SlideShare a Scribd company logo
1 of 74
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN PHƯỚC THU
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS . TRẦN NGỌC LIÊM
HÀ NỘI - 2014
2
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................4
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................6
Chương 1: KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM
TÀI SẢN...................................................................................................9
1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản ................9
1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản.............................................9
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản .....................................13
1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm
khác..........................................................................................................15
1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản.......18
1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản........................................18
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản........................21
1.3. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản 24
1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản ........................................24
1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản ..................26
1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản......................................27
1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản31
1.3.4.1. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm................................................31
1.3.4.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm........................................33
1.4. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản .........36
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP
ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN..............................................................38
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài
sản ...........................................................................................................38
2.2. Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản
.................................................................................................................39
2.2.1. Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản.....................................39
2.2.2. Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản.........................................41
2.2.3. Về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tài sản.............................49
2.2.4. Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản............................................................................................................51
2.2.5. Về hợp đồng bảo hiểm trùng.........................................................54
2.2.6. Về giải quyết tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm tài sản................57
Chương 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN........................58
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở
Việt Nam.................................................................................................58
3
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm
tài sản......................................................................................................59
KẾT LUẬN.............................................................................................71
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................73
4
DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang
Bảng 1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và
các loại hợp đồng bảo hiểm khác...............................................................12
5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm
WTO : World Trade Organization
PGS.TS : Phó giáo sư . Tiến sĩ
6
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã hình thành và phát triển tại cách đây
hàng ngàn năm, và đã trở thành một cơ chế quan trọng trong việc hạn chế tác
hại của rủi ro. Ngày nay hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở
thành ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với
nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng, phong phú ăn sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội và trở thành một nhu cầu không thể thiếu của hoạt động thương
mại và đời sống thường nhật của con người. Rõ ràng sự phát triển của dịch vụ
bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Dịch vụ bảo
hiểm góp phần quan trọng vào việc khắc phục hậu quả của các rủi ro cho nền
kinh tế và đời sống xã hội. Lợi ích này của dịch vụ bảo hiểm do phương thức
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tạo ra. Quỹ bảo hiểm mà
các doanh nghiệp bảo hiểm có được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do
nhiều người tham gia bảo hiểm, nhưng chỉ chi trả cho các trường hợp thuộc
diện được bảo hiểm theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Chính vì vậy, dịch vụ
bảo hiểm tạo ra khả năng vật chất để khắc phục hậu quả của các rủi ro. Ngoài
ra, dịch vụ bảo hiểm đóng vai trò là công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế.
Điều này thể hiện ở chỗ, do sự chênh lệch giữa thời gian thu phí và chi trả tiền
bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm nên tạo ra sự tạm thời nhàn rỗi của vốn.
Nguồn vốn này có thể khai thác để đầu tư.
Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các nước trên
thế giới do thiếu vắng của sự phát triển thương mại suốt thời kỳ phong kiến.
Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, và nhất là sự ra đời của Luật Kinh doanh
bảo hiểm 2000 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình tồn phát triển của
bảo hiểm ở Việt Nam.
7
Kinh doanh bảo hiểm làm phát sinh các quan hệ đặc biệt giữa doanh
nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Quan hệ này chính là quan hệ
hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm, ngoài những đặc tính của hợp đồng nói chung,
còn có một số đặc trưng riêng do mang những đặc tính của dịch vụ tài chính,
có nghĩa là liên quan tới quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quĩ bảo
hiểm thương mại. Hợp đồng bảo hiểm thường được nhìn dưới nhiều giác độ
khác nhau, do đó ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật
khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải
và Luật Hàng không dân dụng... Các đạo luật này đôi khi mâu thuẫn với nhau
gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng.
Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm sao cho phù hợp với sự
phát triển của xã hội, của kinh tế, bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia
đang là một vấn đề cấp thiết. Trong đó hợp đồng bảo hiểm tài sản là một vấn
đề pháp lý chủ chốt. Việc nghiên cứu đề tài này không còn là mới trong
khoa học pháp lý, nhưng nghiên cứu sâu về nó trong hoàn cảnh của Việt
Nam hiện nay, sau khi pháp luật đã có những qui định tương đối cụ thể
song lại khó đi vào đời sống và còn là vấn đề pháp lý xa lạ với người dân
nói chung và thương nhân nói riêng, vẫn còn tính cấp thiết.
Vì vậy các lẽ nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng
bảo hiểm tài sản ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của Luận văn bao gồm:
+ Hệ thống các vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm tài sản làm cơ sở
cho việc nghiên cứu các qui định pháp luật hiện hành của Việt Nam;
+ Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài
sản;
8
+ Kiến nghị các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kinh tế bảo hiểm và các
nghiệp vụ bảo hiểm, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu phương diện pháp lý của
hợp đồng bảo hiểm tài sản. Luận văn cũng không nghiên cứu các kỹ năng liên
quan của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
3. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác-Lê Nin, và các
đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước liên quan tới kinh tế và pháp
lý.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn bao gồm: phương pháp
phân tích, thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích qui phạm pháp luật;
phương pháp so sánh pháp luật và phương pháp trừu tượng hóa...
4. Kết cấu của Luận văn
Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, nội dung chủ yếu của Luận văn được
chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Khái luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài
sản.
Chương 3: Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp
đồng bảo hiểm tài sản.
9
Chương 1
KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ
HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN
1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản
Nói tới hợp đồng là nói tới hành vi pháp lý đa phương hay nói tới sự
thỏa thuận giữa hai hay nhiều người làm tạo lập ra một hậu quả pháp lý [2, tr.
12 – 13]. Khoản 1, Điều 12, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 định nghĩa:
“Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều 567, Bộ luật Dân sự
năm 2005 có định nghĩa tương tự nhưng với một số thuật ngữ khác biệt như
sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo
hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo
hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
Bảo hiểm gắn liền với các rủi ro mà khi xảy ra có thể gây thiệt hại về
vật chất và tinh thần cho con người. Khi nghiên cứu về rủi ro, người ta phân
loại chúng thành rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính [1, tr. 14 – 18]. Bởi chỉ
có thể bù đắp các thiệt hại về vật chất, nên chỉ có thể bảo hiểm các rủi ro tài
chính, có nghĩa là các rủi ro mang tới thiệt hại về tài chính cho người phải
gánh chịu. Qua các định nghĩa trên có thể thấy bảo hiểm là một cơ chế mà
theo đó người nhận bảo hiểm (hay doanh nghiệp bảo hiểm) thay vì nhận một
khoản tiền (được gọi là phí bảo hiểm) từ người mua bảo hiểm, phải bồi thường
bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xãy ra (có nghĩa là có rủi ro xảy ra gây thiệt
hại về tài chính cho người được bảo hiểm hay người thụ hưởng bảo hiểm).
10
Vậy hợp đồng bảo hiểm được xem là hình thức pháp lý của cơ chế bảo hiểm
đó. Vì nhằm tìm kiểm một cam kết hỗ trợ về tài chính từ phía doanh nghiệp
bảo hiểm để nhằm bù đắp những thiệt hại của mình, bên mua bảo hiểm và
doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là sự
thỏa thuận chuyển giao rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo
hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm (có thể được coi như giá
của rủi ro) để đổi lấy một cam kết bảo đảm về tài chính với điều kiện gắn vào
trường hợp bên mua bảo hiểm phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do
rủi ro (sự kiện bảo hiểm) [5, tr. 18].
Sự kiện bảo hiểm là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống trong đời
sống thực tế được các bên dự liệu và ghi vào hợp đồng bảo hiểm hoặc do pháp
luật qui định liên quan trực tiếp đến đối tượng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có
thể phân chia làm hai loại: Thứ nhất, sự kiện bảo hiểm là rủi ro. Với đặc tính
bất lợi và bất ngờ, rủi ro trực tiếp xâm hại đến sự tồn tại của đối tượng bảo
hiểm hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của người được bảo hiểm. Khi rủi
ro mà các bên đã dự liệu trong hợp đồng hoặc pháp luật qui định xảy ra trên
thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh
nghệp bảo hiểm. Thứ hai, sự kiện bảo hiểm là những sự kiện, hoàn cảnh, tình
huống không mang tính bất lợi, bất ngờ nhưng do các bên thỏa thuận hoặc
pháp luật qui định nếu xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền
bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm [4, tr. 306 – 307].
Trong thực tế hiện nay, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chủ yếu hiện nay là các
bên không xác định được chính xác sự kiện bảo hiểm như thế nào. Do đó việc
bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm chưa được đáp ứng
một cách thỏa đáng.
Từ những phân tích trên ta có thể khái quát đặc trưng cơ bản của hợp
đồng bảo hiểm như sau:
11
Thứ nhất, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng gắn với các sự kiện
ngẫu nhiên mang tính may rủi;
Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm chính là giải quyết hậu quả
của rủi ro;
Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm không xác định được trước hậu quả khi
giao kết;
Thứ tư, việc xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phụ
thuộc vào việc có xuất hiện hay không các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may
rủi [5, tr. 19].
Trong hợp đồng bảo hiểm, các bên tìm kiếm khả năng để phân phối
những tổn thất có thể xảy ra do sự không may mắn, để tìm cách san sẻ rủi ro,
nhằm làm cân bằng tài sản. Mục đích của bảo hiểm là bù đắp tài chính để khắc
phục thiệt hại, nhằm khôi phục lại tình trạng tài chính của bên mua bảo hiểm
như ban đầu khi chưa bị tổn thất. Về nguyên tắc, sự đền bù này chỉ có thể
bằng mà không thể tốt hơn trạng thái ban đầu của đối tượng bảo hiểm khi
chưa bị tổn thất. Bên mua bảo hiểm không thể được hưởng lợi thông qua giao
kết hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm thường được phân loại theo nghiệp vụ bảo hiểm.
Các nghiệp vụ này được phân chia thành hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ
và bảo hiểm phi nhân thọ. Trong bảo hiểm phi nhân thọ có bảo hiểm tài sản.
Hợp đồng bảo hiểm tài sản, về bản chất cũng được hiểu như hợp đồng
bảo hiểm nói chung, nhưng đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là tài sản. Như
vậy đối tượng của hợp đống bảo hiểm tài sản bị thu hẹp hơn so với hợp đồng
bảo hiểm nói chung. Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 qui định:
“Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực,
tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Căn cứ vào đối tượng
của hợp đồng ta có thể phân biệt được hợp đồng bảo hiểm tài sản với các hợp
12
đồng bảo hiểm khác vì đối tượng hợp đồng là căn cứ cơ bản để phân loại hợp
đồng và để xác định được bản chất, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản của từng loại
hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm con người có đối tượng là tuổi thọ,
tính mạng, sức khỏe và tai nạn không thể định giá bằng tiền hoặc thay thế
được. Ngoài con người còn có các mối quan hệ nhân thân phi tài sản, do đó
pháp luật không qui định chặt chẽ đối với bên mua bảo hiểm. Hợp đồng bảo
hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của
người được bảo hiểm đối với người thứ ba. Trong khi đó, Hợp đồng bảo hiểm
tài sản với đối tượng chính là tài sản lại được điều chỉnh sâu về phương diện
đề phòng trục lợi bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định trật tự và đạo đức xã hội.
Với các qui định nhằm định giá trị tài sản và số tiền bảo hiểm, ngăn chặn các
nguy cơ trục lợi bảo hiểm thông thường như bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm
trên giá trị và bảo hiểm trùng, đồng thời gắn kết trách nhiệm của chủ tài sản
không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, có nghĩa vụ cung cấp thông tin về
thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm và thay đổi những biện pháp an toàn đối
với tài sản được bảo hiểm. Bên cạnh đó doanh nghiệp bảo hiểm có quyền
kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến
nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng trừ, hạn chế
các tổn thất, có quyền yêu cầu chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn.
Các định nghĩa nêu trên cho thấy đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo
hiểm, đó là việc ghi nhận sự thỏa thuận và thực hiện cam kết của các bên gắn
với việc xảy ra một “sự kiện bảo hiểm”. Theo qui định của pháp luật Việt
Nam, “sự kiện bảo hiểm” được định nghĩa là “sự kiện khách quan do các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật qui định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm” (Điều 3, khoản10, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000).
13
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm có đối tượng bảo
hiểm là tài sản. Hợp đồng bảo hiểm taì sản được giao kết để đối phó với hậu
quả do rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm. Do sự khác biệt
về đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm tài sản có những đặc điểm riêng:
+ Quyền bảo hiểm tài sản của người tham gia bảo hiểm: quyền bảo
hiểm tài sản cho phép một người giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản để đảm
bảo cho tài sản mà họ có lợi ích ở đó. Quyền này của một chủ thể phát sinh
trên cơ sở tồn tại một mối liên hệ về quyền lợi giữa người đó với tài sản.Theo
nguyên tắc quyền bảo hiểm tài sản, bất cứ ai khi có quyền lợi có thể được đảm
hiểm trong tài sản thì đều có quyền mua bảo hiểm để đảm bảo cho quyền lợi
đó của mình.
Khoản 9, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định: “quyền lợi
có thể được bảo hiểm trong tài sản thể hiện và phát sinh từ mối quan hệ về
quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng và quyền tài sản” mà bên mua bảo hiểm
có trong đối tượng tài sản bảo hiểm.
+ Tính bồi thường trong bảo hiểm tài sản: bảo hiểm tài sản tuân thủ
theo nguyên tắc bồi thường, theo đó, những thiệt hại mà rủi ro gây ra đối với
tài sản của người được bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường,
tuy nhiên bên được bảo hiểm trong bất kì trường hợp nào cũng không thể nhận
được một khoản tiền cao hơn thiệt hại thực tế mà người đó phải gánh chịu.
Bảo hiểm tài sản là một loại hình bảo hiểm đối với thiệt hại, nó nhằm đảm bảo
cho người được bảo hiểm có tình hình tài chính ổn định như thể rủi ro không
xaỷ ra. Mục đích của bảo hiểm rài sản chính là khôi phục lại (càng sát càng
tốt) tình trạng như trước khi xảy ra rủi ro chứ không phải tạo cơ hội cho người
được bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, do đó số
14
tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm luôn tương ứng với thiệt hại thực
tế của tài sản [6, tr. 38].
Điều kiện để người được bảo hiểm có thể được bồi thường là phải xảy
ra sự kiện bảo hiểm và có thiệt hại thực tế. Việc bồi thường của doanh nghiệp
bảo hiểm sẽ căn cứ trên cơ sở tính toán mức thiệt hại thực tế, trong trường
hợp xảy ra rủi ro nhưng khả năng bị thiệt hại không xuất hiện thì doanh
nghiệp bảo hiểm không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình.
+ Giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng
bảo hiểm tài sản: giới hạn trách nhiệm là mức trách nhiệm cao nhất của bên
bảo hiểm đối với người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro. Giới
hạn trách nhiệm bảo hiểm được thể hiện dưới hình thức một số tiền bảo hiểm
nhất định ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản,
số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của tài sản tại thời
điểm giao kết hợp đồng. Vì vậy giá trị thực tế của tài sản chính là mức cao
nhất của số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn, có thể bằng
nhưng tuyệt đối không được vượt quá giá trị thực tế của tài sản. Vì người
tham gia bảo hiểm không có quyền lợi đối với phần số tiền bảo hiểm vượt quá
giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm nên phần vượt quá giá trị trong hợp
đồng bảo hiểm tài sản sẽ không có hiệu lực.
+ Quyền thế quyền của doanh nghiệp bảo hiểm: Trong quan hệ bảo
hiểm tài sản, doanh nghiệp bảo hiểm sau khi đã bồi thường cho người được
bảo hiểm, có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã trả
nếu người đó có lỗi gây ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm
được thế quyền người được bảo hiểm truy đòi lợi ích đối với người thứ ba khi
người này gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Luật không cho phép người
được bảo hiểm đồng thời yêu cầu người bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hợp đồng
bảo hiểm đã kí kết đồng thời tự mình truy đòi người thứ ba bồi thường cho
15
mình trừ trường hợp đối với những phần thiệt hại không được bảo hiểm.
Ngược lại, do mối liên hệ chặt chẽ giữa bồi thường và việc thế quyền, bên bảo
hiểm không được phép yêu cầu người thứ ba bồi hoàn nhiều hơn số tiền bồi
thường mà họ đã chi. Như vậy nguyên tắc bồi thường khiến cả bên bảo hiểm
và bên được bảo hiểm đều không thể thu lợi từ việc thực hiện quyền của mình
[9, tr. 80].
Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc thế quyền trên cơ sở đảm bảo
các điều kiện sau:
+Việc xảy ra sự kiện bảo hiểm là do người thứ ba gây nên
+ Sự kiện bảo hiểm đó nằm trong phạm vi bảo hiểm
+Doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường
1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo
hiểm khác
Bảng1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng
bảo hiểm khác
Tiêu chí HĐBH tài sản HĐBH con người HĐBH trách nhiệm dân sự
Đối
tượng
Tài sản bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá
được bằng tiền và các
quyền tài sản.
Tuổi thọ, tính mạng,
sức khỏe và tai nạn.
Trách nhiệm dân sự của
người được bảo hiểm đối
với người thứ ba theo qui
định của pháp luật.
16
Thời
hạn
bảo
hiểm
Thời hạn bảo hiểm
khoảng dưới 1 năm, ngay
sau khi kí kết Hợp đồng
bảo hiểm kết thúc bên
tham gia bảo hiểm có thể
tái tục bảo hiểm có nghĩa
là kí tiếp một thời gian
bảo hiểm tiếp theo.
Thời hạn bảo hiểm
tương đối dài, đặc
biệt là những hợp
đồng bảo hiểm nhân
thọ nên trong quá
trình thực hiện hợp
đồng người tham gia
có quyền thay đổi nội
dung của hợp đồng.
Thời hại của bảo hiểm
thường khoảng dưới 1
năm đối với người bảo
hiểm, việc đảm nhiệm
trách nhiệm bồi thường
dân sự nghĩa là bên mua
bảo hiểm phải chi trả tiền
thiệt hại do mình gây ra
cho người khác.Khi mua
bảo hiểm công ty bảo
hiểm sẽ gánh vác chi trả
việc này.
Thanh
toán
bồi
thường
Là loại bồi thường và có
mức giới hạn bồi thường
cao nhất.Trường hợp tài
sản được bảo hiểm rủi ro
thuộc phạm vi bảo
hiểm,thực tế tổn thất bao
nhiêu sẽ được bồi thường
bấy nhiêu tuy nhiên trong
quá trình xem xét bồi
thường còn căn cứ vào
mức độ đóng phí bảo
hiểm, thời hạn nộp phí
bảo hiểm trùng và mức
miễn trách nhiệm bồi
thường.
Là loại hợp đồng
thanh toán định mức
phí bảo hiểm này chủ
yếu áp dụng nguyên
tắc khoán, số tiền bảo
hiểm không hạn chế
chủ yếu là do hai bên
bàn bạc thống nhất ý
chí với nhau là được.
Là loại bồi thường thanh
toán chỉ trong giới hạn và
trong phạm vi trách
nhiệm bồi thường về mặt
kinh tế chứ không chịu
trách nhiệm bồi thường
khác của người được bảo
hiểm trước pháp luật như:
trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm hình sự…
17
Trách
nhiệm
với
người
thứ 3
Trong quá trình thực hiện
hợp đồng, nếu người thứ
ba có lỗi gây thiệt hại cho
tài sản được bảo hiểm thì
công ty bảo hiểm vẫn phải
bồi thường, nhưng bên
tham gia bảo hiểm vẫn
phải chuyển quyền yêu
cầu người thứ ba bồi hoàn
khoản tiền mà mình đã
nhận cho công ty bảo
hiểm.Nếu bên tham gia
bảo hiểm từ chối yêu cầu
trên thì công ty bảo hiểm
có quyền khấu trừ số tiền
bồi thường theo mức độ
lỗi của bên tham gia bảo
hiểm.
Trong quá trình thực
hiện hợp đồng,nếu
bên thứ ba gây ra lỗi
thì công ty bảo hiểm
không được yêu cầu
người thứ ba bồi
hoàn.Nếu họ trực tiếp
hoặc gián tiếp gây
nên cái chết, thương
tật cho người được
bảo hiểm thì công ty
bảo hiểm vẫn phải
thực hiện nghĩa vụ
trả tiền bảo hiểm theo
đúng thỏa thuận
trong hợp đồng bảo
hiểm, đồng thời
người thứ ba vẫn
phải bồi thường cho
người được bảo hiểm
theo qui định của
pháp luật.
Thực chất đây là loại bảo
hiểm, mà công ty bảo
hiểm có trách nhiệm gián
tiếp đối với người thứ ba
vì trong thời gian thực
hiện hợp đồng khi có sự
kiện làm gây thiệt hại cho
người thứ ba mà bên thứ
ba yêu cầu người được
bảo hiểm bồi thường, thì
công ty bảo hiểm đứng ra
gánh chịu trách nhiệm đó
chứ công ty bảo hiểm
không chịu trách nhiệm
trực tiếp với người thứ
ba.
18
1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có nét đặc thù khác hẳn với các lĩnh vực
kinh doanh khác, ở lĩnh vực này việc mua bán sản phẩm bảo hiểm không
mang tính “ngang giá”. Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo hiểm)
nhưng lại không được nhận vào thời điểm đó sự phục vụ (cam kết) của doanh
nghiệp bảo hiểm và hoàn toàn không biết chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà
mình đã bỏ tiền ra mua. Chất lượng sản phẩm chỉ được thể hiện khi có sự kiện
bảo hiểm xảy ra, tức là khi đến hạn hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ), hoặc khi
người được bảo hiểm bị thiệt hại về thân thể hoặc tài sản hoặc phát sinh trách
nhiệm dân sự phải bồi thường theo quy định của luật pháp và trong khuôn khổ
những cam kết của người bảo hiểm. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ ngay cả
người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng đều không biết khi nào thì sự
kiện bảo hiểm xảy ra (trừ bảo hiểm nhân thọ khi đến hạn hợp đồng) bởi trong
bảo hiểm phi nhân thọ người bảo hiểm chỉ nhận những rủi ro có thể xảy ra chứ
không chắc chắn xảy ra. Chính vì nét đặc thù này mà hầu hết các nước trên thế
giới đều coi trọng tầm quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên do các
yếu tố lịch sử và truyền thống pháp lí khác của các nước khác nhau, mà có các
qui định khác nhau về hợp đồng bảo hiểm.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng
bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người
được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo
hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận
một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi
ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát
19
hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo
hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi
và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội . Mở
đường cho sự phát triển này là Luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth,
sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban
hành. Đó là những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải.
Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu
bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt
13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt
hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước
Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra
thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như: “Fire Office” (năm 1667),
“Friendly Society” (năm 1684), “Hand and Hand” (năm 1696), “Lom Bard
House” (năm 1704)... Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ
hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt
động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm [9, tr. 5].
Còn ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào
chứng minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội
bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ... đã để ý
đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt Nam bởi các
Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm một
Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của
Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ
sở tại Sài Gòn - đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về
bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng
20
dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo
hiểm trong nước và ngoại quốc.
Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là
Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt
chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập
khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương…. Công ty bảo hiểm này hoạt động theo cơ
chế nhà nước độc quyền, thì các qui phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng
bảo hiểm còn nhiều thiếu sót và hiệu lực pháp lý thấp. Trước những năm 90,
nhũng qui định liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo
hiểm tài sản nói riêng chủ yếu được điều chỉnh bởi các Quyết định hay Thông
tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai một số nghiệp vụ
bảo hiểm và ban hành theo đó một số nguyên tắc, điều khoản bảo hiểm được
phép áp dụng. Hầu hết các quy tắc, điều khoản bảo hiểm đều là sự sao chép
các điều khoản bảo hiểm nước ngoài được áp dụng vào Việt Nam, với tính
chất là hợp đồng bảo hiểm theo mẫu, được quy định sẵn trong quy tắc bảo
hiểm, do một bên bảo hiểm đưa ra. Nên sẽ không tránh khỏi việc áp đặt ý chí
chủ quan của một bên chủ thể kinh doanh bảo hiểm, các quyền nghĩa vụ của
các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm chưa thực sự được bình
đẳng. Trước những đòi hỏi thực tế của cơ chế đổi mới xã hội, các văn bản
pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực về hợp đồng được ban hành. Có thể nói
Bộ luật Hàng hải 1990 là văn bản đầu tiên có giái trị pháp lý cao điều chỉnh về
hợp đồng bảo hiểm nhưng trong Bộ luật này cũng chỉ điều chỉnh giới hạn các
vấn đề bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải còn các vấn đề khác thì không được
nêu ra. Bộ luật Hàng hải hiện nay đã được sửa đổi và có hiệu lực năm 2005
nhưng nó vẫn cũng chỉ điều chỉnh một phần về hợp đồng bảo hiểm trong lĩnh
vực hàng hải mà thôi [8, tr. 6].
21
Đứng trước sự phát triển của thị trường bảo hiểm, sự bảo đảm quyền lợi
chính đáng của người tham gia bảo hiểm, ngày 22/12/2000 Luật Kinh doanh
bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/04/2001, đây là văn bản
có tính chuyên ngành đầu tiên ghi nhận về hợp đồng bảo hiểm, trong đạo luật
này cũng qui định khá rõ nét về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia
bảo hiểm. Mặt khác trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng đã phân chia
các hình thức king doanh bảo hiểm, căn cứ vào đặc trưng mỗi hình thức mà
các nhà làm luật qui định khác nhau đảm bảo việc áp dụng pháp luật được dễ
dàng, khắc phục được phần nào những vướng mắc trong quá trình thực hiện
luật và đảm bảo được sự ổn định trong môi trường kinh doanh bảo hiểm. Sự
ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm từ năm 2000 đến nay đã thể hiện tính ưu
việt của nó, tạo được sự yên tâm cho các chủ thể tham gia hợp đồng trên khía
cạnh như : môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, thủ tục tiến hành đăng kí kinh
doanh bảo hiểm…Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta hiện
nay, việc ban hành các qui định của pháp luật còn phải phù hợp với xu hướng
chung của nền kinh tế và cần phải có sự điều chỉnh một cách cụ thể và chi tiết
hơn để các bên thực hiện được dễ dàng hơn.
1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản được thiết lập nhằm cung cấp sự đảm bảo về
tài chính cho người mua bảo hiểm trong trường hợp bị thiệt hại liên quan tới
tài sản như bị hư hỏng hay tổn thất bởi việc xảy ra một sự kiện bảo hiểm. Mặt
khác, hợp đồng bảo hiểm tài sản còn có ý nghĩa to lớn trong việc phân chia rủi
ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm
xảy ra. Vì đối tượng mà hợp đồng bảo hiểm tài sản trực tiếp bảo vệ không
phải là tài sản (với tư cách là đối tượng bảo hiểm) mà là quyền lợi tài chính
mà bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản đó.
22
Thực tế, hợp đồng bảo hiểm được thiết lập với mục đích là cung cấp
đảm bảo tài chính cho bên tham gia bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục
hậu quả thiệt hại xảy ra khi có sự kiện bảo hiểm. Thông qua hợp đồng bảo
hiểm, đối tượng được bảo hiểm sẽ được bảo hiểm một cách gián tiếp theo yêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm để hạn chế rủi ro hoặc hạn chế thiệt hại khi có
rủi ro. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tài sản với rủi ro cháy cho một ngôi nhà, thì
mặc dù ngôi nhà đó chính là đối tượng tài sản bảo hiểm, là đối tượng trực tiếp
bị đe dọa và bị tổn thất, phá hủy khi xảy ra cháy, nhưng bản chất và vai trò
của hợp đồng bảo hiểm được cấp ra không phải là bảo hiểm hay bảo vệ trực
tiếp cho bản thân ngôi nhà hay các vật liệu tạo nên ngôi nhà đó (đối tượng bảo
hiểm), mà hợp đồng bảo hiểm tài sản cung cấp sự bảo vệ cho quyền lợi của
bên mua bảo hiểm có trong ngôi nhà đó. Bản chất và chức năng của hợp đồng
bảo hiểm trong trường hợp này sẽ cung cấp đảm bảo tài chính cho bên mua
bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục hậu quả, thiệt hại sau khi cháy, sửa
chữa lại hay xây ngôi nhà mới. Chức năng bảo vệ tài sản thông qua việc giao
kết hợp đồng bảo hiểm chỉ được thể hiện một cách gián tiếp qua việc thực
hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất của doanh nghiệp bảo hiểm.
Doanh nghiệp bảo hiểm có thể khuyến nghị bên mua bảo hiểm áp dụng các
biện pháp phòng tránh để đảm bảo an toàn cho tài sản, cũng như trực tiếp
cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, trang bị các phương tiện phòng tránh làm giảm
thiểu khả năng xảy ra tổn thất cho đối tượng tài sản.
Tại bất kì thời điểm nào, sự an toàn về tài sản cũng bị đe dọa bởi các
yếu tố rủi ro luôn tiềm ẩn bởi các hiện tượng thiên tai bất khả kháng như bão,
lũ lụt, động đất, núi lửa…cũng có thể do bất cẩn của con người như cháy nổ,
va đập…gây ra những thiệt hại thì việc tham gia bảo hiểm tài sản có vai trò
quan trọng trong nền kinh tế nói riêng và cuộc sống hàng ngày nói chung.
Thông qua việc trả tiền bồi thường, cung cấp sự trợ giúp hữu hiệu về tài chính
23
cho Bên mua bảo hiểm trước những rủi ro tổn thất, nhanh chóng khắc phục
hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh thì bảo hiểm tài sản ngày càng
được quan tâm của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Hơn nữa với sự phát
triển, mở rộng đa dạng các loại hình bảo hiểm tài sản hiện nay như: bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường
hàng không; bảo hiểm thân tàu biển; bảo hiểm vật chất xe cơ giới; bảo hiểm
thân máy bay; bảo hiểm cháy nổ; bảo hiểm nhà tư nhân; bảo hiểm xây dựng
và lắp đặt; bảo hiểm dầu khí; bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi);
bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; bảo hiểm gián đoạn kinh doanh… Bảo
hiểm tài sản ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và không thể thiếu trong
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, sản xuất, kinh doanh.
Các thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm gắn với các sự kiện rủi ro bất
ngờ trong tương lai, được thực hiện ngược với chu trình sản xuất kinh doanh
bình thường, ở đó bên mua bảo hiểm khi đã trả trước phí bảo hiểm thì chỉ
nhận được cam kết bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, có vẻ như vô hình,
và không thể định trước được chất lượng. Việc mua bán sản phẩm bảo hiểm
không mang tính “ngang giá”. Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo
hiểm) nhưng lại không nhận được ngay từ thời điểm đó các cam kết tài chính
của doanh nghiệp bảo hiểm. Các cam kết này chỉ được thực hiện khi xảy ra
những sự kiện nhất định trong hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ); hoặc khi xảy
ra những rủi ro bất ngờ, gây thiệt hại về người và tài sản, hay làm phát sinh
trách nhiệm của bên mua bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là hình thức pháp lý quan trọng, xác lập và đảm bảo
quyền lợi của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi
của Bên mua bảo hiểm trong trường hợp không may gặp những sự cố, rủi ro
thiệt hại trong cuộc sống. Quan hệ hợp đồng bảo hiểm luôn là đối tượng đặc
biệt quan trọng được pháp luật điều chỉnh. Các nước trên thế giới, mặc dù đã
24
có luật chung về Hợp đồng nhưng hầu hết các nước đều đưa vào Luật bảo
hiểm các qui định về Hợp đồng bảo hiểm, hoặc có luật riêng về hợp đồng bảo
hiểm (như cộng hòa Liên Bang Đức,Pháp, Úc,Trung quốc…). Hiện nay pháp
luật Việt Nam đã có nhiều văn bản điều chỉnh về Hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động kinh
doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền
kinh tế của mỗi quốc gia [7, tr. 4]. Kimh doanh bảo hiểm được coi là tấm lá
chắn kinh tế cho các cá nhân tổ chức nhằm khắc phục thiệt hại xảy ra, đồng
thời thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua chức năng trung gian tài chính đầu
tư cho nền kinh tế. Các sản phẩm bảo hiểm được xây dựng dựa trên mục tiêu
là sự ổn định của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế, tạo môi trường ổn định
sinh hoạt, kinh doanh. Việc nghiên cứu đánh giá các loại hình bảo hiểm không
nằm ngoài mục tiêu đó, việc nghiên cứu đánh giá càng chi tiết các loại hình
bảo hiểm càng giúp cho mọi người nhận thức tốt hơn và đảm bảo quyền lợi
của mình hơn khi tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy, đề tài này chỉ tập trung
nghiên cứu cải cách pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
1.3. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản
1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản được thiết lập giữa bên bảo hiểm và bên
mua bảo hiểm, có nghĩa là hợp đồng được giao kết giữa doanh nghiệp bảo
hiểm và người mua bảo hiểm. Họ là những chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài
sản.
Thứ nhất, nói về doanh nghiệp bảo hiểm:
Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm và các qui định khác
của pháp luật có liên quan để hoạt động kinh doanh bảo hiểm, và kinh doanh
25
tái bảo hiểm. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hiện nay theo pháp luật Việt
Nam tồn tại dưới các hình thức:
+ Công ty cổ phần bảo hiểm;
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm;
+ Hợp tác xã bảo hiểm;
+ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ (Theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010).
Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 trong các hình thức kinh doanh
bảo hiểm còn có doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm
liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài (khoản 4, Điều 59).
Do kinh doanh bảo hiểm có đặc thù riêng tác động rộng lớn tới xã hội và có
khả năng tài chính lớn, nên hầu hết pháp luật các nước đều coi kinh doanh bảo
hiểm là loại hình kinh doanh có điều kiện. Ở Việt Nam các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm phải được Bộ Tài chính cấp phép thành lập và hoạt động. Bộ
Tài chính có quyền kiểm soát hoạt động cấp giấy phép cho các doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm. Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tài sản nói
riêng và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung, để được phép hoạt động
trong lĩnh vực mà mình đăng ký, phải bảo đảm một số điều kiện nhất định
như: có vốn pháp định; người điều hành phải có năng lực quản lý chuyên môn
nghiệp vụ về bảo hiểm; sản phẩm bảo hiểm dự kiến….
Thứ hai, nói về bên mua bảo hiểm:
Theo khoản 6, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, “bên mua bảo
hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo
hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được
bảo hiểm hoặc người thụ hưởng”. Thông thường trong bảo hiểm tài sản bên
mua bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm,
26
đồng thời họ cũng chính là người được bảo hiểm, có nghĩa là người có tài sản
được bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản nhà làm luật không đề cập
đến vấn đề “người thụ hưởng”. Khoản 8, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm
2000 qui định: “người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân của bên mua bảo hiểm
chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng”. Tuy nhiên, thực tế khi tham
gia hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng có sự xuất hiện của người thụ hưởng bảo
hiểm (ví dụ: trong hoạt động vay vốn ngân hàng để mua bảo hiểm cho tài sản
là đối tượng bảo hiểm thì ngân hàng cho vay thường yêu cầu bên đi vay chỉ
định người thụ hưởng khi tài sản đi vay có tổn thất mà bên đi vay chưa thực
hiện được nghĩa vụ của mình với ngân hàng hoặc trong bảo hiểm học sinh…).
Như các chủ thể khác, người mua bảo hiểm khi muốn trở thành một bên
của hợp đồng thì cũng phải đáp ứng các điều kiện theo qui định của pháp luật
về năng lực hành vi (chẳng hạn đối với cá nhân thì phải có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ; còn đối với tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân và phải có
năng lực giao kết hợp đồng).
1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng là một dạng của hợp đồng dân sự hay
hợp đồng thương mại. Vì vậy để một hợp đồng bảo hiểm tài sản có hiệu lực
thì hợp đồng đó cũng phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
giống như bất kể hợp đồng dân sự nào khác. Cần lưu ý tới các vấn đề sau về
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản:
- Mọi thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đó phải được xác lập trên
cơ sở tự do ý chí và tự nguyện cam kết. Cam kết của các bên trong hợp đồng
phải thể hiện ý chí chung đích thực của họ. Bất cứ thỏa thuận hợp đồng nào
không thể hiện ý chí thực của các bên ký kết đều vô hiệu.
27
- Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải có đủ năng lực pháp lí cần
thiết theo qui định của pháp luật. Chủ thể giao kết hợp đồng phải có đủ năng
lực pháp luật nếu là pháp nhân, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
nếu là cá nhân. Người tham gia giao kết hợp đồng có thể tự mình đứng ra ký
kết hợp đồng hoặc kí thông qua người đại diện hợp pháp của mình.
- Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản thì tại thời điểm giao kết hợp
đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm phải đang tồn tại. Đồng thời tại thời điểm
giao kết hợp đồng bảo hiểm,bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy
ra.
- Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với các qui định của pháp luật.
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định cụ thể như sau: “Hợp đồng bảo hiểm
phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy
chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức
khác do pháp luật quy định”( Điều 14).
1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản là loại hợp đồng khá đặc biệt do đặc thù liên
quan tới khách thể và đối tượng của hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng có thể
tồn tại trong khoảng thời gian rất dài. Nội dung của hợp đồng phức tạp bao
gồm nhiều điều khoản, quy tắc. Do đó hầu hết các nước đều qui định hợp
đồng bảo hiểm tài sản phải lập thành văn bản. Hoạt động bảo hiểm được thực
hiện trên cơ sở quy luật lấy số đông bù số ít. Bởi thế số lượng hợp đồng
thường rất lớn, rất nhiều sản phẩm bảo hiểm có thể được triển khai cho một
đối tượng bảo hiểm. Hệ quả là hợp đồng bảo hiểm tài sản rất đa dạng, phong
phú, mỗi loại tài sản lại có thể đòi hỏi một hình thức văn bản hợp đồng bảo
hiểm tương thích.
28
Điều 570, Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Hợp đồng bảo hiểm phải
được lập thành văn bản, giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ ký của bên mua bảo
hiểm là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận
bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo
hiểm”. Điều 14, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định “Hợp đồng bảo
hiểm phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là
giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức
khác do pháp luật quy định”.
Do tính chất đặc thù của hợp đồng bảo hiểm, nên thông thường các điều
khoản ghi nhận nội dung của hợp đồng bảo hiểm được soạn theo mẫu do bên
doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Thông thường tồn tại dưới dạng Quy tắc bảo
hiểm, Đơn bảo hiểm do Bộ Tài chính ban hành hoặc do doanh nghiệp ban
hành trên cơ sở có sự phê chuẩn, hay chấp nhận của Bộ Tài chính. Nội dung
các quy tắc, điều khoản bảo hiểm này có thể chứa đựng hầu hết các nội dung
phải có của một hợp đồng bảo hiểm tài sản theo qui định của Điều 13, Luật
Kinh doanh bảo hiểm 2000, bao gồm:
+ Đối tượng bảo hiểm;
+ Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm;
+ Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; số tiền bảo hiểm, giá trị
tàu sản được bảo hiểm;
+ Thời hạn bảo hiểm;
+ Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm;
+ Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường;
+ Các qui định giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng bảo hiểm.
Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm nói chung, cũng như hợp đồng bảo hiểm tài
sản nói riêng có hình thức khá khác biệt so với hình thức của các chủng loại
hợp đồng khác trong lĩnh vực dân sự và thương mại.
29
Hình thức hợp đồng bảo hiểm thường không được thể hiện bằng một
văn bản hợp đồng thông thường, qui định đầy đủ các nội dung cam kết cũng
như quyền và nghĩa vụ của các bên, mà bao gồm một bộ văn bản như: giấy
yêu cầu bảo hiểm của bên mua bảo hiểm cùng với quy tắc, điều khoản bảo
hiểm, phụ lục, giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm và một số giấy tờ
pháp lý khác do các bên thỏa thuận. Các văn bản đó có thể cùng nhau tạo
thành một bản hợp đồng bảo hiểm tài sản hoàn chỉnh. Sự phân biệt giữa các
loại giấy tờ trong hợp đồng này chỉ mang tính chất pháp lý.
Giấy yêu cầu bảo hiểm là giấy cam kết của bên mua bảo hiểm yêu cầu
tham gia hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Giấy yêu cầu
bảo hiểm, mặc dù không được pháp luật điều chỉnh và không có giá trị pháp lý
ràng buộc các bên, nhưng cũng được coi là một bộ phận cấu thành hợp đồng
bảo hiểm.Trong thực tiễn, nó lại có vai trò quan trọng thể hiện ý chí tự nguyện
tham gia bảo hiểm của bên mua bảo hiểm, cũng như có thể được sử dụng làm
bằng chứng khi các bên có tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ khai báo của bên
mua bảo hiểm khi có yêu cầu giao kết hợp đồng bảo hiểm. Giấy yêu cầu chủ
yếu bao gồm các nội dung về khai báo rủi ro, đối tượng bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm và các thông tin khác, cùng với cam kết và chữ kí của bên mua bảo
hiểm. Khi đã chấp nhận bảo hiểm, giấy yêu cầu bảo hiểm được doanh nghiệp
bảo hiểm lưu một bản như là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo
hiểm.
Đơn bảo hiểm là bản tóm tắt hợp đồng bảo hiểm theo khuôn mẫu in sẵn
các điểm chính của hợp đồng, quy tắc được áp dụng. Phần quan trọng nhất của
đơn bảo hiểm là các điều khoản chính. Phần này thường ghi chi tiết những gì
doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu và cam kết thực hiện. Ngoài ra trong đơn này,
doanh nghiệp bảo hiểm còn nêu rõ rằng có các điểm loại trừ và diễn đạt chúng
trong những điều khoản đơn giản và các ghi nhận người được bảo hiểm phải
30
tuân theo mọi điều khoản của đơn bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải khai báo
cho công ty bảo hiểm bất kỳ những thay đổi quan trọng nào về rủi ro xảy ra.
Đơn bảo hiểm chỉ có chữ ký đơn phương của doanh nghiệp bảo hiểm là một
bộ phận của hợp đồng bảo hiểm tài sản và chỉ có giá trị khi kèm theo giấy tờ
yêu cầu bảo hiểm có chữ ký của bên mua bảo hiểm.
Giấy chứng nhận bảo hiểm thường không có đặc điểm của đơn bảo
hiểm mà chỉ ghi nhận những thông tin cơ bản nhất về hợp đồng và áp dụng
cho các nghiệp vụ mang tính chất bắt buộc vì nó không những là bằng chứng
giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản mà còn mang tính chất pháp lý xác nhận
bên mua bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng (đối với lĩnh vực
mà pháp luật yêu cầu mua bảo hiểm bắt buộc như: bảo hiểm hàng hải, bảo
hiểm đường bộ, đường hàng không…).
Hợp đồng bảo hiểm thông thường được trình bày theo mẫu do doanh
nghiệp bảo hiểm tự xây dựng trên cơ sở các qui định của pháp luật hiện hành
về bảo hiểm và có tính đến mức độ phù hợp với loại hình mà nó phục vụ.
Thực tiễn, việc hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm ở các nước trên thế giới cho
thấy, hợp đồng bảo hiểm thường theo mẫu in sẵn, trong đó có sẵn các điều
khoản chung và điều kiện bảo hiểm và điền thêm các nội dung cụ thể về các
điều kiện và điều khoản riêng của từng quan hệ bảo hiểm cũng được sử dụng
rộng rãi, nhưng phải theo qui định của pháp luật. Hiện nay, hầu hết các doanh
nghiệp đều cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho người tham
gia bảo hiểm. Do đó, việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và chấp nhận bảo hiểm
giữa các bên không đồng nghĩa với việc các bên cùng đồng ký vào văn bản
hợp đồng như những hợp đồng thương mại, hợp đồng dân sự thông dụng
khác. Đại đa số trường hợp, trên cơ sở một giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ kí
xác nhận của bên mua bảo hiểm, thì khi chấp nhận bảo hiểm doanh nghiệp
bảo hiểm chỉ cần đơn phương ký vào văn bản chấp nhận bảo hiểm (giấy
31
chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm hoặc các hình thức khác theo qui định)
và cấp cho bên mua bảo hiểm. Pháp luật chung về hợp đồng dân sự và hợp
đồng thương mại không cho phép làm như vậy.
1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài
sản
Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng song vụ mà theo đó các bên đều
có quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. Quyền của bên này ứng với nghĩa vụ của
bên kia, và ngược lại. Việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là
mục đích của hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng và của hợp đồng nói chung.
Do đó nghiên cứu cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh bởi hợp
đồng là rất cần thiết.
1.3.4.1. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm
Bên mua bảo hiểm có các nghĩa vụ chủ yếu sau đây:
+ Khai báo rủi ro và cung cấp thông tin liên quan đến đối tượng tài sản
bảo hiểm là nghĩa vụ đầu tiên mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện khi đề
nghị giao kết hợp đồng. Việc khai báo căn cứ vào các nội dung được đưa ra
trong mẫu giấy yêu cầu bảo hiểm do doanh nghiệp soạn thảo. Dựa vào sự khai
báo này doanh nghiệp bảo hiểm mới có căn cứ đánh giá được rủi ro và đưa ra
quyết định có chấp nhận hay không chấp nhận việc bảo hiểm, cũng như định
ra giá phí mà người được bảo hiểm phải trả. Hợp đồng bảo hiểm được giao kết
và thực hiện trên nguyên tắc tin tưởng và trung thực tuyệt đối, do đó, pháp
luật cấm bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp
đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường.
+ Trả phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng
là nghĩa vụ quan trọng và tiên quyết mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện để
32
hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, cũng như duy trì hiệu lực trong quá trình thực
hiện. Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cho phép các bên có thể thỏa
thuận về việc đóng phí bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm có thể đóng phí
bảo hiểm một lần hoặc đóng theo định kỳ.
+ Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát
sinh thêm trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là một nghĩa vụ
quan trọng bởi rủi ro là vấn đề trọng tâm của bảo hiểm. Bất cứ sự gia tăng rủi
ro nào cho đối tượng bảo hiểm cũng đều ảnh hưởng đến việc phải tăng phí bảo
hiểm cũng như xem xét lại các điều kiện chấp nhận bảo hiểm của Doanh
nghiệp bảo hiểm. Vì vậy, trường hợp bên mua bảo hiểm không thực hiện
nghĩa vụ này hoặc không chấp nhận đóng tăng phí cho thời gian bảo hiểm còn
lại, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ Hợp đồng bảo
hiểm.
+ Thông báo sự kiện bảo hiểm, thiệt hại là một nghĩa vụ cần thiết để
bảo đảm chi trả bảo hiểm một cách đúng đắn. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra,
bên mua bảo hiểm phải “thông báo cho doanh nghiệp biết về việc xảy ra sự
kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng” (điểm d, khoản 2, Điều 18,
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Thông thường các bên trong hợp đồng thỏa
thuận về việc thông báo phụ thuộc vào từng loại hình bảo hiểm. Việc thông
báo ngay sự kiện bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh
nghiệp bảo hiểm trong việc kiểm soát tổn thất, giám định tổn thất, cũng như
kịp thời có các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại. Việc bên
mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì sẽ phát sinh quyền của doanh nghiệp
bảo hiểm áp dụng qui định loại trừ bảo hiểm để từ chối bồi thường được qui
định tại khoản 3, Điều 16, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000.
+ Áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm bảo đảm
an toàn cho đối tượng tài sản bảo hiểm là nghĩa vụ bắt buộc của bên mua bảo
33
hiểm. Theo qui định tại Điều 50, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, nghĩa vụ
này có thể là “phải thực hiện các qui định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn
lao động, vệ sinh lao động và những qui định khác của pháp luật có liên quan
nhằm đảm bảo an toàn cho đối tượng được bảo hiểm”. Doanh nghiệp bảo
hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc
khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng biện pháp an toàn, hạn
chế rủi ro. Quy định này nêu ra với mục đích nhằm hạn chế việc bên mua bảo
hiểm không quan tâm, coi sóc tài sản để mặc cho tài sản được bảo hiểm hư
hỏng, xảy ra sự kiện bảo hiểm để nhận tiền bồi thường (khoản 3, Điều 50, và
điểm c, khoản 1, Điều 17, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000).
+ Bảo lưu và chuyển quyền yêu cầu đòi người gây thứ 3 gây thiệt hại
cho doanh nghiệp bảo hiểm là nghĩa vụ có tính đặc thù phát sinh từ hợp đồng
bảo hiểm tài sản. Khi có sự kiện xảy ra do lỗi của bên thứ 3, bên mua bảo
hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thì bên mua bảo hiểm không có
quyền đòi bên thứ 3 bồi thường thêm cho mình hoặc xóa bỏ nghĩa vụ cho bên
thứ 3 không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường với mình mà phải chuyển
quyền yêu cầu đó cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm từ
chối chuyển quyền cho doanh nghiệp bảo hiểm, không bảo lưu hoặc từ bỏ
quyền yêu cầu người thứ 3 bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền
chiết khấu số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm
(Điều 49, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000).
Ngoài ra các nghĩa vụ kể trên, người mua bảo hiểm còn có các nghĩa vụ
khác do luật định mà có thể ghi vào không không ghi vào hợp đồng.
1.3.4.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm
Doanh nghiệp bảo hiểm có các nghĩa vụ chủ yếu sau phát sinh từ hợp
đồng bảo hiểm tài sản:
34
+ Nghĩa vụ cung cấp mọi thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm,
giải thích điều kiện, điều khoản bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo
hiểm cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ này được qui
định tại Điều 16, Điều 17 và Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000.
Đây là nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo
hiểm tài sản nói riêng, bởi hợp đồng bảo hiểm thường được lập dựa trên các
hợp đồng mẫu do doanh nghiệp bảo hiểm lập nên phù hợp với từng loại đối
tượng của hợp đồng. Các điều khoản trong hợp đồng không phải kết quả của
việc thỏa thuận và nhượng bộ của các bên, bên mua bảo hiểm chỉ có thể tán
đồng nếu chọn và không thể thỏa thuận để thay đổi theo ý chí của mình. Hơn
nữa hợp đồng bảo hểm thường có nội dung phức tạp với rất nhiều từ ngữ
chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm, đặc biệt là “điều khoản loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm”, nên gây không ít khó khăn cho bên mua bảo hiểm. Do đó việc
phát sinh tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm là điều dễ hiểu, thường là do
các bên không hiểu đúng các qui định có liên quan đến “điều khoản loại trừ
trách nhiệm bảo hiểm”. Nếu luật không qui định rõ nghĩa vụ này và bên doanh
nghiệp bảo hiểm không thực hiện nghiêm túc và sẽ gây thiệt hại cho bên tham
gia bảo hiểm, và đem lại lợi ích không hợp pháp cho doanh nghiệp bảo hiểm.
Trong quá trình giao kết hợp đồng, nếu như doanh nghiệp không thực hiện
nghĩa vụ này, bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
bảo hiểm tài sản và yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại do việc cung
cấp thông tin sai sự thật (khoản 3, Điều 9, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000).
+ Nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm. Đây là những
bằng chứng quan trọng thể hiện việc giao kết hợp đồng, là bằng chứng pháp lí
ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với các tổn thất mà bên
mua bảo hiểm phải gánh chịu khi xảy ra một sự kiện bảo hiểm nên buộc
doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện.
35
+ Nghĩa vụ giảm phí bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm khi
có yếu tố làm giảm rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm (khoản 1, Điều 20,
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm tài
sản vì nhiều lý do khác nhau mà doanh nghiệp bảo hiểm tăng phí bảo hiểm,
trong quá trình thực hiện hợp đồng những lý do đó không còn mà bên mua
vẫn phải đóng phí với mức giá cao thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu
doanh nghiệp giảm mức phí bảo hiểm tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản
được bảo hiểm.
+ Nghĩa vụ bồi thường và trả tiền bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm
phải thực hiện cam kết bồi thường hay trả tiền theo những thỏa thuận trong
hợp đồng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Theo qui định của Điều 28, Luật Kinh
doanh bảo hiểm 2000, thì thời hạn yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo
hiểm hoặc bồi thường của bên mua bảo hiểm là một năm, kể từ ngày xảy ra sự
kiện bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền kịp thời và đầy
đủ theo thời hạn ghi trong hợp đồng trong trường hợp không có thỏa thuận về
thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền hoặc bồi thường trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ (Điều 29, Luật Kinh
doanh bảo hiểm 2000). Trong trường hợp từ chối bồi thường bảo hiểm đối
với thiệt hại xảy ra không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ
trách nhiệm bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích bằng văn bản
lí do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường (Điều 17, Luật Kinh
doanh bảo hiểm 2000).
Ngoài ra các nghĩa vụ chủ yếu nêu trên, doanh nghiệp bảo hiểm còn có
một số nghĩa vụ khác theo qui định của pháp luật.
36
1.4. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản
Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản là một lĩnh vực pháp luật nằm
trong hệ thống luật tư, cụ thể là luật thương mại. Xét từ tất cả các giác độ, hợp
đồng bảo hiểm là hành vi thương mại do bản chất bởi không có ai làm hành vi
bảo hiểm để tiêu dùng mà để nhằm mục tiêu lợi nhuận. Sự ra đời của bảo
hiểm, cũng như hoạt động bảo hiểm gắn chặt chẽ với các hoạt động thương
mại. Do đó thông thường bảo hiểm được điểu chỉnh bởi đạo luật thương mại.
Tuy nhiên nhiều lập luận cho rằng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có các qui
định về hợp đồng bảo hiểm, trong khi đó Luật Thương mại Việt Nam 2005
không có các qui định về loại hợp đồng này nên hợp đồng bảo hiểm là hợp
đồng có bản chất dân sự. Cần lưu ý rằng Bộ luật Dân sự 2005 điều chỉnh cả
các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, và kinh doanh, thương
mại (Điều 1, Bộ luật Dân sự 2005 ), và Luật Thương mại 2005 không phải là
một đạo luật hoàn chỉnh về thương mại bởi chỉ điều tiết các hoạt động mua
bán hàng hóa và một số dịch vụ khác, không bao trùm toàn bộ các hành vi
thương mại. Rất nhiều nước giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo hiểm cho
Bộ Thương mại [3]. Thực tế bảo hiểm được lưu ý nhiều trong các văn kiện
của WTO và các văn kiện thương mại quốc tế khác.
Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm mang các đặc điểm chung của luật hợp
đồng. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, các đặc điểm đó bao gồm:
Thứ nhất, luật hợp đồng mang tính chất luật tư điển hình. Luật hợp
đồng thuộc lĩnh vực luật tư, và mang tính điển hình bởi nhà nước đặt ra nhằm
hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ cho các quyền lợi của tư nhân và chỉ giới hạn các
quyền lợi này khi có lý do thật sự chính đáng từ phía cộng đồng.
Thứ hai, luật hợp đồng là một luật hỗ trợ. Khi giao kết hợp đồng, các
bên thiết lập luật giữa họ với nhau. Khi hợp đồng đã được thiết lập, các bên
trong quan hệ hợp đồng đó phải tuân thủ các qui tắc xử sự mà họ đã đặt ra với
37
nhau. Nếu vi phạm qui tắc xử sự đó, thì hợp đồng là nguồn đầu tiên để giải
quyết tranh chấp, và toà án có thể áp dụng chế tài đối với người vi phạm. Do
đó luật hợp đồng chỉ nên được xem là một luật hỗ trợ.
Thứ ba, luật hợp đồng là một luật không đầy đủ. Hợp đồng được tạo
lập nên bởi ý chí của các bên, nên phạm vi của hợp đồng rất rộng lớn. Nhà
làm luật không thể dự liệu được tất cả các loại hợp đồng, trong khi các dạng
hợp đồng ngày một nhiều lên và phức tạp dần theo thời gian [2, tr. 132 - 140].
Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản điều tiết quan hệ giữa các bên
trong hợp đồng bảo hiểm có vị thế bình đẳng và dựa trên tài sản của họ và vì
lợi ích riêng của họ. Do đó họ có quyền tự do thỏa thuận tự định đoạt. Nhà
nước chỉ can thiệp vào quyền lợi của họ khi có lý do chính đáng từ phía cộng
đồng. Hợp đồng bảo hiểm tài sản là luật giữa các bên trong quan hệ hợp đồng
này. Bản thân pháp luật về loại hợp đồng này không thể qui định đầy đủ các
vấn đề liên quan. Vì vậy nguồn của pháp luật hợp đồng bảo hiểm tài sản bao
gồm cả án lệ, tập quán, thói quen thương mại, ngoài các văn bản qui phạm
pháp luật.
38
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN
2.1. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm
tài sản
Hiện nay những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản được
điều chỉnh chủ yếu bởi ba văn bản: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hàng hải và Luật
Kinh doanh bảo hiểm. Trong mỗi văn bản pháp luật đều đưa ra khái niệm hợp
đồng bảo hiểm (tại các Điều 567 của Bộ luật Dân sự 2005, Điều 224 của Bộ
luật Hàng hải 2005, Điều 12 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000), các khái
niệm này có nội dung tương tự nhau và trong một chừng mực nhất định nó
mang ý nghĩa xác định phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật đó.
Luật Kinh doanh bảo hiểm là văn bản có tính chuyên ngành đầu tiên ghi
nhận về hợp đồng bảo hiểm. Trong đạo luật này qui định khá rõ nét về quyền
lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm. Hơn nữa trong Luật Kinh
doanh bảo hiểm cũng đã phân chia các hình thức kinh doanh bảo hiểm, căn cứ
vào đặc trưng mỗi hình thức mà các nhà làm luật qui định khác nhau đảm bảo
việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, khắc phục được phần nào những vướng
mắc trong quá trình thực hiện luật và đảm bảo được sự ổn định trong môi
trường kinh doanh bảo hiểm. Ngoài ra đạo luật này còn dành cả một mục để
qui định khá cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
Bộ luật Dân sự 2005 cũng dành Mục 11 tại Chương XVIII qui định về
hợp đồng bảo hiểm. Chỉ với 14 điều luật nhưng cũng đã qui định khá nhiều về
vấn đề hợp đồng bảo hiểm, kết hợp cùng với Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000
(được sửa đổi năm 2010) để điều chỉnh các lĩnh vực về hợp đồng bảo hiểm nói
chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng.
39
Bộ luật Hàng hải 2005, cũng đã dành Chương XVI qui định về hợp
đồng bảo hiểm hàng hải. Tuy nhiên trong bộ luật này cũng chỉ điều chỉnh giới
hạn các vấn đề bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải còn các vấn đề khác không
được nêu ra.
Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, việc ban hành các quy định
của pháp luật còn phải phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế và cần
phải hướng dẫn chi tiết hơn Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 để các bên thực
hiện dễ dàng. Do vậy, ngày 27/3/2007 Việt nam ban hành Nghị định số 45/
NĐ- CP qui định chi tiết một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Ngày
20/12/2007 ban hành Thông tư số 155/2007/TT-BTC qui định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Với sự ra đời của Nghị định và
Thông tư này thì việc áp dụng qui định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm sẽ
dễ dành hơn, hạn chế được những sơ hở của pháp luật.
Ngoài ra, do hợp đồng bảo hiểm tài sản trong lĩnh vực hàng hải còn
chịu sự chi phối của pháp luật và tập quán bảo hiểm và tập quán thương mại
hàng hải trên thế giới, nên nguồn của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản
tương đối phong phú về thể loại. Tuy nhiên bảo hiểm tại Việt Nam chủ yếu
được điều chỉnh bởi văn bản qui phạm pháp luật.
2.2. Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài
sản
2.2.1. Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản
Có lẽ định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm tài sản không thể xa rời hoàn
toàn nhận thức chung của thế giới. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 đã đưa ra
định nghĩa khá phù hợp như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa
các bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm
phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
40
người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm” (khoản 1, Điều 12).
Đinh nghĩa này đã được nghiên cứu ở chương trên. Do đó tại chương
này Luận văn chỉ nói tới Điều 40 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 về đối
tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản vì định nghĩa trên không đề cập trực tếp
tới chủng loại hợp đồng này. Có thể thấy rằng đối tượng tài sản bảo hiểm theo
qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 có phạm vi rất rộng, bao gồm tất
cả các đối tượng được coi là tài sản theo qui định của Điều 163 Bộ luật Dân sự
2005. Như vậy một câu hỏi đặt ra: có phải tất cả các loại tài sản bao gồm vật,
tiền, giầy tờ có giá và các quyền tài sản đều có thể là đối tượng bảo hiểm theo
qui định của Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 hay không? Trong quá
trình nghiên cứu đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản người ta không thể
đồng nhất khái niệm tài sản trong Bộ luật Bân sự với tài sản là đối tượng của
hợp đồng bảo hiểm tài sản vì tài sản trong Bộ luật Dân sự được định nghĩa
rộng gồm: bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình, có thể định giá được bằng
tiền và cũng có thể không định giá được bằng tiền. Tài sản hữu hình như nhà
cửa, phương tiện vận chuyển, hoa màu, vật nuôi…; còn trong khi đó tài sản vô
hình là là tài sản không có hình thái vật chất, không thể nhận biết bằng giác
quan, mà được biết thông qua những ý niệm về mối quan hệ pháp luật giữa
người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người thứ ba [21]. Trong khi
đó, tài sản trong hợp đồng bảo hiểm tài sản lại chỉ là những vật có thực, tiền
và những vật định giá được bằng tiền, ngay cả các quyền của chủ sở hữu cũng
đều phải định giá được bằng tiền và tài sản đó phải có khả năng tổn thất vật
chất do những rủi ro bất ngờ. Mục đích của việc phân biệt này là để xác định
được bằng giá trị tài sản, và mức độ tổn thất đối với tài sản khi có sự kiện
được bảo hiểm xảy ra để các bên tham gia đảm bảo được quyền lợi và nghĩa
vụ của mình trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
41
Mặt khác, việc phân biệt đối tượng bảo hiểm cũng giúp các nhà làm luật
có thể phân thành nhiều loại hình bảo hiểm giúp cho quá trình thực hiện bảo
hiểm được tốt hơn như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm vận chuyển xe cơ giới,
bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân máy bay, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm nông
nghiệp, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ, bằng đường hàng
không, bằng đường biển, bằng đường sắt, bằng đường sông…
Tóm lại, dù Luật Kình doanh bảo hiểm 2000 xác định phạm vi khái
niệm tài sản là đối tượng bảo hiểm tương tự như định nghĩa về tài sản theo qui
định của Bộ luật Dân sự 2005. Nhưng về nguyên lý nghiệp vụ bảo hiểm, thì
tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm chỉ có thể là những tài sản có thực,
hữu hình, có thể là tài sản hiện có hoặc các lợi ích gắn liền với các tài sản đó;
có khả năng bị tổn thất vật chất do những rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra; thiệt
hại của tài sản phải qui ra được bằng tiền. Đối với các tài sản hay các quyền
tài sản vô hình không đáp ứng được các yêu cầu này, vì vậy không thể trở
thành đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
2.2.2. Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản
Về nghĩa vụ khai báo đối tượng bảo hiểm và rủi ro
Điểm đặc biệt của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm
tài sản nói riêng việc giao kết chủ yếu dự trên sự khai báo trung thực của bên
tham gia bảo hiểm. Một hợp đồng bảo hiểm tài sản có được thiết lập hay
không chủ yếu dựa vào sự khai báo của bên tham gia bảo hiểm về tài sản bảo
hiểm.
Cơ sở đầu tiên của việc giao kết hợp đồng là đề nghị của bên mua bảo
hiểm. Thông thường đề nghị này được thực hiện qua việc trả lời các câu hỏi
hoặc khai báo các thông tin về đối tượng bảo hiểm trong các mẫu in sẵn làm
cơ sở cho sự thỏa thuận sau này và là bộ phận của hợp đồng nếu giao kết được
42
thực hiện. Nội dung các mẫu khai báo thường sao chép lại nội dung của giây
chứng nhận bảo hiểm, giấy yêu cầu còn có thể có các văn bản bổ sung tùy
theo nghiệp vụ, ví dụ sơ đồ nhà và các công trình xây dựng trong bảo hiểm
hỏa hoạn…Căn cứ vào các mẫu khai báo này cho phép doanh nghiệp bảo
hiểm đánh giá được rủi ro yêu cầu bảo hiểm và là cơ sở để hình thành các điều
kiện riêng của hợp đồng. Giấy yêu cầu không thể coi là cơ sở ràng buộc bên
mua bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Qua đây thấy rằng giấy yêu cầu
bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ là bằng chứng giao kết hợp đồng.
Doanh nghiệp bảo hiểm không thể chỉ nhận được yêu cầu bảo hiểm là có thể
cấp đơn bảo hiểm để rồi đòi phí bảo hiểm mà không được bên mua bảo hiểm
chấp nhận.
Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa
vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm
theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm” (điểm b, khoản 2, Điều 18); và
“Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy
đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng
bảo hiểm” (điểm b, khoản 1, Điều 17).
Điểm đáng chú ý ở qui định này là việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp
thông tin của bên mua bảo hiểm trong giai đoạn thiết lập hợp đồng bảo hiểm
chỉ căn cứ theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm, các thông tin khác không
được doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu cung cấp, bên mua bảo hiểm không có
nghĩa vụ phải cung cấp. Như vậy nghĩa vụ này là nghĩa vụ có điều kiện. Các
loại hợp đồng khác nhau luật còn có những qui định riêng như qui định về
khai báo về từng loại tài sản như nhà, xe, phương tiện vận chuyển khác…
Chế tài dân sự được đặt ra trong luật kinh doanh bảo hiểm do vi phạm
những qui định về khai báo thông tin trong thiết lập hợp đồng như:
43
+ Bên bảo hiểm sẽ mất phí bảo hiểm đã trả và doanh nghiệp bảo hiểm
có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng khi bên mua bảo hiểm “cố ý cung cấp
thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo
hiểm hoặc được bồi thường” (điểm a, khoản 2, Điều 19).
+ Doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại và bên mua bảo
hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng khi doanh nghiệp bảo hiểm cố ý
cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm (khoản 3,
Điều 19).
+ Trong trường hợp lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm trong cung cấp
thông tin về nguyên tắc hợp đồng sẽ được tính lại mức phí bảo hiểm, hoặc
doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bồi thường bảo hiểm theo giá trị thực tế, theo tỷ lệ
giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm (bảo hiểm trên
giá trị, bảo hiểm dưới giá trị hoặc bảo hiểm trùng đối với bảo hiểm tài sản).
Có thể phân thành hai trường hợp căn cứ vào thời điểm phát hiện sự không
chính xác của thông tin như sau:
- phát hiện khi xảy ra thiệt hại: doanh nghiệp bảo hiểm có thể duy trì
bảo hiểm bằng cách tăng phí bảo hiểm, nếu bên mua bảo hiểm không chấp
nhận có thể hủy bỏ hợp đồng và mất một khoản phí bảo hiểm;
- phát hiện sau khi xảy ra thiệt hại: Khoản bồi thường của doanh nghiệp
sẽ giảm đi theo một tỷ lệ tương ứng do việc áp dụng qui tắc tỷ lệ phí (tỷ lệ
giữa số phí đã trả và số phí phải trả).
Về chấp nhận bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm sẽ được giao kết khi doanh nghiệp bảo hiểm trả lời
chấp nhận đề nghị bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và hai bên thỏa thuận
xong về nội dung cơ bản của hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ cấp
44
ngay cho bên mua bảo hiểm văn bản chấp nhận bảo hiểm tạm thời hoặc giấy
chứng nhận bảo hiểm .
Theo qui định của pháp luật, hình thức đơn giản của việc chấp nhận là
bằng chứng giao kết hợp đồng, bằng chứng này được thể hiện qua giấy chứng
nhận bảo hiểm do doanh nghiệp cấp theo yêu cầu của người được bảo hiểm.
Trong Luật Kinnh doanh bảo hiểm 2000 có thừa nhận hình thức đơn giản là
chỉ cần “có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm, và
bên mua bảo hiểm đã đóng phí…” (Điều 15) thì trách nhiệm dân sự sẽ được
phát sinh. Theo qui định này, chỉ cần bên mua bảo hiểm thực hiện trả phí bảo
hiểm (có hóa đơn thu phí của doanh nghiệp bảo hiểm) không đòi hỏi phải có
văn bản yêu cầu bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm tài sản đã có hiệu lực.
Khi thực hiện kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng
luôn biết rằng: pháp luật chấp nhận hình thức đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận
bảo hiểm….nhưng những điều đó chỉ là văn bản giao kết tạm thời. Hợp đồng
bảo hiểm tài sản chính thức mang giá trị pháp lý cao, có đầy đủ các điều
khoản chủ yếu của hợp đồng phải được lập sau đó bao gồm tập giấy tờ như:
giấy yêu cầu bảo hiểm, đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, biên lai lệ
phí bảo hiểm…Trong thực tế, các doanh nghiệp bảo hiểm thường chỉ giao
dịch thông qua yêu cầu bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo
hiểm, tránh việc soạn thảo một văn bản hợp đồng mới phù hợp với những thỏa
thuận, nhất là đối với các hợp đồng có giá trị nhỏ và thuộc dạng bảo hiểm vì
quá phức tạp.
Về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản
+ Đối với thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản,
theo Điều 405, Bộ luật Dân sự 2005 qui định về hiệu lực của hợp đồng dân sự
như sau: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
45
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác”. Kể từ
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên có quyền và nghĩa vụ thực hiện
những thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với hợp đồng bảo hiểm, pháp luật còn
qui định hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi có bằng chứng doanh
nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí
bảo hiểm.
Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định: “Trách nhiệm bảo
hiểm phát sinh khi hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết hoặc khi có bằng
chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm
đã đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo
hiểm”.
Về nguyên tắc, hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi bên mua bảo
hiểm đã đóng phí bảo hiểm, tức là phải xảy ra đồng thời hai điều kiện: trả phí
bảo hiểm đã được chấp nhận bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp ra văn
bản là bằng chứng thể hiện Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết như giấy
chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm…; hoặc có bằng chứng thể hiện doanh
nghiệp đã chấp nhận bảo hiểm).Tuy nhiên, pháp luật lại cho phép các bên có
thể thỏa thuận việc đóng phí, phương thức trả phí. Điều 15, Luật Kinh doanh
bảo hiểm 2000 qui định các bên có thể có thỏa thuận khác trong hợp đồng;
Điều 572, Bộ luật Dân sự 2005 qui định: “Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo
thỏa thuận hoặc theo qui định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần
hoặc theo định kì”. Vậy theo những phân tích trên ta thấy: hợp đồng bảo hiểm
có thể coi là đã được giao kết và có hiệu lực ngay cả khi bên mua bảo hiểm
vẫn nợ phí bảo hiểm.
Thực tiễn giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản cho thấy, các bên thường
thỏa thuận về việc chậm nộp phí sau một khoảng thời gian nhất định sau khi
hợp đồng bảo hiểm được giao kết. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo
46
hiểm và cấp giấy chứng nhận trên cơ sở bên mua bảo hiểm vẫn nợ toàn bộ số
phí bảo hiểm, và thỏa thuận này pháp luật không cấm. Vì vậy nếu trường hợp
tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, và xảy ra trong thời gian đang nợ phí, thì
hợp đồng bảo hiểm vẫn có hiệu lực, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi
thường bảo hiểm. Nhìn chung, hợp đồng bảo hiểm tài sản có hiệu lực kể từ
thời điểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm được cấp và
ràng buộc trách nhiệm đối với các bên tham gia quan hệ Hợp đồng bảo hiểm.
Thông thường hợp đồng có hiệu lực trong suốt thời hạn hợp đồng và sẽ kết
thúc hiệu lực vào thời điểm hết hạn hợp đồng, trừ khi có các trường hợp làm
thay đổi, chấm dứt hiệu lực hợp đồng trước thời hạn.
+ Đối với chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tài sản, ngoài các trường hợp
chấm dứt hợp đồng theo qui định tại Điều 424, Bộ luật Dân sự 2005, theo qui
định tại Điều 24, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, hợp đồng bảo hiểm còn
chấm dứt trong trường hợp: bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi được bảo
hiểm hoặc khi bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ nộp phí.
Trường hợp thứ nhất, bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể
được bảo hiểm: Tồn tại quyền lợi bảo hiểm đối với một tài sản đó là điều kiện
để có thể mua bảo hiểm cho tài sản đó, đồng thời cũng là điều kiện để duy trì
hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Không còn quyền lợi bảo hiểm đương
nhiên sẽ dẫn đến chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Việc không còn quyền lợi bảo
hiểm có thể xảy ra khi tài sản đó không còn tồn tại do một rủi ro nằm ngoài
phạm vi bảo hiểm; hoặc tài sản đó đã được chuyển nhượng cho người khác mà
không kéo theo sự chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm; hoặc bị pháp luật tước
quyền lợi có liên quan trong đối tượng tài sản bảo hiểm. Trong trường hợp này
doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn phí bảo hiểm cho thời gian còn lại tương
ứng của hợp đồng và có quyền trừ đi các chi phí có liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm tài sản (Khoản 1 điều 24 LKDBH).
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)nataliej4
 

What's hot (20)

Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOTĐề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
Đề tài: Giải quyết xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAYLuận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
 
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt NamLuận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Giao kết hợp đồng thương mại theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi tại ngân hàng SHB, HAY
 
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
 
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoáLuận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
Luận văn: Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hoá
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOTĐề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá, HOT
 
Luận văn: Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam
Luận văn: Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê mua ở Việt NamLuận văn: Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam
Luận văn: Những vấn đề pháp lý về hợp đồng thuê mua ở Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao độngLuận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Luận văn: Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
 
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOTLuận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAYLuận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt NamLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
 
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOTLuận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
Luận văn: Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động, HOT
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luậtLuận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
Luận văn: Trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp luật
 
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT

Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm
Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểmPháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm
Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểmhieu anh
 
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfPháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfHanaTiti
 
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngThế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

Similar to Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
Luận văn: Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt NamLuận văn: Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
Luận văn: Phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
 
Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm
Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểmPháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm
Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm
 
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đLuận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
Luận văn: Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam, HAY, 9đ
 
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdfPháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam.pdf
 
Luận văn: Chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm nhân thọ
Luận văn: Chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm nhân thọLuận văn: Chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm nhân thọ
Luận văn: Chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm nhân thọ
 
Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAYLuận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
 
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOTPháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
 
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnhLuận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
 
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOTĐề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
Đề tài: Biện pháp pháp lý hạn chế trục lợi bảo hiểm nhân thọ, HOT
 
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAYĐề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Đề tài: Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàngĐề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
 
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAYĐề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
 
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
 
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt NamLuận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt NamLuận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt NamLuận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
Luận án: Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp tại Quảng Trị, HAY
 
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngThế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
 
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAYLuận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội, HAY
 
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 9đ
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 9đLuận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 9đ
Luận văn: Chế độ ốm đau trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam, 9đ
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGhoinnhgtctat
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANGPHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG Ở TUYÊN QUANG
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam, HOT

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN PHƯỚC THU PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS . TRẦN NGỌC LIÊM HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU ......................................4 LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................6 Chương 1: KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN...................................................................................................9 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản ................9 1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản.............................................9 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản .....................................13 1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác..........................................................................................................15 1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản.......18 1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản........................................18 1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản........................21 1.3. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản 24 1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản ........................................24 1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản ..................26 1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản......................................27 1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản31 1.3.4.1. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm................................................31 1.3.4.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm........................................33 1.4. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản .........36 Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN..............................................................38 2.1. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản ...........................................................................................................38 2.2. Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản .................................................................................................................39 2.2.1. Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản.....................................39 2.2.2. Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản.........................................41 2.2.3. Về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tài sản.............................49 2.2.4. Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bảo hiểm tài sản............................................................................................................51 2.2.5. Về hợp đồng bảo hiểm trùng.........................................................54 2.2.6. Về giải quyết tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm tài sản................57 Chương 3: KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN........................58 3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam.................................................................................................58
  • 3. 3 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản......................................................................................................59 KẾT LUẬN.............................................................................................71 TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................73
  • 4. 4 DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác...............................................................12
  • 5. 5 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm WTO : World Trade Organization PGS.TS : Phó giáo sư . Tiến sĩ
  • 6. 6 LỜI MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã hình thành và phát triển tại cách đây hàng ngàn năm, và đã trở thành một cơ chế quan trọng trong việc hạn chế tác hại của rủi ro. Ngày nay hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở thành ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng, phong phú ăn sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành một nhu cầu không thể thiếu của hoạt động thương mại và đời sống thường nhật của con người. Rõ ràng sự phát triển của dịch vụ bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế. Dịch vụ bảo hiểm góp phần quan trọng vào việc khắc phục hậu quả của các rủi ro cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Lợi ích này của dịch vụ bảo hiểm do phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tạo ra. Quỹ bảo hiểm mà các doanh nghiệp bảo hiểm có được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do nhiều người tham gia bảo hiểm, nhưng chỉ chi trả cho các trường hợp thuộc diện được bảo hiểm theo nguyên tắc “số đông bù số ít”. Chính vì vậy, dịch vụ bảo hiểm tạo ra khả năng vật chất để khắc phục hậu quả của các rủi ro. Ngoài ra, dịch vụ bảo hiểm đóng vai trò là công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế. Điều này thể hiện ở chỗ, do sự chênh lệch giữa thời gian thu phí và chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm nên tạo ra sự tạm thời nhàn rỗi của vốn. Nguồn vốn này có thể khai thác để đầu tư. Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới do thiếu vắng của sự phát triển thương mại suốt thời kỳ phong kiến. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, và nhất là sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình tồn phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam.
  • 7. 7 Kinh doanh bảo hiểm làm phát sinh các quan hệ đặc biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. Quan hệ này chính là quan hệ hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm, ngoài những đặc tính của hợp đồng nói chung, còn có một số đặc trưng riêng do mang những đặc tính của dịch vụ tài chính, có nghĩa là liên quan tới quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quĩ bảo hiểm thương mại. Hợp đồng bảo hiểm thường được nhìn dưới nhiều giác độ khác nhau, do đó ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải và Luật Hàng không dân dụng... Các đạo luật này đôi khi mâu thuẫn với nhau gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng. Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội, của kinh tế, bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia đang là một vấn đề cấp thiết. Trong đó hợp đồng bảo hiểm tài sản là một vấn đề pháp lý chủ chốt. Việc nghiên cứu đề tài này không còn là mới trong khoa học pháp lý, nhưng nghiên cứu sâu về nó trong hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay, sau khi pháp luật đã có những qui định tương đối cụ thể song lại khó đi vào đời sống và còn là vấn đề pháp lý xa lạ với người dân nói chung và thương nhân nói riêng, vẫn còn tính cấp thiết. Vì vậy các lẽ nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích nghiên cứu của Luận văn bao gồm: + Hệ thống các vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm tài sản làm cơ sở cho việc nghiên cứu các qui định pháp luật hiện hành của Việt Nam; + Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản;
  • 8. 8 + Kiến nghị các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kinh tế bảo hiểm và các nghiệp vụ bảo hiểm, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu phương diện pháp lý của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Luận văn cũng không nghiên cứu các kỹ năng liên quan của hợp đồng bảo hiểm tài sản. 3. Phương pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa Mác-Lê Nin, và các đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước liên quan tới kinh tế và pháp lý. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn bao gồm: phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp; phương pháp phân tích qui phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật và phương pháp trừu tượng hóa... 4. Kết cấu của Luận văn Ngoài lời mở đầu, phần kết luận, nội dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Khái luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Chương 3: Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
  • 9. 9 Chương 1 KHÁI LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.1.1. Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản Nói tới hợp đồng là nói tới hành vi pháp lý đa phương hay nói tới sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều người làm tạo lập ra một hậu quả pháp lý [2, tr. 12 – 13]. Khoản 1, Điều 12, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 định nghĩa: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Điều 567, Bộ luật Dân sự năm 2005 có định nghĩa tương tự nhưng với một số thuật ngữ khác biệt như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”. Bảo hiểm gắn liền với các rủi ro mà khi xảy ra có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người. Khi nghiên cứu về rủi ro, người ta phân loại chúng thành rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính [1, tr. 14 – 18]. Bởi chỉ có thể bù đắp các thiệt hại về vật chất, nên chỉ có thể bảo hiểm các rủi ro tài chính, có nghĩa là các rủi ro mang tới thiệt hại về tài chính cho người phải gánh chịu. Qua các định nghĩa trên có thể thấy bảo hiểm là một cơ chế mà theo đó người nhận bảo hiểm (hay doanh nghiệp bảo hiểm) thay vì nhận một khoản tiền (được gọi là phí bảo hiểm) từ người mua bảo hiểm, phải bồi thường bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xãy ra (có nghĩa là có rủi ro xảy ra gây thiệt hại về tài chính cho người được bảo hiểm hay người thụ hưởng bảo hiểm).
  • 10. 10 Vậy hợp đồng bảo hiểm được xem là hình thức pháp lý của cơ chế bảo hiểm đó. Vì nhằm tìm kiểm một cam kết hỗ trợ về tài chính từ phía doanh nghiệp bảo hiểm để nhằm bù đắp những thiệt hại của mình, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận chuyển giao rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm (có thể được coi như giá của rủi ro) để đổi lấy một cam kết bảo đảm về tài chính với điều kiện gắn vào trường hợp bên mua bảo hiểm phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do rủi ro (sự kiện bảo hiểm) [5, tr. 18]. Sự kiện bảo hiểm là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống trong đời sống thực tế được các bên dự liệu và ghi vào hợp đồng bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định liên quan trực tiếp đến đối tượng bảo hiểm. Sự kiện bảo hiểm có thể phân chia làm hai loại: Thứ nhất, sự kiện bảo hiểm là rủi ro. Với đặc tính bất lợi và bất ngờ, rủi ro trực tiếp xâm hại đến sự tồn tại của đối tượng bảo hiểm hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của người được bảo hiểm. Khi rủi ro mà các bên đã dự liệu trong hợp đồng hoặc pháp luật qui định xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghệp bảo hiểm. Thứ hai, sự kiện bảo hiểm là những sự kiện, hoàn cảnh, tình huống không mang tính bất lợi, bất ngờ nhưng do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định nếu xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm [4, tr. 306 – 307]. Trong thực tế hiện nay, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chủ yếu hiện nay là các bên không xác định được chính xác sự kiện bảo hiểm như thế nào. Do đó việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng. Từ những phân tích trên ta có thể khái quát đặc trưng cơ bản của hợp đồng bảo hiểm như sau:
  • 11. 11 Thứ nhất, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng gắn với các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi; Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm chính là giải quyết hậu quả của rủi ro; Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm không xác định được trước hậu quả khi giao kết; Thứ tư, việc xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào việc có xuất hiện hay không các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi [5, tr. 19]. Trong hợp đồng bảo hiểm, các bên tìm kiếm khả năng để phân phối những tổn thất có thể xảy ra do sự không may mắn, để tìm cách san sẻ rủi ro, nhằm làm cân bằng tài sản. Mục đích của bảo hiểm là bù đắp tài chính để khắc phục thiệt hại, nhằm khôi phục lại tình trạng tài chính của bên mua bảo hiểm như ban đầu khi chưa bị tổn thất. Về nguyên tắc, sự đền bù này chỉ có thể bằng mà không thể tốt hơn trạng thái ban đầu của đối tượng bảo hiểm khi chưa bị tổn thất. Bên mua bảo hiểm không thể được hưởng lợi thông qua giao kết hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm thường được phân loại theo nghiệp vụ bảo hiểm. Các nghiệp vụ này được phân chia thành hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Trong bảo hiểm phi nhân thọ có bảo hiểm tài sản. Hợp đồng bảo hiểm tài sản, về bản chất cũng được hiểu như hợp đồng bảo hiểm nói chung, nhưng đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là tài sản. Như vậy đối tượng của hợp đống bảo hiểm tài sản bị thu hẹp hơn so với hợp đồng bảo hiểm nói chung. Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 qui định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng ta có thể phân biệt được hợp đồng bảo hiểm tài sản với các hợp
  • 12. 12 đồng bảo hiểm khác vì đối tượng hợp đồng là căn cứ cơ bản để phân loại hợp đồng và để xác định được bản chất, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản của từng loại hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm con người có đối tượng là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn không thể định giá bằng tiền hoặc thay thế được. Ngoài con người còn có các mối quan hệ nhân thân phi tài sản, do đó pháp luật không qui định chặt chẽ đối với bên mua bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba. Trong khi đó, Hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng chính là tài sản lại được điều chỉnh sâu về phương diện đề phòng trục lợi bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định trật tự và đạo đức xã hội. Với các qui định nhằm định giá trị tài sản và số tiền bảo hiểm, ngăn chặn các nguy cơ trục lợi bảo hiểm thông thường như bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trên giá trị và bảo hiểm trùng, đồng thời gắn kết trách nhiệm của chủ tài sản không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, có nghĩa vụ cung cấp thông tin về thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm và thay đổi những biện pháp an toàn đối với tài sản được bảo hiểm. Bên cạnh đó doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng trừ, hạn chế các tổn thất, có quyền yêu cầu chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn. Các định nghĩa nêu trên cho thấy đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo hiểm, đó là việc ghi nhận sự thỏa thuận và thực hiện cam kết của các bên gắn với việc xảy ra một “sự kiện bảo hiểm”. Theo qui định của pháp luật Việt Nam, “sự kiện bảo hiểm” được định nghĩa là “sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm” (Điều 3, khoản10, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000).
  • 13. 13 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là tài sản. Hợp đồng bảo hiểm taì sản được giao kết để đối phó với hậu quả do rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm. Do sự khác biệt về đối tượng bảo hiểm, bảo hiểm tài sản có những đặc điểm riêng: + Quyền bảo hiểm tài sản của người tham gia bảo hiểm: quyền bảo hiểm tài sản cho phép một người giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản để đảm bảo cho tài sản mà họ có lợi ích ở đó. Quyền này của một chủ thể phát sinh trên cơ sở tồn tại một mối liên hệ về quyền lợi giữa người đó với tài sản.Theo nguyên tắc quyền bảo hiểm tài sản, bất cứ ai khi có quyền lợi có thể được đảm hiểm trong tài sản thì đều có quyền mua bảo hiểm để đảm bảo cho quyền lợi đó của mình. Khoản 9, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định: “quyền lợi có thể được bảo hiểm trong tài sản thể hiện và phát sinh từ mối quan hệ về quyền sở hữu, chiếm hữu, sử dụng và quyền tài sản” mà bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản bảo hiểm. + Tính bồi thường trong bảo hiểm tài sản: bảo hiểm tài sản tuân thủ theo nguyên tắc bồi thường, theo đó, những thiệt hại mà rủi ro gây ra đối với tài sản của người được bảo hiểm sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường, tuy nhiên bên được bảo hiểm trong bất kì trường hợp nào cũng không thể nhận được một khoản tiền cao hơn thiệt hại thực tế mà người đó phải gánh chịu. Bảo hiểm tài sản là một loại hình bảo hiểm đối với thiệt hại, nó nhằm đảm bảo cho người được bảo hiểm có tình hình tài chính ổn định như thể rủi ro không xaỷ ra. Mục đích của bảo hiểm rài sản chính là khôi phục lại (càng sát càng tốt) tình trạng như trước khi xảy ra rủi ro chứ không phải tạo cơ hội cho người được bảo hiểm tham gia hợp đồng bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, do đó số
  • 14. 14 tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm luôn tương ứng với thiệt hại thực tế của tài sản [6, tr. 38]. Điều kiện để người được bảo hiểm có thể được bồi thường là phải xảy ra sự kiện bảo hiểm và có thiệt hại thực tế. Việc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ căn cứ trên cơ sở tính toán mức thiệt hại thực tế, trong trường hợp xảy ra rủi ro nhưng khả năng bị thiệt hại không xuất hiện thì doanh nghiệp bảo hiểm không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường của mình. + Giới hạn trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm tài sản: giới hạn trách nhiệm là mức trách nhiệm cao nhất của bên bảo hiểm đối với người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro. Giới hạn trách nhiệm bảo hiểm được thể hiện dưới hình thức một số tiền bảo hiểm nhất định ghi trong hợp đồng bảo hiểm. Trong các hợp đồng bảo hiểm tài sản, số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị thực tế của tài sản tại thời điểm giao kết hợp đồng. Vì vậy giá trị thực tế của tài sản chính là mức cao nhất của số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm có thể nhỏ hơn, có thể bằng nhưng tuyệt đối không được vượt quá giá trị thực tế của tài sản. Vì người tham gia bảo hiểm không có quyền lợi đối với phần số tiền bảo hiểm vượt quá giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm nên phần vượt quá giá trị trong hợp đồng bảo hiểm tài sản sẽ không có hiệu lực. + Quyền thế quyền của doanh nghiệp bảo hiểm: Trong quan hệ bảo hiểm tài sản, doanh nghiệp bảo hiểm sau khi đã bồi thường cho người được bảo hiểm, có quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã trả nếu người đó có lỗi gây ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm được thế quyền người được bảo hiểm truy đòi lợi ích đối với người thứ ba khi người này gây thiệt hại cho người được bảo hiểm. Luật không cho phép người được bảo hiểm đồng thời yêu cầu người bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hợp đồng bảo hiểm đã kí kết đồng thời tự mình truy đòi người thứ ba bồi thường cho
  • 15. 15 mình trừ trường hợp đối với những phần thiệt hại không được bảo hiểm. Ngược lại, do mối liên hệ chặt chẽ giữa bồi thường và việc thế quyền, bên bảo hiểm không được phép yêu cầu người thứ ba bồi hoàn nhiều hơn số tiền bồi thường mà họ đã chi. Như vậy nguyên tắc bồi thường khiến cả bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm đều không thể thu lợi từ việc thực hiện quyền của mình [9, tr. 80]. Doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện việc thế quyền trên cơ sở đảm bảo các điều kiện sau: +Việc xảy ra sự kiện bảo hiểm là do người thứ ba gây nên + Sự kiện bảo hiểm đó nằm trong phạm vi bảo hiểm +Doanh nghiệp bảo hiểm đã trả tiền bồi thường 1.1.3. Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác Bảng1.1 . Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác Tiêu chí HĐBH tài sản HĐBH con người HĐBH trách nhiệm dân sự Đối tượng Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản. Tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn. Trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba theo qui định của pháp luật.
  • 16. 16 Thời hạn bảo hiểm Thời hạn bảo hiểm khoảng dưới 1 năm, ngay sau khi kí kết Hợp đồng bảo hiểm kết thúc bên tham gia bảo hiểm có thể tái tục bảo hiểm có nghĩa là kí tiếp một thời gian bảo hiểm tiếp theo. Thời hạn bảo hiểm tương đối dài, đặc biệt là những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nên trong quá trình thực hiện hợp đồng người tham gia có quyền thay đổi nội dung của hợp đồng. Thời hại của bảo hiểm thường khoảng dưới 1 năm đối với người bảo hiểm, việc đảm nhiệm trách nhiệm bồi thường dân sự nghĩa là bên mua bảo hiểm phải chi trả tiền thiệt hại do mình gây ra cho người khác.Khi mua bảo hiểm công ty bảo hiểm sẽ gánh vác chi trả việc này. Thanh toán bồi thường Là loại bồi thường và có mức giới hạn bồi thường cao nhất.Trường hợp tài sản được bảo hiểm rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm,thực tế tổn thất bao nhiêu sẽ được bồi thường bấy nhiêu tuy nhiên trong quá trình xem xét bồi thường còn căn cứ vào mức độ đóng phí bảo hiểm, thời hạn nộp phí bảo hiểm trùng và mức miễn trách nhiệm bồi thường. Là loại hợp đồng thanh toán định mức phí bảo hiểm này chủ yếu áp dụng nguyên tắc khoán, số tiền bảo hiểm không hạn chế chủ yếu là do hai bên bàn bạc thống nhất ý chí với nhau là được. Là loại bồi thường thanh toán chỉ trong giới hạn và trong phạm vi trách nhiệm bồi thường về mặt kinh tế chứ không chịu trách nhiệm bồi thường khác của người được bảo hiểm trước pháp luật như: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự…
  • 17. 17 Trách nhiệm với người thứ 3 Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho tài sản được bảo hiểm thì công ty bảo hiểm vẫn phải bồi thường, nhưng bên tham gia bảo hiểm vẫn phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã nhận cho công ty bảo hiểm.Nếu bên tham gia bảo hiểm từ chối yêu cầu trên thì công ty bảo hiểm có quyền khấu trừ số tiền bồi thường theo mức độ lỗi của bên tham gia bảo hiểm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng,nếu bên thứ ba gây ra lỗi thì công ty bảo hiểm không được yêu cầu người thứ ba bồi hoàn.Nếu họ trực tiếp hoặc gián tiếp gây nên cái chết, thương tật cho người được bảo hiểm thì công ty bảo hiểm vẫn phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm, đồng thời người thứ ba vẫn phải bồi thường cho người được bảo hiểm theo qui định của pháp luật. Thực chất đây là loại bảo hiểm, mà công ty bảo hiểm có trách nhiệm gián tiếp đối với người thứ ba vì trong thời gian thực hiện hợp đồng khi có sự kiện làm gây thiệt hại cho người thứ ba mà bên thứ ba yêu cầu người được bảo hiểm bồi thường, thì công ty bảo hiểm đứng ra gánh chịu trách nhiệm đó chứ công ty bảo hiểm không chịu trách nhiệm trực tiếp với người thứ ba.
  • 18. 18 1.2. Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.2.1. Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm có nét đặc thù khác hẳn với các lĩnh vực kinh doanh khác, ở lĩnh vực này việc mua bán sản phẩm bảo hiểm không mang tính “ngang giá”. Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo hiểm) nhưng lại không được nhận vào thời điểm đó sự phục vụ (cam kết) của doanh nghiệp bảo hiểm và hoàn toàn không biết chất lượng sản phẩm (dịch vụ) mà mình đã bỏ tiền ra mua. Chất lượng sản phẩm chỉ được thể hiện khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tức là khi đến hạn hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ), hoặc khi người được bảo hiểm bị thiệt hại về thân thể hoặc tài sản hoặc phát sinh trách nhiệm dân sự phải bồi thường theo quy định của luật pháp và trong khuôn khổ những cam kết của người bảo hiểm. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ ngay cả người bảo hiểm và người được bảo hiểm cũng đều không biết khi nào thì sự kiện bảo hiểm xảy ra (trừ bảo hiểm nhân thọ khi đến hạn hợp đồng) bởi trong bảo hiểm phi nhân thọ người bảo hiểm chỉ nhận những rủi ro có thể xảy ra chứ không chắc chắn xảy ra. Chính vì nét đặc thù này mà hầu hết các nước trên thế giới đều coi trọng tầm quan trọng của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên do các yếu tố lịch sử và truyền thống pháp lí khác của các nước khác nhau, mà có các qui định khác nhau về hợp đồng bảo hiểm. Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa nước Ý, đã xuất hiện các hợp đồng bảo hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản mà người được bảo hiểm phải gánh chịu khi có thiệt hại xảy ra trên biển, đồng thời với việc nhận một khoản phí. Hợp đồng bảo hiểm cổ xưa nhất mà người ta tìm thấy có ghi ngày 22/04/1329 hiện còn được lưu giữ tại Floren. Sau đó cùng với việc phát
  • 19. 19 hiện ra Ấn Độ dương và tìm ra Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII cùng với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội . Mở đường cho sự phát triển này là Luật 1601 của Anh thời Nữ hoàng Elisabeth, sau đó là Chỉ dụ 1681 của Pháp do Colbert biên soạn và Vua Louis XIV ban hành. Đó là những đạo luật mở đường cho lĩnh vực bảo hiểm hàng hải. Sau bảo hiểm hàng hải là sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn, đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như: “Fire Office” (năm 1667), “Friendly Society” (năm 1684), “Hand and Hand” (năm 1696), “Lom Bard House” (năm 1704)... Lúc đó Công ty bảo hiểm Lloyds đã ra đời nhưng chỉ hoạt động trong lĩnh vực hàng hải. Mãi tới thế kỷ XX mới chuyển sang hoạt động cả lĩnh vực nội địa và tái bảo hiểm [9, tr. 5]. Còn ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ... đã để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty này mở thêm một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi nhánh đầu tiên là của Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn - đó là Việt Nam Bảo hiểm Công ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt động bảo hiểm mới được mở rộng
  • 20. 20 dưới những hình thức phong phú với sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc. Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động. Trong những năm đầu, Bảo Việt chỉ tiến hành các nghiệp vụ về hàng hải như bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu viễn dương…. Công ty bảo hiểm này hoạt động theo cơ chế nhà nước độc quyền, thì các qui phạm pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm còn nhiều thiếu sót và hiệu lực pháp lý thấp. Trước những năm 90, nhũng qui định liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng chủ yếu được điều chỉnh bởi các Quyết định hay Thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai một số nghiệp vụ bảo hiểm và ban hành theo đó một số nguyên tắc, điều khoản bảo hiểm được phép áp dụng. Hầu hết các quy tắc, điều khoản bảo hiểm đều là sự sao chép các điều khoản bảo hiểm nước ngoài được áp dụng vào Việt Nam, với tính chất là hợp đồng bảo hiểm theo mẫu, được quy định sẵn trong quy tắc bảo hiểm, do một bên bảo hiểm đưa ra. Nên sẽ không tránh khỏi việc áp đặt ý chí chủ quan của một bên chủ thể kinh doanh bảo hiểm, các quyền nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng bảo hiểm chưa thực sự được bình đẳng. Trước những đòi hỏi thực tế của cơ chế đổi mới xã hội, các văn bản pháp luật điều chỉnh về các lĩnh vực về hợp đồng được ban hành. Có thể nói Bộ luật Hàng hải 1990 là văn bản đầu tiên có giái trị pháp lý cao điều chỉnh về hợp đồng bảo hiểm nhưng trong Bộ luật này cũng chỉ điều chỉnh giới hạn các vấn đề bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải còn các vấn đề khác thì không được nêu ra. Bộ luật Hàng hải hiện nay đã được sửa đổi và có hiệu lực năm 2005 nhưng nó vẫn cũng chỉ điều chỉnh một phần về hợp đồng bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải mà thôi [8, tr. 6].
  • 21. 21 Đứng trước sự phát triển của thị trường bảo hiểm, sự bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm, ngày 22/12/2000 Luật Kinh doanh bảo hiểm được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/04/2001, đây là văn bản có tính chuyên ngành đầu tiên ghi nhận về hợp đồng bảo hiểm, trong đạo luật này cũng qui định khá rõ nét về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm. Mặt khác trong Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cũng đã phân chia các hình thức king doanh bảo hiểm, căn cứ vào đặc trưng mỗi hình thức mà các nhà làm luật qui định khác nhau đảm bảo việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, khắc phục được phần nào những vướng mắc trong quá trình thực hiện luật và đảm bảo được sự ổn định trong môi trường kinh doanh bảo hiểm. Sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm từ năm 2000 đến nay đã thể hiện tính ưu việt của nó, tạo được sự yên tâm cho các chủ thể tham gia hợp đồng trên khía cạnh như : môi giới bảo hiểm, đại lý bảo hiểm, thủ tục tiến hành đăng kí kinh doanh bảo hiểm…Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta hiện nay, việc ban hành các qui định của pháp luật còn phải phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế và cần phải có sự điều chỉnh một cách cụ thể và chi tiết hơn để các bên thực hiện được dễ dàng hơn. 1.2.2. Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản được thiết lập nhằm cung cấp sự đảm bảo về tài chính cho người mua bảo hiểm trong trường hợp bị thiệt hại liên quan tới tài sản như bị hư hỏng hay tổn thất bởi việc xảy ra một sự kiện bảo hiểm. Mặt khác, hợp đồng bảo hiểm tài sản còn có ý nghĩa to lớn trong việc phân chia rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Vì đối tượng mà hợp đồng bảo hiểm tài sản trực tiếp bảo vệ không phải là tài sản (với tư cách là đối tượng bảo hiểm) mà là quyền lợi tài chính mà bên mua bảo hiểm có trong đối tượng tài sản đó.
  • 22. 22 Thực tế, hợp đồng bảo hiểm được thiết lập với mục đích là cung cấp đảm bảo tài chính cho bên tham gia bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục hậu quả thiệt hại xảy ra khi có sự kiện bảo hiểm. Thông qua hợp đồng bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm sẽ được bảo hiểm một cách gián tiếp theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm để hạn chế rủi ro hoặc hạn chế thiệt hại khi có rủi ro. Ví dụ: hợp đồng bảo hiểm tài sản với rủi ro cháy cho một ngôi nhà, thì mặc dù ngôi nhà đó chính là đối tượng tài sản bảo hiểm, là đối tượng trực tiếp bị đe dọa và bị tổn thất, phá hủy khi xảy ra cháy, nhưng bản chất và vai trò của hợp đồng bảo hiểm được cấp ra không phải là bảo hiểm hay bảo vệ trực tiếp cho bản thân ngôi nhà hay các vật liệu tạo nên ngôi nhà đó (đối tượng bảo hiểm), mà hợp đồng bảo hiểm tài sản cung cấp sự bảo vệ cho quyền lợi của bên mua bảo hiểm có trong ngôi nhà đó. Bản chất và chức năng của hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp này sẽ cung cấp đảm bảo tài chính cho bên mua bảo hiểm để có thể giải quyết, khắc phục hậu quả, thiệt hại sau khi cháy, sửa chữa lại hay xây ngôi nhà mới. Chức năng bảo vệ tài sản thông qua việc giao kết hợp đồng bảo hiểm chỉ được thể hiện một cách gián tiếp qua việc thực hiện các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất của doanh nghiệp bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể khuyến nghị bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng tránh để đảm bảo an toàn cho tài sản, cũng như trực tiếp cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, trang bị các phương tiện phòng tránh làm giảm thiểu khả năng xảy ra tổn thất cho đối tượng tài sản. Tại bất kì thời điểm nào, sự an toàn về tài sản cũng bị đe dọa bởi các yếu tố rủi ro luôn tiềm ẩn bởi các hiện tượng thiên tai bất khả kháng như bão, lũ lụt, động đất, núi lửa…cũng có thể do bất cẩn của con người như cháy nổ, va đập…gây ra những thiệt hại thì việc tham gia bảo hiểm tài sản có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nói riêng và cuộc sống hàng ngày nói chung. Thông qua việc trả tiền bồi thường, cung cấp sự trợ giúp hữu hiệu về tài chính
  • 23. 23 cho Bên mua bảo hiểm trước những rủi ro tổn thất, nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống, sản xuất kinh doanh thì bảo hiểm tài sản ngày càng được quan tâm của các cá nhân, tổ chức kinh doanh. Hơn nữa với sự phát triển, mở rộng đa dạng các loại hình bảo hiểm tài sản hiện nay như: bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt và đường hàng không; bảo hiểm thân tàu biển; bảo hiểm vật chất xe cơ giới; bảo hiểm thân máy bay; bảo hiểm cháy nổ; bảo hiểm nhà tư nhân; bảo hiểm xây dựng và lắp đặt; bảo hiểm dầu khí; bảo hiểm nông nghiệp (cây trồng và vật nuôi); bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính; bảo hiểm gián đoạn kinh doanh… Bảo hiểm tài sản ngày càng thể hiện vai trò quan trọng và không thể thiếu trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, sản xuất, kinh doanh. Các thỏa thuận trong hợp đồng bảo hiểm gắn với các sự kiện rủi ro bất ngờ trong tương lai, được thực hiện ngược với chu trình sản xuất kinh doanh bình thường, ở đó bên mua bảo hiểm khi đã trả trước phí bảo hiểm thì chỉ nhận được cam kết bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm, có vẻ như vô hình, và không thể định trước được chất lượng. Việc mua bán sản phẩm bảo hiểm không mang tính “ngang giá”. Người mua thì phải trả tiền ngay (phí bảo hiểm) nhưng lại không nhận được ngay từ thời điểm đó các cam kết tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm. Các cam kết này chỉ được thực hiện khi xảy ra những sự kiện nhất định trong hợp đồng (bảo hiểm nhân thọ); hoặc khi xảy ra những rủi ro bất ngờ, gây thiệt hại về người và tài sản, hay làm phát sinh trách nhiệm của bên mua bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là hình thức pháp lý quan trọng, xác lập và đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của Bên mua bảo hiểm trong trường hợp không may gặp những sự cố, rủi ro thiệt hại trong cuộc sống. Quan hệ hợp đồng bảo hiểm luôn là đối tượng đặc biệt quan trọng được pháp luật điều chỉnh. Các nước trên thế giới, mặc dù đã
  • 24. 24 có luật chung về Hợp đồng nhưng hầu hết các nước đều đưa vào Luật bảo hiểm các qui định về Hợp đồng bảo hiểm, hoặc có luật riêng về hợp đồng bảo hiểm (như cộng hòa Liên Bang Đức,Pháp, Úc,Trung quốc…). Hiện nay pháp luật Việt Nam đã có nhiều văn bản điều chỉnh về Hợp đồng bảo hiểm tài sản. Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia [7, tr. 4]. Kimh doanh bảo hiểm được coi là tấm lá chắn kinh tế cho các cá nhân tổ chức nhằm khắc phục thiệt hại xảy ra, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua chức năng trung gian tài chính đầu tư cho nền kinh tế. Các sản phẩm bảo hiểm được xây dựng dựa trên mục tiêu là sự ổn định của xã hội, sự phát triển của nền kinh tế, tạo môi trường ổn định sinh hoạt, kinh doanh. Việc nghiên cứu đánh giá các loại hình bảo hiểm không nằm ngoài mục tiêu đó, việc nghiên cứu đánh giá càng chi tiết các loại hình bảo hiểm càng giúp cho mọi người nhận thức tốt hơn và đảm bảo quyền lợi của mình hơn khi tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy, đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu cải cách pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản. 1.3. Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.3.1. Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản được thiết lập giữa bên bảo hiểm và bên mua bảo hiểm, có nghĩa là hợp đồng được giao kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người mua bảo hiểm. Họ là những chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Thứ nhất, nói về doanh nghiệp bảo hiểm: Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm và các qui định khác của pháp luật có liên quan để hoạt động kinh doanh bảo hiểm, và kinh doanh
  • 25. 25 tái bảo hiểm. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hiện nay theo pháp luật Việt Nam tồn tại dưới các hình thức: + Công ty cổ phần bảo hiểm; + Công ty trách nhiệm hữu hạn bảo hiểm; + Hợp tác xã bảo hiểm; + Tổ chức bảo hiểm tương hỗ (Theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2010). Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 trong các hình thức kinh doanh bảo hiểm còn có doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài (khoản 4, Điều 59). Do kinh doanh bảo hiểm có đặc thù riêng tác động rộng lớn tới xã hội và có khả năng tài chính lớn, nên hầu hết pháp luật các nước đều coi kinh doanh bảo hiểm là loại hình kinh doanh có điều kiện. Ở Việt Nam các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải được Bộ Tài chính cấp phép thành lập và hoạt động. Bộ Tài chính có quyền kiểm soát hoạt động cấp giấy phép cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm tài sản nói riêng và hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung, để được phép hoạt động trong lĩnh vực mà mình đăng ký, phải bảo đảm một số điều kiện nhất định như: có vốn pháp định; người điều hành phải có năng lực quản lý chuyên môn nghiệp vụ về bảo hiểm; sản phẩm bảo hiểm dự kiến…. Thứ hai, nói về bên mua bảo hiểm: Theo khoản 6, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, “bên mua bảo hiểm là tổ chức, cá nhân giao kết hợp đồng bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng”. Thông thường trong bảo hiểm tài sản bên mua bảo hiểm có thể là tổ chức, cá nhân tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm,
  • 26. 26 đồng thời họ cũng chính là người được bảo hiểm, có nghĩa là người có tài sản được bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm tài sản nhà làm luật không đề cập đến vấn đề “người thụ hưởng”. Khoản 8, Điều 3, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định: “người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân của bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng”. Tuy nhiên, thực tế khi tham gia hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng có sự xuất hiện của người thụ hưởng bảo hiểm (ví dụ: trong hoạt động vay vốn ngân hàng để mua bảo hiểm cho tài sản là đối tượng bảo hiểm thì ngân hàng cho vay thường yêu cầu bên đi vay chỉ định người thụ hưởng khi tài sản đi vay có tổn thất mà bên đi vay chưa thực hiện được nghĩa vụ của mình với ngân hàng hoặc trong bảo hiểm học sinh…). Như các chủ thể khác, người mua bảo hiểm khi muốn trở thành một bên của hợp đồng thì cũng phải đáp ứng các điều kiện theo qui định của pháp luật về năng lực hành vi (chẳng hạn đối với cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; còn đối với tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân và phải có năng lực giao kết hợp đồng). 1.3.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản cũng là một dạng của hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương mại. Vì vậy để một hợp đồng bảo hiểm tài sản có hiệu lực thì hợp đồng đó cũng phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng giống như bất kể hợp đồng dân sự nào khác. Cần lưu ý tới các vấn đề sau về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản: - Mọi thỏa thuận của các bên trong hợp đồng đó phải được xác lập trên cơ sở tự do ý chí và tự nguyện cam kết. Cam kết của các bên trong hợp đồng phải thể hiện ý chí chung đích thực của họ. Bất cứ thỏa thuận hợp đồng nào không thể hiện ý chí thực của các bên ký kết đều vô hiệu.
  • 27. 27 - Chủ thể tham gia giao kết hợp đồng phải có đủ năng lực pháp lí cần thiết theo qui định của pháp luật. Chủ thể giao kết hợp đồng phải có đủ năng lực pháp luật nếu là pháp nhân, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi nếu là cá nhân. Người tham gia giao kết hợp đồng có thể tự mình đứng ra ký kết hợp đồng hoặc kí thông qua người đại diện hợp pháp của mình. - Mục đích và nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Riêng đối với hợp đồng bảo hiểm tài sản thì tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm phải đang tồn tại. Đồng thời tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm,bên mua bảo hiểm biết sự kiện bảo hiểm đã xảy ra. - Hình thức của hợp đồng phải phù hợp với các qui định của pháp luật. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định cụ thể như sau: “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định”( Điều 14). 1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản là loại hợp đồng khá đặc biệt do đặc thù liên quan tới khách thể và đối tượng của hợp đồng. Hiệu lực của hợp đồng có thể tồn tại trong khoảng thời gian rất dài. Nội dung của hợp đồng phức tạp bao gồm nhiều điều khoản, quy tắc. Do đó hầu hết các nước đều qui định hợp đồng bảo hiểm tài sản phải lập thành văn bản. Hoạt động bảo hiểm được thực hiện trên cơ sở quy luật lấy số đông bù số ít. Bởi thế số lượng hợp đồng thường rất lớn, rất nhiều sản phẩm bảo hiểm có thể được triển khai cho một đối tượng bảo hiểm. Hệ quả là hợp đồng bảo hiểm tài sản rất đa dạng, phong phú, mỗi loại tài sản lại có thể đòi hỏi một hình thức văn bản hợp đồng bảo hiểm tương thích.
  • 28. 28 Điều 570, Bộ luật Dân sự 2005 quy định “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ ký của bên mua bảo hiểm là bộ phận không thể tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng bảo hiểm”. Điều 14, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định “Hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản, bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm là giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm, điện báo, telex, fax và các hình thức khác do pháp luật quy định”. Do tính chất đặc thù của hợp đồng bảo hiểm, nên thông thường các điều khoản ghi nhận nội dung của hợp đồng bảo hiểm được soạn theo mẫu do bên doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Thông thường tồn tại dưới dạng Quy tắc bảo hiểm, Đơn bảo hiểm do Bộ Tài chính ban hành hoặc do doanh nghiệp ban hành trên cơ sở có sự phê chuẩn, hay chấp nhận của Bộ Tài chính. Nội dung các quy tắc, điều khoản bảo hiểm này có thể chứa đựng hầu hết các nội dung phải có của một hợp đồng bảo hiểm tài sản theo qui định của Điều 13, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, bao gồm: + Đối tượng bảo hiểm; + Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm; + Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm; số tiền bảo hiểm, giá trị tàu sản được bảo hiểm; + Thời hạn bảo hiểm; + Mức phí bảo hiểm, phương thức đóng phí bảo hiểm; + Thời hạn, phương thức trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường; + Các qui định giải quyết tranh chấp liên quan tới hợp đồng bảo hiểm. Vì vậy, hợp đồng bảo hiểm nói chung, cũng như hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng có hình thức khá khác biệt so với hình thức của các chủng loại hợp đồng khác trong lĩnh vực dân sự và thương mại.
  • 29. 29 Hình thức hợp đồng bảo hiểm thường không được thể hiện bằng một văn bản hợp đồng thông thường, qui định đầy đủ các nội dung cam kết cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên, mà bao gồm một bộ văn bản như: giấy yêu cầu bảo hiểm của bên mua bảo hiểm cùng với quy tắc, điều khoản bảo hiểm, phụ lục, giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm và một số giấy tờ pháp lý khác do các bên thỏa thuận. Các văn bản đó có thể cùng nhau tạo thành một bản hợp đồng bảo hiểm tài sản hoàn chỉnh. Sự phân biệt giữa các loại giấy tờ trong hợp đồng này chỉ mang tính chất pháp lý. Giấy yêu cầu bảo hiểm là giấy cam kết của bên mua bảo hiểm yêu cầu tham gia hợp đồng bảo hiểm do doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra. Giấy yêu cầu bảo hiểm, mặc dù không được pháp luật điều chỉnh và không có giá trị pháp lý ràng buộc các bên, nhưng cũng được coi là một bộ phận cấu thành hợp đồng bảo hiểm.Trong thực tiễn, nó lại có vai trò quan trọng thể hiện ý chí tự nguyện tham gia bảo hiểm của bên mua bảo hiểm, cũng như có thể được sử dụng làm bằng chứng khi các bên có tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ khai báo của bên mua bảo hiểm khi có yêu cầu giao kết hợp đồng bảo hiểm. Giấy yêu cầu chủ yếu bao gồm các nội dung về khai báo rủi ro, đối tượng bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và các thông tin khác, cùng với cam kết và chữ kí của bên mua bảo hiểm. Khi đã chấp nhận bảo hiểm, giấy yêu cầu bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm lưu một bản như là một bộ phận không tách rời của hợp đồng bảo hiểm. Đơn bảo hiểm là bản tóm tắt hợp đồng bảo hiểm theo khuôn mẫu in sẵn các điểm chính của hợp đồng, quy tắc được áp dụng. Phần quan trọng nhất của đơn bảo hiểm là các điều khoản chính. Phần này thường ghi chi tiết những gì doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu và cam kết thực hiện. Ngoài ra trong đơn này, doanh nghiệp bảo hiểm còn nêu rõ rằng có các điểm loại trừ và diễn đạt chúng trong những điều khoản đơn giản và các ghi nhận người được bảo hiểm phải
  • 30. 30 tuân theo mọi điều khoản của đơn bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm phải khai báo cho công ty bảo hiểm bất kỳ những thay đổi quan trọng nào về rủi ro xảy ra. Đơn bảo hiểm chỉ có chữ ký đơn phương của doanh nghiệp bảo hiểm là một bộ phận của hợp đồng bảo hiểm tài sản và chỉ có giá trị khi kèm theo giấy tờ yêu cầu bảo hiểm có chữ ký của bên mua bảo hiểm. Giấy chứng nhận bảo hiểm thường không có đặc điểm của đơn bảo hiểm mà chỉ ghi nhận những thông tin cơ bản nhất về hợp đồng và áp dụng cho các nghiệp vụ mang tính chất bắt buộc vì nó không những là bằng chứng giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản mà còn mang tính chất pháp lý xác nhận bên mua bảo hiểm đã thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng (đối với lĩnh vực mà pháp luật yêu cầu mua bảo hiểm bắt buộc như: bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm đường bộ, đường hàng không…). Hợp đồng bảo hiểm thông thường được trình bày theo mẫu do doanh nghiệp bảo hiểm tự xây dựng trên cơ sở các qui định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm và có tính đến mức độ phù hợp với loại hình mà nó phục vụ. Thực tiễn, việc hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm ở các nước trên thế giới cho thấy, hợp đồng bảo hiểm thường theo mẫu in sẵn, trong đó có sẵn các điều khoản chung và điều kiện bảo hiểm và điền thêm các nội dung cụ thể về các điều kiện và điều khoản riêng của từng quan hệ bảo hiểm cũng được sử dụng rộng rãi, nhưng phải theo qui định của pháp luật. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp đều cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm. Do đó, việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và chấp nhận bảo hiểm giữa các bên không đồng nghĩa với việc các bên cùng đồng ký vào văn bản hợp đồng như những hợp đồng thương mại, hợp đồng dân sự thông dụng khác. Đại đa số trường hợp, trên cơ sở một giấy yêu cầu bảo hiểm có chữ kí xác nhận của bên mua bảo hiểm, thì khi chấp nhận bảo hiểm doanh nghiệp bảo hiểm chỉ cần đơn phương ký vào văn bản chấp nhận bảo hiểm (giấy
  • 31. 31 chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm hoặc các hình thức khác theo qui định) và cấp cho bên mua bảo hiểm. Pháp luật chung về hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại không cho phép làm như vậy. 1.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sản Hợp đồng bảo hiểm tài sản là hợp đồng song vụ mà theo đó các bên đều có quyền lợi và nghĩa vụ với nhau. Quyền của bên này ứng với nghĩa vụ của bên kia, và ngược lại. Việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên là mục đích của hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng và của hợp đồng nói chung. Do đó nghiên cứu cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh bởi hợp đồng là rất cần thiết. 1.3.4.1. Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm Bên mua bảo hiểm có các nghĩa vụ chủ yếu sau đây: + Khai báo rủi ro và cung cấp thông tin liên quan đến đối tượng tài sản bảo hiểm là nghĩa vụ đầu tiên mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện khi đề nghị giao kết hợp đồng. Việc khai báo căn cứ vào các nội dung được đưa ra trong mẫu giấy yêu cầu bảo hiểm do doanh nghiệp soạn thảo. Dựa vào sự khai báo này doanh nghiệp bảo hiểm mới có căn cứ đánh giá được rủi ro và đưa ra quyết định có chấp nhận hay không chấp nhận việc bảo hiểm, cũng như định ra giá phí mà người được bảo hiểm phải trả. Hợp đồng bảo hiểm được giao kết và thực hiện trên nguyên tắc tin tưởng và trung thực tuyệt đối, do đó, pháp luật cấm bên mua bảo hiểm cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường. + Trả phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng là nghĩa vụ quan trọng và tiên quyết mà bên mua bảo hiểm phải thực hiện để
  • 32. 32 hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, cũng như duy trì hiệu lực trong quá trình thực hiện. Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 cho phép các bên có thể thỏa thuận về việc đóng phí bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm có thể đóng phí bảo hiểm một lần hoặc đóng theo định kỳ. + Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm là một nghĩa vụ quan trọng bởi rủi ro là vấn đề trọng tâm của bảo hiểm. Bất cứ sự gia tăng rủi ro nào cho đối tượng bảo hiểm cũng đều ảnh hưởng đến việc phải tăng phí bảo hiểm cũng như xem xét lại các điều kiện chấp nhận bảo hiểm của Doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy, trường hợp bên mua bảo hiểm không thực hiện nghĩa vụ này hoặc không chấp nhận đóng tăng phí cho thời gian bảo hiểm còn lại, thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ Hợp đồng bảo hiểm. + Thông báo sự kiện bảo hiểm, thiệt hại là một nghĩa vụ cần thiết để bảo đảm chi trả bảo hiểm một cách đúng đắn. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, bên mua bảo hiểm phải “thông báo cho doanh nghiệp biết về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp đồng” (điểm d, khoản 2, Điều 18, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Thông thường các bên trong hợp đồng thỏa thuận về việc thông báo phụ thuộc vào từng loại hình bảo hiểm. Việc thông báo ngay sự kiện bảo hiểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong việc kiểm soát tổn thất, giám định tổn thất, cũng như kịp thời có các biện pháp cần thiết để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại. Việc bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì sẽ phát sinh quyền của doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng qui định loại trừ bảo hiểm để từ chối bồi thường được qui định tại khoản 3, Điều 16, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000. + Áp dụng các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất nhằm bảo đảm an toàn cho đối tượng tài sản bảo hiểm là nghĩa vụ bắt buộc của bên mua bảo
  • 33. 33 hiểm. Theo qui định tại Điều 50, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, nghĩa vụ này có thể là “phải thực hiện các qui định về phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động, vệ sinh lao động và những qui định khác của pháp luật có liên quan nhằm đảm bảo an toàn cho đối tượng được bảo hiểm”. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng biện pháp an toàn, hạn chế rủi ro. Quy định này nêu ra với mục đích nhằm hạn chế việc bên mua bảo hiểm không quan tâm, coi sóc tài sản để mặc cho tài sản được bảo hiểm hư hỏng, xảy ra sự kiện bảo hiểm để nhận tiền bồi thường (khoản 3, Điều 50, và điểm c, khoản 1, Điều 17, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). + Bảo lưu và chuyển quyền yêu cầu đòi người gây thứ 3 gây thiệt hại cho doanh nghiệp bảo hiểm là nghĩa vụ có tính đặc thù phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm tài sản. Khi có sự kiện xảy ra do lỗi của bên thứ 3, bên mua bảo hiểm được doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường thì bên mua bảo hiểm không có quyền đòi bên thứ 3 bồi thường thêm cho mình hoặc xóa bỏ nghĩa vụ cho bên thứ 3 không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường với mình mà phải chuyển quyền yêu cầu đó cho doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền cho doanh nghiệp bảo hiểm, không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu người thứ 3 bồi thường thì doanh nghiệp bảo hiểm có quyền chiết khấu số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm (Điều 49, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Ngoài ra các nghĩa vụ kể trên, người mua bảo hiểm còn có các nghĩa vụ khác do luật định mà có thể ghi vào không không ghi vào hợp đồng. 1.3.4.2. Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm Doanh nghiệp bảo hiểm có các nghĩa vụ chủ yếu sau phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm tài sản:
  • 34. 34 + Nghĩa vụ cung cấp mọi thông tin liên quan đến hợp đồng bảo hiểm, giải thích điều kiện, điều khoản bảo hiểm, điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm khi giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ này được qui định tại Điều 16, Điều 17 và Điều 19 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000. Đây là nghĩa vụ đặc thù của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng, bởi hợp đồng bảo hiểm thường được lập dựa trên các hợp đồng mẫu do doanh nghiệp bảo hiểm lập nên phù hợp với từng loại đối tượng của hợp đồng. Các điều khoản trong hợp đồng không phải kết quả của việc thỏa thuận và nhượng bộ của các bên, bên mua bảo hiểm chỉ có thể tán đồng nếu chọn và không thể thỏa thuận để thay đổi theo ý chí của mình. Hơn nữa hợp đồng bảo hểm thường có nội dung phức tạp với rất nhiều từ ngữ chuyên môn nghiệp vụ bảo hiểm, đặc biệt là “điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm”, nên gây không ít khó khăn cho bên mua bảo hiểm. Do đó việc phát sinh tranh chấp trong hợp đồng bảo hiểm là điều dễ hiểu, thường là do các bên không hiểu đúng các qui định có liên quan đến “điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm”. Nếu luật không qui định rõ nghĩa vụ này và bên doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện nghiêm túc và sẽ gây thiệt hại cho bên tham gia bảo hiểm, và đem lại lợi ích không hợp pháp cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trong quá trình giao kết hợp đồng, nếu như doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ này, bên mua bảo hiểm có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tài sản và yêu cầu doanh nghiệp bồi thường thiệt hại do việc cung cấp thông tin sai sự thật (khoản 3, Điều 9, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). + Nghĩa vụ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm. Đây là những bằng chứng quan trọng thể hiện việc giao kết hợp đồng, là bằng chứng pháp lí ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm đối với các tổn thất mà bên mua bảo hiểm phải gánh chịu khi xảy ra một sự kiện bảo hiểm nên buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện.
  • 35. 35 + Nghĩa vụ giảm phí bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm khi có yếu tố làm giảm rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm (khoản 1, Điều 20, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm tài sản vì nhiều lý do khác nhau mà doanh nghiệp bảo hiểm tăng phí bảo hiểm, trong quá trình thực hiện hợp đồng những lý do đó không còn mà bên mua vẫn phải đóng phí với mức giá cao thì bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp giảm mức phí bảo hiểm tương ứng với mức độ rủi ro của tài sản được bảo hiểm. + Nghĩa vụ bồi thường và trả tiền bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm phải thực hiện cam kết bồi thường hay trả tiền theo những thỏa thuận trong hợp đồng khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Theo qui định của Điều 28, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, thì thời hạn yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của bên mua bảo hiểm là một năm, kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm. Doanh nghiệp bảo hiểm có trách nhiệm trả tiền kịp thời và đầy đủ theo thời hạn ghi trong hợp đồng trong trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền hoặc bồi thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ (Điều 29, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Trong trường hợp từ chối bồi thường bảo hiểm đối với thiệt hại xảy ra không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải giải thích bằng văn bản lí do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường (Điều 17, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000). Ngoài ra các nghĩa vụ chủ yếu nêu trên, doanh nghiệp bảo hiểm còn có một số nghĩa vụ khác theo qui định của pháp luật.
  • 36. 36 1.4. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản là một lĩnh vực pháp luật nằm trong hệ thống luật tư, cụ thể là luật thương mại. Xét từ tất cả các giác độ, hợp đồng bảo hiểm là hành vi thương mại do bản chất bởi không có ai làm hành vi bảo hiểm để tiêu dùng mà để nhằm mục tiêu lợi nhuận. Sự ra đời của bảo hiểm, cũng như hoạt động bảo hiểm gắn chặt chẽ với các hoạt động thương mại. Do đó thông thường bảo hiểm được điểu chỉnh bởi đạo luật thương mại. Tuy nhiên nhiều lập luận cho rằng Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 có các qui định về hợp đồng bảo hiểm, trong khi đó Luật Thương mại Việt Nam 2005 không có các qui định về loại hợp đồng này nên hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có bản chất dân sự. Cần lưu ý rằng Bộ luật Dân sự 2005 điều chỉnh cả các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, và kinh doanh, thương mại (Điều 1, Bộ luật Dân sự 2005 ), và Luật Thương mại 2005 không phải là một đạo luật hoàn chỉnh về thương mại bởi chỉ điều tiết các hoạt động mua bán hàng hóa và một số dịch vụ khác, không bao trùm toàn bộ các hành vi thương mại. Rất nhiều nước giao nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo hiểm cho Bộ Thương mại [3]. Thực tế bảo hiểm được lưu ý nhiều trong các văn kiện của WTO và các văn kiện thương mại quốc tế khác. Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm mang các đặc điểm chung của luật hợp đồng. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, các đặc điểm đó bao gồm: Thứ nhất, luật hợp đồng mang tính chất luật tư điển hình. Luật hợp đồng thuộc lĩnh vực luật tư, và mang tính điển hình bởi nhà nước đặt ra nhằm hướng dẫn, hỗ trợ và bảo vệ cho các quyền lợi của tư nhân và chỉ giới hạn các quyền lợi này khi có lý do thật sự chính đáng từ phía cộng đồng. Thứ hai, luật hợp đồng là một luật hỗ trợ. Khi giao kết hợp đồng, các bên thiết lập luật giữa họ với nhau. Khi hợp đồng đã được thiết lập, các bên trong quan hệ hợp đồng đó phải tuân thủ các qui tắc xử sự mà họ đã đặt ra với
  • 37. 37 nhau. Nếu vi phạm qui tắc xử sự đó, thì hợp đồng là nguồn đầu tiên để giải quyết tranh chấp, và toà án có thể áp dụng chế tài đối với người vi phạm. Do đó luật hợp đồng chỉ nên được xem là một luật hỗ trợ. Thứ ba, luật hợp đồng là một luật không đầy đủ. Hợp đồng được tạo lập nên bởi ý chí của các bên, nên phạm vi của hợp đồng rất rộng lớn. Nhà làm luật không thể dự liệu được tất cả các loại hợp đồng, trong khi các dạng hợp đồng ngày một nhiều lên và phức tạp dần theo thời gian [2, tr. 132 - 140]. Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản điều tiết quan hệ giữa các bên trong hợp đồng bảo hiểm có vị thế bình đẳng và dựa trên tài sản của họ và vì lợi ích riêng của họ. Do đó họ có quyền tự do thỏa thuận tự định đoạt. Nhà nước chỉ can thiệp vào quyền lợi của họ khi có lý do chính đáng từ phía cộng đồng. Hợp đồng bảo hiểm tài sản là luật giữa các bên trong quan hệ hợp đồng này. Bản thân pháp luật về loại hợp đồng này không thể qui định đầy đủ các vấn đề liên quan. Vì vậy nguồn của pháp luật hợp đồng bảo hiểm tài sản bao gồm cả án lệ, tập quán, thói quen thương mại, ngoài các văn bản qui phạm pháp luật.
  • 38. 38 Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM TÀI SẢN 2.1. Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản Hiện nay những vấn đề liên quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản được điều chỉnh chủ yếu bởi ba văn bản: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hàng hải và Luật Kinh doanh bảo hiểm. Trong mỗi văn bản pháp luật đều đưa ra khái niệm hợp đồng bảo hiểm (tại các Điều 567 của Bộ luật Dân sự 2005, Điều 224 của Bộ luật Hàng hải 2005, Điều 12 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000), các khái niệm này có nội dung tương tự nhau và trong một chừng mực nhất định nó mang ý nghĩa xác định phạm vi điều chỉnh của các văn bản pháp luật đó. Luật Kinh doanh bảo hiểm là văn bản có tính chuyên ngành đầu tiên ghi nhận về hợp đồng bảo hiểm. Trong đạo luật này qui định khá rõ nét về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm. Hơn nữa trong Luật Kinh doanh bảo hiểm cũng đã phân chia các hình thức kinh doanh bảo hiểm, căn cứ vào đặc trưng mỗi hình thức mà các nhà làm luật qui định khác nhau đảm bảo việc áp dụng pháp luật được dễ dàng, khắc phục được phần nào những vướng mắc trong quá trình thực hiện luật và đảm bảo được sự ổn định trong môi trường kinh doanh bảo hiểm. Ngoài ra đạo luật này còn dành cả một mục để qui định khá cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản. Bộ luật Dân sự 2005 cũng dành Mục 11 tại Chương XVIII qui định về hợp đồng bảo hiểm. Chỉ với 14 điều luật nhưng cũng đã qui định khá nhiều về vấn đề hợp đồng bảo hiểm, kết hợp cùng với Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 (được sửa đổi năm 2010) để điều chỉnh các lĩnh vực về hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng.
  • 39. 39 Bộ luật Hàng hải 2005, cũng đã dành Chương XVI qui định về hợp đồng bảo hiểm hàng hải. Tuy nhiên trong bộ luật này cũng chỉ điều chỉnh giới hạn các vấn đề bảo hiểm trong lĩnh vực hàng hải còn các vấn đề khác không được nêu ra. Trong quá trình hội nhập kinh tế hiện nay, việc ban hành các quy định của pháp luật còn phải phù hợp với xu hướng chung của nền kinh tế và cần phải hướng dẫn chi tiết hơn Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 để các bên thực hiện dễ dàng. Do vậy, ngày 27/3/2007 Việt nam ban hành Nghị định số 45/ NĐ- CP qui định chi tiết một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Ngày 20/12/2007 ban hành Thông tư số 155/2007/TT-BTC qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Với sự ra đời của Nghị định và Thông tư này thì việc áp dụng qui định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm sẽ dễ dành hơn, hạn chế được những sơ hở của pháp luật. Ngoài ra, do hợp đồng bảo hiểm tài sản trong lĩnh vực hàng hải còn chịu sự chi phối của pháp luật và tập quán bảo hiểm và tập quán thương mại hàng hải trên thế giới, nên nguồn của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản tương đối phong phú về thể loại. Tuy nhiên bảo hiểm tại Việt Nam chủ yếu được điều chỉnh bởi văn bản qui phạm pháp luật. 2.2. Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản 2.2.1. Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản Có lẽ định nghĩa về hợp đồng bảo hiểm tài sản không thể xa rời hoàn toàn nhận thức chung của thế giới. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 đã đưa ra định nghĩa khá phù hợp như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho
  • 40. 40 người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm” (khoản 1, Điều 12). Đinh nghĩa này đã được nghiên cứu ở chương trên. Do đó tại chương này Luận văn chỉ nói tới Điều 40 của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 về đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản vì định nghĩa trên không đề cập trực tếp tới chủng loại hợp đồng này. Có thể thấy rằng đối tượng tài sản bảo hiểm theo qui định của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 có phạm vi rất rộng, bao gồm tất cả các đối tượng được coi là tài sản theo qui định của Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005. Như vậy một câu hỏi đặt ra: có phải tất cả các loại tài sản bao gồm vật, tiền, giầy tờ có giá và các quyền tài sản đều có thể là đối tượng bảo hiểm theo qui định của Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 hay không? Trong quá trình nghiên cứu đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản người ta không thể đồng nhất khái niệm tài sản trong Bộ luật Bân sự với tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản vì tài sản trong Bộ luật Dân sự được định nghĩa rộng gồm: bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình, có thể định giá được bằng tiền và cũng có thể không định giá được bằng tiền. Tài sản hữu hình như nhà cửa, phương tiện vận chuyển, hoa màu, vật nuôi…; còn trong khi đó tài sản vô hình là là tài sản không có hình thái vật chất, không thể nhận biết bằng giác quan, mà được biết thông qua những ý niệm về mối quan hệ pháp luật giữa người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người thứ ba [21]. Trong khi đó, tài sản trong hợp đồng bảo hiểm tài sản lại chỉ là những vật có thực, tiền và những vật định giá được bằng tiền, ngay cả các quyền của chủ sở hữu cũng đều phải định giá được bằng tiền và tài sản đó phải có khả năng tổn thất vật chất do những rủi ro bất ngờ. Mục đích của việc phân biệt này là để xác định được bằng giá trị tài sản, và mức độ tổn thất đối với tài sản khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra để các bên tham gia đảm bảo được quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
  • 41. 41 Mặt khác, việc phân biệt đối tượng bảo hiểm cũng giúp các nhà làm luật có thể phân thành nhiều loại hình bảo hiểm giúp cho quá trình thực hiện bảo hiểm được tốt hơn như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm vận chuyển xe cơ giới, bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm thân máy bay, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ, bằng đường hàng không, bằng đường biển, bằng đường sắt, bằng đường sông… Tóm lại, dù Luật Kình doanh bảo hiểm 2000 xác định phạm vi khái niệm tài sản là đối tượng bảo hiểm tương tự như định nghĩa về tài sản theo qui định của Bộ luật Dân sự 2005. Nhưng về nguyên lý nghiệp vụ bảo hiểm, thì tài sản là đối tượng của hợp đồng bảo hiểm chỉ có thể là những tài sản có thực, hữu hình, có thể là tài sản hiện có hoặc các lợi ích gắn liền với các tài sản đó; có khả năng bị tổn thất vật chất do những rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra; thiệt hại của tài sản phải qui ra được bằng tiền. Đối với các tài sản hay các quyền tài sản vô hình không đáp ứng được các yêu cầu này, vì vậy không thể trở thành đối tượng bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản. 2.2.2. Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản Về nghĩa vụ khai báo đối tượng bảo hiểm và rủi ro Điểm đặc biệt của hợp đồng bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm tài sản nói riêng việc giao kết chủ yếu dự trên sự khai báo trung thực của bên tham gia bảo hiểm. Một hợp đồng bảo hiểm tài sản có được thiết lập hay không chủ yếu dựa vào sự khai báo của bên tham gia bảo hiểm về tài sản bảo hiểm. Cơ sở đầu tiên của việc giao kết hợp đồng là đề nghị của bên mua bảo hiểm. Thông thường đề nghị này được thực hiện qua việc trả lời các câu hỏi hoặc khai báo các thông tin về đối tượng bảo hiểm trong các mẫu in sẵn làm cơ sở cho sự thỏa thuận sau này và là bộ phận của hợp đồng nếu giao kết được
  • 42. 42 thực hiện. Nội dung các mẫu khai báo thường sao chép lại nội dung của giây chứng nhận bảo hiểm, giấy yêu cầu còn có thể có các văn bản bổ sung tùy theo nghiệp vụ, ví dụ sơ đồ nhà và các công trình xây dựng trong bảo hiểm hỏa hoạn…Căn cứ vào các mẫu khai báo này cho phép doanh nghiệp bảo hiểm đánh giá được rủi ro yêu cầu bảo hiểm và là cơ sở để hình thành các điều kiện riêng của hợp đồng. Giấy yêu cầu không thể coi là cơ sở ràng buộc bên mua bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm. Qua đây thấy rằng giấy yêu cầu bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm chỉ là bằng chứng giao kết hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm không thể chỉ nhận được yêu cầu bảo hiểm là có thể cấp đơn bảo hiểm để rồi đòi phí bảo hiểm mà không được bên mua bảo hiểm chấp nhận. Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định: “Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm” (điểm b, khoản 2, Điều 18); và “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm” (điểm b, khoản 1, Điều 17). Điểm đáng chú ý ở qui định này là việc thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong giai đoạn thiết lập hợp đồng bảo hiểm chỉ căn cứ theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm, các thông tin khác không được doanh nghiệp bảo hiểm yêu cầu cung cấp, bên mua bảo hiểm không có nghĩa vụ phải cung cấp. Như vậy nghĩa vụ này là nghĩa vụ có điều kiện. Các loại hợp đồng khác nhau luật còn có những qui định riêng như qui định về khai báo về từng loại tài sản như nhà, xe, phương tiện vận chuyển khác… Chế tài dân sự được đặt ra trong luật kinh doanh bảo hiểm do vi phạm những qui định về khai báo thông tin trong thiết lập hợp đồng như:
  • 43. 43 + Bên bảo hiểm sẽ mất phí bảo hiểm đã trả và doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng khi bên mua bảo hiểm “cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường” (điểm a, khoản 2, Điều 19). + Doanh nghiệp bảo hiểm phải bồi thường thiệt hại và bên mua bảo hiểm có quyền đình chỉ thực hiện hợp đồng khi doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm (khoản 3, Điều 19). + Trong trường hợp lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm trong cung cấp thông tin về nguyên tắc hợp đồng sẽ được tính lại mức phí bảo hiểm, hoặc doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bồi thường bảo hiểm theo giá trị thực tế, theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị thực tế của đối tượng bảo hiểm (bảo hiểm trên giá trị, bảo hiểm dưới giá trị hoặc bảo hiểm trùng đối với bảo hiểm tài sản). Có thể phân thành hai trường hợp căn cứ vào thời điểm phát hiện sự không chính xác của thông tin như sau: - phát hiện khi xảy ra thiệt hại: doanh nghiệp bảo hiểm có thể duy trì bảo hiểm bằng cách tăng phí bảo hiểm, nếu bên mua bảo hiểm không chấp nhận có thể hủy bỏ hợp đồng và mất một khoản phí bảo hiểm; - phát hiện sau khi xảy ra thiệt hại: Khoản bồi thường của doanh nghiệp sẽ giảm đi theo một tỷ lệ tương ứng do việc áp dụng qui tắc tỷ lệ phí (tỷ lệ giữa số phí đã trả và số phí phải trả). Về chấp nhận bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm sẽ được giao kết khi doanh nghiệp bảo hiểm trả lời chấp nhận đề nghị bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và hai bên thỏa thuận xong về nội dung cơ bản của hợp đồng. Doanh nghiệp bảo hiểm có thể sẽ cấp
  • 44. 44 ngay cho bên mua bảo hiểm văn bản chấp nhận bảo hiểm tạm thời hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm . Theo qui định của pháp luật, hình thức đơn giản của việc chấp nhận là bằng chứng giao kết hợp đồng, bằng chứng này được thể hiện qua giấy chứng nhận bảo hiểm do doanh nghiệp cấp theo yêu cầu của người được bảo hiểm. Trong Luật Kinnh doanh bảo hiểm 2000 có thừa nhận hình thức đơn giản là chỉ cần “có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm, và bên mua bảo hiểm đã đóng phí…” (Điều 15) thì trách nhiệm dân sự sẽ được phát sinh. Theo qui định này, chỉ cần bên mua bảo hiểm thực hiện trả phí bảo hiểm (có hóa đơn thu phí của doanh nghiệp bảo hiểm) không đòi hỏi phải có văn bản yêu cầu bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm tài sản đã có hiệu lực. Khi thực hiện kinh doanh bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng luôn biết rằng: pháp luật chấp nhận hình thức đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm….nhưng những điều đó chỉ là văn bản giao kết tạm thời. Hợp đồng bảo hiểm tài sản chính thức mang giá trị pháp lý cao, có đầy đủ các điều khoản chủ yếu của hợp đồng phải được lập sau đó bao gồm tập giấy tờ như: giấy yêu cầu bảo hiểm, đơn bảo hiểm, giấy chứng nhận bảo hiểm, biên lai lệ phí bảo hiểm…Trong thực tế, các doanh nghiệp bảo hiểm thường chỉ giao dịch thông qua yêu cầu bảo hiểm và giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm, tránh việc soạn thảo một văn bản hợp đồng mới phù hợp với những thỏa thuận, nhất là đối với các hợp đồng có giá trị nhỏ và thuộc dạng bảo hiểm vì quá phức tạp. Về hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản + Đối với thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản, theo Điều 405, Bộ luật Dân sự 2005 qui định về hiệu lực của hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết,
  • 45. 45 trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qui định khác”. Kể từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên có quyền và nghĩa vụ thực hiện những thỏa thuận trong hợp đồng. Đối với hợp đồng bảo hiểm, pháp luật còn qui định hợp đồng bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực khi có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm. Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 quy định: “Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết hoặc khi có bằng chứng doanh nghiệp bảo hiểm đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm”. Về nguyên tắc, hợp đồng bảo hiểm chỉ có hiệu lực khi bên mua bảo hiểm đã đóng phí bảo hiểm, tức là phải xảy ra đồng thời hai điều kiện: trả phí bảo hiểm đã được chấp nhận bảo hiểm (doanh nghiệp bảo hiểm đã cấp ra văn bản là bằng chứng thể hiện Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết như giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm…; hoặc có bằng chứng thể hiện doanh nghiệp đã chấp nhận bảo hiểm).Tuy nhiên, pháp luật lại cho phép các bên có thể thỏa thuận việc đóng phí, phương thức trả phí. Điều 15, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 qui định các bên có thể có thỏa thuận khác trong hợp đồng; Điều 572, Bộ luật Dân sự 2005 qui định: “Thời hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận hoặc theo qui định của pháp luật. Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc theo định kì”. Vậy theo những phân tích trên ta thấy: hợp đồng bảo hiểm có thể coi là đã được giao kết và có hiệu lực ngay cả khi bên mua bảo hiểm vẫn nợ phí bảo hiểm. Thực tiễn giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sản cho thấy, các bên thường thỏa thuận về việc chậm nộp phí sau một khoảng thời gian nhất định sau khi hợp đồng bảo hiểm được giao kết. Doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận bảo
  • 46. 46 hiểm và cấp giấy chứng nhận trên cơ sở bên mua bảo hiểm vẫn nợ toàn bộ số phí bảo hiểm, và thỏa thuận này pháp luật không cấm. Vì vậy nếu trường hợp tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm, và xảy ra trong thời gian đang nợ phí, thì hợp đồng bảo hiểm vẫn có hiệu lực, doanh nghiệp bảo hiểm vẫn phải bồi thường bảo hiểm. Nhìn chung, hợp đồng bảo hiểm tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm ghi trong Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm được cấp và ràng buộc trách nhiệm đối với các bên tham gia quan hệ Hợp đồng bảo hiểm. Thông thường hợp đồng có hiệu lực trong suốt thời hạn hợp đồng và sẽ kết thúc hiệu lực vào thời điểm hết hạn hợp đồng, trừ khi có các trường hợp làm thay đổi, chấm dứt hiệu lực hợp đồng trước thời hạn. + Đối với chấm dứt hợp đồng bảo hiểm tài sản, ngoài các trường hợp chấm dứt hợp đồng theo qui định tại Điều 424, Bộ luật Dân sự 2005, theo qui định tại Điều 24, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, hợp đồng bảo hiểm còn chấm dứt trong trường hợp: bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi được bảo hiểm hoặc khi bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ nộp phí. Trường hợp thứ nhất, bên mua bảo hiểm không còn quyền lợi có thể được bảo hiểm: Tồn tại quyền lợi bảo hiểm đối với một tài sản đó là điều kiện để có thể mua bảo hiểm cho tài sản đó, đồng thời cũng là điều kiện để duy trì hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sản. Không còn quyền lợi bảo hiểm đương nhiên sẽ dẫn đến chấm dứt hợp đồng bảo hiểm. Việc không còn quyền lợi bảo hiểm có thể xảy ra khi tài sản đó không còn tồn tại do một rủi ro nằm ngoài phạm vi bảo hiểm; hoặc tài sản đó đã được chuyển nhượng cho người khác mà không kéo theo sự chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm; hoặc bị pháp luật tước quyền lợi có liên quan trong đối tượng tài sản bảo hiểm. Trong trường hợp này doanh nghiệp bảo hiểm phải hoàn phí bảo hiểm cho thời gian còn lại tương ứng của hợp đồng và có quyền trừ đi các chi phí có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm tài sản (Khoản 1 điều 24 LKDBH).