Đây là phần được trích ra của một bạn sinh viên ưu tú chuyên ngành Nhân sự đạt 9.5 điểm, nhằm giúp các bạn có nguồn tài liệu uy tín để làm bài tốt hơn. Liên hệ với AD qua Zalo: 0934.536.149
35 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM ...
Cơ sở lí luận về tạo động lực làm việc cho nhân viên
1. Cơ sở lí luận về tạo động lực làm việc cho
nhân viên
Một số khái niệm
Nhu cầu
Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thõa mãn để tồn
tại và phát triển. Trong bất cứ người nào cũng cần có nhu cầu, ý muốn, khát
vọng. Chính những cái cần thiết cho chúng ta tồn tại và phát triển là nhu cầu.
Chỉ có nhu cầu mới thúc đẩy được tính tích cực của cá nhân trong quá trình hoạt
động để duy trì sự tồn tại của nó và các thế hệ sau nó.Việc thõa các nhu cầu có
thể được đáp ứng qua nhiều phương thức khác nhau: cộng đồng, tập thể, cá
nhân, xã hội,…từ đó hình thành nên các lợi ích của con người
TÓM LẠI : nhu cầu là cảm giác thiếu hụt của con người đối với môi trường bên
ngoài là cái mà “tôi cần, tôi muốn, tôi thích”. Để tạo động lực cho nhân viên cần
tìm hiểu họ bởi vì mỗi cá nhân lại có những nhu cầu khác nhau tùy thuộc vào vị
trí địa lý, trình độ nhận thức, môi trường văn hóa…khác nhau
Động lực làm việc
Động cơ là mục đích chủ quan mà con người muốn đạt được thông qua hành
động, là lý do hành động để thõa mãn nhu cầu của mình. Khác với nhu cầu,
động cơ mang tính chủ quan và chịu tác động bởi ngoại lực.
Động lực là sự tự nguyện và khao khát của con người để nâng cao mọi nổ lực
của mình nhằm đạt được kết quả hay mục tiêu nào đó. Có thể nói, động lực là
động cơ mạnh nhất thúc đẩy con người hành động có sáng tạo, có hiệu quả và
chất lượng.
Động lực lao động là sự khao khát, tự nguyện của người lao động để tăng cường
nổ lực nhằm hướng tới một mục tiêu, kết quả nào đó.
Động lực lao động là những nhân tố bên trong kích hoạt con người tích cực làm
việc trong điều kiện cho phép tạo ra năng suất hiệu quả cao. Biểu hiện của động
lực là sự sẵn sàng, nổ lực, say mê làm việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức
cũng như bản thân người lao động.
Động lực lao động là sự thôi thúc từ bên trong mỗi con người lao động, thúc đẩy
con người hoạt động. (Nguyễn Ngọc Quân, 2004)
Tóm lại, động lực trong lao động là sự nổ lực, cố gắng từ chính bản thân mỗi
người lao động. Với mục tiêu của các nhà quản lý là phải làm sao tạo ra được
động lực để người lao động có thể đạt được hiệu quả cao nhất nhằm phục vụ cho
tổ chức.
Tạo động lực cho nhân viên
Tạo động lực cho nhân viên là việc xây dựng, thực thu các biện pháp, khuyến
khích nhân viên phát huy sáng kiến thông qua các đòn bẩy về kích thích vật chất
và tinh thần.
Nhà quản lý muốn nhân viên của mình nổ lực hết sức vì doanh nghiệp thì họ
phải sử dụng tất cả các biện pháp khuyến khích đối với nhân viên, đồng thời tạo
2. mọi điều kiện cho nhân viên hoàn thành công việc một cách tốt nhất.
Khuyến khích bằng vật chất lẫn tinh thần, tạo ra bầu không khí thi đua trong
nhân viên có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Các nhà quản trị đã từng nói “sự thành bại của công ty thường phụ thuộc vào
việc sử dụng hợp lý nhân viên trong doanh nghiệp thế nào”.
Vai trò của tạo động lực
Mục tiêu của các nhà quản lý là nâng cao năng suất của nhân viên. Vì vậy, họ
cần phải biết về nâng lực và động cơ của nhân viên để ra quyết định kịp thời
nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Qua nghiên cứu ta thấy, công tác tạo động
lực có những vai trò quan trọng:
- Đối với nhân viên: tạo động lực sẽ thúc đẩy con người làm việc hăng say, tích
cực, nhiều sáng kiến, nâng cao được chất lượng công việc, tăng nâng suất lao
động, đồng thời lợi ích của họ cũng tăng lên, nghĩa là thõa mãn được các nhu
cầu của nhân viên.
- Đối với doanh nghiệp: công tác tạo động lực tốt cho người lao động sẽ làm cho
năng suất lao động tăng lên, mục tiêu của doanh nghiệp được hoàn thành, mang
lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp. Đồng thời nếu người lao động cảm thấy thõa
mãn các nhu cầu của họ khi làm việc tại doanh nghiệp thì họ sẽ gắn bó với
doanh nghiệp, nhờ đó tổ chức có được một đội ngũ lao động tốt. Từ đó nâng cao
được uy tín, mang lại lợi ích dài hạn cho doanh nghiệp.
Một số học thuyết về tạo động lực
Học thuyết phân cấp nhu cầu của Abraham Maslow
Theo Hà Văn Hội (2007), Học thuyết phân cấp nhu cầu của Abraham Maslow
được trình bày như sau:
Năm 1954, A. Maslow đã đưa quan điểm về nhu cầu của con người và được sắp
xếp theo các thứ tự khác nhau. Học thuyết của ông được dựa trên những con
người khỏe mạnh, sáng tạo, những người sử dụng tát cả tài năng, tiềm năng và
năng lực trong công việc. Có 2 nhóm nhu cầu chính của con người là nhu cầu cơ
bản và nhu cầu bậc cao.
Nhu cầu cơ bản liên quan tới các yếu tố như thức ăn, nước uống, cảm giác an
toàn, lòng tự tôn,… Các nhu cầu bậc cao hơn gồm sự công bằng, thứ bậc, vẻ
đẹp, sự đồng lòng nhất trí. Cụ thể gồm 5 nhóm nhu cầu:
- Nhu cầu sinh lý: gồm thức ăn, nước uống, nơi trú chân, nhu cầu về sinh lý.
- Nhu cầu an toàn: là nhu cầu được ổn định, chắc chắn, được bảo vệ khỏi những
bất trắc.
- Nhu cầu xã hội: là nhu cầu bạn bè, giao tiếp.
- Nhu cầu được kính trọng: là nhu cầu có địa vị, được công nhận và tôn trọng,
cũng như nhu cầu tự tôn trọng mình.
- Nhu cầu tự hoàn thiện: là nhu cầu được trưởng thành và phát triển, được biến
năng lực của mình thành hiện thực, nhu cầu sáng tạo.
Như vậy, theo lý thuyết này thì trước tiên các nhà lãnh đạo phải quan tâm đến
các nhu cầu vật chất, sau đó nâng dần lên các nhu cầu cao hơn.
3. Học thuyết động cơ của Victor H.Room
Theo Hà Văn Hội (2007), Thuyết động cơ của Victor H.Room được trình bày
như sau:
Victor H.Room đưa ra công thức:
Sức mạnh= Sự ham mê + Niềm hy vọng
Trong đó:
- Sức mạnh là mức độ, động lực thúc đẩy con người làm việc
-Sự ham mê là mức độ ưu ái, ưa thích của một người dành cho công việc đã lựa
chọn
- Niềm hy vọng là xác suất mà một hoạt động riêng lẻ sẽ dẫn tới kết quả mong
muốn.
Theo Victor H.Room thì tạo động lực là làm cho người lao động thấy rõ mối
quan hệ giữa phần thưởng và kết quả đạt được, hoạt động về chính sách thù lao
công bằng, giúp người lao động có kỳ vọng tốt với tổ chức.
Học thuyết về động cơ của F. Herzbeg
Theo Hà Văn Hội (2007), Thuyết về động cơ của F. Herzbeg được trình bày như
sau:Frederick Herzberg đã đưa ra hai tập hợp các yếu tố thúc đẩy người lao động
làm việc là:Những yếu tố duy trì: gồm những yếu tố có thể định lượng ,(lương,
thưởng,…) làm cho người lao động cảm thấy hài lòng, thõa mãn. Đây là yếu tố
nhất thiết cần phải có. Khi các yếu tố này được thõa mãn, đôi khi những người
lao động lại coi đó là điều tất nhiên. Nhưng nếu không có chúng, họ sẽ trở nên
bất mãn và dẫn tới hoạt động sản xuất kinh doanh bị giảm sút.
Những yếu tố có tác dụng thúc đẩy thực sự: gồm những yếu tố định tính (trách
nhiệm, sự thành đạt, được công nhận,…). Các yếu tố này liên quan đến nội dung
công việc. Khi thiếu vắng các yếu tố thúc đẩy, người lao động sẽ biểu lộ sự
không hài lòng, lười biếng và thiếu sự thích thú làm việc. Những điều này gây ra
sự bất ổn về mặt tinh thần.