SlideShare a Scribd company logo
1 of 96
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ DUNG
THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH
(THẾ KỶ XIII – XIV)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ LỊCH SỬ VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
CAO THỊ DUNG
THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH
(THẾ KỶ XIII – XIV)
Ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8.22.90.13
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ.
Các trích dẫn, minh họa trong luận văn là chính xác, có tính khoa học
và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn
Cao Thị Dung
LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - Người đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả rất trân trọng và biết ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy, Cô
giáo khoa Lịch sử - Học viện khoa học xã hội đã giành cho tác giả trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban lãnh đạo và
các đồng nghiệp của Trường THPT Thụy Hương - Hải Phòng đã tạo điều
kiện cho tác giả trong quá trình học tập.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý thư viện Viện sử,
thư viện tỉnh Thanh Hóa, Hội sử học Thanh Hóa, Ban quản lý các di tích lịch
sử Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài liệu,
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, cho tác giả gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân
đã luôn ủng hộ, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu
luận văn.
Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018
Tác giả luận văn
Cao Thị Dung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV ............ 9
1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa ........................................ 9
1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn).......................11
1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa ................................................................14
1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân..............................15
Chương 2. THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV ...................................................22
2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII.............................22
2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ.........24
2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược của nhà
Trần thế kỷ XIII ...........................................................................................26
2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược .......37
Chương 3. THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CHIÊM
THÀNH THẾ KỶ XIII - XIV ......................................................................54
3.1. Sự suy thoái của nhà Trần và sự lớn mạnh của Chiêm Thành ở cuối thế
kỷ XIV .........................................................................................................54
3.2. Mối quan hệ giữa Đại Việt với Chiêm Thành thế kỷ XIII - XIV.........55
3.3. Các cuộc xung đột giữa Đại Việt với Chiêm Thành cuối thế kỷ XIV .57
3.4. Cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành của nhà Trần trên địa bàn
Thanh Hóa....................................................................................................60
KẾT LUẬN....................................................................................................70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................73
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
NCLS : Nghiên cứu lịch sử
Nxb: Nhà xuất bản
UBKHXH: Ủy ban khoa học xã hội
UBND: Ủy ban nhân dân
VHTT: Văn hóa thông tin
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chặng đường dài phát triển của lịch sử dân tộc, đất nước ta
đã tiến hành hàng loạt các cuộc đấu tranh đầy gian nan vất vả để trường tồn
và phát triển. Thắng lợi của những cuộc đấu tranh đó đã khẳng định sức mạnh
đoàn kết của cả dân tộc và truyền thống yêu nước của nhân dân ta được lưu
truyền từ ngàn xưa – mỗi khi tổ quốc lâm nguy cả dân tộc lại chung sức đấu
tranh giành độc lập
Do điều kiện địa lý đặc thù, ngay từ thuở các vua Hùng dựng nước và
qua nhiều thế kỷ tiếp theo, nước ta luôn bị các vương triều phong kiến nước
ngoài, các thế lực thực dân - đế quốc nhòm ngó, đe dọa và xâm lược. Từ cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Tần thế kỷ thứ III (trước công nguyên) đến
nay, Việt Nam trải qua hơn 10 thế kỷ đấu tranh chống Bắc thuộc, tiếp đó là 2
cuộc kháng chiến chống Tống (thế kỷ X, XI), ba cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông (thế kỷ XIII); 20 năm kháng chiến chống quân Minh (thế kỷ
XV), kháng chiến chống quân Mãn Thanh (cuối thế kỷ XVIII) và hơn 80 năm
chống thực dân Pháp, hơn 20 năm chống đế quốc Mĩ xâm lược (thế kỷ XIX-
XX). Trong các cuộc đấu tranh ấy bằng sức mạnh của cả dân tộc, tài năng trí
tuệ của người dân đất Việt chúng ta đã làm nên những thắng lợi vẻ vang buộc
kẻ thù xâm lược phải rút quân về nước.
Thế kỷ XIII - XIV, quốc gia Đại Việt tồn tại và phát triển dưới sự trị vì
của vương triều Trần. Trải qua các đời vua Trần, đất nước ta đã có bước phát
triển mạnh về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, nhà Trần cũng
phải đương đầu với họa xâm lăng của đế chế Mông Cổ với 3 lần đưa quân tấn
công xâm lược Đại Việt. Hơn thế nữa, cũng trong thời gian này nhà Trần
cũng phải đối mặt với cuộc tấn công của quân Chiêm Thành từ phía Nam đất
nước. Vua quan nhà Trần đã đã gồng mình cùng nhân dân cả nước chống các
2
thế lực xâm lược. Trong cuộc chiến chống xâm lược đó của nhà Trần đã có
đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa.
Thanh Hóa là vùng đất có bề dày về lịch sử đấu tranh các mạng từ bao
đời. Lịch sử dân tộc đã chỉ ra rằng trong cuộc kháng chiến chống quân
Nguyên lần thứ 2 ( 1284 - 1285) Thanh Hóa vừa là hậu phương vừa là mặt
trận chính của cuộc kháng chiến. Mảnh đất anh hùng này không chỉ là chiến
trường ác liệt mà còn là trung tâm đầu não bảo vệ, che chở cho các vua Trần
thực hiện chiến lược “thanh dã” (vường không, nhà trống), rời Thăng Long
cùng quân dân các địa phương tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược.
Nhận rõ vị trí địa lí quan trọng cũng như truyền thống đấu tranh anh
dũng của nhân dân Thanh Hóa, các vua Trần đã coi Thanh Hóa là điểm tựa
vững chắc trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Trong kế sách chống
giặc bình Nguyên ở thế kỷ XIII, Thanh Hóa là kho lương, kho lính, nguồn dự
trữ hùng hậu khi tổ quốc lâm nguy. Trong thời khắc nguy nan nhất, vua Trần
Nhân Tông đã rất tự tin mà viết nên vần thơ hào sảng: Cối Kê cựu sự quân tu
ký; Hoan Ái do tồn thập vạn binh (Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ; Hoan Ái
còn đây chục vạn quân). Cũng từ Thanh Hóa kế sách giải phóng Thăng Long
đã được thực hiện trọn vẹn với những chiến thắng vang dội Hàm Tử, Chương
Dương, Tây Kết…
Trong thế kỷ XIII-XIV, có những thời điểm, quốc gia Đại Việt ở trong
một tình thế rất phức tạp, đặc biệt là vùng biên viễn phía Nam. Lợi dụng sự
suy yếu của triều Trần, nước Chiêm Thành hưng khởi và thường xuyên đem
quân cướp phá vùng Hoá Châu, tấn công ra Thanh Nghệ, vượt biển tấn công
ra Thăng Long. Từ giữa thập niên 50 (thế kỷ XIV) về sau, xung đột giữa Đại
Việt với Chiêm Thành lên đến đỉnh cao mang tính chất đối đầu trực tiếp. Một
lần nữa, Thanh Hoá lại trở thành điểm nóng của cuộc xung đột kéo dài gần ½
thế kỷ. Địa bàn Thanh Hóa là một trong những điểm thường xuyên bị quân
3
Chiêm Thành đánh phá. Nhiều cuộc đụng độ lớn giữa Chiêm Thành và Đại
Việt đã diễn ra và cuối cùng thì công cuộc bình Chiêm thắng lợi. Trong chiến
thắng chung ấy nhân dân Thanh Hóa đã đóng góp một phần công sức đáng kể.
Dõi theo tiến trình lịch sử dân tộc, có thể khẳng định Thanh Hóa có
nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm (từ buổi
đầu dựng nước đến thời cận hiện đại). Trong khuôn khổ của một luận văn Cao
học, tôi hy vọng việc tìm hiểu, nghiên cứu Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến
chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành (thế kỷ XIII – XIV) sẽ giúp tôi
có thêm những tri thức mới về lịch sử Thanh Hoá, từ đó, với tư cách là một
giáo viên dạy môn lịch sử sẽ trao truyền những kiến thức có được cũng như
niềm tự hào về lịch sử quê hương cho các thế hệ trẻ - chủ nhân của tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay, cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông nói
chung và Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống
Chiêm Thành ở thế kỷ XIII - XIV nói riêng đã được nghiên cứu trên các bình
diện khác nhau
Về cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên- Mông có thể kể đến công
trình nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và Tài liệu về cuộc kháng chiến của nhà
Trần đã ngăn chặn sự bành trướng của Mông Cổ xuống Đông Nam Á của
Đào Duy Anh; tác phẩm “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông”
của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm; “Việt Nam ba lần đánh quân Nguyên toàn
thắng” của Nguyễn Lương Bích. Các tác phẩm đã viết rất rõ về bối cảnh, diễn
biến và nguyên nhân thắng lợi của ba cuộc kháng chiến chống Nguyên -
Mông của Đại Việt thế kỷ XIII, đồng thời các tác phẩm này cũng dành một số
trang viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Champa. Cuộc kháng chiến
chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII còn được phản ánh qua nhiều bộ
thông sử, đó là các bộ giáo trình giảng dạy của khoa Lịch sử trường Đại học
4
Tổng hợp; Đại học Sư phạm; là cuốn thông sử Lịch sử Việt Nam do
UBKHXH xuất bản năm 1971; Lịch sử Việt Nam tập 2 do nhóm các nhà
nghiên cứu Viện Sử học biên soạn (xuất bản năm 2007, tái bản năm 2013 và
2016); các công trình nghiên cứu của Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng
v.v… Ngoài ra, liên quan đến nội dung luận văn còn có nhiều bài viết đăng
trên các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử
quân sự…
Về lịch sử Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ
XIII- XIV đã được nghiên cứu trong các công trình như: Lịch sử Thanh Hóa
của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa; Địa chí Thanh Hóa tập 1
- Địa Lý và Lịch sử; Địa chí Hậu Lộc của Nxb KHXH: Các công trình đã
giành nhiều chương viết về cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nhân
dân Thanh Hóa qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Đặc biệt cuộc kháng
chiến chống quân Nguyên - Mông của triều Trần trên địa bàn Thanh Hóa và
nhân dân Thanh Hóa chống quân Nguyên Mông được viết rất cụ thể. Bài viết:
“Một tấm bia đời Trần mới được phát hiện” của Phùng Văn Cường và Phạm
Văn Kính, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 156 (Tháng 5 và 6 năm
1974) đã mô tả lại cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhân dân
Thanh Hóa thông qua việc tìm hiểu một tấm bia từ đời Trần ở làng Trường
Tân, xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Công trình
nghiên cứu: “Vài nét về thái ấp Văn Trinh của Trần Nhật Duật” của Nguyễn
Thị Phương Chi, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 9 (340) năm 2004
đã làm nổi bật được vai trò hậu phương của Thanh Hóa trong cuộc kháng
chiến chống Nguyên - Mông xâm lược. Thanh Hóa là căn cứ địa vững chắc,
là nơi tập hợp lực lượng, nơi lui quân của triều Trần trong cuộc kháng chiến.
Về cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành xâm lấn thế kỷ XIII -
XIV cũng có nhiều bài viết đề cập đến như:“Quan hệ giữa Đại Việt với Chăm
5
Pa thời Trần (thế kỷ XIII - XIV)” của Nguyễn Thị Phương Chi, đăng trên tạp
chí nghiên cứu Đông Nam Á. Bài viết đã tóm tắt gắn gọn về các cuộc xung
đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành qua các năm từ nửa cuối thế kỷ XIII đến
thế kỷ XIV. Bài viết: “Hồ Quý Ly với vấn đề Chiêm Thành” của Nguyễn Đức
Nhuệ cũng đã lột tả được những quan hệ căng thẳng giữa Đại Việt với Chiêm
Thành ở thế kỷ XIII - XIV (Tạp chí NCLS, 1992).
Về cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành trên địa bàn Thanh Hóa có bài
viết:“Tìm hiểu những trận đánh quân Chiêm Thành và quân Minh của Hồ Quý
Ly ở Thanh Hóa” của Hà Mạnh Khoa (Tạp chí NCLS, 1992), bài biết đã mô tả
lại trận đánh của triều Trần chống quân Chiêm ở Thanh Hóa. Ngoài ra còn có
nhiều bài viết khác đăng trên các Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (NCLS)…
Như vậy, Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân ta thế kỷ XIII -
XIV nói chung và của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến này nói riêng đã
được nhiều thế hệ các học giả quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình có
giá trị. Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên những công trình
trên mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề. Với những vấn đề
nghiên cứu nêu ở trên và cũng để hoàn thành đề tài của mình, chúng tôi kế
thừa những thành tựu mà thế hệ người nghiên cứu đi trước đã đạt được và áp
dụng những phương pháp nghiên cứu, hướng tiếp cận đa chiều với hy vọng có
được kết quả tốt nhất và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài là làm sáng rõ vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống
Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành dưới thời Trần. Qua đó thấy được sức
mạnh đoàn kết của dân tộc trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
6
- Đề tài khái quát lại cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống
Chiêm Thành của triều Trần và quân dân Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV.
- Làm sáng tỏ hai vai trò: Hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa
trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông và cuộc kháng chiến
chống quân Chiêm Thành dưới thời Trần.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài này là nghiên cứu, tìm hiểu
về những đóng góp của quân và dân Thanh Hóa trong các cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông và chống Chiêm Thành, bảo vệ nền độc lập của quốc
gia Đại Việt trong thời Trần (thế kỷ XIII-XIV).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về không gian: Địa bàn Thanh Hóa thời Trần (lộ, trấn)
- Giới hạn về thời gian: Giai đoạn vương triều Trần trị vì quốc gia Đại
Việt (1226-1400)
- Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau:
Giới thiệu những nét khái quát về mặt địa lý, hành chính và dân cư
Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV.
Những nét chính về cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống
Chiêm Thành của quân dân triều Trần.
Vai trò của Thanh Hóa trong sự nghiệp chống Nguyên bình Chiêm ở thế
kỷ XIII - XIV
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết kinh tế -
chính trị. Ở đây chúng tôi sử dụng quan điểm sử học Mác xít nhằm đánh giá
7
một cách khách quan về vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống
các thế lực xâm lược ở thế kỷ XIII – XIV.
- Quan điểm sử học Mác xít cũng là kim chỉ nam để chúng tôi xử lý
nguồn tài liệu trên tinh thần khoa học và đảm bảo tính lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Hai phương pháp được vận dụng chủ yếu và xuyên suốt trong đề tài là
phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
còn sử dụng các phương pháp liên quan nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong
nghiên cứu của mình như phương pháp điền dã, khảo cứu thực địa (ví như tìm
hiểu dấu vết thái ấp của Trần Nhật Duật ở Thanh Hoá, dấu vết các trận đánh
quân Nguyên ở Quang Lộc, Liên Lộc huyện Hậu Lộc; khảo sát một số dấu vết
về cuộc chiến đấu của quân dân nhà Trần trên sông Bố Vệ...).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn lược sử lại quá trình đấu tranh
chống ngoại xâm của nhân dân Đại Việt dưới thời Trần, đồng thời làm rõ vai
trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống
Chiêm Thành dưới thời Trần (thế kỷ XIII – XIV).
- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn là tài liệu tham khảo để nghiên
cứu về lịch sử đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa. Từ những căn cứ khoa học,
luận văn nhằm thể hiện rõ vai trò hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa
trong giai đoạn lịch sử thế kỷ XIII - XIV. Từ đó, luận văn có thể được sử
dụng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về
lịch sử địa phương Thanh Hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo thì
luận văn chia làm 3 chương:
8
Chương 1: Khái quát Thanh Hóa thế kỷ XIII - XIV
Chương 2: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông
thế kỷ XIII - XIV
Chương 3: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành thế
kỷ XIII - XIV.
9
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV
1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực bắc của Trung Bộ, có cảnh quan rất
đa dạng và phong phú, là hình ảnh thu nhỏ của cảnh quan Việt Nam trải rộng
dài 200km trên lưu vực sông Mã có miền núi, trung du, đồng bằng và biển
đảo. Địa hình Thanh Hóa là đồi núi trập trùng hiểm trở ở phía tây vây quanh
những thung lũng hẹp và dài, những dòng sông lớn như sông Mã, sông Chu,
sông Yên với hàng chục chi lưu nhỏ lấy nước từ hàng trăm, hàng ngàn khe
suối trên vùng cao đổ về làm nên sự hung dữ của dòng chảy trong mùa mưa ,
nhưng hiền hòa về mùa khô. Vùng trung du trải dài với nhiều dải đồi núi chạy
theo hướng đông tây đã tạo nên sự chia cắt địa hình dữ dội. Đồng bằng cao
thấp bậc thang, ở nơi đồng chiêm trũng, lại có thêm nhiều đồi núi sót. Ngoài
khơi là các đảo đá như: đảo Mê, đảo Nẹ… nhấp nhô xen kẽ các trũng biển
sâu. Ven biển là vùng đồng bằng cát mặn bãi triều, nơi sinh sôi của các loài sú
vẹt và phù du. Trạng thái lồi lõm, đứt nối của địa hình Thanh Hóa là một hình
ảnh cổ xưa còn sót lại của lãnh thổ miền Bắc Việt Nam hình thành cách ngày
nay hàng triệu năm.
Xác định vị trí địa chính trị quan trọng có tính chiến lược của tỉnh Thanh
Hóa, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV đã coi miền đất Thanh Hóa là “phên dậu thứ
hai phía nam” đất nước. Sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn dưới triều
Nguyễn đã viết: “Thanh Hóa đông liền biển lớn, tây cắp rừng dài, Khe Lãnh
Thủy chặn ở phía nam, núi Tam Điệp ngăn về phía bắc, sông lớn thì có
Lương Mã và Ngọc Giáp, núi sông quanh bọc, cao thấp lẫn xen. Hội Trào và
Y Bích là khóa then mặt biển, Lôi Dương và Vĩnh Lộc là xung yếu đường
trên”. Các triều đại phong kiến trước đây còn xác định Thanh Hóa là “một
10
trấn quan trọng, nơi xung yếu”. Hơn nữa đây còn là vùng đất thiêng nơi sinh
ra nhiều bậc vương tướng, văn nho.
Với vị trí địa lý cộng thêm tài lực về con người đó trong lịch sử, Thanh
Hóa đã từng là chỗ dựa vững chắc cho ông cha ta đánh giặc phương Bắc và là
một điểm hậu cứ để mở cõi về phương Nam. Trong suốt chiều dài đấu tranh
giữ nước của dân tộc, vùng đất Thanh Hóa luôn được coi là vùng đất “phên
dậu”, là cứ điểm quan trọng của cả nước. Có thể chứng minh cụ thể đó là:
Năm 980, khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, ông đã chọn vùng đất Thanh Hóa
để thực thi những chính sách phát triển kinh tế, kết hợp với quốc phòng, như
là đào các hệ thống sông ngòi chằng chịt nhằm mở mang giao thông đường
thủy, phục vụ ý đồ chiến lược quân sự trong việc bảo vệ biên giới phía nam,
trong đó có cả tác dụng phục vụ sản xuất kinh tế nông nghiệp, chuẩn bị một
hậu phương lớn về nhân tài vật lực cho công cuộc chống Tống, bình Chiêm
giữ vững nền độc lập dân tộc vào những thập kỷ cuối thế kỷ X. Từ năm 1009
- 1225, thời kỳ tồn tại của vương triều Lý; sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi
hoàng đế, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long), Châu Ái,
Hoan Châu trở thành miền đất xa trung tâm chính trị của đất nước và là đất
“Trại” sau đó là một phủ của quốc gia Đại Việt. Các vua nhà Lý đặc biệt quan
tâm đến vùng đất Thanh Hóa, coi đây là vùng đất “phên dậu” và đẩy mặt công
cuộc xây dựng trên quy mô lớn về mọi mặt. Nhà Lý đã cử các đại thần như
Lý Thường Kiệt, Chu Công, Phạm Tín, Đỗ Nguyên Thiện, Lương Cải, Dương
Chưởng “coi giữ” miền đất quan trọng này. Đặc biệt dưới đời vua Lý Thái
Tổ, Lý Thái Tông, Thanh Hóa trở thành hậu phương an toàn cho những lần
dừng chân trước khi hành binh về phương Nam.Thời kỳ trị vì của vương triều
Trần (1226 - 1400) tính chất “Trại” và “phên dậu” của Thanh Hóa lại một lần
nữa lại khẳng định. Nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những con người tài
giỏi, yêu nước của vùng đất Thanh Hóa đã giúp triều Trần làm nên những
11
chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc - Ba lần đại phá quân Nguyên
Mông xâm lược.
Từ những cứ liệu cụ thể được minh họa trên đây cho thấy rõ vị trí chiến
lược của vùng đất Thanh Hóa cũng như vùng phên dậu phía Nam Đại Việt có
tầm quan trọng hết sức đặc biệt cho sự hưng vong của đất nước.
1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn)
Năm 1226, Vương triều Trần thay Vương triều Lý, mở đầu bằng Trần
Cảnh tức Trần Thái Tông.
Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ và đặt các
chức quan cai quản từ lộ đến xã.
Cuối thời Lý đầu thời Trần Thanh Hóa là Phủ, năm nguyên Phong thứ 6
đời Trần Thái Tông (1256) đổi thành Trại, năm Bảo Phù thứ 3 (1275) đời
Trần Thánh Tông lại gọi là Phủ. Cuối Trần (không rõ năm) đổi là lộ rồi trấn.
Năm 1397, trấn Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô.
Vùng đất Thanh Hóa từ cuối thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XIV gồm có 7
huyện, 3 châu (mỗi châu có 4 huyện).
Trong đó, 7 huyện là:
Huyện Cổ Đằng, với trung tâm là đất Kẻ Đừng - Phú Khê. Niên hiệu
Hưng Long (1293 - 1314) nhà Trần đặt làm huyện Cổ Đằng, nay thuộc huyện
Hoằng Hóa.
Huyện Cổ Hoằng, ngày nay là một phần đất huyện Hoằng Hóa.
Huyện Đông Sơn: Trước kia gọi là Đông Dương hoặc Đông Cương. Đến
thời Trần gọi là huyện Đông Sơn. Nay thuộc huyện Đông Sơn.
12
Huyện Cổ Lôi, ngày nay là huyện Thọ Xuân và một phần đất huyện
Thường Xuân.
Huyện Vĩnh Ninh, thuộc vào địa phận huyện Vĩnh Lộc ngày nay nằm ở
phía tả ngạn sông Mã.
Huyện Yên Định nay là huyện Thiệu Yên, nằm ở hữu ngạn sông Mã.
Huyện Lương Giang, nằm cả hai bên bờ sông chu. Trước năm 1980 là
huyện Thiệu Hóa, sau đó một số xã ở tả ngạn sông Chu nhập vào Yên Định
thành huyện Thiệu Yên; một số xã ở hữu ngạn sông Chu nhập vào huyện
Đông Sơn ngày nay.
Ba châu gồm:
Châu Ái gồm 4 huyện: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga.
- Huyện Hà Trung: Ngày nay là thị xã Bỉm Sơn và huyện Hà Trung.
- Huyện Thống Bình, thuộc huyện Hậu Lộc ngày nay.
- Huyện Tống Giang, là địa phận thuộc một số xã phía tây Nga Sơn, thị
xã Bỉm Sơn và một số xã phía đông Bắc Hà Trung.
- Huyện Chi Nga: Phần đất hiện nay thuộc huyện Nga Sơn.
Châu Cửu Chân gồm 4 huyện: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông
Cống.
- Huyện Cổ Chiến: Nằm ở phía đông Nam tỉnh Thanh Hóa, nay là phần
đất huyện Tĩnh Gia.
- Huyện Kết Thuế: Bao gồm phần đất phía Bắc Tĩnh Gia, phía Nam
Quảng Xương ngày nay.
- Huyện Duyên Giác: thuộc một số xã phía Bắc Quảng Xương đến khu
vực Bố Vệ ngày nay.
13
- Huyện Nông Cống: Là phần đất phía Tây Nam Thanh Hóa gồm cả Như
Xuân ngày nay.
Châu Thanh Hóa gồm 4 huyện: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang.
- Huyện Nga Lạc: Địa phận huyện Ngọc Lặc ngày nay, là một phần đất
Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu.
- Huyện Tế Giang: Vùng đất phía tây Thạch Thành ngày nay.
- Huyện Yên Lạc: Phần đất của huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày nay.
- Huyện Lỗi Giang: Tương đương với huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày
nay .[ 3, tr.117 – 119].
Ở Thanh Hóa nhà Trần đặt các chức An phủ, Trấn phủ, hai viên chánh
phó để cai trị. Năm 1243, Vua Trần cử Trần Thủ Độ đi kiểm tra sổ đinh và
ông được cử làm tri Thanh hóa phủ sự: “Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc
Thái sư tri Thanh Hóa phủ sự” [25, tr.12]. và 1238 “duyệt sổ đinh Thanh
Hóa” [25, tr.15].
Nhà Trần rất quan tâm đến việc tổ chức xây dựng chính quyền cấp cơ sở.
Theo chế độ quản lý chung của nhà nước, các xã, sách ở Thanh Hóa đều có
chức tiểu tư xã, đại tư xã thuộc ngạch quan chức của triều đình quản giữ cùng
với xã sử, xã chính, xã giám, gọi là xã quan [25, tr.16]. Hiệu lực của các tổ
chức quản lý đó chặt chẽ và có tác dụng ở Thanh Hóa. Bia 興 福 寺 (Bia
chùa Hưng Phúc) ở hương Yên Duyên (nay thuộc xã Quảng Hùng huyện
Quảng Xương) dựng và khắc năm Khai Thái thứ 13 (1324) nói rõ việc Đại
toát Lê Mạnh người đứng đầu hương Yên Duyên vào đời Trần đã tổ chức và
xây dựng làng xã góp công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên
Mông lần thứ 2 (1285).
14
Thời Trần, cương vực các huyện, xã của Thanh Hóa đã rõ ràng, bộ máy
chính quyền từ phủ hoặc trấn đến giáp hương, xã được kiện toàn và tổ chức
chặt chẽ.
1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam, đồng thời
cũng là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất trong cả nước (với 27 đơn vị
hành chính cấp huyện và tương đương).
Lịch sử hình thành và phát triển của Thanh Hóa gắn liền với quá trình
cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác, chủ yếu có 7
dân tộc là: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Trong đó, người
Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp. Các
dân tộc khác có dân số và địa bàn sống thu hẹp hơn.
Trong lịch sử, quá trình di dân giữa các vùng miền là một quy luật
khách quan và diễn ra thường xuyên. Có sự nhập cư thì cũng có sự chuyển cư.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chuyển cư, có thể là các thầy đồ đi dạy học,
có người đi buôn bán, làm ăn xa không trở về quê cũ và cũng có thể vì lí do
chính trị mà phải bỏ quê quán ra đi. Trong tình hình tư liệu hiện nay việc xác
định quá trình người Thanh Hóa chuyển cư đến các địa phương khác thời Lý -
Trần là rất khó khăn. Theo gia phả họ Bùi ở Thịnh Liệt (dòng Bùi Xương
Trạch, Bùi Huy Bích...) cho biết dòng họ này gốc từ Cát Xuyên (Hoằng Hoá),
chuyển ra ở Thịnh Liệt vào thời cuối Trần; sau khi định cư ở xã Định Công
một đời mới dời về Thịnh Liệt. Dòng họ này từ thời Lê đã nổi danh nhiều
người đỗ đạt (Tiến sĩ Bùi Xương Trạch -1478; Bảng nhãn Bùi Vĩnh -1532;
Tiến sĩ Bùi Bỉnh Quân - 1619; Hoàng giáp Bùi Huy Bích -1769) v.v.
Dựa vào các tài liệu lịch sử và các di tích khảo cổ học cho thấy địa bàn
Thanh Hóa là nơi có cư dân sinh sống từ rất sớm. Cùng với thời gian, địa bàn
tụ cư ngày càng được mở rộng.
15
Ở khu vực đồng bằng, đặc biệt là quanh khu vực đồng bằng sông Mã, từ
xa xưa, dân cư Thanh Hóa đã có hướng phát triển ra nhiều phía. Từ rất sớm, ở
vùng đồng bằng Thanh Hóa mà trung tâm là ngã ba sông Mã, sông Chu đã
xuất hiện những tụ điểm dân cư thực sự đông đúc. Đó là các địa điểm: Thiệu
Dương, Đông Sơn, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ…Các di chỉ khảo cổ học từ thời
Tiền sử, Sơ sử đã khẳng định quá trình tu cư sớm trên những địa bàn này.
Vùng trung du miền núi Thanh Hóa là nơi sinh sống chủ yếu của đồng
bào Mường, họ sống tập trung thành các làng bản, nằm dưới chân những dãy
núi cao.
Khu vực ven biển Thanh Hóa, diện cư trú của cư dân ngày càng được
mở rộng với những “làng cổ”. Có thể nói, cư dân Thanh Hóa từ rất sớm đã có
mặt trên khắp các miền của tỉnh.
Dân cư vùng này chủ yếu sống bằng nghề nông trồng lúa nước, sống
quần cư theo hình thức xóm, làng. Luôn đoàn kết trong trị thủy, thủy lợi,
trong đấu tranh chống giặc giữ nước.
Người dân Thanh Hóa luôn cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và
có tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong đời sống, nhất là khi
thiên tai, dịch bệnh. Trải qua những giai đoạn khốc liệt của các cuộc chiến
tranh, người dân nơi đây vẫn bất khuất, kiên trung vượt qua mọi khó khăn để
vươn lên. Chính trên mảnh đất này người dân Thanh Hóa đoàn kết làm nên
nhiều chiến công hiển hách, góp phần vào những trang sử hào hùng của dân
tộc.
1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân
Những tư liệu lịch sử còn lại ngày nay cho ta thấy, ngay từ buổi đầu
hình thành cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển vùng đất Thanh
Hóa, biết bao thế hệ người dân nơi đây đã đoàn kết đấu tranh không ngừng để
củng cố nền độc lập dân tộc cũng như chống lại chế độ cai trị hà khắc. Trong
16
các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc những người dân nơi
đây đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, góp phần xứng đáng vào những
chiến công hiển hách của dân tộc.
Thanh Hóa vốn là một vùng đất có vị trí và vai trò đặc biệt trong lịch
sử Việt Nam. Về địa lý, đây là vùng đất trung gian nối miền Bắc với miền
Nam của đất nước. Về văn hóa, Thanh Hóa là nơi chứng kiến sự giao lưu
tiếp xúc văn hóa vùng miền Bắc - Nam, là vùng đất tiếp nối những ảnh
hưởng chính trị từ kinh đô Thăng Long lan truyền vào những vùng đất phía
Nam của tổ quốc, và ngược lại. Ngoài ra, đây còn là đất “thang mộc” của
cả hai triều đại: Lê sơ - Lê Trung Hưng và triều Nguyễn trong lịch sử
Trung đại Việt Nam. Thanh Hóa luôn là vùng đất “căn bản”, vùng đất "dấy
nghiệp" của các vương triều ấy.
Thanh Hóa là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc, là đất anh hùng và
đế vương với nhiều danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ
Quý Ly, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, vua Nguyễn…. Hơn thế nữa, trong
suốt lịch sử nghìn năm bắc thuộc, Thanh Hóa luôn là căn cứ tử thủ của nghĩa
quân trong phong trào chống xâm lược. Năm 938, Ngô Quyền từ đất Ái Châu
diệt quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Thời chống giặc phương Bắc, cư
dân vùng đất này đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống ngoại xâm,
không để cho giặc phương bắc xâm lược, đồng hóa, mà ngược lại đã Việt hóa
những kẻ di dân hàng loạt xuống phương Nam.
Từ thời Lý-Trần, sự nghiệp của một số nhân vật người Thanh Hóa được
sử sách ghi chép lại như Đào Cam Mộc - một công thần có công lớn trong
việc phò trợ Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009; Lê Phụng Hiểu với công lao
dẹp “loạn Tam vương”, phò Lý Phật Mã lên ngôi (tức Lý Thái Tông) năm
1028; một số người thi đỗ làm quan triều Trần v.v...
17
Từ thời Trần, nhiều văn thân người gốc Thanh Hóa đã có đóng góp cho
sự phát triển thịnh trị của vương triều. Về khoa bảng có Lê Văn Hưu, Lưu
Diễm, Lưu Miễn; về chính trị có Lê Quát, trung thần tiết nghĩa có Lê Giốc, võ
tướng nổi tiếng trung liệt có Trần Khát Chân...
Lê Văn Hưu: người Phủ Lý, Đông Sơn (nay là xã Thiệu Trung, huyện
Thiệu Hoá), đỗ Bảng nhãn khoa thi năm 1247 khi mới 18 tuổi, được cử làm
Giám tu Quốc sử viện, được vua Trần giao biên soạn bộ Đại Việt sử ký từ
thời Triệu Đà đến hết thời Lý và hoàn thành năm 1272. Ông được tôn vinh là
nhà Sử học đầu tiên của nước ta.
Lưu Miễn: Quê xã Hoằng Quang (Thành phố Thanh Hoá), đỗ Đệ nhất
giáp đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa thi Thái học sinh năm Kỷ Hợi (1239),
đời vua Trần Thái Tông
Lưu Miễn làm quan tại triều, tước Minh Tự, năm 1250, ông được thuyên
bổ làm An phủ sứ lộ Thanh Hoa; năm 1255, vua Trần Thái Tông sai ông bồi
đắp đê sông các xứ ở Thanh Hoa (Thanh Hoá).
Do có nhiều công lao và kinh nghiệm trị thuỷ, tài năng tổ chức, đốc thúc
công việc khai khẩn điền địa và phòng hộ đê điều (các đê sông Mã, sông
Lường đều do ông chỉ huy), Lưu Miễn tiếp tục được giao chức Hà đê chánh
sứ phủ Thiên Trường (Nam Định) và chỉ huy đắp đê quai vạc ở Thông Lựa
(huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình), đê Phú Vật (huyện Hưng Nhân). Ông chính
là người phụ trách việc đào sông Thái Sư tiêu úng cho hai huyện Hưng Nhân
và Duyên Hà theo lệnh của Thái sư Trần Thủ Độ.
Lê Quát: Ông tên tự là Bá Đạt, hiệu là Mai Phong, người làng Phủ Lý,
huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), học trò Chu An. Lúc bé ông du học ở Kinh sư,
thi đỗ, được Minh Tông biết đến. Trải làm đến Bộc xạ, sau trải thăng Thượng
thư hữu bật, Nhập nội hành khiển.
18
Lê Giốc: được sử gia Phan Huy Chú xếp vào hàng “bề tôi tiết nghĩa”.
Ông là con Lê Quát, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), thời
Trần Nghệ Tông làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Bấy giờ Nghệ Tông đi đánh
Chiêm Thành không về, Ngự Câu vương là Trần Húc hàng giặc. Năm 1377,
người Chiêm Thành cho quân đưa Húc đến Nghệ An tiếm xưng vua. Nhiều
người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy,
ông cả giận nói : "Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man
à ?". Chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình, truy tặng là
Mạ Tặc trung vũ hầu.
Trần Khát Chân: quê ở Hà Lương (Vĩnh Lộc). Cuối thời Trần, quốc gia
Đại Việt thường xuyên bị Chiêm Thành tấn công. Năm 1389, chúa Chiêm là
Chế Bồng Nga đem quân đổ bộ vào địa bàn trấn Thanh Hoá để từ đó tiến ra
Thăng Long. Quân nhà Trần không chống đỡ nổi, vua Trần phải cử Đô tướng
Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp đến đóng ở sông Hải Triều cự nhau
với giặc. Trong trận này, quân Trần đã bắn chết chúa Chiêm là Chế Bồng
Nga, đánh tan quân Chiêm và quan trọng là dập tắt ý chí xâm lược Đại Việt
của Chiêm Thành. Trần Khát Chân được phong Nội vệ Thượng tướng quân,
tước Vũ Tiết Quan nội hầu và được ban Thái ấp ở Hoàng Mai (nay thuộc
quận Hoàng Mai, Hà Nội).
Đặc biệt trong thời kì chống giặc giữ nước của triều Trần, nhân dân
Thanh Hóa cũng góp một phần sức lực cho thắng lợi chung của cuộc kháng
chiến chống Nguyên Mông. Một hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần yêu nước
của nhân dân Thanh Hóa đó là: Sau hội nghị Diên Hồng (1284) thầy giáo Chu
Văn Lương, dạy học ở làng Nam Ngạn hăng hái đứng ra chiêu mộ dân binh,
góp sức cùng quân dân Đại Việt đánh thắng giặc Nguyên - Mông, Kênh Bố
Vệ còn ghi dấu cuộc chiến đấu quyết liệt do Trần Nhật Duật chỉ huy chống
19
quân Nguyên Mông xâm lược ở Thế Kỷ XIII, ca khúc khải hoàn, trăm họ
được bình an, đất nước “ngàn thuở vững âu vàng”
Thời Trần là một thời đại anh hùng, thời đại của những chiến công vang
dội: Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1258, 1285 và 1288).
Góp phần làm chói sáng thêm hào khí Đông A là chiến công của những người
con đất Thanh Hoá, đó là Đỗ Hành bắt sống Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ vương
tại Bạch Đằng, góp phần quan trọng nâng cao thêm tầm vóc oanh liệt, lẫy
lừng chiến công của nhân dân Đại Việt đánh bại quân xâm lược Mông-
Nguyên. Đó còn là tướng quân Hoàng Phụng Thế, chỉ huy quân Thánh Dực
chiến đấu với quân Chiêm Thành nhiều trận trên sông Ngu (năm 1382). Ông
cũng chính là người tham gia dẹp tan cuộc nổi dậy của Phạm Sư Ôn (ở vùng
Quốc Oai) năm 1389...
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) chống quân Minh xâm
lược, trên địa bàn Thanh Hóa có những gia đình theo Lê Lợi từ những ngày
đầu. Năm 1789, Quang Trung - Nguyễn Huệ đem đại quân ra bắc đại phá 29
vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Trên địa bàn Thanh Hóa có rất nhiều người
tham gia nghĩa quân, đứng dưới lá cờ Quang Trung - Nguyễn Huệ…
Vùng đất Thanh Hóa từ buổi ban đầu do cư dân bản địa khai phá, giữ
gìn, bảo vệ, phát triển, cư dân bốn phương về hội nhập, họ là những người có
tính cương trực, cởi mở, giàu lòng nhân ái, yêu nước, hi sinh vì nghĩa lớn.
Đồng thời là chỗ dựa và là cái nôi sinh thành, nuôi dưỡng những lớp người
cách mạng. Truyền thống yêu nước, đấu tranh của dân tộc Việt Nam được
hun đúc, thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân địa phương để khi thời cơ đến
thổi bùng ngọn lửa đấu tranh giành lại độc lập cho tổ quốc, giành lại quyền
sống của con người, quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân.
Ách áp bức bóc lột của bọn phong kiến, thực dân càng nặng nề bao nhiêu
thì càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc và ý chí quật cường của nhân dân
20
Thanh Hóa. Truyền thống yêu nước của nhân dân Thanh Hóa được hình
thành, tôi luyện và phát triển suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nó trở thành
một tài sản vô cùng quý giá, là cơ sở, là nền tảng để nhân dân đón nhận và đi
theo con đường đấu tranh trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Tiểu kết chương
Thanh Hóa là vùng đất được hình thành và phát triển lâu đời, nơi con
người xuất hiện và sinh sống từ rất sớm. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc Việt Nam, Thanh Hóa là mảnh đất lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về lịch sử
và văn hóa.
Đây là vùng đất có vị trí địa chiến lược, địa chính trị quan trọng của Việt
Nam, miền đất gợi về quá khứ hào hùng từ buổi bình minh của lịch sử dân
tộc, một miền văn hóa cội nguồn. Lịch sử đã chọn Thanh Hóa ở vào vị trí khá
“đặc biệt” của đất nước. Là điểm cuối của Bắc Bộ và điểm đầu Trung Bộ, lại
là vùng Tây bắc nối dài, có rừng, có biển, có đồng bằng. Nhờ vào vị trí địa lý
“đặc biệt” đó nên mảnh đất Thanh Hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong
suốt thời kỳ đấu tranh giữ nước của dân tộc. Mỗi tên làng, mỗi di tích lịch sử
đều gắn với những chiến công của dân tộc cũng như con người Thanh Hóa.
Mảnh đất Thanh Hóa còn được biết đến là mảnh đất của nhiều triều đại
phong kiến Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Với những kì tích đó, Thanh Hóa được ví như hình ảnh thu nhỏ
của Việt Nam và được xem là mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”.
Linh khí của núi sông hun đúc nên khí chất của con người Thanh Hóa:
Cần cù trong lao động, anh hùng trong đấu tranh, giữ khí tiết, giàu đạo lý
nghĩa tình…Những con người không ngại khó, không ngại khổ đó đã góp
công làm nên nhiều trang sử hào hùng và vẻ vang của dân tộc Việt.
21
Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, truyền thống yêu nước của nhân dân,
Thanh Hóa đã góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh dựng nước
và giữ nước của dân tộc. Nổi bật cho những đóng góp to lớn của Thanh Hóa
trong lịch sử dân tộc là thời kỳ thế kỷ XIII, XIV - Thời kỳ chống quân
Nguyên Mông xâm lược và sự xâm lấn lãnh thổ của Chiêm Thành.
22
Chương 2
THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV
2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII
Ở thế kỷ XII, nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời lý Nhân Tông (1072 –
1127) sau đó bắt đầu đi vào con đường suy yếu. Các vua lên ngôi khi còn bé
như vua Lý Anh Tông làm vua khi 5 tuổi, Lý Cao Tông 2 tuổi …quyền hành
rơi vào tay những kẻ hại dân, vương triều Lý chỉ còn là một hơi thở thoi thóp.
Trước tình hình ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra góp phần làm lung lay
ngai vàng nhà Lý.
Trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XIII khi nhà Lý suy yếu, đời sống
nhân dân vô cùng khổ cực. người chết đói nhiều, người sống sót phá sản, lưu
vong. Bọn phong kiến cát cứ lại bắt nhân dân làm phu dịch, đào hào, đắp lũy
và xua họ vào cuộc nội chiến đẫm máu. Thời kỳ đen tối đó kéo dài dằng dặc
trong suốt mười mấy năm trời. Thế rồi, một thế lực phong kiến mạnh nhất họ
Trần, đã dần dần chiếm được ưu thế, khống chế được chính quyền trung ương
đang tàn tạ, chiến thắng được các tập đoàn phong kiến cát cứ khác, thống nhất
đất nước. Quyền lực họ Trần ngày càng lớn. Năm 1225 vua Lý Huệ Tông trao
ngai vàng cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi vì vậy mọi quyền hành
trong triều đình đều nằm trong tay viên quan Điện tiền Trần Thủ Độ. Dòng họ
nhà Trần ngày càng chiếm giữ vị trí trọng yếu trong triều đình. Cuối cùng
ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (10/1/1226) dưới sự chỉ đạo của Trần Thủ
Độ, Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, triều
Trần chính thức thành lập thực sự thay thế nhà Lý trên vũ đài chính trị, nắm
quyền điều hành đất nước.
Hòa bình đã trở lại trên đất nước, nhân dân được yên ổn làm ăn. Họ Trần
khôi phục được chính quyền thống nhất, chấm dứt cuộc nội chiến phong kiến,
23
về khách quan đã đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân. Đồng thời, nhà Trần
cũng bắt tay vào xây dựng và phát triển kinh tế, ổn định lại mọi mặt xã hội.
Về kinh tế, để khôi phục lại sức sản xuất bị đình đốn cuối thời Lý, nhà
Trần đã tổ chức khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp.
Đặc biệt, nhà nước rất chú ý việc đắp đê phòng lụt. Năm 1248, vua Trần Thái
Tông hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để đề phòng nước
sông dâng to, gọi là đê “Đỉnh nhĩ” (Quai vạc), đặt chức Hà đê chánh sứ và
phó sứ để trông coi việc đắp đê….Nhà Trần cũng đã cho đào thêm một số
kênh và sông có tác dụng về mặt giao thông cũng như về mặt thủy lợi như
kênh Trầm, kênh Hào từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam phủ Diễn
Châu.
Nhờ những chính sách bảo vệ sản xuất nông nghiệp của nhà Trần cộng
thêm điều kiện tự nhiên thuận lợi và sức lao động của nhân dân mà nền kinh
tế nông nghiệp nước ta thời kỳ này có bước phát triển mạnh, đặc biệt châu thổ
sông Hồng, sông Mã …đã trở thành vùng sản xuất nhiều lúa. Uông Đại Uyên,
người Trung Quốc đời Nguyên, tác giả sách Đảo di chí lược, đã chép rằng: “
Nước Đại Việt…đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần
lớn phì nhiêu”
Bên cạnh sự phát triển của nông nghiệp, công thương nghiệp cũng được
phục hồi và phát triển sau một thời kỳ đình đốn vì nội chiến cuối Lý. Những
ngành công nghiệp như: Làm gạch ngói, làm đá, khai thác khoáng sản, rèn
sắt, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải … tiếp tục phát triển. Chất lượng sản phẩm
hàng hóa ngày càng cao hơn. Thủ công nghiệp phát triển đã đưa đến sự ra đời
của các làng nghề như: Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Giang).
Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp
cũng có bước phát triển mạnh. Việc buôn bán trong nước và ngoài nước ngày
càng được mở rộng và phát đạt. Các chợ làng, chợ huyện mọc lên khắp nơi.
24
Đặc biệt cảng Vân Đồn là một địa điểm hải thương quan trọng đón thương
thuyền của các nước đến Đại Việt.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng sau khi họ Trần nắm chính quyền,
kết thúc cuộc nội chiến cuối Lý, nền kinh tế của Đại Việt lại tiếp tục hưng
vượng lên, cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp.
Về chính trị: Họ Trần ra sức củng cố và phát triển nhà nước phong kiến
tập quyền. Tất cả các chức vị quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do tôn
thất họ Trần nắm giữ. Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, một bộ phận Nho sĩ mới có
vị trí nhất định trong triều. Tổ chức bộ máy nhà nước đã được quy định ngay
từ buổi đầu thời Trần và được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương.
Về luật pháp và quân đội: Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên
ngôi đã định các điều luật lệnh. Bốn năm sau, định Hình luật. Năm 1244, lại
định hình luật một lần nữa. Nhà Trần, để củng cố chính quyền phong kiến,
ngay từ buổi đầu đã ra sức xây dựng một đội quân hùng mạnh và được trang
bị vũ khí đầy đủ. Quân đội được luyện tập thường xuyên. Trong những năm
chuẩn bị kháng chiến, thường có những cuộc diễn tập lớn.
Như vậy, ở thế kỷ XIII tình hình Đại Việt đã có nhiều khởi sắc dưới sự
trị vì của triều đại phong kiến nhà Trần. Mọi mặt kinh tế và đời sống xã hội có
bước phát triển. Nhưng cũng chính trong thời gian này, đế quốc Mông Cổ ở
phía Bắc đang lớn mạnh, mở rộng cuộc chinh phục xuống phương Nam. Điều
đó đã đặt ra cho nhà Trần một sứ mệnh mới là đoàn kết, lãnh đạo nhân dân
đấu tranh chống giặc bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ
2.2.1. Sự lớn mạnh của đế quốc Mông Cổ
Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn lên làm vua. Nhà nước phong kiến Mông
Cổ được hình thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một đế quốc lớn
mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ. Quân Mông Cổ
25
dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn và tập đoàn quý tộc phong kiến đã
đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông Cổ vừa hình thành dốc vào cuộc chiến
tranh xâm lược và nô dịch các dân tộc khác. Những đoàn kỵ binh Mông Cổ
lại ồ ạt kéo sang phương Đông và phương Tây, gieo rắc nỗi kinh hoàng và
chết chóc xuống những vùng xa hơn ở Châu Âu và Châu Á.
Ở Châu Âu, vó ngựa của Mông Cổ đã tiến đến Ba Lan, Đức và Hunggari
và tới sát Ý vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động. Theo sử biên niên của
Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình trệ cả sự buôn bán. Các sử
gia biên niên Anh cho chúng ta biết rằng bấy giờ việc thông thương giữa đất
anh với lục địa bị gián đoạn. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “chúa cứu
vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tac ta (Mông Cổ)”…
Ở phía Nam, Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly (Triều Tiên), tấn
công Nhật Bản…Đến năm 1279, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ xâm
chiếm. Trong và sau khi chinh phục miền Nam Trung Quốc, đế quốc Mông
Cổ đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đồng thời âm mưu phát triển thế
lực ra các nước khác ở Đông Á và Đông Nam Á.
Như vậy, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, bọn phong kiến Mông Cổ đã kéo
thế giới vào một cuộc chiến tranh khủng khiếp. Một đế quốc rộng mênh mông
được thành lập từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương.
2.2.2. Âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ
Trong kế hoạch bành trướng của mình, quân Mông Cổ chiếm một vùng
lãnh thổ rộng lớn trải dài từ bờ biển Đông Á sang tận vùng biển Hắc Hải, sau
đó chúng tiến hành xuống phía Nam. Năm 1251, Mông Ke (Mông Ka) lên
ngôi Đại hãn, ráo riết chuẩn bị xâm lược Trung Quốc. Năm 1252, Mông Ka
sai Khubilai (Hốt Tất Liệt) đánh chiếm Đại Lý (rồi đổi tên là Vân Nam) lấy
đó làm bàn đạp rồi mở cuộc tấn công vào Đại Việt. Năm 1257, chúa Mông Cổ
Mông Ke tế cờ trên bờ sông Kêrulen, rồi xuất quân đánh Tống. Theo kế
26
hoạch của Mông Ke, quân Mông Cổ sẽ tấn công vào đất Tống từ bốn mặt.
Mông Ke thân dẫn đại quân tiến vào theo đường Tứ Xuyên. Một cánh quân
dưới quyền chỉ huy của Hốt Tất Liệt vượt Trường Giang đánh chiếm Châu
Ngạc (Vũ Xương - Hồ Bắc). Một cánh quân khác do Tôgatra chỉ huy tấn công
mạn hạ lưu Trường Giang vào vùng Kinh sơn. Cánh quân của Uryangkhadai
được lệnh từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt, rồi từ đó đánh vào Châu Ung
(Nam Ninh - Quảng Tây), Châu Quế (Quế Lâm - Quảng Tây), tiến lên gặp
các cánh quân kia ở Châu Ngạc. Cánh quân này sẽ trở thành một mũi dao đâm
vào sau lưng Trung Quốc. Như vậy, việc tiến quân xâm lược Đại Việt là nằm
trong kế hoạch thâm độc trên của tên bạo chúa Mông Cổ.
Trước khi tấn công vào Đại Việt, Mông Ka đã vạch ra một kế hoạch hết
sức chi tiết: Cánh quân của Uriang Khaidai (Ngột Lương Hợp Thai) thực hiện
nhiệm vụ đánh chiếm Đại Việt và từ Đại việt đánh lên Nam Tống. Chiếm được
Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ lập bàn đạp cho các
cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á, do đó Đại Việt là mục tiêu chiến lược
của kế hoạch Mông Ke và đó cũng là sự cố gắng rất lớn của chúng. Để thực
hiện mưu đồ thâm độc của mình, chỉ trong vòng 30 năm (1258 - 1288) quân
Nguyên - Mông đã tiến hành xâm lược nước ta 3 lần.
2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược
của nhà Trần thế kỷ XIII
2.3.1. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258)
Sau khi chiếm được Đại Lý, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 4 vạn quân
tiến xuống biên giới nước ta. Trước khi tiến vào biên giới Đại Việt, chúng
dừng chân và cho sứ giả đưa thư vào Đại Việt đe dọa và dụ hàng. Nhưng biện
pháp ngoại giao của chúng đã hoàn toàn bị thất bại.
Triều đình Trần cũng như toàn dân Đại Việt không mảy may run sợ
trước uy lực của Mông Cổ. Khi được tin Mông Cổ sắp tấn công xâm lược,
27
triều đình lập tức chuẩn bị khẩn trương để chống giặc “Tháng 10/1257, vua
Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thủy bộ lên miền biên
giới Tây Bắc và ra lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc” [25,
tr.22]. Để tỏ rõ ý chí kiên quyết của mình, vua Trần không một chút kiêng sợ,
đã ra lệnh tống giam tất cả những tên sứ Mông Cổ.
Không thấy sứ giả về, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tấn công. Y sai
Trêtrếchđu (Triệt Triệt Đô) và một tướng khác chia quân làm hai đạo tiến
theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao (nhiệm vụ thăm dò, dẫn đường) theo sau
là hai đạo quân của hai cha con Ngột Lương Hợp Thai.
Tháng 1/1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch
Hạc (Việt Trì - Phú Thọ). Sau đó chúng theo đường bộ, hướng về Thăng
Long đến Bình Lệ Nguyên - nơi đây Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn
giặc. Phát hiện quân ta dàn trận bên sông, Aju (con của Ngột Lương Hợp
Thai) vội báo cho Ngột Lương Hợp Thai thúc quân tiến xuống. Ngày
17/1/1258 chúng kéo quân đến Bình Lệ Nguyên. Trận chiến diễn ra, vua Trần
trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kỵ
binh Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần, quân
của vua Trần rút lui an toàn nhờ vào sự giúp sức của quân và dân. Âm mưu
cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần hoàn toàn bị thất bại.
Ngột Lương Hợp Thai tức giận đổ lên đầu tướng tiên phong, Trêtrếchđu
hoảng sợ uống thuốc độc tự tử.
Cố thủ không được trước thế giặc mạnh đang tấn công ồ ạt, triều đình
quyết định rút lui khỏi kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng và thực
hiện kế dã thanh. Thăng Long yên tĩnh, trống không. Trước bốn cửa thành
không còn bóng quân Tứ sương, quân Mông Cổ tiến vào kinh đô vắng lặng,
gặp khó khăn về lương thực, chúng đánh ra vùng xung quanh Kinh đô để
hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp
28
chống cự quyết liệt, tiêu biểu là dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội) đã
tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào xung quanh làng, dựng lũy chiến
đấu. Khi giặc đến, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra,
lực lượng quân Mông Cổ đã bị thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến
đấu từ xóm làng. Chỉ mấy ngày đến Thăng Long quân Mông Cổ đã hoàn
toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu. Ngột Lương Hợp Thai và bọn tướng lĩnh
đều hốt hoảng cực độ. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định
phản công giải phóng Thăng Long, nhanh chóng giành thắng lợi. Kinh
thành sạch bóng quân thù.
2.3.2. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285)
Sau việc lập An Nam tuyên úy ti và sai 1000 quân hộ tống Trần Di Ái về
Đại Việt năm 1282 bị thất bại. Hốt Tất Liệt luôn tìm cách sách nhiễu nhà
Trần, gây sự tiến công xâm lược. Khi Toa Đô thất bại ở Chiêm Thành và 2
vạn quân Ô Mã Nhi tan tác vì bão biển thì Hốt Tất Liệt càng muốn nhanh
chóng đánh Đại Việt.
Rút kinh nghiệm từ thất bại trước, lần này Hốt Tất Liệt lại huy động 50
vạn quân, chỉ huy là Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt) và Arickhaya là
những viên tướng chủ chốt chinh phục triều đình Nam Tống, được xếp loại
công thần của triều Nguyên.
Để chuẩn bị kháng chiến, nhà Trần mở hội nghị Bình Than tập trung các
vương hầu, quý tộc để bàn kế đánh giặc. Sau Hội nghị Bình Than, các tướng
lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu, quan trọng. Hưng
Đạo vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh quân đội cả nước. Trần Quang Khải
được cử giữ chức Thượng tướng Thái sư.
Trong khi quân dân cả nước đang khẩn trương chuẩn bị cho cuộc kháng
chiến, Trần Quốc Tuấn ban bố Hịch tướng sĩ nêu nghĩa lớn cứu nước, cứu
mình. Toàn văn bài Hịch là lời kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước
29
và chí căm thù cướp nước như ngọn lửu bốc cao. Quân dân cả nước thích vào
cánh tay của mình 2 chữ “Sát Thát”. Tháng 1/1285, thượng hoàng Thánh
Tông mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về kinh đô Thăng Long để hỏi
kế đánh giặc. Trong bữa tiệc ở Điện Diên Hồng các bô lão đã đồng thanh hô
lớn “Đánh”…
Giữa năm 1284, Thoát Hoan và Arickhaya khẩn trương điều quân tiến
vào Đại Việt. Quân Nguyên - Mông muốn tiêu diệt Đại Việt bằng 3 gọng kìm
đánh vào biên giới phía Bắc và phía Nam. Ngày 2/2/1285, quân giặc chia làm
6 mũi đánh vào Nội Bàng (Bắc Giang). Trần Quốc Tuấn chỉ huy đại quân
đánh chặn giặc. Trước khí thế mạnh của giặc, quân ta bị tổn thất, Trần Quốc
Tuấn quyết định lui quân về Vạn Kiếp. Nghe tin quân ta rút lui, vua Trần
Thánh Tông vội vã ra gặp Trần Quốc Tuấn và vờ hỏi thống soái “thế giặc như
thế, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn khảng khái trả lời “bệ hạ chém đầu
tôi rồi hãy hàng”. Tại Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn tập trung binh lực lớn đến
20 vạn quân.
Ngày 11/2/1285, địch tấn công phòng tuyến Bình Than, quân ta chống
trả quyết liệt, vua Trần dẫn quân về tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Quân ta
rút khỏi Vạn Kiếp, vua Trần và Trần Quốc Tuấn về Thăng Long. Trước sức
mạnh của giặc, Trần Nhật Duật (đóng quân tại Thu Vật - Yên Bái) rút quân về
Bạch Hạc sau đó kéo về hạ lưu sông Hồng. Thượng hoàng Thái Tông và và
vua Nhân Tông về Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan vừa chiếm được
Thăng Long vội vàng đuổi quân theo. Trần Quốc Tuấn thấy cần tăng cường
cho mặt trận phía Nam, chặn đường tiến của Toa Đô bèn lệnh cho Trần Nhật
Duật chịu trách nhiệm trấn giữ Nghệ An, Trần Kiện vào Thanh Hóa, Trần
Quang Khải tăng cường cho Nghệ An. Thoát Hoan cố gắng kiểm soát vùng
chiếm đóng, bố trí quân sĩ dựng đồn ở nhiều nơi nhưng phân tán. Ở biên giới
phía Bắc, Nguyễn Thế Lộc còn giữ được Thất Nguyên (Lạng Sơn). Nắm vững
30
được tình hình địch, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem quân ngược
sông Thái Bình đánh chiếm lại Vạn Kiếp không mấy khó khăn. Thoát Hoan bị
cô lập.
Ở phía Nam, Thanh - Nghệ Tĩnh quân ta gặp nhiều khó khăn, TRần Kiện
(con Trần Quốc Khang) cùng Lê Trắc đầu hàng và dẫn đường cho giặc đánh
quân ta. Ngày 13/3, Trần Kiện lại dẫn đường cho giặc tấn công Trần Quang
Khải, cuộc chiến ác liệt, thế trận lại thuộc về địch. Trần Quang Khải cho rút
quân. Giữa tháng 3/1285, cuộc chiến vẫn diến ra gay go phức tạp. Quân Trần
về Thăng Long, Thoát Hoan lại thúc quân xuống Thiên Trường. Lúc ấy, Toa
Đô kéo quân từ Thanh Hóa ra Trường Yên (Ninh Bình). Y sai tướng ra Thiên
Trường báo tin cho Thoát Hoan về nguy cơ của đại quân (đói ăn, bệnh tật,
mệt mỏi…). Quân của Thoát Hoan cũng rơi vào tình thế đó nên ra lệnh cho
Toa Đô đóng quân và tự kiếm ăn.
Tháng 5/1285, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật cùng
nhiều tướng sĩ khác đem quân ra Bắc. Chiến lược phản công bắt đầu. Mục
tiêu trước mắt của ta là đánh tan quân giặc ở Khoái Châu (Hưng Yên) để chia
cắt quân Thoát Hoan và Toa Đô, đẩy quân Thoát Hoan vào thế cô lập, bị
động. Cuối tháng 5, quân của Trần Quang Khải và các tướng khác đánh vào
Chương Dương và nhanh chóng giàng thắng lợi. Tàn quân của địch rút về
Thăng Long. Quân ta bao vây Thăng Long, địch ra sức cố thủ.
Trước tình cảnh hiểm nghèo, chúng liều chết phá vây vượt sông Hồng
chạy sang Gia Lâm, kinh thành được khôi phục hoàn toàn. Sức tàn, thế yếu,
Thoát Hoan rút quân theo hướng Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn đem quân đánh
chặn, quân Thoát Hoan phải chạy sang phía sông Như Nguyệt lại gặp quân
Trần Quốc Toản chặn đánh, khiến tổn thất nặng nề. Thoát Hoan chạy sang
Vạn Kiếp lại bị sa lầy vào bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. Hoảng sợ
Thoát Hoan mở đường máu chạy về biên giới Lạng Sơn lại bị quân của ta
31
đánh chặn ở cửa ải, Thoát Hoan hoảng sợ chui vào ống đồng cho quân lính
khiêng chạy. Các trận Tây Kết, Vạn Kiếp, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng
Long đã tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta.
2.3.3. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288)
Hai lần xâm lược, hai lần thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt
mất mặt, tức tối muốn tổ chức ngay cuộc chiến tranh xâm lược lần ba hòng
trả thù, đồng thời để gấp rút đánh thông con đường bành trướng xuống Đông
Nam Á. Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng
cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần này.
Toàn bộ quân viễn chinh lần này do Thoát Hoan chỉ huy gồm 30 vạn
quân cả bộ binh lẫn thủy binh, mang theo lương thực đầy đủ. Chúng tiến vào
nước ta chia làm 3 đạo: Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo
đường Lạng Sơn tiến vào. Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông
Hồng tiến xuống. Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp… chỉ huy với 500
chiến thuyền từ Quảng Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào
hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Ngoài ra, có một đoàn thuyền
vận tải do Trương Văn Hổ cầm đầu chở 70 vạn thạch lương theo sau. Khác
với lần trước, lần này chúng chú ý đến thủy binh.
Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tổng chỉ huy các lực lượng. Ông đề ra
kế hoạch: Lúc đầu thế giặc mạnh, quân ta rút về vùng ven biển để bảo toàn
lực lượng. Nhân dân trên đường tiến quân của địch và trong vùng chiếm đóng
có nhiệm vụ cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn lương thực của địch,
đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm tiêu hao sinh
lực của chúng, đẩy chúng vào thế bị động.
Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc
Tuấn “giặc tới, liệu tình hình thế nào?”, Trần Quốc Tuấn trả lời “năm nay
đánh giặc nhàn”. Lần này, Trần Quốc Tuấn chú trọng đến chiến trường biển
32
Đông Bắc - đường tiến quân lương của địch. Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm
về biên thùy ven biển và Trần Toàn có nhiệm vụ ngăn chặn thủy quân giặc.
Trận Ngọc Sơn, do tương quan lực lượng của Ô Mã Nhi mạnh hơn nên
Trần Toàn có nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng và đã thu được
thắng lợi. Nhưng do lực lượng giặc quá mạnh nên chúng vẫn vượt qua vùng
biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh), gặp quân của Trần Khánh Dư, trận
chiến xảy ra ác liệt. Quân của Trần Khánh Dư không sao cản được đạo quân
của của giặc, chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với
Thoát Hoan.
Trận Vân Đồn - Cửa Lục, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta
tiêu diệt sạch đoàn thuyền lương của giặc. Tạo điều kiện cho quân dân ta
nhanh chóng chuyển lên chiến lược phản công. Ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố
xây dựng thành căn cứ quân sự. Y để lại một số quân ở đây, còn lại tiếp tục
tiến về Thăng Long. Quân dân ta tạm thời rút khỏi kinh thành.
Hậu cần bao giờ cũng là một vấn đề then chốt của bất cứ một quân đội
nào. Quân Nguyên trông chờ vào thuyền lương của Trần Văn Hổ, giờ này
mấy chục vạn quân Nguyên ở Thăng Long lâm vào tình trạng thiếu lương
thực nghiêm trọng. Thoát Hoan sai quân đi tìm đoàn thuyền lương nhưng đều
bị ta đánh bại. Sau khi biết được tin báo thuyền lương nằm trong tay ta, Thoát
Hoan hoang mang lo sợ. Đầu tháng 3, Thoát Hoan buộc phải quyết định bỏ
Thăng Long về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ, sau đó quyết định chia đạo quân
làm hai theo đường thủy bộ rút về nước.
Biết được ý đồ và đường hành quân của giặc, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị
một cuộc phản công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết
chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi. Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật
hoàn hảo, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Gềnh
Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở ở các
33
cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn chỉ trong vòng không quá
20 ngày. Đây là một trong những công tác quan trọng trong việc chuẩn bị
chiến trường, thể hiện rõ tư tưởng chủ động tích cực tiêu diệt giặc của quân
dân thời Trần.
Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, quân dân ta lần lượt đánh bại quân giặc trên
đường rút lui. Trận quyết chiến đúng như dự định xảy ra trên sông Bạch
Đằng. Sau chiến thắng Bạch Đằng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh
Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và các tên
thiên hộ,vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng trận trước
lăng mộ vua Thái Tông, Trần Nhân Tông đọc:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Giang sơn mãi mãi vững âu vàng”.
Như vậy, ba lần xâm lược nước ta là ba lần thất bại thảm hại của quân
Nguyên - Mông. Điều này đã chứng minh một chân lí: Một dân tộc nhỏ bé
nếu biết đoàn kết sức mạnh của cả dân tộc thì bất kì một kẻ thù xâm lược nào,
dù có mạnh đến đâu cũng phải khuất phục. Ba lần kháng chiến chống Nguyên
Mông là ba lần vệ quốc vĩ đại của ông cha ta, như được thổi lại từ thuở Vua
Hùng dựng nước, bà Trưng, bà Triệu đánh giặc giữ nước. Đồng thời đây cũng
là một cuộc chiến tranh nhân dân, bởi có sự kết hợp bền chặt giữa một bên là
triều Trần và một bên là nhân dân yêu nước. Trong thắng lợi to lớn của cuộc
đấu tranh đó có đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa. Nhờ sự hi
sinh, tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân Thanh Hóa đã cùng với
nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần làm nên thắng lợi
vang dội. Thắng lợi đó ghi vào lịch sử dân tộc như những trang chói lọi nhất.
Trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba, danh
tướng xứ Thanh có công lao đặc biệt to lớn, đó là Đỗ Hành.
34
Đỗ Hành năm sinh và năm mất không rõ, tài liệu Gia phả cho biết ông
thuộc dòng dõi Đỗ Cảnh Thạc - một trong 12 sứ quân, đóng ở Đỗ Động Giang
(Thanh Oai - Hà Nội). Quê gốc dòng họ Đỗ này ở Hải Dương. Đầu thế kỷ
XIII một chi họ Đỗ đã dời đến cư trú tại làng Ngọc Mỹ nay là Nhân Ngọc -
Hoằng Ngọc, Hoằng Hoá, Thanh Hoá.
Tại nhà thờ chi họ Đỗ ở làng Lương Hà nay là thôn Đại Long xã Hoằng
Thanh (Hoằng Hoá), các cụ cao niên còn nhớ đôi câu đối ghi:
洋 義 侯 世 德 明 來 家 祥 長 發
“Dương nghĩa hầu thế đức minh lai, gia tường trường phát.
杜 德 性 家 姜 天 錫 福 履 永 綏
Đỗ Đức tính gia khương, thiên tích, phúc lý vĩnh tuy”.
Đây là đôi câu đối nói về chi họ Đỗ Hành ở Nhân Ngọc (Hoằng Ngọc).
Làng Ngọc Mỹ, thế kỉ XIII ở cạnh sông Cung, một con sông như hình cánh
cung do thuỷ triều lên xuống ở 2 cửa Lạch Trường và Lạch Trào tổng Ngọc
Chuế mà thành. Sông Cung giao thoa với hạ lưu sông Mã, nơi giao thủy ở
khúc giữa thuộc làng Ngọc Mỹ. Bởi vậy, sông Cung là vùng nước lợ có nhiều
thuỷ tức sinh sống và cũng từ đó mà làng Ngọc Mỹ hình thành nghề khai thác
thủy tức từ rất sớm.
Sinh trưởng trong gia đình nghèo, bố mất sớm, Đỗ Hành làm nghề đánh
giắt, bắt cua, lạch tại sông Cung. Chính trong hoàn cảnh sống đó, tài năng bơi
lội của ông được phát triển.
Lớn lên ông đi kiếm sống ở Hải Dương và được tuyển vào làm gia nô
của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp.
Là người có sức khoẻ, lại có tài bơi lặn nên ông đã được Trần Hưng Đạo
cho vào đội thuỷ binh cùng với Yết Kiêu, Dã Tượng, những gia nô đương
thời.
35
Sau đó ông được sung vào đội quân túc vệ hầu vua Trần tại kinh đô
Thăng Long trong thời kì kháng chiến chống quân Nguyên.
Ông được vua Trần tin dùng và đã phát huy được tài năng giữ gìn an
ninh ở nội cung, bảo vệ vua một cách an toàn.
Sau hai lần xâm lược Đại Việt không thành, kẻ địch vô cùng tức giận và
nhục nhã. Chúng lại tiếp tục cuộc tiến đánh lần thứ ba từ giữa tháng 11 năm
Đinh Hợi (1287).
Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, vua
tôi nhà Trần chuẩn bị sẵn sàng đón đánh quân Nguyên với tư thế chủ động, tự
tin sẽ thắng giặc như Hưng Đạo Vương trả lời vua Trần Nhân Tông “năm nay
đánh giặc nhàn”. Khi hai cánh quân thủy, bộ của giặc kéo đến chúng đã bị
chặn đánh ở nhiều nơi. Lần này thuỷ quân của giặc rất mạnh do Thoát Hoan,
Ô Mã Nhi và một số tướng lĩnh nổi tiếng chỉ huy, chúng hội quân ở Vạn Kiếp
đông tới 30 vạn. Nhưng khi thuyền vận tải lương thực và khí giới của chúng
bị quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy đánh bại tại Vân Đồn (Quảng Ninh)
“bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết tù binh cũng rất
nhiều”. Thảm bại đó buộc quân Nguyên phải rút lui. Trần Hưng Đạo dự đoán:
chắc chắn binh thuyền của chúng sẽ qua cửa Bạch Đằng, vì thế như Đại Việt
sử ký toàn thư cho biết: “Trước đó Vương đã đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng
phủ cỏ lên trên” và trận giao chiến lớn nhất trong lần kháng chiến thứ ba của
quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên Mông, có sự tham gia của
Đỗ Hành, diễn ra ngày 8 tháng ba năm Mậu Tý (1288): “Hôm ấy, nhân lúc
nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến và giả cách thua chạy, bọn giặc
đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều xuống, thuyền giặc vướng cọc
hết… Hai vua (tức Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) đem quân tiếp đến,
quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả…
Bắt được 400 thuyền. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ
36
Cơ Vương dâng lên Thượng Hoàng”. Lập tức, một cảnh tượng hiếm thấy diễn
ra giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại bị bắt làm tù binh. “Thượng hoàng
sai dẫn (Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương) lên thuyền ngự, cùng ngồi nói
chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ”[25, tr.62]
Đỗ Hành lập một chiến công lẫy lừng bắt sống những viên tướng nắm
quyền chỉ huy đại quân Nguyên Mông, thiện chíên, võ nghệ cao cường. Vua
Trần Nhân Tông cho đem các tướng giặc bị bắt cùng các vạn hộ, thiên hộ làm
lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Trong không khí ca khúc khải hoàn, vua Trần phong tước cho nhiều
công thần trong đó Đỗ Hành được phong tước Quan nội hầu, thấp hơn tầm
vóc chiến công mà Đỗ Hành giành được, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không
dâng lên nhà vua mà dâng lên Thượng hoàng.
Cao tuổi, Đỗ Hành được hưu quan và mất ở quê nhà, mộ ông táng tại
cồn Mả Nghè, thôn Nhân Ngọc. Giỗ ông vào ngày 17/2 âm lịch. Nhà thờ
ông được xây dựng khang trang từ thời Lê có đủ long ngai, đối trướng,
gươm dàn, giáo dựng, có bia đá, bát hương đá… nhưng một lần thắp hương
vào ban đêm, các đồ thờ bị cháy âm ĩ. Đến sáng thì chỉ còn một chiếc kiệu
Long đình, sau dòng họ đem cung tiến cho đền thời đức Thánh cả Đại
Giang (nay thuộc xã Hoằng Tiến).
Rất tiếc là sử liệu về Đỗ Hành không có nhiều. Nhưng chiến công mà
ông lập được đã trở thành một chiến tích kỳ diệu trong lịch sử chống ngoại
xâm của dân tộc ta, góp phần nâng cao thêm tầm oanh liệt, rạng rỡ của
chiến công mà quân dân Đại Việt giành được trong cuộc kháng chiến chống
cuộc xâm lược của đế chế Mông - Nguyên hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
Tên ông đã được đặt cho một đường phố ở Hà Nội và Thanh Hoá.
37
2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm
lược
2.4.1. Quá trình chuẩn bị, xây dựng lực lượng tại Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh có sông núi lớn bao bọc hai đầu, đồng bằng ở
giữa rộng lớn, phì nhiêu, dân cư đông đúc. Trải qua bao thời đại, Thanh Hóa
luôn là hậu phương, điểm tựa cho các phong trào đấu tranh giành và bảo vệ
độc lập dân tộc. Vùng địa bàn chiến lược Thanh Hóa từng góp phần cho các
triều Ngô, Đinh, TiềnLê làm nên cơ nghiệp và đặc biệt, Thanh Hoá đã được
sự quan tâm chú ý của vua Trần trong kế sách đánh giặc, giữ nước.
Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý, trên cơ sở kế thừa và nâng cao
những thành quả của vương triều Lý trước đó, triều Trần đã tiếp tục củng cố
chế độ trung ương tập quyền và quốc gia thống nhất. Về chính trị, triều Trần
xây dựng bộ máy hành chính từ Trung ương xuống đến các địa phương chặt
chẽ, vững vàng, năng động, đưa đất nước vào thế thống nhất ổn định sau thời
gian dài rối loạn , khủng hoảng của nhà Lý. Ở Thanh Hóa, nhà Trần đặt các
chức An phủ, Trấn phủ, hai viên Chánh phó để cai trị. Đặc biệt hơn, năm
1234, vua Trần đã cử Trần Thủ Độ - một nhà chính trị xuất sắc, người có
công sáng lập và củng cố vương triều Trần giữ chức “Thống quốc Thái sư Tri
Thanh Hóa phủ sự” [25, tr. 12-15] và năm 1238 “duyệt số đinh Thanh Hóa”.
Về kinh tế, nhà Trần đã thực thi nhiều biện pháp tiến bộ để phát triển kinh tế
như mở mang phát triển thủ công nghiệp, xây dựng mạng lưới thương nghiệp
với các hệ thống chợ búa, cảng sông, cảng biển. xây dựng đê điều, nạo vét
mương máng, tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, quy định
chặt chẽ các hình thức ruộng đất từ ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước đến
ruộng đất tư nhân (bao gồm cả các thái ấp - đất phong điền trang cho quý tộc
Trần, ruộng đất tư hữu của địa chủ, tiểu nông tư hữu). Riêng về chế độ điền
trang thì vào “mùa đông tháng 10 năm 1226, xuống chiếu cho Vương hầu,
38
công chúa, phò mã, cung tần, chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp
làm nô tì để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang” [25, tr.36]. Cũng
vào thời gian này, Trần Nhật Duật được phong làm Chiêu Văn vương và sau
đó được lập điền trang ở vùng phía Nam Thanh Hóa và Tĩnh Quốc đại vương
Trần Quốc Khang ở Diễn Châu (Nghệ An).
Trần Nhật Duật đã chọn vùng sông Lý, núi Ngọc thuộc hương Ngọc Sơn
(xã Văn Trinh xưa) để xây dựng phủ đệ theo quy định “kiến ấp phong vương”
của nhà Trần. Hương Ngọc Sơn là vùng đất được bao bọc bởi bốn con sông:
Sông Lăng ở phía Bắc, sông Hoàng (còn gọi là sông Vạy) ở phía Tây, sông
Yên (thượng lưu sông Ghép) ở phía Nam và sông Lý ở phía Đông. Núi Ngọc
Sơn nằm ở giữa. Vị trí này, núi không cao nhưng dài tựa trường thành. Dựng
đồn canh trên đỉnh có thể quan sát đường thượng đạo, hạ đạo và hải đạo. Cách
núi này về phía Đông Nam lại có dãy núi Hiệp Thạch (còn gọi là núi Chẹt) là
một cửa đi đường bộ hiểm trở. Sông Lý tuy không sâu rộng nhưng là đường
thủy huyết mạch vào Nam ra Bắc. Có thể khẳng định hương Ngọc Sơn là một
vùng có vị trí quân sự hết sức thuận lợi.
Từ những sự kiện nêu trên cho thấy, triều Trần đã có những bước chuẩn
bị cần thiết về địa bàn chiến lược cũng như nhân tài, vật lực và định ra
phương hướng chiến lược, sách lược cho một cuộc kháng chiến lâu dài chống
lại một kẻ thù thiện chiến và hung hãn nhất đương thời đang đến gần.
Trong thế kỷ XIII, quốc gia Đại Việt dưới sự trị vì của triều Trần phải
đương đầu với họa xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Từ 1258 - 1288,
triều Trần đã ba lần chống lại sự xâm lược của quân Nguyên - Mông, lần thứ
nhất vào năm 1258, lần hai vào năm 1285 và lần ba vào năm 1288. Trong ba
lần kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược của triều Trần thì lần một và
lần ba địa bàn Thanh Hóa là một hậu phương vững chắc, nơi cung cấp sức
người, sức của và là căn cứ quân sự để củng cố lực lượng của quân triều đình.
39
Lần hai, địa bàn Thanh Hóa trở thành chiến trường ác liệt trong cuộc chiến
chống xâm lược của quân Nguyên Mông. Cùng với nhân dân cả nước, nhân
dân Thanh Hóa đã tích cực chuẩn bị lược lượng, sắm sửa vũ khí, sẳn sàng
trong tư thế quyết chiến, quyết thắng.
Với khí thế và tinh thần chống giặc khẩn trương của quân dân Đại Việt,
tháng 12 năm Giáp Thân (tháng 1 - 1285), Thượng hoàng Trần Thánh Tông
đã triệu tập phụ lão trong cả nước về kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở thềm
điện Diên Hồng hỏi kế đánh giặc. Quê hương Thanh Hóa có nhiều bô lão
được vinh dự tham gia hội nghị Diên Hồng lịch sử. Theo nguồn tài liệu gia
phả được biết, ở Thanh Hóa có Chu Văn Lương (người làng Nam Ngạn,
Thành phố Thanh Hóa), Mai Phúc Trường, người làng Dầu (nay thuộc xã
Quang Lộc, huyện Hậu Lộc) tham dự Hội nghị Diên Hồng. Tinh thần quyết
chiến của hội nghị Diên Hồng đã thông qua các bậc phụ lão về với nhân dân
Thanh Hóa. Khắp nơi trên địa bàn đã tổ chức các đội dân binh sẵn sàng chiến
đấu và phối hợp cùng với quân triều đình đánh giặc, thực hiện lệnh của vua
Trần: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết
mà đánh, nếu sức không địch nỗi thì cho phép lẫn tránh vào rừng núi, không
được đầu hàng” [23, tr. 202].
Các đội quân chống giặc đã được tập hợp và luyện tập hăng hái như:
Chu Văn Lương đã tập hợp một đội quân gồm những trai tráng khỏe mạnh,
thạo nghề sông nước tập luyện hăng say, lên đường ra bắc phối hợp với quân
đội triều Trần đánh giặc giữ nước. Mai Phúc Trường ở làng Dầu, Đại toát Lê
Mạnh ở hương Yên Duyên (Quảng Xương) đã tổ chức dân binh ở Hương,
Giáp luyện tập võ nghệ, tích trữ lương thảo sẵn sàng chống giặc.
Từ những cứ liệu trên cho thấy, cùng với quá trình chuẩn bị chống giặc
chung của cả nước, trên địa bàn Thanh Hóa việc chuẩn bị nhân tài, vật lực,
căn cứ cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông diễn ra rất sôi nổi, khẩn
40
trương. Đồng thời cũng thấy được tinh thần yêu nước, ý chí bảo vệ dân tộc
của dân nhân Thanh Hóa hết sức sục sôi.
2.4.2. Nhân dân Thanh Hóa trực tiếp tổ chức kháng chiến chống
Nguyên -Mông xâm lược lần thứ hai (1285)
Nhìn lại lịch sử thế kỷ XIII cho thấy, trong vòng 30 năm (1258 - 1288),
đế quốc Nguyên - Mông đã ba lần đưa quân sang xâm lược Đại Việt. Triều
Trần cùng với nhân dân cả nước đã đoàn kết, quyết tâm đến cùng chống giặc
giữ nước. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông đó thì cuộc
kháng chiến lần thứ hai diễn ra vào năm 1285 là cuộc kháng chiến quyết liệt
và đầy thử thách nhất.
Ngày 24 tháng 8 năm 1284, 50 vạn quân xâm lược của nhà Nguyên do
Thoát Hoan chỉ huy tiến vào nước ta theo hai hướng: Phía Bắc từ Trung Quốc
tràn xuống, phía Nam từ Chiêm Thành đánh ra. Để đảm bảo chắc thắng cho
cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, ngoài việc sử dụng đạo quân chủ yếu
gồm 40 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh từ phía Bắc xuống, năm
1282, nhà Nguyên còn tổ chức thêm một đạo quân khác do Toa Đô chỉ huy
đem 10 vạn quân từ Quảng Châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành, làm
cánh quân vu hồi chiến lược đánh thốc từ phía Nam lên, hình thành thế trận
“hai gọng kìm” hòng kẹp chặt quân đội nhà Trần vào giữa để tiêu diệt. Để
thực hiện kế hoạch “hai gọng kìm” Toa Đô dẫn quân vượt biển sang xâm lược
Chiêm Thành, rồi từ đó củng cố lực lượng, tích lũy thêm lương thảo…làm
bàn đạp tiến đánh Đại Việt từ phía Nam. Song ý đồ đó đã không đạt được, khi
quân và dân Chiêm Thành chiếm giữ được những đường hiểm yếu chống trả
quyết liệt, buộc chúng phải chuyển thực hiện mục đích chính làm đạo quân vu
hồi từ phía Nam tiến đánh Đại Việt trong điều kiện lương thảo dự trữ không
được bổ sung, lực lượng cũng bị tổn thất sau các cuộc giao chiến với quân
nước Chiêm. Từ Quảng Bình, Toa Đô kéo quân ra kết hợp với quân tiếp viện
41
của Ô Mã Nhi từ ngoài biển tiến vào đánh chiếm Nghệ An. Ý định nhanh
chóng chiếm Nghệ An không xong, Toa Đô kéo quân ra Thanh Hóa. Nhằm
tránh sức mạnh ban đầu của địch và thực hiện kế “thanh dã” nhân dân và toàn
bộ tôn thất nhà Trần trong thành Thăng Long đã dược lệnh sơ tán. Khi đại
quân của Thoát Hoan tiến vào nội địa đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của
quân và dân ta.
Ở Thanh Hóa, vua Trần đã cử Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện
đóng giữ, chặn đánh quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy từ phía Nam ra.
Và cũng chính trong thời khắc lịch sử này vua Trần Thánh Tông đã tuyên bố:
“Cối Kê cựu sự quân tu kí, Hoan Ái do tồn thập vạn binh” (Cối Kê chuyện cũ
người nên nhớ, Hoan Ái còn kia chục vạn quân), nghĩa là vùng đất Thanh -
Nghệ đã trở thành vùng đất chiến lược quan trọng trong kế sách chống giặc,
giữ nước của các vua nhà Trần.
Ngược dòng lịch sử về lại với thời kỳ chống giặc Nguyên - Mông của
quân dân triều Trần chúng ta biết được, mặc dù phải đương đầu với một thế
lực giặc mạnh, lực lượng chiến đấu chênh lệch nhiều, nhiều vùng biên cương
phía Bắc của Tổ quốc lần lượt rơi vào tay quân thù. Nhưng niềm tin sắt đá
vào sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc quân và dân - vua tôi nhà Trần vẫn
kiên cường chống giặc. Điều này được thể hiện qua câu nói của Trần Hưng
Đạo “Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi sẽ đầu hàng”, Trần Bình Trọng “Ta
thà làm làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” [25, tr. 51].
Hòa vào tinh thần đấu tranh chống giặc chung của cả nước, cuộc chiến
đấu chống giặc của quân dân Thanh Hóa cũng diễn ra hết sức sôi nổi và mạnh
mẽ và kiên cường.
Theo sử sách, nhiều trận đánh lớn đã diễn ra trên đất Thanh Hóa:
- Thứ nhất: Cuộc chiến đấu của nhân dân hương Yên Duyên (nay thuộc
huyện Quảng Xương).
42
Khi quân của Toa Đô tiến vào đến Thanh Hóa đã gặp phải sự kháng cự
mạnh mẽ của nhân dân Thanh Hóa và quân đội triều đình. Đặc biệt, nhân dân
hương Yên Duyên đã tiến hành tổ chức đánh giặc ngay khi chúng đặt chân lên
quê hương. Sự kiện lịch sử này được Văn bia chùa Hưng Phúc ghi lại:
“khoảng năm Thiệu Bảo (1279 - 1285), quân giặc Hồ (quân Nguyên) tiến
xuống phía Nam, Hữu tướng giặc là Toa Đô chỉnh đốn quân ngũ tiến theo
đường biển. Quân giặc đi tắt đường Cổ Khê dẫn vào trong hương (Yên
Duyên), ông Lê Công (tức Lê Mạnh) đốc xuất mọi người trong hương ra
phòng ngự ở bến Cổ Bút đánh nhau với quân giặc. Quân giặc bị đánh hầu như
không còn đường rút chạy. Ngặt vì trong hương có kẻ gian giảo đầu hàng giặc
nhân đó dẫn đường cho giặc, cho nên tất cả nhà cửa, của cải đều bị đốt phá,
cướp bóc. Bởi thế công việc không thành. Kịp khi quân giặc rút lui nhà vua
xuống chiếu bắt kẻ phản bội trị tội, bắt phải bồi thường của cải trong hương
cho ông, để làm điều khuyến khích cho những người trung thành và chăm chỉ
đánh giặc, thực là nhờ công của ông vậy” [7, tr. 64].
Theo những ghi chép trên bia Hưng Phúc cuộc chiến chống Nguyên -
Mông của nhân dân Thanh Hóa như đang diễn ra cùng với sự giúp sức của
quân đội triều Trần thời bấy giờ. Toa Đô sau khi chiếm được Nghệ An, tiến
đánh Thanh Hóa nhưng thuyền binh không dám đi thẳng thủy đạo Kênh Than,
sợ quân Trần chặn đường phục kích, mà theo hải đạo vào Cổ Khê. Tại đây, Đại
toát Lê Mạnh đem hương binh phục kích một trận, quân Nguyên thua, Toa Đô
rút chạy ra biển. Cũng lúc này, Hưng Đạo vương đã kịp thời tăng cường chi
viện cho các đạo quân ở Thanh Hóa và kiên quyết giữ vững Thanh Hóa. Các
tướng lĩnh, vương hầu kiệt xuất đã được triều đình điều động vào Thanh Hóa
như: Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, Văn Túc vương Trần Đạo Tái,
Chiêu Hiếu vương Trần Học, Chương Hiến hầu Trần Kiện…trấn giữ các huyện
miền biển và vùng phụ cận (nay thuộc các huyện Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga
43
Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc)…Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang thất thủ Nghệ
An, lui giữ vùng đất giáp ranh từ khe Nước Lạnh (Lãnh Thuỷ) đến sông Lạch
Bạng (nay thuộc huyện Tĩnh Gia), Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phòng thủ
các hương Yên Duyên, Ngọc Sơn, huyện Vĩnh Xương (nay thuộc huyện
Quảng Xương).
Quân Toa Đô bị nhân dân hương Yên Duyên đánh bật ra biển, nhưng
tướng Giảo Kỳ đã lọt vào Lễ Môn, đánh phá vùng Đông Sơn, Hoằng Hóa.
Đội quân Toa Đô từ đường biển tìm đường đánh vào đông bắc Thanh Hóa để
phối hợp với Giảo Kỳ, tạo thành gọng kìm hòng bóp nát quân Trần. Hoảng sợ
trước sức mạnh của kẻ thù, Trần Kiện hoang mang sợ hãi đầu hàng Toa Đô.
Tháng hai, ngày giáp thìn mồng 1 (8-3-1258) con thứ của Tĩnh Quốc Đại
vương Quốc Khang là Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện và liêu thuộc
là bọn Lê Trắc đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên” [25, tr. 51].
Từ cuộc đấu tranh trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống giặc của nhân dân
hương Yên Duyên diễn ra hết sức sôi nổi, quyết liệt. Thể hiện rõ ý chí quyết
tâm bảo vệ quê hương và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Từng tên xóm, tên
làng đã ghi dấu tích chiến công với những con người quả cảm góp sức cùng
triều Trần chống lại cuộc tấn công của quân Nguyên - Mông.
- Thứ hai: Trận đánh trên sông Bố Vệ.
Vệ Bố kinh hay còn gọi là kênh Bố Vệ, là con kênh đào nối sông Hải
Hán từ làng Bảng Nguyên (Đông Lĩnh, Đông Sơn) qua Đông Khối, làng
Vinh, Đông Sơn xuống gặp sông Hoàng ở Mỹ Cảnh. Kênh Bố Vệ được khởi
đầu từ khu vực Mật Sơn. Từ đây có thể xuôi sông Hải Hán ra cửa Lễ Môn
hoặc theo sông Bồn xuống gặp sông Hoàng. Như vậy khu vực kênh Bố Vệ
phần lớn thuộc phạm vi thành phố Thanh Hóa ngày nay.
Sau khi Trần Kiện đầu hàng quân Nguyên, Giảo Kỳ muốn đánh chiếm
thủ phủ Ngọc Sơn, nhưng khi vừa mới đưa quân đến kênh Bố Vệ Giảo Kỳ đã
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

More Related Content

What's hot

Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồnghttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuhttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...https://www.facebook.com/garmentspace
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Lịch sử văn học việt nam tập 3
Lịch sử văn học việt nam   tập 3Lịch sử văn học việt nam   tập 3
Lịch sử văn học việt nam tập 3jackjohn45
 

What's hot (9)

Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quêLuận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
Luận văn: Cách nhìn về con người trong tiểu thuyết Người cùng quê
 
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOTLuận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
Luận văn: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Lan Khai, HOT
 
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồngTh s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
Th s33.006 thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của vi hồng
 
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữuTh s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
Th s33.008 giá trị và vị trí tập thơ việt bắc trong hành trình thơ tố hữu
 
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
Th s33.015 hát quan lang của người tày ở thạch an cao bằng tiếp cận dưới góc ...
 
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG VĂN HỌC ĐƯƠNG ĐẠI QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN ...
 
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt NamLuận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
Luận văn: Hình tượng người phụ nữ trong thơ trữ tình Việt Nam
 
Lịch sử văn học việt nam tập 3
Lịch sử văn học việt nam   tập 3Lịch sử văn học việt nam   tập 3
Lịch sử văn học việt nam tập 3
 
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIXLuận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
Luận văn: Thơ ngôn chí của tác giả nhà nho hành đạo nửa sau XIX
 

Similar to Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC nataliej4
 
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiiChính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiihttps://www.facebook.com/garmentspace
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam nataliej4
 
Chiến thắng đống đa
Chiến thắng  đống đaChiến thắng  đống đa
Chiến thắng đống đaDam Nguyen
 
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnNhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnPham Long
 
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOA
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOAVài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOA
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOAvinhbinh2010
 
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...Học Tập Long An
 
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdf
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdfLịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdf
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdfPhngL812903
 
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần VươngB26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần VươngJackson Linh
 
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM...
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT  NAM TRONG NHỮNG NĂM...BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT  NAM TRONG NHỮNG NĂM...
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM...Võ Tâm Long
 
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...nataliej4
 
Caicach ruongdat-03
Caicach ruongdat-03Caicach ruongdat-03
Caicach ruongdat-03Huu Nguyen
 

Similar to Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620 (20)

Luận văn: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong sáng tác văn học Việt Nam
Luận văn: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong sáng tác văn học Việt NamLuận văn: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong sáng tác văn học Việt Nam
Luận văn: Nhân vật lịch sử Hoàng Hoa Thám trong sáng tác văn học Việt Nam
 
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhân Vật Lịch Sử Hoàng Hoa Thám Trong Các Sáng Tác Văn H...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhân Vật Lịch Sử Hoàng Hoa Thám Trong Các Sáng Tác Văn H...Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhân Vật Lịch Sử Hoàng Hoa Thám Trong Các Sáng Tác Văn H...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Nhân Vật Lịch Sử Hoàng Hoa Thám Trong Các Sáng Tác Văn H...
 
LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
LỊCH SỬ VĂN HỌC TRUNG QUỐC
 
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviiiChính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
Chính sách phát triển thủy quân của chúa nguyễn ở đàng trong thế kỉ xvixviii
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa T...
 
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A LướiLuận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
 
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (Quảng Trị) từ thế k...
 
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (XVI đến XIX)
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (XVI đến XIX)Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (XVI đến XIX)
Luận văn: Tình hình kinh tế và văn hóa huyện Triệu Phong (XVI đến XIX)
 
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
Những vẫn đề cơ bản về lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam
 
Chiến thắng đống đa
Chiến thắng  đống đaChiến thắng  đống đa
Chiến thắng đống đa
 
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vnNhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
Nhà Mạc ba thời kỳ = Vanhien.vn
 
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOA
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOAVài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOA
Vài nét về sự phát triển TRIẾT HỌC TRUNG HOA
 
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...
Sáng kiến kinh nghiệm sử 7: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn lịch s...
 
Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
 
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdf
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdfLịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdf
Lịch sử Việt Nam tập 8, từ năm 1919 đến năm 1930.pdf
 
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.docLuận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
Luận văn thạc sĩ Triết học Tư tưởng nhân sinh của minh mạng.doc
 
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần VươngB26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
B26 t41 II Các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương
 
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM...
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT  NAM TRONG NHỮNG NĂM...BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT  NAM TRONG NHỮNG NĂM...
BÀI 21: PHONG TRÀO YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP CỦA NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM...
 
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
Nghiên cứu so sánh cảm hứng an bần lạc đạo trong sáng tác văn học thế kỷ 16 v...
 
Caicach ruongdat-03
Caicach ruongdat-03Caicach ruongdat-03
Caicach ruongdat-03
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 

Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua zalo=> 0909232620

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ DUNG THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ XIII – XIV) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ LỊCH SỬ VIỆT NAM HÀ NỘI, 2018
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ DUNG THANH HÓA TRONG CUỘC CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ XIII – XIV) Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 8.22.90.13 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC NHUỆ HÀ NỘI, 2018
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ. Các trích dẫn, minh họa trong luận văn là chính xác, có tính khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Cao Thị Dung
  • 4. LỜI CẢM ƠN Hoàn thành luận văn này tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ - Người đã tận tình giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả rất trân trọng và biết ơn sự giúp đỡ quý báu của các thầy, Cô giáo khoa Lịch sử - Học viện khoa học xã hội đã giành cho tác giả trong quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp của Trường THPT Thụy Hương - Hải Phòng đã tạo điều kiện cho tác giả trong quá trình học tập. Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý thư viện Viện sử, thư viện tỉnh Thanh Hóa, Hội sử học Thanh Hóa, Ban quản lý các di tích lịch sử Thanh Hóa đã nhiệt tình giúp đỡ tác giả trong quá trình sưu tầm tài liệu, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Cuối cùng, cho tác giả gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, người thân đã luôn ủng hộ, động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu luận văn. Hà nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Cao Thị Dung
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV ............ 9 1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa ........................................ 9 1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn).......................11 1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa ................................................................14 1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân..............................15 Chương 2. THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV ...................................................22 2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII.............................22 2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ.........24 2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược của nhà Trần thế kỷ XIII ...........................................................................................26 2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược .......37 Chương 3. THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG CHIÊM THÀNH THẾ KỶ XIII - XIV ......................................................................54 3.1. Sự suy thoái của nhà Trần và sự lớn mạnh của Chiêm Thành ở cuối thế kỷ XIV .........................................................................................................54 3.2. Mối quan hệ giữa Đại Việt với Chiêm Thành thế kỷ XIII - XIV.........55 3.3. Các cuộc xung đột giữa Đại Việt với Chiêm Thành cuối thế kỷ XIV .57 3.4. Cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành của nhà Trần trên địa bàn Thanh Hóa....................................................................................................60 KẾT LUẬN....................................................................................................70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................73
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NCLS : Nghiên cứu lịch sử Nxb: Nhà xuất bản UBKHXH: Ủy ban khoa học xã hội UBND: Ủy ban nhân dân VHTT: Văn hóa thông tin
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong suốt chặng đường dài phát triển của lịch sử dân tộc, đất nước ta đã tiến hành hàng loạt các cuộc đấu tranh đầy gian nan vất vả để trường tồn và phát triển. Thắng lợi của những cuộc đấu tranh đó đã khẳng định sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc và truyền thống yêu nước của nhân dân ta được lưu truyền từ ngàn xưa – mỗi khi tổ quốc lâm nguy cả dân tộc lại chung sức đấu tranh giành độc lập Do điều kiện địa lý đặc thù, ngay từ thuở các vua Hùng dựng nước và qua nhiều thế kỷ tiếp theo, nước ta luôn bị các vương triều phong kiến nước ngoài, các thế lực thực dân - đế quốc nhòm ngó, đe dọa và xâm lược. Từ cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tần thế kỷ thứ III (trước công nguyên) đến nay, Việt Nam trải qua hơn 10 thế kỷ đấu tranh chống Bắc thuộc, tiếp đó là 2 cuộc kháng chiến chống Tống (thế kỷ X, XI), ba cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông (thế kỷ XIII); 20 năm kháng chiến chống quân Minh (thế kỷ XV), kháng chiến chống quân Mãn Thanh (cuối thế kỷ XVIII) và hơn 80 năm chống thực dân Pháp, hơn 20 năm chống đế quốc Mĩ xâm lược (thế kỷ XIX- XX). Trong các cuộc đấu tranh ấy bằng sức mạnh của cả dân tộc, tài năng trí tuệ của người dân đất Việt chúng ta đã làm nên những thắng lợi vẻ vang buộc kẻ thù xâm lược phải rút quân về nước. Thế kỷ XIII - XIV, quốc gia Đại Việt tồn tại và phát triển dưới sự trị vì của vương triều Trần. Trải qua các đời vua Trần, đất nước ta đã có bước phát triển mạnh về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh đó, nhà Trần cũng phải đương đầu với họa xâm lăng của đế chế Mông Cổ với 3 lần đưa quân tấn công xâm lược Đại Việt. Hơn thế nữa, cũng trong thời gian này nhà Trần cũng phải đối mặt với cuộc tấn công của quân Chiêm Thành từ phía Nam đất nước. Vua quan nhà Trần đã đã gồng mình cùng nhân dân cả nước chống các
  • 8. 2 thế lực xâm lược. Trong cuộc chiến chống xâm lược đó của nhà Trần đã có đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa. Thanh Hóa là vùng đất có bề dày về lịch sử đấu tranh các mạng từ bao đời. Lịch sử dân tộc đã chỉ ra rằng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 2 ( 1284 - 1285) Thanh Hóa vừa là hậu phương vừa là mặt trận chính của cuộc kháng chiến. Mảnh đất anh hùng này không chỉ là chiến trường ác liệt mà còn là trung tâm đầu não bảo vệ, che chở cho các vua Trần thực hiện chiến lược “thanh dã” (vường không, nhà trống), rời Thăng Long cùng quân dân các địa phương tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược. Nhận rõ vị trí địa lí quan trọng cũng như truyền thống đấu tranh anh dũng của nhân dân Thanh Hóa, các vua Trần đã coi Thanh Hóa là điểm tựa vững chắc trong phong trào đấu tranh giành độc lập. Trong kế sách chống giặc bình Nguyên ở thế kỷ XIII, Thanh Hóa là kho lương, kho lính, nguồn dự trữ hùng hậu khi tổ quốc lâm nguy. Trong thời khắc nguy nan nhất, vua Trần Nhân Tông đã rất tự tin mà viết nên vần thơ hào sảng: Cối Kê cựu sự quân tu ký; Hoan Ái do tồn thập vạn binh (Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ; Hoan Ái còn đây chục vạn quân). Cũng từ Thanh Hóa kế sách giải phóng Thăng Long đã được thực hiện trọn vẹn với những chiến thắng vang dội Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết… Trong thế kỷ XIII-XIV, có những thời điểm, quốc gia Đại Việt ở trong một tình thế rất phức tạp, đặc biệt là vùng biên viễn phía Nam. Lợi dụng sự suy yếu của triều Trần, nước Chiêm Thành hưng khởi và thường xuyên đem quân cướp phá vùng Hoá Châu, tấn công ra Thanh Nghệ, vượt biển tấn công ra Thăng Long. Từ giữa thập niên 50 (thế kỷ XIV) về sau, xung đột giữa Đại Việt với Chiêm Thành lên đến đỉnh cao mang tính chất đối đầu trực tiếp. Một lần nữa, Thanh Hoá lại trở thành điểm nóng của cuộc xung đột kéo dài gần ½ thế kỷ. Địa bàn Thanh Hóa là một trong những điểm thường xuyên bị quân
  • 9. 3 Chiêm Thành đánh phá. Nhiều cuộc đụng độ lớn giữa Chiêm Thành và Đại Việt đã diễn ra và cuối cùng thì công cuộc bình Chiêm thắng lợi. Trong chiến thắng chung ấy nhân dân Thanh Hóa đã đóng góp một phần công sức đáng kể. Dõi theo tiến trình lịch sử dân tộc, có thể khẳng định Thanh Hóa có nhiều đóng góp trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm (từ buổi đầu dựng nước đến thời cận hiện đại). Trong khuôn khổ của một luận văn Cao học, tôi hy vọng việc tìm hiểu, nghiên cứu Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành (thế kỷ XIII – XIV) sẽ giúp tôi có thêm những tri thức mới về lịch sử Thanh Hoá, từ đó, với tư cách là một giáo viên dạy môn lịch sử sẽ trao truyền những kiến thức có được cũng như niềm tự hào về lịch sử quê hương cho các thế hệ trẻ - chủ nhân của tương lai. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Cho đến nay, cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông nói chung và Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành ở thế kỷ XIII - XIV nói riêng đã được nghiên cứu trên các bình diện khác nhau Về cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên- Mông có thể kể đến công trình nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và Tài liệu về cuộc kháng chiến của nhà Trần đã ngăn chặn sự bành trướng của Mông Cổ xuống Đông Nam Á của Đào Duy Anh; tác phẩm “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông” của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm; “Việt Nam ba lần đánh quân Nguyên toàn thắng” của Nguyễn Lương Bích. Các tác phẩm đã viết rất rõ về bối cảnh, diễn biến và nguyên nhân thắng lợi của ba cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông của Đại Việt thế kỷ XIII, đồng thời các tác phẩm này cũng dành một số trang viết về cuộc kháng chiến của nhân dân Champa. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII còn được phản ánh qua nhiều bộ thông sử, đó là các bộ giáo trình giảng dạy của khoa Lịch sử trường Đại học
  • 10. 4 Tổng hợp; Đại học Sư phạm; là cuốn thông sử Lịch sử Việt Nam do UBKHXH xuất bản năm 1971; Lịch sử Việt Nam tập 2 do nhóm các nhà nghiên cứu Viện Sử học biên soạn (xuất bản năm 2007, tái bản năm 2013 và 2016); các công trình nghiên cứu của Viện Lịch sử Quân sự, Bộ Quốc phòng v.v… Ngoài ra, liên quan đến nội dung luận văn còn có nhiều bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành: Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Lịch sử quân sự… Về lịch sử Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỷ XIII- XIV đã được nghiên cứu trong các công trình như: Lịch sử Thanh Hóa của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa; Địa chí Thanh Hóa tập 1 - Địa Lý và Lịch sử; Địa chí Hậu Lộc của Nxb KHXH: Các công trình đã giành nhiều chương viết về cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân Thanh Hóa qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Đặc biệt cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông của triều Trần trên địa bàn Thanh Hóa và nhân dân Thanh Hóa chống quân Nguyên Mông được viết rất cụ thể. Bài viết: “Một tấm bia đời Trần mới được phát hiện” của Phùng Văn Cường và Phạm Văn Kính, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 156 (Tháng 5 và 6 năm 1974) đã mô tả lại cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của nhân dân Thanh Hóa thông qua việc tìm hiểu một tấm bia từ đời Trần ở làng Trường Tân, xã Quảng Hùng, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Công trình nghiên cứu: “Vài nét về thái ấp Văn Trinh của Trần Nhật Duật” của Nguyễn Thị Phương Chi, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 9 (340) năm 2004 đã làm nổi bật được vai trò hậu phương của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược. Thanh Hóa là căn cứ địa vững chắc, là nơi tập hợp lực lượng, nơi lui quân của triều Trần trong cuộc kháng chiến. Về cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành xâm lấn thế kỷ XIII - XIV cũng có nhiều bài viết đề cập đến như:“Quan hệ giữa Đại Việt với Chăm
  • 11. 5 Pa thời Trần (thế kỷ XIII - XIV)” của Nguyễn Thị Phương Chi, đăng trên tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. Bài viết đã tóm tắt gắn gọn về các cuộc xung đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành qua các năm từ nửa cuối thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV. Bài viết: “Hồ Quý Ly với vấn đề Chiêm Thành” của Nguyễn Đức Nhuệ cũng đã lột tả được những quan hệ căng thẳng giữa Đại Việt với Chiêm Thành ở thế kỷ XIII - XIV (Tạp chí NCLS, 1992). Về cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành trên địa bàn Thanh Hóa có bài viết:“Tìm hiểu những trận đánh quân Chiêm Thành và quân Minh của Hồ Quý Ly ở Thanh Hóa” của Hà Mạnh Khoa (Tạp chí NCLS, 1992), bài biết đã mô tả lại trận đánh của triều Trần chống quân Chiêm ở Thanh Hóa. Ngoài ra còn có nhiều bài viết khác đăng trên các Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (NCLS)… Như vậy, Cuộc kháng chiến chống xâm lược của nhân ta thế kỷ XIII - XIV nói chung và của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến này nói riêng đã được nhiều thế hệ các học giả quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình có giá trị. Do mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu khác nhau nên những công trình trên mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh của vấn đề. Với những vấn đề nghiên cứu nêu ở trên và cũng để hoàn thành đề tài của mình, chúng tôi kế thừa những thành tựu mà thế hệ người nghiên cứu đi trước đã đạt được và áp dụng những phương pháp nghiên cứu, hướng tiếp cận đa chiều với hy vọng có được kết quả tốt nhất và đạt được mục tiêu nghiên cứu đã nêu ra. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài là làm sáng rõ vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành dưới thời Trần. Qua đó thấy được sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
  • 12. 6 - Đề tài khái quát lại cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống Chiêm Thành của triều Trần và quân dân Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV. - Làm sáng tỏ hai vai trò: Hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông và cuộc kháng chiến chống quân Chiêm Thành dưới thời Trần. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài này là nghiên cứu, tìm hiểu về những đóng góp của quân và dân Thanh Hóa trong các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông và chống Chiêm Thành, bảo vệ nền độc lập của quốc gia Đại Việt trong thời Trần (thế kỷ XIII-XIV). 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Giới hạn về không gian: Địa bàn Thanh Hóa thời Trần (lộ, trấn) - Giới hạn về thời gian: Giai đoạn vương triều Trần trị vì quốc gia Đại Việt (1226-1400) - Nội dung nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề chính sau: Giới thiệu những nét khái quát về mặt địa lý, hành chính và dân cư Thanh Hóa ở thế kỷ XIII – XIV. Những nét chính về cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông và chống Chiêm Thành của quân dân triều Trần. Vai trò của Thanh Hóa trong sự nghiệp chống Nguyên bình Chiêm ở thế kỷ XIII - XIV 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận - Để giải quyết những vấn đề do đề tài đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết kinh tế - chính trị. Ở đây chúng tôi sử dụng quan điểm sử học Mác xít nhằm đánh giá
  • 13. 7 một cách khách quan về vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống các thế lực xâm lược ở thế kỷ XIII – XIV. - Quan điểm sử học Mác xít cũng là kim chỉ nam để chúng tôi xử lý nguồn tài liệu trên tinh thần khoa học và đảm bảo tính lịch sử. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Hai phương pháp được vận dụng chủ yếu và xuyên suốt trong đề tài là phương pháp lịch sử và logic. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên quan nhằm đạt được kết quả tốt nhất trong nghiên cứu của mình như phương pháp điền dã, khảo cứu thực địa (ví như tìm hiểu dấu vết thái ấp của Trần Nhật Duật ở Thanh Hoá, dấu vết các trận đánh quân Nguyên ở Quang Lộc, Liên Lộc huyện Hậu Lộc; khảo sát một số dấu vết về cuộc chiến đấu của quân dân nhà Trần trên sông Bố Vệ...). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận của luận văn: Luận văn lược sử lại quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Đại Việt dưới thời Trần, đồng thời làm rõ vai trò của Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông và chống Chiêm Thành dưới thời Trần (thế kỷ XIII – XIV). - Ý nghĩa thực tiễn của luận văn: Luận văn là tài liệu tham khảo để nghiên cứu về lịch sử đấu tranh của nhân dân Thanh Hóa. Từ những căn cứ khoa học, luận văn nhằm thể hiện rõ vai trò hậu phương và tiền tuyến của Thanh Hóa trong giai đoạn lịch sử thế kỷ XIII - XIV. Từ đó, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy về lịch sử địa phương Thanh Hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn chia làm 3 chương:
  • 14. 8 Chương 1: Khái quát Thanh Hóa thế kỷ XIII - XIV Chương 2: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông thế kỷ XIII - XIV Chương 3: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Chiêm Thành thế kỷ XIII - XIV.
  • 15. 9 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ THANH HÓA THẾ KỶ XIII - XIV 1.1. Khái quát vị trí địa lý và địa hình Thanh Hóa Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực bắc của Trung Bộ, có cảnh quan rất đa dạng và phong phú, là hình ảnh thu nhỏ của cảnh quan Việt Nam trải rộng dài 200km trên lưu vực sông Mã có miền núi, trung du, đồng bằng và biển đảo. Địa hình Thanh Hóa là đồi núi trập trùng hiểm trở ở phía tây vây quanh những thung lũng hẹp và dài, những dòng sông lớn như sông Mã, sông Chu, sông Yên với hàng chục chi lưu nhỏ lấy nước từ hàng trăm, hàng ngàn khe suối trên vùng cao đổ về làm nên sự hung dữ của dòng chảy trong mùa mưa , nhưng hiền hòa về mùa khô. Vùng trung du trải dài với nhiều dải đồi núi chạy theo hướng đông tây đã tạo nên sự chia cắt địa hình dữ dội. Đồng bằng cao thấp bậc thang, ở nơi đồng chiêm trũng, lại có thêm nhiều đồi núi sót. Ngoài khơi là các đảo đá như: đảo Mê, đảo Nẹ… nhấp nhô xen kẽ các trũng biển sâu. Ven biển là vùng đồng bằng cát mặn bãi triều, nơi sinh sôi của các loài sú vẹt và phù du. Trạng thái lồi lõm, đứt nối của địa hình Thanh Hóa là một hình ảnh cổ xưa còn sót lại của lãnh thổ miền Bắc Việt Nam hình thành cách ngày nay hàng triệu năm. Xác định vị trí địa chính trị quan trọng có tính chiến lược của tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV đã coi miền đất Thanh Hóa là “phên dậu thứ hai phía nam” đất nước. Sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn dưới triều Nguyễn đã viết: “Thanh Hóa đông liền biển lớn, tây cắp rừng dài, Khe Lãnh Thủy chặn ở phía nam, núi Tam Điệp ngăn về phía bắc, sông lớn thì có Lương Mã và Ngọc Giáp, núi sông quanh bọc, cao thấp lẫn xen. Hội Trào và Y Bích là khóa then mặt biển, Lôi Dương và Vĩnh Lộc là xung yếu đường trên”. Các triều đại phong kiến trước đây còn xác định Thanh Hóa là “một
  • 16. 10 trấn quan trọng, nơi xung yếu”. Hơn nữa đây còn là vùng đất thiêng nơi sinh ra nhiều bậc vương tướng, văn nho. Với vị trí địa lý cộng thêm tài lực về con người đó trong lịch sử, Thanh Hóa đã từng là chỗ dựa vững chắc cho ông cha ta đánh giặc phương Bắc và là một điểm hậu cứ để mở cõi về phương Nam. Trong suốt chiều dài đấu tranh giữ nước của dân tộc, vùng đất Thanh Hóa luôn được coi là vùng đất “phên dậu”, là cứ điểm quan trọng của cả nước. Có thể chứng minh cụ thể đó là: Năm 980, khi Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, ông đã chọn vùng đất Thanh Hóa để thực thi những chính sách phát triển kinh tế, kết hợp với quốc phòng, như là đào các hệ thống sông ngòi chằng chịt nhằm mở mang giao thông đường thủy, phục vụ ý đồ chiến lược quân sự trong việc bảo vệ biên giới phía nam, trong đó có cả tác dụng phục vụ sản xuất kinh tế nông nghiệp, chuẩn bị một hậu phương lớn về nhân tài vật lực cho công cuộc chống Tống, bình Chiêm giữ vững nền độc lập dân tộc vào những thập kỷ cuối thế kỷ X. Từ năm 1009 - 1225, thời kỳ tồn tại của vương triều Lý; sau khi Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La (Thăng Long), Châu Ái, Hoan Châu trở thành miền đất xa trung tâm chính trị của đất nước và là đất “Trại” sau đó là một phủ của quốc gia Đại Việt. Các vua nhà Lý đặc biệt quan tâm đến vùng đất Thanh Hóa, coi đây là vùng đất “phên dậu” và đẩy mặt công cuộc xây dựng trên quy mô lớn về mọi mặt. Nhà Lý đã cử các đại thần như Lý Thường Kiệt, Chu Công, Phạm Tín, Đỗ Nguyên Thiện, Lương Cải, Dương Chưởng “coi giữ” miền đất quan trọng này. Đặc biệt dưới đời vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Thanh Hóa trở thành hậu phương an toàn cho những lần dừng chân trước khi hành binh về phương Nam.Thời kỳ trị vì của vương triều Trần (1226 - 1400) tính chất “Trại” và “phên dậu” của Thanh Hóa lại một lần nữa lại khẳng định. Nhờ vào vị trí địa lý thuận lợi và những con người tài giỏi, yêu nước của vùng đất Thanh Hóa đã giúp triều Trần làm nên những
  • 17. 11 chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc - Ba lần đại phá quân Nguyên Mông xâm lược. Từ những cứ liệu cụ thể được minh họa trên đây cho thấy rõ vị trí chiến lược của vùng đất Thanh Hóa cũng như vùng phên dậu phía Nam Đại Việt có tầm quan trọng hết sức đặc biệt cho sự hưng vong của đất nước. 1.2. Diên cách hành chính Thanh Hóa thời Trần (Lộ, Trấn) Năm 1226, Vương triều Trần thay Vương triều Lý, mở đầu bằng Trần Cảnh tức Trần Thái Tông. Năm 1242, vua Trần Thái Tông đổi 24 lộ thời Lý thành 12 lộ và đặt các chức quan cai quản từ lộ đến xã. Cuối thời Lý đầu thời Trần Thanh Hóa là Phủ, năm nguyên Phong thứ 6 đời Trần Thái Tông (1256) đổi thành Trại, năm Bảo Phù thứ 3 (1275) đời Trần Thánh Tông lại gọi là Phủ. Cuối Trần (không rõ năm) đổi là lộ rồi trấn. Năm 1397, trấn Thanh Hóa đổi thành trấn Thanh Đô. Vùng đất Thanh Hóa từ cuối thế kỷ XII đến cuối thế kỷ XIV gồm có 7 huyện, 3 châu (mỗi châu có 4 huyện). Trong đó, 7 huyện là: Huyện Cổ Đằng, với trung tâm là đất Kẻ Đừng - Phú Khê. Niên hiệu Hưng Long (1293 - 1314) nhà Trần đặt làm huyện Cổ Đằng, nay thuộc huyện Hoằng Hóa. Huyện Cổ Hoằng, ngày nay là một phần đất huyện Hoằng Hóa. Huyện Đông Sơn: Trước kia gọi là Đông Dương hoặc Đông Cương. Đến thời Trần gọi là huyện Đông Sơn. Nay thuộc huyện Đông Sơn.
  • 18. 12 Huyện Cổ Lôi, ngày nay là huyện Thọ Xuân và một phần đất huyện Thường Xuân. Huyện Vĩnh Ninh, thuộc vào địa phận huyện Vĩnh Lộc ngày nay nằm ở phía tả ngạn sông Mã. Huyện Yên Định nay là huyện Thiệu Yên, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Huyện Lương Giang, nằm cả hai bên bờ sông chu. Trước năm 1980 là huyện Thiệu Hóa, sau đó một số xã ở tả ngạn sông Chu nhập vào Yên Định thành huyện Thiệu Yên; một số xã ở hữu ngạn sông Chu nhập vào huyện Đông Sơn ngày nay. Ba châu gồm: Châu Ái gồm 4 huyện: Hà Trung, Thống Bình, Tống Giang, Chi Nga. - Huyện Hà Trung: Ngày nay là thị xã Bỉm Sơn và huyện Hà Trung. - Huyện Thống Bình, thuộc huyện Hậu Lộc ngày nay. - Huyện Tống Giang, là địa phận thuộc một số xã phía tây Nga Sơn, thị xã Bỉm Sơn và một số xã phía đông Bắc Hà Trung. - Huyện Chi Nga: Phần đất hiện nay thuộc huyện Nga Sơn. Châu Cửu Chân gồm 4 huyện: Cổ Chiến, Kết Thuế, Duyên Giác, Nông Cống. - Huyện Cổ Chiến: Nằm ở phía đông Nam tỉnh Thanh Hóa, nay là phần đất huyện Tĩnh Gia. - Huyện Kết Thuế: Bao gồm phần đất phía Bắc Tĩnh Gia, phía Nam Quảng Xương ngày nay. - Huyện Duyên Giác: thuộc một số xã phía Bắc Quảng Xương đến khu vực Bố Vệ ngày nay.
  • 19. 13 - Huyện Nông Cống: Là phần đất phía Tây Nam Thanh Hóa gồm cả Như Xuân ngày nay. Châu Thanh Hóa gồm 4 huyện: Nga Lạc, Tế Giang, Yên Lạc, Lỗi Giang. - Huyện Nga Lạc: Địa phận huyện Ngọc Lặc ngày nay, là một phần đất Thọ Xuân ở tả ngạn sông Chu. - Huyện Tế Giang: Vùng đất phía tây Thạch Thành ngày nay. - Huyện Yên Lạc: Phần đất của huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày nay. - Huyện Lỗi Giang: Tương đương với huyện Cẩm Thủy, Bá Thước ngày nay .[ 3, tr.117 – 119]. Ở Thanh Hóa nhà Trần đặt các chức An phủ, Trấn phủ, hai viên chánh phó để cai trị. Năm 1243, Vua Trần cử Trần Thủ Độ đi kiểm tra sổ đinh và ông được cử làm tri Thanh hóa phủ sự: “Phong Trần Thủ Độ làm Thống quốc Thái sư tri Thanh Hóa phủ sự” [25, tr.12]. và 1238 “duyệt sổ đinh Thanh Hóa” [25, tr.15]. Nhà Trần rất quan tâm đến việc tổ chức xây dựng chính quyền cấp cơ sở. Theo chế độ quản lý chung của nhà nước, các xã, sách ở Thanh Hóa đều có chức tiểu tư xã, đại tư xã thuộc ngạch quan chức của triều đình quản giữ cùng với xã sử, xã chính, xã giám, gọi là xã quan [25, tr.16]. Hiệu lực của các tổ chức quản lý đó chặt chẽ và có tác dụng ở Thanh Hóa. Bia 興 福 寺 (Bia chùa Hưng Phúc) ở hương Yên Duyên (nay thuộc xã Quảng Hùng huyện Quảng Xương) dựng và khắc năm Khai Thái thứ 13 (1324) nói rõ việc Đại toát Lê Mạnh người đứng đầu hương Yên Duyên vào đời Trần đã tổ chức và xây dựng làng xã góp công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 2 (1285).
  • 20. 14 Thời Trần, cương vực các huyện, xã của Thanh Hóa đã rõ ràng, bộ máy chính quyền từ phủ hoặc trấn đến giáp hương, xã được kiện toàn và tổ chức chặt chẽ. 1.3. Đặc điểm dân cư Thanh Hóa Thanh Hóa là một tỉnh có dân số lớn thứ ba của Việt Nam, đồng thời cũng là tỉnh có nhiều đơn vị hành chính nhất trong cả nước (với 27 đơn vị hành chính cấp huyện và tương đương). Lịch sử hình thành và phát triển của Thanh Hóa gắn liền với quá trình cộng cư của người Việt với người Mường và các dân tộc khác, chủ yếu có 7 dân tộc là: Kinh, Mường, Thái, Thổ, Dao, Mông, Khơ Mú. Trong đó, người Kinh chiếm phần lớn dân số của tỉnh và có địa bàn phân bố rộng khắp. Các dân tộc khác có dân số và địa bàn sống thu hẹp hơn. Trong lịch sử, quá trình di dân giữa các vùng miền là một quy luật khách quan và diễn ra thường xuyên. Có sự nhập cư thì cũng có sự chuyển cư. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chuyển cư, có thể là các thầy đồ đi dạy học, có người đi buôn bán, làm ăn xa không trở về quê cũ và cũng có thể vì lí do chính trị mà phải bỏ quê quán ra đi. Trong tình hình tư liệu hiện nay việc xác định quá trình người Thanh Hóa chuyển cư đến các địa phương khác thời Lý - Trần là rất khó khăn. Theo gia phả họ Bùi ở Thịnh Liệt (dòng Bùi Xương Trạch, Bùi Huy Bích...) cho biết dòng họ này gốc từ Cát Xuyên (Hoằng Hoá), chuyển ra ở Thịnh Liệt vào thời cuối Trần; sau khi định cư ở xã Định Công một đời mới dời về Thịnh Liệt. Dòng họ này từ thời Lê đã nổi danh nhiều người đỗ đạt (Tiến sĩ Bùi Xương Trạch -1478; Bảng nhãn Bùi Vĩnh -1532; Tiến sĩ Bùi Bỉnh Quân - 1619; Hoàng giáp Bùi Huy Bích -1769) v.v. Dựa vào các tài liệu lịch sử và các di tích khảo cổ học cho thấy địa bàn Thanh Hóa là nơi có cư dân sinh sống từ rất sớm. Cùng với thời gian, địa bàn tụ cư ngày càng được mở rộng.
  • 21. 15 Ở khu vực đồng bằng, đặc biệt là quanh khu vực đồng bằng sông Mã, từ xa xưa, dân cư Thanh Hóa đã có hướng phát triển ra nhiều phía. Từ rất sớm, ở vùng đồng bằng Thanh Hóa mà trung tâm là ngã ba sông Mã, sông Chu đã xuất hiện những tụ điểm dân cư thực sự đông đúc. Đó là các địa điểm: Thiệu Dương, Đông Sơn, Hoằng Lý, Hoằng Quỳ…Các di chỉ khảo cổ học từ thời Tiền sử, Sơ sử đã khẳng định quá trình tu cư sớm trên những địa bàn này. Vùng trung du miền núi Thanh Hóa là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào Mường, họ sống tập trung thành các làng bản, nằm dưới chân những dãy núi cao. Khu vực ven biển Thanh Hóa, diện cư trú của cư dân ngày càng được mở rộng với những “làng cổ”. Có thể nói, cư dân Thanh Hóa từ rất sớm đã có mặt trên khắp các miền của tỉnh. Dân cư vùng này chủ yếu sống bằng nghề nông trồng lúa nước, sống quần cư theo hình thức xóm, làng. Luôn đoàn kết trong trị thủy, thủy lợi, trong đấu tranh chống giặc giữ nước. Người dân Thanh Hóa luôn cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất và có tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ nhau trong đời sống, nhất là khi thiên tai, dịch bệnh. Trải qua những giai đoạn khốc liệt của các cuộc chiến tranh, người dân nơi đây vẫn bất khuất, kiên trung vượt qua mọi khó khăn để vươn lên. Chính trên mảnh đất này người dân Thanh Hóa đoàn kết làm nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần vào những trang sử hào hùng của dân tộc. 1.4. Truyền thống yêu nước và đấu tranh của nhân dân Những tư liệu lịch sử còn lại ngày nay cho ta thấy, ngay từ buổi đầu hình thành cũng như trong quá trình xây dựng và phát triển vùng đất Thanh Hóa, biết bao thế hệ người dân nơi đây đã đoàn kết đấu tranh không ngừng để củng cố nền độc lập dân tộc cũng như chống lại chế độ cai trị hà khắc. Trong
  • 22. 16 các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc những người dân nơi đây đã không quản ngại gian khổ, hi sinh, góp phần xứng đáng vào những chiến công hiển hách của dân tộc. Thanh Hóa vốn là một vùng đất có vị trí và vai trò đặc biệt trong lịch sử Việt Nam. Về địa lý, đây là vùng đất trung gian nối miền Bắc với miền Nam của đất nước. Về văn hóa, Thanh Hóa là nơi chứng kiến sự giao lưu tiếp xúc văn hóa vùng miền Bắc - Nam, là vùng đất tiếp nối những ảnh hưởng chính trị từ kinh đô Thăng Long lan truyền vào những vùng đất phía Nam của tổ quốc, và ngược lại. Ngoài ra, đây còn là đất “thang mộc” của cả hai triều đại: Lê sơ - Lê Trung Hưng và triều Nguyễn trong lịch sử Trung đại Việt Nam. Thanh Hóa luôn là vùng đất “căn bản”, vùng đất "dấy nghiệp" của các vương triều ấy. Thanh Hóa là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc, là đất anh hùng và đế vương với nhiều danh nhân tiêu biểu như: Bà Triệu, Lê Hoàn, Lê Lợi, Hồ Quý Ly, các chúa Trịnh, chúa Nguyễn, vua Nguyễn…. Hơn thế nữa, trong suốt lịch sử nghìn năm bắc thuộc, Thanh Hóa luôn là căn cứ tử thủ của nghĩa quân trong phong trào chống xâm lược. Năm 938, Ngô Quyền từ đất Ái Châu diệt quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Thời chống giặc phương Bắc, cư dân vùng đất này đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp chống ngoại xâm, không để cho giặc phương bắc xâm lược, đồng hóa, mà ngược lại đã Việt hóa những kẻ di dân hàng loạt xuống phương Nam. Từ thời Lý-Trần, sự nghiệp của một số nhân vật người Thanh Hóa được sử sách ghi chép lại như Đào Cam Mộc - một công thần có công lớn trong việc phò trợ Lý Công Uẩn lên ngôi năm 1009; Lê Phụng Hiểu với công lao dẹp “loạn Tam vương”, phò Lý Phật Mã lên ngôi (tức Lý Thái Tông) năm 1028; một số người thi đỗ làm quan triều Trần v.v...
  • 23. 17 Từ thời Trần, nhiều văn thân người gốc Thanh Hóa đã có đóng góp cho sự phát triển thịnh trị của vương triều. Về khoa bảng có Lê Văn Hưu, Lưu Diễm, Lưu Miễn; về chính trị có Lê Quát, trung thần tiết nghĩa có Lê Giốc, võ tướng nổi tiếng trung liệt có Trần Khát Chân... Lê Văn Hưu: người Phủ Lý, Đông Sơn (nay là xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá), đỗ Bảng nhãn khoa thi năm 1247 khi mới 18 tuổi, được cử làm Giám tu Quốc sử viện, được vua Trần giao biên soạn bộ Đại Việt sử ký từ thời Triệu Đà đến hết thời Lý và hoàn thành năm 1272. Ông được tôn vinh là nhà Sử học đầu tiên của nước ta. Lưu Miễn: Quê xã Hoằng Quang (Thành phố Thanh Hoá), đỗ Đệ nhất giáp đệ nhất danh (Trạng nguyên) khoa thi Thái học sinh năm Kỷ Hợi (1239), đời vua Trần Thái Tông Lưu Miễn làm quan tại triều, tước Minh Tự, năm 1250, ông được thuyên bổ làm An phủ sứ lộ Thanh Hoa; năm 1255, vua Trần Thái Tông sai ông bồi đắp đê sông các xứ ở Thanh Hoa (Thanh Hoá). Do có nhiều công lao và kinh nghiệm trị thuỷ, tài năng tổ chức, đốc thúc công việc khai khẩn điền địa và phòng hộ đê điều (các đê sông Mã, sông Lường đều do ông chỉ huy), Lưu Miễn tiếp tục được giao chức Hà đê chánh sứ phủ Thiên Trường (Nam Định) và chỉ huy đắp đê quai vạc ở Thông Lựa (huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình), đê Phú Vật (huyện Hưng Nhân). Ông chính là người phụ trách việc đào sông Thái Sư tiêu úng cho hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà theo lệnh của Thái sư Trần Thủ Độ. Lê Quát: Ông tên tự là Bá Đạt, hiệu là Mai Phong, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), học trò Chu An. Lúc bé ông du học ở Kinh sư, thi đỗ, được Minh Tông biết đến. Trải làm đến Bộc xạ, sau trải thăng Thượng thư hữu bật, Nhập nội hành khiển.
  • 24. 18 Lê Giốc: được sử gia Phan Huy Chú xếp vào hàng “bề tôi tiết nghĩa”. Ông là con Lê Quát, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn (Thanh Hóa), thời Trần Nghệ Tông làm Tuyên phủ sứ Nghệ An. Bấy giờ Nghệ Tông đi đánh Chiêm Thành không về, Ngự Câu vương là Trần Húc hàng giặc. Năm 1377, người Chiêm Thành cho quân đưa Húc đến Nghệ An tiếm xưng vua. Nhiều người theo mệnh lệnh của giặc, chỉ trừ có ông. Ông bị giặc bắt, giặc bảo lạy, ông cả giận nói : "Tao là trọng thần nước lớn, há lại lạy mày là quân tiểu man à ?". Chửi không ngớt miệng, bị giặc giết. Việc đó đến triều đình, truy tặng là Mạ Tặc trung vũ hầu. Trần Khát Chân: quê ở Hà Lương (Vĩnh Lộc). Cuối thời Trần, quốc gia Đại Việt thường xuyên bị Chiêm Thành tấn công. Năm 1389, chúa Chiêm là Chế Bồng Nga đem quân đổ bộ vào địa bàn trấn Thanh Hoá để từ đó tiến ra Thăng Long. Quân nhà Trần không chống đỡ nổi, vua Trần phải cử Đô tướng Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp đến đóng ở sông Hải Triều cự nhau với giặc. Trong trận này, quân Trần đã bắn chết chúa Chiêm là Chế Bồng Nga, đánh tan quân Chiêm và quan trọng là dập tắt ý chí xâm lược Đại Việt của Chiêm Thành. Trần Khát Chân được phong Nội vệ Thượng tướng quân, tước Vũ Tiết Quan nội hầu và được ban Thái ấp ở Hoàng Mai (nay thuộc quận Hoàng Mai, Hà Nội). Đặc biệt trong thời kì chống giặc giữ nước của triều Trần, nhân dân Thanh Hóa cũng góp một phần sức lực cho thắng lợi chung của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Một hình ảnh tiêu biểu cho tinh thần yêu nước của nhân dân Thanh Hóa đó là: Sau hội nghị Diên Hồng (1284) thầy giáo Chu Văn Lương, dạy học ở làng Nam Ngạn hăng hái đứng ra chiêu mộ dân binh, góp sức cùng quân dân Đại Việt đánh thắng giặc Nguyên - Mông, Kênh Bố Vệ còn ghi dấu cuộc chiến đấu quyết liệt do Trần Nhật Duật chỉ huy chống
  • 25. 19 quân Nguyên Mông xâm lược ở Thế Kỷ XIII, ca khúc khải hoàn, trăm họ được bình an, đất nước “ngàn thuở vững âu vàng” Thời Trần là một thời đại anh hùng, thời đại của những chiến công vang dội: Ba lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông (1258, 1285 và 1288). Góp phần làm chói sáng thêm hào khí Đông A là chiến công của những người con đất Thanh Hoá, đó là Đỗ Hành bắt sống Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ vương tại Bạch Đằng, góp phần quan trọng nâng cao thêm tầm vóc oanh liệt, lẫy lừng chiến công của nhân dân Đại Việt đánh bại quân xâm lược Mông- Nguyên. Đó còn là tướng quân Hoàng Phụng Thế, chỉ huy quân Thánh Dực chiến đấu với quân Chiêm Thành nhiều trận trên sông Ngu (năm 1382). Ông cũng chính là người tham gia dẹp tan cuộc nổi dậy của Phạm Sư Ôn (ở vùng Quốc Oai) năm 1389... Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418 - 1428) chống quân Minh xâm lược, trên địa bàn Thanh Hóa có những gia đình theo Lê Lợi từ những ngày đầu. Năm 1789, Quang Trung - Nguyễn Huệ đem đại quân ra bắc đại phá 29 vạn quân Mãn Thanh xâm lược. Trên địa bàn Thanh Hóa có rất nhiều người tham gia nghĩa quân, đứng dưới lá cờ Quang Trung - Nguyễn Huệ… Vùng đất Thanh Hóa từ buổi ban đầu do cư dân bản địa khai phá, giữ gìn, bảo vệ, phát triển, cư dân bốn phương về hội nhập, họ là những người có tính cương trực, cởi mở, giàu lòng nhân ái, yêu nước, hi sinh vì nghĩa lớn. Đồng thời là chỗ dựa và là cái nôi sinh thành, nuôi dưỡng những lớp người cách mạng. Truyền thống yêu nước, đấu tranh của dân tộc Việt Nam được hun đúc, thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân địa phương để khi thời cơ đến thổi bùng ngọn lửa đấu tranh giành lại độc lập cho tổ quốc, giành lại quyền sống của con người, quyền mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Ách áp bức bóc lột của bọn phong kiến, thực dân càng nặng nề bao nhiêu thì càng khơi dậy lòng căm thù sâu sắc và ý chí quật cường của nhân dân
  • 26. 20 Thanh Hóa. Truyền thống yêu nước của nhân dân Thanh Hóa được hình thành, tôi luyện và phát triển suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, nó trở thành một tài sản vô cùng quý giá, là cơ sở, là nền tảng để nhân dân đón nhận và đi theo con đường đấu tranh trong các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Tiểu kết chương Thanh Hóa là vùng đất được hình thành và phát triển lâu đời, nơi con người xuất hiện và sinh sống từ rất sớm. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, Thanh Hóa là mảnh đất lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về lịch sử và văn hóa. Đây là vùng đất có vị trí địa chiến lược, địa chính trị quan trọng của Việt Nam, miền đất gợi về quá khứ hào hùng từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc, một miền văn hóa cội nguồn. Lịch sử đã chọn Thanh Hóa ở vào vị trí khá “đặc biệt” của đất nước. Là điểm cuối của Bắc Bộ và điểm đầu Trung Bộ, lại là vùng Tây bắc nối dài, có rừng, có biển, có đồng bằng. Nhờ vào vị trí địa lý “đặc biệt” đó nên mảnh đất Thanh Hóa luôn đóng vai trò quan trọng trong suốt thời kỳ đấu tranh giữ nước của dân tộc. Mỗi tên làng, mỗi di tích lịch sử đều gắn với những chiến công của dân tộc cũng như con người Thanh Hóa. Mảnh đất Thanh Hóa còn được biết đến là mảnh đất của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Với những kì tích đó, Thanh Hóa được ví như hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam và được xem là mảnh đất “địa linh, nhân kiệt”. Linh khí của núi sông hun đúc nên khí chất của con người Thanh Hóa: Cần cù trong lao động, anh hùng trong đấu tranh, giữ khí tiết, giàu đạo lý nghĩa tình…Những con người không ngại khó, không ngại khổ đó đã góp công làm nên nhiều trang sử hào hùng và vẻ vang của dân tộc Việt.
  • 27. 21 Nhờ có vị trí địa lý thuận lợi, truyền thống yêu nước của nhân dân, Thanh Hóa đã góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nổi bật cho những đóng góp to lớn của Thanh Hóa trong lịch sử dân tộc là thời kỳ thế kỷ XIII, XIV - Thời kỳ chống quân Nguyên Mông xâm lược và sự xâm lấn lãnh thổ của Chiêm Thành.
  • 28. 22 Chương 2 THANH HÓA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG THẾ KỶ XIII - XIV 2.1. Tình hình Đại Việt cuối thế kỷ XII đến thế kỷ XIII Ở thế kỷ XII, nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời lý Nhân Tông (1072 – 1127) sau đó bắt đầu đi vào con đường suy yếu. Các vua lên ngôi khi còn bé như vua Lý Anh Tông làm vua khi 5 tuổi, Lý Cao Tông 2 tuổi …quyền hành rơi vào tay những kẻ hại dân, vương triều Lý chỉ còn là một hơi thở thoi thóp. Trước tình hình ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra góp phần làm lung lay ngai vàng nhà Lý. Trong phần tư đầu tiên của thế kỷ XIII khi nhà Lý suy yếu, đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. người chết đói nhiều, người sống sót phá sản, lưu vong. Bọn phong kiến cát cứ lại bắt nhân dân làm phu dịch, đào hào, đắp lũy và xua họ vào cuộc nội chiến đẫm máu. Thời kỳ đen tối đó kéo dài dằng dặc trong suốt mười mấy năm trời. Thế rồi, một thế lực phong kiến mạnh nhất họ Trần, đã dần dần chiếm được ưu thế, khống chế được chính quyền trung ương đang tàn tạ, chiến thắng được các tập đoàn phong kiến cát cứ khác, thống nhất đất nước. Quyền lực họ Trần ngày càng lớn. Năm 1225 vua Lý Huệ Tông trao ngai vàng cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi vì vậy mọi quyền hành trong triều đình đều nằm trong tay viên quan Điện tiền Trần Thủ Độ. Dòng họ nhà Trần ngày càng chiếm giữ vị trí trọng yếu trong triều đình. Cuối cùng ngày 11 tháng Chạp năm Ất Dậu (10/1/1226) dưới sự chỉ đạo của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, triều Trần chính thức thành lập thực sự thay thế nhà Lý trên vũ đài chính trị, nắm quyền điều hành đất nước. Hòa bình đã trở lại trên đất nước, nhân dân được yên ổn làm ăn. Họ Trần khôi phục được chính quyền thống nhất, chấm dứt cuộc nội chiến phong kiến,
  • 29. 23 về khách quan đã đáp ứng được đòi hỏi của nhân dân. Đồng thời, nhà Trần cũng bắt tay vào xây dựng và phát triển kinh tế, ổn định lại mọi mặt xã hội. Về kinh tế, để khôi phục lại sức sản xuất bị đình đốn cuối thời Lý, nhà Trần đã tổ chức khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, nhà nước rất chú ý việc đắp đê phòng lụt. Năm 1248, vua Trần Thái Tông hạ lệnh cho các lộ đắp đê từ đầu nguồn đến bãi biển để đề phòng nước sông dâng to, gọi là đê “Đỉnh nhĩ” (Quai vạc), đặt chức Hà đê chánh sứ và phó sứ để trông coi việc đắp đê….Nhà Trần cũng đã cho đào thêm một số kênh và sông có tác dụng về mặt giao thông cũng như về mặt thủy lợi như kênh Trầm, kênh Hào từ phủ Thanh Hóa đến địa giới phía nam phủ Diễn Châu. Nhờ những chính sách bảo vệ sản xuất nông nghiệp của nhà Trần cộng thêm điều kiện tự nhiên thuận lợi và sức lao động của nhân dân mà nền kinh tế nông nghiệp nước ta thời kỳ này có bước phát triển mạnh, đặc biệt châu thổ sông Hồng, sông Mã …đã trở thành vùng sản xuất nhiều lúa. Uông Đại Uyên, người Trung Quốc đời Nguyên, tác giả sách Đảo di chí lược, đã chép rằng: “ Nước Đại Việt…đất rộng người đông, khí hậu thường nóng, ruộng đất phần lớn phì nhiêu” Bên cạnh sự phát triển của nông nghiệp, công thương nghiệp cũng được phục hồi và phát triển sau một thời kỳ đình đốn vì nội chiến cuối Lý. Những ngành công nghiệp như: Làm gạch ngói, làm đá, khai thác khoáng sản, rèn sắt, đúc đồng, ươm tơ, dệt vải … tiếp tục phát triển. Chất lượng sản phẩm hàng hóa ngày càng cao hơn. Thủ công nghiệp phát triển đã đưa đến sự ra đời của các làng nghề như: Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Giang). Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng có bước phát triển mạnh. Việc buôn bán trong nước và ngoài nước ngày càng được mở rộng và phát đạt. Các chợ làng, chợ huyện mọc lên khắp nơi.
  • 30. 24 Đặc biệt cảng Vân Đồn là một địa điểm hải thương quan trọng đón thương thuyền của các nước đến Đại Việt. Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng sau khi họ Trần nắm chính quyền, kết thúc cuộc nội chiến cuối Lý, nền kinh tế của Đại Việt lại tiếp tục hưng vượng lên, cả nông nghiệp lẫn công thương nghiệp. Về chính trị: Họ Trần ra sức củng cố và phát triển nhà nước phong kiến tập quyền. Tất cả các chức vị quan trọng trong bộ máy nhà nước đều do tôn thất họ Trần nắm giữ. Từ giữa thế kỷ XIII trở đi, một bộ phận Nho sĩ mới có vị trí nhất định trong triều. Tổ chức bộ máy nhà nước đã được quy định ngay từ buổi đầu thời Trần và được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Về luật pháp và quân đội: Từ năm 1226, ngay sau khi Trần Cảnh lên ngôi đã định các điều luật lệnh. Bốn năm sau, định Hình luật. Năm 1244, lại định hình luật một lần nữa. Nhà Trần, để củng cố chính quyền phong kiến, ngay từ buổi đầu đã ra sức xây dựng một đội quân hùng mạnh và được trang bị vũ khí đầy đủ. Quân đội được luyện tập thường xuyên. Trong những năm chuẩn bị kháng chiến, thường có những cuộc diễn tập lớn. Như vậy, ở thế kỷ XIII tình hình Đại Việt đã có nhiều khởi sắc dưới sự trị vì của triều đại phong kiến nhà Trần. Mọi mặt kinh tế và đời sống xã hội có bước phát triển. Nhưng cũng chính trong thời gian này, đế quốc Mông Cổ ở phía Bắc đang lớn mạnh, mở rộng cuộc chinh phục xuống phương Nam. Điều đó đã đặt ra cho nhà Trần một sứ mệnh mới là đoàn kết, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống giặc bảo vệ nền độc lập của dân tộc. 2.2. Sự lớn mạnh và âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ 2.2.1. Sự lớn mạnh của đế quốc Mông Cổ Năm 1206, Thành Cát Tư Hãn lên làm vua. Nhà nước phong kiến Mông Cổ được hình thành và phát triển, nhanh chóng trở thành một đế quốc lớn mạnh chưa từng có trong lịch sử thế giới từ trước đến giờ. Quân Mông Cổ
  • 31. 25 dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn và tập đoàn quý tộc phong kiến đã đem tất cả tinh lực của bộ tộc Mông Cổ vừa hình thành dốc vào cuộc chiến tranh xâm lược và nô dịch các dân tộc khác. Những đoàn kỵ binh Mông Cổ lại ồ ạt kéo sang phương Đông và phương Tây, gieo rắc nỗi kinh hoàng và chết chóc xuống những vùng xa hơn ở Châu Âu và Châu Á. Ở Châu Âu, vó ngựa của Mông Cổ đã tiến đến Ba Lan, Đức và Hunggari và tới sát Ý vào năm 1242, khiến cả Châu Âu chấn động. Theo sử biên niên của Pháp thì mối lo sợ trước quân Mông Cổ đã làm đình trệ cả sự buôn bán. Các sử gia biên niên Anh cho chúng ta biết rằng bấy giờ việc thông thương giữa đất anh với lục địa bị gián đoạn. Ở Đức xuất hiện bài kinh cầu nguyện “chúa cứu vớt chúng con khỏi cơn thịnh nộ Tac ta (Mông Cổ)”… Ở phía Nam, Mông Cổ chiếm Trung Quốc, Cao Ly (Triều Tiên), tấn công Nhật Bản…Đến năm 1279, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ xâm chiếm. Trong và sau khi chinh phục miền Nam Trung Quốc, đế quốc Mông Cổ đã gây chiến tranh xâm lược Việt Nam. Đồng thời âm mưu phát triển thế lực ra các nước khác ở Đông Á và Đông Nam Á. Như vậy, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, bọn phong kiến Mông Cổ đã kéo thế giới vào một cuộc chiến tranh khủng khiếp. Một đế quốc rộng mênh mông được thành lập từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. 2.2.2. Âm mưu xâm lược Đại Việt của đế quốc Mông Cổ Trong kế hoạch bành trướng của mình, quân Mông Cổ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ bờ biển Đông Á sang tận vùng biển Hắc Hải, sau đó chúng tiến hành xuống phía Nam. Năm 1251, Mông Ke (Mông Ka) lên ngôi Đại hãn, ráo riết chuẩn bị xâm lược Trung Quốc. Năm 1252, Mông Ka sai Khubilai (Hốt Tất Liệt) đánh chiếm Đại Lý (rồi đổi tên là Vân Nam) lấy đó làm bàn đạp rồi mở cuộc tấn công vào Đại Việt. Năm 1257, chúa Mông Cổ Mông Ke tế cờ trên bờ sông Kêrulen, rồi xuất quân đánh Tống. Theo kế
  • 32. 26 hoạch của Mông Ke, quân Mông Cổ sẽ tấn công vào đất Tống từ bốn mặt. Mông Ke thân dẫn đại quân tiến vào theo đường Tứ Xuyên. Một cánh quân dưới quyền chỉ huy của Hốt Tất Liệt vượt Trường Giang đánh chiếm Châu Ngạc (Vũ Xương - Hồ Bắc). Một cánh quân khác do Tôgatra chỉ huy tấn công mạn hạ lưu Trường Giang vào vùng Kinh sơn. Cánh quân của Uryangkhadai được lệnh từ Đại Lý đánh thẳng xuống Đại Việt, rồi từ đó đánh vào Châu Ung (Nam Ninh - Quảng Tây), Châu Quế (Quế Lâm - Quảng Tây), tiến lên gặp các cánh quân kia ở Châu Ngạc. Cánh quân này sẽ trở thành một mũi dao đâm vào sau lưng Trung Quốc. Như vậy, việc tiến quân xâm lược Đại Việt là nằm trong kế hoạch thâm độc trên của tên bạo chúa Mông Cổ. Trước khi tấn công vào Đại Việt, Mông Ka đã vạch ra một kế hoạch hết sức chi tiết: Cánh quân của Uriang Khaidai (Ngột Lương Hợp Thai) thực hiện nhiệm vụ đánh chiếm Đại Việt và từ Đại việt đánh lên Nam Tống. Chiếm được Đại Việt còn có ý nghĩa lớn sau này cho đế quốc Mông Cổ lập bàn đạp cho các cuộc viễn chinh xuống Đông Nam Á, do đó Đại Việt là mục tiêu chiến lược của kế hoạch Mông Ke và đó cũng là sự cố gắng rất lớn của chúng. Để thực hiện mưu đồ thâm độc của mình, chỉ trong vòng 30 năm (1258 - 1288) quân Nguyên - Mông đã tiến hành xâm lược nước ta 3 lần. 2.3. Khái quát cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược của nhà Trần thế kỷ XIII 2.3.1. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất (1258) Sau khi chiếm được Đại Lý, Ngột Lương Hợp Thai chỉ huy 4 vạn quân tiến xuống biên giới nước ta. Trước khi tiến vào biên giới Đại Việt, chúng dừng chân và cho sứ giả đưa thư vào Đại Việt đe dọa và dụ hàng. Nhưng biện pháp ngoại giao của chúng đã hoàn toàn bị thất bại. Triều đình Trần cũng như toàn dân Đại Việt không mảy may run sợ trước uy lực của Mông Cổ. Khi được tin Mông Cổ sắp tấn công xâm lược,
  • 33. 27 triều đình lập tức chuẩn bị khẩn trương để chống giặc “Tháng 10/1257, vua Trần Thái Tông xuống chiếu cho các tướng điều quân thủy bộ lên miền biên giới Tây Bắc và ra lệnh cho cả nước khẩn trương chuẩn bị đánh giặc” [25, tr.22]. Để tỏ rõ ý chí kiên quyết của mình, vua Trần không một chút kiêng sợ, đã ra lệnh tống giam tất cả những tên sứ Mông Cổ. Không thấy sứ giả về, Ngột Lương Hợp Thai quyết định tấn công. Y sai Trêtrếchđu (Triệt Triệt Đô) và một tướng khác chia quân làm hai đạo tiến theo tả ngạn và hữu ngạn sông Thao (nhiệm vụ thăm dò, dẫn đường) theo sau là hai đạo quân của hai cha con Ngột Lương Hợp Thai. Tháng 1/1258, hai đạo quân Mông Cổ đi trước cùng đến hội quân ở Bạch Hạc (Việt Trì - Phú Thọ). Sau đó chúng theo đường bộ, hướng về Thăng Long đến Bình Lệ Nguyên - nơi đây Trần Thái Tông đã lập phòng tuyến chặn giặc. Phát hiện quân ta dàn trận bên sông, Aju (con của Ngột Lương Hợp Thai) vội báo cho Ngột Lương Hợp Thai thúc quân tiến xuống. Ngày 17/1/1258 chúng kéo quân đến Bình Lệ Nguyên. Trận chiến diễn ra, vua Trần trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Địa hình Bình Lệ Nguyên khá thuận lợi cho kỵ binh Mông Cổ phát huy sở trường của chúng. Trận địa của ta bị lấn dần, quân của vua Trần rút lui an toàn nhờ vào sự giúp sức của quân và dân. Âm mưu cướp thuyền, chặn đường rút lui và bắt sống vua Trần hoàn toàn bị thất bại. Ngột Lương Hợp Thai tức giận đổ lên đầu tướng tiên phong, Trêtrếchđu hoảng sợ uống thuốc độc tự tử. Cố thủ không được trước thế giặc mạnh đang tấn công ồ ạt, triều đình quyết định rút lui khỏi kinh đô Thăng Long để bảo toàn lực lượng và thực hiện kế dã thanh. Thăng Long yên tĩnh, trống không. Trước bốn cửa thành không còn bóng quân Tứ sương, quân Mông Cổ tiến vào kinh đô vắng lặng, gặp khó khăn về lương thực, chúng đánh ra vùng xung quanh Kinh đô để hòng cướp bóc lương thực. Nhưng ở đây cũng bị nhân dân các hương ấp
  • 34. 28 chống cự quyết liệt, tiêu biểu là dân Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức, Hà Nội) đã tự tổ chức lực lượng vũ trang đào hào xung quanh làng, dựng lũy chiến đấu. Khi giặc đến, kị binh không vượt qua được hào, lại bị cung nỏ bắn ra, lực lượng quân Mông Cổ đã bị thất bại đầu tiên trước những cuộc chiến đấu từ xóm làng. Chỉ mấy ngày đến Thăng Long quân Mông Cổ đã hoàn toàn mất hết nhuệ khí chiến đấu. Ngột Lương Hợp Thai và bọn tướng lĩnh đều hốt hoảng cực độ. Nắm vững thời cơ, triều đình nhà Trần quyết định phản công giải phóng Thăng Long, nhanh chóng giành thắng lợi. Kinh thành sạch bóng quân thù. 2.3.2. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) Sau việc lập An Nam tuyên úy ti và sai 1000 quân hộ tống Trần Di Ái về Đại Việt năm 1282 bị thất bại. Hốt Tất Liệt luôn tìm cách sách nhiễu nhà Trần, gây sự tiến công xâm lược. Khi Toa Đô thất bại ở Chiêm Thành và 2 vạn quân Ô Mã Nhi tan tác vì bão biển thì Hốt Tất Liệt càng muốn nhanh chóng đánh Đại Việt. Rút kinh nghiệm từ thất bại trước, lần này Hốt Tất Liệt lại huy động 50 vạn quân, chỉ huy là Thoát Hoan (con của Hốt Tất Liệt) và Arickhaya là những viên tướng chủ chốt chinh phục triều đình Nam Tống, được xếp loại công thần của triều Nguyên. Để chuẩn bị kháng chiến, nhà Trần mở hội nghị Bình Than tập trung các vương hầu, quý tộc để bàn kế đánh giặc. Sau Hội nghị Bình Than, các tướng lĩnh được phân chia đem quân trấn giữ những nơi hiểm yếu, quan trọng. Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn thống lĩnh quân đội cả nước. Trần Quang Khải được cử giữ chức Thượng tướng Thái sư. Trong khi quân dân cả nước đang khẩn trương chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, Trần Quốc Tuấn ban bố Hịch tướng sĩ nêu nghĩa lớn cứu nước, cứu mình. Toàn văn bài Hịch là lời kêu gọi thiết tha, tràn đầy tinh thần yêu nước
  • 35. 29 và chí căm thù cướp nước như ngọn lửu bốc cao. Quân dân cả nước thích vào cánh tay của mình 2 chữ “Sát Thát”. Tháng 1/1285, thượng hoàng Thánh Tông mời các bậc phụ lão có uy tín trong nước về kinh đô Thăng Long để hỏi kế đánh giặc. Trong bữa tiệc ở Điện Diên Hồng các bô lão đã đồng thanh hô lớn “Đánh”… Giữa năm 1284, Thoát Hoan và Arickhaya khẩn trương điều quân tiến vào Đại Việt. Quân Nguyên - Mông muốn tiêu diệt Đại Việt bằng 3 gọng kìm đánh vào biên giới phía Bắc và phía Nam. Ngày 2/2/1285, quân giặc chia làm 6 mũi đánh vào Nội Bàng (Bắc Giang). Trần Quốc Tuấn chỉ huy đại quân đánh chặn giặc. Trước khí thế mạnh của giặc, quân ta bị tổn thất, Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về Vạn Kiếp. Nghe tin quân ta rút lui, vua Trần Thánh Tông vội vã ra gặp Trần Quốc Tuấn và vờ hỏi thống soái “thế giặc như thế, ta phải hàng thôi”. Trần Quốc Tuấn khảng khái trả lời “bệ hạ chém đầu tôi rồi hãy hàng”. Tại Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn tập trung binh lực lớn đến 20 vạn quân. Ngày 11/2/1285, địch tấn công phòng tuyến Bình Than, quân ta chống trả quyết liệt, vua Trần dẫn quân về tăng viện cho Trần Quốc Tuấn. Quân ta rút khỏi Vạn Kiếp, vua Trần và Trần Quốc Tuấn về Thăng Long. Trước sức mạnh của giặc, Trần Nhật Duật (đóng quân tại Thu Vật - Yên Bái) rút quân về Bạch Hạc sau đó kéo về hạ lưu sông Hồng. Thượng hoàng Thái Tông và và vua Nhân Tông về Thiên Trường (Nam Định). Thoát Hoan vừa chiếm được Thăng Long vội vàng đuổi quân theo. Trần Quốc Tuấn thấy cần tăng cường cho mặt trận phía Nam, chặn đường tiến của Toa Đô bèn lệnh cho Trần Nhật Duật chịu trách nhiệm trấn giữ Nghệ An, Trần Kiện vào Thanh Hóa, Trần Quang Khải tăng cường cho Nghệ An. Thoát Hoan cố gắng kiểm soát vùng chiếm đóng, bố trí quân sĩ dựng đồn ở nhiều nơi nhưng phân tán. Ở biên giới phía Bắc, Nguyễn Thế Lộc còn giữ được Thất Nguyên (Lạng Sơn). Nắm vững
  • 36. 30 được tình hình địch, Trần Quốc Tuấn và Phạm Ngũ Lão đem quân ngược sông Thái Bình đánh chiếm lại Vạn Kiếp không mấy khó khăn. Thoát Hoan bị cô lập. Ở phía Nam, Thanh - Nghệ Tĩnh quân ta gặp nhiều khó khăn, TRần Kiện (con Trần Quốc Khang) cùng Lê Trắc đầu hàng và dẫn đường cho giặc đánh quân ta. Ngày 13/3, Trần Kiện lại dẫn đường cho giặc tấn công Trần Quang Khải, cuộc chiến ác liệt, thế trận lại thuộc về địch. Trần Quang Khải cho rút quân. Giữa tháng 3/1285, cuộc chiến vẫn diến ra gay go phức tạp. Quân Trần về Thăng Long, Thoát Hoan lại thúc quân xuống Thiên Trường. Lúc ấy, Toa Đô kéo quân từ Thanh Hóa ra Trường Yên (Ninh Bình). Y sai tướng ra Thiên Trường báo tin cho Thoát Hoan về nguy cơ của đại quân (đói ăn, bệnh tật, mệt mỏi…). Quân của Thoát Hoan cũng rơi vào tình thế đó nên ra lệnh cho Toa Đô đóng quân và tự kiếm ăn. Tháng 5/1285, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật cùng nhiều tướng sĩ khác đem quân ra Bắc. Chiến lược phản công bắt đầu. Mục tiêu trước mắt của ta là đánh tan quân giặc ở Khoái Châu (Hưng Yên) để chia cắt quân Thoát Hoan và Toa Đô, đẩy quân Thoát Hoan vào thế cô lập, bị động. Cuối tháng 5, quân của Trần Quang Khải và các tướng khác đánh vào Chương Dương và nhanh chóng giàng thắng lợi. Tàn quân của địch rút về Thăng Long. Quân ta bao vây Thăng Long, địch ra sức cố thủ. Trước tình cảnh hiểm nghèo, chúng liều chết phá vây vượt sông Hồng chạy sang Gia Lâm, kinh thành được khôi phục hoàn toàn. Sức tàn, thế yếu, Thoát Hoan rút quân theo hướng Vạn Kiếp. Trần Quốc Tuấn đem quân đánh chặn, quân Thoát Hoan phải chạy sang phía sông Như Nguyệt lại gặp quân Trần Quốc Toản chặn đánh, khiến tổn thất nặng nề. Thoát Hoan chạy sang Vạn Kiếp lại bị sa lầy vào bẫy phục kích của Trần Quốc Tuấn. Hoảng sợ Thoát Hoan mở đường máu chạy về biên giới Lạng Sơn lại bị quân của ta
  • 37. 31 đánh chặn ở cửa ải, Thoát Hoan hoảng sợ chui vào ống đồng cho quân lính khiêng chạy. Các trận Tây Kết, Vạn Kiếp, Hàm Tử, Chương Dương, Thăng Long đã tiêu diệt và quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi nước ta. 2.3.3. Cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ 3 (1288) Hai lần xâm lược, hai lần thất bại thảm hại, vua Nguyên Hốt Tất Liệt mất mặt, tức tối muốn tổ chức ngay cuộc chiến tranh xâm lược lần ba hòng trả thù, đồng thời để gấp rút đánh thông con đường bành trướng xuống Đông Nam Á. Hốt Tất Liệt bãi bỏ kế hoạch đánh Nhật Bản để tập trung lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần này. Toàn bộ quân viễn chinh lần này do Thoát Hoan chỉ huy gồm 30 vạn quân cả bộ binh lẫn thủy binh, mang theo lương thực đầy đủ. Chúng tiến vào nước ta chia làm 3 đạo: Đạo quân do Thoát Hoan chỉ huy từ Quảng Tây theo đường Lạng Sơn tiến vào. Đạo quân do Ái Lỗ chỉ huy từ Vân Nam theo sông Hồng tiến xuống. Đạo quân thủy do Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp… chỉ huy với 500 chiến thuyền từ Quảng Đông vào vịnh Hạ Long theo sông Bạch Đằng tiến vào hội quân ở Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương). Ngoài ra, có một đoàn thuyền vận tải do Trương Văn Hổ cầm đầu chở 70 vạn thạch lương theo sau. Khác với lần trước, lần này chúng chú ý đến thủy binh. Trần Quốc Tuấn lại được cử làm tổng chỉ huy các lực lượng. Ông đề ra kế hoạch: Lúc đầu thế giặc mạnh, quân ta rút về vùng ven biển để bảo toàn lực lượng. Nhân dân trên đường tiến quân của địch và trong vùng chiếm đóng có nhiệm vụ cất giấu lương thực, kiên quyết triệt nguồn lương thực của địch, đồng thời cùng với dân binh đẩy mạnh hoạt động đánh địch làm tiêu hao sinh lực của chúng, đẩy chúng vào thế bị động. Được tin giặc sắp tràn vào biên giới, vua Trần Nhân Tông hỏi Trần Quốc Tuấn “giặc tới, liệu tình hình thế nào?”, Trần Quốc Tuấn trả lời “năm nay đánh giặc nhàn”. Lần này, Trần Quốc Tuấn chú trọng đến chiến trường biển
  • 38. 32 Đông Bắc - đường tiến quân lương của địch. Trần Khánh Dư chịu trách nhiệm về biên thùy ven biển và Trần Toàn có nhiệm vụ ngăn chặn thủy quân giặc. Trận Ngọc Sơn, do tương quan lực lượng của Ô Mã Nhi mạnh hơn nên Trần Toàn có nhiệm vụ tiêu diệt đội thuyền đi sau của chúng và đã thu được thắng lợi. Nhưng do lực lượng giặc quá mạnh nên chúng vẫn vượt qua vùng biển Hạ Long và An Bang (Quảng Ninh), gặp quân của Trần Khánh Dư, trận chiến xảy ra ác liệt. Quân của Trần Khánh Dư không sao cản được đạo quân của của giặc, chúng ngược sông Bạch Đằng kéo vào Vạn Kiếp hội quân với Thoát Hoan. Trận Vân Đồn - Cửa Lục, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân ta tiêu diệt sạch đoàn thuyền lương của giặc. Tạo điều kiện cho quân dân ta nhanh chóng chuyển lên chiến lược phản công. Ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan cố xây dựng thành căn cứ quân sự. Y để lại một số quân ở đây, còn lại tiếp tục tiến về Thăng Long. Quân dân ta tạm thời rút khỏi kinh thành. Hậu cần bao giờ cũng là một vấn đề then chốt của bất cứ một quân đội nào. Quân Nguyên trông chờ vào thuyền lương của Trần Văn Hổ, giờ này mấy chục vạn quân Nguyên ở Thăng Long lâm vào tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Thoát Hoan sai quân đi tìm đoàn thuyền lương nhưng đều bị ta đánh bại. Sau khi biết được tin báo thuyền lương nằm trong tay ta, Thoát Hoan hoang mang lo sợ. Đầu tháng 3, Thoát Hoan buộc phải quyết định bỏ Thăng Long về Vạn Kiếp tổ chức phòng thủ, sau đó quyết định chia đạo quân làm hai theo đường thủy bộ rút về nước. Biết được ý đồ và đường hành quân của giặc, Trần Quốc Tuấn chuẩn bị một cuộc phản công chu đáo. Sông Bạch Đằng được chọn làm điểm quyết chiến tiêu diệt đạo quân Ô Mã Nhi. Để bảo đảm cho thế trận bao vây địch thật hoàn hảo, ngoài việc dựa vào địa thế thiên nhiên hiểm yếu và lợi dụng Gềnh Cốc như một chướng ngại tự nhiên, Trần Quốc Tuấn còn xây dựng ở ở các
  • 39. 33 cửa sông những trận địa cọc vững vàng, quy mô lớn chỉ trong vòng không quá 20 ngày. Đây là một trong những công tác quan trọng trong việc chuẩn bị chiến trường, thể hiện rõ tư tưởng chủ động tích cực tiêu diệt giặc của quân dân thời Trần. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, quân dân ta lần lượt đánh bại quân giặc trên đường rút lui. Trận quyết chiến đúng như dự định xảy ra trên sông Bạch Đằng. Sau chiến thắng Bạch Đằng, ngày 18 tháng 4, hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đem bọn tù binh Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ và các tên thiên hộ,vạn hộ về phủ Long Hưng (Thái Bình) làm lễ mừng thắng trận trước lăng mộ vua Thái Tông, Trần Nhân Tông đọc: “Xã tắc hai phen chồn ngựa đá Giang sơn mãi mãi vững âu vàng”. Như vậy, ba lần xâm lược nước ta là ba lần thất bại thảm hại của quân Nguyên - Mông. Điều này đã chứng minh một chân lí: Một dân tộc nhỏ bé nếu biết đoàn kết sức mạnh của cả dân tộc thì bất kì một kẻ thù xâm lược nào, dù có mạnh đến đâu cũng phải khuất phục. Ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông là ba lần vệ quốc vĩ đại của ông cha ta, như được thổi lại từ thuở Vua Hùng dựng nước, bà Trưng, bà Triệu đánh giặc giữ nước. Đồng thời đây cũng là một cuộc chiến tranh nhân dân, bởi có sự kết hợp bền chặt giữa một bên là triều Trần và một bên là nhân dân yêu nước. Trong thắng lợi to lớn của cuộc đấu tranh đó có đóng góp không nhỏ của quân dân Thanh Hóa. Nhờ sự hi sinh, tinh thần đoàn kết chiến đấu của quân và dân Thanh Hóa đã cùng với nhân dân cả nước dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần làm nên thắng lợi vang dội. Thắng lợi đó ghi vào lịch sử dân tộc như những trang chói lọi nhất. Trong cuộc khánh chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba, danh tướng xứ Thanh có công lao đặc biệt to lớn, đó là Đỗ Hành.
  • 40. 34 Đỗ Hành năm sinh và năm mất không rõ, tài liệu Gia phả cho biết ông thuộc dòng dõi Đỗ Cảnh Thạc - một trong 12 sứ quân, đóng ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai - Hà Nội). Quê gốc dòng họ Đỗ này ở Hải Dương. Đầu thế kỷ XIII một chi họ Đỗ đã dời đến cư trú tại làng Ngọc Mỹ nay là Nhân Ngọc - Hoằng Ngọc, Hoằng Hoá, Thanh Hoá. Tại nhà thờ chi họ Đỗ ở làng Lương Hà nay là thôn Đại Long xã Hoằng Thanh (Hoằng Hoá), các cụ cao niên còn nhớ đôi câu đối ghi: 洋 義 侯 世 德 明 來 家 祥 長 發 “Dương nghĩa hầu thế đức minh lai, gia tường trường phát. 杜 德 性 家 姜 天 錫 福 履 永 綏 Đỗ Đức tính gia khương, thiên tích, phúc lý vĩnh tuy”. Đây là đôi câu đối nói về chi họ Đỗ Hành ở Nhân Ngọc (Hoằng Ngọc). Làng Ngọc Mỹ, thế kỉ XIII ở cạnh sông Cung, một con sông như hình cánh cung do thuỷ triều lên xuống ở 2 cửa Lạch Trường và Lạch Trào tổng Ngọc Chuế mà thành. Sông Cung giao thoa với hạ lưu sông Mã, nơi giao thủy ở khúc giữa thuộc làng Ngọc Mỹ. Bởi vậy, sông Cung là vùng nước lợ có nhiều thuỷ tức sinh sống và cũng từ đó mà làng Ngọc Mỹ hình thành nghề khai thác thủy tức từ rất sớm. Sinh trưởng trong gia đình nghèo, bố mất sớm, Đỗ Hành làm nghề đánh giắt, bắt cua, lạch tại sông Cung. Chính trong hoàn cảnh sống đó, tài năng bơi lội của ông được phát triển. Lớn lên ông đi kiếm sống ở Hải Dương và được tuyển vào làm gia nô của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp. Là người có sức khoẻ, lại có tài bơi lặn nên ông đã được Trần Hưng Đạo cho vào đội thuỷ binh cùng với Yết Kiêu, Dã Tượng, những gia nô đương thời.
  • 41. 35 Sau đó ông được sung vào đội quân túc vệ hầu vua Trần tại kinh đô Thăng Long trong thời kì kháng chiến chống quân Nguyên. Ông được vua Trần tin dùng và đã phát huy được tài năng giữ gìn an ninh ở nội cung, bảo vệ vua một cách an toàn. Sau hai lần xâm lược Đại Việt không thành, kẻ địch vô cùng tức giận và nhục nhã. Chúng lại tiếp tục cuộc tiến đánh lần thứ ba từ giữa tháng 11 năm Đinh Hợi (1287). Dưới sự chỉ huy tài giỏi của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, vua tôi nhà Trần chuẩn bị sẵn sàng đón đánh quân Nguyên với tư thế chủ động, tự tin sẽ thắng giặc như Hưng Đạo Vương trả lời vua Trần Nhân Tông “năm nay đánh giặc nhàn”. Khi hai cánh quân thủy, bộ của giặc kéo đến chúng đã bị chặn đánh ở nhiều nơi. Lần này thuỷ quân của giặc rất mạnh do Thoát Hoan, Ô Mã Nhi và một số tướng lĩnh nổi tiếng chỉ huy, chúng hội quân ở Vạn Kiếp đông tới 30 vạn. Nhưng khi thuyền vận tải lương thực và khí giới của chúng bị quân ta do Trần Khánh Dư chỉ huy đánh bại tại Vân Đồn (Quảng Ninh) “bắt được quân lương, khí giới của giặc nhiều không kể xiết tù binh cũng rất nhiều”. Thảm bại đó buộc quân Nguyên phải rút lui. Trần Hưng Đạo dự đoán: chắc chắn binh thuyền của chúng sẽ qua cửa Bạch Đằng, vì thế như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Trước đó Vương đã đóng cọc ở cửa sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên” và trận giao chiến lớn nhất trong lần kháng chiến thứ ba của quân dân Đại Việt chống quân xâm lược Nguyên Mông, có sự tham gia của Đỗ Hành, diễn ra ngày 8 tháng ba năm Mậu Tý (1288): “Hôm ấy, nhân lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến và giả cách thua chạy, bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều xuống, thuyền giặc vướng cọc hết… Hai vua (tức Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông) đem quân tiếp đến, quân Nguyên chết đuối nhiều không kể xiết, nước sông do vậy đỏ ngầu cả… Bắt được 400 thuyền. Nội Minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ
  • 42. 36 Cơ Vương dâng lên Thượng Hoàng”. Lập tức, một cảnh tượng hiếm thấy diễn ra giữa người chiến thắng và kẻ chiến bại bị bắt làm tù binh. “Thượng hoàng sai dẫn (Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương) lên thuyền ngự, cùng ngồi nói chuyện với chúng và uống rượu vui vẻ”[25, tr.62] Đỗ Hành lập một chiến công lẫy lừng bắt sống những viên tướng nắm quyền chỉ huy đại quân Nguyên Mông, thiện chíên, võ nghệ cao cường. Vua Trần Nhân Tông cho đem các tướng giặc bị bắt cùng các vạn hộ, thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng. Trong không khí ca khúc khải hoàn, vua Trần phong tước cho nhiều công thần trong đó Đỗ Hành được phong tước Quan nội hầu, thấp hơn tầm vóc chiến công mà Đỗ Hành giành được, vì khi bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên nhà vua mà dâng lên Thượng hoàng. Cao tuổi, Đỗ Hành được hưu quan và mất ở quê nhà, mộ ông táng tại cồn Mả Nghè, thôn Nhân Ngọc. Giỗ ông vào ngày 17/2 âm lịch. Nhà thờ ông được xây dựng khang trang từ thời Lê có đủ long ngai, đối trướng, gươm dàn, giáo dựng, có bia đá, bát hương đá… nhưng một lần thắp hương vào ban đêm, các đồ thờ bị cháy âm ĩ. Đến sáng thì chỉ còn một chiếc kiệu Long đình, sau dòng họ đem cung tiến cho đền thời đức Thánh cả Đại Giang (nay thuộc xã Hoằng Tiến). Rất tiếc là sử liệu về Đỗ Hành không có nhiều. Nhưng chiến công mà ông lập được đã trở thành một chiến tích kỳ diệu trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, góp phần nâng cao thêm tầm oanh liệt, rạng rỡ của chiến công mà quân dân Đại Việt giành được trong cuộc kháng chiến chống cuộc xâm lược của đế chế Mông - Nguyên hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ. Tên ông đã được đặt cho một đường phố ở Hà Nội và Thanh Hoá.
  • 43. 37 2.4. Nhân dân Thanh Hóa kháng chiến chống Nguyên - Mông xâm lược 2.4.1. Quá trình chuẩn bị, xây dựng lực lượng tại Thanh Hóa Thanh Hóa là một tỉnh có sông núi lớn bao bọc hai đầu, đồng bằng ở giữa rộng lớn, phì nhiêu, dân cư đông đúc. Trải qua bao thời đại, Thanh Hóa luôn là hậu phương, điểm tựa cho các phong trào đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Vùng địa bàn chiến lược Thanh Hóa từng góp phần cho các triều Ngô, Đinh, TiềnLê làm nên cơ nghiệp và đặc biệt, Thanh Hoá đã được sự quan tâm chú ý của vua Trần trong kế sách đánh giặc, giữ nước. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý, trên cơ sở kế thừa và nâng cao những thành quả của vương triều Lý trước đó, triều Trần đã tiếp tục củng cố chế độ trung ương tập quyền và quốc gia thống nhất. Về chính trị, triều Trần xây dựng bộ máy hành chính từ Trung ương xuống đến các địa phương chặt chẽ, vững vàng, năng động, đưa đất nước vào thế thống nhất ổn định sau thời gian dài rối loạn , khủng hoảng của nhà Lý. Ở Thanh Hóa, nhà Trần đặt các chức An phủ, Trấn phủ, hai viên Chánh phó để cai trị. Đặc biệt hơn, năm 1234, vua Trần đã cử Trần Thủ Độ - một nhà chính trị xuất sắc, người có công sáng lập và củng cố vương triều Trần giữ chức “Thống quốc Thái sư Tri Thanh Hóa phủ sự” [25, tr. 12-15] và năm 1238 “duyệt số đinh Thanh Hóa”. Về kinh tế, nhà Trần đã thực thi nhiều biện pháp tiến bộ để phát triển kinh tế như mở mang phát triển thủ công nghiệp, xây dựng mạng lưới thương nghiệp với các hệ thống chợ búa, cảng sông, cảng biển. xây dựng đê điều, nạo vét mương máng, tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước. Đặc biệt, quy định chặt chẽ các hình thức ruộng đất từ ruộng đất thuộc sở hữu Nhà nước đến ruộng đất tư nhân (bao gồm cả các thái ấp - đất phong điền trang cho quý tộc Trần, ruộng đất tư hữu của địa chủ, tiểu nông tư hữu). Riêng về chế độ điền trang thì vào “mùa đông tháng 10 năm 1226, xuống chiếu cho Vương hầu,
  • 44. 38 công chúa, phò mã, cung tần, chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng bỏ hoang, lập thành điền trang” [25, tr.36]. Cũng vào thời gian này, Trần Nhật Duật được phong làm Chiêu Văn vương và sau đó được lập điền trang ở vùng phía Nam Thanh Hóa và Tĩnh Quốc đại vương Trần Quốc Khang ở Diễn Châu (Nghệ An). Trần Nhật Duật đã chọn vùng sông Lý, núi Ngọc thuộc hương Ngọc Sơn (xã Văn Trinh xưa) để xây dựng phủ đệ theo quy định “kiến ấp phong vương” của nhà Trần. Hương Ngọc Sơn là vùng đất được bao bọc bởi bốn con sông: Sông Lăng ở phía Bắc, sông Hoàng (còn gọi là sông Vạy) ở phía Tây, sông Yên (thượng lưu sông Ghép) ở phía Nam và sông Lý ở phía Đông. Núi Ngọc Sơn nằm ở giữa. Vị trí này, núi không cao nhưng dài tựa trường thành. Dựng đồn canh trên đỉnh có thể quan sát đường thượng đạo, hạ đạo và hải đạo. Cách núi này về phía Đông Nam lại có dãy núi Hiệp Thạch (còn gọi là núi Chẹt) là một cửa đi đường bộ hiểm trở. Sông Lý tuy không sâu rộng nhưng là đường thủy huyết mạch vào Nam ra Bắc. Có thể khẳng định hương Ngọc Sơn là một vùng có vị trí quân sự hết sức thuận lợi. Từ những sự kiện nêu trên cho thấy, triều Trần đã có những bước chuẩn bị cần thiết về địa bàn chiến lược cũng như nhân tài, vật lực và định ra phương hướng chiến lược, sách lược cho một cuộc kháng chiến lâu dài chống lại một kẻ thù thiện chiến và hung hãn nhất đương thời đang đến gần. Trong thế kỷ XIII, quốc gia Đại Việt dưới sự trị vì của triều Trần phải đương đầu với họa xâm lược của đế quốc Nguyên Mông. Từ 1258 - 1288, triều Trần đã ba lần chống lại sự xâm lược của quân Nguyên - Mông, lần thứ nhất vào năm 1258, lần hai vào năm 1285 và lần ba vào năm 1288. Trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược của triều Trần thì lần một và lần ba địa bàn Thanh Hóa là một hậu phương vững chắc, nơi cung cấp sức người, sức của và là căn cứ quân sự để củng cố lực lượng của quân triều đình.
  • 45. 39 Lần hai, địa bàn Thanh Hóa trở thành chiến trường ác liệt trong cuộc chiến chống xâm lược của quân Nguyên Mông. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa đã tích cực chuẩn bị lược lượng, sắm sửa vũ khí, sẳn sàng trong tư thế quyết chiến, quyết thắng. Với khí thế và tinh thần chống giặc khẩn trương của quân dân Đại Việt, tháng 12 năm Giáp Thân (tháng 1 - 1285), Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã triệu tập phụ lão trong cả nước về kinh đô Thăng Long, đặt tiệc ở thềm điện Diên Hồng hỏi kế đánh giặc. Quê hương Thanh Hóa có nhiều bô lão được vinh dự tham gia hội nghị Diên Hồng lịch sử. Theo nguồn tài liệu gia phả được biết, ở Thanh Hóa có Chu Văn Lương (người làng Nam Ngạn, Thành phố Thanh Hóa), Mai Phúc Trường, người làng Dầu (nay thuộc xã Quang Lộc, huyện Hậu Lộc) tham dự Hội nghị Diên Hồng. Tinh thần quyết chiến của hội nghị Diên Hồng đã thông qua các bậc phụ lão về với nhân dân Thanh Hóa. Khắp nơi trên địa bàn đã tổ chức các đội dân binh sẵn sàng chiến đấu và phối hợp cùng với quân triều đình đánh giặc, thực hiện lệnh của vua Trần: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nỗi thì cho phép lẫn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng” [23, tr. 202]. Các đội quân chống giặc đã được tập hợp và luyện tập hăng hái như: Chu Văn Lương đã tập hợp một đội quân gồm những trai tráng khỏe mạnh, thạo nghề sông nước tập luyện hăng say, lên đường ra bắc phối hợp với quân đội triều Trần đánh giặc giữ nước. Mai Phúc Trường ở làng Dầu, Đại toát Lê Mạnh ở hương Yên Duyên (Quảng Xương) đã tổ chức dân binh ở Hương, Giáp luyện tập võ nghệ, tích trữ lương thảo sẵn sàng chống giặc. Từ những cứ liệu trên cho thấy, cùng với quá trình chuẩn bị chống giặc chung của cả nước, trên địa bàn Thanh Hóa việc chuẩn bị nhân tài, vật lực, căn cứ cho cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông diễn ra rất sôi nổi, khẩn
  • 46. 40 trương. Đồng thời cũng thấy được tinh thần yêu nước, ý chí bảo vệ dân tộc của dân nhân Thanh Hóa hết sức sục sôi. 2.4.2. Nhân dân Thanh Hóa trực tiếp tổ chức kháng chiến chống Nguyên -Mông xâm lược lần thứ hai (1285) Nhìn lại lịch sử thế kỷ XIII cho thấy, trong vòng 30 năm (1258 - 1288), đế quốc Nguyên - Mông đã ba lần đưa quân sang xâm lược Đại Việt. Triều Trần cùng với nhân dân cả nước đã đoàn kết, quyết tâm đến cùng chống giặc giữ nước. Trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông đó thì cuộc kháng chiến lần thứ hai diễn ra vào năm 1285 là cuộc kháng chiến quyết liệt và đầy thử thách nhất. Ngày 24 tháng 8 năm 1284, 50 vạn quân xâm lược của nhà Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy tiến vào nước ta theo hai hướng: Phía Bắc từ Trung Quốc tràn xuống, phía Nam từ Chiêm Thành đánh ra. Để đảm bảo chắc thắng cho cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ hai, ngoài việc sử dụng đạo quân chủ yếu gồm 40 vạn quân do Thoát Hoan chỉ huy tiến đánh từ phía Bắc xuống, năm 1282, nhà Nguyên còn tổ chức thêm một đạo quân khác do Toa Đô chỉ huy đem 10 vạn quân từ Quảng Châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành, làm cánh quân vu hồi chiến lược đánh thốc từ phía Nam lên, hình thành thế trận “hai gọng kìm” hòng kẹp chặt quân đội nhà Trần vào giữa để tiêu diệt. Để thực hiện kế hoạch “hai gọng kìm” Toa Đô dẫn quân vượt biển sang xâm lược Chiêm Thành, rồi từ đó củng cố lực lượng, tích lũy thêm lương thảo…làm bàn đạp tiến đánh Đại Việt từ phía Nam. Song ý đồ đó đã không đạt được, khi quân và dân Chiêm Thành chiếm giữ được những đường hiểm yếu chống trả quyết liệt, buộc chúng phải chuyển thực hiện mục đích chính làm đạo quân vu hồi từ phía Nam tiến đánh Đại Việt trong điều kiện lương thảo dự trữ không được bổ sung, lực lượng cũng bị tổn thất sau các cuộc giao chiến với quân nước Chiêm. Từ Quảng Bình, Toa Đô kéo quân ra kết hợp với quân tiếp viện
  • 47. 41 của Ô Mã Nhi từ ngoài biển tiến vào đánh chiếm Nghệ An. Ý định nhanh chóng chiếm Nghệ An không xong, Toa Đô kéo quân ra Thanh Hóa. Nhằm tránh sức mạnh ban đầu của địch và thực hiện kế “thanh dã” nhân dân và toàn bộ tôn thất nhà Trần trong thành Thăng Long đã dược lệnh sơ tán. Khi đại quân của Thoát Hoan tiến vào nội địa đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân và dân ta. Ở Thanh Hóa, vua Trần đã cử Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện đóng giữ, chặn đánh quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy từ phía Nam ra. Và cũng chính trong thời khắc lịch sử này vua Trần Thánh Tông đã tuyên bố: “Cối Kê cựu sự quân tu kí, Hoan Ái do tồn thập vạn binh” (Cối Kê chuyện cũ người nên nhớ, Hoan Ái còn kia chục vạn quân), nghĩa là vùng đất Thanh - Nghệ đã trở thành vùng đất chiến lược quan trọng trong kế sách chống giặc, giữ nước của các vua nhà Trần. Ngược dòng lịch sử về lại với thời kỳ chống giặc Nguyên - Mông của quân dân triều Trần chúng ta biết được, mặc dù phải đương đầu với một thế lực giặc mạnh, lực lượng chiến đấu chênh lệch nhiều, nhiều vùng biên cương phía Bắc của Tổ quốc lần lượt rơi vào tay quân thù. Nhưng niềm tin sắt đá vào sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc quân và dân - vua tôi nhà Trần vẫn kiên cường chống giặc. Điều này được thể hiện qua câu nói của Trần Hưng Đạo “Xin bệ hạ chém đầu thần trước rồi sẽ đầu hàng”, Trần Bình Trọng “Ta thà làm làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc” [25, tr. 51]. Hòa vào tinh thần đấu tranh chống giặc chung của cả nước, cuộc chiến đấu chống giặc của quân dân Thanh Hóa cũng diễn ra hết sức sôi nổi và mạnh mẽ và kiên cường. Theo sử sách, nhiều trận đánh lớn đã diễn ra trên đất Thanh Hóa: - Thứ nhất: Cuộc chiến đấu của nhân dân hương Yên Duyên (nay thuộc huyện Quảng Xương).
  • 48. 42 Khi quân của Toa Đô tiến vào đến Thanh Hóa đã gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân Thanh Hóa và quân đội triều đình. Đặc biệt, nhân dân hương Yên Duyên đã tiến hành tổ chức đánh giặc ngay khi chúng đặt chân lên quê hương. Sự kiện lịch sử này được Văn bia chùa Hưng Phúc ghi lại: “khoảng năm Thiệu Bảo (1279 - 1285), quân giặc Hồ (quân Nguyên) tiến xuống phía Nam, Hữu tướng giặc là Toa Đô chỉnh đốn quân ngũ tiến theo đường biển. Quân giặc đi tắt đường Cổ Khê dẫn vào trong hương (Yên Duyên), ông Lê Công (tức Lê Mạnh) đốc xuất mọi người trong hương ra phòng ngự ở bến Cổ Bút đánh nhau với quân giặc. Quân giặc bị đánh hầu như không còn đường rút chạy. Ngặt vì trong hương có kẻ gian giảo đầu hàng giặc nhân đó dẫn đường cho giặc, cho nên tất cả nhà cửa, của cải đều bị đốt phá, cướp bóc. Bởi thế công việc không thành. Kịp khi quân giặc rút lui nhà vua xuống chiếu bắt kẻ phản bội trị tội, bắt phải bồi thường của cải trong hương cho ông, để làm điều khuyến khích cho những người trung thành và chăm chỉ đánh giặc, thực là nhờ công của ông vậy” [7, tr. 64]. Theo những ghi chép trên bia Hưng Phúc cuộc chiến chống Nguyên - Mông của nhân dân Thanh Hóa như đang diễn ra cùng với sự giúp sức của quân đội triều Trần thời bấy giờ. Toa Đô sau khi chiếm được Nghệ An, tiến đánh Thanh Hóa nhưng thuyền binh không dám đi thẳng thủy đạo Kênh Than, sợ quân Trần chặn đường phục kích, mà theo hải đạo vào Cổ Khê. Tại đây, Đại toát Lê Mạnh đem hương binh phục kích một trận, quân Nguyên thua, Toa Đô rút chạy ra biển. Cũng lúc này, Hưng Đạo vương đã kịp thời tăng cường chi viện cho các đạo quân ở Thanh Hóa và kiên quyết giữ vững Thanh Hóa. Các tướng lĩnh, vương hầu kiệt xuất đã được triều đình điều động vào Thanh Hóa như: Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, Văn Túc vương Trần Đạo Tái, Chiêu Hiếu vương Trần Học, Chương Hiến hầu Trần Kiện…trấn giữ các huyện miền biển và vùng phụ cận (nay thuộc các huyện Hoằng Hóa, Hậu Lộc, Nga
  • 49. 43 Sơn, Hà Trung, Vĩnh Lộc)…Tĩnh Quốc vương Trần Quốc Khang thất thủ Nghệ An, lui giữ vùng đất giáp ranh từ khe Nước Lạnh (Lãnh Thuỷ) đến sông Lạch Bạng (nay thuộc huyện Tĩnh Gia), Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phòng thủ các hương Yên Duyên, Ngọc Sơn, huyện Vĩnh Xương (nay thuộc huyện Quảng Xương). Quân Toa Đô bị nhân dân hương Yên Duyên đánh bật ra biển, nhưng tướng Giảo Kỳ đã lọt vào Lễ Môn, đánh phá vùng Đông Sơn, Hoằng Hóa. Đội quân Toa Đô từ đường biển tìm đường đánh vào đông bắc Thanh Hóa để phối hợp với Giảo Kỳ, tạo thành gọng kìm hòng bóp nát quân Trần. Hoảng sợ trước sức mạnh của kẻ thù, Trần Kiện hoang mang sợ hãi đầu hàng Toa Đô. Tháng hai, ngày giáp thìn mồng 1 (8-3-1258) con thứ của Tĩnh Quốc Đại vương Quốc Khang là Thượng vị Chương Hiến hầu Trần Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Trắc đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên” [25, tr. 51]. Từ cuộc đấu tranh trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống giặc của nhân dân hương Yên Duyên diễn ra hết sức sôi nổi, quyết liệt. Thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ quê hương và bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Từng tên xóm, tên làng đã ghi dấu tích chiến công với những con người quả cảm góp sức cùng triều Trần chống lại cuộc tấn công của quân Nguyên - Mông. - Thứ hai: Trận đánh trên sông Bố Vệ. Vệ Bố kinh hay còn gọi là kênh Bố Vệ, là con kênh đào nối sông Hải Hán từ làng Bảng Nguyên (Đông Lĩnh, Đông Sơn) qua Đông Khối, làng Vinh, Đông Sơn xuống gặp sông Hoàng ở Mỹ Cảnh. Kênh Bố Vệ được khởi đầu từ khu vực Mật Sơn. Từ đây có thể xuôi sông Hải Hán ra cửa Lễ Môn hoặc theo sông Bồn xuống gặp sông Hoàng. Như vậy khu vực kênh Bố Vệ phần lớn thuộc phạm vi thành phố Thanh Hóa ngày nay. Sau khi Trần Kiện đầu hàng quân Nguyên, Giảo Kỳ muốn đánh chiếm thủ phủ Ngọc Sơn, nhưng khi vừa mới đưa quân đến kênh Bố Vệ Giảo Kỳ đã