SlideShare a Scribd company logo
1 of 113
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRẦN THỊ ÁI VÂN
ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961 ĐẾN 1973
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học:
TS: NGUYỄN TẤT THẮNG
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2016
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả và số
liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các tác giả cho phép sử dụng
và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác.
Họ và tên tác giả
Trần Thị Ái Vân
iii
LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Ts. Nguyễn Tất
Thắng - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo trong Khoa
Lịch sử, Phòng đào tạo Sau đại học, Trung tâm thư viện - Trường Đại học Sư
phạm Huế; trung tâm thư viện trường Đại học Khoa học Huế, thư viện Tổng
hợp tỉnh tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
và thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Trung tâm lưu trữ Tỉnh ủy Thừa
Thiên Huế, Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân
huyện A Lưới, Đại tá Hồ Mạnh Khóa cùng các bạn học viên đã hỗ trợ và tạo
mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập và tìm kiếm tư liệu cần thiết liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
Do điều kiện và thời gian hạn hẹp và đang trong quá trình thực tập nghiên
cứu khoa học cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong
nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý thầy cô và các bạn để đề tài của
tôi được hoàn thiện hơn.
Huế, tháng 10 năm 2016
Tác giả
Trần Thị Ái Vân
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn 20 năm chiến đấu, hi sinh vì độc lập và tự do của tổ quốc (1954 -
1975), dân tộc Việt Nam dù “Kinh hay Thượng”, đồng bào miền Nam hay miền Bắc
đều đã trải qua nhiều thử thách khốc liệt của cuộc chiến tranh, chịu nhiều tổn thất khi
phải đối đầu với một cường quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu như đế quốc Mỹ.
Sau khi thay chân thực dân Pháp thống trị miền Nam, Mỹ đã ráo riết thực hiện
âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng nhằm
chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này, Thừa Thiên Huế là trung tâm chính trị thứ hai ở
miền Nam sau Sài Gòn tiếp giáp với miền Bắc được Mỹ dựng lên một bộ máy cai trị
cấp miền nhằm mục đích kiểm soát và kìm kẹp nhân dân ta.
Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định xây dựng miền núi Thừa
Thiên Huế thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng. Nằm ở
phía Tây Thừa Thiên Huế với vị trí chiến lược quan trọng, A Lưới1
nhanh chóng trở
thành một chiến trường lớn của tỉnh và cả nước, từng được các cơ quan Tỉnh ủy, Khu
ủy Trị - Thiên, các Binh đoàn, Sư đoàn chủ lực… đóng quân.
Gần nửa thế kỷ đã qua, kể từ khi những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 559
mò mẫm giữa đại ngàn Trường Sơn soi đường tìm lối về Nam, A Lưới cũng trở thành
thành một địa điểm then chốt trên trục đường Hồ Chí Minh huyền thoại, nơi đây đã
chứng kiến nhiều cuộc giao tranh đẫm máu, những cái chết bi thương của chiến sĩ và
đồng bào các dân tộc.
Thực tiễn qua các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã cho thấy rằng:
bên cạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao thì đấu tranh quân sự là nhân tố quyết định
trực tiếp đến thành bại của cuộc chiến tranh. Do vậy, việc nghiên cứu phong trào đấu
tranh quân sự ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973, khi Mỹ thực hiện liên tiếp chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) và
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1972) là một việc làm có ý nghĩa khoa
học và thực tiễn sâu sắc.
1
Huyện A Lưới tiền thân có 3 quận: Quận 1, Quận 3, Quận 4 gồm các dân tộc anh em cùng sinh sống
đó là Pakô, Katu, Pahy.... Đây là địa bàn có truyền thống cách mạng, một căn cứ địa quan trọng của
Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên trong kháng chiến chống Mỹ
2
Về ý nghĩa khoa học, nghiên cứu đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ
ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973 giúp ta hiểu rõ hơn về quá trình chiến đấu anh dũng
của quân và dân huyện A Lưới. Qua đó làm sáng tỏ thêm tính chất phức tạp, quyết liệt
của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền núi, khẳng định về vai trò lãnh đạo của
Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã vạch ra đường lối, chủ
trương, phương pháp đấu tranh phù hợp, đúng đắn và kịp thời.
Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu phong trào đấu tranh quân sự ở huyện A Lưới từ
1961 đến 1973 góp phần cung cấp những bài học kinh nghiệm về đấu tranh quân sự ở
miền núi trong sự nghiệp giữ nước và bảo vệ tổ quốc đồng thời góp thêm nguồn tư liệu
phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, giáo dục truyền thống cách mạng cho
nhân dân huyện A Lưới, đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên nhằm khơi dậy và phát huy
truyền thống tốt đẹp của cha ông, yêu quê hương, đất nước.
Hiện nay, mảnh đất vùng cao A Lưới đang đổi thay từng ngày, việc tìm hiểu
phong trào đấu tranh quân sự cũng gắn liền với quá trình hình thành các di tích lịch sử
cách mạng, từ đó hệ thống hóa đầy đủ hơn các di tích lịch sử, cung cấp thêm những tư
liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động du lịch của địa phương.
Từ những lí do trên, với sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Tất Thắng, tôi
đã mạnh dạn chọn đề tài “Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện
A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Sử
học thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đấu tranh quân sự ở
huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế), mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau.
Cụ thể có các công trình nghiên cứu sau:
Đầu tiên, vào năm 1997, những anh hùng lực lượng vũ trang đã từng chiến đấu
kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Hồ Vai, Kăn Lịch cùng tác giả Hồ
Phương đã viết nên cuốn tiểu thuyết mang tên “Hồ Vai, Kăn Lịch” kể về cuộc đời và
quá trình đấu tranh gian nan trong chặng đường đánh Mỹ ở miền núi A Lưới.
3
Tiếp theo, phải kể đến công trình “Lịch sử Đảng bộ huyện A Lưới” xuất bản năm
1998 đã đề cập đầy đủ và bao quát nhất về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên, xã
hội, dân cư, truyền thống đấu tranh cách mạng, công cuộc đổi mới của huyện nhà.
Bên cạnh đó, cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế” cũng đã trình bày sơ
lược quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường của đồng bào miền núi Thừa Thiên.
Đặc biệt phải kể đến Luận văn Thạc sĩ sử học của tác giả Lê Viết Xuân với đề tài
“Đồng bào các dân tộc thiểu số mang họ Hồ ở A Lưới - Thừa Thiên Huế trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Đây là công trình đã dựng lại một bức tranh khá
toàn diện về những đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc A Lưới trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
Ngoài ra, trong tác phẩm “Địa chí Thừa Thiên Huế”, phần Lịch sử của Uỷ ban
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Hoa chủ biên cũng đã đề cập khá chi
tiết về phong trào đấu tranh cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao ở
thành phố Huế cũng như các huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Liên quan trực tiếp đến đề tài đang nghiên cứu có công trình “Lịch sử lực lượng
vũ trang huyện A Lưới (1945 - 2015)” do Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự Huyện A
Lưới biên soạn và được xuất bản năm 2013. Tác phẩm này đã trình bày một cách có hệ
thống về quá trình hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang huyện A Lưới trong
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Năm 2015, tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ xã A Ngo, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên
Huế (1960 - 2015)” được công bố. A Ngo là xã đầu tiên trên địa bàn huyện A Lưới có
sách trình bày đầy đủ và cụ thể nhất về quá trình đấu tranh kháng chiến chống Mỹ.
Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách toàn diện về con người,
phong trào cách mạng ở A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa thực sự đi
sâu tìm hiểu hoạt động đấu tranh quân sự. Tuy nhiên, những nguồn tư liệu đó sẽ tạo cơ
sở, điều kiện cho tôi hoàn thành tốt đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ truyền thống đấu tranh quân sự
của quân và dân A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973, qua đó thấy
4
được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, sự quyết tâm đánh thắng
Mỹ của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện A Lưới; nêu cao lòng tự hào tự tôn dân
tộc, khơi dậy và bồi dưỡng lòng yêu nước cho đồng bào huyện nhà; hình thành kho tư
liệu phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải sưu tầm, khảo sát,
xử lý các tài liệu liên quan (thành văn cũng như viết tay) để tìm hiểu chủ trương của
Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên đối với chiến trường miền núi A Lưới trong đấu
tranh trên mặt trận quân sự từ năm 1961 đến năm 1973, hoàn thành nhiệm vụ cách
mạng cho toàn tỉnh đồng thời chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Từ đó, phân tích những đặc điểm, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm trong đấu tranh quân
sự ở A Lưới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đấu tranh quân sự của quân và dân
huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973. Ngoài ra, đề tài còn đề
cập đến một số đơn vị, cá nhân anh hùng, các di tích lịch sử cách mạng gắn liền với
phong trào đấu tranh quân sự trên địa bàn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các xã miền núi phía Tây
Thừa Thiên, thuộc các quận I, quận III, quận IV (nay là huyện A Lưới, tỉnh Thừa
Thiên Huế).
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tập trung trong khoảng thời gian từ 1961 đến
1973 khi Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định chuyển đấu tranh chính trị sang đấu tranh
quân sự trên địa bàn miền núi.
Tuy có giới hạn về thời gian và không gian như trên, nhưng khi làm rõ một số
nội dung, luận văn có thể mở rộng không gian ra khỏi địa bàn huyện A Lưới và thời
gian có thể lùi về trước năm 1961 hoặc về sau năm 1973 để làm rõ vấn đề, nổi bật giai
đoạn tôi đang nghiên cứu.
5
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tôi dựa vào những nguồn tư liệu sau:
Nguồn tư liệu thành văn: Đó là các công trình nghiên cứu đã được xuất bản, bài
báo, hồi kí, internet… liên quan đến huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ. Bên
cạnh đó, tôi còn tiến hành thu thập một số tài liệu lưu trữ ở Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế,
Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân huyện A Lưới.
Nguồn tư liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tôi còn khai
thác nguồn tài liệu từ quá trình phỏng vấn, lời kể, khảo sát các di tích cách mạng có
liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp lịch
sử kết hợp với phương pháp logic. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng phương pháp thống
kê, phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu…
Đặc biệt, khi thực hiện đề tài về lịch sử địa phương, tôi còn sử dụng phương pháp
điều tra, điền dã, phỏng vấn, khảo sát thực tế.
6. Đóng góp của luận văn
Thứ nhất: Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện
về hoạt động đấu tranh quân sự huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961
đến 1973. Qua đó, thấy được sự đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc thiểu
số vùng cao A Lưới trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thứ hai: Luận văn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và đấu tranh cách
mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau ghi nhớ công ơn và tấm gương sáng ngời của
ông cha ta.
Thứ ba: Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy
chuyên đề lịch sử địa phương đồng thời cung cấp nguồn thông tin phục vụ cho hoạt
động du lịch, giới thiệu các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn, vừa giữ gìn, bảo
tồn, phát huy giá trị của các di tích vừa đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương.
6
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về điều kiện tự nhiên, con người và truyền thống yêu nước
của nhân dân huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế)
Chương 2: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
(Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
7
Chương 1
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
A Lưới là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự
nhiên khoảng 1.224,64 km2
. Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý
từ 16º,01´ đến 16º,23´ độ vĩ bắc, 107º,05´đến 107º,31´ độ kinh đông. Phía Bắc giáp
huyện Đắc Krông (Quảng Trị); phía Nam giáp huyện Hiên (Quảng Nam); phía Đông
giáp huyện Hương Trà, Nam Đông và thị xã Hương Thủy; phía Tây giáp nước bạn
Lào [21, tr. 7].
Huyện A Lưới nằm trên tuyến quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với quốc lộ
1A. Đây là trục giao thông Đông - Tây quan trọng kết nối với quốc lộ 1A, thành phố
Huế và các huyện đồng bằng.
Với vị thế như vậy, A Lưới là một vùng có vị trí chiến lược quan trọng về mặt
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt về mặt quân sự đối với tỉnh Thừa Thiên
Huế, khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước. Khu vực này là vùng đất án ngữ của biên giới
phía Tây tổ quốc, một mắt xích quan trọng trên trục đường Hồ Chí Minh huyết mạch
nối liền Bắc Nam ở Đông Trường Sơn.
Do đó, đế quốc Mỹ đã cho xây dựng nơi này nhiều hệ thống đồn bốt, sân bay…
nhằm khống chế mọi hoạt động của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền
Bắc đối với tiền tuyến miền Nam và làm bàn đạp tấn công xuống đồng bằng.
Ngày nay, với nhiều cảnh quan thiên nhiên, sông suối, núi rừng xanh tươi, hệ
thống di tích lịch sử, các giá trị văn hóa cùng với tính nhân ái hiếu khách của người
dân A Lưới đã trở thành nguồn tài nguyên vô giá, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh
tế xã hội và du lịch.
Những năm gần đây, A Lưới đã và đang được Trung ương và tỉnh Thừa Thiên
Huế tập trung đầu tư xây dựng đô thị; cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội;
xây mới và tu bổ mạng lưới giao thông, mở rộng mạng lưới điện; chú trọng phát triển
thương mại, dịch vụ, du lịch; xây dựng các công trình thủy điện (A Lưới, A Lin, A
Roàng), viễn thông, trường học, trạm y tế... Đó là những nền tảng cơ bản tạo động lực
8
mới thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn trong
tương lai.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Địa hình: A Lưới có 118.969 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp là
4.603,79 ha, tổng diện tích đất chưa sử dụng là 53.863,79 ha. Địa hình chủ yếu là rừng
núi xen lẫn những dãy thung lũng với hệ thống sông suối khá dày đặc với độ cao trung
bình khoảng 700m so với mặt nước biển.
Là một huyện vùng cao, A Lưới có hệ thống núi non hùng vĩ, cao nhất là núi
Động Ngại nằm ở phía Đông Bắc (cao gần 4000m so với mặt nước biển), phía Đông
có các dãy núi như A Lau, A Ló, Kô Pung, Talângai; phía Tây Bắc có các ngọn núi
như Ta Công, A Túc, A Bia; phía Tây có dãy núi Trường Sơn tiếp giáp với Lào [1, tr.
9].
Bên cạnh đó, A Lưới còn có hệ thống thủy văn khá dày đặc, ngoài hệ thống khe
suối len lỏi giữa thung lũng núi rừng hình lòng chảo, nơi đây còn có các con sông lớn
như A Sáp, sông Bồ, sông A Lin… và hàng trăm con suối lớn nhỏ như Ta Rình, Ta
Ho… Địa hình hiểm trở, đất đai màu mỡ, sông suối mát lành tạo điều kiện cho nhân
dân cư trú, làm ăn đồng thời tạo điều kiện để bộ đội đóng quân, xây dựng căn cứ địa
cách mạng.
Khí hậu: A Lưới thuộc vùng khí hậu Tây Trường Sơn, có nền nhiệt khá ôn hòa.
Khí hậu ở vùng này khá đặc biệt, hướng của 2 mùa gió chính đều thay đổi, khác với
toàn tỉnh: gió mùa Đông Bắc thịnh hành hướng Đông, gió mùa Tây Nam thịnh hành
hướng Tây Bắc nên nhiệt độ cả năm thấp hơn so với toàn tỉnh. Nhiệt độ trung bình
hàng năm khoảng 21,50
C, cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 là 250
C và thấp nhất vào
tháng 1 khoảng 170
C. Lượng mưa hàng năm ở đây thuộc hàng cao nhất tỉnh, nhất nước
(2.800mm đến 3.400mm), trong đó tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, còn từ tháng 1
đến tháng 4 mưa ít, trung bình 30mm - 65mm/1 tháng. Độ ẩm luôn trên 83% [75, tr.8].
Về hệ thống giao thông đường bộ: Ngoài con đường 12 do Mỹ và chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm xây dựng phục vụ cho chiến tranh và đặt ách thống trị lên miền
núi Thừa Thiên những năm 1955, 1956 thì toàn bộ các con đường còn lại đều do quân
và dân ta xây dựng nên. Đường Hồ Chí Minh (Đường 14B) được xem là tuyến giao
9
thông huyết mạch chạy dọc theo chiều dài trên địa bàn huyện trong kháng chiến chống
Mỹ.
Ngoài ra, nối liền A Lưới với các huyện lị khác còn có các hệ thống giao thông
như: quốc lộ 49B đi về Huế đến tận cửa biển Thuận An; 4 hệ thống trục xuôi từ vùng
núi về đồng bằng gồm có: đường 71 từ Hồng Vân qua Dốc Chè về Phong Điền, đường
72 từ xã Hồng Thượng qua xã Hồng Hạ về thành phố Huế, đường 73,74 từ xã Hương
Lâm qua A Roàng, Hương Nguyên về Khe Tre (Nam Đông) và Phú Lộc [1, tr. 12].
Đây là những hệ thống giao thông vô cùng quan trọng phục vụ đắc lực cho công tác
liên lạc, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược cung cấp cho chiến trường.
Ngày nay, các con đường đó tiếp tục tồn tại phát huy vai trò lưu thông, trao đổi
hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa đến tận các bản làng xa xôi, đáp ứng cho
tất cả các vùng dân cư trên địa bàn huyện đều có “điện, đường, trường, trạm”.
1.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội
1.2.1. Về dân cư
Trải qua thời gian theo sự biến đổi thăng trầm của lịch sử cùng quá trình di cư
của các vùng khác lên cư trú ở A Lưới, hiện nay dân số huyện A Lưới có hơn 40 nghìn
người với 4 tộc người có số lượng đông đảo nhất: Pakô, Kơtu, Pahy, Kinh. Ngoài ra
còn có sự cư trú rải rác của một bộ phận đồng bào các dân tộc khác nhau như Tày,
Nùng, Thái, Bru Vân Kiều…
Trong số đó, dân tộc Pakô chiếm 60% dân số, sinh sống tập trung ở các xã
Nhâm, A Ngo, A Đớt, A Roàng, Hồng Thái, Hồng Thủy, Bắc Sơn, Hồng Vân, Hồng
Kim; dân tộc Kơtu chiếm khoảng 10%, sống tập trung chủ yếu ở 2 xã Hương Lâm,
Hương Nguyên; dân tộc Pahy chiếm khoảng 5% dân số và dân tộc Kinh chiếm khoảng
15%, sống chủ yếu ở Sơn Thủy, Phú Vinh và thị trấn A Lưới [1, tr. 14].
Đồng bào các dân tộc vùng cao A Lưới cũng là thành phần cư dân đông đảo (chủ
yếu là dân tộc Pakô) hăng hái tham gia phong trào kháng chiến chống Mỹ gắn liền với
tên tuổi các anh hùng lực lượng vũ trang như: Hồ Vai, Kăn Lịch, Hồ A Nun…
1.2.2. Về kinh tế
Phân bố tập trung ở vùng núi dọc Trường Sơn, đồng bào A Lưới đều sống dựa
vào kinh tế nông nghiệp, chủ yếu làm nương rẫy, phát - cốt - đốt - trỉa, lối sống du
10
canh du cư, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Cây trồng chủ yếu là lúa, ngô, sắn…
Mùa phát rẫy thường vào tháng 2, 3 âm lịch, gieo hạt vào tháng 4, 5 và thu hoạch vào
tháng 10 hằng năm. Cách thức lao động còn đơn lẻ, mang nặng tính cá nhân hoặc theo
từng hộ gia đình, sự giao lưu, hợp tác giữa các làng bản trong hoạt động nông nghiệp
còn ít, sử dụng sức người là chính.
Công việc chăn nuôi cũng xuất hiện từ lâu, nhưng mọi gia súc, gia cầm còn rất
hạn chế (chủ yếu là heo, gà…). Thời Pháp thuộc, với lối sống du canh du cư, kĩ thuật
canh tác lại hậu, chăn nuôi nhỏ, đời sống nhân dân A Lưới còn rất khó khăn, làm
không đủ ăn, đủ mặc.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ,
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân A Lưới từng bước đổi thay, đồng bào được
hưởng quyền bình đẳng, làm chủ đất đai, hăng hái tăng gia sản xuất phục vụ cách
mạng.
Ngày nay, với chính sách định canh định cư, áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kĩ
thuật, đồng bào vùng cao A Lưới từng bước chuyển đổi hóa cây trồng, vật nuôi, thu
được nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực sản xuất, thu nhập của người dân vì thế
ngày một ổn định hơn.
1.2.3. Về xã hội
Trong xã hội của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện A Lưới, chế độ tư hữu
đã xuất hiện, sự phân hóa giàu nghèo đã hình thành nhưng chưa thực sự sâu sắc.
Thành phần cư dân giàu có thường là những người có thế lực, xuất thân từ tầng lớp
chủ đất, chủ làng, trong đó chủ làng là người có địa vị cao nhất đứng đầu chỉ đạo, quan
tâm các hoạt động sản xuất, giải quyết những mâu thuẫn nội bộ, tổ chức lễ hội.
Làng phát triển trong phạm vi một cộng đồng cư trú với 4, 5 hộ dân với vài chục
nóc nhà sinh sống gần nhau và có tính chất khép kín. Mỗi làng thường là nơi cư trú
của nhiều dòng họ, sau này xuất hiện thêm quan hệ láng giềng.
Cách mạng tháng Tám thành công đem lại bộ mặt mới cho đồng bào A Lưới, các
dân tộc A Lưới được quy tụ trong các đơn vị hành chính các xã liên kết nhiều làng,
thoát khỏi lối sống khép kín và hạn hẹp trong quan hệ huyết thống. Trong hai cuộc
kháng chiến, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, các dân tộc như Pakô, Kơtu, Pa
11
hy… đã đoàn kết lẫn nhau thực hiện chủ trương của Đảng, chống kẻ thù chung, nhiều
cá nhân, đơn vị được nhận danh hiệu lực lượng vũ trang nhân dân.
Tháng 3/1976, huyện miền núi A Lưới chính thức được thành lập, trở thành một
trong hai huyện miền núi của toàn tỉnh thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền
quản lý, nhân dân làm chủ. Phần lớn các đồng bào dân tộc A Lưới đều mang họ Hồ để
tỏ lòng biết ơn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã mang lại cuộc sống tự do, ấm êm
cho đồng bào các dân tộc ít người ở miền Tây Thừa Thiên Huế.
1.3. Truyền thống yêu nước
1.3.1. Truyền thống yêu nước cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945
Từ xưa đến nay, A Lưới vẫn luôn tồn tại truyền thống quý báu đã ăn sâu vào tâm
khảm của người dân, đó chính là lòng yêu nước nồng nàn với một tinh thần đấu tranh
quật khởi vì độc lập, tự do. Với chính sách áp bức và ngu dân của chính quyền đô hộ,
nhân dân A Lưới nói chung từ lớp này đến lớp khác luôn phải sống trong cảnh khổ
cực, tăm tối. Bộ máy cai trị của thực dân tuy đã đặt ra các chính sách cai trị hà khắc,
nặng nề với ý đồ chia rẽ miền xuôi với miền ngược nhưng nhìn chung chúng không dễ
dàng thực hiện được. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã ý thức sâu sắc âm mưu của kẻ
thù và tiếp tục hăng hái tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, phong trào cách mạng nước ta
tiếp tục phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được
nhân dân tin tưởng, nhiều tổ chức yêu nước được thành lập không chỉ ở đồng bằng mà
còn mở rộng ra cả miền núi. Tổ chức Việt Minh ra đời ngày 19/5/1941 mở ra một thời
kì mới cho phong trào cách mạng ở huyện A Lưới cùng các xã miền núi Thừa Thiên
Huế ở Phú Lộc, Phong Điền… đi tiên phong trong công tác gây dựng lực lượng chuẩn
bị cho việc khởi nghĩa giành chính quyền trong tháng Tám năm 1945.
1.3.2. Truyền thống đấu tranh cách mạng trong kháng chiến chống Pháp (1945 -
1954)
Trong kháng chiến chống Pháp, A Lưới cùng với nhiều huyện lị khác trong toàn tỉnh
như Phong Điền, Hương Trà, Phú Lộc... nhanh chóng trở thành các căn cứ địa cách
mạng mà địch khó xâm phạm được bởi địa hình hiểm trở cùng với ý chí sắt đá của
12
nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một vị thế mới cho đất nước ta, từ
thân phận nô lệ, mất nước trở thành người làm chủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
Mặc dù phải đương đầu trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của buổi đầu giành
lại chính quyền nhưng Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng thành lập được một
số xã miền núi và bước đầu gây dựng chính quyền cách mạng, các đoàn thể cứu quốc
và mặt trận Việt Minh ngay trong lòng địa phương.
Ngày 19/12/1946, cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp theo lời
kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ không chịu mất
nước, không chịu làm nô lệ”.
Lúc này, A Lưới là vùng tự do, đóng vai trò hậu phương cho toàn tỉnh, tích cực
sản xuất nuôi quân đánh giặc, đoàn kết xây dựng làng bản, tạo điều kiện làm căn cứ
kháng chiến lúc cần thiết. Càng về sau, phong trào kháng chiến ngày càng dâng cao,
địch tập trung phương tiện, sử dụng nhiều thủ đoạn để đối phó với chiến tranh nhân
dân ở vùng đồng bằng và đô thị nên chưa có điều kiện đánh phá miền núi, đây chính là
lúc A Lưới có thời gian để chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị kháng
chiến lâu dài.
Theo đó, hệ thống chính quyền, mặt trận đoàn thể được hình thành, do tập trung
chỉ đạo đồng bằng nên Tỉnh ủy Thừa Thiên giao phó cho các xã miền núi tự quản. Các
huyện cũng thành lập ban chỉ đạo miền núi bao gồm các cán bộ chính trị, y tá, giáo
viên…
Nhiều đồng chí gương mẫu, đi sâu vào quần chúng và trở thành những cán bộ
miền núi đáng tin cậy của Đảng và toàn thể đồng bào A Lưới như đồng chí Hoạch, Cu
Nô, Nhà Hoài, Ra Đang, Quỳnh Meo, Ăm Bảo, Cu Tông, Cu Đay…
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân trong tỉnh ngày càng giành được
những thắng lợi to lớn, xây dựng được nhiều vùng kháng chiến, phát triển ở nông thôn
và đồng bằng và tiến lên tấn công địch, gây dựng cơ sở cách mạng ở thành phố Huế,
đặc biệt là chiến khu của tỉnh và các huyện ở ven núi sát đồng bằng.
Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết năm 1954, vùng Nam Đông nằm trong
khu dinh điền của Ngô Đình Cẩn, vùng A Lưới và vùng Ba Lòng (Quảng Trị) tạm thời
bị o ép bởi lực lượng li khai của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ [40, tr. 50].
13
Chính vì thế, phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới còn rất nhỏ lẻ, chủ yếu là
đấu tranh chính trị hòa chung vào phong trào đấu tranh của toàn tỉnh, bước đầu chuẩn
bị về mọi mặt để đứng lên đấu tranh quân sự khi cần thiết.
1.3.3. Truyền thống đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ (tính đến trước
năm 1961)
Đế quốc Mỹ âm mưu thay thế thực dân Pháp ở Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục
tiêu cơ bản: biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới; tiêu diệt phong trào cách mạng
nước ta, chặn đứng phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ đồng thời
biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới; cuối cùng xâm
lược Việt Nam để thành lập phòng tuyến ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản
ở Đông Nam Á mà chúng gọi là đắp đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Để đạt được 3 mục tiêu
trên, chính quyền Aixenhao đã sử dụng mọi thủ đoạn nhằm đặt ách thống trị hoàn toàn
ở nước ta.
Quán triệt chủ trương của Đảng sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày
26/9/1954, Liên khu ủy IV ra nghị quyết về công tác ở Thừa Thiên và Quảng Trị. Nghị
quyết cũng đã chỉ rõ đặc điểm tình hình Thừa Thiên và Quảng Trị:
Đây là hai tỉnh trong vùng địch tạm chiếm đóng quân giáp vùng tự do, cho
nên về ta thì mọi ảnh hưởng của vùng tự do và mọi chủ trương chính sách của
Đảng và Chính phủ ta đều qua đây mà vào miền Nam. Về địch thì để củng cố đầu
cầu chuẩn bị phòng ngự hay tấn công ta, địch sẽ tăng cường lực lượng, tập trung
quân tinh nhuệ ở đây; và giữ thế an toàn quân sự cho chúng, chúng sẽ tăng cường
gián điệp, một mặt mua chuộc lừa phỉnh, mặt khác tích cực khủng bố, xua quét
lực lượng ta. Hai tỉnh tuy nhỏ hẹp nhưng có tính chất quan trọng về chính trị, là
nơi tập trung bộ máy đầu não ngụy quyền Trung Việt, tập trung bọn đầu sỏ mật
thám, gián điệp [4, tr. 35-36].
Đế quốc Mỹ xem chiến trường Thừa Thiên Huế nói chung, miền núi A Lưới nói
riêng là một trong những trọng điểm quan trọng để khủng bố, đàn áp đồng thời xây
dựng ở đây một phòng tuyến phòng thủ mạnh và căn cứ xuất phát để có thể tiến công
miền Bắc khi thời cơ đến đồng thời cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cũng như mối
liên hệ giữa 2 miền nước ta.
14
Sau khi đàn áp phong trào cách mạng ở đồng bằng, giữa năm 1956, Mỹ và chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm bắt đầu kéo quân lên A Lưới, trước tiên nhằm mục đích
thăm dò địa bàn, sau đó sẽ thiết lập bộ máy chính quyền. Chúng chia miền núi Thừa
Thiên Huế thành 4 tổng trực thuộc quận Nam Hòa, mỗi tổng có 3 - 5 xã, đứng đầu là
chánh tổng.
Với chính sách mua chuộc, mị dân, dụ dỗ kể cả hăm dọa đồng bào các dân tộc
thiểu số A Lưới, địch hầu như không thu được kết quả gì. Vì thế, Mỹ và chính quyền
tay sai Ngô Đình Diệm chuyển sang biện pháp mới là dồn dân, lập khu dinh điền, tăng
cường bắt lính nhằm tạo nên những vành đai trắng cắt đứt sự liên lạc giữa quần chúng
và cách mạng, kiểm soát nhân dân miền núi Thừa Thiên. Chúng cho dồn dân vào 4
khu: A Lưới, A So, Nam Đông, Khe Tre, từ đó tạo nên những pháo đài chống cộng và
liên tục mở những cuộc càn quét.
Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp ở Ấp Rùng, xã Thượng Long, miền Tây
Thừa Thiên Huế quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ địa cách
mạng, phong trào đấu tranh vũ trang bắt đầu bằng những vũ khí thô sơ đã dần dần nảy
sinh trong quần chúng kết hợp với đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Giữa lúc cao trào cách mạng ở miền núi Thừa Thiên đang có những chuyển biến
quan trọng thì ánh sáng nghị quyết 15 (1/1959) của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa II về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến nhân dân tỉnh nhà. Một
trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất lúc này là xây dựng tuyến đường vận tải
559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi A Lưới với con đường Trường Sơn nối liền mạch
máu giao thông với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa
vững chắc cho đồng bằng.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Tỉnh ủy Thừa Thiên ra chỉ thị khẩn trương củng cố
miền núi thật vững chắc về mọi mặt, xây dựng bàn đạp giáp gianh, nối liền thế ba
vùng để phát huy thế mạnh của miền núi, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, luồn
sâu vào các thôn xóm, làng bản gây dựng căn cứ địa, kho tàng. Để thuận lợi trong việc
chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng, toàn bộ miền núi Thừa Thiên Huế được chia
thành 4 quận, trong đó các xã (nay thuộc huyện A Lưới) nằm ở 3 quận: Quận I có 7 xã
gồm: Nhâm, A Roàng, A Đớt, Bắc Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn, Đông Sơn; Quận III có 10
15
xã: Hồng Thượng, Hồng Hạ, Hồng Tiến, Hồng Thái, Hồng Nam, Hồng Bắc, Hồng
Quảng, Hồng Trung, Hồng Thủy, Hồng Kim; Quận IV có 5 xã: Hương Lâm, Hương
Nguyên, Hương Sơn, Hương Hữu và các xã miền Tây Phú Lộc [21, tr. 58].
Lúc này, nhận thấy phong trào đấu tranh ở miền núi đã có sự lớn mạnh nhất định,
Tỉnh ủy chủ trương phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh vũ trang cùng cả nước
hướng tới phong trào “Đồng khởi”. Theo đó, Đảng ủy miền Tây nhanh chóng chỉ đạo
các xã trên địa bàn tích cực tập luyện quân sự, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ thôn,
đội, từng bước đưa phong trào đấu tranh vũ trang phát triển lớn mạnh.
Ngày 13/9/1960, Ban chỉ huy xã đội Hồng Bắc tổ chức một tiểu đội du kích do
đồng chí Hồ Đức Vai chỉ huy chặn đánh cánh quân địch từ đồn A Lưới hành quân qua
Hồng Bắc càn quét. Kết quả, tiểu đội du kích địa phương đã tiêu diệt 12 tên địch, làm
bị thương 10 tên khác và tịch thu một số vũ khí.
Điên cuồng trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân miền núi, tháng 10/1960,
đế quốc Mỹ và tay sai tiến hành càn quét vào vị trí các thôn gần A So, bắt dân về trại
tập trung ở A Lưới. Tiếp đó, chúng lại tiếp tục tấn công vào các xã Thượng Minh,
Thượng Quảng, Thượng Nùng, giết và bắt bớ dân, điển hình nhất là địch đã tàn sát 18
người dân ở A Lưới và A Treo, chặt đầu và cắm cọc anh A Vầu ở Hồng Kim [2, tr.
55].
Kết hợp càn quét và khủng bố, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm còn ra
sức phá hoại mùa màng nhằm triệt hạ nền kinh tế, buộc đồng bào phải di dân về các
khu tập trung mà chúng đã dựng sẵn.
Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định khởi nghĩa miền núi với mục
tiêu “nhằm vào quần chúng bị bức xúc nhất, có thể là lúc địch tập trung lực lượng để
gom bằng được dân về các khu tập trung, hoặc càn quét mùa sắp tới” [78, tr. 67].
Đêm 17/10/1960, Hội nghị khẩn cấp của Tỉnh ủy Thừa Thiên được triệu tập và
nhận định đã có tình thế cách mạng. Hội nghị quyết định thành lập ban khởi nghĩa
miền núi và khu vực, vũ trang tuyên truyền, trừng trị những tên ác ôn, bắt bọn tay sai
ra thú tội trước dân chúng.
Quán triệt chủ trương lãnh đạo của Tỉnh ủy, Đảng ủy miền Tây đã mở lớp tập
huấn cho hơn 30 cán bộ đảng viên tại làng Gòn, xã Thượng Long. Tại lớp tập huấn,
16
sau khi nghe phổ biến chủ trương, kế hoạch của Liên khu ủy V, các đồng chí đã cùng
nhau thảo luận thống nhất biện pháp hành động cụ thể của từng xã, nhất là ở 2 xã trọng
điểm Phong Lâm và Phong Bình nằm giữa căn cứ A Lưới, A So của địch.
Mở đầu phong trào “Đồng khởi”, đồng chí Nguyễn Vạn - Thường vụ Tỉnh ủy
phụ trách miền núi và cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 559 ở Thừa Thiên cùng đồng chí
Nguyễn Hoàng Giang chỉ đạo tổ đặc công thành phố Huế phối hợp với du kích xã
Phong Lâm do đồng chí Quỳnh Ka Lom bí mật về Khe Tranh bắt và trừng trị tên
chánh tổng Quỳnh Chánh ở Q Xo, phó tổng Kon Ko Le ở A So đồng thời cảnh cáo
một số tên ác ôn khác [21, tr. 67-68].
Sau đó, đêm 20/10/1960, đồng bào các dân tộc miền núi khắp Thừa Thiên, trong
đó có nhân dân huyện A Lưới đồng loạt nổi dậy bằng các vũ khí gậy gộc, giáo mác,
cồng chiêng, trống, thanh la theo lệnh chỉ huy đốt đuốc xuống đường tấn công bọn
thống trị. Trong đợt chiến đấu này, ta bắt được nữ gián điệp Ka Mua tay chân của Ngô
Đình Cẩn và 4 thầy dòng thánh Mỹ, 1 thầy dòng Việt Nam [78, tr. 70].
Mặc dù bị thất bại nặng nề, địch vẫn cố bám lấy miền núi hòng khôi phục lại thế
trận, tiếp tục đánh phá, càn quét. Để thực hiện mục đích đó, Mỹ và tay sai tăng cường
bố phòng, củng cố các vị trí A So, A Co, A Lưới, Nam Đông, Khe Tre… tăng thêm
quân từ tiểu đội lên trung đội, từ trung đội lên đại đội, các kiểu pháo hạng nặng lần
lượt được trang bị. Song, tất cả những cố gắng của chúng đều không thể khuất phục ý
chí của đồng bào ta đứng lên làm chủ núi rừng.
Sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” năm 1960, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã tiến
hành hội nghị, cùng nhau nhìn nhận và xác định phương hướng nhiệm vụ cách mạng
trong tình hình mới. Hội nghị nhận định: Phong trào miền núi tuy được củng cố,
nhưng chưa vững mạnh, phong trào đồng bằng thì còn quá yếu, cơ sở quá hẹp chưa
móc nối được bao nhiêu, nhất là nhiều vùng còn là vùng trắng, địch còn khống chế
chặt quần chúng, đấu tranh chính trị phần lớn là tự phát, lẻ tẻ. Nhiệm vụ lúc này chính
là phát triển hướng tiến công từ vùng núi về nông thôn đồng bằng, phá ấp chiến lược,
giành dân, giành quyền làm chủ đưa chiến tranh cách mạng của địa phương tiến kịp
với liên khu và toàn miền.
17
Thực tế cho thấy, phong trào “Đồng khởi” miền núi Thừa Thiên diễn ra cùng lúc
với phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam, mặt trận dân tộc giải phóng Thừa Thiên Huế
lúc này cũng ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới cho phong trào cách mạng toàn tỉnh
nói chung và phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới nói riêng.
Về phía Mỹ, đầu năm 1961, chúng chủ trương điều chỉnh chiến lược chiến tranh
tiếp tục âm mưu xâm lược Việt Nam, miền núi A Lưới cùng cả nước đã chuẩn bị sẵn
sàng cho một cuộc đấu tranh quân sự vô cùng quyết liệt trong thời gian tới, đập tan ý
đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa quân sự kiểu mới của chúng.
1.4. Công tác chuẩn bị của quân và dân huyện A Lưới cho hoạt động đấu tranh
quân sự
Xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng tính đến trước năm 1961, mặc dù hình
thức đấu tranh ở miền Tây Thừa Thiên chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh chính trị,
song lực lượng vũ trang ở địa bàn vẫn không ngừng được xây dựng, củng cố để tiến
lên đấu tranh quân sự khi cần thiết. Với phương châm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
Tỉnh ủy Thừa Thiên, Đảng ủy miền Tây, công tác chuẩn bị cho hoạt động đấu tranh
quân sự được khẩn trương tiến hành ở miền núi A Lưới.
Trong công tác chỉ đạo, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế với phương châm nắm vững
vùng đồng bằng nhưng phải hết sức coi trọng miền núi. Chấp hành chủ trương xây
dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, nhân dân A Lưới dưới sự chỉ đạo của Nhà
Hoài đã biết coi trọng các công tác giáo dục, chỉnh huấn cán bộ đảng viên và quần
chúng về đường lối cách mạng, phương hướng xây dựng miền núi, chính sách dân tộc,
đấu tranh khắc phục những quan điểm lệch lạc, phát động nhân dân xây dựng miền núi
thành phong trào quần chúng rộng rãi đồng thời xây dựng các tổ chức Đảng từ xã đến
các vùng miền, đào tạo cán bộ quân sự, chính trị cho từng xã thôn. Đến tháng 6/1963,
cơ sở Đảng đã có khắp các xã với hàng chục chi bộ, hàng trăm đảng viên.
Tháng 10/1959, Mặt trận đoàn kết dân tộc miền núi Thừa Thiên được thành lập,
đến tháng 1/1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền núi Thừa Thiên cũng ra đời đã
đoàn kết đông đảo quần chúng thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc Mỹ.
18
Nhận thức được tầm quan trọng của hậu phương miền núi, dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương, nhân dân A Lưới đã hăng say tích cực tăng gia sản xuất, cán bộ
lãnh đạo đã chú ý giải quyết nạn thiếu muối, dao, rựa,vải, thuốc men cho quần chúng.
Nhân dân nhiều nơi đã tổ chức sản xuất hỗ trợ nhau làm ăn, đời sống nhân dân
ngày càng được cải thiện. Đồng bào đã tự nguyện đóng góp nhiều của cải, công sức để
mở và bảo vệ hành lang, nuôi cán bộ và phát triển lực lượng vũ trang. Hàng năm, nhân
dân A Lưới cùng nhân dân huyện Nam Đông đã góp gần 230 tấn gạo, nhiều nam nữ
thanh niên tích cực tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí cho cách mạng theo tuyến
đường từ Thượng Long về Phú Lộc, đi dài hạn cả năm phục vụ cho Quân khu,vận
chuyển lương thực, hàng hóa vào Quảng Nam, Đà Nẵng cũng như gia nhập quân giải
phóng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, phong trào văn nghệ, y tế... cũng được chú ý
phát triển.
Về công tác xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, tháng 2/1960, lực lượng vũ
trang và bán vũ trang ở miền núi A Lưới lần đầu tiên tổ chức huấn luyện quân sự bí
mật tại thôn Tà Vai, xã Đông Sơn trong thời gian 30 ngày. Thành phần tham gia huấn
luyện gồm các đồng chí xã đội, thôn đội và lực lượng được tuyển chọn để chuẩn bị cho
việc thành lập bộ đội địa phương. Tháng 5/1960, lực lượng vũ trang A Lưới tiếp tục
tiến hành đợt huấn luyện quân sự đợt 2 tại xã A Ngo với sự tham gia của 65 đồng chí
[21, tr. 62].
Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 3/9/1960, bộ đội địa phương miền Tây
chính thức được thành lập tại xóm Ly Leng, xã Thượng Hùng (nay là xã Hồng Vân)
gồm 13 đồng chí, được tổ chức biên chế thành 2 tiểu đội. Tiểu đội 1 có 6 đồng chí gồm
Quỳnh Tá (tiểu đội trưởng), Cu Đom (tiểu đội phó), Cu Toanh, Cu Leng, Cu Pưng và
đồng chí Hao. Tiểu đội 2 biên chế gồm 7 đồng chí gồm Cu Xia (tiểu đội trưởng), Cu
Rul, Cu Roát, Cu Lế, đồng chí Xưng (tiểu đội phó), đồng chí Thiêng và đồng chí
Đung. Mỗi tiểu đội được trang bị 2 khẩu tiểu liên Tuyn và 4 khẩu súng trường Mát của
Pháp [21, tr. 64].
Đến cuối năm 1960, bộ đội miền Tây từ 2 Tiểu đội đã phát triển thành 2 trung
đội bộ binh và một tiểu đội hỏa lực cối 60mm và tiểu đội trinh sát do đồng chí Cu Roát
làm tiểu đội trưởng, biên chế đủ quân số, trang bị khá mạnh, gồm:
19
Trung đội 1 (gọi là B40) là trung đội cơ động của huyện do đồng chí Phan làm
trung đội trưởng, đồng chí Cu Đung (Hồ Quyết Đung) làm chính trị viên trung đội.
Sau một thời gian, đồng chí Phan được cấp trên điều động về đồng bằng, đồng chí Cu
Đom (Hồ Quang Tập) được cử làm trung đội trưởng thay thế đồng chí Phan.
Trung đội 2 (gọi là B30) là đơn vị bảo vệ hành lang do đồng chí Thành (Quỳnh
Vả) làm trung đội trưởng, đồng chí Ty Lê làm chính trị viên trung đội.
Tiểu đội hỏa lực cối 60mm biên chế gồm 12 đồng chí, được trang bị 2 khẩu cối
60mm, do đồng chí Cu Thân làm tiểu đội trưởng, đồng chí Cu Lu làm tiểu đội phó [21,
tr. 70].
Cũng trong thời gian này, hệ thống chỉ huy dần dần được hình thành và chấn
chỉnh từ phân khu đến miền, từ miền xuống thôn. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang đã
được Tỉnh ủy xác định: Bảo vệ và mở rộng căn cứ địa miền Tây, kết hợp với lực lượng
chính trị phá ấp chiến lược đồng thời tăng cường phối hợp với chiến trường khu V.
Bên cạnh đó, công tác xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm bộ đội địa phương,
lực lượng du kích được Đảng ủy miền Tây đặc biệt chú trọng và không ngừng được
xây dựng, phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, đồng thời trang bị thêm các loại
vũ khí hiện đại như súng trường, tiểu liên... bên cạnh vũ khí thô sơ, phối hợp chặt chẽ
với bộ đội địa phương luồn rừng đánh địch, diệt ác trừ gian, tạo thế phá ấp chiến lược,
khắc phục tư tưởng coi nhẹ chiến tranh du kích, ỷ lại lực lượng vũ trang bởi “Chiến
tranh du kích tấn công địch lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác trong nước làm cho địch mệt
mỏi. Hình thức đấu tranh đó đã và đang đem lại những kết quả khả quan” [71, tr. 79].
Từ năm 1960 - 1961, tại hầu hết các quận thuộc huyện A Lưới đều thành lập đơn
vị bộ đội từ một trung đội đến một đại đội, tổ chức nhiều trận đánh địch bảo vệ xóm
làng, căn cứ cách mạng. Cụ thể:
Quận I xây dựng một trung đội bộ đội địa phương với 30 chiến sĩ, dân quân du
kích có 302 người trong 8 xã, 37 thôn.
Quận III có một trung đội bộ đội địa phương với 27 chiến sĩ, du kích có 400
người.
Quận IV, có một trung đội bộ đội địa phương và 300 quân du kích [1, tr. 78].
20
Trưởng thành qua từng cuộc đấu tranh, lực lượng vũ trang trên toàn huyện
phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, sức chiến đấu chịu đựng gian
khổ ngày càng nâng cao trong lửa đạn. Những chiến thắng đầu tiên đã cổ vũ thêm cho
niềm tin của đồng bào vào chiến thắng của quân và dân ta, quyết tâm đánh bại kẻ thù
xứng đáng với danh hiệu “bộ đội cụ Hồ”.
Trên cở sở tương quan lực lượng giữa ta và địch cùng với những thuận lợi và khó
khăn trước mắt, Tỉnh ủy Thừa Thiên đưa ra chủ trương tranh thủ thời cơ tiến lên tấn
công địch, không cho chúng ổn định tình hình, tiến công mọi mặt bằng hình thức sáng
tạo của quần chúng trên cả 3 vùng, đặc biệt ở vùng rừng núi. Phát huy sức mạnh của
quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự suy yếu và bế tắt về chính
trị của địch mà tiến công mạnh mẽ làm tan rã và tê liệt chúng cả về chính trị, tư tưởng,
tổ chức, phá ấp chiến lược,chuẩn bị từng bước phá vỡ thế kìm kẹp của địch.
Sau những chuyển biến của phong trào “Đồng khởi” miền núi, đầu năm 1961, đế
quốc Mỹ tiếp tục thực hiện thí điểm những chiến lược chiến tranh mới ở Việt Nam từ
“chiến tranh đặc biệt” đến “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Năm 1961 trở thành mốc đánh dấu cho một cuộc đấu tranh quân sự thực sự ở A
Lưới. Quán triệt chủ trương của Đảng, miền núi phía Tây Thừa Thiên chuyển dần từ
đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự là chủ yếu, phát động quần chúng nổi dậy
đấu tranh vũ trang dưới nhiều hình thức, trong đó chú trọng chiến tranh du kích để bảo
vệ cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng. Trên cơ sở đó, phát triển đường hành lang
chiến lược từ miền núi xuống vùng giáp ranh đồng bằng nhằm giải phóng miền núi và
xây dựng căn cứ địa cách mạng cho toàn tỉnh và cả miền Nam.
Như vậy, vào cuối năm 1960, đầu năm 1961, quân dân huyện A Lưới đã có
những bước chuẩn bị cơ bản đầu tiên và cần thiết nhất cho hoạt động đấu tranh quân
sự trong thời gian tới, quá trình đó tiếp tục được thực hiện song hành với quá trình đấu
tranh cách mạng chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ tại miền núi phía Tây Thừa Thiên.
21
Chương 2
ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961
ĐẾN 1973
2.1. Quá trình đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới
(Thừa Thiên Huế) giai đoạn 1961 - 1968
2.1.1. Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” ở huyện A Lưới
2.1.1.1. Âm mưu của Mỹ ở miền Nam
Mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng
sản ở phía Đông Nam châu Á, trong vòng 6 năm (1954 - 1960) đế quốc Mỹ đã dựng
nên ở đây chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và viện trợ cho chính quyền ấy khoảng
2 tỉ đôla nhằm đàn áp các cuộc đấu tranh hòa bình yêu nước của nhân dân ta ở miền
Nam. Với chiêu bài “tự do” “độc lập”, Mỹ tưởng rằng đã che đậy được bộ mặt xâm
lược của mình và chúng sẽ dễ dàng bình định miền Nam.
Tuy nhiên, đầu năm 1960, nhân dân ta đồng loạt nổi dậy, đánh sập bộ máy cai trị
của đối phương tại nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long,
miền Đông Nam Bộ và một số vùng của các tỉnh khu V, Tây Nguyên. Phong trào
“Đồng khởi” làm tiêu tan hi vọng của để quốc Mỹ, làm rõ bộ mặt tay sai bán nước của
chính quyền Ngô Đình Diệm, tạo ra bước ngoặc làm thay đổi cục diện chiến tranh có
lợi cho cách mạng miền Nam.
Sau khi xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình trong nước và thế giới,
Kennơdi quyết định loại bỏ chiến lược “trả đũa ồ ạt” vì không thể ngăn chặn những
cuộc chiến tranh nổi dậy, tiêu biểu là ở Việt Nam. Chúng chuyển sang chiến lược toàn
cầu do Macxoen Taylor đề xướng - chính sách quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt
này vừa duy trì lực lượng hạt nhân chiến lược, vừa duy trì lực lượng thông thường để
tiến hành các cuộc chiến tranh hạn chế.
Căn cứ vào việc sử dụng lực lượng, các nhà chiến lược quân sự Mỹ phân chiến
tranh hạn chế thành hai hình thức:
22
Một là, hình thức “chiến tranh đặc biệt” trong đó dùng quân bản xứ làm lực
lượng chủ yếu, Mỹ chỉ giữ vai trò cố vấn chỉ huy.
Hai là, hình thức “chiến tranh cục bộ”, trong đó quân Mỹ làm lực lượng chiến
lược trực tiếp tiến hành chiến tranh ngoài lãnh thổ Mỹ. “Hai hình thức chiến tranh này
được Mỹ xem là “lưỡi kiếm” tiến công sắc bén vào mối nguy hiểm nhất đối với thế
giới tự do đó là chủ nghĩa cộng sản, miền Nam Việt Nam trở thành một đối tượng
không nằm ngoài ý đồ của chúng” [12, tr. 12].
Theo đó, đầu năm 1961, Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội
dung dùng người bản xứ đánh người bản xứ với sự chỉ huy của cố vấn quân sự Mỹ.
Chúng lập kế hoạch xây dựng ấp chiến lược, xem nó là quốc sách, tăng cường
xây dựng quân đội tay sai, phát triển các lực lượng quân sự địa phương và lực lượng
bán vũ trang. Với kế hoạch Staley - Taylor, Mỹ đề ra kế hoạch bình định miền Nam
trong vòng 18 tháng bằng biện pháp quân sự là chủ yếu, kết hợp với biện pháp chính
trị và kinh tế.
Tuy nhiên, kế hoạch của Mỹ với chiến lược mới vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ
của nhân dân ta, đặc biệt, cuộc thay ngựa giữa dòng năm 1963 đánh dấu một bước thất
bại của chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, chính quyền tay sai bắt đầu tan
rã, quốc sách ấp chiến lược về căn bản được đập tan. Cách mạng miền Nam đã triển
khai 2 lực lượng chính trị và quân sự rộng lớn với thế tiến công như vũ bão, so sánh
lực lượng và tình thế cách mạng chuyển sang thế chủ động cho ta. Đến đầu năm 1965
ta nắm thế chủ động cả về chính trị lẫn quân sự, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
đế quốc Mỹ bị đập tan.
Không dừng lại ở đó, Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” kèm
theo kế hoạch leo thanh phá hoại miền Bắc nhằm cứu vãn miền Nam trên cơ sở “chiến
tranh đặc biệt”, đây cũng là một trong 2 chiến lược thuộc chính sách hạn chế của Mỹ
vốn đã được đề ra trước đó.
Đây là chiến lược thể hiện sự tự tin và quyết tâm lớn của đế quốc Mỹ muốn sử
dụng biện pháp quân sự để chống lại Việt Nam đến cùng và khẳng định rằng: “Chúng
ta sẽ không bị thất bại… chúng ta sẽ không rút lui hoặc công khai dưới cái bóng của
23
một thỏa hiệp vô nghĩa… Và chúng ta phải chuẩn bị cho một cuộc chiến vẫn tiếp diễn
lâu dài” [13, tr.22].
Ngày 1/5/1965, tướng Oétmolen trình lên Nhà Trắng kế hoạch chiến lược ba giai
đoạn gọi là Chương trình hợp tác gồm ba nội dung tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và
diệt.
Giai đoạn 1: Từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1965 đưa nhanh quân Mỹ
và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam để ngăn chặn chiều hướng sụp đổ của
chính quyền Sài Gòn, bảo đảm an toàn những khu vực đông dân cư, gấp rút triển khai
lực lượng cho cuộc phản công giành lại quyền chủ động trên chiến trường.
Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 6/1966, ra sức mở các cuộc hành quân
tìm diệt phá căn cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình định.
Giai đoạn 3: Từ tháng 7/1966 đến cuối năm 1967, mở các cuộc hành quân tiêu
diệt các lực lượng còn lại của quân giải phóng, rút dần quân Mỹ, quân Việt Nam cộng
hòa, đảm nhận việc bình định.
Để thực hiện các mục tiêu trên, chúng đề ra những biện pháp sau: Thiết lập và
bảo vệ căn cứ quân sự, bảo vệ các thành thị nhất là các thành phố lớn, các cơ quan đầu
não của chính quyền tay sai; khai thông và bảo vệ các đường giao thông huyết mạch;
mở các cuộc hành quân lớn nhằm tìm diệt quân chủ lực để “bẻ gãy xương sống việt
cộng” và đánh phá căn cứ của ta; ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam;
tăng cường ném bom bắn phá miền Bắc. Theo đó“số lượng quân viễn chinh Mỹ, cố
vấn (từ 3 vạn đầu năm 1965 đến cuối năm 1965 tăng lên 20 vạn), máy bay (từ 2.000
chiếc năm 1965 tăng lên 4.000 chiếc năm 1967), số lượng đại bác, xe tăng, bọc thép
sử dụng trong chiến tranh cục bộ tăng lên gấp 3 so với năm 1965” [78, tr. 81].
Như vậy, trong suốt 4 năm (1965 - 1968), từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” -
hình thức xâm lược “giấu mặt trá hình” đến chiến lược “chiến tranh cục bộ”của đế
quốc Mỹ ở Việt Nam đều bị phá sản. Đây là một thất bại chiến lược trong cuộc chiến
tranh Việt Nam dẫn đến tình trạng suy sụp của chính quyền và quân đội Sài Gòn.
Việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước đồng minh vào Nam
Việt Nam tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” đồng thời leo thanh đánh phá
miền Bắc bằng không quân và hải quân nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và
24
quân đội Sài Gòn, giành lại thế chủ động trên chiến trường gặp phải những khó khăn
nhất định khi cách mạng ở miền Nam Việt Nam đã hình thành xong thế bố trí chiến
lược vững chắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta có đủ sức mạnh và niềm tin
đưa cuộc kháng chiến tiến lên.
2.1.1.2. Âm mưu của Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế)
Đầu năm 1961, trước sự tấn công mạnh mẽ và dồn dập của quân dân miền Nam,
đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai lúng túng, bị động chuyển từ hình thức “chiến tranh một
phía” sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội dung là dùng người bản
xứ trị người bản xứ, sử dụng vũ khí và cố vấn Mỹ để tiến hành chiến tranh. Chúng lấy
kế hoạch bình định, gom dân, lập ấp chiến lược hòng tách nhân dân khỏi cách mạng,
tiêu diệt cơ sở cách mạng và khủng bố những người yêu nước.
Đối với chiến trường Trị - Thiên Huế, Mỹ - Diệm ra sức thực hiện kế hoạch bình
định đồng bằng, “lập tuyến phòng ngự để chặn ta ở đường 9 và Tây Trị Thiên đánh
phá miền núi và hành lang chiến lược, với mục tiêu giành lại miền núi” [44, tr. 61].
Riêng ở Thừa Thiên Huế, xét về mặt địa lý quân sự, đây là “một địa bàn chiến
lược phòng thủ tích cực. Tấn công có thể tiến ra biển, lui về phòng thủ đã có rừng núi
hiểm trở, đồng bằng nhiều sông ngòi dễ dàng cho việc tiến thoái theo nhiều ngã và
ngăn chặn bộ binh đối phương tấn công, dễ phục binh. Đây là loại địa bàn phòng thủ
phản công theo lối “thủ diện, công kiên” (giữ vững, đánh mạnh), tương tự địa bàn
Hàm Dương của nước Tần xưa” [28, tr. 3].
Miền núi huyện A Lưới nằm án ngữ ở phía Tây và Tây Nam thành phố Huế, có
đường biên giới với Lào và nằm sát với hệ thống đầu cầu tiếp giáp miền Bắc xã hội
chủ nghĩa. Chính vì vậy, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm âm mưu xây dựng
khu vực này thành một căn cứ biên phòng vững mạnh để hậu thuẫn cho vùng đồng
bằng và thành phố Huế.
Hơn nữa, địa hình A Lưới vốn hiểm trở, có những thung lũng rộng và bằng
phẳng nằm đan xen được bao bọc xung quanh bởi những dãy núi cao trùng điệp, đó là
điều kiện để địch xây dựng đồn bốt, sân bay, căn cứ quân sự để khống chế cũng như
cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam, chặt đứt mắc xích liên
hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
25
Để thực hiện âm mưu đó, chúng chủ động xây dựng tuyến đường 12 từ Tuần đi
Bình Điền và A Lưới (nay là đường 49), đưa Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 chốt giữ
những căn cứ còn lại dọc biên giới Việt - Lào như Nam Đông, Khe Tre, A Co, A So và
A Lưới, đóng thêm những vị trí mới như Tà Lương và Côcava, nhằm biến những vị trí
này thành điểm tựa để phản kích phong trào cách mạng Việt Nam đồng thời khống chế
tuyến hành lang - đường 559 [4, tr. 61].
Bên cạnh đó, chúng tăng thêm quân tại các đồn bốt: căn cứ A So được tăng lên
thành 200 quân, A Lưới có 100 quân. Việc củng cố căn cứ quân sự ở 2 đồn này cũng
được tiến hành bằng các phương tiện cơ giới. Từ các căn cứ đó, những toán biệt kích
người dân tộc thiểu số làm tay sai được tung ra để thăm dò vùng giải phóng, phát hiện
và chỉ điểm cho máy bay địch đánh phá cơ quan, binh trạm của ta. Trong thời gian
này, chất độc hóa học cũng bắt đầu được Mỹ sử dụng nhằm mục đích phát quang rừng
rậm, phá hoại mùa màng cho đồng bào không có điều kiện sinh sống buộc phải chạy
về các khu tập trung.
Như vậy, địch đang cố tìm mọi cách để bao vây, cô lập và đánh chiếm lại miền
Tây, ra sức mở rộng vùng càn quét. Kết hợp giữa hoạt động bộ binh phi pháo, biệt kích
và gián điệp chặt chẽ hơn để đánh phá hậu phương của ta, phá hoại mùa màng,căn cứ,
bảo vệ kế hoạch làm đường của chúng, thực hiện gom dân và lập phòng tuyến biên
giới.
Việc Mỹ và chính quyền tay sai triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bước
đầu gây nên nững khó khăn lớn cho phong trào cách mạng miền Nam nói chung, tỉnh
Thừa Thiên Huế nói riêng, trong đó A Lưới cũng trở thành một trọng điểm trong toàn
bộ kế hoạch tấn công của Mỹ tại Thừa Thiên Huế.
Sau thất bại ở chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, từ giữa năm 1965, Mỹ triển khai
chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, nhưng ở Trị - Thiên, sự có mặt của quân
Mỹ vẫn còn hạn chế, tập trung ở căn cứ Phú Bài và Đồng Lâm. Phải đến giữa năm
1966, khi ta mở mặt trận 9 - Bắc Quảng Trị, Mỹ mới đưa quân vào vùng Trị - Thiên để
đối phó với số lượng không ngừng gia tăng. Trị - Thiên dần trở thành mặt trận chính,
nơi tập trung gần 2 sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ [4, tr. 78].
26
Từ cuối năm 1966, sau khi căn cứ A Lưới và A So bị bị thất thủ, Mỹ ra sức sử
dụng không quân đánh phá miền núi và đường vận tải chiến lược Trường Sơn đồng
thời không ngừng rải chất độc hóa học phục vụ chiến tranh, gây khó khăn cho đời sống
đồng bào huyện A Lưới cũng như phong trào cách mạng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên,
vì là vùng vừa mới giải phóng nên quân và dân huyện A Lưới chưa phải đối mặt với
những cuộc hành quân quy mô lớn của quân đội Mỹ, mặt trận và các đoàn thể ở từng
địa phương, bản làng được xây dựng vững mạnh, tất cả trở thành điểm tựa vững chắc
cho toàn tỉnh cũng như cả nước chiến đấu chống lại âm mưu xâm lược của đế quốc
Mỹ, từng bước giải phóng hoàn toàn miền Nam.
2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thừa Thiên về đấu tranh quân
sự
2.1.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng
Đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” trong bối cảnh miền Nam đang ở
“thời kì tạm ổn của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kì khủng hoảng liên tiếp, suy sụp
nghiêm trọng đã bắt đầu... Các hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã
xuất hiện... mở ra một cao trào cách mạng và ngày càng phát triển mạnh mẽ” [27, tr.
153-157].
Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 24/1/1961 bàn về phương hướng và nhiệm vụ
trước mắt của cách mạng miền Nam như sau:
Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng cả 2 mặt chính trị và quân sự, tập hợp
đông đảo lực lượng cách mạng trong mặt trận dân tộc giải phóng, phát động một
phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh
lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, làm tan rã chính quyền và lực
lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành
lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở
đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ
- Diệm giải phóng miền Nam [27, tr. 159].
Những năm trước “Đồng khởi”, phương châm hoạt động của ta lấy đấu tranh chính trị
làm chủ yếu, sử dụng vũ trang tuyên truyền có mức độ để hỗ trợ cho đấu tranh chính
trị, nay tình hình so sánh lực lượng đã thay đổi, cho nên Bộ Chính trị quyết định thay
đổi phương châm đấu tranh “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy
27
mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả
hai mặt chính trị và quân sự” [4, tr. 62].
Bộ Chính trị đề ra phương châm công tác ba vùng, trong đó “vùng rừng núi lấy
đấu tranh quân sự làm chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng thêm
căn cứ và xây dựng lực lượng của ta” [12, tr. 33].
Đồng thời, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đấu tranh vũ trang trước đây cốt để tự vệ, nay
cần nâng lên thành nhiệm vụ tiến công và tiêu diệt sinh lực địch. Vì vậy, cần phải ra
sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt sinh lực địch... Đi đôi với việc
xây dựng lực lượng vũ trang cần tích cực giải quyết vấn đề trang bị, cung cấp cho bộ
đội” [21, tr. 73-74].
Ngay sau khi Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc ngày 5/8/1964,
Đảng đã dự kiến rồi đây Mỹ sẽ đưa quân đổ bộ vào miền Nam Việt Nam làm cho cuộc
chiến tranh ngày càng ác liệt, quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam với số lượng đông,
nhưng quân đội Sài Gòn vẫn còn là lực lượng lớn, nên cuộc chiến tranh ở miền Nam
lúc đó “Vừa có tính chất chiến tranh cục bộ, vừa có tính chất chiến tranh đặc biệt”
[20, tr. 119].
Theo đó, sau những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại âm mưu của đế
quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), Đảng tiếp tục đề ra
phương hướng, nhiệm vụ để chống lại âm mưu tiếp theo của đế quốc Mỹ trong chiến
lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968). Lúc này, quân Mỹ vào miền Nam trong bối
cảnh ta đang hình thành thế bố trí chiến lược vững chắc và đang ở thế thắng, thế chủ
động nên Đảng nhận định so sánh lực lượng trên chiến trường vẫn không thay đổi.
Đây là một nhận định khoa học và cách mạng làm cơ sở cho Đảng vạch định đường
lối, phương pháp chỉ đạo đúng đắn.
Ở Trị - Thiên, Đảng đã xác định đây là khu đệm, ta tổ chức hoạt động nhỏ lẻ nên
hoạt động quân sự có phần được hạn chế nhất là Đường 9 và biên giới Việt - Lào, nay
bố trí Trung đoàn bộ binh 26 cùng các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị,
Thừa Thiên và bộ đội đặc công thực hiện các trận đánh tiêu diệt đồn bốt địch, mở
vùng, mở mảng, tạo bàn đạp tấn công ở vùng sau lưng địch, đẩy địch vào thế bao vây
bởi những vành đai diệt Mỹ (Phú Bài, Sơn - An - Nguyên…) [11, tr. 39].
28
Đồng thời, Tỉnh ủy liên tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên mở hội nghị thảo luận quán
triệt chủ trương của Đảng và xác định: “Phát triển thế tiến công trên cả 3 vùng, ra sức
tiêu diệt địch, đánh bại các cuộc phản công của chúng, giữ vững những thành quả đã
giành được trong phong trào Đồng khởi, tích cực mở rộng vùng giải phóng” [27, tr.
43].
Ngày 20/7/1965, chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nói rõ quyết tâm của toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân: Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền
Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu, dù phải chiến
đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến
thắng lợi hoàn toàn. Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh như luồng sinh khí mới xua
tan những nỗi lo âu, do dự, làm bừng tỉnh khí thế quyết tâm kháng chiến của dân tộc,
chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ.
2.1.2.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Thừa Thiên
Ngày 27/1/1961, Bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 6 được thành lập. Tỉnh Thừa
Thiên thuộc Khu 5 (trực thuộc Liên khu 5) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp
hành trung ương Đảng. Tháng 2/1961, Liên khu ủy V họp đề ra nhiệm vụ phải làm chủ
vùng rừng núi, củng cố và xây dựng căn cứ địa cách mạng, giành lại đồng bằng, tiêu
diệt sinh lực địch. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Vùng căn cứ rừng núi đấu tranh vũ
trang là chủ yếu, vùng đồng bằng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang có thể
ngang nhau, vùng đô thị đấu tranh bằng ba mũi giáp công đó là chính trị, vũ trang kết
hợp binh vận” [21, tr. 74].
Là một Quân khu tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu ủy 5 sau khi nghiên cứu, quán triệt chủ trương của
Đảng đã quyết định: “Đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị và quân sự, nhằm tiếp
tục mở rộng và củng cố căn cứ địa miền núi, xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững
chắc, kiên quyết phá thế kìm kẹp ở đồng bằng, phát động vài tổ chức quần chúng, đưa
phong trào đồng bằng tiến lên” [25, tr. 178].
Riêng tại Thừa Thiên Huế, để đối phó vói âm mưu của đế quốc Mỹ, dưới ánh
sáng nghị quyết của Bộ Chính trị, từ ngày 21 đến ngày 26/4/1961, đại hội Đảng bộ
29
tỉnh Thừa Thiên Huế đã họp tài chòi Con Hiên, làng Tà Pat với sự tham dự của 52 đại
biểu [2, tr. 63].
Nhiệm vụ của đại hội là vạch ra phương hướng lãnh đạo nhân dân vùng lên
chống phá ấp chiến lược, nhanh chóng phát triển lực lượng, tiến công từ rừng núi
xuống đồng bằng, đẩy mạnh tuyên truyền và hoạt động vũ trang, xây dựng cơ sở chính
trị rộng rãi, kiên quyết giành dân, giành quyền làm chủ, đưa chiến tranh cách mạng
phát triển lên bước mới, đưa phong trào cách mạng của tỉnh tiến kịp phong trào khu
vực và toàn miền Nam. Đại hội cũng đã nhấn mạnh: vận dụng linh hoạt ở vùng núi,
đấu tranh quân sự là chủ yếu, vùng ráp gianh và đồng bằng đẩy mạnh đấu tranh chính
trị, hạ quyết tâm nhanh chóng tạo thế liên hoàn giữa ba vùng chiến lược.
Đối với Liên tỉnh I, chủ yếu là Quảng Trị và Thừa Thiên, hội nghị mở rộng Khu
ủy V (7/1963) chỉ đạo ở vùng căn cứ miền núi “cần tiếp tục phát triển du kích chiến
tranh rộng khắp, đẩy mạnh xây dựng chính trị và kinh tế, ra sức giữ vững và củng cố
căn cứ, giữ vững hành lang”. Trong nhiệm vụ giữ vững vùng hành lang, cần:
Ra sức xây dựng hành lang vững mạnh, giữ vững hành lang thông suốt để
đáp ứng kịp nhu cầu cách mạng ngày càng to lớn hơn. Hướng xây dựng hành
lang sắp đến là tích cực xây dựng hành lang thường trực, tức là các đội vận tải
chuyên môn được quân sự hóa ở các trạm để bảo đảm vận chuyển thường xuyên
và giữ bí mật cho hành lang. Dựa vào việc giải quyết một phần khó khăn cho đời
sống nhân dân gần hành lang và công tác chính trị trong nhân dân mà gây quan
hệ tốt với nhân dân dọc hành lang, tạo ra cơ sở chính trị vững chắc dọc hành
lang, phối hợp với du kích địa phương chống địch càn quét, biệt kích để bảo vệ
hành lang, bảo vệ kho tàng [4, tr. 64].
Tiếp đó, hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965), nghị
quyết Quân ủy trung ương đã đề ra nhiệm vụ mới khi đối đầu với địch ở “chiến tranh
cục bộ”, xác định phương hướng tác chiến, lấy chiến trường miền núi làm chiến
trường chính tiêu diệt địch mà trọng điểm là Tây Nguyên và miền Tây Nam Bộ, chủ
trương đánh mạnh địch ở Liên khu V. Đặc biệt, phải làm chuyển biến chiến trường Trị
Thiên - Huế thành hướng chiến lược quan trọng để phối hợp với các chiến trường khác
trong toàn miền và đảm bảo chi viện cho miền Nam.
30
Nằm ở phía Tây Thừa Thiên với tầm chiến lược quan trọng, miền núi huyện A
Lưới nhanh chóng được đưa vào quỹ đạo chiến tranh bởi những âm mưu của đế quốc
Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Đảng ủy miền Tây, quân và dân
A Lưới đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, vừa đấu tranh du kích chống lại
những cuộc càn quét của địch, vùa làm nhiệm vụ hậu phương và căn cứ địa vững chắc
cho toàn tỉnh nói riêng và toàn miền Nam nói chung, góp phần đánh bại chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ.
2.1.3. Quân dân A Lưới đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh
cục bộ” và giải phóng A So
Sau khi phong trào “Đồng khởi” ở miền Tây Thừa Thiên nổ ra và giành được
thắng lợi cũng chính là lúc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền
Nam Việt Nam. Điều khiến cho Mỹ lo lắng nhất sau thất bại của “chiến tranh đơn
phương” là các cuộc tiến công quân sự kết hợp đấu tranh chính trị của quân dân miền
Nam gia tăng ở các vùng nông thôn, đô thị và rừng núi, làm cho quân đội Sài Gòn mất
thế chủ động. Chính vì thế Mỹ tăng cường các biện pháp quân sự mạnh hơn nữa khi
đưa vào miền Nam Việt Nam, ½ quân sự đặc nhiệm gồm 6.000 - 8.000 quân dưới sự
chỉ đạo của Mỹ để chuẩn bị cho các cuộc hành quân mang tính chất tiến công.
Để đối phó với âm mưu của địch, miền núi A Lưới liên tục tiến hành những cuộc
đấu tranh quân sự, chủ yếu là phong trào đấu tranh du kích chống phá các cuộc hành
quân, càn quét của đế quốc Mỹ, làm tiêu hao sinh lực địch. Đấu tranh du kích trở thành
phát súng mở đầu cho những trận chiến có quy mô rộng lớn và quan trọng hơn. Dưới
sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức nhiều
trận phục kích, tập kích bắn tỉa, đập tan âm mưu càn quét, tập trung dồn dân vào các
ấp chiến lược của địch.
Mở đầu phong trào đánh địch bằng vũ khí hiện đại (súng đạn) du kích xã Hồng
Bắc phối hợp với bộ đội miền Tây đánh chặn quân địch từ đồn A Lưới khi chúng cho
quân lính càn quét vào các xã. Tại khe A Nô, các đồng chí Vạn, Đài chỉ huy tập kích
vào đội hình địch, tiêu diệt tại chỗ 18 tên, làm bị thương nhiều tên khác. Qua trận này,
ta đã đẩy lùi được cuộc càn quét quy mô lớn của địch, gây tâm lí hoang mang lo sợ
cho binh lính địch đang chiếm đóng ở các đồn xung quanh, tạo khí thế vùng lên tấn
31
công kẻ thù trên toàn miền. Tỉnh và Quân khu đã kịp thời khen thưởng du kích xã
Hồng Bắc [1, tr. 79].
Tháng 2/1961, tổ tự vệ xã Hồng Quảng phục kích đánh tan một đơn vị quân đội
tay sai khi chúng tiến hành càn quét thôn A Dơn, tiêu diệt và làm bị thương 40 tên.
Tháng 10/1961, một trung đoàn địch mở các cuộc càn quét lớn lên vùng A Lưới,
bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức chống càn tiêu diệt 187 tên, làm bị
thương 89 tên khác [1, tr. 79].
Để củng cố và phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với miền núi,
tháng 4/1961, Đảng ủy miền Tây đã tổ chức đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ xây
dựng miền núi vững mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, tạo thế và lực cho phong trào
ở đồng bằng, thành thị phát triển. Đại hội cũng bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới
gồm 7 đồng chí: Ăm Mật, Nhà Hoài, Cu Đàng, Lợi, Dũng, Cu Tên, Mùi.
Lúc này, phong trào đấu tranh quần chúng phát triển nhanh chóng, đặc biệt là đấu
tranh du kích đánh địch chỉ bằng vũ khí thô sơ như chông, bẫy phát triển mạnh mẽ ở 3
quận, nhiều trận đánh công đồn, phục kích của bộ đội địa phương, du kích đã làm tiêu
hao sinh lực địch, chặn đánh âm mưu dồn dân vào các ấp chiến lược, phá hoại mùa
màng của chúng. Điển hình là trận đánh ngày 11/4/1961 do đồng chí Cu Hả (Võ Sĩ
Đài), Cu Pả và đồng chí Ban chỉ huy xã đội Phong Bình, Phong Lâm trực tiếp chỉ huy
bộ đội địa phương và dân quân du kích bố trí ở A Rom 7 hầm bẫy quay và ở Pa Đuh
một dàn bẫy bay gồm 40 cần để đón đánh địch từ đồn A Lưới càn quét lên Phong Lâm.
Kết quả, ta đã tiêu diệt tại chỗ 11 tên, làm bị thương 2 tên khác [21, tr. 77].
Bị tổn thất, địch buộc phải bỏ dỡ cuộc càn, rút lui về đồn A Lưới. Hân hoan trước
những thắng lợi ban đầu, phong trào xây dựng làng chiến đấu được phát động khắp các
quận miền núi.
Để có nhiều vũ khí phục vụ cho nhiệm vụ đánh địch lâu dài, lãnh đạo chỉ huy
thôn, bản, xóm, xã vừa tổ chức vận động, vừa giao chỉ tiêu cho cán bộ, chiến sĩ, dân
quân du kích và nhân dân mỗi đêm phải vót bằng được 300 mũi chông/người đối với
nam và 150 mũi chông/người đối với nữ. Tháng 7/1961, làng chiến đấu đầu tiên được
xây dựng ở xóm A Cuôn, xã Phong Lâm, sau đó phát triển ra toàn huyện [21, tr. 78].
32
Ngày 10/3/1962, Ban chỉ huy xã đội xã Hồng Bắc bố trí 7 đồng chí du kích do
đồng chí Hồ Đức Vai chỉ huy tập kích vào đồn A Lưới. Rạng sáng ngày 11/3/1962, ta
nổ súng trực tiếp vào đội hình của địch khi chúng đang tập thể dục buổi sáng. Kết quả
tiêu diệt được 30 tên và làm bị thương nhiều tên khác. Trận đánh thu được nhiều thắng
lợi lớn khiến quân địch trong đồn A Lưới hoảng loạn về tinh thần, lo sợ bị tấn công bất
ngờ nên không giám tổ chức các cuộc càn quét vào những khu vực xung quanh.
Ngày 20/3/1962, du kích Hồng Bắc bố trí một tiểu đoàn do đồng chí Kăn Lịch
chỉ huy tập kích bao vây đồn A Lưới. Đến rạng sáng ngày 22/3/1962, ta bắn rơi một
chiếc máy bay địch khi mới vừa cất cánh, đồng thời kết hợp đánh bộ binh, tấn công
vào đồn, kết quả ta tiêu diệt được 12 tên. Đây là trận đầu tiên ta đánh rơi máy bay địch
ngay tại đồn A Lưới. Thắng lợi này đã tạo nên không khí thi đua giết giặc lập công
trên toàn miền [1, tr. 83].
Liên tiếp thất bại trong âm mưu dồn dân vào các ấp chiến lược đã dựng sẵn, lúng
túng trước sự đáp trả của đồng bào ta bằng các cuộc đấu tranh du kích ngay trong đồn
trú của quân Mỹ, trong năm 1962, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tiếp tục
mở hàng loạt cuộc càn quét với quy mô lớn. Ngày 29/5/1962, hai tiểu đoàn bộ binh
địch càn quét vào vùng căn cứ A Lưới. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích trên địa
bàn huyện đã anh dũng chống càn, chặn đánh địch ngay từ đầu để bảo vệ an toàn căn
cứ địa.
Sau gần 1 tháng càn quét không thành, địch buộc phải rút khỏi A Lưới đồng thời
đóng thêm căn cứ ở các vị trí A Cò, Ta Pat, đường A So, A Lưới đi Tuần (quận Nam
Hòa), riêng khu vực đồn A Co chúng cho xây dựng 4 lô cốt, mỗi lô cốt địch bố trí từ 7
đến 12 tên [1, tr. 83-84].
Nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh trong toàn tỉnh phát triển đúng hướng, ngày
24/6/1962, Hội nghị quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế họp xác định phương châm tác
chiến của lực lượng vũ trang trong thời gian tới. Nội dung hội nghĩ nêu rõ: “Lấy chiến
tranh du kích là chính, đánh nhỏ ăn chắc, không dốc hết lực lượng và vũ khí lớn; quán
triệt tư tưởng tích cực tiêu diệt, làm tiêu hao sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của
ta” [21, tr. 82].
33
Ngoài ra cần phải tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích ở miền núi, bảo vệ căn
cứ, tăng cường hoạt động ở vùng giáp ranh và đồng bằng với mức độ thích hợp, hỗ trợ
đắc lực cho phong trào đấu tranh quần chúng; phối hợp với các mặt trận khác nới lỏng
thế kìm kẹp của địch, chống phá việc lập ấp chiến lược, khẩn trương xây dựng lực
lượng đủ sức làm nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài và sẵn sàng khi thời cơ đến thì
tổ chức tiến công.
Ngày 26/2/1963, tổ du kích đồng chí Mía bắn rơi một máy bay địch ở đồn A So,
mở ra một phong trào thi đua bắn máy bay địch trong các xã. Nổi bật có nữ đồng chí A
Keng là người phụ nữ đầu tiên bắn rơi máy bay địch ở thôn Ta Pát, xã Hồng Thượng.
Tháng 3/1963, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đưa quân đóng thêm
đồn dã chiến ở đồi Đồn Xang 1 (xã Hương Lâm) với ý đồ cắt đứt giao thông liên lạc
của ta, tấn công phá hủy kho tàng, làng xã chiến đấu [1, tr. 87].
Về phía địch, chỉ tính riêng trong năm 1963, chúng đã tiến hành 13 cuộc càn
quét, biệt kích nhỏ với lực lượng từ 1 đại đội đến 1 tiểu đoàn vào các xã Hồng
Thượng, Hồng Hạ, Hồng Bắc, Hương Lâm với thời gian từ 1 đến 4 ngày, trong đó có
một cuộc đổ bộ bằng trực thăng vào Hồng Bắc với lực lượng khoảng 1 tiểu đoàn [63].
Cũng trong thời gian này, về phía ta, ở các xã đều có ít nhất 2 tiểu đội du kích,
bên cạnh những vũ khí thông dụng như súng trường, tiểu liên, còn được trang bị súng
cối 61, 81...
Hơn nữa, để phối hợp với đồng bằng, bộ đội và du kích địa phương tăng cường
tổ chức chống càn, đánh bom biệt kích, chủ yếu là bao vây đánh địch xung quanh vị trí
các đồn bốt, tổng cộng có 42 trận lớn nhỏ, diệt 78 tên, thu 1 máy bộ đàm tại 3 quận
miền núi, cụ thể như sau:
Quận I: Đánh 13 trận, giết chết 18 tên, làm bị thương 3 tên.
Quận III: Đánh 14 trận, diệt 26 tên, làm bị thương 3 tên, thu một máy bộ đàm và
một số quân trang.
Quận IV: Đánh 15 trận, diệt 34 tên, làm bị thương 4 tên [50].
Với kết quả đạt được, phong trào đấu tranh du kích đã nhanh chóng làm tiêu hao
số lượng lớn sinh lực địch. Bên cạnh đó, cao trào thi đua bắn máy bay địch rộ lên trong
34
lực lượng du kích. Trên toàn huyện đã xuất hiện nhiều tay thiện xạ như Cu Tríp, nổi
bật hơn cả là chị Kăn Lịch đã bắn cháy máy bay địch trong trận đồn A Lưới.
Bước sang năm 1964, địch huy động lực lượng ở đồng bằng lên miền núi A
Lưới, kết hợp với binh lính đã bố phòng sẵn ở đồn A Lưới tổ chức cuộc càn quét ác
liệt ở Thượng Ninh (khu vực 2 xã Hồng Nam, Hồng Bắc). Trận càn quét này kéo dài
đến 5 ngày, dưới sự chỉ đạo của anh hùng Hồ Đức Vai, lực lượng du kích đã đánh tan
cuộc càn quét của địch, tiêu diệt hơn một tiểu đội, thu nhiều chiến lợi phẩm.
Tại A Lưới, tình hình quân địch không mấy khả quan, những cuộc hành quân,
càn quét của chúng không mang lại hiệu quả như mong đợi, tất cả đều bị quân du kích
và bộ đội địa phương chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải co cúm cố thủ. Các hầm
chông của ta lúc này phát huy tác dụng hơn bao giờ hết, địch bị khép kín hoàn toàn
trong vòng vây rồi nhanh chóng bị tiêu diệt. Cuối cùng, khi không thể tiếp tục kháng
cự, địch rút khỏi đồn đóng quân.
Đến tại thời điểm này, trong vòng 4 năm (1962 - 1965), lực lượng du kích đã
phối hợp với bộ đội địa phương đánh 3.677 trận, tiêu diệt hàng nghìn tên địch, bắn rơi
21 máy bay [21, tr. 99].
Như vậy, nhân dân miền núi phía Tây Thừa Thiên đã thực hiện hiệu quả chủ
trương xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang vừa bảo vệ hành lang chiến lược,
giữ vững căn cứ địa cách mạng vừa tiến công địch ở vùng giáp ranh. Đồng bào huyện
A Lưới hăng hái gia nhập vào lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích. Chỉ
trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang ở miền núi A Lưới đã tổ chức tấn công,
chống càn, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phá tan kế hoạch dồn dân, lập ấp
chiến lược đồng nghĩa với việc góp phần đánh bại âm mưu của chúng trong chiến lược
“chiến tranh đặc biệt”.
Trước những thất bại nặng nề về quân sự kéo dài cũng như khủng hoảng về chính
trị và những đòn đả kích của toàn thể nhân dân miền Nam chống chính quyền Ngô
Đình Diệm, đế quốc Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng”. Mỹ thực hiện cuộc đảo
chính mong cải thiện được tình thế nguy nan trước mắt cũng như tình hình về sau của
chính quyền Sài Gòn. Lợi dụng điều đó, ta càng đẩy mạnh hơn nữa việc đánh phá các
35
ấp chiến lược, phá vỡ thế kìm kẹp, nhanh chóng tạo thế tiến lên kết hợp đấu tranh quân
sự phối hợp với phong trào quần chúng giành lại nông thôn đồng bằng.
Cùng lúc này, tổng thống Mỹ Kennơdi bị ám sát, tổng thống Giônxơn lên thay đã
tiếp tục đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” lên cao với những chủ trương, biện pháp
quyết liệt hơn như: tăng cường quân đội yểm trợ và cố vấn Mỹ, gia tăng hoạt động
quân sự về số lượng cũng như trang bị phương tiện kĩ thuật hiện đại đồng thời tăng
cường phối hợp vói phái hữu Lào và sử dụng hạm đội 7 để bịt vùng biên giới, giới
tuyến và vùng biển nhằm cô lập cách mạng miền Nam với quyết tâm giành thắng lợi
trong hai năm 1964 và 1965. Chúng coi việc đánh phá hành lang chiến lược là chính
sách số một.
Ở Trị - Thiên Huế, trong và sau cuộc đảo chính, địch luôn đề phòng lực lượng
cách mạng từ miền Bắc xuống đồng bằng nên chúng tăng thêm nhiều quân ra đường số
9 và A Sầu, A Lưới, đặc biệt hơn là tăng cường lực lượng không quân oanh tạc miền
Tây Thừa Thiên, kiểm soát ngày đêm vùng hành lang biên giới, ngăn chặn vùng giáp
ranh, dùng chất độc hóa học để khai quang thêm các trục hành lang ngang dọc.
Trước nguy cơ sụp đổ của quân đội tay sai, tổng thống Giônxơn quyết định dùng
không quân mở chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, quyết định đổ bộ quân Mỹ vào miền
Nam, chuyển dần chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục
bộ”.
Ở Trị - Thiên, địch huy động hơn 2.000 lính viễn chinh Mỹ có nhiệm vụ xây
dựng căn cứ, kho tàng và làm chỗ dựa cho quân đội tay sai gồm 8 tiểu đoàn bộ binh, 3
tiểu đoàn pháo, 4 chi đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội hải thuyền, 23
đại đội bảo an, 100 trung đội dân vệ, 3 tiểu đoàn cảnh sát, 34 đoàn bình định cùng các
đảng phái phản động, gián điệp, mật vụ... chuẩn bị kế hoạch phản kích đánh phá phong
trào cách mạng, tiêu diệt lực lượng của ta [21, tr. 101].
Riêng tại địa bàn miền Tây Thừa Thiên, để phá hoại căn cứ địa, ngăn chặn sự chi
viện của miền Bắc đối với miền Nam,tiêu diệt bộ đội chủ lực, phá thế đứng ba chân
của ta, ngay từ cuối 1965, đầu năm 1966, địch ra sức tăng cường cho đồn A Lưới, A
So, Khe Tre, Nam Đông. Đến cuối năm 1965, số lượng địch trong đồn tăng vọt, tại
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973
Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973

More Related Content

What's hot

Chương 2.pdf
Chương 2.pdfChương 2.pdf
Chương 2.pdfPhamBaNam
 
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptx
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptxLỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptx
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptxQuynlng7
 
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơ
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơCơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơ
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơHuynh ICT
 
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...anh hieu
 
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdf
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdfChương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdf
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdfTrnThanhHiu
 
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt NamChủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt NamYenPhuong16
 
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939quoctuongdoan740119
 
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới)
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới) VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới)
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới) Hiền Hoàng
 
Thuyet trinh
Thuyet trinhThuyet trinh
Thuyet trinhPhạm Ly
 
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tại
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tạiTiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tại
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tạiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyết
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyếtBiển Đông, hiện trạng và hướng giải quyết
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyếtTuong Do
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Kỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKien Thuc
 
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
đề Thi thực hành văn bản tiếng việt
đề Thi thực hành văn bản tiếng việtđề Thi thực hành văn bản tiếng việt
đề Thi thực hành văn bản tiếng việtlimsea33
 
Tình dục và bạn trẻ
Tình dục và bạn trẻTình dục và bạn trẻ
Tình dục và bạn trẻThien Pham
 

What's hot (20)

Chương 2.pdf
Chương 2.pdfChương 2.pdf
Chương 2.pdf
 
Chien dich dien bien phu
Chien dich dien bien phuChien dich dien bien phu
Chien dich dien bien phu
 
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptx
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptxLỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptx
LỊCH SỬ ĐẢNG 27- NHÓM 3.pptx
 
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơ
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơCơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơ
Cơ sở văn hóa Việt Nam - Đặc trưng về giáo dục và nghệ thuật thời Lê sơ
 
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
Nghiên cứu về từ loại danh từ động từ tính từ đại từ quan hệ từ trong chương ...
 
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdf
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdfChương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdf
Chương 1 Đối tượng, phương pháp NC KTCT.pdf
 
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà NộiLuận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
 
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt NamChủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
Chủ nghĩa Mác- Lênin về thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam
 
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
Đường lối ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1936 - 1939
 
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới)
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới) VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới)
VĂN MINH ĐÔNG NAM Á ( Lịch sử văn minh thế giới)
 
Thuyet trinh
Thuyet trinhThuyet trinh
Thuyet trinh
 
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tại
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tạiTiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tại
Tiểu luận ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam hiện tại
 
Quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đấtQuy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất
 
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyết
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyếtBiển Đông, hiện trạng và hướng giải quyết
Biển Đông, hiện trạng và hướng giải quyết
 
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộcTiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
Tiểu luận Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề giải phóng dân tộc
 
Kỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lôngKỹ thuật đánh cầu lông
Kỹ thuật đánh cầu lông
 
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...
Luận án: Căn cứ kháng chiến Khu Sài Gòn – Gia Định (1954-1975) - Gửi miễn phí...
 
đề Thi thực hành văn bản tiếng việt
đề Thi thực hành văn bản tiếng việtđề Thi thực hành văn bản tiếng việt
đề Thi thực hành văn bản tiếng việt
 
Tình dục và bạn trẻ
Tình dục và bạn trẻTình dục và bạn trẻ
Tình dục và bạn trẻ
 
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đLuận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
Luận văn: Động cơ hiến máu nhân đạo của sinh viên, HAY, 9đ
 

Similar to Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973

Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinhphuongtrinhlh
 
10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinhphuongtrinhlh
 
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973 (20)

Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) ...
 
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào công nhân ở miền nam trong kháng chiến chống Mỹ
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy (Quảng Bình) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ...
 
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nướcLuận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Luận văn: Nhân dân Lệ Thủy trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
 
Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống MỹChiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
Chiến tranh nhân dân ở Quảng Bình trong kháng chiến chống Mỹ
 
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung BộLuận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
Luận án: Cách mạng tháng Tám 1945 ở các tỉnh Bắc Trung Bộ
 
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAYXây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
Xây dựng hậu phương chi viện trong kháng chiến chống Pháp, HAY
 
LV: Đảng bộ tỉnh lãnh đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến
LV: Đảng bộ tỉnh lãnh đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyếnLV: Đảng bộ tỉnh lãnh đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến
LV: Đảng bộ tỉnh lãnh đạo xây dựng hậu phương chi viện cho tiền tuyến
 
10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh
 
10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh10 năm tai lap tinh
10 năm tai lap tinh
 
Đấu tranh ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
Đấu tranh ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống MỹĐấu tranh ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
Đấu tranh ở Quảng Nam - Đà Nẵng trong kháng chiến chống Mỹ
 
Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
Xây dựng hậu phương chi viện kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)
 
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh HòaTổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
Tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính Khánh Hòa
 
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chínhLuận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
Luận văn : Tổ chức và hoạt động của Ủy Ban Kháng Chiến hành chính
 
THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ X...
THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ X...THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ X...
THANH HÓA TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG NGUYÊN - MÔNG VÀ CHỐNG CHIÊM THÀNH (THẾ KỶ X...
 
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - MôngLuận văn: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông
 
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua za...Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua za...
Luận văn: Thanh Hóa trong cuộc chống Nguyên - Mông, HAY - Gửi miễn phí qua za...
 
Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
Luận văn: Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng ch...
 
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống MỹPhong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Phong trào sinh viên, học sinh ở các đô thị miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ
 
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
Tổ Chức Và Hoạt Động Của Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chính Tỉnh Khánh Hòa Từ Thán...
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562

Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

More from Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562 (20)

Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
Nghiên Cứu Thu Nhận Pectin Từ Một Số Nguồn Thực Vật Và Sản Xuất Màng Pectin S...
 
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
Phát Triển Cho Vay Hộ Kinh Doanh Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông...
 
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.docNghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
Nghiên Cứu Nhiễu Loạn Điện Áp Trong Lưới Điện Phân Phối.doc
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Kinh Doanh Của Các Công Ty Ngành...
 
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.docXây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
Xây Dựng Công Cụ Sinh Dữ Liệu Thử Tự Động Cho Chương Trình Java.doc
 
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.docPhát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
Phát Triển Công Nghiệp Huyện Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam.doc
 
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
Phát Triển Kinh Tế Hộ Nông Dân Trên Địa Bàn Huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình...
 
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
Vận Dụng Mô Hình Hồi Quy Ngưỡng Trong Nghiên Cứu Tác Động Của Nợ Lên Giá Trị ...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Cấu Trúc Vốn Của Doanh Nghiệp Ngành Hàng...
 
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
Nghiên Cứu Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hiệu Quả Kinh Doanh Của Các Doanh Nghiệp...
 
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
Hoàn Thiện Công Tác Thẩm Định Giá Tài Sản Bảo Đảm Trong Hoạt Động Cho Vay Tại...
 
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
Biện Pháp Quản Lý Xây Dựng Ngân Hàng Câu Hỏi Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tậ...
 
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
Hoàn Thiện Công Tác Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi ...
 
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.docÁnh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
Ánh Xạ Đóng Trong Không Gian Mêtric Suy Rộng.doc
 
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
Giải Pháp Hạn Chế Nợ Xấu Đối Với Khách Hàng Doanh Nghiệp Tại Ngân Hàng Thương...
 
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
Hoàn Thiện Công Tác Đào Tạo Đội Ngũ Cán Bộ Công Chức Phường Trên Địa Bàn Quận...
 
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
Giải Pháp Marketing Cho Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Tmcp Hàng Hải...
 
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
Biện Pháp Quản Lý Công Tác Tự Đánh Giá Trong Kiểm Định Chất Lượng Giáo Dục Cá...
 
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
Kiểm Soát Rủi Ro Tín Dụng Trong Cho Vay Ngành Xây Dựng Tại Nhtmcp Công Thương...
 
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.docDiễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
Diễn Ngôn Lịch Sử Trong Biên Bản Chiến Tranh 1-2 -3- 4.75 Của Trần Mai Hạnh.doc
 

Recently uploaded

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973

  • 1. i BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN THỊ ÁI VÂN ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961 ĐẾN 1973 Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60220313 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Người hướng dẫn khoa học: TS: NGUYỄN TẤT THẮNG THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2016
  • 2. ii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả và số liệu nghiên cứu trong luận văn là trung thực, được các tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kì một công trình nào khác. Họ và tên tác giả Trần Thị Ái Vân
  • 3. iii LỜI CẢM ƠN Bằng tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng cảm ơn Ts. Nguyễn Tất Thắng - Người thầy đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban chủ nhiệm, các thầy cô giáo trong Khoa Lịch sử, Phòng đào tạo Sau đại học, Trung tâm thư viện - Trường Đại học Sư phạm Huế; trung tâm thư viện trường Đại học Khoa học Huế, thư viện Tổng hợp tỉnh tỉnh Thừa Thiên Huế đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài. Tôi cũng xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Trung tâm lưu trữ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân huyện A Lưới, Đại tá Hồ Mạnh Khóa cùng các bạn học viên đã hỗ trợ và tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình thu thập và tìm kiếm tư liệu cần thiết liên quan đến đề tài nghiên cứu. Do điều kiện và thời gian hạn hẹp và đang trong quá trình thực tập nghiên cứu khoa học cho nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của quý thầy cô và các bạn để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Huế, tháng 10 năm 2016 Tác giả Trần Thị Ái Vân
  • 4. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong hơn 20 năm chiến đấu, hi sinh vì độc lập và tự do của tổ quốc (1954 - 1975), dân tộc Việt Nam dù “Kinh hay Thượng”, đồng bào miền Nam hay miền Bắc đều đã trải qua nhiều thử thách khốc liệt của cuộc chiến tranh, chịu nhiều tổn thất khi phải đối đầu với một cường quốc theo đuổi chiến lược toàn cầu như đế quốc Mỹ. Sau khi thay chân thực dân Pháp thống trị miền Nam, Mỹ đã ráo riết thực hiện âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng nhằm chia cắt lâu dài đất nước ta. Lúc này, Thừa Thiên Huế là trung tâm chính trị thứ hai ở miền Nam sau Sài Gòn tiếp giáp với miền Bắc được Mỹ dựng lên một bộ máy cai trị cấp miền nhằm mục đích kiểm soát và kìm kẹp nhân dân ta. Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ địa cách mạng vững chắc làm chỗ dựa cho đồng bằng. Nằm ở phía Tây Thừa Thiên Huế với vị trí chiến lược quan trọng, A Lưới1 nhanh chóng trở thành một chiến trường lớn của tỉnh và cả nước, từng được các cơ quan Tỉnh ủy, Khu ủy Trị - Thiên, các Binh đoàn, Sư đoàn chủ lực… đóng quân. Gần nửa thế kỷ đã qua, kể từ khi những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của Đoàn 559 mò mẫm giữa đại ngàn Trường Sơn soi đường tìm lối về Nam, A Lưới cũng trở thành thành một địa điểm then chốt trên trục đường Hồ Chí Minh huyền thoại, nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh đẫm máu, những cái chết bi thương của chiến sĩ và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn qua các cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã cho thấy rằng: bên cạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao thì đấu tranh quân sự là nhân tố quyết định trực tiếp đến thành bại của cuộc chiến tranh. Do vậy, việc nghiên cứu phong trào đấu tranh quân sự ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973, khi Mỹ thực hiện liên tiếp chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968) và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1972) là một việc làm có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. 1 Huyện A Lưới tiền thân có 3 quận: Quận 1, Quận 3, Quận 4 gồm các dân tộc anh em cùng sinh sống đó là Pakô, Katu, Pahy.... Đây là địa bàn có truyền thống cách mạng, một căn cứ địa quan trọng của Khu ủy và Quân khu Trị - Thiên trong kháng chiến chống Mỹ
  • 5. 2 Về ý nghĩa khoa học, nghiên cứu đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973 giúp ta hiểu rõ hơn về quá trình chiến đấu anh dũng của quân và dân huyện A Lưới. Qua đó làm sáng tỏ thêm tính chất phức tạp, quyết liệt của phong trào đấu tranh cách mạng ở miền núi, khẳng định về vai trò lãnh đạo của Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã vạch ra đường lối, chủ trương, phương pháp đấu tranh phù hợp, đúng đắn và kịp thời. Về ý nghĩa thực tiễn, nghiên cứu phong trào đấu tranh quân sự ở huyện A Lưới từ 1961 đến 1973 góp phần cung cấp những bài học kinh nghiệm về đấu tranh quân sự ở miền núi trong sự nghiệp giữ nước và bảo vệ tổ quốc đồng thời góp thêm nguồn tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, giáo dục truyền thống cách mạng cho nhân dân huyện A Lưới, đặc biệt là thế hệ thanh thiếu niên nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông, yêu quê hương, đất nước. Hiện nay, mảnh đất vùng cao A Lưới đang đổi thay từng ngày, việc tìm hiểu phong trào đấu tranh quân sự cũng gắn liền với quá trình hình thành các di tích lịch sử cách mạng, từ đó hệ thống hóa đầy đủ hơn các di tích lịch sử, cung cấp thêm những tư liệu hữu ích phục vụ cho hoạt động du lịch của địa phương. Từ những lí do trên, với sự hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Tất Thắng, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Sử học thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đấu tranh quân sự ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế), mỗi đề tài đề cập đến những khía cạnh khác nhau. Cụ thể có các công trình nghiên cứu sau: Đầu tiên, vào năm 1997, những anh hùng lực lượng vũ trang đã từng chiến đấu kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Hồ Vai, Kăn Lịch cùng tác giả Hồ Phương đã viết nên cuốn tiểu thuyết mang tên “Hồ Vai, Kăn Lịch” kể về cuộc đời và quá trình đấu tranh gian nan trong chặng đường đánh Mỹ ở miền núi A Lưới.
  • 6. 3 Tiếp theo, phải kể đến công trình “Lịch sử Đảng bộ huyện A Lưới” xuất bản năm 1998 đã đề cập đầy đủ và bao quát nhất về lịch sử hình thành, điều kiện tự nhiên, xã hội, dân cư, truyền thống đấu tranh cách mạng, công cuộc đổi mới của huyện nhà. Bên cạnh đó, cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế” cũng đã trình bày sơ lược quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường của đồng bào miền núi Thừa Thiên. Đặc biệt phải kể đến Luận văn Thạc sĩ sử học của tác giả Lê Viết Xuân với đề tài “Đồng bào các dân tộc thiểu số mang họ Hồ ở A Lưới - Thừa Thiên Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”. Đây là công trình đã dựng lại một bức tranh khá toàn diện về những đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc A Lưới trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Ngoài ra, trong tác phẩm “Địa chí Thừa Thiên Huế”, phần Lịch sử của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế do Nguyễn Văn Hoa chủ biên cũng đã đề cập khá chi tiết về phong trào đấu tranh cách mạng: đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao ở thành phố Huế cũng như các huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Liên quan trực tiếp đến đề tài đang nghiên cứu có công trình “Lịch sử lực lượng vũ trang huyện A Lưới (1945 - 2015)” do Đảng ủy - Ban chỉ huy quân sự Huyện A Lưới biên soạn và được xuất bản năm 2013. Tác phẩm này đã trình bày một cách có hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang huyện A Lưới trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Năm 2015, tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ xã A Ngo, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế (1960 - 2015)” được công bố. A Ngo là xã đầu tiên trên địa bàn huyện A Lưới có sách trình bày đầy đủ và cụ thể nhất về quá trình đấu tranh kháng chiến chống Mỹ. Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách toàn diện về con người, phong trào cách mạng ở A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ nhưng chưa thực sự đi sâu tìm hiểu hoạt động đấu tranh quân sự. Tuy nhiên, những nguồn tư liệu đó sẽ tạo cơ sở, điều kiện cho tôi hoàn thành tốt đề tài. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn nhằm làm rõ truyền thống đấu tranh quân sự của quân và dân A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973, qua đó thấy
  • 7. 4 được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Khu ủy Trị - Thiên, sự quyết tâm đánh thắng Mỹ của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện A Lưới; nêu cao lòng tự hào tự tôn dân tộc, khơi dậy và bồi dưỡng lòng yêu nước cho đồng bào huyện nhà; hình thành kho tư liệu phục vụ cho công tác giảng dạy lịch sử địa phương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra là phải sưu tầm, khảo sát, xử lý các tài liệu liên quan (thành văn cũng như viết tay) để tìm hiểu chủ trương của Trung ương Đảng, Khu ủy Trị - Thiên đối với chiến trường miền núi A Lưới trong đấu tranh trên mặt trận quân sự từ năm 1961 đến năm 1973, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng cho toàn tỉnh đồng thời chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Từ đó, phân tích những đặc điểm, ý nghĩa, bài học kinh nghiệm trong đấu tranh quân sự ở A Lưới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đấu tranh quân sự của quân và dân huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973. Ngoài ra, đề tài còn đề cập đến một số đơn vị, cá nhân anh hùng, các di tích lịch sử cách mạng gắn liền với phong trào đấu tranh quân sự trên địa bàn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi các xã miền núi phía Tây Thừa Thiên, thuộc các quận I, quận III, quận IV (nay là huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế). Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tập trung trong khoảng thời gian từ 1961 đến 1973 khi Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định chuyển đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự trên địa bàn miền núi. Tuy có giới hạn về thời gian và không gian như trên, nhưng khi làm rõ một số nội dung, luận văn có thể mở rộng không gian ra khỏi địa bàn huyện A Lưới và thời gian có thể lùi về trước năm 1961 hoặc về sau năm 1973 để làm rõ vấn đề, nổi bật giai đoạn tôi đang nghiên cứu.
  • 8. 5 5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu 5.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu Để thực hiện luận văn, tôi dựa vào những nguồn tư liệu sau: Nguồn tư liệu thành văn: Đó là các công trình nghiên cứu đã được xuất bản, bài báo, hồi kí, internet… liên quan đến huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ. Bên cạnh đó, tôi còn tiến hành thu thập một số tài liệu lưu trữ ở Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế, Bảo tàng lịch sử cách mạng Thừa Thiên Huế, Uỷ ban nhân dân huyện A Lưới. Nguồn tư liệu điền dã: Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tôi còn khai thác nguồn tài liệu từ quá trình phỏng vấn, lời kể, khảo sát các di tích cách mạng có liên quan đến đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận: Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Phương pháp cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu… Đặc biệt, khi thực hiện đề tài về lịch sử địa phương, tôi còn sử dụng phương pháp điều tra, điền dã, phỏng vấn, khảo sát thực tế. 6. Đóng góp của luận văn Thứ nhất: Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống và tương đối toàn diện về hoạt động đấu tranh quân sự huyện A Lưới trong kháng chiến chống Mỹ từ 1961 đến 1973. Qua đó, thấy được sự đóng góp và hi sinh to lớn của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao A Lưới trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Thứ hai: Luận văn góp phần giáo dục truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau ghi nhớ công ơn và tấm gương sáng ngời của ông cha ta. Thứ ba: Luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc giảng dạy chuyên đề lịch sử địa phương đồng thời cung cấp nguồn thông tin phục vụ cho hoạt động du lịch, giới thiệu các di tích lịch sử cách mạng trên địa bàn, vừa giữ gìn, bảo tồn, phát huy giá trị của các di tích vừa đem lại lợi ích kinh tế cho địa phương.
  • 9. 6 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Vài nét về điều kiện tự nhiên, con người và truyền thống yêu nước của nhân dân huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) Chương 2: Đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) từ 1961 đến 1973 Chương 3: Đặc điểm, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
  • 10. 7 Chương 1 1.1. Điều kiện tự nhiên 1.1.1. Vị trí địa lý A Lưới là huyện miền núi phía Tây của tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự nhiên khoảng 1.224,64 km2 . Địa giới huyện A Lưới được giới hạn trong tọa độ địa lý từ 16º,01´ đến 16º,23´ độ vĩ bắc, 107º,05´đến 107º,31´ độ kinh đông. Phía Bắc giáp huyện Đắc Krông (Quảng Trị); phía Nam giáp huyện Hiên (Quảng Nam); phía Đông giáp huyện Hương Trà, Nam Đông và thị xã Hương Thủy; phía Tây giáp nước bạn Lào [21, tr. 7]. Huyện A Lưới nằm trên tuyến quốc lộ 49 nối đường Hồ Chí Minh với quốc lộ 1A. Đây là trục giao thông Đông - Tây quan trọng kết nối với quốc lộ 1A, thành phố Huế và các huyện đồng bằng. Với vị thế như vậy, A Lưới là một vùng có vị trí chiến lược quan trọng về mặt kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đặc biệt về mặt quân sự đối với tỉnh Thừa Thiên Huế, khu vực Bắc Trung Bộ và cả nước. Khu vực này là vùng đất án ngữ của biên giới phía Tây tổ quốc, một mắt xích quan trọng trên trục đường Hồ Chí Minh huyết mạch nối liền Bắc Nam ở Đông Trường Sơn. Do đó, đế quốc Mỹ đã cho xây dựng nơi này nhiều hệ thống đồn bốt, sân bay… nhằm khống chế mọi hoạt động của ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam và làm bàn đạp tấn công xuống đồng bằng. Ngày nay, với nhiều cảnh quan thiên nhiên, sông suối, núi rừng xanh tươi, hệ thống di tích lịch sử, các giá trị văn hóa cùng với tính nhân ái hiếu khách của người dân A Lưới đã trở thành nguồn tài nguyên vô giá, hỗ trợ đắc lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và du lịch. Những năm gần đây, A Lưới đã và đang được Trung ương và tỉnh Thừa Thiên Huế tập trung đầu tư xây dựng đô thị; cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội; xây mới và tu bổ mạng lưới giao thông, mở rộng mạng lưới điện; chú trọng phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch; xây dựng các công trình thủy điện (A Lưới, A Lin, A Roàng), viễn thông, trường học, trạm y tế... Đó là những nền tảng cơ bản tạo động lực
  • 11. 8 mới thúc đẩy kinh tế - xã hội huyện phát triển nhanh, mạnh và bền vững hơn trong tương lai. 1.1.2. Điều kiện tự nhiên Địa hình: A Lưới có 118.969 ha đất tự nhiên, trong đó đất nông nghiệp là 4.603,79 ha, tổng diện tích đất chưa sử dụng là 53.863,79 ha. Địa hình chủ yếu là rừng núi xen lẫn những dãy thung lũng với hệ thống sông suối khá dày đặc với độ cao trung bình khoảng 700m so với mặt nước biển. Là một huyện vùng cao, A Lưới có hệ thống núi non hùng vĩ, cao nhất là núi Động Ngại nằm ở phía Đông Bắc (cao gần 4000m so với mặt nước biển), phía Đông có các dãy núi như A Lau, A Ló, Kô Pung, Talângai; phía Tây Bắc có các ngọn núi như Ta Công, A Túc, A Bia; phía Tây có dãy núi Trường Sơn tiếp giáp với Lào [1, tr. 9]. Bên cạnh đó, A Lưới còn có hệ thống thủy văn khá dày đặc, ngoài hệ thống khe suối len lỏi giữa thung lũng núi rừng hình lòng chảo, nơi đây còn có các con sông lớn như A Sáp, sông Bồ, sông A Lin… và hàng trăm con suối lớn nhỏ như Ta Rình, Ta Ho… Địa hình hiểm trở, đất đai màu mỡ, sông suối mát lành tạo điều kiện cho nhân dân cư trú, làm ăn đồng thời tạo điều kiện để bộ đội đóng quân, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Khí hậu: A Lưới thuộc vùng khí hậu Tây Trường Sơn, có nền nhiệt khá ôn hòa. Khí hậu ở vùng này khá đặc biệt, hướng của 2 mùa gió chính đều thay đổi, khác với toàn tỉnh: gió mùa Đông Bắc thịnh hành hướng Đông, gió mùa Tây Nam thịnh hành hướng Tây Bắc nên nhiệt độ cả năm thấp hơn so với toàn tỉnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 21,50 C, cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 là 250 C và thấp nhất vào tháng 1 khoảng 170 C. Lượng mưa hàng năm ở đây thuộc hàng cao nhất tỉnh, nhất nước (2.800mm đến 3.400mm), trong đó tập trung từ tháng 5 đến tháng 12, còn từ tháng 1 đến tháng 4 mưa ít, trung bình 30mm - 65mm/1 tháng. Độ ẩm luôn trên 83% [75, tr.8]. Về hệ thống giao thông đường bộ: Ngoài con đường 12 do Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm xây dựng phục vụ cho chiến tranh và đặt ách thống trị lên miền núi Thừa Thiên những năm 1955, 1956 thì toàn bộ các con đường còn lại đều do quân và dân ta xây dựng nên. Đường Hồ Chí Minh (Đường 14B) được xem là tuyến giao
  • 12. 9 thông huyết mạch chạy dọc theo chiều dài trên địa bàn huyện trong kháng chiến chống Mỹ. Ngoài ra, nối liền A Lưới với các huyện lị khác còn có các hệ thống giao thông như: quốc lộ 49B đi về Huế đến tận cửa biển Thuận An; 4 hệ thống trục xuôi từ vùng núi về đồng bằng gồm có: đường 71 từ Hồng Vân qua Dốc Chè về Phong Điền, đường 72 từ xã Hồng Thượng qua xã Hồng Hạ về thành phố Huế, đường 73,74 từ xã Hương Lâm qua A Roàng, Hương Nguyên về Khe Tre (Nam Đông) và Phú Lộc [1, tr. 12]. Đây là những hệ thống giao thông vô cùng quan trọng phục vụ đắc lực cho công tác liên lạc, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược cung cấp cho chiến trường. Ngày nay, các con đường đó tiếp tục tồn tại phát huy vai trò lưu thông, trao đổi hàng hóa, phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa đến tận các bản làng xa xôi, đáp ứng cho tất cả các vùng dân cư trên địa bàn huyện đều có “điện, đường, trường, trạm”. 1.2. Tình hình dân cư, kinh tế - xã hội 1.2.1. Về dân cư Trải qua thời gian theo sự biến đổi thăng trầm của lịch sử cùng quá trình di cư của các vùng khác lên cư trú ở A Lưới, hiện nay dân số huyện A Lưới có hơn 40 nghìn người với 4 tộc người có số lượng đông đảo nhất: Pakô, Kơtu, Pahy, Kinh. Ngoài ra còn có sự cư trú rải rác của một bộ phận đồng bào các dân tộc khác nhau như Tày, Nùng, Thái, Bru Vân Kiều… Trong số đó, dân tộc Pakô chiếm 60% dân số, sinh sống tập trung ở các xã Nhâm, A Ngo, A Đớt, A Roàng, Hồng Thái, Hồng Thủy, Bắc Sơn, Hồng Vân, Hồng Kim; dân tộc Kơtu chiếm khoảng 10%, sống tập trung chủ yếu ở 2 xã Hương Lâm, Hương Nguyên; dân tộc Pahy chiếm khoảng 5% dân số và dân tộc Kinh chiếm khoảng 15%, sống chủ yếu ở Sơn Thủy, Phú Vinh và thị trấn A Lưới [1, tr. 14]. Đồng bào các dân tộc vùng cao A Lưới cũng là thành phần cư dân đông đảo (chủ yếu là dân tộc Pakô) hăng hái tham gia phong trào kháng chiến chống Mỹ gắn liền với tên tuổi các anh hùng lực lượng vũ trang như: Hồ Vai, Kăn Lịch, Hồ A Nun… 1.2.2. Về kinh tế Phân bố tập trung ở vùng núi dọc Trường Sơn, đồng bào A Lưới đều sống dựa vào kinh tế nông nghiệp, chủ yếu làm nương rẫy, phát - cốt - đốt - trỉa, lối sống du
  • 13. 10 canh du cư, phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên. Cây trồng chủ yếu là lúa, ngô, sắn… Mùa phát rẫy thường vào tháng 2, 3 âm lịch, gieo hạt vào tháng 4, 5 và thu hoạch vào tháng 10 hằng năm. Cách thức lao động còn đơn lẻ, mang nặng tính cá nhân hoặc theo từng hộ gia đình, sự giao lưu, hợp tác giữa các làng bản trong hoạt động nông nghiệp còn ít, sử dụng sức người là chính. Công việc chăn nuôi cũng xuất hiện từ lâu, nhưng mọi gia súc, gia cầm còn rất hạn chế (chủ yếu là heo, gà…). Thời Pháp thuộc, với lối sống du canh du cư, kĩ thuật canh tác lại hậu, chăn nuôi nhỏ, đời sống nhân dân A Lưới còn rất khó khăn, làm không đủ ăn, đủ mặc. Sau cách mạng tháng Tám thành công, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân A Lưới từng bước đổi thay, đồng bào được hưởng quyền bình đẳng, làm chủ đất đai, hăng hái tăng gia sản xuất phục vụ cách mạng. Ngày nay, với chính sách định canh định cư, áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kĩ thuật, đồng bào vùng cao A Lưới từng bước chuyển đổi hóa cây trồng, vật nuôi, thu được nhiều thành tựu nổi bật trong lĩnh vực sản xuất, thu nhập của người dân vì thế ngày một ổn định hơn. 1.2.3. Về xã hội Trong xã hội của đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện A Lưới, chế độ tư hữu đã xuất hiện, sự phân hóa giàu nghèo đã hình thành nhưng chưa thực sự sâu sắc. Thành phần cư dân giàu có thường là những người có thế lực, xuất thân từ tầng lớp chủ đất, chủ làng, trong đó chủ làng là người có địa vị cao nhất đứng đầu chỉ đạo, quan tâm các hoạt động sản xuất, giải quyết những mâu thuẫn nội bộ, tổ chức lễ hội. Làng phát triển trong phạm vi một cộng đồng cư trú với 4, 5 hộ dân với vài chục nóc nhà sinh sống gần nhau và có tính chất khép kín. Mỗi làng thường là nơi cư trú của nhiều dòng họ, sau này xuất hiện thêm quan hệ láng giềng. Cách mạng tháng Tám thành công đem lại bộ mặt mới cho đồng bào A Lưới, các dân tộc A Lưới được quy tụ trong các đơn vị hành chính các xã liên kết nhiều làng, thoát khỏi lối sống khép kín và hạn hẹp trong quan hệ huyết thống. Trong hai cuộc kháng chiến, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ, các dân tộc như Pakô, Kơtu, Pa
  • 14. 11 hy… đã đoàn kết lẫn nhau thực hiện chủ trương của Đảng, chống kẻ thù chung, nhiều cá nhân, đơn vị được nhận danh hiệu lực lượng vũ trang nhân dân. Tháng 3/1976, huyện miền núi A Lưới chính thức được thành lập, trở thành một trong hai huyện miền núi của toàn tỉnh thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân làm chủ. Phần lớn các đồng bào dân tộc A Lưới đều mang họ Hồ để tỏ lòng biết ơn đến Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã mang lại cuộc sống tự do, ấm êm cho đồng bào các dân tộc ít người ở miền Tây Thừa Thiên Huế. 1.3. Truyền thống yêu nước 1.3.1. Truyền thống yêu nước cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 Từ xưa đến nay, A Lưới vẫn luôn tồn tại truyền thống quý báu đã ăn sâu vào tâm khảm của người dân, đó chính là lòng yêu nước nồng nàn với một tinh thần đấu tranh quật khởi vì độc lập, tự do. Với chính sách áp bức và ngu dân của chính quyền đô hộ, nhân dân A Lưới nói chung từ lớp này đến lớp khác luôn phải sống trong cảnh khổ cực, tăm tối. Bộ máy cai trị của thực dân tuy đã đặt ra các chính sách cai trị hà khắc, nặng nề với ý đồ chia rẽ miền xuôi với miền ngược nhưng nhìn chung chúng không dễ dàng thực hiện được. Đồng bào các dân tộc thiểu số đã ý thức sâu sắc âm mưu của kẻ thù và tiếp tục hăng hái tham gia đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, phong trào cách mạng nước ta tiếp tục phát triển. Sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng được nhân dân tin tưởng, nhiều tổ chức yêu nước được thành lập không chỉ ở đồng bằng mà còn mở rộng ra cả miền núi. Tổ chức Việt Minh ra đời ngày 19/5/1941 mở ra một thời kì mới cho phong trào cách mạng ở huyện A Lưới cùng các xã miền núi Thừa Thiên Huế ở Phú Lộc, Phong Điền… đi tiên phong trong công tác gây dựng lực lượng chuẩn bị cho việc khởi nghĩa giành chính quyền trong tháng Tám năm 1945. 1.3.2. Truyền thống đấu tranh cách mạng trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) Trong kháng chiến chống Pháp, A Lưới cùng với nhiều huyện lị khác trong toàn tỉnh như Phong Điền, Hương Trà, Phú Lộc... nhanh chóng trở thành các căn cứ địa cách mạng mà địch khó xâm phạm được bởi địa hình hiểm trở cùng với ý chí sắt đá của
  • 15. 12 nhân dân. Cách mạng tháng Tám thành công mở ra một vị thế mới cho đất nước ta, từ thân phận nô lệ, mất nước trở thành người làm chủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Mặc dù phải đương đầu trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” của buổi đầu giành lại chính quyền nhưng Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đã nhanh chóng thành lập được một số xã miền núi và bước đầu gây dựng chính quyền cách mạng, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận Việt Minh ngay trong lòng địa phương. Ngày 19/12/1946, cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp theo lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ “Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Lúc này, A Lưới là vùng tự do, đóng vai trò hậu phương cho toàn tỉnh, tích cực sản xuất nuôi quân đánh giặc, đoàn kết xây dựng làng bản, tạo điều kiện làm căn cứ kháng chiến lúc cần thiết. Càng về sau, phong trào kháng chiến ngày càng dâng cao, địch tập trung phương tiện, sử dụng nhiều thủ đoạn để đối phó với chiến tranh nhân dân ở vùng đồng bằng và đô thị nên chưa có điều kiện đánh phá miền núi, đây chính là lúc A Lưới có thời gian để chuẩn bị lực lượng, xây dựng cơ sở vật chất chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Theo đó, hệ thống chính quyền, mặt trận đoàn thể được hình thành, do tập trung chỉ đạo đồng bằng nên Tỉnh ủy Thừa Thiên giao phó cho các xã miền núi tự quản. Các huyện cũng thành lập ban chỉ đạo miền núi bao gồm các cán bộ chính trị, y tá, giáo viên… Nhiều đồng chí gương mẫu, đi sâu vào quần chúng và trở thành những cán bộ miền núi đáng tin cậy của Đảng và toàn thể đồng bào A Lưới như đồng chí Hoạch, Cu Nô, Nhà Hoài, Ra Đang, Quỳnh Meo, Ăm Bảo, Cu Tông, Cu Đay… Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân trong tỉnh ngày càng giành được những thắng lợi to lớn, xây dựng được nhiều vùng kháng chiến, phát triển ở nông thôn và đồng bằng và tiến lên tấn công địch, gây dựng cơ sở cách mạng ở thành phố Huế, đặc biệt là chiến khu của tỉnh và các huyện ở ven núi sát đồng bằng. Sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết năm 1954, vùng Nam Đông nằm trong khu dinh điền của Ngô Đình Cẩn, vùng A Lưới và vùng Ba Lòng (Quảng Trị) tạm thời bị o ép bởi lực lượng li khai của chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ [40, tr. 50].
  • 16. 13 Chính vì thế, phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới còn rất nhỏ lẻ, chủ yếu là đấu tranh chính trị hòa chung vào phong trào đấu tranh của toàn tỉnh, bước đầu chuẩn bị về mọi mặt để đứng lên đấu tranh quân sự khi cần thiết. 1.3.3. Truyền thống đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ (tính đến trước năm 1961) Đế quốc Mỹ âm mưu thay thế thực dân Pháp ở Việt Nam nhằm thực hiện 3 mục tiêu cơ bản: biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới; tiêu diệt phong trào cách mạng nước ta, chặn đứng phong trào giải phóng dân tộc đang phát triển mạnh mẽ đồng thời biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng thế giới; cuối cùng xâm lược Việt Nam để thành lập phòng tuyến ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á mà chúng gọi là đắp đê ngăn chặn làn sóng đỏ. Để đạt được 3 mục tiêu trên, chính quyền Aixenhao đã sử dụng mọi thủ đoạn nhằm đặt ách thống trị hoàn toàn ở nước ta. Quán triệt chủ trương của Đảng sau khi hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày 26/9/1954, Liên khu ủy IV ra nghị quyết về công tác ở Thừa Thiên và Quảng Trị. Nghị quyết cũng đã chỉ rõ đặc điểm tình hình Thừa Thiên và Quảng Trị: Đây là hai tỉnh trong vùng địch tạm chiếm đóng quân giáp vùng tự do, cho nên về ta thì mọi ảnh hưởng của vùng tự do và mọi chủ trương chính sách của Đảng và Chính phủ ta đều qua đây mà vào miền Nam. Về địch thì để củng cố đầu cầu chuẩn bị phòng ngự hay tấn công ta, địch sẽ tăng cường lực lượng, tập trung quân tinh nhuệ ở đây; và giữ thế an toàn quân sự cho chúng, chúng sẽ tăng cường gián điệp, một mặt mua chuộc lừa phỉnh, mặt khác tích cực khủng bố, xua quét lực lượng ta. Hai tỉnh tuy nhỏ hẹp nhưng có tính chất quan trọng về chính trị, là nơi tập trung bộ máy đầu não ngụy quyền Trung Việt, tập trung bọn đầu sỏ mật thám, gián điệp [4, tr. 35-36]. Đế quốc Mỹ xem chiến trường Thừa Thiên Huế nói chung, miền núi A Lưới nói riêng là một trong những trọng điểm quan trọng để khủng bố, đàn áp đồng thời xây dựng ở đây một phòng tuyến phòng thủ mạnh và căn cứ xuất phát để có thể tiến công miền Bắc khi thời cơ đến đồng thời cắt đứt sự chi viện của miền Bắc cũng như mối liên hệ giữa 2 miền nước ta.
  • 17. 14 Sau khi đàn áp phong trào cách mạng ở đồng bằng, giữa năm 1956, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bắt đầu kéo quân lên A Lưới, trước tiên nhằm mục đích thăm dò địa bàn, sau đó sẽ thiết lập bộ máy chính quyền. Chúng chia miền núi Thừa Thiên Huế thành 4 tổng trực thuộc quận Nam Hòa, mỗi tổng có 3 - 5 xã, đứng đầu là chánh tổng. Với chính sách mua chuộc, mị dân, dụ dỗ kể cả hăm dọa đồng bào các dân tộc thiểu số A Lưới, địch hầu như không thu được kết quả gì. Vì thế, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm chuyển sang biện pháp mới là dồn dân, lập khu dinh điền, tăng cường bắt lính nhằm tạo nên những vành đai trắng cắt đứt sự liên lạc giữa quần chúng và cách mạng, kiểm soát nhân dân miền núi Thừa Thiên. Chúng cho dồn dân vào 4 khu: A Lưới, A So, Nam Đông, Khe Tre, từ đó tạo nên những pháo đài chống cộng và liên tục mở những cuộc càn quét. Tháng 11/1957, Tỉnh ủy Thừa Thiên họp ở Ấp Rùng, xã Thượng Long, miền Tây Thừa Thiên Huế quyết định xây dựng miền núi Thừa Thiên Huế thành căn cứ địa cách mạng, phong trào đấu tranh vũ trang bắt đầu bằng những vũ khí thô sơ đã dần dần nảy sinh trong quần chúng kết hợp với đấu tranh chính trị là chủ yếu. Giữa lúc cao trào cách mạng ở miền núi Thừa Thiên đang có những chuyển biến quan trọng thì ánh sáng nghị quyết 15 (1/1959) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa II về đường lối cách mạng miền Nam được truyền đến nhân dân tỉnh nhà. Một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất lúc này là xây dựng tuyến đường vận tải 559 - đường Hồ Chí Minh. Miền núi A Lưới với con đường Trường Sơn nối liền mạch máu giao thông với cả nước từng bước trở thành căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa vững chắc cho đồng bằng. Để thực hiện nhiệm vụ trên, Tỉnh ủy Thừa Thiên ra chỉ thị khẩn trương củng cố miền núi thật vững chắc về mọi mặt, xây dựng bàn đạp giáp gianh, nối liền thế ba vùng để phát huy thế mạnh của miền núi, tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, luồn sâu vào các thôn xóm, làng bản gây dựng căn cứ địa, kho tàng. Để thuận lợi trong việc chỉ đạo phong trào đấu tranh cách mạng, toàn bộ miền núi Thừa Thiên Huế được chia thành 4 quận, trong đó các xã (nay thuộc huyện A Lưới) nằm ở 3 quận: Quận I có 7 xã gồm: Nhâm, A Roàng, A Đớt, Bắc Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn, Đông Sơn; Quận III có 10
  • 18. 15 xã: Hồng Thượng, Hồng Hạ, Hồng Tiến, Hồng Thái, Hồng Nam, Hồng Bắc, Hồng Quảng, Hồng Trung, Hồng Thủy, Hồng Kim; Quận IV có 5 xã: Hương Lâm, Hương Nguyên, Hương Sơn, Hương Hữu và các xã miền Tây Phú Lộc [21, tr. 58]. Lúc này, nhận thấy phong trào đấu tranh ở miền núi đã có sự lớn mạnh nhất định, Tỉnh ủy chủ trương phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh vũ trang cùng cả nước hướng tới phong trào “Đồng khởi”. Theo đó, Đảng ủy miền Tây nhanh chóng chỉ đạo các xã trên địa bàn tích cực tập luyện quân sự, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ thôn, đội, từng bước đưa phong trào đấu tranh vũ trang phát triển lớn mạnh. Ngày 13/9/1960, Ban chỉ huy xã đội Hồng Bắc tổ chức một tiểu đội du kích do đồng chí Hồ Đức Vai chỉ huy chặn đánh cánh quân địch từ đồn A Lưới hành quân qua Hồng Bắc càn quét. Kết quả, tiểu đội du kích địa phương đã tiêu diệt 12 tên địch, làm bị thương 10 tên khác và tịch thu một số vũ khí. Điên cuồng trước sự đấu tranh quyết liệt của nhân dân miền núi, tháng 10/1960, đế quốc Mỹ và tay sai tiến hành càn quét vào vị trí các thôn gần A So, bắt dân về trại tập trung ở A Lưới. Tiếp đó, chúng lại tiếp tục tấn công vào các xã Thượng Minh, Thượng Quảng, Thượng Nùng, giết và bắt bớ dân, điển hình nhất là địch đã tàn sát 18 người dân ở A Lưới và A Treo, chặt đầu và cắm cọc anh A Vầu ở Hồng Kim [2, tr. 55]. Kết hợp càn quét và khủng bố, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm còn ra sức phá hoại mùa màng nhằm triệt hạ nền kinh tế, buộc đồng bào phải di dân về các khu tập trung mà chúng đã dựng sẵn. Trước tình thế đó, Tỉnh ủy Thừa Thiên quyết định khởi nghĩa miền núi với mục tiêu “nhằm vào quần chúng bị bức xúc nhất, có thể là lúc địch tập trung lực lượng để gom bằng được dân về các khu tập trung, hoặc càn quét mùa sắp tới” [78, tr. 67]. Đêm 17/10/1960, Hội nghị khẩn cấp của Tỉnh ủy Thừa Thiên được triệu tập và nhận định đã có tình thế cách mạng. Hội nghị quyết định thành lập ban khởi nghĩa miền núi và khu vực, vũ trang tuyên truyền, trừng trị những tên ác ôn, bắt bọn tay sai ra thú tội trước dân chúng. Quán triệt chủ trương lãnh đạo của Tỉnh ủy, Đảng ủy miền Tây đã mở lớp tập huấn cho hơn 30 cán bộ đảng viên tại làng Gòn, xã Thượng Long. Tại lớp tập huấn,
  • 19. 16 sau khi nghe phổ biến chủ trương, kế hoạch của Liên khu ủy V, các đồng chí đã cùng nhau thảo luận thống nhất biện pháp hành động cụ thể của từng xã, nhất là ở 2 xã trọng điểm Phong Lâm và Phong Bình nằm giữa căn cứ A Lưới, A So của địch. Mở đầu phong trào “Đồng khởi”, đồng chí Nguyễn Vạn - Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách miền núi và cán bộ, chiến sĩ của Đoàn 559 ở Thừa Thiên cùng đồng chí Nguyễn Hoàng Giang chỉ đạo tổ đặc công thành phố Huế phối hợp với du kích xã Phong Lâm do đồng chí Quỳnh Ka Lom bí mật về Khe Tranh bắt và trừng trị tên chánh tổng Quỳnh Chánh ở Q Xo, phó tổng Kon Ko Le ở A So đồng thời cảnh cáo một số tên ác ôn khác [21, tr. 67-68]. Sau đó, đêm 20/10/1960, đồng bào các dân tộc miền núi khắp Thừa Thiên, trong đó có nhân dân huyện A Lưới đồng loạt nổi dậy bằng các vũ khí gậy gộc, giáo mác, cồng chiêng, trống, thanh la theo lệnh chỉ huy đốt đuốc xuống đường tấn công bọn thống trị. Trong đợt chiến đấu này, ta bắt được nữ gián điệp Ka Mua tay chân của Ngô Đình Cẩn và 4 thầy dòng thánh Mỹ, 1 thầy dòng Việt Nam [78, tr. 70]. Mặc dù bị thất bại nặng nề, địch vẫn cố bám lấy miền núi hòng khôi phục lại thế trận, tiếp tục đánh phá, càn quét. Để thực hiện mục đích đó, Mỹ và tay sai tăng cường bố phòng, củng cố các vị trí A So, A Co, A Lưới, Nam Đông, Khe Tre… tăng thêm quân từ tiểu đội lên trung đội, từ trung đội lên đại đội, các kiểu pháo hạng nặng lần lượt được trang bị. Song, tất cả những cố gắng của chúng đều không thể khuất phục ý chí của đồng bào ta đứng lên làm chủ núi rừng. Sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” năm 1960, Tỉnh ủy Thừa Thiên đã tiến hành hội nghị, cùng nhau nhìn nhận và xác định phương hướng nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Hội nghị nhận định: Phong trào miền núi tuy được củng cố, nhưng chưa vững mạnh, phong trào đồng bằng thì còn quá yếu, cơ sở quá hẹp chưa móc nối được bao nhiêu, nhất là nhiều vùng còn là vùng trắng, địch còn khống chế chặt quần chúng, đấu tranh chính trị phần lớn là tự phát, lẻ tẻ. Nhiệm vụ lúc này chính là phát triển hướng tiến công từ vùng núi về nông thôn đồng bằng, phá ấp chiến lược, giành dân, giành quyền làm chủ đưa chiến tranh cách mạng của địa phương tiến kịp với liên khu và toàn miền.
  • 20. 17 Thực tế cho thấy, phong trào “Đồng khởi” miền núi Thừa Thiên diễn ra cùng lúc với phong trào “Đồng khởi” ở miền Nam, mặt trận dân tộc giải phóng Thừa Thiên Huế lúc này cũng ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới cho phong trào cách mạng toàn tỉnh nói chung và phong trào đấu tranh cách mạng ở A Lưới nói riêng. Về phía Mỹ, đầu năm 1961, chúng chủ trương điều chỉnh chiến lược chiến tranh tiếp tục âm mưu xâm lược Việt Nam, miền núi A Lưới cùng cả nước đã chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh quân sự vô cùng quyết liệt trong thời gian tới, đập tan ý đồ biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa quân sự kiểu mới của chúng. 1.4. Công tác chuẩn bị của quân và dân huyện A Lưới cho hoạt động đấu tranh quân sự Xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng tính đến trước năm 1961, mặc dù hình thức đấu tranh ở miền Tây Thừa Thiên chủ yếu sử dụng hình thức đấu tranh chính trị, song lực lượng vũ trang ở địa bàn vẫn không ngừng được xây dựng, củng cố để tiến lên đấu tranh quân sự khi cần thiết. Với phương châm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Đảng ủy miền Tây, công tác chuẩn bị cho hoạt động đấu tranh quân sự được khẩn trương tiến hành ở miền núi A Lưới. Trong công tác chỉ đạo, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế với phương châm nắm vững vùng đồng bằng nhưng phải hết sức coi trọng miền núi. Chấp hành chủ trương xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, nhân dân A Lưới dưới sự chỉ đạo của Nhà Hoài đã biết coi trọng các công tác giáo dục, chỉnh huấn cán bộ đảng viên và quần chúng về đường lối cách mạng, phương hướng xây dựng miền núi, chính sách dân tộc, đấu tranh khắc phục những quan điểm lệch lạc, phát động nhân dân xây dựng miền núi thành phong trào quần chúng rộng rãi đồng thời xây dựng các tổ chức Đảng từ xã đến các vùng miền, đào tạo cán bộ quân sự, chính trị cho từng xã thôn. Đến tháng 6/1963, cơ sở Đảng đã có khắp các xã với hàng chục chi bộ, hàng trăm đảng viên. Tháng 10/1959, Mặt trận đoàn kết dân tộc miền núi Thừa Thiên được thành lập, đến tháng 1/1962, Mặt trận dân tộc giải phóng miền núi Thừa Thiên cũng ra đời đã đoàn kết đông đảo quần chúng thực hiện nhiệm vụ chống đế quốc Mỹ.
  • 21. 18 Nhận thức được tầm quan trọng của hậu phương miền núi, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân A Lưới đã hăng say tích cực tăng gia sản xuất, cán bộ lãnh đạo đã chú ý giải quyết nạn thiếu muối, dao, rựa,vải, thuốc men cho quần chúng. Nhân dân nhiều nơi đã tổ chức sản xuất hỗ trợ nhau làm ăn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Đồng bào đã tự nguyện đóng góp nhiều của cải, công sức để mở và bảo vệ hành lang, nuôi cán bộ và phát triển lực lượng vũ trang. Hàng năm, nhân dân A Lưới cùng nhân dân huyện Nam Đông đã góp gần 230 tấn gạo, nhiều nam nữ thanh niên tích cực tham gia vận chuyển lương thực, vũ khí cho cách mạng theo tuyến đường từ Thượng Long về Phú Lộc, đi dài hạn cả năm phục vụ cho Quân khu,vận chuyển lương thực, hàng hóa vào Quảng Nam, Đà Nẵng cũng như gia nhập quân giải phóng. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, phong trào văn nghệ, y tế... cũng được chú ý phát triển. Về công tác xây dựng và củng cố lực lượng vũ trang, tháng 2/1960, lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở miền núi A Lưới lần đầu tiên tổ chức huấn luyện quân sự bí mật tại thôn Tà Vai, xã Đông Sơn trong thời gian 30 ngày. Thành phần tham gia huấn luyện gồm các đồng chí xã đội, thôn đội và lực lượng được tuyển chọn để chuẩn bị cho việc thành lập bộ đội địa phương. Tháng 5/1960, lực lượng vũ trang A Lưới tiếp tục tiến hành đợt huấn luyện quân sự đợt 2 tại xã A Ngo với sự tham gia của 65 đồng chí [21, tr. 62]. Sau một thời gian chuẩn bị chu đáo, ngày 3/9/1960, bộ đội địa phương miền Tây chính thức được thành lập tại xóm Ly Leng, xã Thượng Hùng (nay là xã Hồng Vân) gồm 13 đồng chí, được tổ chức biên chế thành 2 tiểu đội. Tiểu đội 1 có 6 đồng chí gồm Quỳnh Tá (tiểu đội trưởng), Cu Đom (tiểu đội phó), Cu Toanh, Cu Leng, Cu Pưng và đồng chí Hao. Tiểu đội 2 biên chế gồm 7 đồng chí gồm Cu Xia (tiểu đội trưởng), Cu Rul, Cu Roát, Cu Lế, đồng chí Xưng (tiểu đội phó), đồng chí Thiêng và đồng chí Đung. Mỗi tiểu đội được trang bị 2 khẩu tiểu liên Tuyn và 4 khẩu súng trường Mát của Pháp [21, tr. 64]. Đến cuối năm 1960, bộ đội miền Tây từ 2 Tiểu đội đã phát triển thành 2 trung đội bộ binh và một tiểu đội hỏa lực cối 60mm và tiểu đội trinh sát do đồng chí Cu Roát làm tiểu đội trưởng, biên chế đủ quân số, trang bị khá mạnh, gồm:
  • 22. 19 Trung đội 1 (gọi là B40) là trung đội cơ động của huyện do đồng chí Phan làm trung đội trưởng, đồng chí Cu Đung (Hồ Quyết Đung) làm chính trị viên trung đội. Sau một thời gian, đồng chí Phan được cấp trên điều động về đồng bằng, đồng chí Cu Đom (Hồ Quang Tập) được cử làm trung đội trưởng thay thế đồng chí Phan. Trung đội 2 (gọi là B30) là đơn vị bảo vệ hành lang do đồng chí Thành (Quỳnh Vả) làm trung đội trưởng, đồng chí Ty Lê làm chính trị viên trung đội. Tiểu đội hỏa lực cối 60mm biên chế gồm 12 đồng chí, được trang bị 2 khẩu cối 60mm, do đồng chí Cu Thân làm tiểu đội trưởng, đồng chí Cu Lu làm tiểu đội phó [21, tr. 70]. Cũng trong thời gian này, hệ thống chỉ huy dần dần được hình thành và chấn chỉnh từ phân khu đến miền, từ miền xuống thôn. Nhiệm vụ của lực lượng vũ trang đã được Tỉnh ủy xác định: Bảo vệ và mở rộng căn cứ địa miền Tây, kết hợp với lực lượng chính trị phá ấp chiến lược đồng thời tăng cường phối hợp với chiến trường khu V. Bên cạnh đó, công tác xây dựng lực lượng vũ trang bao gồm bộ đội địa phương, lực lượng du kích được Đảng ủy miền Tây đặc biệt chú trọng và không ngừng được xây dựng, phát triển từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, đồng thời trang bị thêm các loại vũ khí hiện đại như súng trường, tiểu liên... bên cạnh vũ khí thô sơ, phối hợp chặt chẽ với bộ đội địa phương luồn rừng đánh địch, diệt ác trừ gian, tạo thế phá ấp chiến lược, khắc phục tư tưởng coi nhẹ chiến tranh du kích, ỷ lại lực lượng vũ trang bởi “Chiến tranh du kích tấn công địch lúc ở nơi này, lúc ở nơi khác trong nước làm cho địch mệt mỏi. Hình thức đấu tranh đó đã và đang đem lại những kết quả khả quan” [71, tr. 79]. Từ năm 1960 - 1961, tại hầu hết các quận thuộc huyện A Lưới đều thành lập đơn vị bộ đội từ một trung đội đến một đại đội, tổ chức nhiều trận đánh địch bảo vệ xóm làng, căn cứ cách mạng. Cụ thể: Quận I xây dựng một trung đội bộ đội địa phương với 30 chiến sĩ, dân quân du kích có 302 người trong 8 xã, 37 thôn. Quận III có một trung đội bộ đội địa phương với 27 chiến sĩ, du kích có 400 người. Quận IV, có một trung đội bộ đội địa phương và 300 quân du kích [1, tr. 78].
  • 23. 20 Trưởng thành qua từng cuộc đấu tranh, lực lượng vũ trang trên toàn huyện phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng, sức chiến đấu chịu đựng gian khổ ngày càng nâng cao trong lửa đạn. Những chiến thắng đầu tiên đã cổ vũ thêm cho niềm tin của đồng bào vào chiến thắng của quân và dân ta, quyết tâm đánh bại kẻ thù xứng đáng với danh hiệu “bộ đội cụ Hồ”. Trên cở sở tương quan lực lượng giữa ta và địch cùng với những thuận lợi và khó khăn trước mắt, Tỉnh ủy Thừa Thiên đưa ra chủ trương tranh thủ thời cơ tiến lên tấn công địch, không cho chúng ổn định tình hình, tiến công mọi mặt bằng hình thức sáng tạo của quần chúng trên cả 3 vùng, đặc biệt ở vùng rừng núi. Phát huy sức mạnh của quần chúng có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, lợi dụng sự suy yếu và bế tắt về chính trị của địch mà tiến công mạnh mẽ làm tan rã và tê liệt chúng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, phá ấp chiến lược,chuẩn bị từng bước phá vỡ thế kìm kẹp của địch. Sau những chuyển biến của phong trào “Đồng khởi” miền núi, đầu năm 1961, đế quốc Mỹ tiếp tục thực hiện thí điểm những chiến lược chiến tranh mới ở Việt Nam từ “chiến tranh đặc biệt” đến “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh”. Năm 1961 trở thành mốc đánh dấu cho một cuộc đấu tranh quân sự thực sự ở A Lưới. Quán triệt chủ trương của Đảng, miền núi phía Tây Thừa Thiên chuyển dần từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh quân sự là chủ yếu, phát động quần chúng nổi dậy đấu tranh vũ trang dưới nhiều hình thức, trong đó chú trọng chiến tranh du kích để bảo vệ cán bộ, đảng viên và cơ sở cách mạng. Trên cơ sở đó, phát triển đường hành lang chiến lược từ miền núi xuống vùng giáp ranh đồng bằng nhằm giải phóng miền núi và xây dựng căn cứ địa cách mạng cho toàn tỉnh và cả miền Nam. Như vậy, vào cuối năm 1960, đầu năm 1961, quân dân huyện A Lưới đã có những bước chuẩn bị cơ bản đầu tiên và cần thiết nhất cho hoạt động đấu tranh quân sự trong thời gian tới, quá trình đó tiếp tục được thực hiện song hành với quá trình đấu tranh cách mạng chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ tại miền núi phía Tây Thừa Thiên.
  • 24. 21 Chương 2 ĐẤU TRANH QUÂN SỰ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ Ở HUYỆN A LƯỚI (THỪA THIÊN HUẾ) TỪ 1961 ĐẾN 1973 2.1. Quá trình đấu tranh quân sự trong kháng chiến chống Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) giai đoạn 1961 - 1968 2.1.1. Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” ở huyện A Lưới 2.1.1.1. Âm mưu của Mỹ ở miền Nam Mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở phía Đông Nam châu Á, trong vòng 6 năm (1954 - 1960) đế quốc Mỹ đã dựng nên ở đây chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm và viện trợ cho chính quyền ấy khoảng 2 tỉ đôla nhằm đàn áp các cuộc đấu tranh hòa bình yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam. Với chiêu bài “tự do” “độc lập”, Mỹ tưởng rằng đã che đậy được bộ mặt xâm lược của mình và chúng sẽ dễ dàng bình định miền Nam. Tuy nhiên, đầu năm 1960, nhân dân ta đồng loạt nổi dậy, đánh sập bộ máy cai trị của đối phương tại nhiều vùng nông thôn thuộc các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ và một số vùng của các tỉnh khu V, Tây Nguyên. Phong trào “Đồng khởi” làm tiêu tan hi vọng của để quốc Mỹ, làm rõ bộ mặt tay sai bán nước của chính quyền Ngô Đình Diệm, tạo ra bước ngoặc làm thay đổi cục diện chiến tranh có lợi cho cách mạng miền Nam. Sau khi xem xét và đánh giá lại toàn bộ tình hình trong nước và thế giới, Kennơdi quyết định loại bỏ chiến lược “trả đũa ồ ạt” vì không thể ngăn chặn những cuộc chiến tranh nổi dậy, tiêu biểu là ở Việt Nam. Chúng chuyển sang chiến lược toàn cầu do Macxoen Taylor đề xướng - chính sách quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt này vừa duy trì lực lượng hạt nhân chiến lược, vừa duy trì lực lượng thông thường để tiến hành các cuộc chiến tranh hạn chế. Căn cứ vào việc sử dụng lực lượng, các nhà chiến lược quân sự Mỹ phân chiến tranh hạn chế thành hai hình thức:
  • 25. 22 Một là, hình thức “chiến tranh đặc biệt” trong đó dùng quân bản xứ làm lực lượng chủ yếu, Mỹ chỉ giữ vai trò cố vấn chỉ huy. Hai là, hình thức “chiến tranh cục bộ”, trong đó quân Mỹ làm lực lượng chiến lược trực tiếp tiến hành chiến tranh ngoài lãnh thổ Mỹ. “Hai hình thức chiến tranh này được Mỹ xem là “lưỡi kiếm” tiến công sắc bén vào mối nguy hiểm nhất đối với thế giới tự do đó là chủ nghĩa cộng sản, miền Nam Việt Nam trở thành một đối tượng không nằm ngoài ý đồ của chúng” [12, tr. 12]. Theo đó, đầu năm 1961, Mỹ tiến hành chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội dung dùng người bản xứ đánh người bản xứ với sự chỉ huy của cố vấn quân sự Mỹ. Chúng lập kế hoạch xây dựng ấp chiến lược, xem nó là quốc sách, tăng cường xây dựng quân đội tay sai, phát triển các lực lượng quân sự địa phương và lực lượng bán vũ trang. Với kế hoạch Staley - Taylor, Mỹ đề ra kế hoạch bình định miền Nam trong vòng 18 tháng bằng biện pháp quân sự là chủ yếu, kết hợp với biện pháp chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, kế hoạch của Mỹ với chiến lược mới vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của nhân dân ta, đặc biệt, cuộc thay ngựa giữa dòng năm 1963 đánh dấu một bước thất bại của chính sách thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, chính quyền tay sai bắt đầu tan rã, quốc sách ấp chiến lược về căn bản được đập tan. Cách mạng miền Nam đã triển khai 2 lực lượng chính trị và quân sự rộng lớn với thế tiến công như vũ bão, so sánh lực lượng và tình thế cách mạng chuyển sang thế chủ động cho ta. Đến đầu năm 1965 ta nắm thế chủ động cả về chính trị lẫn quân sự, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ bị đập tan. Không dừng lại ở đó, Mỹ tiếp tục thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” kèm theo kế hoạch leo thanh phá hoại miền Bắc nhằm cứu vãn miền Nam trên cơ sở “chiến tranh đặc biệt”, đây cũng là một trong 2 chiến lược thuộc chính sách hạn chế của Mỹ vốn đã được đề ra trước đó. Đây là chiến lược thể hiện sự tự tin và quyết tâm lớn của đế quốc Mỹ muốn sử dụng biện pháp quân sự để chống lại Việt Nam đến cùng và khẳng định rằng: “Chúng ta sẽ không bị thất bại… chúng ta sẽ không rút lui hoặc công khai dưới cái bóng của
  • 26. 23 một thỏa hiệp vô nghĩa… Và chúng ta phải chuẩn bị cho một cuộc chiến vẫn tiếp diễn lâu dài” [13, tr.22]. Ngày 1/5/1965, tướng Oétmolen trình lên Nhà Trắng kế hoạch chiến lược ba giai đoạn gọi là Chương trình hợp tác gồm ba nội dung tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt. Giai đoạn 1: Từ tháng 7 năm 1965 đến tháng 12 năm 1965 đưa nhanh quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc vào miền Nam để ngăn chặn chiều hướng sụp đổ của chính quyền Sài Gòn, bảo đảm an toàn những khu vực đông dân cư, gấp rút triển khai lực lượng cho cuộc phản công giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Giai đoạn 2: Từ đầu năm 1966 đến tháng 6/1966, ra sức mở các cuộc hành quân tìm diệt phá căn cứ du kích, hỗ trợ cho chương trình bình định. Giai đoạn 3: Từ tháng 7/1966 đến cuối năm 1967, mở các cuộc hành quân tiêu diệt các lực lượng còn lại của quân giải phóng, rút dần quân Mỹ, quân Việt Nam cộng hòa, đảm nhận việc bình định. Để thực hiện các mục tiêu trên, chúng đề ra những biện pháp sau: Thiết lập và bảo vệ căn cứ quân sự, bảo vệ các thành thị nhất là các thành phố lớn, các cơ quan đầu não của chính quyền tay sai; khai thông và bảo vệ các đường giao thông huyết mạch; mở các cuộc hành quân lớn nhằm tìm diệt quân chủ lực để “bẻ gãy xương sống việt cộng” và đánh phá căn cứ của ta; ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam; tăng cường ném bom bắn phá miền Bắc. Theo đó“số lượng quân viễn chinh Mỹ, cố vấn (từ 3 vạn đầu năm 1965 đến cuối năm 1965 tăng lên 20 vạn), máy bay (từ 2.000 chiếc năm 1965 tăng lên 4.000 chiếc năm 1967), số lượng đại bác, xe tăng, bọc thép sử dụng trong chiến tranh cục bộ tăng lên gấp 3 so với năm 1965” [78, tr. 81]. Như vậy, trong suốt 4 năm (1965 - 1968), từ chiến lược “chiến tranh đặc biệt” - hình thức xâm lược “giấu mặt trá hình” đến chiến lược “chiến tranh cục bộ”của đế quốc Mỹ ở Việt Nam đều bị phá sản. Đây là một thất bại chiến lược trong cuộc chiến tranh Việt Nam dẫn đến tình trạng suy sụp của chính quyền và quân đội Sài Gòn. Việc đế quốc Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước đồng minh vào Nam Việt Nam tiến hành chiến lược “chiến tranh cục bộ” đồng thời leo thanh đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân nhằm ngăn chặn sự sụp đổ của chính quyền và
  • 27. 24 quân đội Sài Gòn, giành lại thế chủ động trên chiến trường gặp phải những khó khăn nhất định khi cách mạng ở miền Nam Việt Nam đã hình thành xong thế bố trí chiến lược vững chắc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta có đủ sức mạnh và niềm tin đưa cuộc kháng chiến tiến lên. 2.1.1.2. Âm mưu của Mỹ ở huyện A Lưới (Thừa Thiên Huế) Đầu năm 1961, trước sự tấn công mạnh mẽ và dồn dập của quân dân miền Nam, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai lúng túng, bị động chuyển từ hình thức “chiến tranh một phía” sang thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” với nội dung là dùng người bản xứ trị người bản xứ, sử dụng vũ khí và cố vấn Mỹ để tiến hành chiến tranh. Chúng lấy kế hoạch bình định, gom dân, lập ấp chiến lược hòng tách nhân dân khỏi cách mạng, tiêu diệt cơ sở cách mạng và khủng bố những người yêu nước. Đối với chiến trường Trị - Thiên Huế, Mỹ - Diệm ra sức thực hiện kế hoạch bình định đồng bằng, “lập tuyến phòng ngự để chặn ta ở đường 9 và Tây Trị Thiên đánh phá miền núi và hành lang chiến lược, với mục tiêu giành lại miền núi” [44, tr. 61]. Riêng ở Thừa Thiên Huế, xét về mặt địa lý quân sự, đây là “một địa bàn chiến lược phòng thủ tích cực. Tấn công có thể tiến ra biển, lui về phòng thủ đã có rừng núi hiểm trở, đồng bằng nhiều sông ngòi dễ dàng cho việc tiến thoái theo nhiều ngã và ngăn chặn bộ binh đối phương tấn công, dễ phục binh. Đây là loại địa bàn phòng thủ phản công theo lối “thủ diện, công kiên” (giữ vững, đánh mạnh), tương tự địa bàn Hàm Dương của nước Tần xưa” [28, tr. 3]. Miền núi huyện A Lưới nằm án ngữ ở phía Tây và Tây Nam thành phố Huế, có đường biên giới với Lào và nằm sát với hệ thống đầu cầu tiếp giáp miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm âm mưu xây dựng khu vực này thành một căn cứ biên phòng vững mạnh để hậu thuẫn cho vùng đồng bằng và thành phố Huế. Hơn nữa, địa hình A Lưới vốn hiểm trở, có những thung lũng rộng và bằng phẳng nằm đan xen được bao bọc xung quanh bởi những dãy núi cao trùng điệp, đó là điều kiện để địch xây dựng đồn bốt, sân bay, căn cứ quân sự để khống chế cũng như cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với tiền tuyến miền Nam, chặt đứt mắc xích liên hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào.
  • 28. 25 Để thực hiện âm mưu đó, chúng chủ động xây dựng tuyến đường 12 từ Tuần đi Bình Điền và A Lưới (nay là đường 49), đưa Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 chốt giữ những căn cứ còn lại dọc biên giới Việt - Lào như Nam Đông, Khe Tre, A Co, A So và A Lưới, đóng thêm những vị trí mới như Tà Lương và Côcava, nhằm biến những vị trí này thành điểm tựa để phản kích phong trào cách mạng Việt Nam đồng thời khống chế tuyến hành lang - đường 559 [4, tr. 61]. Bên cạnh đó, chúng tăng thêm quân tại các đồn bốt: căn cứ A So được tăng lên thành 200 quân, A Lưới có 100 quân. Việc củng cố căn cứ quân sự ở 2 đồn này cũng được tiến hành bằng các phương tiện cơ giới. Từ các căn cứ đó, những toán biệt kích người dân tộc thiểu số làm tay sai được tung ra để thăm dò vùng giải phóng, phát hiện và chỉ điểm cho máy bay địch đánh phá cơ quan, binh trạm của ta. Trong thời gian này, chất độc hóa học cũng bắt đầu được Mỹ sử dụng nhằm mục đích phát quang rừng rậm, phá hoại mùa màng cho đồng bào không có điều kiện sinh sống buộc phải chạy về các khu tập trung. Như vậy, địch đang cố tìm mọi cách để bao vây, cô lập và đánh chiếm lại miền Tây, ra sức mở rộng vùng càn quét. Kết hợp giữa hoạt động bộ binh phi pháo, biệt kích và gián điệp chặt chẽ hơn để đánh phá hậu phương của ta, phá hoại mùa màng,căn cứ, bảo vệ kế hoạch làm đường của chúng, thực hiện gom dân và lập phòng tuyến biên giới. Việc Mỹ và chính quyền tay sai triển khai chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bước đầu gây nên nững khó khăn lớn cho phong trào cách mạng miền Nam nói chung, tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, trong đó A Lưới cũng trở thành một trọng điểm trong toàn bộ kế hoạch tấn công của Mỹ tại Thừa Thiên Huế. Sau thất bại ở chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, từ giữa năm 1965, Mỹ triển khai chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, nhưng ở Trị - Thiên, sự có mặt của quân Mỹ vẫn còn hạn chế, tập trung ở căn cứ Phú Bài và Đồng Lâm. Phải đến giữa năm 1966, khi ta mở mặt trận 9 - Bắc Quảng Trị, Mỹ mới đưa quân vào vùng Trị - Thiên để đối phó với số lượng không ngừng gia tăng. Trị - Thiên dần trở thành mặt trận chính, nơi tập trung gần 2 sư đoàn thủy quân lục chiến Mỹ [4, tr. 78].
  • 29. 26 Từ cuối năm 1966, sau khi căn cứ A Lưới và A So bị bị thất thủ, Mỹ ra sức sử dụng không quân đánh phá miền núi và đường vận tải chiến lược Trường Sơn đồng thời không ngừng rải chất độc hóa học phục vụ chiến tranh, gây khó khăn cho đời sống đồng bào huyện A Lưới cũng như phong trào cách mạng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, vì là vùng vừa mới giải phóng nên quân và dân huyện A Lưới chưa phải đối mặt với những cuộc hành quân quy mô lớn của quân đội Mỹ, mặt trận và các đoàn thể ở từng địa phương, bản làng được xây dựng vững mạnh, tất cả trở thành điểm tựa vững chắc cho toàn tỉnh cũng như cả nước chiến đấu chống lại âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ, từng bước giải phóng hoàn toàn miền Nam. 2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thừa Thiên về đấu tranh quân sự 2.1.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng Đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” trong bối cảnh miền Nam đang ở “thời kì tạm ổn của chế độ Mỹ - Diệm đã qua và thời kì khủng hoảng liên tiếp, suy sụp nghiêm trọng đã bắt đầu... Các hình thái du kích cục bộ và khởi nghĩa từng phần đã xuất hiện... mở ra một cao trào cách mạng và ngày càng phát triển mạnh mẽ” [27, tr. 153-157]. Hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 24/1/1961 bàn về phương hướng và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam như sau: Ra sức xây dựng mau chóng lực lượng cả 2 mặt chính trị và quân sự, tập hợp đông đảo lực lượng cách mạng trong mặt trận dân tộc giải phóng, phát động một phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng, tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng của ta, làm tan rã chính quyền và lực lượng địch trên một phạm vi ngày càng rộng lớn; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị; tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm giải phóng miền Nam [27, tr. 159]. Những năm trước “Đồng khởi”, phương châm hoạt động của ta lấy đấu tranh chính trị làm chủ yếu, sử dụng vũ trang tuyên truyền có mức độ để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị, nay tình hình so sánh lực lượng đã thay đổi, cho nên Bộ Chính trị quyết định thay đổi phương châm đấu tranh “Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy
  • 30. 27 mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự” [4, tr. 62]. Bộ Chính trị đề ra phương châm công tác ba vùng, trong đó “vùng rừng núi lấy đấu tranh quân sự làm chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch để mở rộng thêm căn cứ và xây dựng lực lượng của ta” [12, tr. 33]. Đồng thời, Bộ Chính trị chỉ rõ: “Đấu tranh vũ trang trước đây cốt để tự vệ, nay cần nâng lên thành nhiệm vụ tiến công và tiêu diệt sinh lực địch. Vì vậy, cần phải ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt sinh lực địch... Đi đôi với việc xây dựng lực lượng vũ trang cần tích cực giải quyết vấn đề trang bị, cung cấp cho bộ đội” [21, tr. 73-74]. Ngay sau khi Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc ngày 5/8/1964, Đảng đã dự kiến rồi đây Mỹ sẽ đưa quân đổ bộ vào miền Nam Việt Nam làm cho cuộc chiến tranh ngày càng ác liệt, quân Mỹ vào miền Nam Việt Nam với số lượng đông, nhưng quân đội Sài Gòn vẫn còn là lực lượng lớn, nên cuộc chiến tranh ở miền Nam lúc đó “Vừa có tính chất chiến tranh cục bộ, vừa có tính chất chiến tranh đặc biệt” [20, tr. 119]. Theo đó, sau những năm lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 - 1965), Đảng tiếp tục đề ra phương hướng, nhiệm vụ để chống lại âm mưu tiếp theo của đế quốc Mỹ trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968). Lúc này, quân Mỹ vào miền Nam trong bối cảnh ta đang hình thành thế bố trí chiến lược vững chắc và đang ở thế thắng, thế chủ động nên Đảng nhận định so sánh lực lượng trên chiến trường vẫn không thay đổi. Đây là một nhận định khoa học và cách mạng làm cơ sở cho Đảng vạch định đường lối, phương pháp chỉ đạo đúng đắn. Ở Trị - Thiên, Đảng đã xác định đây là khu đệm, ta tổ chức hoạt động nhỏ lẻ nên hoạt động quân sự có phần được hạn chế nhất là Đường 9 và biên giới Việt - Lào, nay bố trí Trung đoàn bộ binh 26 cùng các tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên và bộ đội đặc công thực hiện các trận đánh tiêu diệt đồn bốt địch, mở vùng, mở mảng, tạo bàn đạp tấn công ở vùng sau lưng địch, đẩy địch vào thế bao vây bởi những vành đai diệt Mỹ (Phú Bài, Sơn - An - Nguyên…) [11, tr. 39].
  • 31. 28 Đồng thời, Tỉnh ủy liên tỉnh Quảng Trị - Thừa Thiên mở hội nghị thảo luận quán triệt chủ trương của Đảng và xác định: “Phát triển thế tiến công trên cả 3 vùng, ra sức tiêu diệt địch, đánh bại các cuộc phản công của chúng, giữ vững những thành quả đã giành được trong phong trào Đồng khởi, tích cực mở rộng vùng giải phóng” [27, tr. 43]. Ngày 20/7/1965, chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi nói rõ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: Đứng trước nguy cơ giặc Mỹ cướp nước, đồng bào miền Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu, dù phải chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh như luồng sinh khí mới xua tan những nỗi lo âu, do dự, làm bừng tỉnh khí thế quyết tâm kháng chiến của dân tộc, chống lại âm mưu của đế quốc Mỹ. 2.1.2.2. Chủ trương của Tỉnh ủy Thừa Thiên Ngày 27/1/1961, Bộ tư lệnh Quân khu 5, Quân khu 6 được thành lập. Tỉnh Thừa Thiên thuộc Khu 5 (trực thuộc Liên khu 5) dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban chấp hành trung ương Đảng. Tháng 2/1961, Liên khu ủy V họp đề ra nhiệm vụ phải làm chủ vùng rừng núi, củng cố và xây dựng căn cứ địa cách mạng, giành lại đồng bằng, tiêu diệt sinh lực địch. Nghị quyết hội nghị nêu rõ: “Vùng căn cứ rừng núi đấu tranh vũ trang là chủ yếu, vùng đồng bằng đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang có thể ngang nhau, vùng đô thị đấu tranh bằng ba mũi giáp công đó là chính trị, vũ trang kết hợp binh vận” [21, tr. 74]. Là một Quân khu tiếp giáp với miền Bắc xã hội chủ nghĩa - hậu phương lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Khu ủy 5 sau khi nghiên cứu, quán triệt chủ trương của Đảng đã quyết định: “Đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị và quân sự, nhằm tiếp tục mở rộng và củng cố căn cứ địa miền núi, xây dựng miền núi thành căn cứ địa vững chắc, kiên quyết phá thế kìm kẹp ở đồng bằng, phát động vài tổ chức quần chúng, đưa phong trào đồng bằng tiến lên” [25, tr. 178]. Riêng tại Thừa Thiên Huế, để đối phó vói âm mưu của đế quốc Mỹ, dưới ánh sáng nghị quyết của Bộ Chính trị, từ ngày 21 đến ngày 26/4/1961, đại hội Đảng bộ
  • 32. 29 tỉnh Thừa Thiên Huế đã họp tài chòi Con Hiên, làng Tà Pat với sự tham dự của 52 đại biểu [2, tr. 63]. Nhiệm vụ của đại hội là vạch ra phương hướng lãnh đạo nhân dân vùng lên chống phá ấp chiến lược, nhanh chóng phát triển lực lượng, tiến công từ rừng núi xuống đồng bằng, đẩy mạnh tuyên truyền và hoạt động vũ trang, xây dựng cơ sở chính trị rộng rãi, kiên quyết giành dân, giành quyền làm chủ, đưa chiến tranh cách mạng phát triển lên bước mới, đưa phong trào cách mạng của tỉnh tiến kịp phong trào khu vực và toàn miền Nam. Đại hội cũng đã nhấn mạnh: vận dụng linh hoạt ở vùng núi, đấu tranh quân sự là chủ yếu, vùng ráp gianh và đồng bằng đẩy mạnh đấu tranh chính trị, hạ quyết tâm nhanh chóng tạo thế liên hoàn giữa ba vùng chiến lược. Đối với Liên tỉnh I, chủ yếu là Quảng Trị và Thừa Thiên, hội nghị mở rộng Khu ủy V (7/1963) chỉ đạo ở vùng căn cứ miền núi “cần tiếp tục phát triển du kích chiến tranh rộng khắp, đẩy mạnh xây dựng chính trị và kinh tế, ra sức giữ vững và củng cố căn cứ, giữ vững hành lang”. Trong nhiệm vụ giữ vững vùng hành lang, cần: Ra sức xây dựng hành lang vững mạnh, giữ vững hành lang thông suốt để đáp ứng kịp nhu cầu cách mạng ngày càng to lớn hơn. Hướng xây dựng hành lang sắp đến là tích cực xây dựng hành lang thường trực, tức là các đội vận tải chuyên môn được quân sự hóa ở các trạm để bảo đảm vận chuyển thường xuyên và giữ bí mật cho hành lang. Dựa vào việc giải quyết một phần khó khăn cho đời sống nhân dân gần hành lang và công tác chính trị trong nhân dân mà gây quan hệ tốt với nhân dân dọc hành lang, tạo ra cơ sở chính trị vững chắc dọc hành lang, phối hợp với du kích địa phương chống địch càn quét, biệt kích để bảo vệ hành lang, bảo vệ kho tàng [4, tr. 64]. Tiếp đó, hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965), lần thứ 12 (12/1965), nghị quyết Quân ủy trung ương đã đề ra nhiệm vụ mới khi đối đầu với địch ở “chiến tranh cục bộ”, xác định phương hướng tác chiến, lấy chiến trường miền núi làm chiến trường chính tiêu diệt địch mà trọng điểm là Tây Nguyên và miền Tây Nam Bộ, chủ trương đánh mạnh địch ở Liên khu V. Đặc biệt, phải làm chuyển biến chiến trường Trị Thiên - Huế thành hướng chiến lược quan trọng để phối hợp với các chiến trường khác trong toàn miền và đảm bảo chi viện cho miền Nam.
  • 33. 30 Nằm ở phía Tây Thừa Thiên với tầm chiến lược quan trọng, miền núi huyện A Lưới nhanh chóng được đưa vào quỹ đạo chiến tranh bởi những âm mưu của đế quốc Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Tỉnh ủy Thừa Thiên, Đảng ủy miền Tây, quân và dân A Lưới đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, vừa đấu tranh du kích chống lại những cuộc càn quét của địch, vùa làm nhiệm vụ hậu phương và căn cứ địa vững chắc cho toàn tỉnh nói riêng và toàn miền Nam nói chung, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. 2.1.3. Quân dân A Lưới đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ” và giải phóng A So Sau khi phong trào “Đồng khởi” ở miền Tây Thừa Thiên nổ ra và giành được thắng lợi cũng chính là lúc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam. Điều khiến cho Mỹ lo lắng nhất sau thất bại của “chiến tranh đơn phương” là các cuộc tiến công quân sự kết hợp đấu tranh chính trị của quân dân miền Nam gia tăng ở các vùng nông thôn, đô thị và rừng núi, làm cho quân đội Sài Gòn mất thế chủ động. Chính vì thế Mỹ tăng cường các biện pháp quân sự mạnh hơn nữa khi đưa vào miền Nam Việt Nam, ½ quân sự đặc nhiệm gồm 6.000 - 8.000 quân dưới sự chỉ đạo của Mỹ để chuẩn bị cho các cuộc hành quân mang tính chất tiến công. Để đối phó với âm mưu của địch, miền núi A Lưới liên tục tiến hành những cuộc đấu tranh quân sự, chủ yếu là phong trào đấu tranh du kích chống phá các cuộc hành quân, càn quét của đế quốc Mỹ, làm tiêu hao sinh lực địch. Đấu tranh du kích trở thành phát súng mở đầu cho những trận chiến có quy mô rộng lớn và quan trọng hơn. Dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức nhiều trận phục kích, tập kích bắn tỉa, đập tan âm mưu càn quét, tập trung dồn dân vào các ấp chiến lược của địch. Mở đầu phong trào đánh địch bằng vũ khí hiện đại (súng đạn) du kích xã Hồng Bắc phối hợp với bộ đội miền Tây đánh chặn quân địch từ đồn A Lưới khi chúng cho quân lính càn quét vào các xã. Tại khe A Nô, các đồng chí Vạn, Đài chỉ huy tập kích vào đội hình địch, tiêu diệt tại chỗ 18 tên, làm bị thương nhiều tên khác. Qua trận này, ta đã đẩy lùi được cuộc càn quét quy mô lớn của địch, gây tâm lí hoang mang lo sợ cho binh lính địch đang chiếm đóng ở các đồn xung quanh, tạo khí thế vùng lên tấn
  • 34. 31 công kẻ thù trên toàn miền. Tỉnh và Quân khu đã kịp thời khen thưởng du kích xã Hồng Bắc [1, tr. 79]. Tháng 2/1961, tổ tự vệ xã Hồng Quảng phục kích đánh tan một đơn vị quân đội tay sai khi chúng tiến hành càn quét thôn A Dơn, tiêu diệt và làm bị thương 40 tên. Tháng 10/1961, một trung đoàn địch mở các cuộc càn quét lớn lên vùng A Lưới, bộ đội địa phương và dân quân du kích đã tổ chức chống càn tiêu diệt 187 tên, làm bị thương 89 tên khác [1, tr. 79]. Để củng cố và phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng đối với miền núi, tháng 4/1961, Đảng ủy miền Tây đã tổ chức đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ xây dựng miền núi vững mạnh về kinh tế, chính trị, quân sự, tạo thế và lực cho phong trào ở đồng bằng, thành thị phát triển. Đại hội cũng bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ mới gồm 7 đồng chí: Ăm Mật, Nhà Hoài, Cu Đàng, Lợi, Dũng, Cu Tên, Mùi. Lúc này, phong trào đấu tranh quần chúng phát triển nhanh chóng, đặc biệt là đấu tranh du kích đánh địch chỉ bằng vũ khí thô sơ như chông, bẫy phát triển mạnh mẽ ở 3 quận, nhiều trận đánh công đồn, phục kích của bộ đội địa phương, du kích đã làm tiêu hao sinh lực địch, chặn đánh âm mưu dồn dân vào các ấp chiến lược, phá hoại mùa màng của chúng. Điển hình là trận đánh ngày 11/4/1961 do đồng chí Cu Hả (Võ Sĩ Đài), Cu Pả và đồng chí Ban chỉ huy xã đội Phong Bình, Phong Lâm trực tiếp chỉ huy bộ đội địa phương và dân quân du kích bố trí ở A Rom 7 hầm bẫy quay và ở Pa Đuh một dàn bẫy bay gồm 40 cần để đón đánh địch từ đồn A Lưới càn quét lên Phong Lâm. Kết quả, ta đã tiêu diệt tại chỗ 11 tên, làm bị thương 2 tên khác [21, tr. 77]. Bị tổn thất, địch buộc phải bỏ dỡ cuộc càn, rút lui về đồn A Lưới. Hân hoan trước những thắng lợi ban đầu, phong trào xây dựng làng chiến đấu được phát động khắp các quận miền núi. Để có nhiều vũ khí phục vụ cho nhiệm vụ đánh địch lâu dài, lãnh đạo chỉ huy thôn, bản, xóm, xã vừa tổ chức vận động, vừa giao chỉ tiêu cho cán bộ, chiến sĩ, dân quân du kích và nhân dân mỗi đêm phải vót bằng được 300 mũi chông/người đối với nam và 150 mũi chông/người đối với nữ. Tháng 7/1961, làng chiến đấu đầu tiên được xây dựng ở xóm A Cuôn, xã Phong Lâm, sau đó phát triển ra toàn huyện [21, tr. 78].
  • 35. 32 Ngày 10/3/1962, Ban chỉ huy xã đội xã Hồng Bắc bố trí 7 đồng chí du kích do đồng chí Hồ Đức Vai chỉ huy tập kích vào đồn A Lưới. Rạng sáng ngày 11/3/1962, ta nổ súng trực tiếp vào đội hình của địch khi chúng đang tập thể dục buổi sáng. Kết quả tiêu diệt được 30 tên và làm bị thương nhiều tên khác. Trận đánh thu được nhiều thắng lợi lớn khiến quân địch trong đồn A Lưới hoảng loạn về tinh thần, lo sợ bị tấn công bất ngờ nên không giám tổ chức các cuộc càn quét vào những khu vực xung quanh. Ngày 20/3/1962, du kích Hồng Bắc bố trí một tiểu đoàn do đồng chí Kăn Lịch chỉ huy tập kích bao vây đồn A Lưới. Đến rạng sáng ngày 22/3/1962, ta bắn rơi một chiếc máy bay địch khi mới vừa cất cánh, đồng thời kết hợp đánh bộ binh, tấn công vào đồn, kết quả ta tiêu diệt được 12 tên. Đây là trận đầu tiên ta đánh rơi máy bay địch ngay tại đồn A Lưới. Thắng lợi này đã tạo nên không khí thi đua giết giặc lập công trên toàn miền [1, tr. 83]. Liên tiếp thất bại trong âm mưu dồn dân vào các ấp chiến lược đã dựng sẵn, lúng túng trước sự đáp trả của đồng bào ta bằng các cuộc đấu tranh du kích ngay trong đồn trú của quân Mỹ, trong năm 1962, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm tiếp tục mở hàng loạt cuộc càn quét với quy mô lớn. Ngày 29/5/1962, hai tiểu đoàn bộ binh địch càn quét vào vùng căn cứ A Lưới. Lực lượng vũ trang, dân quân du kích trên địa bàn huyện đã anh dũng chống càn, chặn đánh địch ngay từ đầu để bảo vệ an toàn căn cứ địa. Sau gần 1 tháng càn quét không thành, địch buộc phải rút khỏi A Lưới đồng thời đóng thêm căn cứ ở các vị trí A Cò, Ta Pat, đường A So, A Lưới đi Tuần (quận Nam Hòa), riêng khu vực đồn A Co chúng cho xây dựng 4 lô cốt, mỗi lô cốt địch bố trí từ 7 đến 12 tên [1, tr. 83-84]. Nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh trong toàn tỉnh phát triển đúng hướng, ngày 24/6/1962, Hội nghị quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế họp xác định phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang trong thời gian tới. Nội dung hội nghĩ nêu rõ: “Lấy chiến tranh du kích là chính, đánh nhỏ ăn chắc, không dốc hết lực lượng và vũ khí lớn; quán triệt tư tưởng tích cực tiêu diệt, làm tiêu hao sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta” [21, tr. 82].
  • 36. 33 Ngoài ra cần phải tích cực đẩy mạnh chiến tranh du kích ở miền núi, bảo vệ căn cứ, tăng cường hoạt động ở vùng giáp ranh và đồng bằng với mức độ thích hợp, hỗ trợ đắc lực cho phong trào đấu tranh quần chúng; phối hợp với các mặt trận khác nới lỏng thế kìm kẹp của địch, chống phá việc lập ấp chiến lược, khẩn trương xây dựng lực lượng đủ sức làm nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài và sẵn sàng khi thời cơ đến thì tổ chức tiến công. Ngày 26/2/1963, tổ du kích đồng chí Mía bắn rơi một máy bay địch ở đồn A So, mở ra một phong trào thi đua bắn máy bay địch trong các xã. Nổi bật có nữ đồng chí A Keng là người phụ nữ đầu tiên bắn rơi máy bay địch ở thôn Ta Pát, xã Hồng Thượng. Tháng 3/1963, Mỹ và chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm đưa quân đóng thêm đồn dã chiến ở đồi Đồn Xang 1 (xã Hương Lâm) với ý đồ cắt đứt giao thông liên lạc của ta, tấn công phá hủy kho tàng, làng xã chiến đấu [1, tr. 87]. Về phía địch, chỉ tính riêng trong năm 1963, chúng đã tiến hành 13 cuộc càn quét, biệt kích nhỏ với lực lượng từ 1 đại đội đến 1 tiểu đoàn vào các xã Hồng Thượng, Hồng Hạ, Hồng Bắc, Hương Lâm với thời gian từ 1 đến 4 ngày, trong đó có một cuộc đổ bộ bằng trực thăng vào Hồng Bắc với lực lượng khoảng 1 tiểu đoàn [63]. Cũng trong thời gian này, về phía ta, ở các xã đều có ít nhất 2 tiểu đội du kích, bên cạnh những vũ khí thông dụng như súng trường, tiểu liên, còn được trang bị súng cối 61, 81... Hơn nữa, để phối hợp với đồng bằng, bộ đội và du kích địa phương tăng cường tổ chức chống càn, đánh bom biệt kích, chủ yếu là bao vây đánh địch xung quanh vị trí các đồn bốt, tổng cộng có 42 trận lớn nhỏ, diệt 78 tên, thu 1 máy bộ đàm tại 3 quận miền núi, cụ thể như sau: Quận I: Đánh 13 trận, giết chết 18 tên, làm bị thương 3 tên. Quận III: Đánh 14 trận, diệt 26 tên, làm bị thương 3 tên, thu một máy bộ đàm và một số quân trang. Quận IV: Đánh 15 trận, diệt 34 tên, làm bị thương 4 tên [50]. Với kết quả đạt được, phong trào đấu tranh du kích đã nhanh chóng làm tiêu hao số lượng lớn sinh lực địch. Bên cạnh đó, cao trào thi đua bắn máy bay địch rộ lên trong
  • 37. 34 lực lượng du kích. Trên toàn huyện đã xuất hiện nhiều tay thiện xạ như Cu Tríp, nổi bật hơn cả là chị Kăn Lịch đã bắn cháy máy bay địch trong trận đồn A Lưới. Bước sang năm 1964, địch huy động lực lượng ở đồng bằng lên miền núi A Lưới, kết hợp với binh lính đã bố phòng sẵn ở đồn A Lưới tổ chức cuộc càn quét ác liệt ở Thượng Ninh (khu vực 2 xã Hồng Nam, Hồng Bắc). Trận càn quét này kéo dài đến 5 ngày, dưới sự chỉ đạo của anh hùng Hồ Đức Vai, lực lượng du kích đã đánh tan cuộc càn quét của địch, tiêu diệt hơn một tiểu đội, thu nhiều chiến lợi phẩm. Tại A Lưới, tình hình quân địch không mấy khả quan, những cuộc hành quân, càn quét của chúng không mang lại hiệu quả như mong đợi, tất cả đều bị quân du kích và bộ đội địa phương chặn đánh quyết liệt, buộc chúng phải co cúm cố thủ. Các hầm chông của ta lúc này phát huy tác dụng hơn bao giờ hết, địch bị khép kín hoàn toàn trong vòng vây rồi nhanh chóng bị tiêu diệt. Cuối cùng, khi không thể tiếp tục kháng cự, địch rút khỏi đồn đóng quân. Đến tại thời điểm này, trong vòng 4 năm (1962 - 1965), lực lượng du kích đã phối hợp với bộ đội địa phương đánh 3.677 trận, tiêu diệt hàng nghìn tên địch, bắn rơi 21 máy bay [21, tr. 99]. Như vậy, nhân dân miền núi phía Tây Thừa Thiên đã thực hiện hiệu quả chủ trương xây dựng lực lượng vũ trang, bán vũ trang vừa bảo vệ hành lang chiến lược, giữ vững căn cứ địa cách mạng vừa tiến công địch ở vùng giáp ranh. Đồng bào huyện A Lưới hăng hái gia nhập vào lực lượng bộ đội địa phương, dân quân du kích. Chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng vũ trang ở miền núi A Lưới đã tổ chức tấn công, chống càn, tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phá tan kế hoạch dồn dân, lập ấp chiến lược đồng nghĩa với việc góp phần đánh bại âm mưu của chúng trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”. Trước những thất bại nặng nề về quân sự kéo dài cũng như khủng hoảng về chính trị và những đòn đả kích của toàn thể nhân dân miền Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ buộc phải “thay ngựa giữa dòng”. Mỹ thực hiện cuộc đảo chính mong cải thiện được tình thế nguy nan trước mắt cũng như tình hình về sau của chính quyền Sài Gòn. Lợi dụng điều đó, ta càng đẩy mạnh hơn nữa việc đánh phá các
  • 38. 35 ấp chiến lược, phá vỡ thế kìm kẹp, nhanh chóng tạo thế tiến lên kết hợp đấu tranh quân sự phối hợp với phong trào quần chúng giành lại nông thôn đồng bằng. Cùng lúc này, tổng thống Mỹ Kennơdi bị ám sát, tổng thống Giônxơn lên thay đã tiếp tục đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” lên cao với những chủ trương, biện pháp quyết liệt hơn như: tăng cường quân đội yểm trợ và cố vấn Mỹ, gia tăng hoạt động quân sự về số lượng cũng như trang bị phương tiện kĩ thuật hiện đại đồng thời tăng cường phối hợp vói phái hữu Lào và sử dụng hạm đội 7 để bịt vùng biên giới, giới tuyến và vùng biển nhằm cô lập cách mạng miền Nam với quyết tâm giành thắng lợi trong hai năm 1964 và 1965. Chúng coi việc đánh phá hành lang chiến lược là chính sách số một. Ở Trị - Thiên Huế, trong và sau cuộc đảo chính, địch luôn đề phòng lực lượng cách mạng từ miền Bắc xuống đồng bằng nên chúng tăng thêm nhiều quân ra đường số 9 và A Sầu, A Lưới, đặc biệt hơn là tăng cường lực lượng không quân oanh tạc miền Tây Thừa Thiên, kiểm soát ngày đêm vùng hành lang biên giới, ngăn chặn vùng giáp ranh, dùng chất độc hóa học để khai quang thêm các trục hành lang ngang dọc. Trước nguy cơ sụp đổ của quân đội tay sai, tổng thống Giônxơn quyết định dùng không quân mở chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, quyết định đổ bộ quân Mỹ vào miền Nam, chuyển dần chiến lược “chiến tranh đặc biệt” sang chiến lược “chiến tranh cục bộ”. Ở Trị - Thiên, địch huy động hơn 2.000 lính viễn chinh Mỹ có nhiệm vụ xây dựng căn cứ, kho tàng và làm chỗ dựa cho quân đội tay sai gồm 8 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo, 4 chi đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn công binh, 2 đại đội hải thuyền, 23 đại đội bảo an, 100 trung đội dân vệ, 3 tiểu đoàn cảnh sát, 34 đoàn bình định cùng các đảng phái phản động, gián điệp, mật vụ... chuẩn bị kế hoạch phản kích đánh phá phong trào cách mạng, tiêu diệt lực lượng của ta [21, tr. 101]. Riêng tại địa bàn miền Tây Thừa Thiên, để phá hoại căn cứ địa, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam,tiêu diệt bộ đội chủ lực, phá thế đứng ba chân của ta, ngay từ cuối 1965, đầu năm 1966, địch ra sức tăng cường cho đồn A Lưới, A So, Khe Tre, Nam Đông. Đến cuối năm 1965, số lượng địch trong đồn tăng vọt, tại