Nhận viết luận văn Đại học , thạc sĩ - Zalo: 0917.193.864
Tham khảo bảng giá dịch vụ viết bài tại: vietbaocaothuctap.net
Download luận văn thạc sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay, cho các bạn có thể làm luận văn tham khảo
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
Luận văn: Quyền của người đồng tính theo pháp luật hiện nay, 9đ
1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
NGUYỄNTHỊKIMTIẾNNGÀNH:LUẬTHIẾNPHÁPVÀLUẬTHÀNHCHÍNHKHÓAVIIINĂM2017
2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ KIM TIẾN
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN LINH GIANG
HÀ NỘI - 2019
3. 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm gần đây, những người đồng tính công khai tình cảm, tổ chức
đám cưới, sống chung hay nhập quốc tịch của những quốc gia thừa nhận kết
hôn đồng giới để kết hôn không còn là một vấn đề mới mẻ. Tuy xã hội đã cởi
mở hơn với những người đồng tính nhưng thực tế họ vẫn còn chịu đựng sự
thiệt thòi, sự kì thị, đối xử bất công trong các quan hệ xã hội. Bởi lẽ chưa có
cơ sở pháp lý phù hợp ghi nhận và bảo đảm các quyền của người đồng tính.
Không lý do gì họ không có được những quyền đáng được có. Vì đồng tính
không phải là bệnh có thể chữa trị, và người đồng tính cũng không có quyền
lựa chọn được giới tính, càng không thể thay đổi xu hướng tình dục của mình.
Vậy nên, những người đồng tính cần được xã hội nhìn nhận, thừa nhận, bảo
vệ, và cần được đối xử bình đẳng, được tự do sống đúng với con người thật
của mình vì “mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ
những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống,
quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc” [40].
Năm 2001, từ khi Hà Lan trở thành nước đầu tiên hợp pháp hóa hôn
nhân đồng tính và cho phép các cặp đồng tính có quyền kết hôn, ly hôn và
nhận con nuôi thì phong trào đòi quyền con người của người đồng tính ngày
một phổ biến. Cho đến nay, phong trào này không có dấu hiệu dừng lại ở thế
giới, trong đó có Việt Nam và là một trong vấn đề gây nhiều tranh cãi liên
quan đến lĩnh vực quyền con người. Tính đến tháng 06/2019, Trung Hoa Dân
Quốc (hay còn gọi là Đài Loan) đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới vào
ngày 24 tháng 5 năm 2019 và trở thành quốc gia châu Á đầu tiên - quốc gia
thứ 29 hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Việt Nam cũng đang trong quá trình
xây dựng, bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người bằng việc tham gia các công
4. 2
ước quốc tế về quyền con người, quy định về quyền con người nói chung và
quyền của người đồng tính nói riêng đã được ghi nhận trong các văn bản quy
phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao
động, luật Hôn nhân Gia đình... Tuy nhiên, các quy định này còn chưa phù
hợp với quy luật vận động phát triển của xã hội trong nước cũng như quá
trình hội nhập quốc tế. Dù pháp luật đã có tính cởi mở trong việc đảm bảo các
quyền con người nhưng trên thực tế vẫn không thể đảm bảo được hết các
quyền của những người đồng tính. Thực tiễn các quan hệ xã hội phát sinh
những năm gần đây cho thấy các nhu cầu về mong muốn kết hôn, tình trạng
phân biệt đối xử còn phổ biến, nhiều quan hệ mới phát sinh cần phải được
điều chỉnh. Vì vậy, việc xây dựng cơ sở pháp lý là vô cùng quan trọng và cần
thiết nhằm đảm bảo và thực thi các quyền của người đồng tính.
Vì những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “quyền của người đồng tính
theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với
mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền của người
đồng tính, từ đó chỉ ra những bất cập và hạn chế đối với quy định của pháp
luật về quyền của nhóm người này để đưa ra các giải pháp sửa đổi, bổ sung,
bảo vệ quyền của người đồng tính phù hợp với thực tiễn xã hội trong nước và
nhân quyền quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến
quyền của người đồng tính. Trước tiên phải kể đến những công trình nghiên
cứu liên quan đến quyền con người tạo tiền đề cho việc nghiên cứu quyền của
người đồng tính như: Giáo trình Quyền con người của GS.TS Võ Khánh Vinh
xuất bản năm 2011; Sách chuyên khảo Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con
người của GS.TS Võ Khánh Vinh xuất bản năm 2011; Giáo trình lý luận và
pháp luật về quyền con người của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội xuất
5. 3
bản năm 2009; Giáo trình Giới thiệu về các văn kiện quốc tế về quyền con
người của Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2011.
Về các công trình nghiên cứu về quyền của người đồng tính thì chúng ta
phải kể đến các bài nghiên cứu tiêu biểu đó là: Pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới về quyền của người đồng tính của tác giả Trương Hồng Quang;
Quyền con người được sống theo đúng giới tính của mình của tác giả Cao Vũ
Minh;
Về các bài báo, sách và báo cáo nghiên cứu về quyền của người đồng
tính, song tính, chuyển giới: “Pháp luật quốc tề về quyền con người đồng
tính, song tính, chuyển giới”, “Sách chuyên khảo tìm hiểu quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính ở Việt Nam” của tác giả
Trương Hồng Quang; Báo cáo về tình hình quyền con người của người đồng
tính, song tính và chuyển giới (“LGBT”) tại Việt Nam (tháng 1-2 năm 2014)
của viện nghiên cứu Kinh tế, Xã hội và Môi trường; “Tiếp cận dựa trên quyền
trong việc xây dựng, thực hiện pháp luật về quyền của người đồng tính, song
tính và chuyển giới (LGBT) ở Việt Nam” của tác giả Trương Hồng Quang
trong Hội thảo khoa học Tiếp cận dựa trên quyền: Lý luận, thực tiễn trên thế
giới và ở Việt Nam”do Khoa luật (ĐHQG Hà Nội) tổ chức tại Hà Nội ngày
18/11/2015.
Về các luận văn thạc sĩ nghiên cứu quyền của người đồng tính thì có các
công trình như: Luận văn ThS. Luật “Quyền của người đồng tính, song tính,
chuyển giới trong Pháp luật dân sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Thùy Dung;
“Quyền của người đồng tính: Lý luận và thực tiễn”- Luận văn thạc sĩ luật học
của tác giả Nguyễn Thị Minh Tâm; Quyền của người đồng tính, song tính và
chuyển giới: pháp luật và thực tiễn trên thế giới và ở Việt Nam của tác giả Lê
Thanh Tùng và Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Thị Ngọc Anh về Hoàn thiện
6. 4
pháp luật về quyền chuyển đổi giới tính hiện nay và Luận án Tiến sĩ Luật
Hành chính - Hiến pháp của tác giả Trương Hồng Quang về Quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính theo Pháp luật Việt Nam
hiện nay bảo vệ năm 2019 tại Học viện Khoa học Xã hội.
Về các văn kiện quốc tế nghiên cứu về các quyền của người đồng tính,
song tính và chuyển giới (viết tắt là LGBT) bao gồm các công trình như: Bộ
nguyên tắc Yogyakarta, Bản Tuyên bố chung trong việc chấm dứt bạo lực và
vi phạm nhân quyền dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới (Joint
statement on ending acts of violence and related human rifhts violations based
on sexual orientation and gender identity), Nghị quyết 17/19 (17/19 Human
rights, sexual orientation and gender A/HRC/RES/17/1) của Hội đồng Nhân
quyền LHQ thông qua tháng 6/2011, cẩm nang Sinh ra tự do và bình đẳng -
Xu hướng tính dục và Bản dạng giới trong Luật Nhân quyền quốc tế (Born
Free Equal - sexual Orientation and Gender Identity in International Human
Rights Law).
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề về quyền của người đồng tính vẫn chưa
được nghiên cứu sâu ở Việt Nam. Các công trình nghiên cứu trên chỉ mới tiến
hành nghiên cứu các quyền của cộng đồng LGBT nói chung hoặc nghiên cứu
về quyền của người đồng tính trên thế giới từ đó so sánh và xây dựng bài học
cho Việt Nam trong việc xây dựng các quyền. Tuy nhiên, người đồng tính,
song tính và người chuyển giới khác nhau về bản chất, vì vậy các nghiên cứu
này chưa thể phân tích sâu về quyền của người đồng tính, mà chỉ dừng lại ở
mức độ chung nhất các quyền của nhóm người này. Đồng thời, hầu hết các
bài báo khoa học và luận văn thạc sĩ được xây dựng trước năm 2015 khi luật
hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự 2015, Bộ luật Hình sự 2015
chưa có hiệu lực, và còn nhiều khía cạnh pháp luật đổi mới cũng như các
quan hệ xã hội phát sinh chưa cần được tìm hiểu và phân tích. Trên cơ sở kế
7. 5
thừa các công trình nghiên cứu trước đây, tác giả mong muốn luận văn này sẽ
góp phần làm cơ sở lý luận khoa học trong việc xây dựng quyền của người
đồng tính tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay đặc biệt là quyền tự do hôn
nhân và quyền không bị phân biệt đối xử trong các quan hệ pháp luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các cơ sở lý luận và thực tiễn, luận văn góp
phần trong việc đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng, sửa đổi các quy định của
pháp luật để bảo vệ quyền của người đồng tính ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để làm rõ những vấn đề trên, Luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ
chính sau đây:
Thứ nhất: Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về quyền của người đồng tính
theo pháp luật Việt Nam;
Thứ hai, Phân tích thực trạng các quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến
người đồng tính hiện nay, đồng thời luận giải các quy định của pháp luật để
chỉ ra những điểm bất cập cần được hoàn thiện và sửa đổi;
Thứ ba, Đưa ra các nhóm giải pháp đảm bảo quyền của người đồng tính
được thực thi trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về thực trạng quan hệ xã hội liên quan
đến người đồng tính và quyền của người đồng tính, các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện nay về quyền của người đồng tính cũng như các văn kiện
pháp lý quốc tế và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới có liên quan.
8. 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Luận văn nghiên cứu các số liệu dựa
trên cáo cuộc khảo sát và các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành từ
giai đoạn năm 2014 đến năm 2019
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Pháp luật Việt Nam liên quan đến
các nhóm quyền của người đồng tính. Có rất nhiều nhóm quyền của người
đồng tính cần phải được nghiên cứu, nhưng tác giả tập trung vào các quyền
như quyền tự do hôn nhân, quyền không bị phân biệt đối xử trong đời sống
Chính trị, Dân sự, Kinh tế, Văn hóa - Xã hội và các quyền trong lĩnh vực
Hình sự nhằm đảm bảo chất lượng cho Luận văn.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Để hoàn thành luận văn này, tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác Lê - Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người, quyền công dân cũng
như các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, tổng hơp tài liệu: Được sử dụng để phân tích các
báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu đã được công bố, các sách
chuyên khảo, các khảo sát có liên quan đến đề tài luận văn để làm rõ các khái
niệm và cơ sở lý luận của đề tài trong chương 1.
Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp số liệu: Được sử dụng trong
chương 2 để phân tích thực trạng người đồng tính hiện nay và quy định của
pháp luật hiện hành liên quan đến quyền của người đồng tính.
Phương pháp phân tích, so sánh, mô hình giả định: Được sử dụng để đưa
ra những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về quyền của
người đồng tính ở chương 3.
9. 7
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp phân tích tổng hợp, xã hội học,
so sánh đánh giá để làm rõ các vấn đề. Luận văn sử dụng các thông tin đã
được công bố trên thế giới và Việt Nam để chứng minh cho luận điểm của
mình.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn như sau:
Về cơ sở lý luận: Luận văn làm rõ các khái niệm liên quan đến người
đồng tính và quyền của người đồng tính, cung cấp những kiến thức khoa học
mang tính lý luận và thực tiễn về người đồng tính và quyền của người đồng
tính; giúp cho người đọc nhận thức đầy đủ và toàn diện nhất về người đồng
tính và các quyền chính đáng cần được pháp luật và xã hội thừa nhận, bảo vệ.
Về mặt thực tiễn: Luận văn cũng mang tính đóng góp cơ sở lý luận trong
quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội liên quan đến người đồng tính.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn chia làm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về người đồng tính và quyền của người đồng
tính
Chương 2: Thực trạng quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Tăng cường bảo đảm quyền của người đồng tính ở Việt Nam
hiện nay
10. 8
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐỒNG TÍNH VÀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
1.1. Hệ thống các khái niệm
1.1.1. Khái niệm xu hướng tính dục
Trước đây, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về người đồng tính. Bên
cạnh một số quan điểm cho rằng đồng tính là một giới tính thứ ba bên cạnh
giới tính nam và nữ thì một số khác lại cho rằng đồng tính là một hiện tượng
trái với các quy luật tự nhiên, một căn bệnh có thể lây lan và có khả năng
chữa trị nếu áp dụng các biện pháp y học và thực hiện phương pháp điều trị.
Cùng với các quan điểm khắt khe về đồng tính, thì quá trình nghiên cứu và sự
phát triển về y học đã đưa ra những quan điểm mới về đồng tính và người
đồng tính. Theo đó, đồng tính được cho là một điều hoàn toàn tự nhiên của
con người, là bản năng và không thể thay đổi bởi sự tác động của các yếu tố
bên ngoài. Trước khi tìm hiểu như thế nào là người đồng tính, người đồng
tính khác những người “bình thường” như thế nào thì chúng ta phải hiểu như
thế nào là xu hướng tính dục?
Xu hướng tính dục là cụm từ dùng để “chỉ việc chịu sự hấp dẫn (có tính
bền vững) về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về tình dục của một
người đối với đối tượng nào đó” [53]. Do đó việc một người bị hấp dẫn về
mặt tình cảm có thể diễn ra giữa những người khác giới với nhau hoặc cũng
có thể xảy ra giữa những người cùng giới tính sinh học với mình, thậm chí có
thể bị hấp dẫn bởi cả hai hoặc không bị hấp dẫn bởi bất kỳ một giới tính nào.
Theo các nghiên cứu đã được công bố, hiện nay có các xu hướng tính dục sau:
(1) Xu hướng tính dục phổ biến nhất hiện nay chính là xu hướng tính dục
khác giới (hay còn gọi là những người có xu hướng tính dục dị tính) là khả
năng một người nào đó bị hấp dẫn cả về mặt tình dục và tình cảm đối với
11. 9
người khác giới, không bao giờ mong muốn mình mang một giới tính khác
với giới tính được sinh ra. Đây là xu hướng tính dục chủ yếu được Việt Nam
và nhiều quốc gia khác trên thế giới làm tiêu chuẩn cho các quan niệm về gia
đình, đó là hôn nhân giữa những người khác giới bị hấp dẫn về mặt tình cảm
và cảm xúc, mong muốn gắn bó lâu dài với nhau và không mong muốn thay
đổi giới tính của mình.
(2) Xu hướng tính dục phổ biến thứ hai hiện nay là xu hướng tính dục
cùng giới đó là việc một người bị hấp dẫn về mặt tình cảm với người cùng
giới tính với mình, không bao giờ mong muốn mình có giới tính khác giới
tính mình được sinh ra. Xu hướng tính dục đồng tính xuất hiện ở nam giới
(gọi là gay) và nữ giới (gọi là lesbian) và gọi chung là xu hướng tính dục đồng
tính. Những người có xu hướng tính dục đồng tính về bản chất họ hoàn toàn
hài lòng với giới tính mà mình được sinh ra, hài lòng với cơ thể mình đang sỡ
hữu, không có nhu cầu thay đổi giới tính, tuy nhiên về mặt tình cảm và khả
năng bị hấp dẫn lâu dài thì họ chị bị hấp dẫn bởi những người cùng giới tính
sinh học với mình.
(3) Xu hướng tính dục thứ ba là xu hướng tính dục song tính. Đây là xu
hướng tính dục của một người có thể bị hấp dẫn bởi cả hai giới tính là giới
tính nam và cả giới tính nữ và không mong muốn mình có giới tính sinh học
khác với giới tính mình được sinh ra. Trước đây, những người có xu hướng
tính dục này được gọi là người lưỡng tính. Tuy nhiên nếu sử dụng thuật ngữ
này để chỉ những người mang hai xu hướng tính dục (vừa đồng tính vừa dị
tính) sẽ dẫn đến việc gây hiểu nhầm người này có cả hai giới tính vừa nam
vừa nữ nên vừa có thể thích nam và vừa có thể thích nữ. Do đó cần xét về bản
chất, xu hướng tính dục song tính là việc họ mang trong mình một giới tính
duy nhất hoặc là nam, hoặc là nữ nhưng lại bị hấp dẫn và có tình cảm với
những người cùng giới và cả những người khác với giới tính của mình. Vì
12. 10
vậy, cần sử dụng chính xác thuật ngữ xu hướng tính dục song tính để chỉ
những người bị hấp dẫn bởi cả hai xu hướng tính dục này.
(4) Xu hướng tính dục vô tính là xu hướng tính dục dùng để chỉ những
người không bị hấp dẫn bởi bất kỳ cứ giới tính nào. Đây là xu hướng tính dục
còn mang nhiều tranh cãi, vì việc xác định xu hướng tính dục của một người
xem việc người đó có bị hấp dẫn bởi giới tính nào hay không thường phụ
thuộc vào yếu tố chủ quan nên việc một người có hay không bị hấp dẫn bởi
giới tính nào rất khó xác định trên thực tiễn. Đối với những người vô tính vì
không bị hấp dẫn và có tình cảm với bất kỳ giới tính nào, nên họ thường
mong muốn có một người bạn đời để chia sẻ, còn những vấn đề về tình dục,
tình yêu đối với họ như là một điều xa lạ. Việc hình thành và phát triển các xu
hướng tính dục này tuân theo các quy luật tự nhiên và là một hiện tượng hết
sức tự nhiên của con người. Nhưng quá trình hình thành, phát triển và lộ diện
của nó tiến triển một cách chậm chạm phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Năm 1973, Hiệp hội tâm lý Hoa Kỳ (APA) đã loại đồng tính ra khỏi
danh sách những bệnh tâm thần, đồng thời khẳng định “Bản chất của đồng
tính luyến ai không bao hàm sự suy yếu về mặt nhận thức, sự ổn định, độ tin
cậy, khả năng trong các mối quan hệ xã hội hoặc ngành nghề nói chung”
đồng thời kêu gọi các chuyên gia sức khỏe hàng đầu loại bỏ đồng tính ra khỏi
những bệnh tâm thần [45]. Đến năm 2001, sau 5 năm nghiên cứu, Hiệp hội
Tâm thần Trung Quốc cũng đã loại bỏ đồng tính khỏi danh sách các bệnh tâm
thần không chữa khỏi và khẳng định đồng tính là một xu hướng tính dục hoàn
toàn tự nhiên của con người, đồng thời khẳng định đây cũng không phải là
giới tính thứ ba bên cạnh giới tính nam và giới tính nữ [45]. Và đồng tính
chính thức được Tổ chức Y tế Thế giới - cơ quan của Liên Hợp Quốc cố vấn
cho các nước về lĩnh vực y tế đã loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh
13. 11
tâm thần đồng thời khẳng định “mọi người đều có quyền bình đẳng, bất kể
thiên hướng tính dục như thế nào” và được thông qua trong nghị quyết Hội
đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc vào tháng 6/2011.
Trong xã hội hiện nay, xu hướng tính dục dị tính chiếm phần đông đảo,
do đó, con người vẫn luôn cho rằng đồng là đi ngược lại với quy luật tự nhiên
của con người. Tuy nhiên, những động thái này đã khẳng định đồng tính chỉ
là một xu hướng tính dục chiếm số ít bên cạnh các xu hướng tính dục khác
như dị tính, lưỡng tính và vô tính. Do đó, việc một người mang trong mình
giới tính nam, hoặc nữ có thể có xu hướng tính dục song tính, dị tính, vô tính
hoặc đồng tính.
Việc cho rằng đồng tính, vô tính hay song tính là trái với tự nhiên dẫn
đến việc kỳ thị thị đối với những xu hướng tính dục ngoài xu hướng tính dục
dị tính, thậm chí một số quốc gia hình sự hóa đối với những người đồng tính
chính là lý do khiến những người mang xu hướng tính dục ngoài dị tính
không thể công khai xu hướng tính dục của mình. Không những chỉ chiếm số
lượng ít trong xã hội, mà việc đa số công chúng tiếp cận các kiến thức, sự
hiểu biết trên phương tiện không chính thống về người đồng tính hoặc chưa
có hiểu biết một cách chính xác về xu hướng tính dục nên dẫn đến tình trạng
kỳ thị những người có xu hướng tính dục đồng tính. Cũng vì áp lực từ phía
gia đình, xã hội mà nhiều người đã cố gắng thay đổi xu hướng tính dục của
mình sang xu hướng tính dục dị tính nhưng xu hướng tính dục lại không thể
thay đổi dựa vào ý chỉ chủ quan của con người.
Như vậy, cần một lần nữa khẳng định rằng xu hướng tính dục là việc
một người chịu sự hấp dẫn về tình cảm, cảm xúc, sự lãng mạn, trìu mến của
một người với một đối tượng nào đó có thể cùng, khác với giới tính sinh học
của mình hoặc không bị hấp dẫn bởi giới tính nào. Xu hướng tính dục không
phải là một căn bệnh có thể chữa trị, càng không phải là lựa chọn có ý thức
14. 12
của mỗi người và không thể nỗ lực trong việc thay đổi xu hướng tính dục của
mình.
1.1.2. Khái niệm giới tính và bản dạng giới
1.1.3.1. Khái niệm giới tính
Giới tính (sex) là khái niệm dùng để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ về
mặt sinh học, gen và các yếu tố di truyền khác. Do đó, giới tính được xác định
là các đặc điểm sinh học tạo nên sự khác biệt giữa nam và nữ, bao gồm các
yếu tố bẩm sinh, mang tính đồng nhất, do yếu tố sinh học quyết định và không
thể thay đổi được giữa nam và nữ. Ví dụ phụ nữ có bộ phận sinh dục nữ, có
thể mang thai, cho con bú, còn nam giới có thể sản xuất tinh trùng từ bộ phân
sinh dục của mình.
Giới tính có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giới tính hoàn toàn được quy định hoàn toàn bởi gen, cụ thể là
hai cặp nhiễm sắc thể XY và XX. Trong đó XY là cặp nhiễm sắc thể của nam
giới, còn XX là cặp nhiễm sắc thể quy định cho nữ giới.
Thứ 2, giới tính là yếu tố bẩm sinh, không bị thay đổi bởi yếu tố bên
ngoài. Giới tính là yếu tố không phụ thuộc vào yếu tố không gian, thời gian
hay bất kì tác động từ bên ngoài nào. Giới tính phát triển và duy trì ổn định ở
bất kì giai đoạn phát triển nào, được biểu hiện ra bên ngoài và có thể quan sát
được, gắn liền với chức năng sinh học của con người. Quá trình này thay đổi
theo quy luật sinh học, không phụ thuộc vào mong muốn hay ý chí chủ quan
của con người.
Do đó giới tính sinh học của một người được hiểu là các yếu tố bẩm sinh
được quy định bởi các yếu tố sinh học, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của con người, không chịu sự tác động của các yếu tố bên ngoài và không thể
thay đổi qua các giai đoạn phát triển.
15. 13
1.1.3.2. Khái niệm bản dạng giới
Đối với người đồng tính, khi sinh ra họ có nhận thức về giới tính của
mình là nam hoặc nữ và có tình cảm đối với những người cùng giới tính,
không mong muốn mình có giới tính khác với giới tính mình được sinh ra.
Nhưng bên cạnh đó, nhiều người khi sinh ra sau một quá trình phát triển, họ
cảm nhận mình mang một giới tính hoàn toàn khác so với giới tính mình đang
có. Những người mang nhận thức giới tính khác so với giới tính của mình, có
nhu cầu chuyển đổi thành một giới tính khác để giới tính sinh học phù hợp
với nhận thức về giới tính của bản thân, những người này chúng ta thường gọi
là người chuyển giới. Như vậy bên cạnh những người có giới tính sinh học
phù hợp với giới tính do mình tự cảm nhận thì vẫn có những người cảm thấy
giới tính của mình được sinh ra không giống với nhận thức về giới tính của
bản thân. Nên việc một người nhận thức hoặc tự nhận mình mang một giới
tính nào đó (có thể giống hoặc khác giới tính mà mình được sinh ra) được gọi
là bản dạng giới. Một người có nhận thức, mong muốn có giới tính khác với
giới tính mình được sinh ra là điều hết sức bình thường và là một thực trạng
đang diễn ra rất phổ biến trong xã hội hiện nay. Nhận thức về giới không nhất
thiết phụ thuộc vào giới tính sinh học hoặc giới tính mà người khác cảm nhận
cũng như xu hướng tính dục mà là dựa vào giới tính tự xác định của người đó
tự xác định mình có thể là nam hoặc nữ.
Tác giả đưa ra khái niệm bản dạng giới ở đây để người đọc không bị
nhầm lẫn với khái niệm về xu hướng tính dục để phân biệt người đồng tính
với khái niệm chuyển giới. Bởi lẽ trước đây và hiện nay vẫn vậy, nhiều người
cho rằng những người đồng tính là những người cùng giới tính sinh học họ
yêu nhau vì cho rằng giới tính sinh học được sinh ra khác với giới tính họ cảm
nhận, nên khi những người đồng tính thực hiện chuyển đổi giới tính thì có thể
yêu khác với giới tính sau khi chuyển đổi. Tuy nhiên những người đồng tính
16. 14
không mong muốn mình có một giới tính khác với giới tính mình được sinh ra
nên họ không có nhu cầu chuyển đổi giới tính của mình. Do đó tác giả làm rõ
hai khái niệm này để người đọc có thể hiểu rõ hơn về khái niệm xu hướng
tính dục và bản dạng giới để tránh cách hiểu sai lầm về hai khái niệm này,
cũng như phân biệt giữa người đồng tính và người chuyển đổi giới tính. Tuy
nhiên trong nội dung luận văn này, tác giả chỉ đề cập và phân tích các quyền
của người đồng tính với xu hướng tính dục đồng tính.
1.1.3. Khái niệm người đồng tính
Từ việc phân tích khái niệm giới tính, bản dạng giới cũng như xu hướng
tính dục nêu trên, chúng ta có thể hiểu đồng tính là một trong các xu hướng
tính dục của con người và không liên quan đến vấn đề giới tính. Ngoài xu
hướng tính dục dị tính chiếm số lượng đông đảo thì các xu hướng tính dục
còn lại chiếm số lượng nhỏ và không phải lúc nào cũng được bộc lộ và có thể
nhận biết một cách dễ dàng thông qua các yếu tố bên ngoài. Như vậy, một
người mang giới tính nam, hoặc nữ đều có thể mang xu hướng tính dục đồng
tính, hoặc dị tính, hoặc song tính hoặc là vô tính. Đây hoàn toàn không phải
lựa chọn mà nó xuất hiện với bản chất tự nhiên, không phụ thuộc ý chí của
con người, xuất hiện khi con người sinh ra và bộc lộ theo một giai đoạn nhất
định.
Đồng tính là viết tắt của cụm từ đồng tính luyến ái (homosexual), người
đồng tính là những người bị hấp dẫn về mặt tình cảm bởi những người cùng
giới tính, họ hoàn toàn thỏa mãn và hài lòng với giới tính mình được sinh ra,
không có mong muốn có giới tính khác với giới tính của mình. Trong đó nam
giới là người đồng tính nam (thường gọi là gay) và nữ giới gọi là đồng tính nữ
(thường gọi là “lesbian”) và gọi chung là người đồng tính. Dưới góc độ khoa
học, thì đồng tính không phải là sự rối loạn tâm sinh lý mà là hiện tượng tự
nhiên. Tuy nhiên, Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất giữa các nhà khoa
17. 15
học về nguyên nhân xuất hiện đồng tính. Một số nghiên cứu cho rằng đồng
tính xuất hiện do chịu sự tác động qua lại của yếu tố di truyền và môi trường
tử cung của người mẹ trong giai đoạn đầu ở thai nhi, do ảnh hưởng một phần
từ yếu tố tự nhiên và nuôi dưỡng, hay yếu tố di truyền đều có thể là nguyên
nhân xuất hiện đồng tính [45]. Nên một người sinh ra đều có thể mang trong
mình xu hướng tính dục dị tính, đồng tính, song tính hoặc vô tính. Vậy cũng
như những cặp đôi dị tính khác, các hành vi tình dục của những người đồng
giới hay quan hệ yêu đương đồng giới là một trong những các dạng thức gắn
bó để đáp ứng nhu cầu của con người về tình yêu, sự quan tâm và thể hiện sự
gắn bó và là nhu cầu hạnh phúc cơ bản nhất của con người.
Dẫu vậy, cho đến nay vẫn còn nhiều người lầm tưởng khái niệm đồng
tính rằng đó là một giới tính đi ngược lại giới tính tự nhiên của con người, là
một sự rối loại tâm sinh lý. Nhiều người còn cho rằng đối với những người
đồng tính nam, và những người đồng tính nữ, bị hấp dẫn bởi những người
cùng giới tính là đến từ nguyên nhân không đồng nhất giữa cơ thể và tâm lý,
do đó có thể chữa bệnh đồng tính bằng cách thực hiện phẫu thuật chuyển đổi
giới tính. Những người thực hiện chuyển đổi giới tính là do nhận thức bản
dạng giới về giới tính của mình khác với giới tính được sinh ra như tác giả đã
phân tích ở trên, do đó thực hiện việc chuyển đổi để phù hợp với giới tính họ
mong muốn. Nên việc một người có nhận thức bản dạng giới khác giới tính
được sinh ra có tình cảm với một người cùng giới tính của mình thì không
phải là người đồng tính mà điều này liên quan đến nhận thức về giới tính hay
còn gọi là bản dạng giới. Do đó bản dạng giới không phải là xu hướng tính
dục và không thể xem họ là người đồng tính.
Từ việc phân tích trên, có thể kết luận rằng người đồng tính không phải
là người mang các bệnh rối loạn tâm thần mà là một cá nhân mang một giới
tính nhất định không phải giới tính thứ ba, không phải trào lưu và cũng không
18. 16
phải căn bệnh có thể lây lan và phụ thuộc vào mong muốn của mỗi người. Mà
người đồng tính gắn liền với xu hướng tính dục đồng tính, họ bị hấp dẫn về
tình cảm, sự lãng mạn, tình dục với những người cùng giới tính sinh học,
mong muốn gắn bó lâu dài với những người cùng giới tính, không có nhu cầu
thay đổi giới tính khác với giới tính sinh học của mình.
1.2. Vị trí quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật về
quyền con người
Người đồng tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội, đều là cá nhân
được sinh ra, tồn tại, được xã hội công nhận và tôn trọng, do đó quyền của
người đồng tính cũng chính là các quyền cơ bản của con người. Vì vậy trước
khi tìm hiểu về vị trí quyền của người đồng tính trong hệ thống pháp luật về
quyền con người, trước hết chúng ta cần hiểu quyền con người là gì?
Quyền con người (human rights) là một phạm trù rộng, với nhiều cách
định nghĩa khác nhau được đưa ra. Theo tài liệu của Liên Hợp Quốc, có đến
gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố. Mỗi định nghĩa tiếp
cận ở mỗi góc độ khác nhau nên chỉ chỉ ra được những thuộc tính nhất định
không bao hàm được tất cả nội dung về quyền con người. Tính phù hợp của
mỗi định nghĩa phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mỗi cá nhân. Tuy nhiên
khái niệm về quyền còn người được trích dẫn chủ yếu nhất hiện nay là khái
niệm được đưa bởi Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc. Theo đó “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động (actions)
hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được
phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con người”
[56, Tr8]. Bên cạnh định nghĩa này, một định nghĩa khác cũng được trích dẫn
thường xuyên được đưa ra, trong đó khái quát quyền con người là những sự
được phép (entitlements) mà tất cả các thành viên của cộng đồng nhân loại,
19. 17
không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ
khi sinh ra, đơn giản vì họ là con người.
Ở Việt Nam, nhiều tác giả cũng đã nghiên cứu, phân tích và đưa ra nhiều
định nghĩa khác nhau về quyền con người. Một số tác phẩm tiêu biểu trong số
đó là Giáo trình lý luận và Pháp luật về quyền con người đã định nghĩa
“Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý
quốc tế” [3, Tr8]. Do đó, dù quyền con người được tiếp cận ở góc độ nào đi
chăng nữa thì về bản chất, quyền con người được hiểu là những nhu cầu và lợi
ích tự nhiên, vốn có, được ghi nhận và bảo vệ bởi pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế. Những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa
nhận và tuân thủ, thể hiện giá trị nhân văn của nhân loại được áp dụng cho tất
cả mọi người. Trên cơ sở đó, ai cũng có quyền được bảo vệ và phát triển với
tư cách là một con người, là những giá trị cao cả cần được tôn trọng, bảo vệ
trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử.
Từ phân tích nêu trên, có thể hiểu quyền của người đồng tính cũng là
những nhu cầu, khả năng và các đặc quyền tự nhiên vốn có của con người.
Điều này được thể hiện qua sự công bằng ở quyền được sống, quyền tự do,
quyền mưu cầu hạnh phúc và các quyền cơ bản khác. Mang bản chất là quyền
con người, do đó, quyền của người đồng tính cũng có những đặc điểm chung
của quyền con người bên cạnh những đặc điểm riêng biệt:
Thứ nhất, quyền của người đồng tính chính là quyền con người
Người đồng tính cũng là các chủ thể trong mối quan hệ với quyền con
người, vì vậy họ cũng có những quyền cơ bản như quyền được đối xử công
bằng, quyền được tự do, và một trong những quyền quan trọng nhất là quyền
được công nhận và tôn trọng.
20. 18
Hiện nay, chúng ta cần có cách nhìn nhận đúng đắn, chính xác hơn, toàn
diện hơn đối với những người đồng tính. Người đồng tính cũng cần được đảm
bảo các quyền về tự do, và tự do công khai xu hướng tính dục, tự do hôn nhân
là thể hiện một phần quyền tự do của người đồng tính. Tuy nhiên, thực tế khi
những người đồng tính công khai xu hướng tính dục, họ thường bị kì thị từ
phía gia đình, xã hội và những người được công khai. Công khai để sống
đúng bản chất con người, được xã hội tôn trọng và được mưu cầu hạnh phúc,
đó cũng là thể hiện quyền tự do của con người bằng khả năng tìm khiếm hạnh
phúc, giá trị và nhu cầu về mặt tình cảm của bản thân. Một trong những khía
cạnh thể hiện quyền được hạnh phúc đó là việc được tự do hôn nhân, xây
dựng gia đình và được Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quan hệ hôn nhân đó. Tuy
nhiên, đây chính là vấn đề trở ngại nhất đối với các quyền của người đồng
tính vì bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố lịch sử, văn hóa, đạo đức và các quan
niệm truyền thống dẫn đến sự khó chấp nhận, thậm chí phản đối gay gắt
quyền kết hôn giữa những người đồng tính. Đối với người đồng tính hiện nay
đã xuất hiện các hình thức chung sống hợp pháp như: Cho phép kết hôn đồng
tính, công nhận hình thức kết hợp dân sự. Với các hình thức kết hợp dân sự,
những cặp đôi đồng tính được xem như những cặp vợ chồng. Nhưng thực tế
quyền của họ cũng bị hạn chế hơn những cặp vợ chồng dị tính khác như việc
hưởng các chính sách xã hội, thuế, cũng như quyền nhận nuôi con nuôi hay
thừa kế. Và đa phần hình thức kết hợp dân sự chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp,
gây khó khăn trong việc thay đổi nơi cư trú của những cặp đồng tính. Không
những thế, các quyền của người đồng tính còn bị hạn chế bởi các yếu tố như
chính trị, truyền thống, văn hóa, xã hội, tôn giáo của mỗi quốc gia và khu vực.
Thứ hai, để đảm bảo thực hiện các quyền con người của người đồng tính,
cần có một sự bảo đảm pháp lý tương đối đặc biệt cho đối tượng này
Người đồng tính cũng như các chủ thể khác trong xã hội đều có các
21. 19
quyền và nghĩa vụ như một công dân thực thụ trong pháp luật của mỗi quốc
gia. Tuy nhiên, vì là nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội, cũng như các
nhóm người dễ bị tổn thương khác, người đồng tính thường gặp khó khăn khi
thụ hưởng các quyền con người của mình. Vì thế, để đảm bảo cho người đồng
tính được thụ hưởng các quyền của mình một cách bình đẳng như các đối
tượng khác trong xã hội, cần có một sự bảo đảm pháp lý để người đồng tính
có thể thực hiện được một số quyền đặc thù như quyền kết hôn đồng tính
(hiện nay mới chỉ thừa nhận ở một số nước), quyền được bảo vệ chống lại sự
kỳ thị, sự phân biệt đối xử. Như vậy người đồng tính là đối tượng cần được
bảo vệ để họ có thể thụ hưởng một số quyền con người của mình. Nên cần
phải có sự pháp điển hoá đối với một số quyền của người đồng tính.
Thứ ba, về bản chất, quyền của người đồng tính vừa mang bản chất
quyền của nhóm người dễ bị tổn thương, vừa mang bản chất quyền cá nhân
cần được công nhận và bảo vệ để bảo đảm giá trị xã hội và nhân đạo của pháp
luật. Nhóm người đồng tính, song tính, vô tính và liên giới tính nói chung và
người đồng tính nói riêng là nhóm người có xu hướng tính dục thiểu số trong
xã hội và đang phải đối mặt với sự kì thị và phân biệt đối xử. Đối với nhóm
người đồng tính bao gồm những đối tượng thuộc các nhóm người dễ bị tổn
thương (Có thể hiểu là các cộng đồng hoặc nhóm người có vị thế chính trị, xã
hội thấp hơn đa số, khiến họ có nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền. Bởi
vậy họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với nhóm, cộng đồng người khác”.
Các nhóm người dễ bị tổn thương gồm: trẻ em, phụ nữ, người lao động di trú,
người thiểu số...). Hơn nữa, người đồng tính có xu hướng tính dục thuộc về số
ít và cũng có thể rơi vào đối tượng là trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật…nên
người đồng tính vừa mang tính cá nhân, vừa mang yếu tố nhóm người bị yếu
thế cần được xã hội quan tâm và bảo vệ.
Nhìn từ nhiều góc độ khác nhau, thì các văn kiện quốc về về quyền con
22. 20
người đều đề cập đến quyền nhóm và quyền cá nhân. Nếu như quyền của
người đồng tính được pháp điển hóa trong các văn kiện pháp luật quốc tế và
các quyền của họ được thừa nhận như quyền được kết hôn giữa những người
cùng giới tính, quyền được nhận nuôi con nuôi, quyền không bị phân biệt dựa
trên bản dạng giới và xu hướng tính dục. Khi các quyền riêng biệt khác được
ghi nhận, được tiếp cận, được thực hiện và bảo vệ thi trên thực tế thì tính chất
dễ bị tổn thương sẽ bớt chồng chéo trong vấn đề bảo vệ quyền giữa các quyền
của các nhóm và cá nhân (vì trong bản chất phụ nữ, trẻ em, người già, người
thiểu số hay người khuyết tật đều có thể có xu hướng tính dục đồng tính và
thuộc đối tượng người đồng tính).
Qua sự phân tích nêu trên, có thể thấy quyền của người đồng tính là
những nhu cầu tự nhiên của con người bao gồm các quyền chung như mọi chủ
thể trong xã hội, ngoài ra còn có các quyền riêng biệt đặc thù, vừa mang bản
chất là quyền cá nhân, vừa mang bản chất là quyền của các nhóm người trong
xã hội. Dù là mang tính chất nhóm hay cá nhân, thì những người đồng tính
cũng cần được hưởng một cách đầy đủ, trọn vẹn nhất các quyền và giá trị cơ
bản nhất mà một con người cần phải có.
1.3. Quyền của người đồng tính trong các văn kiện quốc tế và pháp
luật một số quốc gia
1.3.1. Quyền của người đồng tính trong một số văn kiện quốc tế
Các văn kiện quốc tế liên quan đến quyền và bảo vệ quyền của người
đồng tính trước hết phải kể đến Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn
thế giới về Nhân quyền
1.3.1.1. Hiến chương Liên Hợp Quốc
Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 đã trở thành một trong những
văn kiện quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc công nhận các
quyền con người được thể hiện ngay trong lời nói đầu của Hiến chương:
23. 21
“Tuyên ngôn một lần nữa tin tưởng vào những quyền cở bản, nhân phẩm và
giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ” [7]. Không những
vậy, tại khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng “khuyến khích
phát triển sự tôn trọng trong các quyền của con người và các tự do cơ bản
cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn
giáo” [7, Điều 1]. Một trong những nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt của hiến
chương là bình đẳng, không có sự phân biệt giữa mọi cá nhân xuất phát từ
việc phân biệt đối xử về giới tính giữa nam và nữ. Mục đích đưa ra các
nguyên tắc này nhằm yêu cầu có sự đối xử công bằng không dựa vào giới
tính, dân tộc, tôn giáo và khẳng định các quyền tự do và bình đẳng giữa mọi
cá nhân trong xã hội. Là cơ sở để tạo tiền đề xây dựng và bảo vệ các quyền
con người và quyền của người đồng tính.
Mặc dù Hiến chương Liên Hợp Quốc là văn kiện quan trọng trong việc
khẳng định, bảo vệ và nâng cao các quyền con người, nhưng hiến chương chỉ
nêu ra các nguyên tắc, nội dung về quyền của con người mà chưa đề cập đến
trách nhiệm, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc đảm bảo và thực
thi các quyền này. Sự phân biệt đối xử chỉ dựa trên nguyên tắc giới tính,
chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, do đó việc xuất hiện khái niệm xu hướng tính
dục tồn tại song song với xu hướng tính dục dị tính, thì chưa có quy định cụ
thể để bảo vệ người đồng tính khỏi sự phân biệt, đối xử này.
1.3.1.2. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền
Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền là tuyên ngôn về các quyền của con
người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm
năm 1948 tại Palais de Chailot, Pháp theo quyết định số 217A (III) và được
dịch ra 375 thứ ngôn ngữ khác nhau. Tuyên ngôn là công cụ pháp lý thể hiện
các quyền cơ bản mà con người được hưởng, đồng thời là khuôn mẫu chung
cho mỗi quốc gia, tổ chức, cá nhân về việc được tôn trọng các quyền tự do và
24. 22
nhân quyền. Bản tuyên ngôn là khuôn mẫu chung cần đạt tới của tất cả mọi
quốc gia và dân tộc. Tinh thần của Tuyên ngôn nhân quyền là dùng truyền đạt
và giáo dục để nổ lực thúc đẩy các quốc gia thành viên tôn trọng các quyền
con người và các quyền cơ bản khác trong tuyên ngôn. Tại Điều 2, Tuyên
ngôn thế giới về Nhân quyền có nêu rõ: “Mọi người sinh ra đều tự do và bình
đẳng về nhân phẩm và các quyền” và “ai cũng được hưởng những quyền tự
do ghi trong bản Tuyên ngôn này không phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào,
như chủng tộc, màu da, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan
niệm, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ tình thân
trạng khác” [8, Điều 2]. Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền đã mở rộng đối
tượng trong việc cấm phân biệt đối xử bởi các “thân trạng khác”. Quy định
này có tính mở, vì vậy việc một người mang xu hướng tính dục hay bản dạng
giới khác cũng là đối tượng cần được bảo vệ, được hưởng các quyền tự do
trong bản Tuyên ngôn này. Và “mọi người” ở đây được hiểu là tất cả các cá
nhân bao gồm cả người đồng tính, dị tính, song tính hay vô tính đều được
hưởng những quyền như nhau. Tuy nhiên khi hưởng thụ những quyền của
mình cũng phải tuân thủ những hạn chế do pháp luật quy định và tôn trọng
của người khác cũng được thừa nhận, tôn trọng và đáp ứng những đòi hỏi
chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong xã hội dân
chủ được thỏa mãn [8, Điều 29]. Do đó, các quốc gia có thể lấy các chuẩn
mực đạo đức, truyền thống để cản trở cho việc đảm bảo các quyền của người
đồng tính trên cơ sở bảo đảm quyền chung cho tất cả các thành viên trong xã
hội.
1.3.1.3. Bộ nguyên tắc Yogyakarta
Một trong những văn kiện không thể không nhắc đến chính là Bộ nguyên
tắc Yogyakarta (the Yogyakarta principles) được phác thảo và ra mắt ngày 26
tháng 3 năm 2007 bởi các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật, quyền con
25. 23
người hàng đầu thế giới về xu hướng tính dục và bản dạng giới để bảo vệ
những người đồng tính trước tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử ngày càng
phổ biến. Bộ nguyên tắc Yogyakarta đã góp phần làm nên bản tuyên bố về xu
hướng tính dục và bản dạng giới của Liên Hợp Quốc năm 2008. Bộ nguyên
tắc Yogyakarta là bộ cẩm nang về quyền con người trên cơ sở áp dụng các
tiêu chuẩn pháp lý quốc tế có tính ràng buộc, trong đó xác định nghĩa vụ của
các quốc gia trong việc tôn trọng, bảo vệ và có các biện pháp, chính sách bảo
đảm thực hiện các quyền để mọi người sinh ra tự do và bình đẳng đều được
hưởng các quyền không phụ thuộc vào xu hướng tính dục và bản dạng giới.
Trong đó, vấn đề bảo vệ và đảm bảo các quyền của người đồng tính được thể
hiện một cách rõ nét nhất trong một số nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Quyền được thụ hưởng mọi quyền con người trên toàn
cầu. Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá, bất kể xu hướng
tính dục hay bản dạng giới đều được hưởng đầy đủ các quyền con người [55].
Nguyên tắc 2: Các quyền bình đẳng và không phân biệt đối xử
Mọi người đều có quyền được thụ hưởng mọi quyền con người mà
không bị phân biệt đối xử vì khuynh hướng tính dục hay bản dạng giới của
họ. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ mà
không bị phân biệt đối xử vì những lý do trên, bất kể các quyền con người
khác có đồng thời bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đối xử đó hay không [55].
Nguyên tắc 3: Quyền được công nhận trước pháp luật
Mọi người ở mọi nơi đều có quyền được công nhận là một cá nhân trước
pháp luật. Những cá nhân thuộc các nhóm khuynh hướng tính dục và bản
dạng giới khác nhau đều được hưởng năng lực pháp luật trong mọi lĩnh vực
đời sống. Khuynh hướng tính dục và bản dạng giới của riêng mỗi người là
một phần không thể tách rời với nhân cách của họ và là một trong những bộ
phận cơ bản nhất của sự quyết tâm cá nhân, phẩm giá tự và tự do. Không ai bị
26. 24
buộc trải qua các thủ tục y tế, phẫu thuật xác định lại giới tính, triệt sản hoặc
liệu pháp hormon để bản dạng giới của họ được thừa nhận trước pháp luật.
Không tình trạng cá nhân nào, chẳng hạn như tình trạng hôn nhân hoặc con
cái, có thể được viện dẫn như một lý do để pháp luật không thừa nhận bản
dạng giới của một người. Không ai phải chịu áp lực buộc phải che giấu, kìm
nén hoặc chối bỏ khuynh hướng tính dục và bản dạng giới của mình [55].
Nguyên tắc 4: Quyền được sống
Mọi người đều có quyền được sống. Không ai có thể bị tước đoạt quyền
được sống một cách tùy tiện, kể cả dựa trên các lý do khuynh hướng tính dục
hoặc bản dạng giới. Không ai bị xử tử vì các hành vi tình dục tự nguyện giữa
các cá nhân trên tuổi tự nguyện hoặc vì khuynh hướng tính dục và bản dạng
giới của họ [55].
Bộ nguyên tắc Yogyakarta là văn kiện pháp lý quốc tề đầu tiên chính
thức ghi nhận và bảo vệ quyền của người đồng tính, có nghĩa quan trọng trong
việc xóa bỏ kỳ thị đối với người đồng tính.
1.3.1.4. Một số văn kiện pháp lý của Liên Hợp Quốc
Mặc dù Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 đã khẳng định
quyền con người nói chung (trong đó có quyền của người đồng tính nói riêng)
nhưng sự phân biệt đối xử, bạo lực đối với người đồng tính đang là thực tiễn
xảy ra trong xã hội. Thậm chí đến nay nhiều quốc gia vẫn đang hình sự hóa và
xem đồng tính như là một loại tội phạm. Tình trạng này đã kéo dài trong
nhiều năm qua và trở thành một trong những vấn đề nhân quyền được Liên
Hơp Quốc đặc biệt quan tâm. Những lo ngại về vi phạm nhân quyền trong
một thời gian dài đã khiến Hội đồng nhân quyền của Liên Hợp Quốc xem đây
như là vấn đề cần được ưu tiên thảo luận để đưa ra những tuyên bố chung
không chỉ về quyền của người đồng tính mà cả quyền của người song tính, vô
tính và cả người chuyển giới. Trong những cuộc họp của Hội đồng nhân
27. 25
quyền Liên Hợp Quốc năm 2006 và 2008, những tuyên bố chung về quyền
của người đồng tính, xu hướng tính dục và bản dạng giới đã được chính thức
đề xuất và thảo luận xoay quanh mối quan tâm về luật phân biệt đối xử và
nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực thi nhân quyền quốc tế.
Trước đó, từ những năm đầu thập kỉ 1980, châu Âu đã nỗ lực trong việc
thúc đẩy quyền của người đồng tính. Đây là động lực thúc đẩy các châu lục
khác và các nước trên toàn thế giới. Đến năm 1993, trong hội nghị nhân
quyền lần thứ 2 đựơc tổ chức tại Áo, các vấn đề liên quan đến quyền của
người đồng tính đã được nhắc đến và đựơc bàn luận trong các sự kiện quốc tế
lớn do Liên Hợp Quốc bảo trợ liên quan đến vấn đề nhân quyền. Trên diễn
đàn Liên Hợp Quốc, có nhiều ý kiến trái chiều đến từ nhiều quốc gia khác
nhau đã khiến cho các quy phạm pháp luật về quyền của người đồng tính
không được quan tâm đúng mức do ảnh hưởng từ quan niệm văn hóa, tôn
giáo của nhiều quốc gia đã khiến họ phản ứng gay gắt về vấn đề này. Trên cơ
sở báo cáo về thực trạng của người đồng tính, tháng 6 năm 2012 Văn phòng
Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc đã cho xuất bản cuốn “Sinh ra tự do và
bình đẳng - Xu hướng tính dục và bản dạng giới trong Luật nhân quyền Quốc
tế” nhằm hệ thống lại những vấn đề đặt ra đối với vấn đề nhân quyền của
người đồng tính và việc thực thi nhân quyền của các nhà nước có liên quan.
Với quan điểm cho rằng bảo vệ quyền của nhóm người này không nhất thiết
phải tạo ra những quyền riêng biệt mà chỉ cần bảo đảm thực thi các quyền,
không phân biệt đối xử trong các văn bản pháp luật quốc tế dựa trên xu hướng
tính dục cũng như bản dạng giới. Đồng thời nhấn mạnh vấn đề vi phạm nhân
quyền và thực thi nghĩa vụ của các nhà nước.
Có thể thấy được sự nỗ lực của LHQ trong việc chống lại hành vi vi
phạm nhân quyền đối với người đồng tính. Nội dung tóm tắt báo cáo và các
28. 26
Nghị quyết của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ và Hội đồng Nhân
quyền LHQ gồm những vấn đề sau:
Thứ nhất, Bản Tuyên bố chung trong việc chấm dứt bạo lực và vi phạm
nhân quyền dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới (Joint statement on
ending acts of violence and related human rifhts violations based on sexual
orientation and gender identity) của 85 quốc gia và vùng lãnh thổ đã được ký
kết vào tháng 3 năm 2011. Nội dung của tuyên bố tập trung vào việc nâng cao
pháp luật nhân quyền và vi phạm nhân quyền dựa trên xu hướng tính dục và
bản dạng giới, đồng thời ghi nhận vai trò của Hội đồng Nhân quyền LHQ
trong việc thúc đẩy sự tôn trọng toàn cầu về việc bảo vệ tất cả các quyền con
người và tự do cho tất cả mọi người. Đồng thời kêu gọi các quốc gia chung
tay hành động chống lại các hành vi bạo lực dựa trên xu hướng tính dục và
bản dạng giới.
Thứ hai, Nghị quyết 17/19 (17/19 Human rights, sexual orientation and
gender A/HRC/RES/17/19) được Hội đồng Nhân quyền LHQ thông qua
tháng 6/2011. Đây là Nghị quyết đầu tiên về quyền con người, xu hướng tính
dục và bản dạng giới “được xây dựng trên cơ sở Tuyên ngôn thế giới về Nhân
quyền và các Công ước quốc tế về quyền con người như Công ước quốc tế
các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự
và Chính trị và các công ước cốt lõi về quyền con người có liên quan” [56,
Tr.1] và Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc số 60/251 ngày
15/3/2006 (General Assembly resolution 60/251 of 15 March 2006). Nội dung
nghị quyết chủ yếu tập trung vào các nội dung như: Đề nghị Văn phòng Cao
ủy nhân quyền LHQ thực hiện một nghiên cứu hoàn thành vào tháng 12 năm
2011 về luật chống phân biệt đối xử và hành động chống bạo lực dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới. Ban hành các văn bản pháp luật về chống
phân biệt đối xử và bạo lực dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới
29. 27
mang tính chất toàn cầu và mức độ áp dụng tại các quốc gia để chấm dứt các
hành vi vi phạm nhân quyền [56, Tr.1]. Đồng thời xây dựng các chính sách,
pháp luật liên quan và các động thái khác về việc phân biệt đối xử, bạo lực
dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới và xem đây là một trong những
vấn đề quan trọng phải được ưu tiên thực hiện [56, Tr.2].
Thứ ba, cẩm nang “Sinh ra tự do và bình đẳng - Xu hướng tính dục và
Bản dạng giới trong Luật Nhân quyền quốc tế” (Born Free Equal- sexual
Orientation and Gender Identity in International Human Rights Law) được
xuất bản vào tháng 06/2012. Nội dung cuốn cẩm nang “sinh ra tự do và bình
đẳng - Xu hướng tính dục và Bản dạng giới trong Luật Nhân quyền quốc tế”
được xây dựng dựa trên những kết quả từ Báo cáo về thực trạng vi phạm nhân
quyền của Văn phòng Cao ủy Nhân quyền LHQ năm 2011, Tuyên ngôn thế
giới về Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính
trị, Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa, Công ước
chống Tra tấn và Công ước khác có liên quan. Nội dung cuốn cẩm nang này
xác định năm nguyên tắc để xác định nghĩa vụ của nhà nước trong việc bảo
đảm quyền của người LGBT. Năm nguyên tắc này gồm:
Bảo vệ cá nhân khỏi bạo lực xuất phát từ sự ghê sợ và thái độ thù ghét
những người đồng tính. Đưa xu hướng tính dục và bản dạng giới là các yếu tố
quy định và được bảo vệ trong luật [58, Tr.14].
Ngăn ngừa sự tra tấn, các tội ác và việc đối xử không có tính nhân văn
đối với người đồng tính. Điều tra mọi hành vi đối xử sai trái của cơ quan nhà
nước và buộc các cơ quan này phải có trách nhiệm trước tòa án. Cung cấp các
khóa đào tạo cho nhân viên thi hành pháp luật để đảm bảo việc giám sát có
hiệu quả ở các nơi giam giữ [58, Tr.22].
Bãi bỏ luật hình sự hóa đối với người đồng tính, bao gồm tất cả các luật
cấm các hành vi tình dục giữa những người đồng tính. Bảo đảm các cá nhân
30. 28
không bị bắt giam vì lý do xu hướng tính dục hay bản dạng giới của họ, cũng
như không bị hạ thấp nhân phẩm vì xu hướng tính dục của mình [58, Tr.28].
Cấm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới. Ban
hành luật toàn diện trong đó cấm các hành vi phân biệt đối xử dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới. Đặc biệt, đảm bảo không có sự phân biệt đối
xử trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản, bao gồm việc làm và chăm sóc sức
khỏe. Cung cấp dịch vụ giáo dục và hướng dẫn để ngăn cản sự phân biệt đối
xử và kỳ thị đối với cộng đồng LGBT và người liên giới tính [58, Tr.38].
Bảo đảm tự do ngôn luận, hội họp và tự do gặp gỡ của cộng đồng LGBT
và người liên giới tính. Bất kỳ hạn chế nào cũng phải phù hợp với pháp luật
quốc tế và không có sự phân biệt đối xử nào [58, Tr.54].
Bên cạnh đó tháng 9/2015, 12 tổ chức của LHQ đã ra khuyến nghị kêu
gọi 193 quốc gia thành viên cùng hành động để bảo vệ quyền của cộng đồng
LGBTI. Bản khuyến nghị kêu gọi các quốc gia thành viên bao gồm 3 nội
dung chính:
- Bảo vệ khỏi sư bạo hành đối với người đồng tính;
- Xây lựng luật bảo vệ người đồng tính;
- Bảo vệ người đồng tính khỏi sự phân biệt đối xử;
Những văn kiện pháp lý quốc tế có ý nghĩa toàn cầu là sơ sở pháp lý
quan trọng trong việc thúc đẩy thực hiện và bảo vệ các quyền con người nói
chung và quyền của người đồng tính nói riêng. Với tư cách là thành viên của
Liên Hợp Quốc cũng như việc ký kết các công ước quốc tế về quyền con
người, hi vọng vào một tương lai không xa, Việt Nam sẽ có những thay đổi
trong chính sách pháp luật phù hợp bảo đảm các quyền con người nói chung
và quyền của người đồng tính nói riêng.
31. 29
1.3.2. Quyền của người đồng tính theo pháp luật của một số quốc gia
Trước thế kỷ XIX, nhiều quốc gia xem đồng tính là bệnh tâm thần cần
chữa trị. Nhưng từ sau thế kỷ XX, sau các cuộc điều tra, nghiên cứu cũng như
sự phát triển của y học đã khẳng định đồng tính không phải là bệnh có thể lây
lan, chữa trị. Nhiều nước đã dần dần loại bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh
sách những bệnh tâm thần trong đó Hiệp hội tâm lý Hòa Kỳ loại bỏ ra khỏi
danh sách những bệnh tâm thần vào năm 1973. Đến năm 1990, Tổ chức Y tế
Thế giới WTO đã loại đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Tiếp
sau khi tổng thư ký Ban Ki-Mun kêu gọi các quốc gia trên thế giới phi hình sự
hóa đối với đồng tính, song tính và chuyển giới ngày 07/03/2012 đã tạo ra
một thông điệp ủng hộ mang tính lịch sử đối với người đồng tính. Hành động
này đã khẳng định xu hướng tính dục đồng tính là một xu hướng tự nhiên của
con người bên cạnh xu hướng tính dục dị tính.
Vấn đề bảo vệ quyền của người đồng tính đang trở thành mối quan tâm
của các quốc gia trên thế giới. Nhiều quan điểm ủng hộ được đưa ra để bảo vệ
các quyền được sống, quyền tự do hôn nhân hay các quyền được hưởng các
chính sách xã hội. Bên cạnh đó một số quan điểm lại phản đối quyền tự do kết
hôn của những người đồng tính vì vấn đề con cái, truyền thống, văn hóa, tôn
giáo.
Từ những nổ lực của Liên Hợp Quốc và các quốc gia, tổ chức kêu gọi
bảo vệ người đồng tính và các quyền của người đồng tính, từ bị xem là một
loại tội phạm thì nhiều quốc gia đã thay đổi quan niệm, nhận thức, xem nó
như là một hiện tượng tự nhiên, xóa bỏ đồng tính là một lọai tội phạm đồng
thời đưa ra những chính sách để bảo vệ nhóm người có xu hướng tính dục
thiểu số này. Sau đây tác giả xin đề cập đến một số quốc gia tiêu biểu trong
vấn đề bảo vệ các quyền của người đồng tính.
32. 30
Vương quốc Hà Lan
Hà Lan là một trong những quốc gia hàng đầu trong việc ghi nhận các xu
hướng mới về quyền con người. Đây cũng là quốc gia đầu tiên công nhận hôn
nhân giữa những người cùng giới tính vào ngày 01 tháng 4 năm 2001. Ở Hà
Lan, từ những năm 1980, một nhóm những nhà hoạt động nhân quyền do
Henk Krol đã yêu cầu Chính phủ cho phép các cặp đồmg tính được kết hôn.
Một cuộc điều tra về khả năng kết hôn đồng tính đã được tiến hành vào năm
1995 do một Uy ban đặc biệt của Quốc hội. Đến năm 1997, cuộc điều tra kết
thúc, kết luận răng hôn nhân dân sự nên được mở rộng để bao gồm những cặp
đôi cùng giới tính. Đến tháng 9 năm 2000, dự thảo được thảo luận tại Nghị
viện Hà Lan và được thông qua Hạ viện với 109 phiếu bầù và 33 phiếu phản
đối. Ngay sau đó, ngày 19 tháng 12 năm 2000, Thượng viện đã phê duyệt dự
luật và đánh dốc cột mốc mới trong lịch sử về việc kết hôn của người đồng
tính. Hà Lan đã trở thành quốc gia đầu tiên công nhận hôn nhân đồng tính.
Theo đó Bộ Luật Dân sự Hà Lan cũng được sửa đổi để phù hợp. Tại điều 30
của Bộ Luật Dân sự Hà Lan được đổi thành: “Một hôn nhân có thể được xây
dựng bởi hai người cùng giới hoặc khác giới” [46] đồng thời cho phép các
cặp đông đồng tính nhận nuôi con nuôi. Ngay sau đó, vào ngày 1/4/ 2001, bốn
cuộc hôn nhân đồng giới hợp pháp đầu tiên trên thế giới đã được diễn ra ngay
trong đêm dưới sự chứng kiến của thị trưởng Amsterdam. Sáu tháng sau khi
luật được thông qua, đã có 2.414 cặp đồng tính kết hôn trong đó 1.339 cặp
đồng tính nam và 1.075 cặp đồng tính nữ [46]. Một kỷ nguyên mới về quyền
của người đồng tính được mở ra, đồng thời được xem là “phát súng” đầu tiên
cho phong trào đòi quyền bình đẳng cho những người đồng tính trên toàn thế
giới.
33. 31
Cộng hòa liên bang Đức
Cộng hòa Liên Bang Đức là một trong những quốc gia bãi bỏ đồng tính
là một trong những loại tội phạm từ khá sớm. Vào ngày 11/8/1987, tòa án tối
cao Đông Đức đã khẳng định “Quan hệ đồng tính cũng như quan hệ dị tính,
là sự thể hiện một các ngẫu nhiên của các hành vi tình dục. Do đó, những
người đồng tính luyến ai không thể đứng ngoài xã hội. Các quyền dân sự của
họ được thừa nhận như tất cả các công dân khác” [45]. Đồng thời một số tiểu
bang đã ban hành luật chống phân biệt đối xử với người đồng tính trong đó
bao gồm phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới, bao
gồm hiến pháp của Berlin (năm 1995), Brandenburg (năm 1992), Bremen
(2001), Saarland (2011) và Thurinqia (1993), Sachsen-Anhalt (1997). Điều 10
Hiến pháp Berlin có nội dung đã khẳng định rằng: “Không ai có thể bị thành
kiến hay ủng hộ vì giới tính, sinh đẻ, chủng tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc quốc
gia hay xã hội, đức tin, tôn giáo hoặc chính trị hoặc xu hướng tính dục” [45].
Mặc dù từ năm 2001, Đức đã cho phép các cặp đôi đồng tính sống chung dưới
hình thức hợp danh (partnership), nhưng vấn đề hưởng một cách trọn vẹn các
quyền như thuế, nhận nuôi con nuôi bị hạn chế hơn so với các cặp đôi vợ
chồng dị tính. Đến ngày 30 tháng 6 năm 2017, Đạo luật thừa nhận Hôn nhân
đồng giới đã được thông qua và chính thức có hiệu lực ở Đức từ ngày 1 tháng
10 năm 2017. Đồng thời cho phép các cặp vợ chồng đồng tính được quyền
nhận con nuôi. Sau khi Luật được thông qua, cặp vợ chồng đầu tiên ở Berlin
là Karl Kreile và Bodo Mende đã tổ chức đám cưới và đăng kí kết hôn ngay
trong ngày 1 tháng 10 năm 2017 sau 38 năm chung sống với nhau [47].
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan)
Một trong những sự kiện đáng quan tâm nhất của cộng đồng LGBT ở
Châu Á và cả Việt Nam trong năm 2019 vừa qua là sự kiện Đài Loan đã hợp
34. 32
pháp hóa hôn nhân đồng giới vào ngày 24 tháng 5 năm 2019 với tỷ lệ phiếu là
66 - 27 phiếu.
Trước đó vào ngày 24 tháng 5 năm 2017, Tòa án Hiến pháp đã ra phán
quyết cho các cặp đôi đồng giới có thể kết hôn theo Hiến pháp. Và yêu cầu
sửa đổi Luật hôn hân gia đình trong thời gian 2 năm để phù hợp với hiến pháp
nước này. Tuy nhiên việc sửa đổi luật bị đình trệ do sự phản đối từ nhiều phe
khác nhau. Sau quá trình đấu tranh trong suốt 2 năm, lúc 13h chiều ngày 24
tháng 5 năm 2019, Nghị viện Đài Loan chính thức thông qua luật cho phép
kết hôn đồng giới. Hàng nghìn người ủng hộ đạo luật hôn nhân đồng giới đã
bất chấp trời mưa tập trung trước Lập pháp viện Đài Loan để chờ đợi giây
phút đạo luật được thông qua. Đánh dấu cột mốc mới cho những người đồng
tính ở Đài Loan. Đài Loan trở thành quốc gia châu Á đầu tiên hợp pháp hóa
hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Hiện nay, các quốc gia khác lần lượt cũng đã ban hành luật cấm phân
biệt đối xử với người đồng dựa trên xu hướng tính dục và bản dạng giới như
Anh, Na Uy, Úc, Mexico và mới nhất là Nhật Bản. Bên cạnh đó, một số quốc
gia không công nhận các quyền và vẫn còn xảy ra tình trạng phân biệt đối xử
với người đồng tính. Tính đến tháng 7 năm 2015 vẫn có 72 nước luật hình sự
hóa đối với đồng tính luyến ái. Như ở Malaysia, quan hệ tình dục đồng giới
có thể bị phạt tù đến 20 năm. Đặc biệt một số nước hồi giáo như Burunei,
theo đó quan hệ tình dục đồng tính ngang hàng với các tội ngoại tình, ấu dâm
và cưỡng hiếp, người phạm tội này sẽ bị ném đá tới chết. Các nước có luật
tương tự như Ả-Rập-Xê-Út, Afghanistan, Indonesia, Sudan, Iran, Nigeria,
Yemen và Mauritanie áp dụng hình phạt tử hình đối với đồng tính [48]. Riêng
đối với Indonesia đã ban hành luật cấm nghiêm khắc nhằm chống lại người
đồng tính. Một số quốc gia cũng quan ngại không thừa nhận hôn nhân đồng
tính và xem đó như là một loại tội phạm. Các quan điểm bảo thủ của Luật Hồi
35. 33
giáo ở Iran cho rằng chỉ có quan hệ tình dục của các cặp vợ chồng kết hôn thì
các hành vi tình dục khác đều là phạm pháp. Pháp luật Iran không cho phép
kết hôn và các hình thức quan hệ tình dục đồng tính.
Tiểu kết Chương 1
Xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay là xây dựng các nhà nước
dân chủ, tiến bộ, do đó vấn đề quyền con người và đảm bảo các quyền con
người được quan tâm một cách đặc biệt. Những quyền được sống, quyền tự
do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền cơ bản và được thừa nhận rộng
rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, một số quyền của người đồng tính ở pháp
luật một số quốc gia và một số nước trên thế giới vẫn chưa được đảm bảo,
làm phát sinh những quan hệ xã hội mới cũng chưa có cách tiếp cận thống
nhất đối với vấn đề này. Tuy nhiên dưới sự đấu tranh mạnh mẽ của các nhà
nước, tổ chức hoạt động vì con người cũng như cộng đồng những người đồng
tính ngày càng đông đảo đã khiến dư luận ngày càng quan tâm và nghiên cứu
vấn đề này để đòi sự thừa nhận các quyền của người đồng tính. Bước đầu đã
đạt được những kết quả nhất định đồng thời cộng hưởng cho các quốc gia,
dân tộc cũng như cộng đồng người đồng tính bảo vệ các quyền của mình.
Trên cơ sở tìm hiểu các khái niệm, đặc điểm cũng như phân tích các văn bản
pháp lý quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên thế giới đã góp phần làm
sáng tỏ các khái niệm, quá trình hình thành, vận động và phát triển các quyền
của người đồng tính trên thế giới và Việt Nam. Làm cơ sở cho Việt Nam
trong việc xây dựng, hoàn thiện các quyền của người đồng tính trong giai
đoạn tiếp theo.
36. 34
Chương 2. THỰC TRẠNG QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Lịch sử phát triển về quyền của người đồng tính ở Việt Nam
Lịch sử về người đồng tính ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến không
được ghi chép nhiều. Một số tài liệu ghi chép rằng vua Khải Định có 12 bà vợ
nhưng lại mắc chứng vô sinh, không thích đàn bà và chỉ thích xem đàn ông
đóng giả “Đào” khi diễn tuồng, do đó nên việc cung nữ Hoàng Thị Cúc mang
“Long thai” đã gây ra nhiều biến cố trong giai đoạn này [52]. Trong lịch sử
lập hiến phong kiến Việt Nam chưa đưa ra các quy định về khái niệm đồng
tính, xu hướng tính dục hay quan hệ đồng tính. Một trong những tiến bộ thời
phong kiến là Bộ luật Hồng Đức đã đề cập đến việc ngoại tình, hiếp dâm
nhưng chưa đề cập gì đến quan hệ tình dục của những người cùng giới tính.
Ở thời Pháp thuộc, hoạt động đồng tính tại Việt Nam được cho là có
nguồn gốc từ Trung Hoa nhưng chưa được phổ biến rộng rãi. Trong giai đoạn
chiến tranh từ năm 1955- 1975, ở Sài Gòn đã xuất hiện 18 quán bar cho
những người đồng tính nam và 03 quán ba dành cho những người đồng tính
nữ [52]. Đến thời thực dân Pháp cũng không có các quy định cấm đối với các
hành vi và hoạt động đồng tính đối với các nước thuộc địa mà những hành vi
đồng tính chỉ có thể bị khởi tố dưới tội danh ngoại tình hoặc hãm hiếp [52].
Đến năm 2002, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội liệt kê đồng tính là
một trong trong những “tệ nạn xã hội” cần phải được bài trừ bên cạnh các tệ
nạn ma túy và mại dâm. Năm 2008, Nghị định của Chính phủ về việc xác
định lại giới tính được ban hành. Tuy nhiên, việc xác định lại giới tính chỉ áp
dụng đối với những người chưa định hình về giới tính của mình do các khuyết
tật cần sự can thiệp để điều chỉnh lại bộ phận sinh dục. Đến năm 2012, Bộ Tư
pháp đề xuất công nhận hôn nhân đồng giới trong việc sửa đổi Luật Hôn nhân
gia đình. Tuy nhiên vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được thông qua. Cho
37. 35
đến thời điểm hiện tại, Pháp luật Việt Nam vẫn chưa quy định việc quan hệ
tình dục của những người cùng giới tính mà chỉ quy định về “các hành vi tình
dục khác”. Trước đó, trong luật hôn nhân gia đình năm 2000 quy định cấm
kết hôn giữa những người cùng giới tính với nhau. Tuy nhiên Sau khi Luật
Hôn nhân Gia đình 2014 được ban hành, có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 1
năm 2015 đã bỏ quy định "cấm kết hôn giữa những người cùng giới
tính"nhưng vẫn "không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
tính” [33, Điều 8]. Tuy không thừa nhận kết hôn đồng tính nhưng sự thay đổi
này được xem như là một trong những bước tiến vượt bậc đối với các quy
định về vấn đề hôn nhân của những người đồng tính. Trên cơ sở này, những
người đồng tính vẫn có thể làm đám cưới, sống chung với nhau nhưng các
vấn đề phát sinh về tài sản và các tranh chấp khác trong thời kỳ sống chung
không thể áp dụng các quy định của Luật Hôn nhân Gia đình. Theo đó nếu có
tranh chấp xảy ra sẽ áp dụng Bộ luật Dân sự để giải quyết. Một trong những
thay đổi mới được thảo luận và thông qua trong bộ luật sân sự đó là cho phép
chuyển đổi giới tính: “việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo các quy
định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng ký
thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có các quyền nhân
thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của Bộ Luật này
và luật khác có liên quan” [33, Điều 37].
2.2. Thực trạng xã hội về người đồng tính ở Việt nam hiện nay
Cũng như các nước trên thế giới, việc thống kê một cách chính xác số
lượng người đồng tính tại Việt Nam không phải là điều dễ dàng do việc nhận
diện người đồng tính gặp nhiều khó khăn. Một người đồng tính hay không
đồng tính không thể xác định tại thời điểm sinh ra, cũng không thể xác định
thông qua tổng thể bên ngoài hay một giai đoạn cụ thể. Đối với cá nhân đồng
tính, họ sẽ bộc lộ và phát hiện xu hướng tính dục của mình ở một giai đoạn
38. 36
khác nhau trong cuộc đời, có thể sớm hoặc có thể muộn. Tuy nhiên, lý do
chính cho việc không công khai xu hướng tính dục xuất phát từ sự kỳ thị xã
hội nên nhiều người đồng tính vẫn chưa thể công khai xu hướng tính dục của
mình.
Ở Việt Nam chưa tiến hành cuộc điều tra mang tính quy mô quốc gia để
xác định số lượng chính xác người đồng tính. Tuy nhiên nhiều cuộc khảo sát
về thực trạng việc làm, vấn đề kỳ thị, phân biệt đối xử và các cuộc khảo sát xã
hội khác đã được tiến hành để thống kê về thực trạng người đồng tính ở nước
ta. Thực trạng nghiên cứu về người đồng tính đã chỉ ra rằng, rào cản lớn nhất
đối với những người đồng tính đó là sự phân biệt, đối xử và kì thị của xã hội.
Nhiều người bị từ chối công việc hoặc bị sa thải do công khai xu hướng tính
dục của mình; nhiều người khác đã công khai xu hướng tính dục của mình,
muốn sống chung gắn bó lâu dài với người đồng tính khác nhưng không thể
kết hôn; nhiều người khác thì nhập quốc tịch một số nước cho phép kết hôn
đồng giới để kết hôn với bạn đời của mình.
Để xác định số lượng người đồng tính tương đối khó khăn, vì ngoài việc
không công khai bộc lộ xu hướng tính dục thì đối với người song tính họ có
cả 2 xu hướng tính dục vừa đồng tính và dị tính, do đó vẫn có sự ràng buộc,
mối liên hệ mật thiết giữa người song tính và người đồng tính nên rất khó
thống kê một cách chính xác nhất. Theo như báo cáo khoa học của WTO, có
khoảng 3% dân số có xu hướng tính dục đồng tính [52]. Nếu áp dụng mức
này ở Việt Nam thì nước ta có khoảng 2,8 triệu người đồng tính (theo Tổng
cục thống kê Việt Nam, dân số Việt Nam tính đến thời điểm ngày 11/7/2019
là 96,2 triệu người) và số lượng có thể sẽ tăng lên qua các năm trong sự cởi
mở và đón nhận của xã hội, nhất là giới trẻ trong giai đoạn hiện nay. Những
thế hệ trẻ sinh ra trong giai đoạn này được tiếp xúc nhiều hơn và dần quen với
sự xuất hiện, tồn tại của những người đồng tính. Số lượng các chương trình
39. 37
truyền hình có sự tham gia của người đồng tính ngày càng được tăng lên, số
người và các tổ chức ủng hộ người đồng tính cũng ngày càng đông đảo. Các
chương trình tổ chức có sự tham gia của người đồng tính như: Người ấy là ai,
“Come out” và các chương trình quen thuộc với khán giả như: Bạn muốn hẹn
hò, Just Love, Yêu là cưới cũng mở rộng đối tượng cho các khách mời là
người đồng tính với hàng triệu lượt xem và nhận được các bình luận tích cực
từ phía cộng đồng mạng cũng như những người yêu thích các chương trình
này.
Trong cuộc khảo sát “Sống chung cùng giới, trải nghiệm thực tế và
Mưu cầu hạnh phúc lứa đôi” được thực hiện bởi Nguyễn Thị Thu Nam, Vũ
Thành Long, Phạm Thanh Trà của Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường (ISEE) vào năm 2013 điều tra về lĩnh vực việc làm của người LGBT
cho thấy công việc và thu nhập của 2.483 người LGBT được phỏng vấn với
độ tuổi khảo sát trung bình là hơn 20 tuổi, hiện đang học tại các trường trung
học phổ thông và cao đẳng, đại học, nên công việc chủ yếu chưa có thu nhập
(39.6%), đang làm việc làm toàn thời gian 32%, phần còn lại có thu nhập
nhưng mức thu nhập chỉ trong khoảng từ 1 đến 5 triệu đồng [15, Tr11.]
Cũng trong một cuộc khảo sát khác được tiến hành năm 2016 bởi Lương
Thế Huy, Phạm Quỳnh Phương và Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi
trường với tiêu đề “Có phải vì tôi là LGBT? Phân biệt đối xử dựa trên xu
hướng tính dục và bản dạng giới tại Việt Nam” với độ tuổi của những người
tham gia khảo sát đa phần thuộc độ tuổi từ 18 đến 24 tuổi (67%), nhóm dưới
18 tuổi chiếm 22%, nhóm từ 25 đến 34 tuổi chiếm 10%, số người còn lại trên
35 tuổi chiếm số lượng rất nhỏ [42, Tr.32] thì đa phần những người khảo sát
đang sống cùng gia đình (68.7%), độc thân (98%), đang học sinh, sinh viên
(61.1%) hoặc đang làm việc cho các DN tư nhân (77.7%) [42, Tr.36]. Vấn đề
việc làm của người đồng tính cũng tương đối đa dạng. Người đồng tính đang
40. 38
làm việc trong các ngành nghề như kinh doanh (19.6%), làm việc trong các
nhà hàng, khách sạn, dịch vụ ăn uống (11.6%), trong lĩnh vực giáo dục
(8.7%), sản xuất (6.9%), tự do (6.8%), truyền thông và quảng cáo (4.9%0,
lĩnh vực nghệ thuật, giải trí (4.5%), lĩnh vực y tế, y dược (4.5%), máy tính
viễn thông (4.2%), các ngành nghề còn lại dưới 4.0% [42, Tr.36].
Với những người tham gia khảo sát cứ 10 người thì có đến 9 người đã
công khai xu hướng tính dục của mình với ít nhất một người bạn, một nửa số
người tham gia đã công khai với ít nhất một thành viên trong gia đình. Tỉ lệ
công khai với đồng nghiệp và hàng xóm chiếm tỉ lệ rất ít. Độ tuổi trung bình
của khảo sát là 19.1 tuổi nên xu hướng công khai với bạn bè cao hơn do sự
tiến bộ với việc tiếp xúc với người đồng tính nên sẽ có cách nhìn đồng cảm
hơn [42, Tr.37]. Với những người tham gia khảo sát thì có đến 13.3% những
người tham từng trải qua các hành vi bạo lực trong gia đình như nhốt, cầm
giữ; hành hung, đánh đập (12.7%), bị gây áp lực bằng lời nói (60.2%), hay
không nói chuyện khi công khai xu hướng tính dục (46.9%) [42, Tr.95].
Trường học là môi trường để học tập, tuy nhiên người đồng tính cũng
đang phải chịu đựng sự phân biệt đối xử, thậm chí là bạo lực ngay trong môi
trường giáo dục. Cũng theo khảo sát trên, cứ ba người thì có hai người từng
nghe, thấy những nhận xét, hành động tiêu cực từ bạn bè. Kỳ thị không chỉ
đến từ bạn bè mà giáo viên cũng là một trong những người có hành động
tiêu cực đối với người đồng tính khi cứ ba người thì có một người (chiếm
38.2%) những người từng nghe những nhận xét, hành động tiêu cực từ giáo
viên, cán bộ nhân viên nhà trường. Người đồng tính còn bị phân biệt đối xử
trong môi trường làm việc như bị hạn chế thăng tiến (22.6%), bị trả với mức
lương thấp hơn với những người lao động khác cùng vị trí, năng lực
(13.8%), bị chuyển công tác (13.5%). Trong đó nơi diễn ra bạo lực cao nhất
là trường học (36.8%), trong gia đình (16.2%), nơi làm việc và môi trường
41. 39
công sở (14%), ở các môi trường khác (7.7%). Sự kì thị có thể xảy ra trong
bất kỳ môi trường nào có sự xuất hiện của người đồng tính làm ảnh hưởng
nặng nề đến tinh thần, sức khỏe của người đồng tính [42, Tr.95].
2.3. Thực trạng bảo đảm quyền của người đồng tính theo pháp luật
Việt Nam hiện nay
2.3.1. Quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” [32, Điều 16]. Theo
nguyên tắc này, tuy không sử dụng các cụm từ như “xu hướng tính dục” hay
“bản dạng giới” nhưng đối tượng áp dụng cho tất cả “mọi người” không kể
giới tính, độ tuổi, tôn giáo, dân tộc cũng như xu hướng tính dục hay bản dạng
giới như thế nào thì vẫn được hưởng các quyền bình đẳng và không bị phân
biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội.
Các quyền của người đồng tính theo pháp luật Việt Nam bao gồm tổng
thể nhiều quyền khác nhau và đa phần đã được đảm bảo một cách đầy đủ
trong thực tế. Tuy nhiên thực tiễn phát sinh nhiều quan hệ pháp luật liên quan
đến các quyền của người đồng tính mà pháp luật chưa điều chỉnh hoặc điều
chỉnh chưa hợp lý. Do đó đối với các quyền mà pháp luật chưa điều chỉnh
hoặc điều chỉnh chưa phù hợp, tác giả luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các
quyền này trên cơ sở chưa được đảm bảo và thực thi trong thực tế.
2.2.1.1. Quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong đời sống
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội
(1) Trong pháp luật dân sự
Đầu tiên, cần khẳng định người đồng tính đã được hưởng một cách đầy
đủ các quyền nhân thân và tài sản do pháp luật Dân sự quy định. Trước đây,
quy định tại điều 5 Bộ Luật Dân sự 2005 như sau: “Các bên trong quan hệ
dân sự đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính,
42. 40
thành phần dân tộc, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau” [27, Điều 5]. Quy
định này vô tình đã loại những người đồng tính có xu hướng tính dục khác so
với những người đồng tính ra khỏi các quy định về bình đẳng đối với họ. Tuy
nhiên, việc sửa đổi bổ sung Bộ Luật Dân sự 2015 đã quy định một các bao
quát hơn: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy lý do nào
để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân
và tài sản” [34, Điều 3]. Như vậy việc sử dụng cụ từ “lấy lý do nào” thay vì
liệt kê như trước đây thì việc một người mang xu hướng tính dục đồng tính
hay dị tính hay có bản dạng giới như thế nào cũng đều được đối xử bình đẳng.
Việc “lấy lý do nào để phân biệt đối xử” sẽ bao gồm cả lý do khác biệt về xu
hướng tính dục hay bản dạng giới của người đó. Do đó quy định này đảm đảm
bảo quyền tình đẳng trong các quan hệ dân sự của người đồng tính.
Một trong những điểm khác của BLDS 2015 là việc cho phép thực hiện
chuyển đổi giới tính. Như trước đây pháp luật Dân sự cấm phẩu thuật chuyển
đổi giới tính với những người đã hoàn thiện về mặt giới tính. Do đó những
người đã hoàn thiện về mặt giới tính sinh học (bao gồm cả người đồng tính)
thì không có quyền thực hiện việc chuyển đổi giới tính. Tuy nhiên điều này
chưa thể bao quát được sự đa dạng về bản dạng giới của con người. Hiện nay,
theo quy định tại BLDS 2015 “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện theo
quy định của luật. Cá nhân đã chuyển đổi giới tính có quyền, nghĩa vụ đăng
ký thay đổi hộ tịch theo quy định vủa pháp luật về hộ tịch; có quyền nhân
thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định của luật này và
luật khác có liên quan” [34, Điều 37] nhưng đến thời điểm hiện tại Luật về
chuyển đổi giới tính vẫn đang được xây dựng và chưa được thông qua. Do đó,
Nhà nước cần sớm ban hành luật này để đáp ứng nhu cầu chuyển đối giới tính
43. 41
ở Việt Nam. Trong đó chứa đựng các nội dung bao hàm việc xác định chủ thể
có quyền chuyển đổi giới tính có bao gồm người đồng tính hay không?
Về cơ bản người đồng tính đã đưởng hưởng đầy đủ những quyền chung
như mọi cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên do sự khác biệt về xu hướng tính
dục nên cần phải có những quy định riêng, linh hoạt áp dụng cho các đối
tượng là người đồng tính, đảm bảo các quyền của người đồng tính được đảm
bảo trên thực tế, góp phần ổn định đời sống tinh thần, cũng như ổn định đời
sống của những người đồng tính.
(2) Các quyền trong quan hệ lao động
Về cơ bản các quy định trong Bộ luật Lao động 2012 đã có những quy
định “bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới; quy định chế độ lao động và chính
sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là người khuyết tật, người lao
động cao tuổi, lao động chưa thành niên” [31, Điều 4]. Tuy nhiên, theo
nghiên cứu được thực hiện bởi Lương Thế Huy và Phạm Quỳnh Hương về
“Có phải vì tôi là LGBT, Phân biệt đối xử dựa trên xu hướng tính dục và bản
dạng giới tại Việt Nam” được thực hiện vào tháng 02/2016, khảo sát được tiến
hành bởi 2.362 người thuộc công đồng LGBT. Trong đó có 29,4 % người
đồng tính nữ và 13,8% người đồng tính nam bị từ chối nhận vào làm việc
trong khi đủ các điều kiện về lao động. Khảo sát này cũng chỉ ra rằng, trong
quá trình làm việc người đồng tính cũng thường xuyên phải nghe những nhận
xét, hành động tiêu cực từ phía đồng nghiệp (tỉ lệ chung giữa người đồng tính
là 42,5%). Những lời tiêu chực xuất phát chủ yếu từ sếp (tỉ lệ 28%), từ khách
hàng và đối tác (tỉ lệ 26%). Các hành vi phân biệt đối xử khác với người đồng
tính tham gia khảo sát như còn bị ghép đôi, hỏi về giới tính cũng như đối
tượng yêu đương của mình [42, Tr56]. Đó là những khó khăn đến từ môi
trường làm việc bên cạnh những quy định khác của pháp luật.