nguy hiểm dứt khoát phải thỏa mãn các điều
kiện chung của tái phạm theo quy định. Ngoài ra nó còn phải thỏa mãn các điều
kiện phản ánh tính đặc biệt nguy hiểm của mình mà các điều kiện ấy không còn
cách xác định nào khác hơn là bằng việc gia tăng các điều kiện của hình thức tái
phạm nguy hiểm. Ví dụ như trên cơ sở tái phạm nguy hiểm, tái phạm đặc biệt nguy
hiểm có thể được xác định theo các mô hình sau:
Loại tái phạm Loại tội đã bị kết án Loại tội đang bị xét xử
Tái phạm
nguy hiểm
Tội bất kỳ do cố ý
Tội rất nghiêm trọng do vô ý
Tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý
Tái phạm đặc
biệt nguy hiểm
Tội rất nghiêm trọng
Tội rất nghiêm trọng do cố ý
Tội đặc biệt nguy hiểm do cố ý
Tương tự như vậy, trên cơ sở tái phạm nguy hiểm là bị kết án lần thứ ba thì
tái phạm nguy hiểm có thể là bị kết án lần thứ tư…
Các nhà làm luật có thể sử dụng cách gia tăng một trong các điều kiện hoặc
phối hợp các điều kiện khác nhau để xác định tái phạm đặc biệt nguy hiểm nhưng
dù sao tái phạm đặc biệt nguy hiểm cũng phải là hình thức có tính nguy hiểm đặc
biệt cao và phải nguy hiểm hơn một cách rõ rệt so với tái phạm nguy hiểm. Như
vậy, tái phạm đặc biệt nguy hiểm là hình thức tái phạm có tính nguy hiểm đặc
biệt cao mà để xác định nó phải thỏa mãn các điều kiện luật định trên cơ sở gia
24
tăng các điều kiện của tái phạm nguy hiểm.
1.3. Phân biệt tái phạm với các dạng khác của đa (nhiều) tội phạm
Là một trong các dạng của đa (nhiều) tội phạm nên bản chất của tái phạm
chỉ được hiểu chính xác và đầy đủ khi phân biệt rõ với các dạng còn lại của đa tội
phạm.
Về các dạng biểu hiện hay các hình thức của chế định đa tội phạm trong
khoa học hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm
các dạng đa tội phạm theo luật hình sự Việt Nam gồm có bốn dạng là: phạm tội
nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm [7;
tr.390]. Trong khi đó, TS. Lê Văn Đệ lại cho rằng chỉ có ba dạng nhiều tội phạm
là: phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội và tái phạm, tái phạm nguy hiểm [12;
tr.36]. TS. Lê Văn Đệ không cho phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một
dạng đa tội phạm độc lập mà là biểu hiện đặc biệt của phạm tội nhiều lần. Chúng
tôi không tán đồng quan điểm đó vì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có
những đặc điểm khác với phạm tội nhiều lần, khác với phạm nhiều tội và tái
phạm (sẽ phân tích sau đây) nên nó cần được nghiên cứu riêng với tư cách một
dạng đa tội phạm. Chúng tôi nhất trí với GS.TSKH. Lê Văn Cảm về việc coi tái
phạm nguy hiểm là một hình thức biểu hiện của tái phạm nên tên gọi của dạng đa
tội phạm này phải là “tái phạm” chứ không phải “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”.
Theo đó, quan điểm cho rằng đa tội phạm có bốn dạng: phạm tội nhiều lần, phạm
nhiều tội, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm là chính xác. Trên cơ
sở quan điểm đó, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là tái phạm sẽ lần lượt
được so sánh với ba dạng đa tội phạm còn lại dưới đây:
1.3.1. Phân biệt tái phạm với phạm tội nhiều lần
Cũng giống như tái phạm, phạm tội nhiều lần là một dạng của chế định đa
tội phạm và được ghi nhận là tình tiết tăng nặng TNHS chung cũng như tình tiết
định khung tăng nặng ở một số tội phạm cụ thể trong BLHS (cả năm 1985 và
năm 1999) của nước ta. Tuy nhiên, về mặt lập pháp phạm tội nhiều lần chỉ được
nêu tên chứ không được định nghĩa rõ ràng bằng một quy phạm riêng như tái
25
phạm.
Về mặt lý luận, các nhà khoa học luật hình sự cho rằng: “Phạm tội nhiều
lần là phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều
(hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng BLHS, đồng thời
với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội ấy vẫn chưa
bị xét xử.” [7; tr.391] hoặc tương tự như vậy: “Phạm tội nhiều lần là phạm tội
trong trường hợp hành vi của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của hai tội phạm
trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều hoặc một khoản của
điều trong Phần các tội phạm của BLHS và bị xét xử cùng một lần” [12; tr.68].
Trong thực tiễn, để thống nhất về cách hiểu và áp dụng tình tiết phạm tội
nhiều lần ở một số trường hợp cụ thể nên các cơ quan bảo vệ pháp luật đã ban
hành văn bản giải thích rõ hơn về tình tiết này. Chẳng hạn: ngày 02/01/1998,
TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ra Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/1/1998 hướng dẫn áp dụng một số điều
của luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985. Thông tư có đưa ra khái niệm phạm
tội nhiều lần ở các tội phạm có tính chất tham nhũng, tội phạm về ma túy và
tình dục (chứ không phải khái niệm phạm tội nhiều lần chung cho mọi loại tội
phạm). Theo đó, phạm tội nhiều lần (đối với một tội nào đó trong số các tội
tham nhũng, tội về ma túy và tình dục) là trường hợp bị cáo đã phạm tội ấy từ
hai lần trở lên mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội
phạm cơ bản trong điều luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu
TNHS và tội ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS…[26].
Như vậy, tuy chưa được quy định đầy đủ về mặt lập pháp nhưng trong
nhận thức lý luận và thực tiễn đều thống nhất về các đặc điểm hay điều kiện của
phạm tội nhiều lần bao gồm:
1) Người phạm tội đã phạm tội ít nhất hai lần;
2) Các tội đã phạm được quy định trong cùng một khoản hoặc các khoản
khác nhau của cùng một điều luật trong phần các tội phạm của BLHS;
3) Người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS về việc thực hiện các tội phạm
26
này;
4) Đối với các tội phạm này thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn.
Chỉ khi nào trong một vụ án hình sự, đối với một người phạm tội thỏa mãn
đồng thời cả bốn điều kiện nói trên thì Tòa án mới có đủ căn cứ áp dụng tình tiết
phạm tội nhiều lần để xem xét TNHS của người ấy.
Qua những phân tích trên cho thấy, phạm tội nhiều lần và tái phạm đều là
những tình tiết mà sự có mặt của chúng làm cho hành vi phạm tội trở nên nguy
hiểm hơn những trường hợp thông thường không có những tình tiết ấy. Chúng có
một điều kiện chung là người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội ít nhất hai
lần trở lên nhưng chúng khác nhau về các điều kiện liên quan đến số điều luật mà
các lần phạm tội đã vi phạm, tình trạng truy cứu và thời hiệu truy cứu TNHS đối
với các lần phạm tội, trình tự thời gian giữa các lần phạm tội, dấu hiệu án tích
trong nhân thân người phạm tội. Cụ thể sự khác biệt đó thể hiện trong bảng so
sánh dưới đây:
Tiêu chí so sánh Phạm tội nhiều lần Tái phạm
Số điều luật (thuộc phần
riêng BLHS) mà các lần
phạm tội đã vi phạm
Cùng một điều (có thể
cùng một khoản hoặc
các khoản khác nhau).
Có thể cùng một điều
hoặc các điều khác nhau.
Tình trạng truy cứu
TNHS đối với các tội
phạm đã thực hiện
Chưa bị truy cứu
TNHS lần nào về các
tội phạm đang xem xét.
Ít nhất bị phải đã bị kết
án về một trong các tội
đã thực hiện và bản án
đó đã có hiệu lực pháp
luật.
Thời hiệu truy cứu
TNHS đối với các lần
phạm tội
Còn thời hiệu truy cứu
đối với tất cả các lần
phạm tội.
Chỉ cần còn thời hiệu
truy cứu với tội phạm
thực hiện lần sau vì tội
lần trước đã bị xét xử.
27
Trình tự thời gian giữa
các lần phạm tội
Không có yêu cầu về
một trình tự bắt buộc
Lần phạm tội đang xét
xử nhất định phải thực
hiện sau khi bản án kết
tội về tội phạm lần trước
có hiệu lực pháp luật.
Dấu hiệu án tích Người phạm tội có thể
mang án tích hoặc không
Người phạm tội nhất
định phải mang án tích
nhưng chưa được xóa
1.3.2. Phân biệt tái phạm với phạm nhiều tội
Giống như phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội chưa được định nghĩa chính
thức về mặt lập pháp trong BLHS Việt Nam. Trong khoa học luật hình sự, phạm
nhiều tội “là trường hợp một chủ thể thực hiện hai tội trở lên mà những tội phạm
đó được quy định tại các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của một
điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS nhưng người phạm tội phải chưa bị
xét xử về tội nào trong số các tội ấy” [12; tr.391].
Về cơ bản, chúng tôi đồng ý với khái niệm này duy chỉ có một điểm trong
khái niệm là chưa chặt chẽ, cần phải bổ sung. Đó là trường hợp các tội đã thực
hiện được quy định tại các khoản khác nhau của cùng một điều luật, nếu không
làm rõ trường hợp này sẽ trùng với phạm tội nhiều lần. Nếu đối tượng của tội
phạm trong các khoản của điều luật ấy không khác nhau thì việc phạm các tội ở
các các khoản là phạm tội nhiều lần. Chỉ khi đối tượng của tội phạm trong các
khoản bị vi phạm khác nhau thì trường hợp này mới coi là phạm nhiều tội. Ví dụ
như trường hợp một người vừa phạm tội tổ chức tảo hôn cho người khác, bản
thân lại phạm tội tảo hôn thì được coi là phạm nhiều tội mặc dù tội tổ chức tảo
hôn và tội tảo hôn cùng được quy định tại Điều 148 BLHS năm 1999.
Điểm chưa rõ ràng của khái niệm trên đã được bổ sung trong khái niệm
của GS.TSKH. Lê Văn Cảm như sau: “Phạm nhiều tội là phạm từ hai tội trở lên
hoặc khi hành vi của người phạm tội có các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà
những tội ấy được quy định tại những điều khác nhau (hoặc tại những khoản
28
khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong
Phần riêng của BLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu
TNHS và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.” [7;
tr.396]
Tựu chung lại, phạm nhiều tội có các dấu hiệu (điều kiện) như sau:
1) Người phạm tội đã phạm ít nhất hai tội;
2) Các tội đã phạm được quy định trong luật trong Phần các tội phạm của
BLHS ở các điều luật khác nhau hoặc ở các khoản khác nhau của cùng một điều
mà các tội được quy định trong những khoản ấy có đối tượng tác động khác
nhau;
3) Người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS về việc thực hiện các tội phạm
này;
4) Đối với các tội phạm này thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn.
Với những dấu hiệu như vậy, phạm nhiều tội được phân biệt với tái phạm
như sau:
Tiêu chí so sánh Phạm nhiều tội Tái phạm
Số điều luật (thuộc phần
riêng BLHS) mà các lần
phạm tội đã vi phạm
Phải gồm nhiều điều
luật khác nhau hoặc
nhiều khoản khác nhau
của một điều luật
(nhưng đối tượng tác
động của tội phạm
được quy định trong đó
khác nhau).
Có thể cùng một điều
hoặc nhiều điều luật
khác nhau.
29
Tiêu chí so sánh Phạm nhiều tội Tái phạm
Tình trạng truy cứu
TNHS đối với các tội
phạm đã thực hiện
Chưa bị truy cứu
TNHS lần nào về các
tội phạm đang xem xét.
Ít nhất phải đã bị kết án
về một trong các tội đã
thực hiện và bản án đó đã
có hiệu lực pháp luật.
Thời hiệu truy cứu
TNHS đối với các lần
phạm tội
Còn thời hiệu truy cứu
đối với tất cả các tội
phạm đang xem xét.
Chỉ cần còn thời hiệu
truy cứu với tội phạm
thực hiện lần sau vì tội
lần trước đã bị xét xử.
Trình tự thời gian giữa
các lần phạm tội
Không có yêu cầu về
một trình tự bắt buộc.
Lần phạm tội đang xét xử
nhất định phải thực hiện
sau khi bản án kết tội về
tội phạm lần trước có
hiệu lực pháp luật.
Dấu hiệu án tích Người phạm tội có
thể mang án tích
hoặc không.
Người phạm tội nhất
định phải mang án tích
nhưng chưa được xóa.
1.3.3. Phân biệt tái phạm với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng chưa được định nghĩa rõ ràng về
mặt lập pháp giống như phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội. Nhưng trong khi hai
dạng đa tội phạm trên được nhận thức về mặt lý luận và thực tiễn tương đối thống
nhất thì ngược lại, nhận thức đối với tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp lại
có sự khác biệt giữa lý luận và thực tiễn.
Trên phương diện lý luận, các nhà khoa học cho rằng: “Phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội liên tiếp phạm tội và thu nhập có
30
được từ việc phạm tội là nguồn thu nhập chính.” [19; tr.168] Hoặc: “Phạm tội có
tính chất chuyên nghiệp là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục
đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống
và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm
tội.” [7; tr.402]
Theo như các quan điểm này, để bị coi là phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp thì phải đáp ứng những điều kiện sau:
1) Phạm tội nhiều lần;
2) Khoảng cách thời gian giữa các lần phạm tội không lớn (liên tục);
3) Mục đích phạm tội là vụ lợi hay làm giàu bất chính;
4) Người phạm tội lấy lợi ích từ việc phạm tội làm thu nhập cơ bản hay
nguồn sống chủ yếu.
Trong thực tiễn xét xử, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp lại được Hội
đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng như sau:
“Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ
các điều kiện sau đây:
a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt
đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu
chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích;
b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết
quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính” [15].
Theo Hướng dẫn này phạm tội có tính chất nguy hiểm là trường hợp thỏa
mãn các điều kiện:
1) Phạm tội nhiều lần (cụ thể là năm lần trở lên) do cố ý;
2) Các lần phạm tội đều phạm cùng một tội;
3) Các lần phạm tội đó nếu chưa truy cứu TNHS thì phải còn thời hiệu truy
cứu, nếu đã truy cứu TNHS thì phải chưa được xóa án tích.
4) Các lần phạm tội ấy là “nghề” đem lại nguồn sinh sống chính cho người
phạm tội.
31
Như vậy, cách hiểu của các cán bộ thực tiễn về phạm tội có tính chất nguy
hiểm có ba điểm cụ thể hơn nhưng không mâu thuẫn với các nhà khoa học lý
luận: thứ nhất, phạm tội nhiều lần trong tình tiết này gồm từ năm lần trở lên; thứ
hai, các tội đã phạm đều do cố ý; thứ ba, các lần phạm tội phải còn thời hiệu truy
cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích. Bên cạnh những điểm này, có một điểm
mà giữa các nhà khoa học và cơ quan thực tiễn không thống nhất là các cán bộ
thực tiễn cho rằng tất cả các lần phạm tội phải đều phạm cùng một tội phạm còn
các nhà khoa học không đưa ra dấu hiệu đó. Theo chúng tôi, cách hiểu của các
nhà thực tiễn hơi cứng nhắc và có khả năng bỏ lọt nhiều hành vi phạm tội có tính
chuyên nghiệp. Đúng là trong thực tế, đa số các trường hợp phạm tội có tính
chuyên nghiệp sẽ lặp đi lặp lại việc phạm một tội đã thành “nghề” kiểu như: làm
nghề trộm cắp, làm nghề buôn bán ma túy, làm nghề mại dâm, làm nghề đánh
bạc…Tuy nhiên cũng không thiếu những trường hợp coi việc phạm tội là nghề
sinh sống và phạm nhiều loại tội khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là dạng
phạm nhiều tội khác nhau trong cùng một nhóm tội phạm ví dụ như: phạm các tội
xâm phạm quyền sở hữu, phạm các tội về ma túy…Vì vậy, phạm tội có tính chất
chuyên nghiệp không nhất thiết phải là phạm tội nhiều lần về cùng một tội phạm.
Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đơn giản là trường hợp người
phạm tội thường xuyên, liên tục phạm tội, lấy việc phạm tội làm nghề kiếm sống.
Trường hợp đa tội phạm này có thể bao hàm cả những đặc điểm của tái phạm,
phạm nhiều tội và phạm tội nhiều lần nhưng vẫn có thể phân biệt nó một cách rõ
ràng với tái phạm như sau:
Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp
Tái phạm
32
Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp
Tái phạm
Số lần phạm tội của
người phạm tội
Nhiều một cách rõ
ràng (chẳng hạn năm
lần trở lên như
hướng dẫn xét xử ở
nước ta hiện nay).
Chỉ cần từ hai lần trở lên.
Tình trạng truy cứu
TNHS đối với các tội
phạm đã thực hiện
Có thể đã bị truy cứu
TNHS hoặc chưa
từng bị truy cứu
TNHS.
Ít nhất phải đã bị kết án về
một trong các tội đã thực
hiện và bản án đó đã có
hiệu lực pháp luật.
Thời hiệu truy cứu
TNHS và án tích đối
với các lần phạm tội
Đối với tất cả các lần
phạm tội phải: hoặc
là còn thời hiệu truy
cứu TNHS hoặc là
còn án tích.
Chỉ cần còn thời hiệu truy
cứu TNHS với tội phạm
thực hiện lần sau và còn
án tích về tội phạm thực
hiện lần trước.
Khoảng cách thời gian
giữa các lần phạm tội
Ngắn và liên tục. Không nhất thiết là ngắn
hay dài, liên tục hay ngắt
quãng miễn là tội phạm
đang xét xử được thực
hiện sau khi bản án kết tội
về tội phạm lần trước có
hiệu lực pháp luật.
33
Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp
Tái phạm
Động cơ phạm tội Nhất định là động cơ
vụ lợi, để kiếm sống
hoặc để giàu có.
Bất kỳ động cơ nào.
1.4. Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm và sự cần thiết phải trừng phạt
nghiêm khắc đối với tái phạm
Tái phạm được quy định trong pháp luật hình sự với tư cách một tình tiết tăng
nặng TNHS chung hoặc tình tiết định khung tăng năng của tội phạm cụ thể. Điều đó có
nghĩa nhà làm luật áp dụng đường lối xử lý nghiêm khắc đối với hành vi tái phạm. Sở
dĩ như vậy là vì tái phạm có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với phạm tội thông thường
và việc trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm là một tất yếu.
1.4.1. Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm
Tính nguy hiểm của tái phạm trước hết thể hiện ở số lượng hành vi phạm tội:
Bản chất của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên thực hiện một tội phạm
dưới bất kỳ hình thức nào cũng gây nguy hiểm cho xã hội. Trong khi đó, tái phạm
không đơn giản là thực hiện một tội phạm mà lại là một hình thức đa tội phạm. Điều đó
có nghĩa người tái phạm là người thực hiện nhiều hành vi phạm tội (ít nhất là hai). Thực
hiện một hành vi phạm tội đã là nguy hiểm thì thực hiện nhiều hành vi phạm tội chắc
chắn phải nguy hiểm đáng kể.
Tính nguy hiểm của tái phạm thể hiện ở ý thức chủ quan của người phạm tội:
Người tái phạm là người đã từng bị kết án, bị áp dụng biện pháp TNHS nhưng vẫn tiếp
tục phạm tội. Điều đó cho thấy ý thức chủ quan ở người phạm tội là bất chấp, coi
thường pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội vì
mong muốn cá nhân. Về mặt lập pháp, các nhà làm luật trên thế giới cũng thường lấy
hình thức lỗi cố ý làm căn cứ xác định tái phạm bởi vì hình thức lỗi cố ý mới thể hiện
hết tính bất chấp, coi thường pháp luật, mong muốn phạm tội. Trong thực tiễn, hành vi
34
tái phạm cũng thường biểu hiện với lỗi cố ý bởi vì người đã từng bị xử lý TNHS sẽ do
sợ hãi hoặc hối cải mà “cẩn thận” hơn, kìm chế hơn, không để bản thân phạm tội. Do
đó, khó có khả năng họ vô ý phạm tội mới.
Tính nguy hiểm của tái phạm còn thể hiện ở khả năng cải tạo của người phạm
tội: Việc đã từng bị xử lý hình sự, bị áp dụng hành phạt mà vẫn không sợ hãi, ăn
năn, hối cải chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội đó rất
thấp. Người này nếu có cơ hội vẫn sẽ tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội. Ở
phương diện này, tái phạm không chỉ nguy hiểm hơn hành vi phạm tội đơn nhất
tương ứng mà còn nguy hiểm hơn hẳn các dạng đa tội phạm khác. Ở những dạng
đa tội phạm khác như phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần thì người phạm tội chưa
phải trải qua các biện pháp TNHS, tức là chưa bị trừng trị cũng như giáo dục, cải
tạo nên khả năng cải tạo của họ chưa được đo lường. Khả năng cải tạo người tái
phạm biểu hiện kém một cách rõ rệt vì đã được răn đe, giáo dục nhưng không có
chuyển biến.
Do tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm nên trong Tờ trình Quốc hội về
Dự án BLHS sửa đổi số 461/CPPC của Chính phủ ngày 05/05/1999 đã kiến nghị
mở rộng phạm vi trấn áp đối với tái phạm bởi: “Khi một người đã bị Tòa án kết
án, tức là đã được cơ quan pháp luật xử lý, giáo dục mà vẫn tiếp tục thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi chưa được xóa án tích, thì như vậy đã
chứng tỏ rằng người đó có thái độ coi thường và bất chấp pháp luật…”
1.4.2. Sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm
Tái phạm cần phải bị trừng phạt nghiêm khắc để thể hiện đường lối xử lý
công minh, nghiêm khắc của pháp luật hình sự. Sự trừng phạt nghiêm khắc đối
với tái phạm tương xứng với tính nguy hiểm của nó là một lẽ công bằng bởi vì
hành vi có tính nguy hiểm cao phải bị trừng phạt nghiêm khắc hơn hành có tính
nguy hiểm thấp. Việc tái phạm bị trừng phạt nghiêm khắc còn thể hiện thái độ lên
án gay gắt, kiên quyết trấn áp đối với những người có ý thức coi thường, bất chấp
pháp luật của Nhà nước.
Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để phân hóa TNHS và quyết
35
định hình phạt chính xác đối người phạm tội trong trường hợp cụ thể. Các biện
pháp TNHS được quy định chung cho mỗi tội phạm nhưng hành vi phạm tội
trong thực tiễn biểu hiện rất đa dạng, phong phú, không thể áp dụng duy nhất một
mức hình phạt cho tất cả các hành vi phạm về cùng một tội. Cũng chính vì thế
nên luật hình sự không bao giờ quy định một hình phạt “cứng” riêng rẽ mà luôn
xác định một khung “mềm” để cơ quan áp dụng pháp luật lựa chọn linh hoạt
trong phạm vi khung đó. Việc lựa chọn áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với
người tái phạm (hoặc người phạm tội có các tình tiết tăng nặng TNHS khác) hay
áp dụng hình phạt ít nghiêm khắc đối với người phạm tội lần đầu (hoặc người
phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác) trong phạm vi luật định thể hiện
sự phân hóa TNHS và tính công bằng, chính xác trong quyết định hình phạt.
Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để đảm bảo khả năng giáo
dục, cải tạo người tái phạm. Như đã phân tích ở trên, hành vi tái phạm phản ánh
khả năng cải tạo kém của người phạm tội so với trường hợp phạm tội thông
thường, không có tái phạm. Do đó, nếu áp dụng biện pháp xử lý đối với người tái
phạm chỉ như đối với người không tái phạm sẽ không đảm bảo khả năng cải tạo,
ngăn ngừa họ phạm tội lần nữa. Sự trừng phạt nghiêm khắc người tái phạm thể
hiện một hi vọng là với những hình phạt tăng nặng đó người phạm tội sẽ biết sợ
hãi, hối cải, không còn thái độ bất chấp pháp luật.
Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để làm một giải pháp phòng
ngừa tái phạm. Việc quy định tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS có tác dụng
to lớn trong việc răn đe những người đã từng phạm tội. Nhận thức rằng việc bản
thân phạm tội lần nữa sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc khiến cho người đã từng
phạm tội biết kiềm chế bản thân mình hơn, làm giảm khả năng họ tái phạm.
1.5. Quy định về tái phạm trong luật hình sự của một số nước trên thế
giới
Sự có mặt của tình tiết tái phạm làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội. Điều này được thừa nhận bởi các nhà lập pháp hình sự ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, quy định về tái phạm của các nước lại không
36
giống nhau. Việc nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật hình sự của các nước
về tái phạm sẽ đem lại những kinh nghiệm lập pháp quý giá cho Việt Nam trong
việc hoàn thiện chế định này.
Tái phạm trong luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào:
Nước láng giềng của Việt Nam là Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào xác
định một phạm vi khá hẹp những trường hợp bị coi là tái phạm. BLHS Lào năm
1989, sửa đổi năm 2007 quy định như sau: “Tái phạm là người đã bị kết án tù và
lại phạm tội trong vòng 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt.” [1; tr.17].
Theo quy định này tái phạm có hai điều kiện:
1) Người phạm tội trước đây đã phạm tội và bị kết tù về tội phạm đó;
2) Tội phạm lần này là bất kỳ tội phạm nào được thực hiện trong vòng 5
năm từ khi chấp hành xong hình phạt tù do phạm tội lần trước.
Với điều kiện thứ nhất, các nhà lập pháp Lào đã loại bỏ ra khỏi chế định tái
phạm trường hợp người phạm tội trước đây đã từng bị kết án với hình phạt khác,
không phải hình phạt tù. Có lẽ điều này xuất phát từ quan điểm nhân đạo cho
rằng những tội phạm chưa nghiêm trọng đến mức bị áp dụng hình phạt tù có tính
nguy hiểm không cao, không nên coi là căn cứ để xác định tái phạm nếu chủ thể
sau đó phạm tội mới.
Nhưng với điều kiện thứ hai thì BLHS Lào đã bỏ qua một trường hợp tái
phạm nguy hiểm hơn hẳn các trường hợp tái phạm khác là trường hợp chưa chấp
hành xong hình phạt đã tái phạm. Lấy mốc thời gian “trong vòng 5 năm sau khi
chấp hành xong hình phạt tù do phạm tội lần trước” để xác định tái phạm chứng
tỏ các nhà làm luật cho rằng hành vi phạm tội mới được thực hiện trong khoảng
thời gian càng gần với lần phạm tội đã bị kết án thì càng có tính nguy hiểm cao.
Theo đó, phạm tội mới ngay từ khi chưa chấp hành xong hình phạt về tội cũ phải
nguy hiểm hơn là phạm tội mới sau khi chấp hành xong hình phạt về tội cũ. Như
vậy, trong BLHS Lào, trường hợp tái phạm có tính nguy hiểm cao hơn đã bị bỏ
qua trong khi trường hợp tái phạm có tính nguy hiểm thấp hơn lại được ghi nhận.
Tái phạm trong luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
37
Cũng là một nước láng giềng khác của Việt Nam, trong BLHS năm 1997
(sửa đổi năm 2001) của Trung Hoa, khái niệm tái phạm được quy định tại Điều
65: “Người phạm tội bị phạt tù từ có thời hạn trở lên, trong vòng 5 năm sau khi
chấp hành xong án hoặc được ân xá lại phạm tội đáng bị xử phạt tử tù có thời
hạn trở lên gọi là tái phạm phải chịu hình phạt nặng, nhưng được từ tội đã phạm
trước đó.” [41; tr.60]
Mặc dù có mô tả khác nhau nhưng về cơ bản điều kiện của tái phạm trong
BLHS của Trung Hoa giống với BLHS Lào, chỉ khác hơn ở chỗ BLHS Trung
Hoa yêu cầu tội phạm thực hiện lần này (lần tái phạm) phải là loại tội có mức
hình phạt từ tù có thời hạn trở lên. Cụ thể, điều kiện của tái phạm theo BLHS
Trung Hoa năm 1997 là:
1) Người phạm tội trước đây đã phạm tội, đã bị kết án về tội phạm đó với
hình phạt tù có thời hạn trở lên;
2) Tội phạm lần này là tội phạm có mức hình phạt từ tù có thời hạn trở lên;
3) Tội phạm lần này được thực hiện trong vòng 5 năm kể từ khi chấp hành
xong hình phạt tù do phạm tội lần trước hoặc kể từ khi được ân xá.
Như vậy, cùng một kỹ thuật lập pháp nhưng phạm vi áp dụng tình tiết tái
phạm trong luật hình sự Trung Hoa hẹp hơn luật hình sự Lào. Luật hình sự Lào
chỉ yêu cầu lần phạm tội trước phải bị kết án tù còn luật hình sự Trung Hoa yêu
cầu cả lần phạm tội trước phải bị kết án tù lẫn lần phạm tội mới phải có mức hình
phạt tù trở lên mới là tái phạm. Có thể xem như BLHS Trung Hoa nhân đạo hơn
nhưng vẫn mắc một lỗi thiếu logic giống BLHS Lào là bỏ qua trường hợp tái
phạm của người phạm tội mới khi còn chưa chấp hành xong hình phạt của tội
phạm cũ.
Tái phạm trong luật hình sự Nhật Bản:
Cũng ở châu Á nhưng không giống hai nước Lào và Trung Quốc, luật hình
sự của Nhật Bản không sử dụng thuật ngữ “tái phạm“ mà sử dụng thuật ngữ “kết
án nhiều lần”. Kết án nhiều lần được quy định bởi một chương riêng - Chương X
trong BLHS Nhật Bản với hai hình thức: kết án lần thứ hai và kết án lần thứ ba
38
trở lên. Có thể hình dung kết án lần thứ hai tương ứng với tái phạm còn kết án lần
thứ ba trở lên tương ứng với tái phạm nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm trong pháp
luật các nước khác.
Khái niệm kết án lần thứ hai được quy định tại Điều 56 BLHS Nhật Bản
như sau:
“1. Kết án lần thứ hai là trường hợp một người đã bị kết án tù có lao động
bắt buộc lại phạm một tội mới trong vòng 5 năm kể từ ngày hình phạt cũ đã được
chấp hành xong hoặc đã được miễn và bị kết án tù có thời hạn lao động bắt buộc.
2. Tương tự như vậy áp dụng đối với người bị kết án tử hình về tội có cùng
bản chất như tội bị phạt tù có lao động bắt buộc, lại phạm tội mới trong thời hạn
nói tại khoản 1 trên đây, kể từ ngày hình phạt tử hình được miễn hoặc từ ngày
hình phạt tù có lao động bắt buộc thay thế cho hình phạt tử hình đã được chấp
hành xong hoặc được miễn và bị kết án tù có thời hạn có lao động bắt buộc.
3. Khi một người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà trong đó
có bất cứ tội nào bị xử phạt bằng hình phạt tù có lao động bắt buộc, thì người đó
được coi như bị kết án tù có lao động bắt buộc trong việc áp dụng các quy định
liên quan đến kết án lần thứ hai, thậm chí tội phạm đó không phải là tội nặng
nhất.” [2; tr.20]
Theo quy định này kết án lần thứ hai gồm các điều kiện:
1) Người phạm tội trước đây đã bị kết án với hình phạt tù có lao động bắt
buộc;
2) Trong vòng 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt của bản án cũ
hoặc kể từ khi được miễn hình phạt của bản án cũ lại phạm tội mới;
3) Tội tội mới này theo quy định của BLHS cũng sẽ bị kết án với hình phạt
tù có lao động bắt buộc;
Ngoài ra, Điều luật cũng hướng dẫn về vẫn việc áp dụng tình tiết kết án hai
lần tương tự như trên đối với trường hợp người bị kết án tử hình sau đó được
miễn hoặc được chuyển sang hình phạt tù có lao động bắt buộc và trường hợp
người phạm nhiều tội trong đó có một tội bị kết án hình phạt tù có lao động bắt
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019PinkHandmade
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Nguyen Trang
 

What's hot (19)

Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luậtLuận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
Luận văn: Định tội danh trong trường hợp phạm nhiều tội theo luật
 
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đLuận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
Luận văn: Tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAYĐề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
Đề tài: Tội phạm chưa hoàn thành theo luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, HAY
Luận văn: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, HAYLuận văn: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, HAY
Luận văn: Quyết định hình phạt trong đồng phạm, HAY
 
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOTVấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
Vấn đề về mặt khách quan của tội phạm theo Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
LUẬN VĂN ĐỊNH TỘI DANH TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN_10250712052019
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội có tổ chức theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOTLuận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
Luận văn: Vai trò nhân thân người phạm tội theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOTLuận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
Luận văn: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo luật, HOT
 
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc trách nhiệm do lỗi của Luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đLuận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
Luận văn: Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, 9đ
 
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh BìnhVi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
 
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự Việt Nam
 
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
Luật hình sự vn phần chung (phạm văn beo)20
 

Similar to Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT

Similar to Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật tại Tp Đà Nẵng, HAY
 
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đTình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tại quận Long Biên, 9đ
 
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Chế định án tích trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAYLuận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
Luận văn: Vấn đề về chế định án tích trong luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt namLuận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
Luận văn: Tổng hợp hình phạt theo pháp luật hình sự việt nam
 
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sựLuận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
Luận văn: Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo luật hình sự
 
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luậtLuận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
Luận văn: Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật
 
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đThi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật tại Bắc Giang, 9đ
 
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạtĐề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
Đề tài: Nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt
 
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAYLuận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
Luận văn: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, HAY
 
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt cảnh cáo theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luậtHình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật
 
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Phạm tội nhiều lần theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHSLuận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
Luận văn: Vai trò của luật sư trong phòng chống oan sai trong TTHS
 
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAMTỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
TỘI VU KHỐNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 
 
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAYLuận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Xóa án tích trong luật hình sự tại TP Đà Nẵng, HAY
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạmLuận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trong trường hợp đồng phạm
 
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà NẵngLuận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
Luận văn: Hình phạt cải tạo không giam giữ theo luật tại Đà Nẵng
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864

Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docDịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch Vụ Viết Bài Trọn Gói ZALO 0917193864 (20)

Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.docYếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
Yếu Tố Tự Truyện Trong Truyện Ngắn Thạch Lam Và Thanh Tịnh.doc
 
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.docTừ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
Từ Ngữ Biểu Thị Tâm Lí – Tình Cảm Trong Ca Dao Người Việt.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Môn Khoa Học Tự Nhiên Theo Chuẩn Kiến Thức Và K...
 
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
Quản Lý Thu Thuế Giá Trị Gia Tăng Đối Với Doanh Nghiệp Ngoài Quốc Doanh Trên ...
 
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
Thu Hút Nguồn Nhân Lực Trình Độ Cao Vào Các Cơ Quan Hành Chính Nhà Nước Tỉnh ...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương Mại ...
 
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
Vaporisation Of Single And Binary Component Droplets In Heated Flowing Gas St...
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Các Trường Thpt Trên Địa Bàn Huyện Sơn Hà Tỉnh Quản...
 
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.docTác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
Tác Giả Hàm Ẩn Trong Tiểu Thuyết Nguyễn Việt Hà.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngắn Hạn Tại Ngân Hàng Công Thƣơng Chi...
 
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
Quản Lý Nhà Nước Về Nuôi Trồng Thủy Sản Nước Ngọt Trên Địa Bàn Thành Phố Hải ...
 
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.docSong Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
Song Song Hóa Các Thuật Toán Trên Mạng Đồ Thị.doc
 
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.docỨng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
Ứng Dụng Số Phức Trong Các Bài Toán Sơ Cấp.doc
 
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.docVai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
Vai Trò Của Cái Bi Trong Giáo Dục Thẩm Mỹ.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngoài Giờ Lên Lớp Ở Các Trường Thcs Huyện Chư Păh ...
 
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.docThu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
Thu Hút Vốn Đầu Tư Vào Lĩnh Vực Nông Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Gia Lai.doc
 
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
Quản Lý Hoạt Động Dạy Học Ngoại Ngữ Tại Các Trung Tâm Ngoại Ngữ - Tin Học Trê...
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thƣơng Mại ...
 
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.docTạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
Tạo Việc Làm Cho Thanh Niên Trên Địa Bàn Quận Thanh Khê, Thành Phố Đà Nẵng.doc
 
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Trung Và Dài Hạn Tại Ngân Hàng Thương ...
 

Recently uploaded

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhdtlnnm
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phươnghazzthuan
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạowindcances
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiNgocNguyen591215
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnpmtiendhti14a5hn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emTrangNhung96
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàNguyen Thi Trang Nhung
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 

Recently uploaded (20)

kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiệnBài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
Bài giảng môn Truyền thông đa phương tiện
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ emcác nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
các nội dung phòng chống xâm hại tình dục ở trẻ em
 
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhàBài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
Bài học phòng cháy chữa cháy - PCCC tại tòa nhà
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 

Luận văn: Vấn đề tái phạm theo luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ NGỌC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2013
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ NGỌC MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁI PHẠM THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật hình sự Mã số : 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. Lê Văn Cảm Hà nội – 2013
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Lê Thị Ngọc
  • 4. MỤC LỤC CỦA LUẬN VĂN Trang LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM 7 1.1 Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 7 1.1.1 Khái niệm tái phạm 7 1.1.2 Các đặc điểm cơ bản của tái phạm 12 1.1.3 Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 17 1.2 Các hình thức tái phạm 21 1.2.1 Tái phạm 22 1.2.2 Tái phạm nguy hiểm 22 1.2.3 Tái phạm đặc biệt nguy hiểm 23 1.3 Phân biệt tái phạm với các dạng khác của đa (nhiều) tội phạm 24 1.3.1 Phân biệt tái phạm với phạm tội nhiều lần 25 1.3.2 Phân biệt tái phạm với phạm nhiều tội 28 1.3.3 Phân biệt tái phạm với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp 30 1.4 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm và sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm 33 1.4.1 Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm 33 1.4.2 Sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm 35 1.5 Quy định về tái phạm trong luật hình sự của một số nước trên thế giới 36 Kết luận chương 1 43
  • 5. Chương 2. CÁC QUY ĐỊNH VỀ TÁI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 46 2.1 Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 46 2.1.1 Các quy định về tái phạm từ năm 1945 đến trước năm 1985 46 2.1.2 Các quy định về tái phạm từ năm 1985 đến nay 50 2.2 Thực tiễn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay 62 2.2.1 Tình hình áp dụng chế định tái phạm 62 2.2.2 Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng chế định tái phạm và nguyên nhân 68 Kết luận chương 2 78 Chương 3. VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH TÁI PHẠM TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH NÀY TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 81 3.1 Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 81 3.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 81 3.1.2 Phương hướng hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam 83 3.2 Vấn đề hướng dẫn áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự 86 3.3 Một số giải pháp phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng chế định tái phạm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự 87 Kết luận chương 3 89 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Ký hiệu viết tắt Ý nghĩa BLHS Bộ luật Hình sự TNHS Trách nhiệm hình sự TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao TP Tái phạm TPNH Tái phạm nguy hiểm
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tội phạm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Khi một hành vi đã bị Nhà nước coi là tội phạm (biểu hiện bằng việc quy định nó là một tội danh trong luật hình sự) thì nhất định người thực hiện hành vi ấy phải chịu sự trừng phạt. Sự trừng phạt tội phạm bằng các chế tài hình sự - biện pháp xử lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước là rất cần thiết nhằm trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội; khôi phục lại công bằng, trật tự cho xã hội; răn đe, ngăn ngừa sự phát sinh những tội phạm mới. So với tội phạm thông thường thì tái phạm là trường hợp phạm tội thể hiện tính nguy hiểm cho xã cao hơn bởi vì tái phạm có nghĩa là sự phạm tội lần nữa của người trước đây đã từng phạm tội và bị kết án về hành vi phạm tội ấy. Tính nguy hiểm không phải chỉ thể hiện ở chỗ người này thực hiện nhiều tội phạm mà quan trọng hơn nữa là người phạm tội đã từng gánh chịu biện pháp xử lý về hình sự, từng được cơ quan chức năng giáo dục, cải tạo nhưng không ăn năn, hối cải. Vì vậy, tái phạm bị coi là một yếu tố đặc biệt xấu trong nhân thân người phạm tội và được quy định là một tình tiết làm tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới. Không có ai có thể nghi ngờ về tính đúng đắn, công bằng và cần thiết của đường lối xử lý nghiêm khắc hơn đối với người tái phạm so với trường hợp phạm tội thông thường. Nhận thức được tính nguy hiểm cao cho xã hội trong trường hợp tái phạm và sự cần thiết phải xử lý hình sự nghiêm khắc hơn đối với người tái phạm, nhà làm luật nước ta đã sớm quy định trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985 và tái khẳng định trong BLHS năm 1999 về tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS. Ngoài ra, tái phạm cũng là tình tiết định tội hoặc định khung tăng nặng trong nhiều quy định của hai Bộ luật này. Ngoài quy định trong hai lần pháp điển hóa luật hình sự nói trên, Nhà nước ta cũng ban hành
  • 8. 2 một số văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến việc áp dụng chế định tái phạm. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng chế định này bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc, bất cập như: xác định nhầm lẫn tái phạm, bỏ lọt tái phạm, không thống nhất về áp dụng tái phạm giữa các cơ quan áp dụng pháp luật... Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: thiếu sót của các quy định pháp luật về tái phạm, tính phức tạp tự thân của trường hợp tái phạm, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật... Tuy vậy nhưng trên tất cả các phương diện lý luận, lập pháp cũng như thực tiễn vấn đề này chưa được quan tâm, nghiên cứu, khắc phục, dẫn đến tình trạng hiệu quả áp dụng của chế định tái phạm chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Vì những lý do đó nên tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. Khi thực hiện đề tài này, tác giả mong muốn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận liên quan đến tái phạm, góp phần hoàn thiện chế định tái phạm trong luật hình sự Việt Nam, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này trong thực tế giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Mặc dù còn tồn tại những thiếu sót về mặt lập pháp cũng như khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng nhưng trên phương diện lý luận chế định tái phạm vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức để tìm ra giải pháp khắc phục toàn diện những vấn đề đó. Cho đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, công phu và đầy đủ ở cấp độ một cuốn sách chuyên khảo, một luận văn thạc sĩ hay một luận án tiến sĩ về đề tài này. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, tái phạm mới chỉ được nghiên cứu chung trong chế định nhiều (đa) tội phạm với tư cách là một dạng của chế định này. Ví dụ như được đề cập đến trong sách tham khảo “Chế định
  • 9. 3 nhiều tội phạm - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Lê Văn Đệ xuất bản năm 2003 bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Hay được phân tích trong mục III - Chế định nhiều (đa) tội phạm, chương IV về Tội phạm trong Sách chuyên khảo Sau đại học: “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự - Phần chung” của PGS.TSKH. Lê Văn Cảm do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2005. Tái phạm cũng được nghiên cứu với tư cách là một trong các tình tiết tăng nặng TNHS trong các giáo trình luật hình sự của các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hoặc các sách bình luận khoa học về phần chung bộ luật hình sự. Chẳng hạn như “Giáo trình luật hình sự Phần chung” của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2001 do TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên. Hay “Giáo trình luật hình sự Việt Nam” Tập 1 của Trường Đại học Luật Hà Nội xuất bản năm 2007 bởi tại Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hoặc gần đây nhất là sách “Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 - Phần chung” do TS. Nguyễn Đức Mai chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2012. Tuy nhiên, trong các sách này thường chỉ đơn thuần phân tích nội dung quy định pháp luật hình sự thực định về tái phạm. Tái phạm còn được đề cập đến trong một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật như: “Hoàn thiện chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của tác giả Nguyễn Thị Xuân (Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 năm 2001); “Những quan điểm khác nhau khi xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm theo quy định của BLHS năm 1999 và Nghị quyết số 32/1999/NQ- QH10”của tác giả Nguyễn Thị Mai (Tạp chí Tòa án nhân dân số 1 năm 2003); “Xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm trong các tội chiếm đoạt có yếu tố đã bị kết án” của tác giả Nguyễn Chí Công (Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 năm 2004); “Xóa án tích với việc xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm” của tác giả Đỗ Văn Chỉnh (Tạp chí Tòa án nhân dân số 23 năm 2005)... Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở cấp độ các bài viết hẹp, đề cập đến một khía cạnh của chế định tái phạm hay một vài trường hợp áp dụng cụ thể của chế định nay. Có thể nói rằng, cho đến nay Luận văn
  • 10. 4 “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tái phạm theo luật hình sự Việt Nam” là công trình đầu tiên ở cấp độ luận văn thạc sĩ và cũng là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến chế định tái phạm ở Việt Nam hiện nay. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Tái phạm có thể được nghiên cứu bởi nhiều chuyên ngành khoa học khác nhau như: khoa học luật hình sự, khoa học thi hành án, tội phạm học… Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề sau: 1) Về nội dung: Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái phạm; phân tích quá trình phát triển và nội dung quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng như đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng chế định này ở nước ta, làm rõ những nguyên nhân của tình hình đó. Trên cơ sở những nghiên cứu này, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật nước ta và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này. 2) Về thời gian và không gian liên quan đến đối tượng nghiên cứu: Đối với các quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm, luận văn giới hạn nghiên cứu trong khoảng từ năm 1945 đến nay. Đối với thực tiễn áp dụng chế định tái phạm, luận văn tổng hợp và đánh giá số liệu xét xử trên toàn quốc trong thời gian từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành (năm 2000) đến nay. 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Với mục đích làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến tái phạm, tìm ra giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về tái phạm và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng, luận văn thực hiện những nhiệm vụ sau: 1) Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tái phạm như: xây dựng khái niệm khoa học về tái phạm, tìm ra các đặc điểm cơ bản của tái phạm, ý nghĩa pháp lý hình sự của chế định này; so sánh, phân biệt tái phạm với các hình thức đa tội phạm khác, chứng tỏ sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc hơn đối với tái phạm so với các trường hợp phạm tội thông thường; nghiên cứu tham
  • 11. 5 chiếu quy định trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới về tái phạm. 2) Phân tích quá trình hình thành, phát triển và nội dung quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay. 3) Thống kê, phân tích tình hình áp dụng chế định tái phạm trong xét xử vụ án hình sự ở Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2011; đánh giá kết quả áp dụng, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong áp dụng tái phạm và nguyên nhân của chúng cả về mặt lập pháp cũng như thực tiễn. 4) Từ kết quả nghiên cứu trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự nước ta, hướng dẫn áp dụng chế định này trong thực tiễn cũng như kiến nghị một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm tái phạm nói riêng. 5. Phương pháp nghiên cứu đề tài Để đạt được những mục đích đã đặt ra trên cơ sở lý luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp so sánh, phân tích tài liệu, phương pháp tổng hợp, đồng thời ứng dụng những thành tựu của khoa học luật hình sự, khoa học luật tố tụng hình sự, tội phạm học, xã hội học pháp luật... trong các công trình của các nhà khoa học - luật gia ở trong và ngoài nước. Ngoài ra đề tài còn sử dụng trung thực các số liệu thống kê của các cơ quan áp dụng pháp luật, các sách tham khảo, tạp chí chuyên ngành để làm rõ những tri thức khoa học liên quan đến đề tài. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 03 chương như sau: - Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái phạm. - Chương 2: Các quy định về tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng. - Chương 3: Vấn đề hoàn thiện chế định tái phạm trong pháp luật hình sự Việt Nam và hướng dẫn áp dụng chế định này trong quá trình giải quyết
  • 12. 6 các vụ án hình sự. Nghiên cứu về tái phạm đòi hỏi đồng thời sự am hiểu sâu sắc khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự nói riêng và cả những kiến thức liên ngành về xã hội học pháp luật, tội phạm học. Nghiên cứu đề tài cũng yêu cầu khối lượng lớn thời gian, công sức nghiên cứu cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn của tình hình tội phạm tái phạm. Do chưa thể đáp ứng đầy đủ những đòi hỏi đó nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được và xin chân thành cảm ơn các ý kiến phê bình, đóng góp của mọi độc giả quan tâm đến luận văn!
  • 13. 7 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI PHẠM Để đánh giá và hoàn thiện một chế định pháp luật không có cách nào khác hơn là nghiên cứu so sánh nội dung quy định của chế định này với những nhận thức lý luận chuẩn mực và thực tiễn áp dụng của chính nó. Theo đó, để đánh giá và hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) hiện nay về tái phạm, trước tiên phải nghiên cứu sâu sắc những vấn đề lý luận về tái phạm làm cơ sở đối sánh. Những vấn đề lý luận cơ bản nhất về tái phạm cần phải làm rõ bao gồm: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm; tính nguy hiểm và sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với trường hợp tái phạm. 1.1. Khái niệm, các đặc điểm cơ bản và ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm 1.1.1. Khái niệm tái phạm Tái phạm là một tình tiết tăng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong quyết định hình phạt. Tuy nhiên, về mặt lý luận, khái niệm tái phạm chưa được các nhà khoa học quan tâm xây dựng. Trong các nghiên cứu liên quan đến tình tiết này người ta thường sử dụng định nghĩa pháp lý về tái phạm được quy định bởi BLHS. Tuy nhiên, vì mục đích đánh giá chính quy định của BLHS về tái phạm bao gồm định nghĩa pháp lý nêu trên nên trong nghiên cứu này cần phải xây dựng một khái niệm chuẩn về tái phạm để làm cơ sở so sánh. Thuật ngữ “tái phạm” trong tiếng Anh “ricidivism” có nguồn gốc từ “recidivus” trong tiếng Latinh, có nghĩa là sự lặp lại [40; tr.1083]. Còn trong tiếng Việt, về mặt ngữ nghĩa, “tái phạm” là một từ ghép Hán Việt được cấu thành bởi hai từ “tái” và “phạm”. Trong đó “phạm” có nghĩa là “làm tổn hại tới điều cần gìn giữ”, “mắc phải điều cần né tránh” [37; tr.1235]. Những điều cần gìn giữ, cần né tránh đó thường được xác định bởi những quy phạm xã hội như kỷ luật, pháp luật, đạo đức… Nói cách khác, “phạm” là làm điều không nên làm, điều không được làm, trái với các quy phạm xã hội. Còn “tái” là “lại một lần
  • 14. 8 nữa”, “lần thứ hai” [37; tr.1417]. Ghép hai từ lại, tái phạm có nghĩa là lại một lần nữa/lần thứ hai vi phạm quy tắc. Trong thực tiễn, tái phạm có thể được sử dụng để mô tả sự lặp lại hành vi vi phạm các loại quy tắc điều chỉnh xã hội khác nhau nhưng chủ yếu và phổ biến nhất là được sử dụng để chỉ sự lặp lại hành vi vi phạm pháp luật. Dưới góc độ tội phạm học, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm cho rằng “tái phạm (hay tái phạm tội) là sự phạm tội trở lại của kẻ phạm tội đã mãn hạn tù hoặc thi hành xong hình phạt” [38; tr.683]. Trong khái niệm này tái phạm có nghĩa là tái phạm tội, tức sự phạm tội trở lại, phạm tội lần nữa của người phải thi hành và đã thi hành xong một hình phạt. Theo đó một hành vi phạm tội có tính chất tái phạm khi thỏa mãn các điều kiện sau: 1) Trước đây người phạm tội đã từng phạm tội, đã bị kết án và theo bản án kết tội đó họ phải chịu hình phạt (có thể là hình phạt tù hoặc một hình phạt nào khác); 2) Lần phạm tội này xảy ra khi chủ thể đã thi hành xong hình phạt nói trên. Theo quan điểm này thì người bị kết án nhưng được miễn hình phạt hay người bị kết án nhưng chưa thi hành hoặc chưa thi hành xong hình phạt mà phạm tội trở lại thì không phải là tái phạm. Chúng tôi có thể đồng ý về trường hợp người được miễn hình phạt mà sau đó phạm tội trở lại thì không coi là tái phạm vì người được miễn hình phạt đương nhiên được xóa án tích, không có án tích, nghĩa là trước pháp luật người đó chưa từng phạm tội. Như vậy, xét trên phương diện thực tế việc một người phạm tội sau khi được miễn hình phạt là phạm tội lần nữa nhưng về mặt pháp lý thì người đó được coi như phạm tội lần đầu, không phải là tái phạm. Nhưng trường hợp người đã bị kết án, phải chịu hình phạt, khi chưa thi hành hay chưa thi hành xong hình phạt đã phạm tội trở lại thì không giống như vậy. Khi bản án kết tội một người có hiệu lực pháp luật thì bất kể người đó đã thi hành hình phạt hay chưa đều bị coi là người phạm tội. Về mặt nhân thân người đó có dấu hiệu đã từng phạm tội cho đến khi nào được xóa án
  • 15. 9 tích. Người đã từng phạm tội mà sau đó phạm tội lần nữa thì có nghĩa là tái phạm mà không liên quan đến việc người đó đã chấp hành xong hình phạt hay chưa. Ví dụ: A bị kết án tù do phạm tội cướp, trong thời gian ở trại cải tạo A lại phạm tội cố ý gây thương tích cho bạn tù. Hành vi phạm tội cố ý gây thương tích dứt khoát phải là hành vi có tính chất tái phạm. Hoặc B phạm tội cho vay nặng lãi bị Tòa án tuyên hình phạt tiền. Bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng hình phạt tiền đối với B chưa được thi hành thì B lại bị bắt vì cho vay nặng lãi. Hành vi phạm tội lần sau của B dứt khoát phải là hành vi tái phạm mặc dù B chưa thi hành xong hình phạt đối với hành vi phạm tội lần trước. Do vậy, theo chúng tôi việc lấy dấu hiệu đã chấp hành xong hình phạt để làm căn cứ xác định tái phạm là không chính xác. Tương tự với quan điểm của GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm, nhà tội phạm học Mỹ Michael D.Maltz cho rằng: “Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [39; tr.54]. Quan điểm này thậm chí còn hẹp hơn quan điểm trên vì theo Maltz: chỉ người đã từng phạm tội, bị tuyên hình phạt tù, đã thi hành xong hình phạt tù mà thực hiện tội phạm lần nữa mới là tái phạm. Tức là hành vi được coi là tái phạm khi thỏa mãn hai điều kiện: 1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội, đã bị kết án tù vì hành vi phạm tội đó; 2) Lần phạm tội này được thực hiện khi người đó đã thi hành xong hình phạt tù nói trên. Theo đó những người đã bị kết án nhưng chỉ phải chịu hình phạt khác, không phải hình phạt tù hoặc người bị kết án phạt tù nhưng chưa thi hành xong mà lại phạm tội mới thì không phải là tái phạm. Việc lấy dấu hiệu thi hành xong hình phạt (mà ở đây còn chỉ gồm hình phạt tù) để xác định tái phạm rõ ràng là chưa hợp lý như đã phân tích ở trên. Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, khái niệm tái phạm lần đầu tiên được nhắc đến ở cuốn “Đại Nam hình pháp” của TS. Lê Trung Chánh xuất bản
  • 16. 10 năm 1943: “Khi nào đã làm một điều phi vi, Tòa án đã xét xử xong rồi, và án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi, mà lại làm điều phi vi nữa thì mới được gọi là tái phạm” [10; tr.102]. Khái niệm này mô tả tái phạm rất đơn giản, rõ ràng, đi thẳng vào bản chất của tái phạm là sự phạm tội lần nữa. Tuy đơn giản nhưng trong khái niệm này các điều kiện của tái phạm được xác định một cách chặt chẽ gồm: 1) Người phạm tội trước đây đã từng phạm tội (đã làm một điều phi vi); 2) Tội phạm mà người ấy thực hiện trước đây đã bị xét xử (Tòa án đã xét xử xong rồi) và bản án đã có hiệu lực pháp luật (án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi); 3) Tội phạm lần này được thực hiện sau khi bản án đối với tội phạm trước đây có hiệu lực. Những điều kiện để xác định tái phạm ở đây được cho là chặt chẽ bởi vì theo nguyên nghĩa của tái phạm là sự phạm tội lần nữa thì dứt khoát người tái phạm phải là người đã từng phạm tội. Mà một người chỉ bị coi là phạm tội khi bị có bản án kết tội có hiệu lực của tòa án có thẩm quyền. Đây là nguyên tắc pháp luật được nhân loại tiến bộ thừa nhận chung. Do vậy, Tiến sĩ Lê Trung Chánh cho rằng tái phạm là việc một người trước kia đã phạm tội, đã bị xét xử và bản án kết tội người đó đã có hiệu lực pháp luật mà nay lại phạm tội mới. Tuy nhiên, có một vấn đề mà tác giả chưa đề cập đến, đó là điều kiện về án tích. Trường hợp người đã từng phạm tội, đã bị kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng sau khi thi hành bản án họ đã được xóa án tích rồi mới phạm tội lần nữa. Rõ ràng khi đã được xóa án tích thì trước pháp luật người đó chưa từng phạm tội cho dù thực tế trước đó đã phạm tội, đã bị kết án. Nhưng sự thiếu sót này không phải do tác giả tư duy phiến diện mà do ở thời đại của ông trong khoa học pháp lý và pháp luật hình sự Việt Nam chưa hề có ý niệm về án tích và xóa án tích. Bên cạnh đó, cách diễn đạt trong khái niệm của TS. Lê Trung Chánh là văn phong nói, các thuật ngữ sử dụng khá nôm na và có nhiều sự lạc hậu so với khoa
  • 17. 11 học pháp lý hiện đại. Chẳng hạn như: “đã làm một điều phi vi” (nghĩa là đã từng phạm một tội); “Tòa án đã xét xử xong rồi” (nghĩa là đã bị Tòa án xét xử về tội đó); “và án đã chung thẩm rồi, đã thành bất canh cải rồi” (nghĩa là bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật); “mà lại làm điều phi vi nữa” (nghĩa là lại phạm tội mới). Có quan điểm gần tương đồng với TS. Lê Trung Chánh, tác giả Đàm Trung Mộc trong cuốn “Hình luật tập giảng” xuất bản năm 1961 đưa ra khái niệm: “Tái phạm là tình trạng một người trước đã bị kết án về một tội, về sau lại phạm và bị truy tố nữa” [20; tr.82]. Cũng cho rằng tái phạm là hành vi phạm tội mới của người trước kia đã từng phạm một tội và đã bị kết án về tội đó nhưng trong khái niệm này không đưa ra điều kiện bản án kết tội đó phải đã có hiệu lực pháp luật khi chủ thể thực hiện tội phạm mới. Khi bản án kết tội một người chưa có hiệu lực pháp luật nghĩa là người đó chưa có tội; người chưa có tội mà phạm tội thì không phải là tái phạm. Do vậy, tuy quan điểm gần nhau nhưng về điều kiện của tái phạm thì khái niệm của tác giả Đàm Trung Mộc ít chặt chẽ hơn khái niệm của TS. Lê Trung Chánh phân tích ở trên. Bên cạnh đó, tác giả này cũng không đề cập đến điều kiện người phạm tội chưa được xóa án tích của lần phạm tội trước. Tóm lại, tái phạm (tái phạm tội) phải là hành vi phạm tội lần nữa của người đã từng phạm tội. Người đã từng phạm tội ở đây là dấu hiệu về mặt pháp lý chứ không phải thực tế. Người đã từng phạm tội trên phương diện pháp lý hình sự là người đã bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án có thẩm quyền và chưa được xóa án tích. Theo đó, một hành vi phạm tội bị coi là tái phạm khi đáp ứng các điều kiện sau: Thứ nhất, người phạm tội là người đã từng bị kết án về một tội phạm nào đó theo quy định pháp luật và bản án kết tội ấy phải đã có hiệu lực pháp luật; Thứ hai, tội phạm đang xét xử phải được thực hiện sau khi bản án kết tội lần trước có hiệu lực pháp luật; Thứ ba, bản án kết tội lần trước để lại án tích, đến thời điểm thực hiện tội phạm
  • 18. 12 mới này án tích đó vẫn chưa được xóa. Chỉ khi nào đáp ứng những điều kiện chung đó một hành vi phạm tội mới bị coi là có tính chất tái phạm. Tất nhiên, phải khẳng định đây là những điều kiện chung về mặt lý luận phản ánh bản chất của hành vi tái phạm còn tình tiết tái phạm trong pháp luật mỗi quốc gia được quy định với những điều kiện, dấu hiệu riêng theo quan điểm của nhà lập pháp. Ví dụ như, có quan điểm coi mọi hành vi phạm tội lần nữa của người đã từng phạm tội là tái phạm nhưng có quan điểm chỉ coi là tái phạm khi tội phạm mới được thực hiện với lỗi cố ý. Hoặc có quan điểm coi cho rằng ngoài những điều kiện chung, tái phạm còn được xác định trên căn cứ là loại hình phạt, mức hình phạt mà người phạm tội phải gánh chịu ở lần phạm tội cũ hoặc lần tái phạm, hoặc cả hai lần… Như vậy, về mặt lý luận, một cách rõ ràng nhất: Tái phạm là trường hợp của người đã từng bị kết tội bởi một bản án có hiệu lực pháp luật, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội lần nữa. Pháp luật hình sự thực định có thể thêm những điều kiện, dấu hiệu khác khi xác định tái phạm theo quan điểm của các nhà làm luật nhưng dứt khoát phải bảo đảm những điều kiện chung có trong khái niệm này thì mới phản án đúng bản chất của tái phạm. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của tái phạm Tái phạm là một trong các tình tiết tăng nặng TNHS, nó mang những đặc điểm chung của các tình tiết tăng nặng TNHS và cũng có những đặc điểm riêng làm cho nó khác biệt với các tình tiết tăng nặng TNHS khác. Đặc điểm thứ nhất: với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS, tái phạm phải được quy định trong pháp luật hình sự thực định. Việc áp dụng các tình tiết tăng nặng TNHS, bao gồm tái phạm, sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý theo hướng bất lợi hơn cho người bị xét xử nên việc xác định và áp dụng chúng không thể tùy tiện. Để buộc tội hay tăng nặng biện pháp xử phạt đối với người phạm tội luôn luôn phải căn cứ trên pháp luật thực định trong khi để gỡ tội hay giảm nhẹ biện pháp xử phạt cho người phạm tội Tòa án, ngoài pháp luật thực định, có thể dựa
  • 19. 13 trên những căn cứ hợp lý khác. Đây là một nguyên tắc pháp luật quốc tế đã được thừa nhận chung. Khoản 2 Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc nêu: “Không ai bị kết tội hình sự vì một hành vi hay sự tắc trách không bị coi là một tội hình sự theo quy định của luật pháp quốc gia hay quốc tế vào thời điểm đó. Cũng như không cho phép áp dụng hình thức xử phạt đối với một tội hình sự nặng hơn so với quy định của luật pháp lúc bấy giờ cho mức độ phạm tội cụ thể như vậy”. Điều 15 Công ước của Liên Hợp quốc về những quyền chính trị, dân sự năm 1966 tiếp tục khẳng định: “Không ai có thể bị kết án về một tội hình sự do những điều mình đã làm hay không làm, nếu những điều ấy không cấu thành tội hình sự chiếu theo luật pháp quốc gia hay quốc tế áp dụng hồi đó; mà cũng không bị tuyên cáo một hình phạt nặng hơn hình phạt được áp dụng trong thời gian phạm pháp. Tuy nhiên bị cáo được quyền hưởng hình phạt khoan hồng hơn chiếu theo luật mới ban hành sau ngày phạm pháp”. Do vậy, tái phạm với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS “nhất thiết phải được các nhà làm luật ghi nhận chỉ trong pháp luật hình sự thực định (mà ở nước ta là trong Bộ luật hình sự năm 1999), chứ không thể trong các văn bản pháp lý nào khác hoặc không thể do Tòa án tự xem xét để cân nhắc (như tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự)” [35; tr.36]. Đặc điểm thứ hai: tình tiết tái phạm chỉ xuất hiện (có mặt) trong vụ án cụ thể, đối với người phạm tội cụ thể chứ không phải là yếu tố bắt buộc phải xem xét ở mọi vụ án, đối với mọi người phạm tội. Các dấu hiệu của cấu thành tội phạm là đặc điểm chung về mặt lập pháp, là các thuộc tính điển hình và chủ yếu hơn cả, đặc trưng cho tội phạm ấy [7; tr.334] phải xem xét đối với mọi hành vi phạm tội và được áp dụng ngang nhau đối với mọi cá nhân phạm tội. Ngược lại, tái phạm nói riêng và các tình tiết tăng nặng TNHS nói chung không có đặc tính điển hình, phổ biến như vậy. Không phải vụ phạm tội nào cũng có tình tiết tái phạm và ngay trong những vụ phạm tội có tình tiết tái phạm thì cũng không phải tất cả những người phạm tội đó đều tái phạm. Ví dụ A và B cùng nhau đi cướp, A
  • 20. 14 có một tiền án về cướp còn B phạm tội lần đầu thì chỉ có A phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS do tái phạm, không thể áp dụng chung tình tiết đó cho B dù họ cùng bị xem xét TNHS về một cấu thành tội phạm. Đặc điểm thứ ba: sự có mặt của tình tiết tái phạm không làm thay đổi bản chất của tội phạm mà chỉ làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đó và tác động đến biện pháp TNHS sẽ áp dụng theo hướng nghiêm khắc hơn (nhưng vẫn trong phạm vi cấu thành tội phạm tương ứng). Nếu cấu thành tội phạm là công thức gồm những thành phần bắt buộc để làm nên một món ăn thì tái phạm chỉ là gia vị gây ảnh hưởng đến độ đậm nhạt của món ăn đó chứ không làm nó trở thành món ăn khác. Ví dụ một người đang mang tiền án về tội cướp tài sản nay lại phạm tội trộm tài sản thì hành vi trộm tài sản đó có tính chất tái phạm nhưng nó vẫn được định tội danh là trộm tài sản chứ không phải cướp tài sản hay bất kỳ tội danh nào khác. Tình tiết tái phạm chỉ làm cho hành vi phạm tội có tính nguy hiểm hơn và người phạm tội bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc hơn nhưng chỉ trong phạm vi của cấu thành tội phạm tương ứng. Tức là người phạm tội phải chịu mức cao của khung hình phạt nhưng cũng không vượt qua mức tối đa mà khung hình phạt đã quy định và không được là loại hình phạt khác mà khung hình phạt không quy định. Đặc điểm thứ tư: Trong trường hợp tái phạm đã được quy định làm yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt đối với một tội phạm tương ứng cụ thể thì nó không thể được xem xét với tư cách là tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Khi tái phạm là một tình tiết định tội của một tội phạm cụ thể có nghĩa là nó thuộc yếu tố cấu thành bắt buộc của tội phạm ấy. Sự có mặt hay không có mặt của nó khi đó làm thay đổi hoàn toàn tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khiến hành vi bị coi là một tội phạm hoặc không phải là một tội phạm. Tình tiết làm thay đổi tính chất (nguy hiểm) của hành vi đó sẽ không được sử dụng như một tình tiết làm thay đổi mức độ (nguy hiểm) nữa vì nguyên tắc Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm. Ví dụ: theo Điều 248 của BLHS năm 1999 (sửa đổi năm 2009) quy định về tội đánh bạc thì để bị
  • 21. 15 coi là có tội trong trường hợp giá trị đánh bạc dưới 2.000.000 đồng, người phạm tội phải đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đánh bạc, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Như vậy tái phạm là yếu tố cấu thành bắt buộc để định tội đối với người đánh bạc có giá trị thấp hơn 2.000.000 đồng. Tòa án khi xét xử không thể tiếp tục lấy tình tiết tái phạm đó làm căn cứ quyết định hình phạt theo hướng tăng nặng đối với người phạm tội này. Tương tự như vậy, trường hợp tái phạm là tình tiết được luật quy định với tính chất là yếu tố định khung hình phạt đối với một tội phạm thì không thể coi nó là tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Khi được quy định là tình tiết định khung tăng nặng có nghĩa tái phạm là căn cứ cho phép Tòa án tăng mức hình phạt đối với người phạm tội chuyển sang khung hình phạt khác nặng hơn. Khi đó Tòa án không được phép tiếp tục xử dụng tái phạm làm căn cứ để quyết định chọn hình phạt cụ thể trong khung hình phạt này. Ví dụ khoản 2 Điều 161 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm là khung hình phạt tăng nặng của tội trốn thuế, áp dụng khi giá trị trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 600.000.000 đồng hoặc giá trị trốn thuế dưới 300.000.000 đồng những người phạm tội phải có dấu hiệu tái phạm tội trốn thuế. Theo đó khi xét xử người trốn thuế với giá trị dưới 300.000.000 đồng (tất nhiên phải trên 100.000.000 đồng theo cấu thành cơ bản của tội này) mà có dấu hiệu tái phạm tội trốn thuế thì có thể áp dụng khung hình phạt từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Sau đó, Tòa án không được tiếp tục dùng tình tiết tái phạm để cân nhắc mức phạt cao trong khung được áp dụng nói trên vì không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm. Tóm lại, khi tái phạm đã là dấu hiệu định tội hay định khung hình phạt thì không được xem xét nó như một tình tiết tình tiết tăng nặng TNHS nữa. Nguyên tắc này cũng được ghi nhận tại khoản 2 Điều 48 BLHS Việt Nam năm 1999. Đặc điểm thứ năm: Tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Đây là đặc điểm riêng có của tái phạm so với các tình tiết
  • 22. 16 tăng nặng TNHS khác. Trong khoa học luật hình sự, các tình tiết tăng nặng TNHS được chia thành ba nhóm khác nhau: 1) Nhóm thứ nhất là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về phương diện khách quan. Đây là những tình tiết thuộc về các dấu hiệu bên ngoài của tội phạm (mặt khách quan của tội phạm) như: “phạm tội có tổ chức”; “xâm phạm tài sản Nhà nước”; “phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”; “lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội”… 2) Nhóm thứ hai là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về phương diện chủ quan. Nhóm này gồm những tình tiết phản ánh quá trình hoạt động, diễn biến tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi phạm tội (mặt chủ quan của tội phạm). Ví dụ: tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn”; “cố tình thực hiện tội phạm đến cùng”... 3) Nhóm hứ ba là các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Các tình tiết này phản ánh những đặc điểm, đặc tính xã hội khác nhau của một con người cụ thể với tư cách là chủ thể của tội phạm. Chẳng hạn như: tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”; “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”; “phạm tội nhiều lần”; “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”… [35; tr.36-42]. Là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội, tái phạm không những làm tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà cả bản thân người phạm tội cũng trở nên nguy hiểm hơn đối với xã hội. Cũng vì là một đặc điểm thuộc nhân thân nên tái phạm không chỉ ảnh hưởng đến tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, mà còn thể hiện khả năng giáo dục, cải tạo người phạm tội trong môi trường sống sau này... Người phạm tội mang trên mình án tích chứng tỏ đã từng phải gánh chịu các biện pháp trách nhiệm hình sự nhưng không khiếp sợ hay ăn năn, hối cải mà vẫn tái phạm thì chứng tỏ đó là người ít có khả năng giáo dục, cải tạo được. Đặc điểm thứ sáu: Căn cứ xác định tái phạm không liên quan đến tội phạm đang xem xét, mà thuộc về lý lịch (quá khứ) của người phạm tội. Để xác định một hành vi phạm tội có phải tái phạm hay không thì không thể căn cứ vào diễn biến,
  • 23. 17 hành vi, hậu quả, công cụ, phương tiện, khách thể, đối tượng xâm hại, ý thức chủ quan khi phạm tội… mà lại căn cứ trên lý lịch tư pháp của người phạm tội - một tài liệu không liên quan trực tiếp đến sự việc phạm tội. Tái phạm chỉ được xác định khi người phạm tội có tiền án, tức là trong lý lịch tư pháp của người ấy có dấu tích của bản án kết tội mà đến khi phạm tội lần này dấu tích ấy vẫn chưa được xóa bỏ. Điều đó có nghĩa, căn cứ của tái phạm có sẵn từ quá khứ của người tái phạm chứ không phát sinh trong quá trình thực hiện tội phạm. 1.1.3. Ý nghĩa pháp lý hình sự của tái phạm Với đặc điểm là một tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội, có ảnh hưởng làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tái phạm cần phải được quy định trong pháp luật hình sự với tư cách là một tình tiết tăng nặng TNHS. Bên cạnh đó, trong một số tội phạm cụ thể, tái phạm còn có thể được sử dụng làm tình tiết định tội danh hoặc định khung hình phạt. Những quy định về tái phạm đó có ý nghĩa pháp lý hình sự hết sức quan trọng: Thứ nhất, việc ghi nhận tái phạm với tư cách một tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh chính sách hình sự nghiêm khắc và công bằng của Nhà nước. Coi tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện thái độ lên án gay gắt của nhà nước đối với người tái phạm. Người tái phạm cần thiết phải bị trừng phạt nghiêm khắc hơn người phạm tội lần đầu bởi vì người tái phạm đã từng phạm tội, đã từng trải qua các biện pháp trừng phạt, giáo dục, cải tạo do hành vi phạm tội trước đây mà vẫn tiếp tục phạm tội chứng tỏ tính ngoan cố, không chịu phục thiện trong nhân cách của họ. Những con người ấy đem đến mối nguy hiểm cao cho xã hội, họ phải gánh chịu biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn trường hợp phạm tội lần đầu là lẽ công bằng. Thứ hai, tình tiết tái phạm là một trong những căn cứ phân hóa TNHS. Theo các nhà khoa học luật hình sự Việt Nam: “Căn cứ để tiến hành phân hoá TNHS được hiểu là những tiêu chí giúp nhà làm luật xác định được những nhóm trường hợp phạm tội khác nhau mà xuất phát từ hỏi của các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự như nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc công bằng, nhà làm luật
  • 24. 18 cần quy định đối với từng nhóm “liều lượng” TNHS phù hợp. Khi bàn đến vấn đề TNHS, các nhà làm luật bao giờ cũng phải tính đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và những đặc điểm nhân thân người phạm tội. Nói cách khác, đây chính là các căn cứ của việc phân hóa TNHS.” [8; tr.6] Như vậy, các đặc điểm nhân thân người phạm tội là một trong những căn cứ phân hóa TNHS. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội bao gồm cả những đặc điểm làm giảm bớt tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, phản ánh khả năng cải tạo cao của người phạm tội (phạm tội lần đầu, phạm tội do trình độ lạc hậu, do trình độ nghiệp vụ non kém, tự thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội hoặc cải tạo tốt, là người chưa thành niên…); đồmg thời gồm cả những đặc điểm làm gia tăng tính nguy hiểm của hành vi phạm tội và phản ánh tình trạng khó cải tạo của người phạm tội (như: phạm tội nhiều lần, đã có tiền sự, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp...). Trong các đặc điểm về nhân thân nêu trên, tái phạm là đặc điểm làm gia tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội nên nó là căn cứ để áp dụng đường lối xử lý nghiêm khắc, cứng rắn, không khoan nhượng với người phạm tội. Nói một cách khác, sự có mặt của tình tiết tái phạm khiến cho hành vi phạm tội bị phân hóa sang nhóm cần nghiêm trị chứ không thuộc nhóm hành vi được đối xử khoan hồng, giảm nhẹ. Thứ ba, tái phạm là một trong những căn cứ quyết định hình phạt. Để hình phạt áp dụng với người phạm tội đạt được mục đích mang lại sự công bằng cho xã hội; giáo dục, cải tạo, răn đe người phạm tội; giáo dục, răn đe chung với xã hội thì hoạt động quyết định hình phạt phải căn cứ đồng thời trên: 1) quy định của BLHS; 2) tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; 3) nhân thân người phạm tội; 4) các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Là một tình tiết tăng nặng TNHS thuộc nhân thân người phạm tội nên tái phạm là một trong những căn cứ để Tòa án cân nhắc mức hình phạt (theo hướng nghiêm khắc hơn). Tuy nhiên, tình tiết tái phạm chỉ làm thay đổi “lượng” “mức”
  • 25. 19 hình phạt được quyết định trong phạm vi một khung hình phạt tương ứng được quy định cho hành vi phạm tội ấy. Ví dụ như khung hình phạt tương ứng đối với tội phạm đang xét xử được quy định là từ 12 đến 18 năm tù; nếu có tình tiết tái phạm Tòa án có thể quyết định hình phạt trong khoảng nhiều hơn 12 năm tù, gần đến và tối đa là 18 năm tù chứ không thể trên 18 năm tù. Điều này có thể hình dung giống như khung hình phạt là một chiếc bình đựng nước có dung tích cố định, người đổ nước vào là Tòa án, lượng nước chính là lượng hình phạt, Tòa án không thể vì có tình tiết tái phạm hay tình tiết tăng nặng TNHS nào khác mà đổ vào bình lượng nước lớn hơn dung tích của nó được. Nguyên lý này đảm bảo cho tính linh hoạt của hoạt động quyết định hình phạt nhằm phù hợp với sự biểu hiện đa dạng của tội phạm trong thực tế để hình phạt đạt được hiệu quả cao nhất nhưng vẫn có sự khống chế, tránh tùy tiện khi quyết định hình phạt. Với những trường hợp tái phạm được quy định là tình tiết định khung hình phạt như phân tích trong mục 1.1.2 trên thì nó là căn cứ để quyết định áp dụng khung hình phạt ấy chứ không được sử dụng làm căn cứ cân nhắc mức, lượng hình phạt trong khung được áp dụng nữa. Thứ tư, tái phạm trong một số trường hợp là căn cứ định tội danh. Căn cứ của định tội danh là cấu thành tội phạm [6; tr.44] mà trong một số trường hợp cụ thể tái phạm có thể có vai trò là một dấu hiệu cấu thành tội phạm. Đó là trường hợp của những cấu thành tội phạm mà trong đó dấu hiệu chủ thể ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực TNHS còn phải có dấu hiệu đặc biệt là tái phạm. Những cấu thành này thường là cấu thành có yếu tố thuộc mặt khách quan được định lượng, nếu không đến “lượng” đó thì hành vi chưa bị coi là nguy hiểm cho xã hội, chưa bị coi là tội phạm nhưng vì sự có mặt của tình tiết tái phạm lại làm gia tăng tính nguy hiểm khiến hành vi đó trở nên nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm. Ví dụ như trường hợp hành vi đánh bạc với giá trị dưới 2.000.000 đồng đã phân tích ở mục 1.1.2 trên đây. Hoặc trường hợp của tội trộm tài sản: các nhà làm luật Việt Nam hiện nay coi hành vi trộm tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng là có tính nguy hiểm không đáng kể, không bị coi là tội phạm
  • 26. 20 nhưng nếu hành vi này được thực hiện bởi người đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích thì tính nguy hiểm của nó gia tăng và nhà làm luật coi đó là hành vi phạm tội trộm tài sản (khi thỏa mãn cả các dấu hiệu khác của tội này). Như vậy, tái phạm (về hành vi chiếm đoạt tài sản) là dấu hiệu cấu thành bắt buộc của tội trộm tài sản trong trường hợp giá trị tài sản lấy trộm không đến 2.000.000 đồng và người phạm tội chưa có tiền sự (chưa bị xử phạt hành chính) về hành vi chiếm đoạt tài sản. Với mô hình như vậy, tình tiết tái phạm được xác định như một dấu hiệu định tội trong tổng cộng 46 tội phạm của BLHS Việt Nam hiện nay. Thứ năm, tái phạm là thước đo hiệu quả của hình phạt. Một trong bốn mục đích cơ bản của hình phạt là “cải tạo và giáo dục người bị kết án, đồng thời ngăn ngừa họ phạm tội mới” [7; tr.687]. Theo đó, sự xuất hiện của tái phạm phản ánh tình trạng kém hiệu quả, “thất bại” của hình phạt đã áp dụng. Người tái phạm đã từng bị xử lý về hình sự, từng phải gánh chịu hình phạt mà vẫn không ăn năn, hối cải hay e sợ, lại tiếp tục phạm tội chứng tỏ hình phạt trước đây, không đủ sức răn đe, cải tạo họ. Tình trạng đó đòi hỏi phải áp dụng biện pháp TNHS nghiêm khắc hơn nữa. Chính vì thế, sự có mặt của tình tiết tái phạm làm cho hình phạt áp dụng đối với bị cáo thay đổi theo chiều hướng tăng nặng. Tóm lại, qua những nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của tái phạm ở trên có thể kết luận: xét về bản chất tái phạm là tình tiết làm thay đổi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội đó theo hướng nguy hiểm hơn, đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo hướng nghiêm khắc hơn, áp dụng mức hình phạt cao hơn trong phạm vi một khung hình phạt tương ứng. 1.2. Các hình thức tái phạm Các hình thức của tái phạm chính là các cách thức biểu hiện của tái phạm hay các dạng tái phạm. Tái phạm là tình tiết mà sự có mặt của nó trong vụ phạm tội làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Theo đó các hình thức
  • 27. 21 tái phạm chính là các biểu hiện khác nhau về mức độ nguy hiểm của tái phạm. Việc xác định các hình thức tái phạm khác nhau chính là cơ sở để phân hóa TNHS, cá thể hóa TNHS. Nó vừa đảm bảo tính công bằng vừa tương ứng với sự phân hóa giữa các loại tội phạm. Hành vi tái phạm loại tội nghiêm trọng chắc chắn phải bị xử lý nghiêm khắc hơn hành vi tái phạm loại tội ít nghiêm trọng. Bên cạnh đó tính nguy hiểm của tái phạm còn được gia tăng bởi số lần phạm tội hoặc hình thức lỗi của các lần phạm tội (bao gồm cả lần phạm tội cũ và lần tái phạm). Vậy nên, về mặt lý luận cũng như trong pháp luật thực định của các nước, tái phạm thường được chia thành các hình thức khác nhau dựa trên mức độ nguy hiểm. Cách phân chia đơn giản là quy định một hình thức tái phạm chung đáp ứng các điều kiện cơ bản của tái phạm sau đó quy định các hình thức tái phạm có tính nguy hiểm cao hơn trên cơ sở nâng cao các điều kiện về loại tội phạm, hình thức lỗi hoặc khung hình phạt đối với tội phạm. Bằng cách đó, pháp luật hình sự Việt Nam mới chỉ ghi nhận hai hình thức là tái phạm và tái phạm nguy hiểm nhưng một số nước khác trên thế giới còn quy định hình thức thứ ba nữa là tái phạm đặc biệt nguy hiểm (xem cụ thể ở mục 1.5 dưới đây). 1.2.1. Tái phạm Về mặt lý luận, như đã chỉ ra ở trên, tái phạm tối thiểu phải thỏa mãn ba điều kiện: 1) trước khi phạm tội này người phạm tội đã từng bị Toàn án kết tội; 2) bản án kết tội đó đã có hiệu lực pháp luật và để lại án tích; 3) án tích chưa được xóa vào thời điểm phạm tội mới. Tuy nhiên, tái phạm là tình tiết làm tăng nặng biện pháp TNHS áp dụng với người phạm tội nên nhà làm luật chỉ xác định là tái phạm khi cho rằng tính nguy hiểm của hành vi thật sự đáng kể, thật sự cao hơn bình thường, chứ không phải cứ đáp ứng những điều lý luận trên thì đương nhiên quy định là tái phạm. Chính vì lẽ đó nên quy định về tái phạm trong pháp luật các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau bởi sự nhận thức, đánh giá về mức độ nguy hiểm của hành vi tái phạm ở các nhà làm luật là khác nhau. Ví dụ như ở Thụy Điển điều kiện xác định tái phạm ngoài vấn đề cốt lõi là có hai lần phạm tội trở lên còn liên quan đến lượng hình phạt (mà phải là hình phạt tù) áp dụng với các lần phạm tội đó. Nếu lượng hình phạt
  • 28. 22 không đến mức luật định thì không phải là tái phạm. Ở Trung Quốc hoặc Lào ngoài điều kiện có hai lần phạm tội và loại hình phạt đối với hai lần phạm tội đó còn điều kiện về khoảng thời gian từ khi chấp hành xong hình phạt cũ đến khi phạm tội mới (Xem cụ thể ở phần 1.5 dưới đây). Ở Việt Nam, các điều kiện của tái phạm lại gồm loại tội, hình thức lỗi và án tích (mà luận văn sẽ phân tích ở chương sau)… Trên cơ sở quy định pháp luật hình sự nước mình, Tòa án chỉ được áp dụng tình tiết tái phạm để xem xét TNHS của người phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện luật định. Tóm lại: Tái phạm (hay tái phạm chung) là hình thức tái phạm đáp ứng những điều kiện cơ bản của chế định tái phạm trong pháp luật hình sự thực định. 1.2.2. Tái phạm nguy hiểm Nếu như tái phạm chung bị áp dụng đường lối xử lý nghiêm khắc vì tính nguy hiểm cao đáng kể của nó thì tái phạm nguy hiểm là trường hợp tái phạm có tính nguy hiểm rất cao. Cũng có quốc gia thừa nhận trường hợp này mà cũng có quốc gia chỉ quy định tái phạm chung. Việc xác định tái phạm nguy hiểm thường dựa trên cơ sở những điều kiện đã gia tăng so với điều kiện xác định tái phạm chung. Những điều kiện gia tăng đó có thể là về loại tội, về hình thức lỗi và về số lần phạm tội. Ví dụ như trên cơ sở tái phạm chung là hành vi cố ý phạm tội bất kỳ khi có một án tích chưa được xóa thì tái phạm nguy hiểm có thể là cố ý phạm tội rất nghiêm trọng khi đang mang tiền án. Hoặc trên cơ sở tái phạm chung phạm tội bất kỳ nào đó khi có một án tích chưa được xóa thì tái phạm nguy hiểm có thể là phạm tội do cố ý khi đang mang tiền án. Hoặc cách khác như trên cở tái phạm là bị kết án lần thứ hai thì tái phạm nguy hiểm có thể là bị kết án lần thứ ba, là đã tái phạm một lần nay lại phạm tội… Dù bằng cách xác định nào đi chăng nữa, tái phạm nguy hiểm phải thể hiện được nó là hình thức tái phạm có tính nguy hiểm rất cao và tính nguy hiểm ấy rõ rệt là cao hơn tái phạm chung. Tựu chung lại: Tái phạm nguy hiểm là hình thức tái phạm có tính nguy hiểm rất cao mà để xác định nó phải thỏa mãn các điều kiện luật định có tính gia tăng so với tái phạm chung. 1.2.3. Tái phạm đặc biệt nguy hiểm
  • 29. 23 Tương tự như tái phạm nguy hiểm, tái phạm đặc biệt nguy hiểm là một hình thức biểu hiện khác của tái phạm nhưng mức độ nguy hiểm của nó đặc biệt cao so với hai hình thức trước. Tái phạm nguy hiểm dứt khoát phải thỏa mãn các điều kiện chung của tái phạm theo quy định. Ngoài ra nó còn phải thỏa mãn các điều kiện phản ánh tính đặc biệt nguy hiểm của mình mà các điều kiện ấy không còn cách xác định nào khác hơn là bằng việc gia tăng các điều kiện của hình thức tái phạm nguy hiểm. Ví dụ như trên cơ sở tái phạm nguy hiểm, tái phạm đặc biệt nguy hiểm có thể được xác định theo các mô hình sau: Loại tái phạm Loại tội đã bị kết án Loại tội đang bị xét xử Tái phạm nguy hiểm Tội bất kỳ do cố ý Tội rất nghiêm trọng do vô ý Tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý Tái phạm đặc biệt nguy hiểm Tội rất nghiêm trọng Tội rất nghiêm trọng do cố ý Tội đặc biệt nguy hiểm do cố ý Tương tự như vậy, trên cơ sở tái phạm nguy hiểm là bị kết án lần thứ ba thì tái phạm nguy hiểm có thể là bị kết án lần thứ tư… Các nhà làm luật có thể sử dụng cách gia tăng một trong các điều kiện hoặc phối hợp các điều kiện khác nhau để xác định tái phạm đặc biệt nguy hiểm nhưng dù sao tái phạm đặc biệt nguy hiểm cũng phải là hình thức có tính nguy hiểm đặc biệt cao và phải nguy hiểm hơn một cách rõ rệt so với tái phạm nguy hiểm. Như vậy, tái phạm đặc biệt nguy hiểm là hình thức tái phạm có tính nguy hiểm đặc biệt cao mà để xác định nó phải thỏa mãn các điều kiện luật định trên cơ sở gia
  • 30. 24 tăng các điều kiện của tái phạm nguy hiểm. 1.3. Phân biệt tái phạm với các dạng khác của đa (nhiều) tội phạm Là một trong các dạng của đa (nhiều) tội phạm nên bản chất của tái phạm chỉ được hiểu chính xác và đầy đủ khi phân biệt rõ với các dạng còn lại của đa tội phạm. Về các dạng biểu hiện hay các hình thức của chế định đa tội phạm trong khoa học hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Theo GS.TSKH. Lê Văn Cảm các dạng đa tội phạm theo luật hình sự Việt Nam gồm có bốn dạng là: phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm [7; tr.390]. Trong khi đó, TS. Lê Văn Đệ lại cho rằng chỉ có ba dạng nhiều tội phạm là: phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội và tái phạm, tái phạm nguy hiểm [12; tr.36]. TS. Lê Văn Đệ không cho phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là một dạng đa tội phạm độc lập mà là biểu hiện đặc biệt của phạm tội nhiều lần. Chúng tôi không tán đồng quan điểm đó vì phạm tội có tính chất chuyên nghiệp có những đặc điểm khác với phạm tội nhiều lần, khác với phạm nhiều tội và tái phạm (sẽ phân tích sau đây) nên nó cần được nghiên cứu riêng với tư cách một dạng đa tội phạm. Chúng tôi nhất trí với GS.TSKH. Lê Văn Cảm về việc coi tái phạm nguy hiểm là một hình thức biểu hiện của tái phạm nên tên gọi của dạng đa tội phạm này phải là “tái phạm” chứ không phải “tái phạm, tái phạm nguy hiểm”. Theo đó, quan điểm cho rằng đa tội phạm có bốn dạng: phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và tái phạm là chính xác. Trên cơ sở quan điểm đó, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là tái phạm sẽ lần lượt được so sánh với ba dạng đa tội phạm còn lại dưới đây: 1.3.1. Phân biệt tái phạm với phạm tội nhiều lần Cũng giống như tái phạm, phạm tội nhiều lần là một dạng của chế định đa tội phạm và được ghi nhận là tình tiết tăng nặng TNHS chung cũng như tình tiết định khung tăng nặng ở một số tội phạm cụ thể trong BLHS (cả năm 1985 và năm 1999) của nước ta. Tuy nhiên, về mặt lập pháp phạm tội nhiều lần chỉ được nêu tên chứ không được định nghĩa rõ ràng bằng một quy phạm riêng như tái
  • 31. 25 phạm. Về mặt lý luận, các nhà khoa học luật hình sự cho rằng: “Phạm tội nhiều lần là phạm từ hai tội trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều (hoặc tại cùng một khoản của điều) tương ứng trong Phần riêng BLHS, đồng thời với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội ấy vẫn chưa bị xét xử.” [7; tr.391] hoặc tương tự như vậy: “Phạm tội nhiều lần là phạm tội trong trường hợp hành vi của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của hai tội phạm trở lên mà những tội ấy được quy định tại cùng một điều hoặc một khoản của điều trong Phần các tội phạm của BLHS và bị xét xử cùng một lần” [12; tr.68]. Trong thực tiễn, để thống nhất về cách hiểu và áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần ở một số trường hợp cụ thể nên các cơ quan bảo vệ pháp luật đã ban hành văn bản giải thích rõ hơn về tình tiết này. Chẳng hạn: ngày 02/01/1998, TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ra Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/1/1998 hướng dẫn áp dụng một số điều của luật sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985. Thông tư có đưa ra khái niệm phạm tội nhiều lần ở các tội phạm có tính chất tham nhũng, tội phạm về ma túy và tình dục (chứ không phải khái niệm phạm tội nhiều lần chung cho mọi loại tội phạm). Theo đó, phạm tội nhiều lần (đối với một tội nào đó trong số các tội tham nhũng, tội về ma túy và tình dục) là trường hợp bị cáo đã phạm tội ấy từ hai lần trở lên mà mỗi lần phạm tội có đầy đủ các yếu tố của cấu thành tội phạm cơ bản trong điều luật tương ứng và người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS và tội ấy cũng chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS…[26]. Như vậy, tuy chưa được quy định đầy đủ về mặt lập pháp nhưng trong nhận thức lý luận và thực tiễn đều thống nhất về các đặc điểm hay điều kiện của phạm tội nhiều lần bao gồm: 1) Người phạm tội đã phạm tội ít nhất hai lần; 2) Các tội đã phạm được quy định trong cùng một khoản hoặc các khoản khác nhau của cùng một điều luật trong phần các tội phạm của BLHS; 3) Người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS về việc thực hiện các tội phạm
  • 32. 26 này; 4) Đối với các tội phạm này thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn. Chỉ khi nào trong một vụ án hình sự, đối với một người phạm tội thỏa mãn đồng thời cả bốn điều kiện nói trên thì Tòa án mới có đủ căn cứ áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần để xem xét TNHS của người ấy. Qua những phân tích trên cho thấy, phạm tội nhiều lần và tái phạm đều là những tình tiết mà sự có mặt của chúng làm cho hành vi phạm tội trở nên nguy hiểm hơn những trường hợp thông thường không có những tình tiết ấy. Chúng có một điều kiện chung là người phạm tội đã thực hiện hành vi phạm tội ít nhất hai lần trở lên nhưng chúng khác nhau về các điều kiện liên quan đến số điều luật mà các lần phạm tội đã vi phạm, tình trạng truy cứu và thời hiệu truy cứu TNHS đối với các lần phạm tội, trình tự thời gian giữa các lần phạm tội, dấu hiệu án tích trong nhân thân người phạm tội. Cụ thể sự khác biệt đó thể hiện trong bảng so sánh dưới đây: Tiêu chí so sánh Phạm tội nhiều lần Tái phạm Số điều luật (thuộc phần riêng BLHS) mà các lần phạm tội đã vi phạm Cùng một điều (có thể cùng một khoản hoặc các khoản khác nhau). Có thể cùng một điều hoặc các điều khác nhau. Tình trạng truy cứu TNHS đối với các tội phạm đã thực hiện Chưa bị truy cứu TNHS lần nào về các tội phạm đang xem xét. Ít nhất bị phải đã bị kết án về một trong các tội đã thực hiện và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Thời hiệu truy cứu TNHS đối với các lần phạm tội Còn thời hiệu truy cứu đối với tất cả các lần phạm tội. Chỉ cần còn thời hiệu truy cứu với tội phạm thực hiện lần sau vì tội lần trước đã bị xét xử.
  • 33. 27 Trình tự thời gian giữa các lần phạm tội Không có yêu cầu về một trình tự bắt buộc Lần phạm tội đang xét xử nhất định phải thực hiện sau khi bản án kết tội về tội phạm lần trước có hiệu lực pháp luật. Dấu hiệu án tích Người phạm tội có thể mang án tích hoặc không Người phạm tội nhất định phải mang án tích nhưng chưa được xóa 1.3.2. Phân biệt tái phạm với phạm nhiều tội Giống như phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội chưa được định nghĩa chính thức về mặt lập pháp trong BLHS Việt Nam. Trong khoa học luật hình sự, phạm nhiều tội “là trường hợp một chủ thể thực hiện hai tội trở lên mà những tội phạm đó được quy định tại các điều luật khác nhau hoặc các khoản khác nhau của một điều luật trong Phần các tội phạm của BLHS nhưng người phạm tội phải chưa bị xét xử về tội nào trong số các tội ấy” [12; tr.391]. Về cơ bản, chúng tôi đồng ý với khái niệm này duy chỉ có một điểm trong khái niệm là chưa chặt chẽ, cần phải bổ sung. Đó là trường hợp các tội đã thực hiện được quy định tại các khoản khác nhau của cùng một điều luật, nếu không làm rõ trường hợp này sẽ trùng với phạm tội nhiều lần. Nếu đối tượng của tội phạm trong các khoản của điều luật ấy không khác nhau thì việc phạm các tội ở các các khoản là phạm tội nhiều lần. Chỉ khi đối tượng của tội phạm trong các khoản bị vi phạm khác nhau thì trường hợp này mới coi là phạm nhiều tội. Ví dụ như trường hợp một người vừa phạm tội tổ chức tảo hôn cho người khác, bản thân lại phạm tội tảo hôn thì được coi là phạm nhiều tội mặc dù tội tổ chức tảo hôn và tội tảo hôn cùng được quy định tại Điều 148 BLHS năm 1999. Điểm chưa rõ ràng của khái niệm trên đã được bổ sung trong khái niệm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm như sau: “Phạm nhiều tội là phạm từ hai tội trở lên hoặc khi hành vi của người phạm tội có các dấu hiệu của từ hai tội trở lên, mà những tội ấy được quy định tại những điều khác nhau (hoặc tại những khoản
  • 34. 28 khác nhau của cùng một điều nếu các đối tượng của tội phạm khác nhau) trong Phần riêng của BLHS, đồng thời đối với những tội ấy vẫn còn thời hiệu truy cứu TNHS và người phạm tội vẫn chưa bị xét xử về tội nào trong số những tội ấy.” [7; tr.396] Tựu chung lại, phạm nhiều tội có các dấu hiệu (điều kiện) như sau: 1) Người phạm tội đã phạm ít nhất hai tội; 2) Các tội đã phạm được quy định trong luật trong Phần các tội phạm của BLHS ở các điều luật khác nhau hoặc ở các khoản khác nhau của cùng một điều mà các tội được quy định trong những khoản ấy có đối tượng tác động khác nhau; 3) Người phạm tội chưa bị truy cứu TNHS về việc thực hiện các tội phạm này; 4) Đối với các tội phạm này thời hiệu truy cứu TNHS vẫn còn. Với những dấu hiệu như vậy, phạm nhiều tội được phân biệt với tái phạm như sau: Tiêu chí so sánh Phạm nhiều tội Tái phạm Số điều luật (thuộc phần riêng BLHS) mà các lần phạm tội đã vi phạm Phải gồm nhiều điều luật khác nhau hoặc nhiều khoản khác nhau của một điều luật (nhưng đối tượng tác động của tội phạm được quy định trong đó khác nhau). Có thể cùng một điều hoặc nhiều điều luật khác nhau.
  • 35. 29 Tiêu chí so sánh Phạm nhiều tội Tái phạm Tình trạng truy cứu TNHS đối với các tội phạm đã thực hiện Chưa bị truy cứu TNHS lần nào về các tội phạm đang xem xét. Ít nhất phải đã bị kết án về một trong các tội đã thực hiện và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Thời hiệu truy cứu TNHS đối với các lần phạm tội Còn thời hiệu truy cứu đối với tất cả các tội phạm đang xem xét. Chỉ cần còn thời hiệu truy cứu với tội phạm thực hiện lần sau vì tội lần trước đã bị xét xử. Trình tự thời gian giữa các lần phạm tội Không có yêu cầu về một trình tự bắt buộc. Lần phạm tội đang xét xử nhất định phải thực hiện sau khi bản án kết tội về tội phạm lần trước có hiệu lực pháp luật. Dấu hiệu án tích Người phạm tội có thể mang án tích hoặc không. Người phạm tội nhất định phải mang án tích nhưng chưa được xóa. 1.3.3. Phân biệt tái phạm với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp cũng chưa được định nghĩa rõ ràng về mặt lập pháp giống như phạm tội nhiều lần và phạm nhiều tội. Nhưng trong khi hai dạng đa tội phạm trên được nhận thức về mặt lý luận và thực tiễn tương đối thống nhất thì ngược lại, nhận thức đối với tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp lại có sự khác biệt giữa lý luận và thực tiễn. Trên phương diện lý luận, các nhà khoa học cho rằng: “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp người phạm tội liên tiếp phạm tội và thu nhập có
  • 36. 30 được từ việc phạm tội là nguồn thu nhập chính.” [19; tr.168] Hoặc: “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là phạm tội nhiều lần, có tính chất liên tục và nhằm mục đích vụ lợi hay làm giàu bất chính mà hoạt động phạm tội đã trở thành hệ thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.” [7; tr.402] Theo như các quan điểm này, để bị coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì phải đáp ứng những điều kiện sau: 1) Phạm tội nhiều lần; 2) Khoảng cách thời gian giữa các lần phạm tội không lớn (liên tục); 3) Mục đích phạm tội là vụ lợi hay làm giàu bất chính; 4) Người phạm tội lấy lợi ích từ việc phạm tội làm thu nhập cơ bản hay nguồn sống chủ yếu. Trong thực tiễn xét xử, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp lại được Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng như sau: “Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a) Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án tích; b) Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính” [15]. Theo Hướng dẫn này phạm tội có tính chất nguy hiểm là trường hợp thỏa mãn các điều kiện: 1) Phạm tội nhiều lần (cụ thể là năm lần trở lên) do cố ý; 2) Các lần phạm tội đều phạm cùng một tội; 3) Các lần phạm tội đó nếu chưa truy cứu TNHS thì phải còn thời hiệu truy cứu, nếu đã truy cứu TNHS thì phải chưa được xóa án tích. 4) Các lần phạm tội ấy là “nghề” đem lại nguồn sinh sống chính cho người phạm tội.
  • 37. 31 Như vậy, cách hiểu của các cán bộ thực tiễn về phạm tội có tính chất nguy hiểm có ba điểm cụ thể hơn nhưng không mâu thuẫn với các nhà khoa học lý luận: thứ nhất, phạm tội nhiều lần trong tình tiết này gồm từ năm lần trở lên; thứ hai, các tội đã phạm đều do cố ý; thứ ba, các lần phạm tội phải còn thời hiệu truy cứu TNHS hoặc chưa được xóa án tích. Bên cạnh những điểm này, có một điểm mà giữa các nhà khoa học và cơ quan thực tiễn không thống nhất là các cán bộ thực tiễn cho rằng tất cả các lần phạm tội phải đều phạm cùng một tội phạm còn các nhà khoa học không đưa ra dấu hiệu đó. Theo chúng tôi, cách hiểu của các nhà thực tiễn hơi cứng nhắc và có khả năng bỏ lọt nhiều hành vi phạm tội có tính chuyên nghiệp. Đúng là trong thực tế, đa số các trường hợp phạm tội có tính chuyên nghiệp sẽ lặp đi lặp lại việc phạm một tội đã thành “nghề” kiểu như: làm nghề trộm cắp, làm nghề buôn bán ma túy, làm nghề mại dâm, làm nghề đánh bạc…Tuy nhiên cũng không thiếu những trường hợp coi việc phạm tội là nghề sinh sống và phạm nhiều loại tội khác nhau. Trong đó phổ biến nhất là dạng phạm nhiều tội khác nhau trong cùng một nhóm tội phạm ví dụ như: phạm các tội xâm phạm quyền sở hữu, phạm các tội về ma túy…Vì vậy, phạm tội có tính chất chuyên nghiệp không nhất thiết phải là phạm tội nhiều lần về cùng một tội phạm. Trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp đơn giản là trường hợp người phạm tội thường xuyên, liên tục phạm tội, lấy việc phạm tội làm nghề kiếm sống. Trường hợp đa tội phạm này có thể bao hàm cả những đặc điểm của tái phạm, phạm nhiều tội và phạm tội nhiều lần nhưng vẫn có thể phân biệt nó một cách rõ ràng với tái phạm như sau: Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Tái phạm
  • 38. 32 Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Tái phạm Số lần phạm tội của người phạm tội Nhiều một cách rõ ràng (chẳng hạn năm lần trở lên như hướng dẫn xét xử ở nước ta hiện nay). Chỉ cần từ hai lần trở lên. Tình trạng truy cứu TNHS đối với các tội phạm đã thực hiện Có thể đã bị truy cứu TNHS hoặc chưa từng bị truy cứu TNHS. Ít nhất phải đã bị kết án về một trong các tội đã thực hiện và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật. Thời hiệu truy cứu TNHS và án tích đối với các lần phạm tội Đối với tất cả các lần phạm tội phải: hoặc là còn thời hiệu truy cứu TNHS hoặc là còn án tích. Chỉ cần còn thời hiệu truy cứu TNHS với tội phạm thực hiện lần sau và còn án tích về tội phạm thực hiện lần trước. Khoảng cách thời gian giữa các lần phạm tội Ngắn và liên tục. Không nhất thiết là ngắn hay dài, liên tục hay ngắt quãng miễn là tội phạm đang xét xử được thực hiện sau khi bản án kết tội về tội phạm lần trước có hiệu lực pháp luật.
  • 39. 33 Tiêu chí so sánh Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp Tái phạm Động cơ phạm tội Nhất định là động cơ vụ lợi, để kiếm sống hoặc để giàu có. Bất kỳ động cơ nào. 1.4. Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm và sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm Tái phạm được quy định trong pháp luật hình sự với tư cách một tình tiết tăng nặng TNHS chung hoặc tình tiết định khung tăng năng của tội phạm cụ thể. Điều đó có nghĩa nhà làm luật áp dụng đường lối xử lý nghiêm khắc đối với hành vi tái phạm. Sở dĩ như vậy là vì tái phạm có tính nguy hiểm cao hơn hẳn so với phạm tội thông thường và việc trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm là một tất yếu. 1.4.1. Tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm Tính nguy hiểm của tái phạm trước hết thể hiện ở số lượng hành vi phạm tội: Bản chất của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên thực hiện một tội phạm dưới bất kỳ hình thức nào cũng gây nguy hiểm cho xã hội. Trong khi đó, tái phạm không đơn giản là thực hiện một tội phạm mà lại là một hình thức đa tội phạm. Điều đó có nghĩa người tái phạm là người thực hiện nhiều hành vi phạm tội (ít nhất là hai). Thực hiện một hành vi phạm tội đã là nguy hiểm thì thực hiện nhiều hành vi phạm tội chắc chắn phải nguy hiểm đáng kể. Tính nguy hiểm của tái phạm thể hiện ở ý thức chủ quan của người phạm tội: Người tái phạm là người đã từng bị kết án, bị áp dụng biện pháp TNHS nhưng vẫn tiếp tục phạm tội. Điều đó cho thấy ý thức chủ quan ở người phạm tội là bất chấp, coi thường pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội vì mong muốn cá nhân. Về mặt lập pháp, các nhà làm luật trên thế giới cũng thường lấy hình thức lỗi cố ý làm căn cứ xác định tái phạm bởi vì hình thức lỗi cố ý mới thể hiện hết tính bất chấp, coi thường pháp luật, mong muốn phạm tội. Trong thực tiễn, hành vi
  • 40. 34 tái phạm cũng thường biểu hiện với lỗi cố ý bởi vì người đã từng bị xử lý TNHS sẽ do sợ hãi hoặc hối cải mà “cẩn thận” hơn, kìm chế hơn, không để bản thân phạm tội. Do đó, khó có khả năng họ vô ý phạm tội mới. Tính nguy hiểm của tái phạm còn thể hiện ở khả năng cải tạo của người phạm tội: Việc đã từng bị xử lý hình sự, bị áp dụng hành phạt mà vẫn không sợ hãi, ăn năn, hối cải chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo đối với người phạm tội đó rất thấp. Người này nếu có cơ hội vẫn sẽ tiếp tục gây nguy hiểm cho xã hội. Ở phương diện này, tái phạm không chỉ nguy hiểm hơn hành vi phạm tội đơn nhất tương ứng mà còn nguy hiểm hơn hẳn các dạng đa tội phạm khác. Ở những dạng đa tội phạm khác như phạm nhiều tội, phạm tội nhiều lần thì người phạm tội chưa phải trải qua các biện pháp TNHS, tức là chưa bị trừng trị cũng như giáo dục, cải tạo nên khả năng cải tạo của họ chưa được đo lường. Khả năng cải tạo người tái phạm biểu hiện kém một cách rõ rệt vì đã được răn đe, giáo dục nhưng không có chuyển biến. Do tính nguy hiểm đáng kể của tái phạm nên trong Tờ trình Quốc hội về Dự án BLHS sửa đổi số 461/CPPC của Chính phủ ngày 05/05/1999 đã kiến nghị mở rộng phạm vi trấn áp đối với tái phạm bởi: “Khi một người đã bị Tòa án kết án, tức là đã được cơ quan pháp luật xử lý, giáo dục mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi chưa được xóa án tích, thì như vậy đã chứng tỏ rằng người đó có thái độ coi thường và bất chấp pháp luật…” 1.4.2. Sự cần thiết phải trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm Tái phạm cần phải bị trừng phạt nghiêm khắc để thể hiện đường lối xử lý công minh, nghiêm khắc của pháp luật hình sự. Sự trừng phạt nghiêm khắc đối với tái phạm tương xứng với tính nguy hiểm của nó là một lẽ công bằng bởi vì hành vi có tính nguy hiểm cao phải bị trừng phạt nghiêm khắc hơn hành có tính nguy hiểm thấp. Việc tái phạm bị trừng phạt nghiêm khắc còn thể hiện thái độ lên án gay gắt, kiên quyết trấn áp đối với những người có ý thức coi thường, bất chấp pháp luật của Nhà nước. Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để phân hóa TNHS và quyết
  • 41. 35 định hình phạt chính xác đối người phạm tội trong trường hợp cụ thể. Các biện pháp TNHS được quy định chung cho mỗi tội phạm nhưng hành vi phạm tội trong thực tiễn biểu hiện rất đa dạng, phong phú, không thể áp dụng duy nhất một mức hình phạt cho tất cả các hành vi phạm về cùng một tội. Cũng chính vì thế nên luật hình sự không bao giờ quy định một hình phạt “cứng” riêng rẽ mà luôn xác định một khung “mềm” để cơ quan áp dụng pháp luật lựa chọn linh hoạt trong phạm vi khung đó. Việc lựa chọn áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người tái phạm (hoặc người phạm tội có các tình tiết tăng nặng TNHS khác) hay áp dụng hình phạt ít nghiêm khắc đối với người phạm tội lần đầu (hoặc người phạm tội có các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác) trong phạm vi luật định thể hiện sự phân hóa TNHS và tính công bằng, chính xác trong quyết định hình phạt. Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để đảm bảo khả năng giáo dục, cải tạo người tái phạm. Như đã phân tích ở trên, hành vi tái phạm phản ánh khả năng cải tạo kém của người phạm tội so với trường hợp phạm tội thông thường, không có tái phạm. Do đó, nếu áp dụng biện pháp xử lý đối với người tái phạm chỉ như đối với người không tái phạm sẽ không đảm bảo khả năng cải tạo, ngăn ngừa họ phạm tội lần nữa. Sự trừng phạt nghiêm khắc người tái phạm thể hiện một hi vọng là với những hình phạt tăng nặng đó người phạm tội sẽ biết sợ hãi, hối cải, không còn thái độ bất chấp pháp luật. Tái phạm cần được trừng phạt nghiêm khắc để làm một giải pháp phòng ngừa tái phạm. Việc quy định tái phạm là tình tiết tăng nặng TNHS có tác dụng to lớn trong việc răn đe những người đã từng phạm tội. Nhận thức rằng việc bản thân phạm tội lần nữa sẽ bị trừng phạt rất nghiêm khắc khiến cho người đã từng phạm tội biết kiềm chế bản thân mình hơn, làm giảm khả năng họ tái phạm. 1.5. Quy định về tái phạm trong luật hình sự của một số nước trên thế giới Sự có mặt của tình tiết tái phạm làm gia tăng mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Điều này được thừa nhận bởi các nhà lập pháp hình sự ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, quy định về tái phạm của các nước lại không
  • 42. 36 giống nhau. Việc nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật hình sự của các nước về tái phạm sẽ đem lại những kinh nghiệm lập pháp quý giá cho Việt Nam trong việc hoàn thiện chế định này. Tái phạm trong luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào: Nước láng giềng của Việt Nam là Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào xác định một phạm vi khá hẹp những trường hợp bị coi là tái phạm. BLHS Lào năm 1989, sửa đổi năm 2007 quy định như sau: “Tái phạm là người đã bị kết án tù và lại phạm tội trong vòng 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt.” [1; tr.17]. Theo quy định này tái phạm có hai điều kiện: 1) Người phạm tội trước đây đã phạm tội và bị kết tù về tội phạm đó; 2) Tội phạm lần này là bất kỳ tội phạm nào được thực hiện trong vòng 5 năm từ khi chấp hành xong hình phạt tù do phạm tội lần trước. Với điều kiện thứ nhất, các nhà lập pháp Lào đã loại bỏ ra khỏi chế định tái phạm trường hợp người phạm tội trước đây đã từng bị kết án với hình phạt khác, không phải hình phạt tù. Có lẽ điều này xuất phát từ quan điểm nhân đạo cho rằng những tội phạm chưa nghiêm trọng đến mức bị áp dụng hình phạt tù có tính nguy hiểm không cao, không nên coi là căn cứ để xác định tái phạm nếu chủ thể sau đó phạm tội mới. Nhưng với điều kiện thứ hai thì BLHS Lào đã bỏ qua một trường hợp tái phạm nguy hiểm hơn hẳn các trường hợp tái phạm khác là trường hợp chưa chấp hành xong hình phạt đã tái phạm. Lấy mốc thời gian “trong vòng 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù do phạm tội lần trước” để xác định tái phạm chứng tỏ các nhà làm luật cho rằng hành vi phạm tội mới được thực hiện trong khoảng thời gian càng gần với lần phạm tội đã bị kết án thì càng có tính nguy hiểm cao. Theo đó, phạm tội mới ngay từ khi chưa chấp hành xong hình phạt về tội cũ phải nguy hiểm hơn là phạm tội mới sau khi chấp hành xong hình phạt về tội cũ. Như vậy, trong BLHS Lào, trường hợp tái phạm có tính nguy hiểm cao hơn đã bị bỏ qua trong khi trường hợp tái phạm có tính nguy hiểm thấp hơn lại được ghi nhận. Tái phạm trong luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
  • 43. 37 Cũng là một nước láng giềng khác của Việt Nam, trong BLHS năm 1997 (sửa đổi năm 2001) của Trung Hoa, khái niệm tái phạm được quy định tại Điều 65: “Người phạm tội bị phạt tù từ có thời hạn trở lên, trong vòng 5 năm sau khi chấp hành xong án hoặc được ân xá lại phạm tội đáng bị xử phạt tử tù có thời hạn trở lên gọi là tái phạm phải chịu hình phạt nặng, nhưng được từ tội đã phạm trước đó.” [41; tr.60] Mặc dù có mô tả khác nhau nhưng về cơ bản điều kiện của tái phạm trong BLHS của Trung Hoa giống với BLHS Lào, chỉ khác hơn ở chỗ BLHS Trung Hoa yêu cầu tội phạm thực hiện lần này (lần tái phạm) phải là loại tội có mức hình phạt từ tù có thời hạn trở lên. Cụ thể, điều kiện của tái phạm theo BLHS Trung Hoa năm 1997 là: 1) Người phạm tội trước đây đã phạm tội, đã bị kết án về tội phạm đó với hình phạt tù có thời hạn trở lên; 2) Tội phạm lần này là tội phạm có mức hình phạt từ tù có thời hạn trở lên; 3) Tội phạm lần này được thực hiện trong vòng 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù do phạm tội lần trước hoặc kể từ khi được ân xá. Như vậy, cùng một kỹ thuật lập pháp nhưng phạm vi áp dụng tình tiết tái phạm trong luật hình sự Trung Hoa hẹp hơn luật hình sự Lào. Luật hình sự Lào chỉ yêu cầu lần phạm tội trước phải bị kết án tù còn luật hình sự Trung Hoa yêu cầu cả lần phạm tội trước phải bị kết án tù lẫn lần phạm tội mới phải có mức hình phạt tù trở lên mới là tái phạm. Có thể xem như BLHS Trung Hoa nhân đạo hơn nhưng vẫn mắc một lỗi thiếu logic giống BLHS Lào là bỏ qua trường hợp tái phạm của người phạm tội mới khi còn chưa chấp hành xong hình phạt của tội phạm cũ. Tái phạm trong luật hình sự Nhật Bản: Cũng ở châu Á nhưng không giống hai nước Lào và Trung Quốc, luật hình sự của Nhật Bản không sử dụng thuật ngữ “tái phạm“ mà sử dụng thuật ngữ “kết án nhiều lần”. Kết án nhiều lần được quy định bởi một chương riêng - Chương X trong BLHS Nhật Bản với hai hình thức: kết án lần thứ hai và kết án lần thứ ba
  • 44. 38 trở lên. Có thể hình dung kết án lần thứ hai tương ứng với tái phạm còn kết án lần thứ ba trở lên tương ứng với tái phạm nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm trong pháp luật các nước khác. Khái niệm kết án lần thứ hai được quy định tại Điều 56 BLHS Nhật Bản như sau: “1. Kết án lần thứ hai là trường hợp một người đã bị kết án tù có lao động bắt buộc lại phạm một tội mới trong vòng 5 năm kể từ ngày hình phạt cũ đã được chấp hành xong hoặc đã được miễn và bị kết án tù có thời hạn lao động bắt buộc. 2. Tương tự như vậy áp dụng đối với người bị kết án tử hình về tội có cùng bản chất như tội bị phạt tù có lao động bắt buộc, lại phạm tội mới trong thời hạn nói tại khoản 1 trên đây, kể từ ngày hình phạt tử hình được miễn hoặc từ ngày hình phạt tù có lao động bắt buộc thay thế cho hình phạt tử hình đã được chấp hành xong hoặc được miễn và bị kết án tù có thời hạn có lao động bắt buộc. 3. Khi một người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà trong đó có bất cứ tội nào bị xử phạt bằng hình phạt tù có lao động bắt buộc, thì người đó được coi như bị kết án tù có lao động bắt buộc trong việc áp dụng các quy định liên quan đến kết án lần thứ hai, thậm chí tội phạm đó không phải là tội nặng nhất.” [2; tr.20] Theo quy định này kết án lần thứ hai gồm các điều kiện: 1) Người phạm tội trước đây đã bị kết án với hình phạt tù có lao động bắt buộc; 2) Trong vòng 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt của bản án cũ hoặc kể từ khi được miễn hình phạt của bản án cũ lại phạm tội mới; 3) Tội tội mới này theo quy định của BLHS cũng sẽ bị kết án với hình phạt tù có lao động bắt buộc; Ngoài ra, Điều luật cũng hướng dẫn về vẫn việc áp dụng tình tiết kết án hai lần tương tự như trên đối với trường hợp người bị kết án tử hình sau đó được miễn hoặc được chuyển sang hình phạt tù có lao động bắt buộc và trường hợp người phạm nhiều tội trong đó có một tội bị kết án hình phạt tù có lao động bắt