SlideShare a Scribd company logo
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TẬP MỘT
KHẢO CỨU, GHI CHÉP, TÓM TẮT,
BÌNH LUẬN, DỊCH THUẬT
Tác giả: PHẠM MINH HẠC
LỜI NÓI ĐẦU
Năm 1996, các nhà tâm lý học thế giới kỷ niệm 100 năm ngày sinh hai
nhà tâm lý học kiệt xuất của thế kỷ XX: Lép Vưgôtxki và Giăng Piagiê.
Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với Cộng hoà liên
bang Nga và Thụy Sĩ để phối hợp tổ chức một số hoạt động khoa học tưởng
nhớ công lao của hai nhà tâm lý học, một ở Liên Xô (cũ), một ở Thụy Sĩ, hết
sức tiêu biểu cho nền tâm lý học khoa học của thế giới ngày nay; và điều chủ
yếu hơn - để học tập, vận dụng các lý thuyết của hai ông vào giảng dạy và
nghiên có tâm lý học.
Về phía Thụy Sĩ, Đại sứ quán Thụy Sĩ ở Hà Nội, nhất là ông bà Đại sứ,
ủy ban quốc gia Thụy Sĩ kỷ niệm 100 năm ngày sinh G.Piagiê đã hết lòng
cộng tác. Kết quả là đã tổ chức triển lãm, dịch sách và hội thảo về tâm lý học
Piagiê.
Từ phía Nga, rất tiếc, không bắt được liên lạc! Chúng tôi hết sức áy
náy, không yên lòng và suốt năm qua không nguôi ý nguyện làm bằng được
công việc nói trên. Lục lọi tất cả tủ sách gia đình và tranh thủ mọi thời gian có
thể trong suốt ba tháng qua đến hôm nay mới có tập sách này, trước hết để
tỏ lòng biết ơn nền tâm lý học Nga, các giáo sự và các nhà nghiên cứu tâm lý
học Nga, Trường ĐHTH Lômônôxốp Mátxcơva và Viện Tâm lý học Mátxcơva.
Phần thứ nhất của sách gồm ba bài: bài Lép Vưgốtxki - nhà tâm lý học
kiệt xuất của thế kỷ XX tôi viết năm 1996, cùng khoảng thời gian với bài viết
về G. Piagiê, để gửi đăng trong một vài tạp chí trong nước nhân dịp kỷ niệm
100 năm ngày sinh hai ông; bài Thân thế và sự nghiệp mới viết trong tháng
ba vừa qua, dựa theo cuốn sách Lép Vưgôtxki của Iarôsépxki và một số tư
liệu cũng như thông tin, cảm nhận của tôi thu thập từ trước tới nay. Bài thứ ba
có cùng tên gọi với cuốn sách này là một chương trong luận án Tiến sĩ tôi tiến
hành nghiên cứu từ 1973 trên 1976 và bảo vệ thành công tháng 6/1977.
Phần thứ hai gồm ba bài tôi đọc và ghi chép tóm tắt hồi 1973 - 1976.
Trong này có một số đoạn là đoạn trích nguyên văn và nay tôi dịch từ tiếng
Nga sang tiếng Việt. Các đoạn khác là tôi tóm tắt ý của tác giả, một số chỗ có
ghi chú lời nhận xét, bình luận, cách tôi hiểu tác phẩm. Các đoạn này ghi
phần lớn bằng tiếng Nga và có phần bằng tiếng Việt bây giờ đọc lại, hiểu lại,
có phần suy ngẫm và ít nhiều có liên hệ với các thành tựu tâm lý học trong
mấy chục năm qua, viết ra bằng tiếng Việt cho có mạch văn để người đọc có
thể đọc được ấy là hy vọng như thế! Về phần mình, tôi đã cố gắng giữ được
tinh thần cốt lõi của các tác phẩm của nhà tâm lý học lỗi lạc Vưgôtxki.
Phần thứ ba gồm ba bài tôi dịch tác phẩm của Vưgốtxki, một bài dịch
hồi 1975 - 1976, hai bài mới dịch năm nay. Ở đây không có sự lựa chọn: may
và có được như vậy và đưa vào tập sách này.
Trong vở ghi chép của tôi còn có một số bài viết về tâm lý học
Vưgốtxki, nhất là những bài của các cộng sự của ông mà sau cũng trở thành
những nhà tâm lý học rất nổi tiếng ở nước Nga như A.N. Lêônchiép, A.R.
Luria, P.Ia.Ganpêrin, D.B. Encônhin, v.v... Gần đây, ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) có
ra một tập san Piagiê và Vưgốtxki được UNECSO tài trợ. Nhiều nước, như
Mỹ, Đức cũng đã xuất bản một số tập sách chuyên khảo về Vưgốtxki. Cũng
hy vọng là sẽ liên hệ lại được với Hội Tâm lý học Nga và sẽ có “Toàn tập
L.Vưgốtxki" cũng như tập Kỷ yếu hội thảo kỷ niệm 100 ngày sinh L. Vưgốtxki
của giới tâm lý học Nga.
Lần này được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình cùng với một tình cảm hết
sức quý báu của Nhà xuất bản Giáo dục, tập sách này được ra mắt bạn đọc.
Và tin rằng sẽ có các tập tiếp theo để các nhà tâm lý học và giáo dục học, triết
học và y học, v.v... có tài liệu đọc trực tiếp Vưgốtxki và các kết quả vận dụng
tư tưởng xuất sắc của ông.
Bản thân chúng tôi cùng một số cộng sự mấy năm gần đây rất chú ý
đến Tâm lý học phát triển với khái niệm phát triển người của Vưgốtxki và
Piagiê, kết hợp phương pháp tiếp cận hoạt động với phương pháp tiếp cận
giá trị, đem tâm lý học đóng góp vào việc xây dựng và phát triển khoa học về
con người Việt Nam, trong đó có một vấn đề trung tâm là vấn đề con người
văn hoá.
Tập sách hẳn còn phải được bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện... Chúng
tôi rất mong đợi sự chỉ bảo của quý bạn đọc và các bạn đồng nghiệp.
14-4-1997
TÁC GIẢ
Phần một. KHẢO CỨU
I. LÉP VƯ-GỐT-XKI NHÀ TÂM LÍ HỌC KIỆT XUẤT CỦA THẾ KỈ XX
Năm nay, giới tâm lý học thế giới và nhân loại tiến bộ kỷ niệm 100 năm
ngày sinh của Lép Vưgốtxki (1896 - 1984) - nhà tâm lý học Nga vĩ đại. Ông là
người đặt nền móng cho tâm lý học hoạt động là nền tâm lý học lấy khái niệm
hoạt động trong học thuyết mácxít làm khái niệm công cụ then chốt nhất để
đưa nền tâm lý học thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, bế tắc do đường lối
duy tâm, nội quan, thần bí hoá tâm lý người và đường lối duy vật máy móc,
sinh vật hoá tâm lý người tạo nên hồi cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Vưgốtxki và Piagiê được coi là hai cột trụ lớn nhất của tâm lý học hiện đại.
Ông đã phân tích một cách khoa học sự đóng góp tích cực của các
dòng phái tâm lý học hồi đó, như tâm lý học hành vi chủ nghĩa, tâm lý học
phân tâm, tâm lý học ghestan, phản xạ học, phản ứng học là đều có cùng một
ý đồ hết sức đáng trân trọng: bằng mọi cách phải đưa tâm lý học phát triển
theo phương pháp khách quan. Nhưng các nền tâm lý học vừa nêu đều có
một hạn chế chung là chưa tính đến một cách đầy đủ tính xã hội, tính lịch sử
của tâm lý con người. Vưgốtxki đề xuất phải xây dựng nền tâm lý học thực sự
con người mà ông gọi là tâm lý học lịch sử. Nền tâm lý học này lấy hoạt động
lao động của con người làm mô hình để nghiên cứu và phát triển tâm lý
người; coi tâm lý con người như một hoạt động, nghĩa là nó cũng có đối
tượng, có công cụ, có chủ thể lao động và sản phẩm. Tương tự như trong
hoạt động lao động có công cụ lao động, trong hoạt động tâm lý cũng có công
cụ tâm lý (thắt nút để nhớ, dùng hột ngô để đếm, cao hơn nữa là từ ngữ, chữ
viết, con số, hình ảnh, hình tượng...). Ông viết tác phẩm Công cụ và dấu hiệu
vào đầu những năm 1930, đến gần đây vẫn chưa xuất bản. Sau này, A. N.
Lêônchiép phát triển, xây dựng thành mô hình cấu trúc vĩ mô của hoạt động
bao gồm một bên là hoạt động, hành động, thao tác và một bên là động cơ,
mục đích, điều kiện. Vưgốtxki đưa ra nguyên tắc gián tiếp: các chức năng tâm
lý giữ vai trò công cụ trong quá trình con người làm chủ bản thân và tác động
vào môi trường, theo đây một loạt công trình nghiên cứu về chú ý, trí nhớ, tư
duy... đã được tiến hành và công bố trong cuối những năm 20 và đầu những
năm 30 của thế kỷ này. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển tâm lý là
đi từ các chức năng tâm lý trực tiếp chuyển sang các chức năng tâm lý gián
tiếp (ví dụ, từ ghi nhớ trực tiếp chuyển sang ghi nhớ gián tiếp, v.v...). Và các
chức năng tâm lý gián tiếp được Vưgốtxki gọi là các chức năng tâm lý cấp
cao, đặc trưng của con người. Chính trong cơ chế gián tiếp này chứa đựng
cả kinh nghiệm lịch sử (thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau), kinh nghiệm
xã hội (người này truyền cho người kia) lẫn kinh nghiệm cá nhân (từng người
sáng tạo ra). Cơ chế gián tiếp được thực hiện bằng các công cụ tâm lý, trong
đó tư duy, ngôn ngữ, kí hiệu, trải nghiệm giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Tác
phẩm Tư duy và ngôn ngữ Vưgốtxki viết năm 1934 được dịch ra nhiều tiếng
nước ngoài, được xuất bản ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, v.v..., và được đánh giá
rất cao. Tác phẩm này đã phản ánh những nội dung cơ bản của tâm lý học
Vưgốtxki.
Cũng như trong tác phẩm Lịch sử phát triển các chức năng tâm lý cấp
cao (1931), trong tác phẩm Tư duy và ngôn ngữ, tác giả đã khái quát lên
rằng, chính quá trình phát triển các chức năng tâm lý cấp cao là quá trình
từng con người lĩnh hội và phát triển văn hoá. Nguyên tắc phát triển là một
nguyên tắc bao trùm trong cuộc sống tâm lý. Do đó, người ta gọi tâm lý học
Vưgốtxki là tâm lý học văn hoá, gộp với tên gọi đã nêu ở trên, ta có tâm lý học
lịch sử - văn hoá.
Lý thuyết của Vưgốtxki đã được ứng dụng rộng rãi vào nghệ thuật (ở
ta, tác phẩm Tâm lý học nghệ thuật của ông đã được dịch ra tiếng Việt và
xuất bản hai lần), vào ngôn ngữ học, dân tộc học, nhi khoa, và nhất là vào
giáo dục. Việc ứng dụng này dựa trên cơ sở toàn bộ lý luận tâm lý học do ông
đề ra, nhất là lý thuyết về sự phát triển nói chung và về vùng phát triển gần
nói riêng: với sự giúp đỡ của người lớn cần tổ chức cho trẻ hoạt động phù
hợp để trẻ có thể thể hiện năng lực cao hơn điểm phát triển dừng trước đó.
Lý thuyết thời kỳ nhạy cảm có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức điều
khiển quá trình phát triển của trẻ em vì ở mỗi một tuổi, não bộ có một khả
năng bắt đầu tiếp thu nhanh và tốt hơn (so với tuổi khác) đối với một loại tác
động nhất định nào đó. Tất nhiên, khả năng đó ở trẻ này có thể không giống
trẻ khác. Lý thuyết thời kỳ nhạy cảm gắn bó với lý thuyết phát triển hệ thống
liên chức năng: các chức năng tâm lý bao giờ cũng hoạt động theo hệ thống,
trong đó tuỳ từng lứa tuổi, từng thời điểm của hoạt động mà một chức năng
nào đó giữ vai trò chính - lúc đầu cảm giác, tri giác là chính, sau có thể tư duy
là chính; có khi tư duy theo chỗ nhớ được, có lúc lại nhớ bằng tư duy, v.v...
Một nội dung cốt lõi trong tâm lý học Vưgốtxki là lý thuyết về nghĩa và ý.
Nói vắn tắt và đơn giản, nghĩa là nội dung của một từ mà tộc người nói từ đó
đã đặt vào nó và được mọi người nói chung đều hiểu như nhau, ý là nghĩa
riêng của một từ đối với một người ở một thời điểm nhất định, trong một hoàn
cảnh nhất định. Có lúc Vưgốtxki coi toàn bộ sự phát triển tâm lý tựu trung lại
là lĩnh hội các nghĩa và ý; coi nghĩa là "tế bào" của hoạt động. Chính lý thuyết
ý và nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tâm lý học nghệ thuật của ông. Từ lý
thuyết này, ông đã góp phần xác định hướng xây dựng một tâm lý học hoạt
động hoàn chỉnh mà Lêônchiép, người cộng sự sau ông và tự coi là học trò
của Vưgốtxki, đã cùng với các bạn đồng nghiệp của mình phát triển lên và
khắc phục các hạn chế trong tâm lý học Vưgốtxki.
Vưgốtxki chỉ thọ có 38 tuổi. Ông tốt nghiệp đại học, rồi ra dạy tại một
trường sư phạm trung cấp ở một tỉnh lẻ gần biên giới Bêlarút và Ba Lan, sau
đó, nhờ công trình nghiên cứu thực nghiệm và những bài lý luận rất sắc sảo,
ông được mời về làm cán bộ của Viện Tâm lý học Mátxcơva. Cuộc đời khoa
học từ đấy chỉ có hơn 10 năm mà ông đã viết được khoảng 10 tập sách và
một số bài báo, tính ra có thể đến bốn, năm ngàn trang. Ông được coi là
người đặt nền tảng cho tâm lý học mác-xít. Ngày nay, giới tâm lý học thế giới
coi ông và Piagiê là hai người sáng lập ra tâm lý học phát triển
(developmental psychology) và giữ vai trò then chốt cho lý luận phát triển
người nói riêng cũng như cho các khoa học nghiên cứu con người nói chung.
II. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP
1. Quê hương và thời học phổ thông
Lép Xêmiônôvích Vưgốtxki sinh ngày 5-11-1896 ở thị trấn Oócsa, nước
Cộng hoà Bạch Nga (Bêlarút), sau chuyển về sinh sống ở thị trấn Gômen,
gần biên giới Bạch Nga - Ba Lan và tốt nghiệp phổ thông trung học (lớp 10) ở
đó cho đến năm 1913 khi ông thi đỗ vào Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva.
Tốt nghiệp đại học, ông lại quay về Gômen làm giáo viên. Bố ông là một nhân
viên ngân hàng, mẹ là người có học thức.
Lúc nhỏ, cậu bé Vưgốtxki học ở nhà với một ông thầy là cựu sinh viên
đã từng bị đi đày ở Xibêri vì tội hoạt động cách mạng. Hết lớp 6, cậu mới thi
vào học ở một trường tư thục. Khi học phổ thông trung học, cậu từng khởi
xướng và tổ chức các cuộc hội thảo về văn học, lịch sử và triết học, đề xướng
các chủ đề hội thảo. Cậu thường được tập thể tán thưởng và điều khiển các
hội thảo rất thành công, bản thân trình bày các báo cáo có nội dung sâu sắc
và hấp dẫn, kết luận hội thảo rất rành mạch, đầy thuyết phục. Nhờ vậy, sau
này, ông đã trở thành một nhà giáo dục nổi tiếng và người tổ chức, nghiên
cứu khoa học xuất sắc.
Ngay từ phổ thông trung học, cậu học sinh Vưgốtxki đã rất quan tâm
đến tri thức lịch sử và mặt triết học của lịch sử, đã thích thử áp dụng sơ đồ
luận đề - phản đề - tổng hợp luận đề (có khi nói vắn tắt là: đề - phản luận đề -
tổng đề). Cậu sớm đi sâu nghiên cứu tác phẩm Đạo đức học của Spinôda và
sau này ông đã nhiều lần quay lại tác phẩm này. Ông rất thích môn nghệ
thuật và thơ, nhất là thơ của Pukin, nhà thơ Nga vĩ đại và kịch Hămlét của
Sếchxpia. Sau này, ông đã hoàn thành một tác phẩm đồ sộ Tâm lý học nghệ
thuật rất nổi tiếng (đã dịch sang tiếng Việt và đã xuất bản hai lần). Ông cũng
chịu ảnh hưởng sâu sắc của tác phẩm ý tưởng và ngôn ngữ của
A.A.Pôtépnhia.
Học sinh Vưgốtxki tốt nghiệp phổ thông trung học, được thưởng huy
chương vàng (tất cả các môn đều đạt điểm 5 là điểm cao nhất) và đã bắt đầu
bộc lộ khá rõ năng lực cũng như hứng thú đi vào các môn nhân văn.
2. Những năm học đại học
Năm 1913, Vưgốtxki thi đỗ vào trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva.
Đúng năm đó, Viện Tâm lý học được thành lập trong khoa Sử - Văn, do Sukin
tài trợ và G.I Trênpanốp làm Viện trưởng. Lúc đầu chưa có ý định đi vào tâm
lý học, cậu sinh viên này thi vào khoa Sử - Văn, nơi đào tạo giáo viên về hai
môn này cho PTTH. Nhưng cha mẹ lại bắt cậu thi vào trường Đại học Y, nơi
sau này dễ có một cuộc sống khá giả hơn. Nhưng học chưa đầy một tháng
cậu chuyển sang khoa Luật. Bên cạnh khoa Luật là Viện Tâm lý học và Viện
Sinh lý học do Xêtrênốp sáng lập từ cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh môn luật, ông
cũng bắt đầu quan tâm đến tâm lý học và sinh lý học. Ngoài ra, ông cũng rất
thích môn kinh tế chính trị học và ngày càng đi sâu vào triết học.
Cùng một lúc, Vưgốtxki học cả ở trường Đại học Tổng hợp. Mátxcơva
và cả trường Đại học tư thục của Sanhiápxki. Ở trường tư này có nhiều giáo
sư tiến bộ, có một số đảng viên Đảng Xã hội - Dân chủ giảng dạy. Ở đây,
Vưgốtxki đi sâu vào sử triết học và phê bình văn học. Công trình khoa học
đầu tiên của ông đã phân tích tác phẩm Anh Karênina của Tônxtôi và tác
phẩm Phêôđo của Đôxtôépxki. Ngay từ lúc còn là sinh viên, ông đã công bố
một số bài viết về trường phái tượng trưng trong nghệ thuật Nga và phê bình
một số vở kịch.
Những năm Vưgốtxki học ở đại học là những năm sau Cách mạng
1905 và trước Cách mạng 1917. Đó là những năm xã hội Nga đầy khủng
hoảng. Trong giới trí thức cũng vậy, phần đông họ lấy các nhà triết học duy
tâm, như Sôpan- haoơ và Nítse làm thần tượng, Sếchxpia ngày càng có ảnh
hưởng lớn trong văn hoá Nga. Từ khi còn là một cậu học sinh phổ thông,
Vưgốtxki - như trên đã trình bày, đã chú ý đọc và nghiên cứu Hămlét, bây giờ
là sinh viên lại càng nghiên cứu kỹ hơn, suy nghĩ nhiều hơn về lẽ sống và cái
chết của nhân vật trong kịch Sếchxpia. Cậu sinh viên này có một cuốn nhật ký
rất bí mật không để cho ai xem, trong đó có ghi các suy nghĩ của mình về việc
bi kịch của tác giả người Anh đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông như thế nào,
thậm chí đến mức có thể nói rằng ông nhìn thế giới bằng con mắt của Hămlét.
Tình hình đó phần nào phản ảnh tâm trạng của phần lớn trí thức Nga thời đó,
như trong vở kịch này nói, đó là thời lúc "trật khớp" "ruỗng nát".
3. Dạy học và nghiên cứu khoa học ở Gômen
Năm 1917, trước khi Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, Vưgốtxki
tốt nghiệp Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva. Ông rời thủ đô, về
Gômen. Ở đây lúc đó tình hình rất xấu. Bọn Bạch vệ Ba Lan luôn luôn đe doạ
thành phố và đầu 1918 bị quân Đức tấn công và chiếm đóng. Nước Nga nội
chiến. Trong gia đình, em 12 tuổi bị ốm nặng. Ông phải theo mẹ đưa em đi
Crưm chữa bệnh, nhưng trên đường đi phải dừng lại Kiép vài tháng. Sau đó,
Gômen được giải phóng, chính quyền xô-viết được thiết lập, ông trở về quê
hương, bắt đầu đi làm giáo viên dạy môn văn, lúc đầu tại trường phổ thông
lao động, đồng thời cùng với người em họ D.I. Vưgốtxki và bạn S.Pa.Đốpkin
mở nhà xuất bản "Các thế kỷ trước và hôm nay". Nhà xuất bản này dự kiến in
các tác phẩm văn học cố điển và hiện đại. Nhưng không vượt qua được các
khó khăn, chẳng bao lâu nhà xuất bản phải đóng cửa.
Vưgốtxki vẫn tiếp tục dạy học, dạy văn, lịch sử nghệ thuật, tâm lý học.
Thứ hai hằng tuần, ông thường đi nói chuyện ở nhiều nơi với các chủ đề khác
nhau, thậm chí có khi nói về thuyết tương đối của Anhxtanh. Hiện giờ ở bảo
tàng Gômen còn nhiều tài liệu lưu trữ về các buổi sinh hoạt này. Ông sáng lập
ra một tờ báo của tiểu ban kịch thuộc phòng văn hoá địa phương.
Nhưng phần lớn năng lực của mình Vưgốtxki vẫn tập trung vào tâm lý
học, nhất là tâm lý học sư phạm. Thời gian đó, ông dạy hai môn này ở một số
trường. Ông tổ chức phòng thí nghiệm tâm lý học về đánh giá và thi cử. Ông
được cử làm giảng viên thường trực về tâm lý học duy vật và giáo dục học
mác-xít hiện đại, dạy văn ở các khoa công nông. Đây cũng là thời kỳ Vưgốtxki
có những thay đổi cực kỳ quan trọng trong thế giới quan theo quan điểm duy
vật biện chứng.
Tháng 8 năm 1922, ông có một tham luận tại Hội nghị khoa học thành
phố Về phương pháp giảng dạy văn ở trường trung học. Ông đã đặt vấn đề
về phương pháp giảng dạy văn theo các đặc điểm ý thức của trẻ, nhấn mạnh
khía cạnh giáo dục đạo đức trong dạy văn (ví dụ qua các bài về thơ ngụ
ngôn), chú ý nghiên cứu cơ chế tâm và khí chất của trẻ trong các tranh vẽ của
các em. Trong thời gian ở Gômen, ông còn để lại bản thảo thử nghiên cứu
quá trình hiểu ngôn ngữ qua các bài dịch từ một tiếng này sang một tiếng
khác. Cùng một ý có thể biểu đạt bằng các thứ tiếng khác nhau, như thế là
giữa ý tưởng và ngôn từ có sự không đồng nhất. Ông bắt đầu dự định tiến
hành một công trình thực nghiệm tâm lý học về vấn đề này. Cho đến giờ vẫn
chưa biết công trình đó có được thực hiện hay không, tuy trong gia đình vẫn
còn lưu trữ về phương pháp thực nghiệm. Trong thời kỳ này, Vưgốtxki đã đi
vào một đề tài nghiên cứu cụ thể, đó là mối quan hệ giữa các sự kiện ý thức
và các sự kiện ngôn ngữ, giữa ý tưởng và ngôn từ. Ý tưởng thì không nhìn
thấy được nhưng ngôn từ thì lại là một hiện tượng có thể phân tích khách
quan được. Chính ở đây đã hé ra một con đường tiến tới thực nghiệm phân
tích thế giới tâm lý bên trong.
Tâm lý học đầu những năm 20 của thế kỷ này ở Nga một mặt còn đang
chịu ảnh hưởng chủ yếu của lý thuyết duy tâm về ý thức, tâm lý; mặt khác,
chịu ảnh hưởng của lý thuyết duy vật với Xêtrênốp, Bécchêrép, Páplốp.
Nhưng các lý thuyết duy vật này mới chỉ phát hiện được bản chất phản xạ
của các hành động sống ở con người, mà chưa đi vào nghiên cứu thực chất
của ý thức, của tâm lý. Để giải quyết vấn đề, ở đây, Vưgốtxki cũng như các
nhà khoa học khác đã đi vào nghiên cứu triết học mác-xít về con người, như
chúng tôi đã có dịp trình bày trong tác phẩm Hành vi và hoạt động (1977), bạn
có thể tham khảo trong tập sách này. Ông dạy học ở Gômen tất cả 5 năm.
4. Từ phản xạ học đến tâm lý học
Trong thời sinh viên, Vưgốtxki, như đã nói ở trên, rất hay lui tới đọc
sách, nghe giảng ở Viện Tâm lý học và Viện Sinh lý học. Ông biết rõ ở Viện
Tâm lý học, người ta nghiên cứu tâm lý, ý thức theo cách phân tích ra thành
các yếu tố như cảm giác, xúc cảm đơn giản, hình ảnh trí nhớ, v.v... Còn
Bécchêrép ở Viện Sinh lý học thì đi vào xây dựng và phát triển "phản xạ học".
Đồng thời, ông cũng rất chú ý nghiên cứu Phrớt, Giêmxơ và Đintây, thấy
được sự đa dạng phong phú trong khoa học tâm lý và nhiều điều khác biệt
giữa tâm lý học duy tâm Nga của Trênpanốp với "phản xạ học", và cũng khác
cả với các trường phái tâm lý học ở Đức ở Mỹ... Dần dần ông đi tới quan
niệm tâm lý học như là khoa học điều khiển ý thức của hành vi, được nghiên
cứu bằng phương pháp khách quan.
Năm 1923, I.Páplốp cho xuất bản tác phẩm 20 năm kinh nghiệm nghiên
cứu hoạt động thần kinh cấp cao (hành vi) của động vật, tác phẩm được coi là
sự chiến thắng tâm lý học duy tâm một cách tuyệt đối. Cùng năm đó có công
trình của A. Úctômxki về điểm hưng phấn ưu thế trong hoạt động thần kinh
(gọi tắt là thuyết "ưu thế”) giúp giải thích cơ chế điều khiển hành vi.
Bécchêrép tổ chức một màng lưới nghiên cứu rộng rãi phát triển các tư tưởng
phản xạ học. Tất cả những hướng nghiên cứu này đều được Vưgốtxki chú ý
tham khảo, chắt lọc để vận dụng những mặt tốt, loại trừ những điểm không
phù hợp đối với việc nghiên cứu tâm lý con người.
Năm 1924, ông được bổ nhiệm làm ủy viên Ban trường công lập, phụ
trách tập san ấn phẩm, trong đó ông viết Tóm tắt tâm lý học sư phạm, Lý
thuyết phản xạ có điều kiện.
Năm 1926, vừa tròn 30 tuổi, ông viết cuốn sách đầu tiên lấy tên là Tâm
lý học sư phạm. Tập sách này phản ánh kết quả nghiên cứu và những suy
nghĩ về khoa học sư phạm từ hồi ở Gômen. Trong lời tựa của ấn phẩm, ông
viết: trên cơ sở của các thành tựu sinh lý học phải xây dựng một nền tâm lý
học mới. Phản xạ có điều kiện giúp chúng ta đi từ sinh vật học sang xã hội
học và tìm ra bản tính và bản chất của quá trình sư phạm. Ông rất tán thưởng
lý thuyết của Sêringtơn, nhà thần kinh học Mỹ, coi hệ thống thần kinh có chức
năng tích hợp. Ông chú ý áp dụng lý thuyết "ưu thế” (thống trị) của Úctômxki,
nhà sinh lý học người Nga và đặc biệt lưu ý tới phát kiến của Sêringtơn: số
dây thần kinh cảm nhận nhiều hơn số dây thần kinh vận động (thực hiện), tựa
như có sự đấu tranh giữa các dây thần kinh để đạt được một đường vận
động thực hiện ra bên ngoài. Vưgốtxki ví hệ thần kinh như là một cánh cửa
hẹp của một nhà hát mà số đông khán giả đều chen nhau vào. Tuỳ thuộc vào
thời điểm và một số điều kiện khác mà trong hệ thần kinh có điểm "thống trị",
có "đường ra" của hành động thắng thế, tạo nên các hành vi mang tính tích
hợp và thống nhất. Đặc điểm tích hợp và thống nhất này có từ động vật cấp
cao. Đến người thì nó biểu hiện thành tích hợp ba loại hình kinh nghiệm; lịch
sử, xã hội và kinh nghiệm "kép" với cơ chế dấu hiệu (signi- ficative - signifying
- tiếng Anh), mà ta đọc trong các bài của tập sách này sẽ thấy rõ nội dung. Ở
đây, phải nhấn mạnh sự vận dụng rất thành công triết học Mác về hoạt động
lao động ở con người vào việc nghiên cứu tâm lý người, nhất là ở các công
trình nghiên cứu về sau như Tư duy và ngôn ngữ. Lúc đầu, hồi 1926, trong
các cuốn sách đầu tiên của mình về tâm lý học sư phạm thì ông còn dùng các
khái niệm học được từ học thuyết của Xêtrênốp và Vưgốtxki gọi hành vi là
"phản xạ tâm lý", mà ý tưởng (suy tính) là 2/3 khúc đầu và ý tưởng là khâu tổ
chức chuẩn bị hành vi của chúng ta.
Như vậy, theo Vưgốtxki, cuộc sống con người không đơn thuần là tổng
các S trả lời tổng R (S ->R), mà thay vào (->) là cả một hoạt động tâm lý rất
phức tạp ở giữa - đó là "không gian bên trong" (thế giới bên trong) của con
người mà thường được học thuyết Páplốp gọi là sự cơ động của các quá
trình thần kinh hay "sự cân bằng giữa hưng phấn và ức chế”. Thực ra, đó là
cả một thế giới tâm lý.
Từ thời đó ông cũng đã giải thích ngôn từ theo lý thuyết tâm lý học.
Trong lĩnh vực này, Vưgốtxki học tập được nhiều ở Pôtépnhia, nhà ngôn ngữ
học nổi tiếng ở Nga. Tác giả này đã thấy trong ngôn từ (có khi nói từ) có ba
thành tố: (1) âm thanh, (2) hình thái nội tại bên trong (hình ảnh hoặc trình diễn
lần thứ hai) và (3) nghĩa. Ông viết: nhà tâm lý học ngôn ngữ phân biệt ba yếu
tố trong từ là âm thanh, nghĩa và hình ảnh. Nhưng hình ảnh ở đây không phải
được theo tâm lý học truyền thống là cảm giác, tri giác, biểu tượng hay một
cái gì đó là ý thức, mà đó là cả một nội dung xã hội, chứ không phải riêng của
từng người. Ví dụ, từ "mực” lúc đầu nó là "đen" thật, sau ta gọi là mực đỏ,
mực xanh, v.v... và vai trò của từ không phải chỉ để thông báo, mà còn giữ vai
trò quan trọng như một thứ trung gian giữa kích thích và trả lời. Và từ đây ông
khái quát lên là chính các yếu tố của văn hoá chứa đựng các yếu tố trung
gian của hoạt động tâm lý. Và các yếu tố trung gian này giữ vai trò tâm lý điều
chỉnh hành vi, dần dần tâm lý học thoát khỏi thời kỳ thấy ý thức như là một cái
gì bí ẩn trong quan niệm duy tâm, duy linh trước đây.
Qua nghiên cứu ngôn từ, ta thấy sự vận dụng "cung phản xạ" phải theo
một cách mới, hết sức sáng tạo và độc đáo. Không phải một từ tác động vào
tai ta như một kích thích vật lý bên ngoài, rồi theo đó có sự chuyển hoá ở
trung tâm và cuối cùng có trả lời cơ bắp, mà là kích thích ngôn ngữ là một sự
thống nhất của âm thanh, nghĩa và hình ảnh tác động vào hoạt động ở con
người, kéo theo bao sự biến đổi trong nội tâm, rồi mới có trả lời, tác động lại.
Trước Vưgốtxki, không có ai đề xuất một cách hiểu như thế. Ngày nay (1989),
có một số tác giả, trong đó có Iarôsépxki cho rằng ở đây Vưgốtxki đã kết hợp
thành công truyền thống khoa học tự nhiên và truyền thống văn hoá - một ý
kiến đáng để tâm nghiên cứu và sau này tác giả đã xây dựng thành cả một lý
thuyết với mong muốn đưa tâm lý học ra ngoài "vòng cương toả" của sinh vật
học nói chung, của sinh học phản xạ nói riêng (tất nhiên không bao giờ tâm lý
học lại không dựa vào cơ sở của các khoa học này). Các công trình nghiên
cứu của Vưgốtxki hướng chủ yếu vào mối quan hệ giữa tâm lý với văn hoá và
giao lưu.
Nghiên cứu ngôn từ, Vưgốtxki dùng thuật ngữ "vòng phản ứng" (tương
tự như Sáclơ Ben đề ra từ nửa đầu thế kỷ XIX) để chỉ đối thoại trong tiểu
cộng đồng. Ông viết: "Ngôn ngữ là công cụ điều phối kinh nghiệm xã hội của
các cá nhân" (Tâm lý học sư phạm, 1926).
Tóm lại, cũng như những năm ở Gômen, trong những năm này
Vưgốtxki đang đi trên hướng xây dựng một nền tâm lý học thực sự khoa học,
khách quan, có thể nghiên cứu cả hành vi và ý thức trên cơ sở xây dựng một
lý thuyết về con người. Trong thời kỳ này, ông đặc biệt quan tâm đến phương
pháp nghiên cứu. Tại Đại hội những người nghiên cứu hành vi toàn quốc (3-
10-1924), ông trình bày bản báo cáo áp dụng các phương pháp nghiên cứu
phản xạ học vào nghiên cứu tâm lý, trong đó có hai bài báo viết từ hồi ở
Gômen: Bây giờ chúng tôi dạy tâm lý học như thế nào? Và Kết quả nghiên
cứu thái độ của các học sinh bỏ học. Báo cáo này sau được sửa chữa, bổ
sung và in trong tập sách Các vấn đề của tâm lý học hiện đại. Chính trong
báo cáo này ông đã kết luận là Páplốp và Bécchêrép còn để tâm lý ở ngoài
hành vi, tức là còn để nhị nguyên luận trong tâm lý học.
Báo cáo tại Đại hội này đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với các đại
biểu. Một giáo viên tâm lý học từ một tỉnh lẻ dám "công kích", phê phán các
nhà khoa học nổi tiếng thế giới, và đã đưa ra lập trường nhất nguyên luận để
nghiên cứu tâm lý học: toàn bộ hành vi con người phải được nghiên cứu theo
luận điểm phản xạ. A.R. Luria đã giới thiệu với Coócnhilốp, Viện trưởng Viện
Tâm lý học, mời Vưgốtxki về làm việc tại Viện Tâm lý học Mátxcơva. Tại đây,
tiếp tục dòng suy nghĩ và nghiên cứu ở Gômen, năm 1925, Vưgốtxki đã đưa
ra một cương lĩnh xây dựng một nền tâm lý học mới.
5. Nghiên cứu tâm lý trẻ em khuyết tật
Hồi này (1920 - 1925), các cán bộ của Viện Tâm lý học Mátxcơva còn
tiếp tục tranh luận về mối quan hệ giữa các phương pháp chủ quan và các
phương pháp khách quan (giữa phương pháp nội quan và phương pháp
ngoại quan), tổ chức các hội thảo về các nhà tâm lý học nổi tiếng trên thế
giới, như Phrớt, Átle, Stécnơ, v. v... Thời cuộc lúc đó là những năm sau Cách
mạng tháng Mười (1917) và kết thúc nội chiến, cả xã hội hào hứng xây dựng
cuộc sống mới trong đất nước xã hội chủ nghĩa.
Tại Bộ Giáo dục, đứng đầu là Lunatraxki và Crúpxkaia, Vụ Bảo vệ trẻ
em thiệt thòi (khuyết tật, lang thang, v.v..) được thành lập. Vưgốtxki được đề
bạt làm Trưởng phòng, tại đây, ông đi vào nghiên cứu tâm lý các trẻ em này.
Khi còn ở Gômen, ông đã từng dạy học ở trường nuôi các cháu mồ côi. Rất
có thể tại đó, ông đã có dịp chú ý tới các trẻ em có khuyết tật. Nhưng về
Mátxcơva, ông đi thẳng vào nghiên cứu đối tượng này, nhất là trẻ em mù, trẻ
em câm điếc và trẻ chậm phát triển trí tuệ với tất cả tấm lòng nhân đạo và tinh
thần khoa học, coi đây là nơi có thể quan sát, thực nghiệm tâm lý trẻ thơ để
tìm ra phương pháp dạy các cháu có hiệu quả. Như chúng ta đều biết, cả ở
Nga cũng như ở trên thế giới, Vưgốtki được coi là một chuyên gia rất nổi tiếng
về tật học, ông có nhiều công trình, nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh
vực này.
Vào năm 1924, ông được Bộ giao cho đứng ra tổ chức Hội nghị bảo vệ
trẻ em thiểu số (trẻ khuyết tật, v.v...) lần thứ hai. Trong những ngày tháng
công tác tại Bộ, cũng như qua việc tổ chức Đại hội này, Vưgốtxki thể hiện rõ
là một nhà tổ chức có tài. Sau Đại hội, ông là người chủ biên và phụ trách
xuất bản kỷ yếu: Những vấn đề giáo dục trẻ mù, câm điếc và chậm phát triển
trí tuệ, trong đó có một báo cáo của ông mang tên là Về tâm lý học và giáo
dục học trẻ khuyết tật đánh dấu một mốc lớn, hết sức cách mạng trong lịch sử
phát triển các khoa học này. Cũng trong năm này, Vưgốtxki có một báo cáo
khoa học khác trình bày tại Hội nghị tâm lý học thần kinh toàn Nga. Ông rất
chú ý tới việc ứng dụng tâm lý học phục vụ xã hội, phục vụ cuộc sống.
Thực tiễn và lý luận tật học - nhất là cơ chế bù trừ chức năng, đã tạo
thêm căn cứ để Vưgốtxki tiếp cận các vấn đề phương pháp luận chung của
tâm lý học, trong đó có vấn đề điều chỉnh, vận hành của hành vi. Ở đây, ta
thấy ảnh hưởng rõ rệt của Thuyết tiến hoá của Sáclơ Đácuyn, thuyết góp
phần giải quyết mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường, khả năng thích nghi
của cơ thể cũng như sự tiến hoá trong cấu trúc cơ thể và biến đổi trong hành
vi. Rồi sau đó là ảnh hưởng rõ rệt của học thuyết phản xạ có điều kiện như là
cơ chế tiếp thu và hình thành, phát triển các hình thái mới của hành vi của thể
giới động vật nói chung, bao gồm cả người. Nhưng ở người, Vưgốtxki nhấn
mạnh, phải thấy được những đặc thù với một chất lượng mới. Vì vậy, phương
pháp luận chủ yếu, giữ vai trò quyết định để giải quyết vấn đề này là vận dụng
phương pháp mác-xít. Từ đây, như Iarôsépxki nhận xét, phải thấy được môi
trường lịch sử, môi trường xã hội và môi trường văn hoá cũng như mối quan
hệ giữa cơ thể người và môi trường xã hội - văn hoá. Tất nhiên, theo chúng
tôi nghĩ, không thể bỏ qua môi trường tự nhiên, và phải nói rõ hơn về quan hệ
giữa con người (chứ không phải cơ thể người) với lịch sử, với xã hội và với
văn hoá, hay nói vắn tắt là mối quan hệ giữa con người với môi trường văn
hoá. Vưgốtxki đã vận dụng phương pháp tiếp cận này, một phương pháp tiếp
cận đầy tính nhân văn và rất lạc quan, vào việc giải quyết một phần các vấn
đề tâm lý học và giáo dục học tật học. Đương nhiên muốn vậy phải xem xét
lại toàn bộ tâm lý học cũ và giáo dục học cũ như là Liên Xô đã và đang làm
(hồi sau Cách mạng tháng Mười). Đi vào cụ thể, ta thấy ngay từ trong các
công trình nghiên cứu trẻ có khuyết tật, Vưgốtxki đã chú ý đến vai trò của các
ký hiệu tượng trưng. Tất cả các cơ sở lý luận và thực tiễn đã giúp ông đi đến
những công trình nghiên cứu có ý nghĩa khá quyết định đối với việc xây dựng
tâm lý học phát triển.
Năm 1925, Lunatraxki, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cử Vưgốtxki sang Anh
dự Hội nghị khoa học quốc tế về đào tạo và giáo dục trẻ em câm - điếc. Tại
Hội nghị này, ông đã có một báo cáo khoa học trình bày các nguyên tắc của
nhà trường lao động dạy các em học sinh có khuyết tật, nói lên sự thống nhất
tinh thần khoa học sâu sắc, sáng tạo với tinh thần trách nhiệm xã hội rất cao,
luôn luôn gắn khoa học với cuộc sống, gắn sinh mệnh của bản thân với sự
phát triển xã hội.
Năm 1925 - 1926, Vưgốtxki sáng lập phòng thí nghiệm tâm lý học trẻ
em có khuyết tật đặt trong trạm y tế học đường của Bộ Giáo dục. Đến năm
1929, phòng thí nghiệm này chuyển thành Viện Nghiên cứu thực nghiệm tật
học trực thuộc Bộ Giáo dục (nay là Viện Tật học thuộc Viện Hàn lâm giáo dục
Nga). Năng lực nghiên cứu khoa học cùng với năng lực tổ chức biểu hiện
thành một tổ hợp năng lực rất đáng quý ở Vưgốtxki. Ông tiếp tục làm người
lãnh đạo khoa học của Viện này trong nhiều năm. Chính từ đây ông đã nảy
sinh và phát triển tư tưởng phải xây dựng nên một khoa học mới về trẻ em
theo hướng suy nghĩ: xây dựng khoa học giáo dục và tâm lý không phải chỉ
theo chiều nằm kéo dài về thời gian, mà phải đặc biệt chú ý theo chiều đứng
có biến đổi về chất lượng, ví dụ phân biệt tầng bậc phản xạ và tầng bậc lịch
sử trong hành vi ứng xử (phản ứng) con người, hay trình độ thích nghi thấp
(cơ thể) và trình độ thích nghi cao (trí tuệ), tầng bậc sinh lý học và tầng bậc
văn hoá, hay như phân biệt các loại môi trường của con người và mối quan
hệ của nó với các loại môi trường ấy. Vừa phân biệt như vậy về mặt nhận
thức, về mặt căn nguyên của các khuyết tật ở trẻ cũng như cách phục hồi
chức năng, ông vừa nhấn mạnh sự hội tụ (các điểm gặp nhau) giữa các tầng
bậc, các trình độ và các phạm trù mới đầụ tưởng như đối nghịch nhau. Vấn
đề là ở sự phát triển và tìm ra con đường để trẻ phát triển các tiềm năng của
mình, bù trừ cho các khuyết tật. Theo quan điểm này, Vưgốtxki đã không
đồng ý với I.Lêvin, nhà tâm lý học Đức, khi tác giả này không nhận thấy ý
tưởng và xúc cảm là hai phần của ý thức con người trong một cái chỉnh thể,
chúng đan xen, quyện lấy nhau và phát triển theo lô-gích của cuộc sống ở
từng người. Ngày nay, Mỹ và phương Tây rất chú ý tới hướng này: không
xem xét trí tuệ một cách thuần tuý (như đo chỉ số thông minh IQ chẳng hạn),
mà quan tâm đến "Trí tuệ xúc cảm" (Emotional Intelligence - gọi tắt là EQ).
6. Nghiên cứu tâm lý học nghệ thuật
Trong cuộc đời nghiên cứu tâm lý học, Vưgốtxki rất chú ý tới các tư liệu
văn học, trước hết là Sếchxpia và Đôxtôiépxki, cũng như các lý thuyết triết
học. Từ các tư liệu về lý thuyết này, ông đi vào nghiên cứu thực nghiệm các
vấn đề cụ thể, như động cơ, nhu cầu, xúc cảm, ngôn ngữ, tư duy, v. v... cho
đến nhân cách. Trong các tư liệu văn học, nghệ thuật có thể tìm được chìa
khoá mở ra tâm hồn và ý nghĩa của cuộc đời. Ông coi đó là một căn cứ tư liệu
để xây dựng một lý thuyết tâm lý học, để rồi từ lý thuyết này có thể hiểu đúng
các sự kiện tâm lý, và quan trọng hơn là điều khiển, điều chỉnh hành vi ứng
xử và giáo dục để hình thành, phát triển nhân cách cùng với năng lực, kỹ
năng sống, kỹ xảo hành nghề... Rất may mắn là ở ta, tác phẩm nổi tiếng Tâm
lý học nghệ thuật của Vưgốtxki đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản hai lần.
Ở đây, chúng tôi chỉ cung cấp thêm một số tư liệu của lịch sử vấn đề để các
bạn tham khảo thêm.
Như trên đã trình bày, ngay từ hồi dạy học ở Gômen, Vưgốtxki đã chú ý
nghiên cứu văn học. Bản thân ông dạy văn và đã lại tổ chức nhiều hội thảo
văn học ở thị trấn đó. Trước đó, từ thời sinh viên, ông cũng học tập rất cẩn
thận lịch sử văn học và lý luận phê bình văn học, trong đó có nhiều trường
phái như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng... bên cạnh chủ nghĩa
hiện thực. Ngay công việc giảng dạy và văn học cũng đã cho ông thấy phải
nghiên cứu tâm lý học.
Không khí tâm lý trong Viện Tâm lý học Mátxcơva thời đó như thế nào?
Ông là một cán bộ của Viện này, cùng với các bạn đồng nghiệp, nhất là các
bạn cùng thế hệ hết sức trăn trở việc xây dựng lại nền tâm lý học và muốn
thoát khỏi tâm lý học duy tâm chủ quan của Trênpanốp. Họ thảo luận với
nhau: liệu có thể xây dựng tâm lý học theo con đường của các nhà phản xạ
học được không? Có thể kết hợp Phrớt và Các Mác được không? v.v...
Hầu hết Viện Tâm lý học Mátxcơva do Coócnhilốp làm Viện trưởng đều
nhất trí là phải xây dựng tâm lý học mác-xít, nhưng bằng cách nào, thì mỗi
người có một cách làm. Riêng Coócnhilốp thì đi vào xây dựng phản ứng học.
Vưgốtxki cho rằng phản ứng học là một xu thế tiến bộ, duy vật, gần với tâm
vật lý và chủ nghĩa hành vi, nên ông không phản đối. Đồng thời, ông đi tìm
một hướng khác để xây dựng một nền tâm lý học mới. Hướng đó là đi vào
thực nghiệm với ngôn từ với sự cộng tác của A.N.Lêônchiép và A.R.Luria là
hai cán bộ trẻ, lúc đó 20 tuổi. Hai ông này lúc đó cùng nhau tập trung vào
nghiên cứu các phản ứng vận động đối với ngôn từ trong các trường hợp
căng thẳng (ví dụ khi sinh viên chuẩn bị thi). Vưgốtxki rất chú ý tới thực
nghiệm trả lời kích thích bằng từ và các thể nghiệm xúc cảm và mặt đạo đức,
theo ông, là cái có thể đi vào để nghiên cứu mặt ý nghĩa của nhân cách.
Không may, sau lần đi họp ở Luân Đôn về, ông bị bệnh lao, và do đó phải
nghỉ việc (không thực nghiệm, không đi giảng bài). Nằm chữa bệnh ở nhà,
ông dùng các tư liệu đã thu thập từ mấy năm trước hoàn tất cuốn Tâm lý học
nghệ thuật.
Đây không chỉ là công trình tâm lý học về quá trình sáng tạo, mà chủ
yếu Vưgốtxki đi vào các tác phẩm văn học như là các đối tượng thẩm mỹ. Và
đi vào các đối tượng thẩm mỹ thì tìm được các "sự kiện tâm lý" hay các yếu tố
tâm lý, nhưng một khi đã có sự kiện, các yếu tố tâm lý thì phải tìm bản chất
của chúng. Thế là phải đi trên một khái niệm của tâm lý học, mà từ trước đến
giờ người ta thường lại chỉ đi vào khái niệm ý thức như là một sự nhận biết ra
ở bên trong chủ thể. Đó là cách làm của tâm lý học duy tâm chủ quan.
Vưgốtxki không đi theo đường cũ. Ông đi vào nghiên cứu sự cảm thụ văn học
của chủ thể đối với nội dung là hình thức thể hiện của các tác phẩm nghệ
thuật, nghiên cứu hiệu quả của nghệ thuật đối với con người. Và như vậy là
ông cũng muốn khắc phục quan điểm của trường phái hình thức chủ nghĩa
(phi tâm lý học) do V.Xclốpxki đứng đầu, cũng như quan điểm phản ứng học
hay hành vi chủ nghĩa áp dụng vào lĩnh vực nghệ thuật tuy cả hai đều dùng
phương pháp khách quan; họ đi vào các cấu trúc mà không xem xét đầy đủ
góc cạnh của các vấn đề cơ bản của cuộc sống và hoạt động của con người
trong xã hội. Vưgốtxki đến lượt mình đã đi theo hướng gắn kết nghệ thuật với
hoạt động của cá thể.
Đi vào phương pháp nghiên cứu cụ thể, ông nghiên cứu ngôn từ như là
sự kiện tâm lý cơ bản. Tất nhiên, nghiên cứu từ ngữ cũng có nhiều cách.
Phản xạ học, phản ứng học, trường phái hình thức... cũng nghiên cứu từ ngữ.
Với họ đó là phản xạ, là phản ứng hay là cấu trúc sáng chế kỳ lạ. Vưgốtxki rất
chú ý tới các chất liệu văn học, coi đó là tổ hợp kích thích "lai ghép" có thể
giúp ta, theo tư tưởng của Spinôda (1632 - 1677, nhà triết học vĩ đại người
Hà Lan), nghiên cứu đạo đức con người trên cơ sở chú ý đến cơ thể con
người. Tất nhiên không thể hiểu đơn giản một cách máy móc là từ bản tính cơ
thể sinh ra kiến trúc, hội hoạ, thơ ca, v.v... Và càng không có chuyện coi tâm
hồn như một loại yếu tố vật chất. Tương tự như vậy, không có một tinh thần
phi cơ thể nào tạo ra văn nghệ. Vấn đề là ở chỗ có quan niệm đúng, như
Spinôda đã chỉ ra, về cơ thể cũng như về tâm hồn, tâm lý. Vưgốtxki, như các
bạn đọc thấy trong Tâm lý học nghệ thuật, đã lấy câu nói của Spinôda làm đề
dẫn cho cả tác phẩm của mình. Đi vào nghiên cứu cụ thể để giải đáp các câu
hỏi đặt ra ở đây, Vưgốtxki đã học tập và vận dụng trước hết lý luận mác-xít về
nghệ thuật. Trước hết phải hiểu "nghệ thuật là cái xã hội trong chúng ta", phải
thấy, như Plêkhanốp (1856 - 1918), nhà triết học Nga nổi tiếng đã nhận xét,
công việc sáng tạo nghệ thuật như là một công trình xã hội học.
Vưgốtxki đi vào nghiên cứu con người cảm thụ nghệ thuật là để xây
dựng một lý thuyết tâm lý học. Đó là sự cảm thụ (đồng hoá) và sự biến
chuyển thực tiễn của thế giới và qua đó, tác phẩm nghệ thuật trở thành
phương tiện lợi hại để giáo dục con người. Trong nghệ thuật, như Vưgốtxki
đã chứng minh, chứa đựng sự tập trung cao độ các quá trình sinh thể và các
quá trình xã hội mà thông qua đó con người hội nhập vào xã hội. Vưgốtxki đã
dùng ngôn ngữ của tâm lý học khách quan để nói về các sự kiện khách quan
của nghệ thuật, nhưng không phải là như phản xạ học hay hành vi chủ nghĩa
thiên về ngôn ngữ của cơ thể. Các tác phẩm nghệ thuật trước hết chứa đựng
các tổ hợp "tín hiệu nghệ thuật", chứ không phải các tín hiệu vật lý. Các tín
hiệu ấy (nghệ thuật) điều chỉnh hành vi người; và trong hành vi có các yếu tố
thần kinh - sinh lý, có yếu tố xã hội - văn hoá. Chính từ đây, ông đã xây dựng
cả một lý thuyết dấu hiệu học mà ta đọc trong các công trình tập hợp trong
cuốn sách này cũng thấy rõ. Các tín hiệu nghệ thuật chịu đựng biện chứng
của cái sinh vật, cái xã hội và cái nghệ thuật. Nghệ thuật được coi như một
dạng hành vi mà qua đó có thể giúp ta tự hiểu bản chất tâm lý của từng con
người cùng với sự cảm thụ nghệ thuật ở họ. Trong cách lý giải các "phản ứng
nghệ thuật" do các "tín hiệu nghệ thuật" tạo ra không thể thiếu sự lý giải tâm
lý học bao hàm cả ý thức lẫn sinh thể như là một hệ thống tích hợp các dạng
hoạt động, kể cả cơ chế hoạt động thần kinh. Ông đi từ tác phẩm nghệ thuật -
đến hành vi đến ý thức như là một hệ thống văn hoá lịch sử. Từ đây, sau này
hình thành nên lý thuyết tâm lý học xã hội về nghệ thuật nói riêng và lý thuyết
tâm lý học văn hoá lịch sử nói chung. Lúc đầu, Vưgốtxki dự định viết tác
phẩm này như là một luận án phó tiến sĩ, nhưng vì ông bị ốm nên không bảo
vệ được. Bốn mươi năm sau Tâm lý học nghệ thuật mới được xuất bản và
thời gian càng trôi đi, tác phẩm càng được chú ý nghiên cứu, được dịch ra
nhiều thứ tiếng trên thế giới và càng được đánh giá cao. Tâm lý học nghệ
thuật giữ một vị trí đáng kể trong di sản của Vưgốtxki để lại cho tâm lý học
ngày nay.
7. Con đường khắc phục khủng hoảng trong tâm lý học
Bên cạnh tất cả các công trình nghiên cứu kể trên vào thời kỳ những
năm 20, Vưgốtxki tập trung sức lực với các bạn đồng nghiệp trong Viện Tâm
lý học Mátxcơva vào việc cải cách tâm lý học theo các nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác. Ngay từ hồi mới dạy tâm lý ở Gômen, ông đã tham gia vào nhóm
chuẩn bị và tiến hành Đại hội toàn Nga lần thứ nhất của những người nghiên
cứu hành vi vào tháng 1 năm 1923 với mục tiêu phát triển một nền tâm lý học
mới theo phương hướng mác-xít.
Mặt khác, Vưgốtxki không chỉ dừng ở sự nhìn nhận tâm lý học riêng ở
nước Nga, mà rất chú ý tới tâm lý học ở Tây Âu và Mỹ. Điều đó thể hiện trong
Lời nói đầu ông viết cho tập sách Tâm lý học năm 1925 (xuất bản ở Mỹ) dịch
từ tiếng Anh sang tiếng Nga. Ông đã giới thiệu và đánh giá cao Phrớt, Cốpca
và Toócđai với ba dòng tâm lý học: tâm lý học phân tâm, tâm lý học ghestan
và tâm lý học hành vi. Cũng trong năm 1925, ông viết Lời nói đầu trong tác
phẩm Vượt lên trên nguyên tắc thoả mãn của Phrớt được dịch ra tiếng Nga.
Năm 1926, ông giới thiệu cuốn Các cơ sở của việc học của Toócđai và cho
xuất bản những ghi chép và nhận xét của ông về cuốn Nội quan và phương
pháp tâm lý học của Cốpca. Ông coi các dòng tâm lý học này cùng với các
đại diện của chúng như là một cao trào nổi bật trong lịch sử phát triển tâm lý
học.
Còn tâm lý học ở Nga thì sao? Tình hình rất nghiêm trọng. Cái cũ thì đã
bị xoá bỏ, cái mới thì chưa hình thành. Nhưng nhìn về mặt phương pháp luận
một cách tổng quát, thì tâm lý học ở Tây Âu và Mỹ không phải là không có
vấn đề. Vưgốtxki đã phân tích các hạn chế của các dòng phái tâm lý học thế
giới và nêu ra nhận xét về tình trạng khủng hoảng của khoa học tâm lý về mặt
lý luận (Trong Tâm lý học nghệ thuật, ông đã có ý nhìn nhận các dòng tâm lý
học thời đó như vậy). Và đến năm 1926, ông hoàn thành bản thảo một công
trình lý luận cực kỳ quan trọng Xem xét các dòng tâm lý học hiện nay ở
phương Tây. Mặc dù tình trạng sức khoẻ của ông ngày càng kém, theo lời kể
của Luria, các bác sĩ chẩn đoán Vưgốtxki chỉ sống được vài tháng nữa, ông
vẫn say sưa làm việc, sửa chữa và bổ sung bản thảo này và đã hoàn thành
với tiêu đề ý nghĩa lịch sử của cuộc khủng hoảng trong tâm lý học. Ở đây, cần
nhấn mạnh sự vận dụng sáng tạo phương pháp tiếp cận lôgích lịch sử của
duy vật biện chứng vào việc phân tích tình hình tâm lý học, kế thừa những cái
tích cực, phủ định các cái lạc hậu, xây dựng một phương pháp luận chung
của tâm lý học như là một khoa học cụ thể và xây dựng cách tổ chức nghiên
cứu tâm lý, cách thức trình bày các tri thức tâm lý học... Ông có ý định xây
dựng một khoa học tâm lý tổng quát bao trùm (hay thay thế) các tâm lý học
hiện hành như Ph. Brentunô (1838 - 1917, nhà triết học Áo), năm 1874 đã
đưa ra ý tưởng xây dựng một tâm lý học thay cho nhiều tâm lý học. Cũng có
người hiểu một khoa học tâm lý tổng quát hay "một tâm lý học" là một tâm lý
học đại cương chung cho tất cả các dòng tâm lý học. Nhà tâm lý học Thuỵ Sĩ
L.Binsvangơ đã thể hiện ý tưởng này trong tác phẩm Nhập môn vào những
vấn đề của tâm lý học đại cương xuất bản ở Béclin năm 1922. Tác giả này đề
xuất nên xây dựng các luận điểm (concept) cơ bản, có tính nguyên tắc của
tâm lý học và cấu trúc của khoa học này. Thực ra, từ đầu thế kỷ cho đến nay,
dù đã là cuối thế kỷ, vấn đề được nêu ra ở đây vẫn còn nguyên tính thời sự.
Biết bao nhiêu vấn đề còn ngổn ngang, chưa sáng tỏ. Ví dụ, có phải
tâm lý học đại cương là phương pháp luận (lý thuyết về con đường và
phương pháp của các tri thức khoa học cụ thể) không? Mối quan hệ giữa
quan điểm và sự kiện, giữa lý thuyết và kinh nghiệm như thế nào? Và tổng
quát hơn, có thể có một khoa học tâm lý bao hàm (thâu nạp) được tất cả các
dòng (trường phái, lý thuyết) tâm lý học hay không? v. v...
III. TÂM LÍ HỌC VƯ-GỐT-XKI
L.X. Vư-gốt-xki đã được thời gian thử thách và đánh giá rất cao. Thêm
một sự xác nhận mới của quy luật viễn cảnh không gian: có đứng xa núi cao,
mới thấy núi cao. Bởi ngày càng nổi lên rõ rệt hơn ảnh hưởng của ông đối với
tâm lí học hiện đại. Di sản của ông để lại là vốn quý của tâm lí học Liên Xô cũ
và thế giới. Chính Vư-gốt-xki đã đề ra những nguyên tắc cơ bản mà về sau
đã trở thành những nguyên tắc xuất phát để phát triển tâm lí học Liên Xô, một
nền tâm lí học được coi là đồng nghĩa với tâm lí học mác-xít. Những tư tưởng
của ông đã làm cơ sở cho một loạt công trình lí luận và thực nghiệm đáng kể
trong mấy thập kỉ qua ở Liên Xô cũ. Có thể nói rằng, không nghiên cứu hệ
thống tư tưởng tâm lí học của Vư-gốt-xki thì không thể hiểu được tâm lí học
Nga, sự hình thành và phát triển của nó, những tư tưởng then chốt và các
nguyên tắc cơ bản của nó.
Sức sống của các tác phẩm của Vư-gốt-xki, các tác phẩm được đánh
giá “là một hiện tượng kiệt xuất trong lịch sử Khoa học tâm lí Liên Xô” trước
hết là ở chỗ, những luận điểm có tính nguyên tắc trong các tác phẩm ấy đã
định hướng về mặt phương pháp luận cho việc cải tổ thực sự nền tâm lí học
theo hướng mác-xít mà năm 1923, Coóc– nhi– lôp đã đem ra công bố.
Ý nghĩa lớn lao của hoạt động khoa học của Vư-gốt-xki là đấu tranh
không mệt mỏi chống các luận điểm duy tâm, siêu hình, duy vật máy móc
thịnh hành đương thời, đấu tranh để lập ra “một nền tâm lí học lịch sử,
người”. Trong hệ thống các luận điểm đa dạng của ông, nổi lên hàng đầu là
những vấn đề về nguồn gốc, cấu trúc, vận hành của các chức năng chuyên
biệt người. “Học thuyết về bản chất xã hội – lịch sử của ý thức người là cơ sở
của hệ thống đó. Chính trong quá trình giải quyết vấn đề này, đã hình thành
phương pháp tiếp cận lịch sử vận dụng vào nghiên cứu tâm lí người và quan
niệm về tính xã hội quy định tâm lí. Lô– gích giải quyết vấn đề đó đã đưa Vư-
gốt-xki tới chỗ phát hiện ra một phương pháp phân tích cuộc sống tâm lí hoàn
toàn mới – đó là phương pháp phân tích “theo đơn vị”. Với phương pháp này,
ông đã đề ra nguyên tắc ám chỉ (Signiflcatif), rồi dùng nguyên tắc này giải
quyết vấn đề cấu trúc của ý thức là vấn đề trung tâm của tâm lí học người.
Những tư tưởng, vấn đề và nguyên tắc kể ra đây chính là những luận điểm
quan trọng nhất của tâm lí học mác-xít. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là sẽ giới hạn
trong việc trình bày các luận điểm đó, các luận điểm đã có đóng góp đáng kể
vào việc hình thành phạm trù hoạt động trong hệ thống khoa học tâm lí.
1. Cần xây dựng lại nền móng của tâm lí học
Xây dựng hệ thống tâm lí học mới là mục đích Vư-gốt-xki đã đề ra cho
bản thân, và ông đã đem hết trí tuệ ý chí phục vụ mục đích đó. Ông đã xác
định một chương trình hành động chung nhằm: 1) Phân tích tình hình tâm lí
học hiện đại để tìm ra “một sự định hướng đúng đắn trong các dòng tâm lí
học hiện đại”; 2) Tìm hiểu tình hình nghiên cứu phương pháp luận chung,
nghiên cứu các luận điểm chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận dụng
vào tâm lí học; 3) Tiến hành các công trình nghiên cứu bộ phận trong phòng
thí nghiệm để lấy tư liệu thực sự, xác lập các tính quy luật bộ phận trong một
lĩnh vực nào đó của hành vi, đưa quá trình nghiên cứu về các nguyên nhân
gần nhất quy định nó. Nói về hai điểm sau trong chương trình, Vư-gốt-xki đã
chỉ ra rằng, “việc xây dựng tâm lí học mác-xít phải tiến hành như đào một
đường hầm từ hai đầu bằng các công trình nghiên cứu đó”; 4) Vận dụng các
kết quả thu thập được vào cuộc sống.
Các công trình tập hợp trong tập “Ý nghĩa lịch sử của cuộc khủng
hoảng trong tâm lí học” của Vư-gốt-xki đều được viết dưới ánh sáng của
nguyên tắc lịch sử và nguyên tắc tính đảng. Phân tích các dòng tâm lí học cũ,
một mặt ông đánh giá cao hạt nhân thực tế đã làm phong phú thêm cho khoa
học, mặt khác ông phê bình đến nơi, đến chốn, không thương tiếc các quan
điểm lí luận của các thuyết đó. Mục tiêu của sự phê bình này là chú ý tới cuộc
khủng hoảng lúc đó trong tâm lí học, vạch trần thực chất của cuộc khủng
hoảng ấy, tìm cách khắc phục nó và đặt tâm lí học trên một cơ sở thực sự
khoa học.
Trong những điểm đặc trưng cho cuộc khủng hoảng đó, ngoài thuyết
sức sống quy tâm lí về “tâm hồn”… thần bí, về “cái bản thể tâm lí”; ngoài
thuyết máy móc trước hết thể hiện trong công thức cổ điển S – R; ngoài
thuyết nhị nguyên đưa các hiện tượng tâm lí đơn giản như cảm giác và tri
giác, vào bình diện đo đạc sinh lí học, còn các hiện tượng tâm lí phức tạp
hơn, như trí nhớ có chủ định, tư duy lô– gích, ý chí v.v… thì cho vào lĩnh vực
tác động của “bản thể tinh thần”, Vư-gốt-xki còn chú ý đặc biệt tới một quan
điểm phổ biến trong toàn bộ nền tâm lí học không mác-xít – quan điểm siêu
hình về tâm lí và hành vi người, phủ nhận bản chất xã hội – lịch sử của các
hiện tượng tâm lí.
Ví dụ, ông viết trong “Tâm lí học nghệ thuật” (1919 – 1924): Tác dụng
của tác phẩm nghệ thuật (tức là của các hiện tượng tâm lí) bị phái tâm lí học
phân tâm coi là hoàn toàn do các bản năng, do cơ chế ý thức chèn ép các
bản năng quyết định, ngoài hoàn cảnh xã hội của nhà văn, nhà thơ. Nguyên
tắc tình dục tràn lan là nguyên tắc cơ bản của thuyết phân tâm. Vư-gốt-xki
trích lời Marx viết trong “Hệ tư tưởng Đức”: “Con người chỉ khác con cừu ở
chỗ ý thức thay thế cho bản năng, hay bản năng con người đã được ý thức
hóa”.
Có thể hiểu được cuộc sống bản năng của con người, nếu đặt nó dưới
ánh sáng của tính ý thức của con người là một thành tố tạo ra hoạt động lao
động.
Vư-gốt-xki thấy khuyết điểm có tính nguyên tắc của các trào lưu hành vi
chủ nghĩa, khuyết điểm tạo sinh ra mọi khuyết tật của các trào lưu này là ở
chỗ họ nghiên cứu hành vi “loại có vú thượng đẵng” chứ không nghiên cứu
hành vi của “con người xã hội”. Vì vậy, những nhà nghiên cứu ấy vừa thoát ra
khỏi cảnh “thực vật hóa” tâm lí, coi sự trưởng thành của cơ thể là nguyên
nhân quyết định sự phát triển tâm lí, thì lập tức rơi vào cảnh “động vật hóa”
tâm lí, coi sự phát triển tâm lí chỉ là một dạng phức tạp hơn, phát triển hơn
trong quá trình nẩy sinh và tiến hóa các dạng tâm lí của hành vi đã có trong
thế giới động vật. Tâm lí học Ghes– tan cũng bỏ qua mất các yếu tố xã hội
trong khi nghiên cứu tâm lí người. Vư-gốt-xki đã nhấn mạnh rằng, nếu không
có một luận điểm khoa học về con người và hoạt động của con người có thể
vạch ra con đường phát hiện được những nét chuyên biệt trong tâm lí và
hành vi người, thì bất cứ một tâm lí học nào, trước sau, cũng đều sẽ bất lực
trước khối lượng tư liệu đồ sộ đã thu thập được trong tâm lí học người.
Sau khi phân tích sâu sắc tất cả các xu hướng tâm lí học chủ yếu hồi
đầu thế kỉ này, Vư-gốt-xki đã đi đến một kết luận chung: rút cục mỗi một xu
hướng chỉ sửa lại hay sáng tạo ra một chương sách xây dựng trên một loại
sự kiện mới tìm ra, và coi đấy là, sự kiện trung tâm của tâm lí học, xu hướng
nào cũng có tham vọng đưa sự kiện mới được phát hiện lên vị trí lí thuyết
chung cho khoa học tâm lí. Nhưng kết quả là không có một xu hướng nào xây
dựng được một lí thuyết tâm lí học.
Tóm lại, bản chất của cuộc khủng hoảng trong tâm lí học những năm
hai mươi là thiếu cơ sở phương pháp luận hoặc có cơ sở phương pháp luận
sai. Từ đó, cần đưa ra một khẩu hiệu cho tâm lí học: “phải xây dựng lại nền
móng của tâm lí học”. Khẩu hiệu này khẳng định việc lập ra một nền tâm lí
học kiểu mới là một nhu cầu chín muồi. Vư-gốt-xki viết từ năm 1926: “Nói
chung, chúng tôi không có ý định đi tìm một hệ thống tâm lí học mác-xít có
sẵn trong tâm lí học phương Tây. Nếu tâm lí học mác-xít xuất hiện ở đó thì
thật là kì quặc. Tác giả nhiều lần nhắc đến ý này, để nhấn mạnh rằng, tâm lí
học Liên Xô, vào những năm đó, có nhiệm vụ phải tự hình thành các cơ sở
phương pháp luận mới về chất. Để thực hiện nhiệm vụ này, phải đi từ những
nguyên lí chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, và vận
dụng vào tâm lí học. Vư-gốt-xki viết tiếp: “rõ ràng là tâm lí học mác-xít có một
nhiệm vụ to lớn là “biện chứng hóa tâm lí học, tức là xây dựng hệ thống
phương pháp luận cho các khái niệm tâm lí học cụ thể trên cơ sở của lí thuyết
duy vật biện chứng”. Nói cách khác, toàn bộ bộ máy khái niệm của tâm lí học
phải có cơ sở là chủ nghĩa duy vật và phải xây dựng lại theo tinh thần biện
chứng. Chính đây là nhiệm vụ trung tâm mà ông đặt ra cho toàn bộ phong
trào tiến tới tâm lí học mác-xít, khoa học thực sự”. Nền tâm lí học này lấy
phạm trù hoạt động làm phạm trù then chốt của bộ máy khái niệm. Vư-gốt-xki
đã gọi tâm lí học kiểu mới là “tâm lí học lịch sử người”.
2. Tâm lí học lịch sử người
Từ năm 1926, Vư-gốt-xki đã xác định ý đồ chung trong việc cải tổ tâm lí
học trên cơ sở của chủ nghĩa Marx là xây dựng “một khoa học về hành vi của
con người xã hội”, chứ không phải hành vi của cơ thể con người. Khoa học
này phải tìm ra được những đặc điểm chuyên biệt ở hành vi người. Đây là
nhiệm vụ chiến lược của tâm lí học kiểu mới, quy định toàn bộ chương trình
hành động của Vư-gốt-xki và các cộng sự của ông. Bộ máy khái niệm của
tâm lí học mác-xít phải thấm nhuần nhiệm vụ đó. Vì vậy, Vư-gốt-xki đã lấy
khái niệm tâm lí học lịch sử người làm khái niệm xuất phát của bộ máy khái
niệm ấy. Năm 1930, Vư-gốt-xki viết: “… hiện nay đang nói tới chuyện làm sao
cho khoa học chiếm lĩnh được một khái niệm mới. Vấn đề là làm cho tâm lí
học thoát khỏi cảnh tù túng trong khuôn khổ sinh vật hóa, và chuyển vào lĩnh
vực tâm lí học lịch sử người” (gạch dưới - P.M.H). Nền tâm lí học này chính là
mục tiêu chung mà Vư– gốt–xki đã đề ra cho các chiến hữu và các bạn đồng
nghiệp.
Hoàn toàn đồng ý với Pô– lít– zer, người đã đề ra cho tâm lí học nhiệm
vụ nhân văn hóa quyết định luận và yêu cầu phải nhìn “con người đang làm
việc, chứ không phải là cơ co bóp”, Vư-gốt-xki nói thêm rằng, “không phải trí
nhớ ghi nhớ, mà là con người ghi nhớ”, rằng, phải thấy con người suy nghĩ,
chứ không phải một dòng tự trị các tư tưởng đang suy nghĩ. Vấn đề đặt ra
trước tâm lí học không phải là đo độ trưởng thành của cơ thể, mà khám phá
ra quá trình hình thành nên con người như là tồn tại xã hội. Vì vậy, lần đầu
tiên trong lịch sử khoa học, Vư-gốt-xki đã phát biểu rằng nhiệm vụ hàng đầu
của nền tâm lí học mới là “đặt con người vào trung tâm”. Ông xác định luận
điểm khoa học của mình là xu thế “lập ra một nền tâm lí học người, nền tâm lí
học này điều khiển toàn bộ công trình nghiên cứu của chúng ta”. Khác với tất
cả các nhà tâm lí học “mô tả” và “giải thích”, nhà tâm lí học Xô viết đề ra cho
bản thân nhiệm vụ lí giải bản chất các chức năng tâm lí chuyên biệt của con
người, và hợp theo là điều khiển sự vận hành của các chức năng ấy cũng
như tìm cơ chế hình thành các chức năng ấy.
Để giải quyết được nhiệm vụ này, tâm lí học phải thoát khỏi thế giới các
trạng thái hay quá trình ý thức khép kín, cũng như phải thoát khỏi vòng “cơ
thể – môi trường”. Theo ý Vư-gốt-xki, nếu tâm lí học muốn nghiên cứu một
cách thực sự hành vi, tâm lí người, thì nó phải hướng tới các quá trình hành
vi và ý thức tham gia vào cuộc sống. Vư-gốt-xki viết: “Các hiện tượng tâm lí
dù chúng quyện chặt một cách phức tạp với từng mặt của thực tế, về bản
chất, vẫn là hiện tượng tâm lí và bản chất của chúng không những không bị
che lấp đi, mà bộc lộ một cách nguyên hình với tất cả sự phong phú của nó
trong tính đa dạng của các mối quan hệ thực giữa các hiện tượng tâm lí với
thực tế xung quanh”. Tóm lại phải nghiên cứu hành vi và tâm lí người trong
sự tác động qua lại với môi trường xung quanh. Thế thì sự tác động qua lại ấy
là gì?
Khác với đại diện của các xu hướng tâm lí học khác nhau, những người
giới hạn quá trình ấy trong định đề về mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và
cử động cơ thể cảm giác, phản ứng, phản xạ, Vư-gốt-xki giải thích quá trình
đó xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng về bản chất
người. Quan niệm này dạy rằng, bằng hoạt động lao động của mình, con
người tạo ra một loại hình thích nghi mới về chất với môi trường, loại hình
thích nghi này hoàn toàn khác với các dạng hành vi mà động vật có, loại hình
thích nghi này bao hàm sự tác động tích cực vào thế giới bên ngoài, vào
những người xung quanh, và do đó, tác động tích cực lên chính bản thân
mình.
Như vậy, Vư-gốt-xki hiểu sự tác động qua lại giữa con người và môi
trường xung quanh là các mối quan hệ thực giữa con người với toàn bộ thực
tại xung quanh, nghĩa là quan hệ giữa con người với thiên nhiên, quan, hệ
giữa người với người, trong đó có quan hệ giữa con người và bản thân. Quan
hệ này, ta tìm thấy trong sơ đồ do Vư-gốt-xki phác họa, nó phản ảnh các mối
liên hệ khách quan, có bản chất xã hội ta cần tìm trong các mối quan hệ này
chìa khóa giúp ta hiểu được tâm lí người… Sơ đồ bao gồm một số vòng tròn,
bán nguyệt… và bên trong những từ sau đây: “con người”, “công cụ”, “đối
tượng lao động”, “sản phẩm”, “ngôn ngữ” và “ngọn lửa” (văn hóa) đứng cạnh
“công cụ”.
Hình 1: Sơ đồ tâm lí, ngôn ngữ, văn hóa… là sản phẩm của hoạt động
và cũng là thành tố của hoạt động
Sơ đồ này chứa đựng nội dung mới về nguyên tắc của tất cả các khái
niệm có trong tâm lí học hồi đó, như các khái niệm môi trường, kích thích và
hành vi. Môi trường và con người sống trong đó không được hiểu một cách
đơn giản là tổng các kích thích vật lí và các kích thích xã hội, mà phải hiểu
môi trường có chứa đựng đối tượng và sản phẩm lao động. Cần nhấn mạnh
rằng, trong môi trường có công cụ lao động chứa đựng các thao tác lao động
nhất định với tư cách là sản phẩm của kinh nghiệm xã hội – lịch sử. Các kinh
nghiệm này chứa đựng trong các công cụ lao động và được chuyển từ thế hệ
này qua thế hệ sau. Bằng công cụ lao động, con người thực hiện sự tác động
qua lại với thiên nhiên, tức là hoạt động lao động nằm trong cơ sở của các
mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường. Vì vậy, nếu như hành
động của động vật, một mặt, tuân theo các quy luật của trường quang học,
mặt khác, tuân theo các quy luật của các nhu cầu cơ thể, thì đối với hành
động của con người, có trường tâm lí bao gồm cả trường thời gian mở rộng,
B3
B2
B
1
A
C
D
trường không gian kéo dài về phía trước lẫn phía sau, tức là cả quá khứ lẫn
tương lai. Trường tâm lí của con người vận hành theo cơ chế xã hội, lịch sử
của việc gìn giữ và truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó
cũng vận hành theo ý định và mục đích do bản thân từng người tạo ra. Ý định
và mục đích là các thành tố cần thiết của hoạt động lao động.
Môi trường trong đó con người sống và hành động tựa như được mở
rộng ra. Môi trường của con người không phải chỉ là môi trường thiên nhiên,
mà còn là môi trường xã hội, môi trường này trước hết được hiểu là tổng hòa
của các quan hệ xã hội do con người tạo ra trong quá trình thực hiện hoạt
động của mình, và con người tham gia vào các quan hệ ấy. Hơn thế nữa, môi
trường của con người luôn luôn thay đổi dưới tác động của con người. Tóm
lại, có một quá trình hai chiều: môi trường tác động lên con người, và con
người tác động lên môi trường bằng hành động có mục đích của mình, con
người thay đổi môi trường, đồng thời thay đổi bản thân. Nói cách khác, các
mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường, cũng như sự giao lưu xã
hội của con người, không thể tiến hành ngoài hoạt động của con người. Với ý
nghĩa đó, con người bao giờ cũng là chủ thể của các mối quan hệ có bản chất
xã hội. Vấn đề con người đã được Vư–gốt– xki giải quyết như vậy trong hệ
thống tư tưởng tâm lí học của mình. Chỉ có hiểu không đầy đủ hệ thống ấy,
thì mới bỏ qua vấn đề con người là vấn đề có ý nghĩa hết sức cơ bản đối với
việc xây dựng lí thuyết tâm lí học mới.
Vì con người muốn tồn tại, buộc phải sử dụng công cụ ngôn ngữ và các
phương tiện khác do tập thể tạo ra và truyền từ người này sang người kia,
nên phải đặt hành vi và tâm lí người vào trong quá trình hoạt động lao động
và giao lưu xã hội, mới có thể hiểu được tâm lí và hành vi.
Nhờ có tính chất công cụ, tính chất gián tiếp, hành vi người không nên
hiểu như là tổng hay chuỗi phản ứng phản xạ, mà phải hiểu là quá trình nắm
lấy các chức năng tâm lí và xã hội của bản thân, tức là hành vi được hiểu là
hoạt động nhằm vào bản thân mình, đồng thời tham gia vào hoạt động bên
ngoài, tác động lên các đối tượng bên ngoài hoặc những người khác. Đó là
quan niệm về hành vi ta thấy trong tất cả các tác phẩm của Vư-gốt-xki, kể cả
các tác phẩm đầu tay của ông. Từ đó bắt đầu vận dụng nguyên tắc tính tích
cực, tính có ý thức, các nguyên tắc xuất phát từ việc sử dụng và sáng tạo ra
các “phương tiện hỗ trợ cho hành vi”, vào giải thích hành vi người. Tâm lí, ý
thức người được xem là kết quả của các mối liên hệ thực của con người với
toàn bộ hiện thực của nó.
Từ đó có thể có kết luận: Khái niệm tâm lí học lịch sử, người do Vư-gốt-
xki đưa vào tâm lí học với tư cách là một khái niệm chi phối toàn bộ hệ thống
khái niệm của tâm lí học mác-xít, đã mở ra con đường cho tâm lí học lĩnh hội
phạm trù hoạt động của chủ nghĩa Marx. Bài báo có tính chất cương lĩnh “ý
thức là vấn đề của tâm lí học hành vi” của Vư-gốt-xki là một bước quan trọng
bậc nhất trên con đường đó.
3. Cương lĩnh đầu tiên: ý thức là vấn đề của tâm lí học hành vi
Ngay từ những năm đầu trong đời hoạt động khoa học của mình (1915
– 1924), Vư-gốt-xki phân tích tình hình tâm lí học đương thời, đã phát hiện ra
xu thế tiến tới khách quan là xu thế duy vật, khoa học tự nhiên, bao gồm
thuyết hành vi Mĩ, phản xạ học Nga và phản ứng học. Ông chọn con đường
dẫn tới tâm lí học khách quan, coi đó là con đường duy nhất có thể cứu khoa
học thoát khỏi khủng hoảng và đặt khoa học vào những điều kiện phát triển
thuận lợi. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông thấy phải đoạn tuyệt với các trào lưu
khách quan một thời là bạn đường của mình, để tìm ra con đường riêng xây
dựng tâm lí học mác–xít. Ông viết: “Buổi đầu, cuộc khủng hoảng Nga nổ ra từ
lúc hướng vào thuyết hành vi Mĩ có tính chiến đấu: lúc đầu như vậy là đúng.
Cần phải chiếm lĩnh lấy quan điểm khách quan trong tâm lí học và thoát khỏi
cảnh tù túng của chủ nghĩa chủ quan duy tâm, duy linh. Nhưng ngay từ bây
giờ, đã rõ là tâm lí học mác–xít chỉ có thể cùng đi đường với behaviorism Mĩ
và phản xạ học Nga đến một mốc nhất định thôi. Bây giờ cần đoạn tuyệt với
các bạn đường ấy và định ra con đường riêng”.
Vư-gốt-xki thấy rõ rằng, muốn cải tổ tận cội rễ tâm lí học theo hướng
chủ nghĩa Mác mà Coóc– nhi– lốp, Blôn– xki, Ba– xôv và các nhà tâm lí học
Liên Xô khác đã nói tới trong những năm hai mươi, thì không thể dùng thuyết
hành vi hay phản ứng học, tâm lí học Ghes– tan hay thuyết Fhơ– rớt làm
điểm xuất phát. Điểm xuất phát ấy nằm trong chủ nghĩa Marx: cần đi từ học
thuyết của Karl Marx mà xây dựng một phương pháp luận mới cho việc
nghiên cứu tâm lí học một cách cụ thể, tức là xây dựng nên một cơ cấu khái
niệm mới của tâm lí học. Vư-gốt-xki là nhà tâm lí học đầu tiên hiểu ra điều đó;
và điều đó được phản ánh một phần trong cách ông đặt vấn đề đối tượng và
phương pháp nghiên cứu tâm lí hồi năm 1925. Chúng tôi muốn nói tới bài báo
của ông: “ý thức là vấn đề của tâm lí học hành vi, bài báo này được xem là
cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết tâm lí học về hoạt động. Chúng tôi chỉ sẽ
dừng lại phân tích bài báo này dưới góc độ của các nguyên tắc dẫn tới
phương pháp tiếp cận hoạt động dùng vào phân tích tâm lí người.
Chúng ta đều biết tâm lí học chủ quan coi ý thức là một hiện tượng
chung chung, không có chất lượng đặc thù. Khi thì coi đó là điều kiện cho các
quá trình tâm lí diễn biến, khi thì coi đó là sân khấu, nơi xảy ra các quá trình
tâm lí, khi thì coi đó là nguồn gốc chung của các chức năng tâm lí v.v… Vì
vậy, tâm lí học, tuy được “mệnh danh là một khoa học về ý thức, kì thực,
chưa bao giờ là một khoa học như vậy”.
Còn các trào lưu tâm lí học khách quan, thì ngay từ những ngày đầu,
đều nhằm vào lí giải các mối quan hệ giản đơn của tồn tại sống với thế giới
bên ngoài. Kết quả là trong tâm lí học có tình trạng: đối tượng của tâm lí học
hoặc là nghiên cứu tâm lí, không nghiên cứu hành vi, hoặc nghiên cứu hành
vi, không nghiên cứu tâm lí”, theo cách nói của Blôn– xki. Trong tình trạng đó,
các nhà tâm lí học buộc phải coi hành vi là các quá trình tự tồn tại ở bên
ngoài, còn ý thức, tâm lí là các thể nghiệm chủ quan tự tồn tại ở bên trong,
tức là mỗi thứ tồn tại riêng biệt, không phụ thuộc vào nhau, hoặc song song
cùng tồn tại. Trong trường hợp này, tâm lí, ý thức hóa ra là một thứ vô dụng
đối với cuộc đời, thậm chí có thể coi sự tồn tại của tâm lí, ý thức là một thứ kì
quặc
Tóm lại, toàn bộ tâm lí học cũ, kể cả các dạng nội quan lẫn các xu
hướng khách quan, hành vi chủ nghĩa, đều ở trong vòng cương tỏa của
thuyết nhị nguyên, duy linh và hiện tượng luận. Vư-gốt-xki thấy khả năng phủ
định nền tâm lí học cũ trong việc đặt và giải quyết vấn đề ý thức con người là
vấn đề trung tâm của tâm lí học hành vi.
Vào những năm bài báo ra đời, đối với nhiều người, bản thân tên bài
báo là một cái gì có vẻ ngược đời, vì ngay từ những ngày đầu tâm lí học hành
vi loại trừ ý thức ra ngoài phạm vi nghiên cứu. Ngược lại, Vư-gốt-xki khẳng
định: “Không nghiên cứu phản xạ, màng nghiên cứu hành vi, cơ chế, thành
phần, cấu trúc của hành vi”. Đồng thời phải nghiên cứu cả ý thức trong nghiên
cứu hành vi. Ông viết: “Nếu loại trừ vấn đề ý thức, thì bản thân tâm lí học tự
ngăn mình không nghiên cứu bất cứ một vấn đề hơi phức tạp nào của hành vi
con người”.
Như vậy là tâm lí học phải nghiên cứu cả hành vi người với tư cách là
“cái con người làm ra” lẫn ý thức người: ý thức người cũng là một thực tại
như hành vi. Đó chính là đối tượng của tâm lí học. Cả cái này lẫn cái kia đều
được xem xét trong mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau, và đều được
nghiên cứu bằng các phương pháp khách quan. “Về mặt tâm lí.., – Vư-gốt-xki
viết – ý thức là một sự kiện quá rõ ràng, là một thực tế hàng đầu và đó là sự
kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chứ không phải sự kiện phụ hay ngẫu
nhiên. Không ai chối cãi điều đó. Có nghĩa là cần và có thể tạm để vấn đề đó
lại chứ không phải bỏ đi nói chung. Chừng nào tâm lí học mới mà chưa đặt ra
một cách rõ ràng, dũng cảm, vấn đề tâm lí và ý thức, chừng nào mà chưa giải
quyết vấn đề này bằng con đường thực nghiệm khách quan, chừng đó tâm lí
học chưa thoát cảnh cơ cực”.
Vư-gốt-xki đã dành vị trí trung tâm trong bài báo cương lĩnh của mình
cho một tư tưởng lớn: tâm lí học, với tư cách là một khoa học cụ thể, phải
hướng các cố gắng của mình vào nghiên cứu ý thức và hành vi của người –
người được hiểu là một tồn tại lịch sử, xã hội, lao động, có ý thức, chứ không
phải là: “cái túi đựng đầy phản xạ”. Lập trường xuất phát đó chỉ ra rằng, chỉ có
thể giải quyết vấn đề ý thức là hiện tượng chỉ con người mới có, trong sự
phân tích các dạng hành vi đặc thù người, khác với hành vi động vật. Hoạt
động lao động là dạng chủ đạo trong các dạng hành vi người. Chính vì vậy,
ông đã lấy một đoạn trích từ tác phẩm “Tư bản” của Mác làm tiền đề cho
cương lĩnh của mình: “Con nhện thực hiện các thao tác giống các thao tác
của người thợ dệt, con ong xây tổ sáp làm cho đôi nhà kiến trúc phải hổ thẹn,
nhưng ngay một nhà kiến trúc tồi, từ đầu đã khác một con ong cừ nhất ở chỗ
trước khi dùng sáp xây tổ nhà kiến trúc đã xây nó trong đầu mình rồi. Khi quá
trình lao động kết thúc, nhận được kết quả, thì kết quả này đã có dưới dạng
tinh thần trong biểu tượng của con người từ lúc quá trình ấy mới bắt đầu. Con
người không những chỉ biến đổi hình thức cái thiên nhiên đã cho; mà trong
cái thiên nhiên cho, con người đồng thời còn thực hiện cả mục đích có ý thức
của mình, mục đích này là quy luật quy định phương thức và tính chất của
hành động của con người, con người bắt ý chí của mình phải theo mục đích
đó”.
Điểm đặc thù trong lao động của con người do Mác nêu ra, được Vư-
gốt-xki gọi là “kinh nghiệm kép”. Nói “kép” là ở chỗ “trong cử động của tay và
trong sự biến đổi vật liệu lao động lặp lại cái đã làm trước đó trong biểu tượng
của người lao động, tựa như làm việc với mô hình của mình về chính các cử
động đó và về chính vật liệu đó”. Chính trong kinh nghiệm kép ấy ta thấy
nguồn gốc của ý thức, sự tồn tại thực của ý thức, cũng như chức năng định
hướng hành động thực sự của ý thức. Khái niệm kinh nghiệm kép cũng chứa
đựng tư tưởng cho rằng biểu tượng, ý thức hay tâm lí người nói chung, đều là
các mặt của hành vi, và hành vi lúc đó (năm 1925) đã được ngầm hiểu là hoạt
động. Vư-gốt-xki không coi ý thức là bản thể, tức là một phương thức tồn tại
tạo ra tồn tại khác, hay một thuộc tính thần bí của tinh thần. Từ đó có thể hiểu
ra rằng công nhận ý thức là đối tượng của tâm lí học hành vi, với quan niệm
mới về bản chất, chức năng của ý thức đối với hành vi người, lần đầu tiên,
tâm lí học có được khả năng thoát khỏi thuyết duy linh, hiện tượng luận và nhị
nguyên luận.
Thế là lần đầu tiên trong lịch sử khoa học này, ý thức với tư cách là vấn
đế của tâm lí học được xem xét trong bối cảnh của hoạt động lao động của
con người. Tình hình này, thực tế, là tiền đề của tư tưởng vận dụng nguyên
tắc công cụ, nguyên tắc gián tiếp là các nguyên tắc đặc trưng cho hoạt động
lao động vào nghiên cứu tâm lí: điều này mang lại một sức sáng tạo to lớn
cho khoa học của chúng ta. Ở mộ t chỗ khác sẽ nói tiếp về điểm này, còn bây
giờ ta quay trở lại ý kiến của Vư– gốt– xki cho rằng “ý thức là vấn đề cấu trúc
của hành vi”. Điều đó có nghĩa là ý thức phải được xếp vào cùng hàng với
toàn bộ các thành tố của hành vi và phải giải thích ý thức trong hành vi đó. Sự
phân tích khái niệm kinh nghiệm kép phần nào đã nói lên điều đó. Đối với các
thành tố khác của hành vi người cũng phải có sự suy xét tương tự.
Vư-gốt-xki xác định ranh giới giữa hành vi động vật và hành vi người là
ở chỗ chúng có các cấu trúc hoàn toàn khác nhau. Ở động vật, các dạng
hành vi chủ yếu hợp thành bởi hai nhóm phản ứng: bẩm sinh hay vô điều
kiện, tự tạo hay có điều kiện. Nói cách khác, hành vi động vật áng chừng có
thể coi là (kinh nghiệm di truyền) hay (kinh nghiệm di truyền; kinh nghiệm cá
thể). Ở người cấu trúc hành vi bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã
hội và kinh nghiệm kép. Ở trên đã nói về kinh nghiệm kép. Còn kinh nghiệm
lịch sử, kinh nghiệm xã hội là gì?
Kinh nghiệm lịch sử được hiểu là việc sử dụng rộng rãi kinh nghiệm của
các thế hệ trước, tức là cái có thể gọi là “di truyền xã hội”. Vư–gốt–xki viết: “…
Toàn bộ cuộc sống của chúng ta, lao động, hành vi – dựa trên sự sử dụng
rộng rãi kinh nghiệm của các thế hệ trước, không truyền qua con đường sinh
đẻ từ cha sang con. đại thể chúng tôi gọi nó là kinh nghiệm lịch sử”. Trong nội
dung của hành vi người có các tri thức trong nghĩa rộng nhất của từ này là
thành tố bắt buộc của hành vi. Các tri thức, các kĩ xảo lao động, các kĩ năng
sinh hoạt, các quy tắc văn hóa và các khái niệm văn hóa, v.v… là do các thế
hệ trước truyền đạt lại cho thế hệ trẻ. Lĩnh hội những cái đó, con người có
khả năng trở thành tồn tại xã hội. Muốn biến khả năng này thành hiện thực,
từng người phải biến những tri thức đó thành các phương tiện của hành vi ở
bản thân. Trong trường hợp này, hành vi người không còn bị hiểu là một hệ
thống các cử động cơ thể hay một chuỗi phản ứng, hành vi được hiểu là một
quá trình tích cực có nguồn gốc xã hội. Đồng thời, trong kinh nghiệm lịch sử
cũng như trong kinh nghiệm kép có chứa đựng khả năng tiến hành nghiên
cứu một cách khách quan ý thức, tâm lí người. Phải xem xét cả nguồn gốc
lẫn sự vận hành của ý thức, tâm lí người trong các kinh nghiệm ấy.
Trong cấu trúc của hành vi người có kinh nghiệm xã hội. Kinh nghiệm
xã hội được hiểu là những tri thức nhận từ người khác tới. Kinh nghiệm này
cũng được gọi là kinh nghiệm tập thể. Về thực chất, kinh nghiệm xã hội không
khác kinh nghiệm lịch sử. Loại thứ nhất tựa như là một dạng của loại thứ hai.
Có thể nói rằng kinh nghiệm xã hội là kinh nghiệm lịch sử trong hiện tại. Trong
cả hai loại kinh nghiệm, vấn đề tựu trung là truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ
này qua thế hệ khác và từng người lĩnh hội kinh nghiệm ấy. Tách ra hai loại
chỉ nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa kinh nghiệm di truyền một cách sinh
vật và kinh nghiệm lịch sử, đó là hai loại hình phát triển hành vi khác nhau về
chất lượng. Có thể nhận xét ngay rằng, tư tưởng coi có hai loại hình phát triển
hành vi – loại sinh vật và loại lịch sử – là một trong những tư tưởng nền tảng
của các công trình tiếp theo của Vư-gốt-xki và những người cộng tác của ông.
Ngoài ra tách kinh nghiệm xã hội ra khỏi các kinh nghiệm khác còn để cho
thấy hành vi người, và cùng với hành vi là ý thức, tâm lí thường được hình
thành, phát triển, vận hành trong giao lưu xã hội. Trong ý nghĩa đó, Vư– gốt–
xki nói rằng cơ chế của ý thức chính là cơ chế của kinh nghiệm lịch sử và
kinh nghiệm xã hội.
Một điểm cuối cùng rất đáng chú ý: Vư-gốt-xki cho rằng kinh nghiệm
lịch sử và kinh nghiệm xã hội có “cùng một số hiệu với kinh nghiệm kép”. Khai
thác luận điểm này, người ta hiểu rằng, ba loại kinh nghiệm nói tới ở đây hợp
thành công thức (cấu trúc) hành vi người. Cả ba đều thuộc một bước phát
triển hành vi, cùng có những đặc điểm chất lượng chuyên chỉ có trong loại
hình lịch sử của hành vi người. Cả ba có cái chung là nội dung của chúng đều
xuất phát từ quá trình lao động, từ quá trình truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ
này sang thế hệ khác, từ người này tới người khác, và từ việc mỗi người lĩnh
hội các kinh nghiệm. Đương nhiên không thể thực hiện được các quá trình
này, nếu không có tâm lí và ý thức giữ chức năng định hướng và tích cực
hóa. Vì vậy Vư-gốt-xki lại viết: ý thức “hóa ra là một cấu trúc rất phức tạp của
hành vi, nếu nói riêng, thì làm cấu trúc rất phức tạp của quá trình phân đôi
của hành vi”. Trong tất cả các loại kinh nghiệm của con người nói tới đây đều
có sự thống nhất giữa các hình thái bên trong và các hình thái bên ngoài của
hành vi.
Tóm lại, Vư-gốt-xki đã phác họa ra cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết
tâm lí học về hoạt động. Lí thuyết này bao hàm mộ quan điểm mới về đối
tượng của tâm lí học hành vi có cấu trúc bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh
nghiệm xã hội và kinh nghiệm kép, hành vi được hiểu ngầm là hoạt động của
con người. Và cả ý thức nữa, cũng có trong đối tượng của tâm lý học với tư
cách là một bộ phận tổ thành của đối tượng tâm lí học; ý thức được coi là một
thực tại khách quan có chức năng điều chỉnh đối với hành vi, và cùng với
hành vi, ý thức là một thành tố của hoạt động. “Tâm lí học hành vi” mà Vư-
gốt-xki nói tới năm 1925 thực chất là tiền ảnh của tâm lí học lịch sử người. Có
cùng một mục đích với xu hướng khách quan là hình thành nên tâm lí học
khách quan, nhưng tâm lí học lịch sử con người, về tất cả các khoản đều
khác với tâm lí học hành vi.
Cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết tâm lí học về hoạt động xuất phát
thẳng từ Các Mác. Phương pháp tiếp cận mới đối với hành vi và ý thức với tư
cách là đối tượng của tâm lí học khoa học, là một trong những kết quả đầu
tiên của quá trình Vư-gốt-xki lĩnh hội học thuyết mác–xít về hoạt động của con
người, kết quả ấy tạo ra nền tảng của mọi nền tảng tâm lí học kiểu mới.
Mọi người biết rằng trong suốt đời hoạt động khoa học của mình, Vư-
gốt-xki không một phút bỏ lơi vấn đề ý thức là vấn đề trung tâm trong toàn bộ
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI
TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI

More Related Content

What's hot

KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
nataliej4
 
Sách về CTXH nhóm
Sách về CTXH nhómSách về CTXH nhóm
Sách về CTXH nhóm
foreman
 
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
nataliej4
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Lenam711.tk@gmail.com
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thanh Đỗ
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
nataliej4
 
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
nataliej4
 
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAYLuận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAYLuận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đLuận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
KimBumt1
 
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinhLuận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu họcLuận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉLuận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
nataliej4
 
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPTLuận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 

What's hot (20)

KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
KHOA HỌC CHẨN ĐOÁN TÂM LÝ
 
Sách về CTXH nhóm
Sách về CTXH nhómSách về CTXH nhóm
Sách về CTXH nhóm
 
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
Giáo Trình Phương Pháp Nghiên Cứu Tâm Lý Học
 
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lýThuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
Thuyết phân tâm học trong tham vấn tâm lý
 
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
Thực trạng và biện pháp xử lý stress của học sinh lớp 12 trường thpt hoài đức...
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
Giáo Trình Tâm Lý Học Phát Triển Dương Thị Diệu Hoa
 
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
Đại Cương Giáo Dục Đặc Biệt Cho Trẻ Chậm Phát Triển Trí Tuệ
 
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAYLuận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
Luận văn: Thái độ đối với hoạt động thực tập của sinh viên, HAY
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAYLuận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
Luận án: Căng thẳng ở học sinh trung học phổ thông, HAY
 
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đLuận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
Luận văn: Quan hệ của cha mẹ với con tuổi thiếu niên, HAY, 9đ
 
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
Luận án: Ứng phó với hành vi bạo lực học đường của học sinh - Gửi miễn phí qu...
 
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
Giáo trình giới và phát triển ts. thái thị ngọc dư 1193852
 
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
Luận văn: Tích hợp giáo dục giới tính trong dạy học sinh học 8 - Gửi miễn phí...
 
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
Luận văn: Nhận thức của sinh viên đại học về sức khỏe sinh sản, HAY!
 
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinhLuận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
Luận văn: Nhận thức và thái độ về các mạng xã hội của học sinh
 
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu họcLuận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
Luận văn: Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học
 
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉLuận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
Luận án: Nhu cầu tham vấn tâm lý của cha mẹ có con bị tự kỉ
 
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
TIẾP CẬN TRỊ LIỆU NHẬN THỨC HÀNH VI
 
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPTLuận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
Luận văn: Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT
 

Similar to TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI

Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
nataliej4
 
Giáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cươngGiáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cương
jackjohn45
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdfGiáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
NuioKila
 
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
nataliej4
 
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
nataliej4
 
Tâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdfTâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdf
Man_Ebook
 
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trịLuận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
nataliej4
 
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
nataliej4
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
Phi Phi
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Trung Huynh
 
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lêninTai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
2356181040
 
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich NietzscheVan de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Man_Ebook
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
nataliej4
 
Các học thuyết tâm lý nhân cách
Các học thuyết tâm lý nhân cáchCác học thuyết tâm lý nhân cách
Các học thuyết tâm lý nhân cách
jackjohn45
 
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.001210922602 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
Anh Nguyen
 
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
nataliej4
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết học
nataliej4
 

Similar to TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI (20)

Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
Những Vấn Đề Lý Luận Và Phương Pháp Tâm Lý Học
 
Giáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cươngGiáo trình tâm lý học đại cương
Giáo trình tâm lý học đại cương
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdfGiáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
Giáo Trình Tâm Lý Học Đại Cương.pdf
 
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
LỊCH SỬ TÂM LÝ HỌC
 
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
CÁC THỰC NGHIỆM TRONG TÂM LÝ HỌC XÃ HỘI
 
Tâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdfTâm lý học kỹ sư.pdf
Tâm lý học kỹ sư.pdf
 
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trịLuận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
Luận án: Tư tưởng tự do tinh thần của F.M.Dostoievski và giá trị
 
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
Tư tưởng đạo đức trong triết học khai sáng Pháp
 
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi   dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
Triết học mác – lênin (hệ thống câu hỏi dáp an gợi mở & hướng dẫn viết ...
 
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
75770b9b cdbf-4038-90e2-f25e1f4426fe triethocmaclenin
 
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganhGiao trinh triet hoc chuyen nganh
Giao trinh triet hoc chuyen nganh
 
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lêninTai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
Tai lieu doc them chương 1 triết mác lênin
 
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich NietzscheVan de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
Van de Con Nguoi Trong Triet Hoc Friedrich Nietzsche
 
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
Giáo Trình Tâm Lý Học Xã Hội
 
Các học thuyết tâm lý nhân cách
Các học thuyết tâm lý nhân cáchCác học thuyết tâm lý nhân cách
Các học thuyết tâm lý nhân cách
 
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.001210922602 neu phm101_bai1_v1.0012109226
02 neu phm101_bai1_v1.0012109226
 
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
Tâm Lý Học Nhân Cách Một Số Vấn Đề Lý Luận
 
Chuong i
Chuong iChuong i
Chuong i
 
Giáo trình triết học
Giáo trình triết họcGiáo trình triết học
Giáo trình triết học
 
Triet hoc mac lenin
Triet hoc mac leninTriet hoc mac lenin
Triet hoc mac lenin
 

More from nataliej4

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
nataliej4
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
nataliej4
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
nataliej4
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
nataliej4
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
nataliej4
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
nataliej4
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
nataliej4
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
nataliej4
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
nataliej4
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
nataliej4
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
nataliej4
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
nataliej4
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
nataliej4
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
nataliej4
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
nataliej4
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
nataliej4
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
nataliej4
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
nataliej4
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
nataliej4
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
nataliej4
 

More from nataliej4 (20)

đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
đồ áN xây dựng website bán laptop 1129155
 
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
Nghệ thuật chiến tranh nhân dân việt nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ t...
 
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
Quản lý dịch vụ ô tô toyota 724279
 
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc giaTừ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
Từ vựng tiếng anh luyện thi thpt quốc gia
 
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vươngCông tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
Công tác dược lâm sàng tại bv cấp cứu trưng vương
 
Bài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốcBài giảng nghề giám đốc
Bài giảng nghề giám đốc
 
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin họcđề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán   tin học
đề Cương chương trình đào tạo trình độ trung cấp kế toán tin học
 
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao độngGiáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
Giáo trình kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động
 
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắnLựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
Lựa chọn trong điều kiện không chắc chắn
 
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
Thực trạng phân bố và khai thác khoáng sét ở đồng bằng sông cửu long 4857877
 
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree towerSổ tay hướng dẫn khách thuê   tòa nhà ree tower
Sổ tay hướng dẫn khách thuê tòa nhà ree tower
 
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
Phân tích tác động của thiên lệch hành vi đến quyết định của nhà đầu tư cá nh...
 
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tậtBài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
Bài giảng giáo dục hoà nhập trẻ khuyết tật
 
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
đồ áN thiết kế quần âu nam 6838864
 
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
Tài liệu hội thảo chuyên đề công tác tuyển sinh – thực trạng và giải pháp 717...
 
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùngBài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
Bài giảng dịch tễ học bệnh nhiễm trùng
 
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanhBài giảng môn khởi sự kinh doanh
Bài giảng môn khởi sự kinh doanh
 
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning introGiới thiệu học máy – mô hình naïve bayes   learning intro
Giới thiệu học máy – mô hình naïve bayes learning intro
 
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắcLý thuyết thuế chuẩn tắc
Lý thuyết thuế chuẩn tắc
 
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
Bài giảng thuế thu nhập (cá nhân, doanh nghiệp)
 

Recently uploaded

98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
LngHu10
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CNGTRC3
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
phamthuhoai20102005
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
https://www.facebook.com/garmentspace
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
Điện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
thanhluan21
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
ngocnguyensp1
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
chinhkt50
 

Recently uploaded (11)

98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
98 BÀI LUYỆN NGHE TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ ...
 
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
Nghiên cứu cơ chế và động học phản ứng giữa hợp chất Aniline (C6H5NH2) với gố...
 
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KHOA HỌC TỰ NHIÊN 9 CHƯƠNG TRÌNH MỚI - PHẦN...
 
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdfGIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
GIAO TRINH TRIET HOC MAC - LENIN (Quoc gia).pdf
 
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptxCÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
CÁC BIỆN PHÁP KỸ THUẬT AN TOÀN KHI XÃY RA HỎA HOẠN TRONG.pptx
 
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdfBAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
BAI TAP ON HE LOP 2 LEN 3 MON TIENG VIET.pdf
 
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
Khoá luận tốt nghiệp ngành Truyền thông đa phương tiện Xây dựng kế hoạch truy...
 
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdfGIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
GIÁO TRÌNH 2-TÀI LIỆU SỬA CHỮA BOARD MONO TỦ LẠNH MÁY GIẶT ĐIỀU HÒA.pdf
 
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdfDS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
DS thi KTHP HK2 (dot 3) nam hoc 2023-2024.pdf
 
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
30 - ĐỀ THI HSG - HÓA HỌC 9 - NĂM HỌC 2021 - 2022.pdf
 
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nayẢnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần Việt Nam hiện nay
 

TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI

  • 1. TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI TÂM LÝ HỌC VƯ–GỐT–XKI TẬP MỘT KHẢO CỨU, GHI CHÉP, TÓM TẮT, BÌNH LUẬN, DỊCH THUẬT Tác giả: PHẠM MINH HẠC LỜI NÓI ĐẦU Năm 1996, các nhà tâm lý học thế giới kỷ niệm 100 năm ngày sinh hai nhà tâm lý học kiệt xuất của thế kỷ XX: Lép Vưgôtxki và Giăng Piagiê. Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với Cộng hoà liên bang Nga và Thụy Sĩ để phối hợp tổ chức một số hoạt động khoa học tưởng nhớ công lao của hai nhà tâm lý học, một ở Liên Xô (cũ), một ở Thụy Sĩ, hết sức tiêu biểu cho nền tâm lý học khoa học của thế giới ngày nay; và điều chủ yếu hơn - để học tập, vận dụng các lý thuyết của hai ông vào giảng dạy và nghiên có tâm lý học. Về phía Thụy Sĩ, Đại sứ quán Thụy Sĩ ở Hà Nội, nhất là ông bà Đại sứ, ủy ban quốc gia Thụy Sĩ kỷ niệm 100 năm ngày sinh G.Piagiê đã hết lòng cộng tác. Kết quả là đã tổ chức triển lãm, dịch sách và hội thảo về tâm lý học Piagiê. Từ phía Nga, rất tiếc, không bắt được liên lạc! Chúng tôi hết sức áy náy, không yên lòng và suốt năm qua không nguôi ý nguyện làm bằng được công việc nói trên. Lục lọi tất cả tủ sách gia đình và tranh thủ mọi thời gian có thể trong suốt ba tháng qua đến hôm nay mới có tập sách này, trước hết để tỏ lòng biết ơn nền tâm lý học Nga, các giáo sự và các nhà nghiên cứu tâm lý học Nga, Trường ĐHTH Lômônôxốp Mátxcơva và Viện Tâm lý học Mátxcơva.
  • 2. Phần thứ nhất của sách gồm ba bài: bài Lép Vưgốtxki - nhà tâm lý học kiệt xuất của thế kỷ XX tôi viết năm 1996, cùng khoảng thời gian với bài viết về G. Piagiê, để gửi đăng trong một vài tạp chí trong nước nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh hai ông; bài Thân thế và sự nghiệp mới viết trong tháng ba vừa qua, dựa theo cuốn sách Lép Vưgôtxki của Iarôsépxki và một số tư liệu cũng như thông tin, cảm nhận của tôi thu thập từ trước tới nay. Bài thứ ba có cùng tên gọi với cuốn sách này là một chương trong luận án Tiến sĩ tôi tiến hành nghiên cứu từ 1973 trên 1976 và bảo vệ thành công tháng 6/1977. Phần thứ hai gồm ba bài tôi đọc và ghi chép tóm tắt hồi 1973 - 1976. Trong này có một số đoạn là đoạn trích nguyên văn và nay tôi dịch từ tiếng Nga sang tiếng Việt. Các đoạn khác là tôi tóm tắt ý của tác giả, một số chỗ có ghi chú lời nhận xét, bình luận, cách tôi hiểu tác phẩm. Các đoạn này ghi phần lớn bằng tiếng Nga và có phần bằng tiếng Việt bây giờ đọc lại, hiểu lại, có phần suy ngẫm và ít nhiều có liên hệ với các thành tựu tâm lý học trong mấy chục năm qua, viết ra bằng tiếng Việt cho có mạch văn để người đọc có thể đọc được ấy là hy vọng như thế! Về phần mình, tôi đã cố gắng giữ được tinh thần cốt lõi của các tác phẩm của nhà tâm lý học lỗi lạc Vưgôtxki. Phần thứ ba gồm ba bài tôi dịch tác phẩm của Vưgốtxki, một bài dịch hồi 1975 - 1976, hai bài mới dịch năm nay. Ở đây không có sự lựa chọn: may và có được như vậy và đưa vào tập sách này. Trong vở ghi chép của tôi còn có một số bài viết về tâm lý học Vưgốtxki, nhất là những bài của các cộng sự của ông mà sau cũng trở thành những nhà tâm lý học rất nổi tiếng ở nước Nga như A.N. Lêônchiép, A.R. Luria, P.Ia.Ganpêrin, D.B. Encônhin, v.v... Gần đây, ở Giơnevơ (Thụy Sĩ) có ra một tập san Piagiê và Vưgốtxki được UNECSO tài trợ. Nhiều nước, như Mỹ, Đức cũng đã xuất bản một số tập sách chuyên khảo về Vưgốtxki. Cũng hy vọng là sẽ liên hệ lại được với Hội Tâm lý học Nga và sẽ có “Toàn tập L.Vưgốtxki" cũng như tập Kỷ yếu hội thảo kỷ niệm 100 ngày sinh L. Vưgốtxki của giới tâm lý học Nga.
  • 3. Lần này được sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình cùng với một tình cảm hết sức quý báu của Nhà xuất bản Giáo dục, tập sách này được ra mắt bạn đọc. Và tin rằng sẽ có các tập tiếp theo để các nhà tâm lý học và giáo dục học, triết học và y học, v.v... có tài liệu đọc trực tiếp Vưgốtxki và các kết quả vận dụng tư tưởng xuất sắc của ông. Bản thân chúng tôi cùng một số cộng sự mấy năm gần đây rất chú ý đến Tâm lý học phát triển với khái niệm phát triển người của Vưgốtxki và Piagiê, kết hợp phương pháp tiếp cận hoạt động với phương pháp tiếp cận giá trị, đem tâm lý học đóng góp vào việc xây dựng và phát triển khoa học về con người Việt Nam, trong đó có một vấn đề trung tâm là vấn đề con người văn hoá. Tập sách hẳn còn phải được bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện... Chúng tôi rất mong đợi sự chỉ bảo của quý bạn đọc và các bạn đồng nghiệp. 14-4-1997 TÁC GIẢ Phần một. KHẢO CỨU I. LÉP VƯ-GỐT-XKI NHÀ TÂM LÍ HỌC KIỆT XUẤT CỦA THẾ KỈ XX Năm nay, giới tâm lý học thế giới và nhân loại tiến bộ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lép Vưgốtxki (1896 - 1984) - nhà tâm lý học Nga vĩ đại. Ông là người đặt nền móng cho tâm lý học hoạt động là nền tâm lý học lấy khái niệm hoạt động trong học thuyết mácxít làm khái niệm công cụ then chốt nhất để đưa nền tâm lý học thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, bế tắc do đường lối duy tâm, nội quan, thần bí hoá tâm lý người và đường lối duy vật máy móc, sinh vật hoá tâm lý người tạo nên hồi cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Vưgốtxki và Piagiê được coi là hai cột trụ lớn nhất của tâm lý học hiện đại. Ông đã phân tích một cách khoa học sự đóng góp tích cực của các dòng phái tâm lý học hồi đó, như tâm lý học hành vi chủ nghĩa, tâm lý học phân tâm, tâm lý học ghestan, phản xạ học, phản ứng học là đều có cùng một
  • 4. ý đồ hết sức đáng trân trọng: bằng mọi cách phải đưa tâm lý học phát triển theo phương pháp khách quan. Nhưng các nền tâm lý học vừa nêu đều có một hạn chế chung là chưa tính đến một cách đầy đủ tính xã hội, tính lịch sử của tâm lý con người. Vưgốtxki đề xuất phải xây dựng nền tâm lý học thực sự con người mà ông gọi là tâm lý học lịch sử. Nền tâm lý học này lấy hoạt động lao động của con người làm mô hình để nghiên cứu và phát triển tâm lý người; coi tâm lý con người như một hoạt động, nghĩa là nó cũng có đối tượng, có công cụ, có chủ thể lao động và sản phẩm. Tương tự như trong hoạt động lao động có công cụ lao động, trong hoạt động tâm lý cũng có công cụ tâm lý (thắt nút để nhớ, dùng hột ngô để đếm, cao hơn nữa là từ ngữ, chữ viết, con số, hình ảnh, hình tượng...). Ông viết tác phẩm Công cụ và dấu hiệu vào đầu những năm 1930, đến gần đây vẫn chưa xuất bản. Sau này, A. N. Lêônchiép phát triển, xây dựng thành mô hình cấu trúc vĩ mô của hoạt động bao gồm một bên là hoạt động, hành động, thao tác và một bên là động cơ, mục đích, điều kiện. Vưgốtxki đưa ra nguyên tắc gián tiếp: các chức năng tâm lý giữ vai trò công cụ trong quá trình con người làm chủ bản thân và tác động vào môi trường, theo đây một loạt công trình nghiên cứu về chú ý, trí nhớ, tư duy... đã được tiến hành và công bố trong cuối những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ này. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy sự phát triển tâm lý là đi từ các chức năng tâm lý trực tiếp chuyển sang các chức năng tâm lý gián tiếp (ví dụ, từ ghi nhớ trực tiếp chuyển sang ghi nhớ gián tiếp, v.v...). Và các chức năng tâm lý gián tiếp được Vưgốtxki gọi là các chức năng tâm lý cấp cao, đặc trưng của con người. Chính trong cơ chế gián tiếp này chứa đựng cả kinh nghiệm lịch sử (thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau), kinh nghiệm xã hội (người này truyền cho người kia) lẫn kinh nghiệm cá nhân (từng người sáng tạo ra). Cơ chế gián tiếp được thực hiện bằng các công cụ tâm lý, trong đó tư duy, ngôn ngữ, kí hiệu, trải nghiệm giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Tác phẩm Tư duy và ngôn ngữ Vưgốtxki viết năm 1934 được dịch ra nhiều tiếng nước ngoài, được xuất bản ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, v.v..., và được đánh giá rất cao. Tác phẩm này đã phản ánh những nội dung cơ bản của tâm lý học Vưgốtxki.
  • 5. Cũng như trong tác phẩm Lịch sử phát triển các chức năng tâm lý cấp cao (1931), trong tác phẩm Tư duy và ngôn ngữ, tác giả đã khái quát lên rằng, chính quá trình phát triển các chức năng tâm lý cấp cao là quá trình từng con người lĩnh hội và phát triển văn hoá. Nguyên tắc phát triển là một nguyên tắc bao trùm trong cuộc sống tâm lý. Do đó, người ta gọi tâm lý học Vưgốtxki là tâm lý học văn hoá, gộp với tên gọi đã nêu ở trên, ta có tâm lý học lịch sử - văn hoá. Lý thuyết của Vưgốtxki đã được ứng dụng rộng rãi vào nghệ thuật (ở ta, tác phẩm Tâm lý học nghệ thuật của ông đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản hai lần), vào ngôn ngữ học, dân tộc học, nhi khoa, và nhất là vào giáo dục. Việc ứng dụng này dựa trên cơ sở toàn bộ lý luận tâm lý học do ông đề ra, nhất là lý thuyết về sự phát triển nói chung và về vùng phát triển gần nói riêng: với sự giúp đỡ của người lớn cần tổ chức cho trẻ hoạt động phù hợp để trẻ có thể thể hiện năng lực cao hơn điểm phát triển dừng trước đó. Lý thuyết thời kỳ nhạy cảm có ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức điều khiển quá trình phát triển của trẻ em vì ở mỗi một tuổi, não bộ có một khả năng bắt đầu tiếp thu nhanh và tốt hơn (so với tuổi khác) đối với một loại tác động nhất định nào đó. Tất nhiên, khả năng đó ở trẻ này có thể không giống trẻ khác. Lý thuyết thời kỳ nhạy cảm gắn bó với lý thuyết phát triển hệ thống liên chức năng: các chức năng tâm lý bao giờ cũng hoạt động theo hệ thống, trong đó tuỳ từng lứa tuổi, từng thời điểm của hoạt động mà một chức năng nào đó giữ vai trò chính - lúc đầu cảm giác, tri giác là chính, sau có thể tư duy là chính; có khi tư duy theo chỗ nhớ được, có lúc lại nhớ bằng tư duy, v.v... Một nội dung cốt lõi trong tâm lý học Vưgốtxki là lý thuyết về nghĩa và ý. Nói vắn tắt và đơn giản, nghĩa là nội dung của một từ mà tộc người nói từ đó đã đặt vào nó và được mọi người nói chung đều hiểu như nhau, ý là nghĩa riêng của một từ đối với một người ở một thời điểm nhất định, trong một hoàn cảnh nhất định. Có lúc Vưgốtxki coi toàn bộ sự phát triển tâm lý tựu trung lại là lĩnh hội các nghĩa và ý; coi nghĩa là "tế bào" của hoạt động. Chính lý thuyết ý và nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tâm lý học nghệ thuật của ông. Từ lý
  • 6. thuyết này, ông đã góp phần xác định hướng xây dựng một tâm lý học hoạt động hoàn chỉnh mà Lêônchiép, người cộng sự sau ông và tự coi là học trò của Vưgốtxki, đã cùng với các bạn đồng nghiệp của mình phát triển lên và khắc phục các hạn chế trong tâm lý học Vưgốtxki. Vưgốtxki chỉ thọ có 38 tuổi. Ông tốt nghiệp đại học, rồi ra dạy tại một trường sư phạm trung cấp ở một tỉnh lẻ gần biên giới Bêlarút và Ba Lan, sau đó, nhờ công trình nghiên cứu thực nghiệm và những bài lý luận rất sắc sảo, ông được mời về làm cán bộ của Viện Tâm lý học Mátxcơva. Cuộc đời khoa học từ đấy chỉ có hơn 10 năm mà ông đã viết được khoảng 10 tập sách và một số bài báo, tính ra có thể đến bốn, năm ngàn trang. Ông được coi là người đặt nền tảng cho tâm lý học mác-xít. Ngày nay, giới tâm lý học thế giới coi ông và Piagiê là hai người sáng lập ra tâm lý học phát triển (developmental psychology) và giữ vai trò then chốt cho lý luận phát triển người nói riêng cũng như cho các khoa học nghiên cứu con người nói chung. II. THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP 1. Quê hương và thời học phổ thông Lép Xêmiônôvích Vưgốtxki sinh ngày 5-11-1896 ở thị trấn Oócsa, nước Cộng hoà Bạch Nga (Bêlarút), sau chuyển về sinh sống ở thị trấn Gômen, gần biên giới Bạch Nga - Ba Lan và tốt nghiệp phổ thông trung học (lớp 10) ở đó cho đến năm 1913 khi ông thi đỗ vào Trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva. Tốt nghiệp đại học, ông lại quay về Gômen làm giáo viên. Bố ông là một nhân viên ngân hàng, mẹ là người có học thức. Lúc nhỏ, cậu bé Vưgốtxki học ở nhà với một ông thầy là cựu sinh viên đã từng bị đi đày ở Xibêri vì tội hoạt động cách mạng. Hết lớp 6, cậu mới thi vào học ở một trường tư thục. Khi học phổ thông trung học, cậu từng khởi xướng và tổ chức các cuộc hội thảo về văn học, lịch sử và triết học, đề xướng các chủ đề hội thảo. Cậu thường được tập thể tán thưởng và điều khiển các hội thảo rất thành công, bản thân trình bày các báo cáo có nội dung sâu sắc và hấp dẫn, kết luận hội thảo rất rành mạch, đầy thuyết phục. Nhờ vậy, sau
  • 7. này, ông đã trở thành một nhà giáo dục nổi tiếng và người tổ chức, nghiên cứu khoa học xuất sắc. Ngay từ phổ thông trung học, cậu học sinh Vưgốtxki đã rất quan tâm đến tri thức lịch sử và mặt triết học của lịch sử, đã thích thử áp dụng sơ đồ luận đề - phản đề - tổng hợp luận đề (có khi nói vắn tắt là: đề - phản luận đề - tổng đề). Cậu sớm đi sâu nghiên cứu tác phẩm Đạo đức học của Spinôda và sau này ông đã nhiều lần quay lại tác phẩm này. Ông rất thích môn nghệ thuật và thơ, nhất là thơ của Pukin, nhà thơ Nga vĩ đại và kịch Hămlét của Sếchxpia. Sau này, ông đã hoàn thành một tác phẩm đồ sộ Tâm lý học nghệ thuật rất nổi tiếng (đã dịch sang tiếng Việt và đã xuất bản hai lần). Ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của tác phẩm ý tưởng và ngôn ngữ của A.A.Pôtépnhia. Học sinh Vưgốtxki tốt nghiệp phổ thông trung học, được thưởng huy chương vàng (tất cả các môn đều đạt điểm 5 là điểm cao nhất) và đã bắt đầu bộc lộ khá rõ năng lực cũng như hứng thú đi vào các môn nhân văn. 2. Những năm học đại học Năm 1913, Vưgốtxki thi đỗ vào trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva. Đúng năm đó, Viện Tâm lý học được thành lập trong khoa Sử - Văn, do Sukin tài trợ và G.I Trênpanốp làm Viện trưởng. Lúc đầu chưa có ý định đi vào tâm lý học, cậu sinh viên này thi vào khoa Sử - Văn, nơi đào tạo giáo viên về hai môn này cho PTTH. Nhưng cha mẹ lại bắt cậu thi vào trường Đại học Y, nơi sau này dễ có một cuộc sống khá giả hơn. Nhưng học chưa đầy một tháng cậu chuyển sang khoa Luật. Bên cạnh khoa Luật là Viện Tâm lý học và Viện Sinh lý học do Xêtrênốp sáng lập từ cuối thế kỷ XIX. Bên cạnh môn luật, ông cũng bắt đầu quan tâm đến tâm lý học và sinh lý học. Ngoài ra, ông cũng rất thích môn kinh tế chính trị học và ngày càng đi sâu vào triết học. Cùng một lúc, Vưgốtxki học cả ở trường Đại học Tổng hợp. Mátxcơva và cả trường Đại học tư thục của Sanhiápxki. Ở trường tư này có nhiều giáo sư tiến bộ, có một số đảng viên Đảng Xã hội - Dân chủ giảng dạy. Ở đây,
  • 8. Vưgốtxki đi sâu vào sử triết học và phê bình văn học. Công trình khoa học đầu tiên của ông đã phân tích tác phẩm Anh Karênina của Tônxtôi và tác phẩm Phêôđo của Đôxtôépxki. Ngay từ lúc còn là sinh viên, ông đã công bố một số bài viết về trường phái tượng trưng trong nghệ thuật Nga và phê bình một số vở kịch. Những năm Vưgốtxki học ở đại học là những năm sau Cách mạng 1905 và trước Cách mạng 1917. Đó là những năm xã hội Nga đầy khủng hoảng. Trong giới trí thức cũng vậy, phần đông họ lấy các nhà triết học duy tâm, như Sôpan- haoơ và Nítse làm thần tượng, Sếchxpia ngày càng có ảnh hưởng lớn trong văn hoá Nga. Từ khi còn là một cậu học sinh phổ thông, Vưgốtxki - như trên đã trình bày, đã chú ý đọc và nghiên cứu Hămlét, bây giờ là sinh viên lại càng nghiên cứu kỹ hơn, suy nghĩ nhiều hơn về lẽ sống và cái chết của nhân vật trong kịch Sếchxpia. Cậu sinh viên này có một cuốn nhật ký rất bí mật không để cho ai xem, trong đó có ghi các suy nghĩ của mình về việc bi kịch của tác giả người Anh đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông như thế nào, thậm chí đến mức có thể nói rằng ông nhìn thế giới bằng con mắt của Hămlét. Tình hình đó phần nào phản ảnh tâm trạng của phần lớn trí thức Nga thời đó, như trong vở kịch này nói, đó là thời lúc "trật khớp" "ruỗng nát". 3. Dạy học và nghiên cứu khoa học ở Gômen Năm 1917, trước khi Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, Vưgốtxki tốt nghiệp Khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Mátxcơva. Ông rời thủ đô, về Gômen. Ở đây lúc đó tình hình rất xấu. Bọn Bạch vệ Ba Lan luôn luôn đe doạ thành phố và đầu 1918 bị quân Đức tấn công và chiếm đóng. Nước Nga nội chiến. Trong gia đình, em 12 tuổi bị ốm nặng. Ông phải theo mẹ đưa em đi Crưm chữa bệnh, nhưng trên đường đi phải dừng lại Kiép vài tháng. Sau đó, Gômen được giải phóng, chính quyền xô-viết được thiết lập, ông trở về quê hương, bắt đầu đi làm giáo viên dạy môn văn, lúc đầu tại trường phổ thông lao động, đồng thời cùng với người em họ D.I. Vưgốtxki và bạn S.Pa.Đốpkin mở nhà xuất bản "Các thế kỷ trước và hôm nay". Nhà xuất bản này dự kiến in
  • 9. các tác phẩm văn học cố điển và hiện đại. Nhưng không vượt qua được các khó khăn, chẳng bao lâu nhà xuất bản phải đóng cửa. Vưgốtxki vẫn tiếp tục dạy học, dạy văn, lịch sử nghệ thuật, tâm lý học. Thứ hai hằng tuần, ông thường đi nói chuyện ở nhiều nơi với các chủ đề khác nhau, thậm chí có khi nói về thuyết tương đối của Anhxtanh. Hiện giờ ở bảo tàng Gômen còn nhiều tài liệu lưu trữ về các buổi sinh hoạt này. Ông sáng lập ra một tờ báo của tiểu ban kịch thuộc phòng văn hoá địa phương. Nhưng phần lớn năng lực của mình Vưgốtxki vẫn tập trung vào tâm lý học, nhất là tâm lý học sư phạm. Thời gian đó, ông dạy hai môn này ở một số trường. Ông tổ chức phòng thí nghiệm tâm lý học về đánh giá và thi cử. Ông được cử làm giảng viên thường trực về tâm lý học duy vật và giáo dục học mác-xít hiện đại, dạy văn ở các khoa công nông. Đây cũng là thời kỳ Vưgốtxki có những thay đổi cực kỳ quan trọng trong thế giới quan theo quan điểm duy vật biện chứng. Tháng 8 năm 1922, ông có một tham luận tại Hội nghị khoa học thành phố Về phương pháp giảng dạy văn ở trường trung học. Ông đã đặt vấn đề về phương pháp giảng dạy văn theo các đặc điểm ý thức của trẻ, nhấn mạnh khía cạnh giáo dục đạo đức trong dạy văn (ví dụ qua các bài về thơ ngụ ngôn), chú ý nghiên cứu cơ chế tâm và khí chất của trẻ trong các tranh vẽ của các em. Trong thời gian ở Gômen, ông còn để lại bản thảo thử nghiên cứu quá trình hiểu ngôn ngữ qua các bài dịch từ một tiếng này sang một tiếng khác. Cùng một ý có thể biểu đạt bằng các thứ tiếng khác nhau, như thế là giữa ý tưởng và ngôn từ có sự không đồng nhất. Ông bắt đầu dự định tiến hành một công trình thực nghiệm tâm lý học về vấn đề này. Cho đến giờ vẫn chưa biết công trình đó có được thực hiện hay không, tuy trong gia đình vẫn còn lưu trữ về phương pháp thực nghiệm. Trong thời kỳ này, Vưgốtxki đã đi vào một đề tài nghiên cứu cụ thể, đó là mối quan hệ giữa các sự kiện ý thức và các sự kiện ngôn ngữ, giữa ý tưởng và ngôn từ. Ý tưởng thì không nhìn thấy được nhưng ngôn từ thì lại là một hiện tượng có thể phân tích khách
  • 10. quan được. Chính ở đây đã hé ra một con đường tiến tới thực nghiệm phân tích thế giới tâm lý bên trong. Tâm lý học đầu những năm 20 của thế kỷ này ở Nga một mặt còn đang chịu ảnh hưởng chủ yếu của lý thuyết duy tâm về ý thức, tâm lý; mặt khác, chịu ảnh hưởng của lý thuyết duy vật với Xêtrênốp, Bécchêrép, Páplốp. Nhưng các lý thuyết duy vật này mới chỉ phát hiện được bản chất phản xạ của các hành động sống ở con người, mà chưa đi vào nghiên cứu thực chất của ý thức, của tâm lý. Để giải quyết vấn đề, ở đây, Vưgốtxki cũng như các nhà khoa học khác đã đi vào nghiên cứu triết học mác-xít về con người, như chúng tôi đã có dịp trình bày trong tác phẩm Hành vi và hoạt động (1977), bạn có thể tham khảo trong tập sách này. Ông dạy học ở Gômen tất cả 5 năm. 4. Từ phản xạ học đến tâm lý học Trong thời sinh viên, Vưgốtxki, như đã nói ở trên, rất hay lui tới đọc sách, nghe giảng ở Viện Tâm lý học và Viện Sinh lý học. Ông biết rõ ở Viện Tâm lý học, người ta nghiên cứu tâm lý, ý thức theo cách phân tích ra thành các yếu tố như cảm giác, xúc cảm đơn giản, hình ảnh trí nhớ, v.v... Còn Bécchêrép ở Viện Sinh lý học thì đi vào xây dựng và phát triển "phản xạ học". Đồng thời, ông cũng rất chú ý nghiên cứu Phrớt, Giêmxơ và Đintây, thấy được sự đa dạng phong phú trong khoa học tâm lý và nhiều điều khác biệt giữa tâm lý học duy tâm Nga của Trênpanốp với "phản xạ học", và cũng khác cả với các trường phái tâm lý học ở Đức ở Mỹ... Dần dần ông đi tới quan niệm tâm lý học như là khoa học điều khiển ý thức của hành vi, được nghiên cứu bằng phương pháp khách quan. Năm 1923, I.Páplốp cho xuất bản tác phẩm 20 năm kinh nghiệm nghiên cứu hoạt động thần kinh cấp cao (hành vi) của động vật, tác phẩm được coi là sự chiến thắng tâm lý học duy tâm một cách tuyệt đối. Cùng năm đó có công trình của A. Úctômxki về điểm hưng phấn ưu thế trong hoạt động thần kinh (gọi tắt là thuyết "ưu thế”) giúp giải thích cơ chế điều khiển hành vi. Bécchêrép tổ chức một màng lưới nghiên cứu rộng rãi phát triển các tư tưởng
  • 11. phản xạ học. Tất cả những hướng nghiên cứu này đều được Vưgốtxki chú ý tham khảo, chắt lọc để vận dụng những mặt tốt, loại trừ những điểm không phù hợp đối với việc nghiên cứu tâm lý con người. Năm 1924, ông được bổ nhiệm làm ủy viên Ban trường công lập, phụ trách tập san ấn phẩm, trong đó ông viết Tóm tắt tâm lý học sư phạm, Lý thuyết phản xạ có điều kiện. Năm 1926, vừa tròn 30 tuổi, ông viết cuốn sách đầu tiên lấy tên là Tâm lý học sư phạm. Tập sách này phản ánh kết quả nghiên cứu và những suy nghĩ về khoa học sư phạm từ hồi ở Gômen. Trong lời tựa của ấn phẩm, ông viết: trên cơ sở của các thành tựu sinh lý học phải xây dựng một nền tâm lý học mới. Phản xạ có điều kiện giúp chúng ta đi từ sinh vật học sang xã hội học và tìm ra bản tính và bản chất của quá trình sư phạm. Ông rất tán thưởng lý thuyết của Sêringtơn, nhà thần kinh học Mỹ, coi hệ thống thần kinh có chức năng tích hợp. Ông chú ý áp dụng lý thuyết "ưu thế” (thống trị) của Úctômxki, nhà sinh lý học người Nga và đặc biệt lưu ý tới phát kiến của Sêringtơn: số dây thần kinh cảm nhận nhiều hơn số dây thần kinh vận động (thực hiện), tựa như có sự đấu tranh giữa các dây thần kinh để đạt được một đường vận động thực hiện ra bên ngoài. Vưgốtxki ví hệ thần kinh như là một cánh cửa hẹp của một nhà hát mà số đông khán giả đều chen nhau vào. Tuỳ thuộc vào thời điểm và một số điều kiện khác mà trong hệ thần kinh có điểm "thống trị", có "đường ra" của hành động thắng thế, tạo nên các hành vi mang tính tích hợp và thống nhất. Đặc điểm tích hợp và thống nhất này có từ động vật cấp cao. Đến người thì nó biểu hiện thành tích hợp ba loại hình kinh nghiệm; lịch sử, xã hội và kinh nghiệm "kép" với cơ chế dấu hiệu (signi- ficative - signifying - tiếng Anh), mà ta đọc trong các bài của tập sách này sẽ thấy rõ nội dung. Ở đây, phải nhấn mạnh sự vận dụng rất thành công triết học Mác về hoạt động lao động ở con người vào việc nghiên cứu tâm lý người, nhất là ở các công trình nghiên cứu về sau như Tư duy và ngôn ngữ. Lúc đầu, hồi 1926, trong các cuốn sách đầu tiên của mình về tâm lý học sư phạm thì ông còn dùng các khái niệm học được từ học thuyết của Xêtrênốp và Vưgốtxki gọi hành vi là
  • 12. "phản xạ tâm lý", mà ý tưởng (suy tính) là 2/3 khúc đầu và ý tưởng là khâu tổ chức chuẩn bị hành vi của chúng ta. Như vậy, theo Vưgốtxki, cuộc sống con người không đơn thuần là tổng các S trả lời tổng R (S ->R), mà thay vào (->) là cả một hoạt động tâm lý rất phức tạp ở giữa - đó là "không gian bên trong" (thế giới bên trong) của con người mà thường được học thuyết Páplốp gọi là sự cơ động của các quá trình thần kinh hay "sự cân bằng giữa hưng phấn và ức chế”. Thực ra, đó là cả một thế giới tâm lý. Từ thời đó ông cũng đã giải thích ngôn từ theo lý thuyết tâm lý học. Trong lĩnh vực này, Vưgốtxki học tập được nhiều ở Pôtépnhia, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng ở Nga. Tác giả này đã thấy trong ngôn từ (có khi nói từ) có ba thành tố: (1) âm thanh, (2) hình thái nội tại bên trong (hình ảnh hoặc trình diễn lần thứ hai) và (3) nghĩa. Ông viết: nhà tâm lý học ngôn ngữ phân biệt ba yếu tố trong từ là âm thanh, nghĩa và hình ảnh. Nhưng hình ảnh ở đây không phải được theo tâm lý học truyền thống là cảm giác, tri giác, biểu tượng hay một cái gì đó là ý thức, mà đó là cả một nội dung xã hội, chứ không phải riêng của từng người. Ví dụ, từ "mực” lúc đầu nó là "đen" thật, sau ta gọi là mực đỏ, mực xanh, v.v... và vai trò của từ không phải chỉ để thông báo, mà còn giữ vai trò quan trọng như một thứ trung gian giữa kích thích và trả lời. Và từ đây ông khái quát lên là chính các yếu tố của văn hoá chứa đựng các yếu tố trung gian của hoạt động tâm lý. Và các yếu tố trung gian này giữ vai trò tâm lý điều chỉnh hành vi, dần dần tâm lý học thoát khỏi thời kỳ thấy ý thức như là một cái gì bí ẩn trong quan niệm duy tâm, duy linh trước đây. Qua nghiên cứu ngôn từ, ta thấy sự vận dụng "cung phản xạ" phải theo một cách mới, hết sức sáng tạo và độc đáo. Không phải một từ tác động vào tai ta như một kích thích vật lý bên ngoài, rồi theo đó có sự chuyển hoá ở trung tâm và cuối cùng có trả lời cơ bắp, mà là kích thích ngôn ngữ là một sự thống nhất của âm thanh, nghĩa và hình ảnh tác động vào hoạt động ở con người, kéo theo bao sự biến đổi trong nội tâm, rồi mới có trả lời, tác động lại. Trước Vưgốtxki, không có ai đề xuất một cách hiểu như thế. Ngày nay (1989),
  • 13. có một số tác giả, trong đó có Iarôsépxki cho rằng ở đây Vưgốtxki đã kết hợp thành công truyền thống khoa học tự nhiên và truyền thống văn hoá - một ý kiến đáng để tâm nghiên cứu và sau này tác giả đã xây dựng thành cả một lý thuyết với mong muốn đưa tâm lý học ra ngoài "vòng cương toả" của sinh vật học nói chung, của sinh học phản xạ nói riêng (tất nhiên không bao giờ tâm lý học lại không dựa vào cơ sở của các khoa học này). Các công trình nghiên cứu của Vưgốtxki hướng chủ yếu vào mối quan hệ giữa tâm lý với văn hoá và giao lưu. Nghiên cứu ngôn từ, Vưgốtxki dùng thuật ngữ "vòng phản ứng" (tương tự như Sáclơ Ben đề ra từ nửa đầu thế kỷ XIX) để chỉ đối thoại trong tiểu cộng đồng. Ông viết: "Ngôn ngữ là công cụ điều phối kinh nghiệm xã hội của các cá nhân" (Tâm lý học sư phạm, 1926). Tóm lại, cũng như những năm ở Gômen, trong những năm này Vưgốtxki đang đi trên hướng xây dựng một nền tâm lý học thực sự khoa học, khách quan, có thể nghiên cứu cả hành vi và ý thức trên cơ sở xây dựng một lý thuyết về con người. Trong thời kỳ này, ông đặc biệt quan tâm đến phương pháp nghiên cứu. Tại Đại hội những người nghiên cứu hành vi toàn quốc (3- 10-1924), ông trình bày bản báo cáo áp dụng các phương pháp nghiên cứu phản xạ học vào nghiên cứu tâm lý, trong đó có hai bài báo viết từ hồi ở Gômen: Bây giờ chúng tôi dạy tâm lý học như thế nào? Và Kết quả nghiên cứu thái độ của các học sinh bỏ học. Báo cáo này sau được sửa chữa, bổ sung và in trong tập sách Các vấn đề của tâm lý học hiện đại. Chính trong báo cáo này ông đã kết luận là Páplốp và Bécchêrép còn để tâm lý ở ngoài hành vi, tức là còn để nhị nguyên luận trong tâm lý học. Báo cáo tại Đại hội này đã gây ấn tượng rất sâu sắc đối với các đại biểu. Một giáo viên tâm lý học từ một tỉnh lẻ dám "công kích", phê phán các nhà khoa học nổi tiếng thế giới, và đã đưa ra lập trường nhất nguyên luận để nghiên cứu tâm lý học: toàn bộ hành vi con người phải được nghiên cứu theo luận điểm phản xạ. A.R. Luria đã giới thiệu với Coócnhilốp, Viện trưởng Viện Tâm lý học, mời Vưgốtxki về làm việc tại Viện Tâm lý học Mátxcơva. Tại đây,
  • 14. tiếp tục dòng suy nghĩ và nghiên cứu ở Gômen, năm 1925, Vưgốtxki đã đưa ra một cương lĩnh xây dựng một nền tâm lý học mới. 5. Nghiên cứu tâm lý trẻ em khuyết tật Hồi này (1920 - 1925), các cán bộ của Viện Tâm lý học Mátxcơva còn tiếp tục tranh luận về mối quan hệ giữa các phương pháp chủ quan và các phương pháp khách quan (giữa phương pháp nội quan và phương pháp ngoại quan), tổ chức các hội thảo về các nhà tâm lý học nổi tiếng trên thế giới, như Phrớt, Átle, Stécnơ, v. v... Thời cuộc lúc đó là những năm sau Cách mạng tháng Mười (1917) và kết thúc nội chiến, cả xã hội hào hứng xây dựng cuộc sống mới trong đất nước xã hội chủ nghĩa. Tại Bộ Giáo dục, đứng đầu là Lunatraxki và Crúpxkaia, Vụ Bảo vệ trẻ em thiệt thòi (khuyết tật, lang thang, v.v..) được thành lập. Vưgốtxki được đề bạt làm Trưởng phòng, tại đây, ông đi vào nghiên cứu tâm lý các trẻ em này. Khi còn ở Gômen, ông đã từng dạy học ở trường nuôi các cháu mồ côi. Rất có thể tại đó, ông đã có dịp chú ý tới các trẻ em có khuyết tật. Nhưng về Mátxcơva, ông đi thẳng vào nghiên cứu đối tượng này, nhất là trẻ em mù, trẻ em câm điếc và trẻ chậm phát triển trí tuệ với tất cả tấm lòng nhân đạo và tinh thần khoa học, coi đây là nơi có thể quan sát, thực nghiệm tâm lý trẻ thơ để tìm ra phương pháp dạy các cháu có hiệu quả. Như chúng ta đều biết, cả ở Nga cũng như ở trên thế giới, Vưgốtki được coi là một chuyên gia rất nổi tiếng về tật học, ông có nhiều công trình, nhiều phương pháp nghiên cứu trong lĩnh vực này. Vào năm 1924, ông được Bộ giao cho đứng ra tổ chức Hội nghị bảo vệ trẻ em thiểu số (trẻ khuyết tật, v.v...) lần thứ hai. Trong những ngày tháng công tác tại Bộ, cũng như qua việc tổ chức Đại hội này, Vưgốtxki thể hiện rõ là một nhà tổ chức có tài. Sau Đại hội, ông là người chủ biên và phụ trách xuất bản kỷ yếu: Những vấn đề giáo dục trẻ mù, câm điếc và chậm phát triển trí tuệ, trong đó có một báo cáo của ông mang tên là Về tâm lý học và giáo dục học trẻ khuyết tật đánh dấu một mốc lớn, hết sức cách mạng trong lịch sử
  • 15. phát triển các khoa học này. Cũng trong năm này, Vưgốtxki có một báo cáo khoa học khác trình bày tại Hội nghị tâm lý học thần kinh toàn Nga. Ông rất chú ý tới việc ứng dụng tâm lý học phục vụ xã hội, phục vụ cuộc sống. Thực tiễn và lý luận tật học - nhất là cơ chế bù trừ chức năng, đã tạo thêm căn cứ để Vưgốtxki tiếp cận các vấn đề phương pháp luận chung của tâm lý học, trong đó có vấn đề điều chỉnh, vận hành của hành vi. Ở đây, ta thấy ảnh hưởng rõ rệt của Thuyết tiến hoá của Sáclơ Đácuyn, thuyết góp phần giải quyết mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường, khả năng thích nghi của cơ thể cũng như sự tiến hoá trong cấu trúc cơ thể và biến đổi trong hành vi. Rồi sau đó là ảnh hưởng rõ rệt của học thuyết phản xạ có điều kiện như là cơ chế tiếp thu và hình thành, phát triển các hình thái mới của hành vi của thể giới động vật nói chung, bao gồm cả người. Nhưng ở người, Vưgốtxki nhấn mạnh, phải thấy được những đặc thù với một chất lượng mới. Vì vậy, phương pháp luận chủ yếu, giữ vai trò quyết định để giải quyết vấn đề này là vận dụng phương pháp mác-xít. Từ đây, như Iarôsépxki nhận xét, phải thấy được môi trường lịch sử, môi trường xã hội và môi trường văn hoá cũng như mối quan hệ giữa cơ thể người và môi trường xã hội - văn hoá. Tất nhiên, theo chúng tôi nghĩ, không thể bỏ qua môi trường tự nhiên, và phải nói rõ hơn về quan hệ giữa con người (chứ không phải cơ thể người) với lịch sử, với xã hội và với văn hoá, hay nói vắn tắt là mối quan hệ giữa con người với môi trường văn hoá. Vưgốtxki đã vận dụng phương pháp tiếp cận này, một phương pháp tiếp cận đầy tính nhân văn và rất lạc quan, vào việc giải quyết một phần các vấn đề tâm lý học và giáo dục học tật học. Đương nhiên muốn vậy phải xem xét lại toàn bộ tâm lý học cũ và giáo dục học cũ như là Liên Xô đã và đang làm (hồi sau Cách mạng tháng Mười). Đi vào cụ thể, ta thấy ngay từ trong các công trình nghiên cứu trẻ có khuyết tật, Vưgốtxki đã chú ý đến vai trò của các ký hiệu tượng trưng. Tất cả các cơ sở lý luận và thực tiễn đã giúp ông đi đến những công trình nghiên cứu có ý nghĩa khá quyết định đối với việc xây dựng tâm lý học phát triển.
  • 16. Năm 1925, Lunatraxki, Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cử Vưgốtxki sang Anh dự Hội nghị khoa học quốc tế về đào tạo và giáo dục trẻ em câm - điếc. Tại Hội nghị này, ông đã có một báo cáo khoa học trình bày các nguyên tắc của nhà trường lao động dạy các em học sinh có khuyết tật, nói lên sự thống nhất tinh thần khoa học sâu sắc, sáng tạo với tinh thần trách nhiệm xã hội rất cao, luôn luôn gắn khoa học với cuộc sống, gắn sinh mệnh của bản thân với sự phát triển xã hội. Năm 1925 - 1926, Vưgốtxki sáng lập phòng thí nghiệm tâm lý học trẻ em có khuyết tật đặt trong trạm y tế học đường của Bộ Giáo dục. Đến năm 1929, phòng thí nghiệm này chuyển thành Viện Nghiên cứu thực nghiệm tật học trực thuộc Bộ Giáo dục (nay là Viện Tật học thuộc Viện Hàn lâm giáo dục Nga). Năng lực nghiên cứu khoa học cùng với năng lực tổ chức biểu hiện thành một tổ hợp năng lực rất đáng quý ở Vưgốtxki. Ông tiếp tục làm người lãnh đạo khoa học của Viện này trong nhiều năm. Chính từ đây ông đã nảy sinh và phát triển tư tưởng phải xây dựng nên một khoa học mới về trẻ em theo hướng suy nghĩ: xây dựng khoa học giáo dục và tâm lý không phải chỉ theo chiều nằm kéo dài về thời gian, mà phải đặc biệt chú ý theo chiều đứng có biến đổi về chất lượng, ví dụ phân biệt tầng bậc phản xạ và tầng bậc lịch sử trong hành vi ứng xử (phản ứng) con người, hay trình độ thích nghi thấp (cơ thể) và trình độ thích nghi cao (trí tuệ), tầng bậc sinh lý học và tầng bậc văn hoá, hay như phân biệt các loại môi trường của con người và mối quan hệ của nó với các loại môi trường ấy. Vừa phân biệt như vậy về mặt nhận thức, về mặt căn nguyên của các khuyết tật ở trẻ cũng như cách phục hồi chức năng, ông vừa nhấn mạnh sự hội tụ (các điểm gặp nhau) giữa các tầng bậc, các trình độ và các phạm trù mới đầụ tưởng như đối nghịch nhau. Vấn đề là ở sự phát triển và tìm ra con đường để trẻ phát triển các tiềm năng của mình, bù trừ cho các khuyết tật. Theo quan điểm này, Vưgốtxki đã không đồng ý với I.Lêvin, nhà tâm lý học Đức, khi tác giả này không nhận thấy ý tưởng và xúc cảm là hai phần của ý thức con người trong một cái chỉnh thể, chúng đan xen, quyện lấy nhau và phát triển theo lô-gích của cuộc sống ở
  • 17. từng người. Ngày nay, Mỹ và phương Tây rất chú ý tới hướng này: không xem xét trí tuệ một cách thuần tuý (như đo chỉ số thông minh IQ chẳng hạn), mà quan tâm đến "Trí tuệ xúc cảm" (Emotional Intelligence - gọi tắt là EQ). 6. Nghiên cứu tâm lý học nghệ thuật Trong cuộc đời nghiên cứu tâm lý học, Vưgốtxki rất chú ý tới các tư liệu văn học, trước hết là Sếchxpia và Đôxtôiépxki, cũng như các lý thuyết triết học. Từ các tư liệu về lý thuyết này, ông đi vào nghiên cứu thực nghiệm các vấn đề cụ thể, như động cơ, nhu cầu, xúc cảm, ngôn ngữ, tư duy, v. v... cho đến nhân cách. Trong các tư liệu văn học, nghệ thuật có thể tìm được chìa khoá mở ra tâm hồn và ý nghĩa của cuộc đời. Ông coi đó là một căn cứ tư liệu để xây dựng một lý thuyết tâm lý học, để rồi từ lý thuyết này có thể hiểu đúng các sự kiện tâm lý, và quan trọng hơn là điều khiển, điều chỉnh hành vi ứng xử và giáo dục để hình thành, phát triển nhân cách cùng với năng lực, kỹ năng sống, kỹ xảo hành nghề... Rất may mắn là ở ta, tác phẩm nổi tiếng Tâm lý học nghệ thuật của Vưgốtxki đã được dịch ra tiếng Việt và xuất bản hai lần. Ở đây, chúng tôi chỉ cung cấp thêm một số tư liệu của lịch sử vấn đề để các bạn tham khảo thêm. Như trên đã trình bày, ngay từ hồi dạy học ở Gômen, Vưgốtxki đã chú ý nghiên cứu văn học. Bản thân ông dạy văn và đã lại tổ chức nhiều hội thảo văn học ở thị trấn đó. Trước đó, từ thời sinh viên, ông cũng học tập rất cẩn thận lịch sử văn học và lý luận phê bình văn học, trong đó có nhiều trường phái như chủ nghĩa tượng trưng, chủ nghĩa ấn tượng... bên cạnh chủ nghĩa hiện thực. Ngay công việc giảng dạy và văn học cũng đã cho ông thấy phải nghiên cứu tâm lý học. Không khí tâm lý trong Viện Tâm lý học Mátxcơva thời đó như thế nào? Ông là một cán bộ của Viện này, cùng với các bạn đồng nghiệp, nhất là các bạn cùng thế hệ hết sức trăn trở việc xây dựng lại nền tâm lý học và muốn thoát khỏi tâm lý học duy tâm chủ quan của Trênpanốp. Họ thảo luận với
  • 18. nhau: liệu có thể xây dựng tâm lý học theo con đường của các nhà phản xạ học được không? Có thể kết hợp Phrớt và Các Mác được không? v.v... Hầu hết Viện Tâm lý học Mátxcơva do Coócnhilốp làm Viện trưởng đều nhất trí là phải xây dựng tâm lý học mác-xít, nhưng bằng cách nào, thì mỗi người có một cách làm. Riêng Coócnhilốp thì đi vào xây dựng phản ứng học. Vưgốtxki cho rằng phản ứng học là một xu thế tiến bộ, duy vật, gần với tâm vật lý và chủ nghĩa hành vi, nên ông không phản đối. Đồng thời, ông đi tìm một hướng khác để xây dựng một nền tâm lý học mới. Hướng đó là đi vào thực nghiệm với ngôn từ với sự cộng tác của A.N.Lêônchiép và A.R.Luria là hai cán bộ trẻ, lúc đó 20 tuổi. Hai ông này lúc đó cùng nhau tập trung vào nghiên cứu các phản ứng vận động đối với ngôn từ trong các trường hợp căng thẳng (ví dụ khi sinh viên chuẩn bị thi). Vưgốtxki rất chú ý tới thực nghiệm trả lời kích thích bằng từ và các thể nghiệm xúc cảm và mặt đạo đức, theo ông, là cái có thể đi vào để nghiên cứu mặt ý nghĩa của nhân cách. Không may, sau lần đi họp ở Luân Đôn về, ông bị bệnh lao, và do đó phải nghỉ việc (không thực nghiệm, không đi giảng bài). Nằm chữa bệnh ở nhà, ông dùng các tư liệu đã thu thập từ mấy năm trước hoàn tất cuốn Tâm lý học nghệ thuật. Đây không chỉ là công trình tâm lý học về quá trình sáng tạo, mà chủ yếu Vưgốtxki đi vào các tác phẩm văn học như là các đối tượng thẩm mỹ. Và đi vào các đối tượng thẩm mỹ thì tìm được các "sự kiện tâm lý" hay các yếu tố tâm lý, nhưng một khi đã có sự kiện, các yếu tố tâm lý thì phải tìm bản chất của chúng. Thế là phải đi trên một khái niệm của tâm lý học, mà từ trước đến giờ người ta thường lại chỉ đi vào khái niệm ý thức như là một sự nhận biết ra ở bên trong chủ thể. Đó là cách làm của tâm lý học duy tâm chủ quan. Vưgốtxki không đi theo đường cũ. Ông đi vào nghiên cứu sự cảm thụ văn học của chủ thể đối với nội dung là hình thức thể hiện của các tác phẩm nghệ thuật, nghiên cứu hiệu quả của nghệ thuật đối với con người. Và như vậy là ông cũng muốn khắc phục quan điểm của trường phái hình thức chủ nghĩa (phi tâm lý học) do V.Xclốpxki đứng đầu, cũng như quan điểm phản ứng học
  • 19. hay hành vi chủ nghĩa áp dụng vào lĩnh vực nghệ thuật tuy cả hai đều dùng phương pháp khách quan; họ đi vào các cấu trúc mà không xem xét đầy đủ góc cạnh của các vấn đề cơ bản của cuộc sống và hoạt động của con người trong xã hội. Vưgốtxki đến lượt mình đã đi theo hướng gắn kết nghệ thuật với hoạt động của cá thể. Đi vào phương pháp nghiên cứu cụ thể, ông nghiên cứu ngôn từ như là sự kiện tâm lý cơ bản. Tất nhiên, nghiên cứu từ ngữ cũng có nhiều cách. Phản xạ học, phản ứng học, trường phái hình thức... cũng nghiên cứu từ ngữ. Với họ đó là phản xạ, là phản ứng hay là cấu trúc sáng chế kỳ lạ. Vưgốtxki rất chú ý tới các chất liệu văn học, coi đó là tổ hợp kích thích "lai ghép" có thể giúp ta, theo tư tưởng của Spinôda (1632 - 1677, nhà triết học vĩ đại người Hà Lan), nghiên cứu đạo đức con người trên cơ sở chú ý đến cơ thể con người. Tất nhiên không thể hiểu đơn giản một cách máy móc là từ bản tính cơ thể sinh ra kiến trúc, hội hoạ, thơ ca, v.v... Và càng không có chuyện coi tâm hồn như một loại yếu tố vật chất. Tương tự như vậy, không có một tinh thần phi cơ thể nào tạo ra văn nghệ. Vấn đề là ở chỗ có quan niệm đúng, như Spinôda đã chỉ ra, về cơ thể cũng như về tâm hồn, tâm lý. Vưgốtxki, như các bạn đọc thấy trong Tâm lý học nghệ thuật, đã lấy câu nói của Spinôda làm đề dẫn cho cả tác phẩm của mình. Đi vào nghiên cứu cụ thể để giải đáp các câu hỏi đặt ra ở đây, Vưgốtxki đã học tập và vận dụng trước hết lý luận mác-xít về nghệ thuật. Trước hết phải hiểu "nghệ thuật là cái xã hội trong chúng ta", phải thấy, như Plêkhanốp (1856 - 1918), nhà triết học Nga nổi tiếng đã nhận xét, công việc sáng tạo nghệ thuật như là một công trình xã hội học. Vưgốtxki đi vào nghiên cứu con người cảm thụ nghệ thuật là để xây dựng một lý thuyết tâm lý học. Đó là sự cảm thụ (đồng hoá) và sự biến chuyển thực tiễn của thế giới và qua đó, tác phẩm nghệ thuật trở thành phương tiện lợi hại để giáo dục con người. Trong nghệ thuật, như Vưgốtxki đã chứng minh, chứa đựng sự tập trung cao độ các quá trình sinh thể và các quá trình xã hội mà thông qua đó con người hội nhập vào xã hội. Vưgốtxki đã dùng ngôn ngữ của tâm lý học khách quan để nói về các sự kiện khách quan
  • 20. của nghệ thuật, nhưng không phải là như phản xạ học hay hành vi chủ nghĩa thiên về ngôn ngữ của cơ thể. Các tác phẩm nghệ thuật trước hết chứa đựng các tổ hợp "tín hiệu nghệ thuật", chứ không phải các tín hiệu vật lý. Các tín hiệu ấy (nghệ thuật) điều chỉnh hành vi người; và trong hành vi có các yếu tố thần kinh - sinh lý, có yếu tố xã hội - văn hoá. Chính từ đây, ông đã xây dựng cả một lý thuyết dấu hiệu học mà ta đọc trong các công trình tập hợp trong cuốn sách này cũng thấy rõ. Các tín hiệu nghệ thuật chịu đựng biện chứng của cái sinh vật, cái xã hội và cái nghệ thuật. Nghệ thuật được coi như một dạng hành vi mà qua đó có thể giúp ta tự hiểu bản chất tâm lý của từng con người cùng với sự cảm thụ nghệ thuật ở họ. Trong cách lý giải các "phản ứng nghệ thuật" do các "tín hiệu nghệ thuật" tạo ra không thể thiếu sự lý giải tâm lý học bao hàm cả ý thức lẫn sinh thể như là một hệ thống tích hợp các dạng hoạt động, kể cả cơ chế hoạt động thần kinh. Ông đi từ tác phẩm nghệ thuật - đến hành vi đến ý thức như là một hệ thống văn hoá lịch sử. Từ đây, sau này hình thành nên lý thuyết tâm lý học xã hội về nghệ thuật nói riêng và lý thuyết tâm lý học văn hoá lịch sử nói chung. Lúc đầu, Vưgốtxki dự định viết tác phẩm này như là một luận án phó tiến sĩ, nhưng vì ông bị ốm nên không bảo vệ được. Bốn mươi năm sau Tâm lý học nghệ thuật mới được xuất bản và thời gian càng trôi đi, tác phẩm càng được chú ý nghiên cứu, được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới và càng được đánh giá cao. Tâm lý học nghệ thuật giữ một vị trí đáng kể trong di sản của Vưgốtxki để lại cho tâm lý học ngày nay. 7. Con đường khắc phục khủng hoảng trong tâm lý học Bên cạnh tất cả các công trình nghiên cứu kể trên vào thời kỳ những năm 20, Vưgốtxki tập trung sức lực với các bạn đồng nghiệp trong Viện Tâm lý học Mátxcơva vào việc cải cách tâm lý học theo các nguyên tắc của chủ nghĩa Mác. Ngay từ hồi mới dạy tâm lý ở Gômen, ông đã tham gia vào nhóm chuẩn bị và tiến hành Đại hội toàn Nga lần thứ nhất của những người nghiên cứu hành vi vào tháng 1 năm 1923 với mục tiêu phát triển một nền tâm lý học mới theo phương hướng mác-xít.
  • 21. Mặt khác, Vưgốtxki không chỉ dừng ở sự nhìn nhận tâm lý học riêng ở nước Nga, mà rất chú ý tới tâm lý học ở Tây Âu và Mỹ. Điều đó thể hiện trong Lời nói đầu ông viết cho tập sách Tâm lý học năm 1925 (xuất bản ở Mỹ) dịch từ tiếng Anh sang tiếng Nga. Ông đã giới thiệu và đánh giá cao Phrớt, Cốpca và Toócđai với ba dòng tâm lý học: tâm lý học phân tâm, tâm lý học ghestan và tâm lý học hành vi. Cũng trong năm 1925, ông viết Lời nói đầu trong tác phẩm Vượt lên trên nguyên tắc thoả mãn của Phrớt được dịch ra tiếng Nga. Năm 1926, ông giới thiệu cuốn Các cơ sở của việc học của Toócđai và cho xuất bản những ghi chép và nhận xét của ông về cuốn Nội quan và phương pháp tâm lý học của Cốpca. Ông coi các dòng tâm lý học này cùng với các đại diện của chúng như là một cao trào nổi bật trong lịch sử phát triển tâm lý học. Còn tâm lý học ở Nga thì sao? Tình hình rất nghiêm trọng. Cái cũ thì đã bị xoá bỏ, cái mới thì chưa hình thành. Nhưng nhìn về mặt phương pháp luận một cách tổng quát, thì tâm lý học ở Tây Âu và Mỹ không phải là không có vấn đề. Vưgốtxki đã phân tích các hạn chế của các dòng phái tâm lý học thế giới và nêu ra nhận xét về tình trạng khủng hoảng của khoa học tâm lý về mặt lý luận (Trong Tâm lý học nghệ thuật, ông đã có ý nhìn nhận các dòng tâm lý học thời đó như vậy). Và đến năm 1926, ông hoàn thành bản thảo một công trình lý luận cực kỳ quan trọng Xem xét các dòng tâm lý học hiện nay ở phương Tây. Mặc dù tình trạng sức khoẻ của ông ngày càng kém, theo lời kể của Luria, các bác sĩ chẩn đoán Vưgốtxki chỉ sống được vài tháng nữa, ông vẫn say sưa làm việc, sửa chữa và bổ sung bản thảo này và đã hoàn thành với tiêu đề ý nghĩa lịch sử của cuộc khủng hoảng trong tâm lý học. Ở đây, cần nhấn mạnh sự vận dụng sáng tạo phương pháp tiếp cận lôgích lịch sử của duy vật biện chứng vào việc phân tích tình hình tâm lý học, kế thừa những cái tích cực, phủ định các cái lạc hậu, xây dựng một phương pháp luận chung của tâm lý học như là một khoa học cụ thể và xây dựng cách tổ chức nghiên cứu tâm lý, cách thức trình bày các tri thức tâm lý học... Ông có ý định xây dựng một khoa học tâm lý tổng quát bao trùm (hay thay thế) các tâm lý học
  • 22. hiện hành như Ph. Brentunô (1838 - 1917, nhà triết học Áo), năm 1874 đã đưa ra ý tưởng xây dựng một tâm lý học thay cho nhiều tâm lý học. Cũng có người hiểu một khoa học tâm lý tổng quát hay "một tâm lý học" là một tâm lý học đại cương chung cho tất cả các dòng tâm lý học. Nhà tâm lý học Thuỵ Sĩ L.Binsvangơ đã thể hiện ý tưởng này trong tác phẩm Nhập môn vào những vấn đề của tâm lý học đại cương xuất bản ở Béclin năm 1922. Tác giả này đề xuất nên xây dựng các luận điểm (concept) cơ bản, có tính nguyên tắc của tâm lý học và cấu trúc của khoa học này. Thực ra, từ đầu thế kỷ cho đến nay, dù đã là cuối thế kỷ, vấn đề được nêu ra ở đây vẫn còn nguyên tính thời sự. Biết bao nhiêu vấn đề còn ngổn ngang, chưa sáng tỏ. Ví dụ, có phải tâm lý học đại cương là phương pháp luận (lý thuyết về con đường và phương pháp của các tri thức khoa học cụ thể) không? Mối quan hệ giữa quan điểm và sự kiện, giữa lý thuyết và kinh nghiệm như thế nào? Và tổng quát hơn, có thể có một khoa học tâm lý bao hàm (thâu nạp) được tất cả các dòng (trường phái, lý thuyết) tâm lý học hay không? v. v... III. TÂM LÍ HỌC VƯ-GỐT-XKI L.X. Vư-gốt-xki đã được thời gian thử thách và đánh giá rất cao. Thêm một sự xác nhận mới của quy luật viễn cảnh không gian: có đứng xa núi cao, mới thấy núi cao. Bởi ngày càng nổi lên rõ rệt hơn ảnh hưởng của ông đối với tâm lí học hiện đại. Di sản của ông để lại là vốn quý của tâm lí học Liên Xô cũ và thế giới. Chính Vư-gốt-xki đã đề ra những nguyên tắc cơ bản mà về sau đã trở thành những nguyên tắc xuất phát để phát triển tâm lí học Liên Xô, một nền tâm lí học được coi là đồng nghĩa với tâm lí học mác-xít. Những tư tưởng của ông đã làm cơ sở cho một loạt công trình lí luận và thực nghiệm đáng kể trong mấy thập kỉ qua ở Liên Xô cũ. Có thể nói rằng, không nghiên cứu hệ thống tư tưởng tâm lí học của Vư-gốt-xki thì không thể hiểu được tâm lí học Nga, sự hình thành và phát triển của nó, những tư tưởng then chốt và các nguyên tắc cơ bản của nó.
  • 23. Sức sống của các tác phẩm của Vư-gốt-xki, các tác phẩm được đánh giá “là một hiện tượng kiệt xuất trong lịch sử Khoa học tâm lí Liên Xô” trước hết là ở chỗ, những luận điểm có tính nguyên tắc trong các tác phẩm ấy đã định hướng về mặt phương pháp luận cho việc cải tổ thực sự nền tâm lí học theo hướng mác-xít mà năm 1923, Coóc– nhi– lôp đã đem ra công bố. Ý nghĩa lớn lao của hoạt động khoa học của Vư-gốt-xki là đấu tranh không mệt mỏi chống các luận điểm duy tâm, siêu hình, duy vật máy móc thịnh hành đương thời, đấu tranh để lập ra “một nền tâm lí học lịch sử, người”. Trong hệ thống các luận điểm đa dạng của ông, nổi lên hàng đầu là những vấn đề về nguồn gốc, cấu trúc, vận hành của các chức năng chuyên biệt người. “Học thuyết về bản chất xã hội – lịch sử của ý thức người là cơ sở của hệ thống đó. Chính trong quá trình giải quyết vấn đề này, đã hình thành phương pháp tiếp cận lịch sử vận dụng vào nghiên cứu tâm lí người và quan niệm về tính xã hội quy định tâm lí. Lô– gích giải quyết vấn đề đó đã đưa Vư- gốt-xki tới chỗ phát hiện ra một phương pháp phân tích cuộc sống tâm lí hoàn toàn mới – đó là phương pháp phân tích “theo đơn vị”. Với phương pháp này, ông đã đề ra nguyên tắc ám chỉ (Signiflcatif), rồi dùng nguyên tắc này giải quyết vấn đề cấu trúc của ý thức là vấn đề trung tâm của tâm lí học người. Những tư tưởng, vấn đề và nguyên tắc kể ra đây chính là những luận điểm quan trọng nhất của tâm lí học mác-xít. Nhiệm vụ đặt ra ở đây là sẽ giới hạn trong việc trình bày các luận điểm đó, các luận điểm đã có đóng góp đáng kể vào việc hình thành phạm trù hoạt động trong hệ thống khoa học tâm lí. 1. Cần xây dựng lại nền móng của tâm lí học Xây dựng hệ thống tâm lí học mới là mục đích Vư-gốt-xki đã đề ra cho bản thân, và ông đã đem hết trí tuệ ý chí phục vụ mục đích đó. Ông đã xác định một chương trình hành động chung nhằm: 1) Phân tích tình hình tâm lí học hiện đại để tìm ra “một sự định hướng đúng đắn trong các dòng tâm lí học hiện đại”; 2) Tìm hiểu tình hình nghiên cứu phương pháp luận chung, nghiên cứu các luận điểm chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng vận dụng vào tâm lí học; 3) Tiến hành các công trình nghiên cứu bộ phận trong phòng
  • 24. thí nghiệm để lấy tư liệu thực sự, xác lập các tính quy luật bộ phận trong một lĩnh vực nào đó của hành vi, đưa quá trình nghiên cứu về các nguyên nhân gần nhất quy định nó. Nói về hai điểm sau trong chương trình, Vư-gốt-xki đã chỉ ra rằng, “việc xây dựng tâm lí học mác-xít phải tiến hành như đào một đường hầm từ hai đầu bằng các công trình nghiên cứu đó”; 4) Vận dụng các kết quả thu thập được vào cuộc sống. Các công trình tập hợp trong tập “Ý nghĩa lịch sử của cuộc khủng hoảng trong tâm lí học” của Vư-gốt-xki đều được viết dưới ánh sáng của nguyên tắc lịch sử và nguyên tắc tính đảng. Phân tích các dòng tâm lí học cũ, một mặt ông đánh giá cao hạt nhân thực tế đã làm phong phú thêm cho khoa học, mặt khác ông phê bình đến nơi, đến chốn, không thương tiếc các quan điểm lí luận của các thuyết đó. Mục tiêu của sự phê bình này là chú ý tới cuộc khủng hoảng lúc đó trong tâm lí học, vạch trần thực chất của cuộc khủng hoảng ấy, tìm cách khắc phục nó và đặt tâm lí học trên một cơ sở thực sự khoa học. Trong những điểm đặc trưng cho cuộc khủng hoảng đó, ngoài thuyết sức sống quy tâm lí về “tâm hồn”… thần bí, về “cái bản thể tâm lí”; ngoài thuyết máy móc trước hết thể hiện trong công thức cổ điển S – R; ngoài thuyết nhị nguyên đưa các hiện tượng tâm lí đơn giản như cảm giác và tri giác, vào bình diện đo đạc sinh lí học, còn các hiện tượng tâm lí phức tạp hơn, như trí nhớ có chủ định, tư duy lô– gích, ý chí v.v… thì cho vào lĩnh vực tác động của “bản thể tinh thần”, Vư-gốt-xki còn chú ý đặc biệt tới một quan điểm phổ biến trong toàn bộ nền tâm lí học không mác-xít – quan điểm siêu hình về tâm lí và hành vi người, phủ nhận bản chất xã hội – lịch sử của các hiện tượng tâm lí. Ví dụ, ông viết trong “Tâm lí học nghệ thuật” (1919 – 1924): Tác dụng của tác phẩm nghệ thuật (tức là của các hiện tượng tâm lí) bị phái tâm lí học phân tâm coi là hoàn toàn do các bản năng, do cơ chế ý thức chèn ép các bản năng quyết định, ngoài hoàn cảnh xã hội của nhà văn, nhà thơ. Nguyên tắc tình dục tràn lan là nguyên tắc cơ bản của thuyết phân tâm. Vư-gốt-xki
  • 25. trích lời Marx viết trong “Hệ tư tưởng Đức”: “Con người chỉ khác con cừu ở chỗ ý thức thay thế cho bản năng, hay bản năng con người đã được ý thức hóa”. Có thể hiểu được cuộc sống bản năng của con người, nếu đặt nó dưới ánh sáng của tính ý thức của con người là một thành tố tạo ra hoạt động lao động. Vư-gốt-xki thấy khuyết điểm có tính nguyên tắc của các trào lưu hành vi chủ nghĩa, khuyết điểm tạo sinh ra mọi khuyết tật của các trào lưu này là ở chỗ họ nghiên cứu hành vi “loại có vú thượng đẵng” chứ không nghiên cứu hành vi của “con người xã hội”. Vì vậy, những nhà nghiên cứu ấy vừa thoát ra khỏi cảnh “thực vật hóa” tâm lí, coi sự trưởng thành của cơ thể là nguyên nhân quyết định sự phát triển tâm lí, thì lập tức rơi vào cảnh “động vật hóa” tâm lí, coi sự phát triển tâm lí chỉ là một dạng phức tạp hơn, phát triển hơn trong quá trình nẩy sinh và tiến hóa các dạng tâm lí của hành vi đã có trong thế giới động vật. Tâm lí học Ghes– tan cũng bỏ qua mất các yếu tố xã hội trong khi nghiên cứu tâm lí người. Vư-gốt-xki đã nhấn mạnh rằng, nếu không có một luận điểm khoa học về con người và hoạt động của con người có thể vạch ra con đường phát hiện được những nét chuyên biệt trong tâm lí và hành vi người, thì bất cứ một tâm lí học nào, trước sau, cũng đều sẽ bất lực trước khối lượng tư liệu đồ sộ đã thu thập được trong tâm lí học người. Sau khi phân tích sâu sắc tất cả các xu hướng tâm lí học chủ yếu hồi đầu thế kỉ này, Vư-gốt-xki đã đi đến một kết luận chung: rút cục mỗi một xu hướng chỉ sửa lại hay sáng tạo ra một chương sách xây dựng trên một loại sự kiện mới tìm ra, và coi đấy là, sự kiện trung tâm của tâm lí học, xu hướng nào cũng có tham vọng đưa sự kiện mới được phát hiện lên vị trí lí thuyết chung cho khoa học tâm lí. Nhưng kết quả là không có một xu hướng nào xây dựng được một lí thuyết tâm lí học. Tóm lại, bản chất của cuộc khủng hoảng trong tâm lí học những năm hai mươi là thiếu cơ sở phương pháp luận hoặc có cơ sở phương pháp luận
  • 26. sai. Từ đó, cần đưa ra một khẩu hiệu cho tâm lí học: “phải xây dựng lại nền móng của tâm lí học”. Khẩu hiệu này khẳng định việc lập ra một nền tâm lí học kiểu mới là một nhu cầu chín muồi. Vư-gốt-xki viết từ năm 1926: “Nói chung, chúng tôi không có ý định đi tìm một hệ thống tâm lí học mác-xít có sẵn trong tâm lí học phương Tây. Nếu tâm lí học mác-xít xuất hiện ở đó thì thật là kì quặc. Tác giả nhiều lần nhắc đến ý này, để nhấn mạnh rằng, tâm lí học Liên Xô, vào những năm đó, có nhiệm vụ phải tự hình thành các cơ sở phương pháp luận mới về chất. Để thực hiện nhiệm vụ này, phải đi từ những nguyên lí chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, và vận dụng vào tâm lí học. Vư-gốt-xki viết tiếp: “rõ ràng là tâm lí học mác-xít có một nhiệm vụ to lớn là “biện chứng hóa tâm lí học, tức là xây dựng hệ thống phương pháp luận cho các khái niệm tâm lí học cụ thể trên cơ sở của lí thuyết duy vật biện chứng”. Nói cách khác, toàn bộ bộ máy khái niệm của tâm lí học phải có cơ sở là chủ nghĩa duy vật và phải xây dựng lại theo tinh thần biện chứng. Chính đây là nhiệm vụ trung tâm mà ông đặt ra cho toàn bộ phong trào tiến tới tâm lí học mác-xít, khoa học thực sự”. Nền tâm lí học này lấy phạm trù hoạt động làm phạm trù then chốt của bộ máy khái niệm. Vư-gốt-xki đã gọi tâm lí học kiểu mới là “tâm lí học lịch sử người”. 2. Tâm lí học lịch sử người Từ năm 1926, Vư-gốt-xki đã xác định ý đồ chung trong việc cải tổ tâm lí học trên cơ sở của chủ nghĩa Marx là xây dựng “một khoa học về hành vi của con người xã hội”, chứ không phải hành vi của cơ thể con người. Khoa học này phải tìm ra được những đặc điểm chuyên biệt ở hành vi người. Đây là nhiệm vụ chiến lược của tâm lí học kiểu mới, quy định toàn bộ chương trình hành động của Vư-gốt-xki và các cộng sự của ông. Bộ máy khái niệm của tâm lí học mác-xít phải thấm nhuần nhiệm vụ đó. Vì vậy, Vư-gốt-xki đã lấy khái niệm tâm lí học lịch sử người làm khái niệm xuất phát của bộ máy khái niệm ấy. Năm 1930, Vư-gốt-xki viết: “… hiện nay đang nói tới chuyện làm sao cho khoa học chiếm lĩnh được một khái niệm mới. Vấn đề là làm cho tâm lí học thoát khỏi cảnh tù túng trong khuôn khổ sinh vật hóa, và chuyển vào lĩnh
  • 27. vực tâm lí học lịch sử người” (gạch dưới - P.M.H). Nền tâm lí học này chính là mục tiêu chung mà Vư– gốt–xki đã đề ra cho các chiến hữu và các bạn đồng nghiệp. Hoàn toàn đồng ý với Pô– lít– zer, người đã đề ra cho tâm lí học nhiệm vụ nhân văn hóa quyết định luận và yêu cầu phải nhìn “con người đang làm việc, chứ không phải là cơ co bóp”, Vư-gốt-xki nói thêm rằng, “không phải trí nhớ ghi nhớ, mà là con người ghi nhớ”, rằng, phải thấy con người suy nghĩ, chứ không phải một dòng tự trị các tư tưởng đang suy nghĩ. Vấn đề đặt ra trước tâm lí học không phải là đo độ trưởng thành của cơ thể, mà khám phá ra quá trình hình thành nên con người như là tồn tại xã hội. Vì vậy, lần đầu tiên trong lịch sử khoa học, Vư-gốt-xki đã phát biểu rằng nhiệm vụ hàng đầu của nền tâm lí học mới là “đặt con người vào trung tâm”. Ông xác định luận điểm khoa học của mình là xu thế “lập ra một nền tâm lí học người, nền tâm lí học này điều khiển toàn bộ công trình nghiên cứu của chúng ta”. Khác với tất cả các nhà tâm lí học “mô tả” và “giải thích”, nhà tâm lí học Xô viết đề ra cho bản thân nhiệm vụ lí giải bản chất các chức năng tâm lí chuyên biệt của con người, và hợp theo là điều khiển sự vận hành của các chức năng ấy cũng như tìm cơ chế hình thành các chức năng ấy. Để giải quyết được nhiệm vụ này, tâm lí học phải thoát khỏi thế giới các trạng thái hay quá trình ý thức khép kín, cũng như phải thoát khỏi vòng “cơ thể – môi trường”. Theo ý Vư-gốt-xki, nếu tâm lí học muốn nghiên cứu một cách thực sự hành vi, tâm lí người, thì nó phải hướng tới các quá trình hành vi và ý thức tham gia vào cuộc sống. Vư-gốt-xki viết: “Các hiện tượng tâm lí dù chúng quyện chặt một cách phức tạp với từng mặt của thực tế, về bản chất, vẫn là hiện tượng tâm lí và bản chất của chúng không những không bị che lấp đi, mà bộc lộ một cách nguyên hình với tất cả sự phong phú của nó trong tính đa dạng của các mối quan hệ thực giữa các hiện tượng tâm lí với thực tế xung quanh”. Tóm lại phải nghiên cứu hành vi và tâm lí người trong sự tác động qua lại với môi trường xung quanh. Thế thì sự tác động qua lại ấy là gì?
  • 28. Khác với đại diện của các xu hướng tâm lí học khác nhau, những người giới hạn quá trình ấy trong định đề về mối liên hệ trực tiếp giữa kích thích và cử động cơ thể cảm giác, phản ứng, phản xạ, Vư-gốt-xki giải thích quá trình đó xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử và duy vật biện chứng về bản chất người. Quan niệm này dạy rằng, bằng hoạt động lao động của mình, con người tạo ra một loại hình thích nghi mới về chất với môi trường, loại hình thích nghi này hoàn toàn khác với các dạng hành vi mà động vật có, loại hình thích nghi này bao hàm sự tác động tích cực vào thế giới bên ngoài, vào những người xung quanh, và do đó, tác động tích cực lên chính bản thân mình. Như vậy, Vư-gốt-xki hiểu sự tác động qua lại giữa con người và môi trường xung quanh là các mối quan hệ thực giữa con người với toàn bộ thực tại xung quanh, nghĩa là quan hệ giữa con người với thiên nhiên, quan, hệ giữa người với người, trong đó có quan hệ giữa con người và bản thân. Quan hệ này, ta tìm thấy trong sơ đồ do Vư-gốt-xki phác họa, nó phản ảnh các mối liên hệ khách quan, có bản chất xã hội ta cần tìm trong các mối quan hệ này chìa khóa giúp ta hiểu được tâm lí người… Sơ đồ bao gồm một số vòng tròn, bán nguyệt… và bên trong những từ sau đây: “con người”, “công cụ”, “đối tượng lao động”, “sản phẩm”, “ngôn ngữ” và “ngọn lửa” (văn hóa) đứng cạnh “công cụ”.
  • 29. Hình 1: Sơ đồ tâm lí, ngôn ngữ, văn hóa… là sản phẩm của hoạt động và cũng là thành tố của hoạt động Sơ đồ này chứa đựng nội dung mới về nguyên tắc của tất cả các khái niệm có trong tâm lí học hồi đó, như các khái niệm môi trường, kích thích và hành vi. Môi trường và con người sống trong đó không được hiểu một cách đơn giản là tổng các kích thích vật lí và các kích thích xã hội, mà phải hiểu môi trường có chứa đựng đối tượng và sản phẩm lao động. Cần nhấn mạnh rằng, trong môi trường có công cụ lao động chứa đựng các thao tác lao động nhất định với tư cách là sản phẩm của kinh nghiệm xã hội – lịch sử. Các kinh nghiệm này chứa đựng trong các công cụ lao động và được chuyển từ thế hệ này qua thế hệ sau. Bằng công cụ lao động, con người thực hiện sự tác động qua lại với thiên nhiên, tức là hoạt động lao động nằm trong cơ sở của các mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường. Vì vậy, nếu như hành động của động vật, một mặt, tuân theo các quy luật của trường quang học, mặt khác, tuân theo các quy luật của các nhu cầu cơ thể, thì đối với hành động của con người, có trường tâm lí bao gồm cả trường thời gian mở rộng, B3 B2 B 1 A C D
  • 30. trường không gian kéo dài về phía trước lẫn phía sau, tức là cả quá khứ lẫn tương lai. Trường tâm lí của con người vận hành theo cơ chế xã hội, lịch sử của việc gìn giữ và truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nó cũng vận hành theo ý định và mục đích do bản thân từng người tạo ra. Ý định và mục đích là các thành tố cần thiết của hoạt động lao động. Môi trường trong đó con người sống và hành động tựa như được mở rộng ra. Môi trường của con người không phải chỉ là môi trường thiên nhiên, mà còn là môi trường xã hội, môi trường này trước hết được hiểu là tổng hòa của các quan hệ xã hội do con người tạo ra trong quá trình thực hiện hoạt động của mình, và con người tham gia vào các quan hệ ấy. Hơn thế nữa, môi trường của con người luôn luôn thay đổi dưới tác động của con người. Tóm lại, có một quá trình hai chiều: môi trường tác động lên con người, và con người tác động lên môi trường bằng hành động có mục đích của mình, con người thay đổi môi trường, đồng thời thay đổi bản thân. Nói cách khác, các mối quan hệ qua lại giữa con người và môi trường, cũng như sự giao lưu xã hội của con người, không thể tiến hành ngoài hoạt động của con người. Với ý nghĩa đó, con người bao giờ cũng là chủ thể của các mối quan hệ có bản chất xã hội. Vấn đề con người đã được Vư–gốt– xki giải quyết như vậy trong hệ thống tư tưởng tâm lí học của mình. Chỉ có hiểu không đầy đủ hệ thống ấy, thì mới bỏ qua vấn đề con người là vấn đề có ý nghĩa hết sức cơ bản đối với việc xây dựng lí thuyết tâm lí học mới. Vì con người muốn tồn tại, buộc phải sử dụng công cụ ngôn ngữ và các phương tiện khác do tập thể tạo ra và truyền từ người này sang người kia, nên phải đặt hành vi và tâm lí người vào trong quá trình hoạt động lao động và giao lưu xã hội, mới có thể hiểu được tâm lí và hành vi. Nhờ có tính chất công cụ, tính chất gián tiếp, hành vi người không nên hiểu như là tổng hay chuỗi phản ứng phản xạ, mà phải hiểu là quá trình nắm lấy các chức năng tâm lí và xã hội của bản thân, tức là hành vi được hiểu là hoạt động nhằm vào bản thân mình, đồng thời tham gia vào hoạt động bên ngoài, tác động lên các đối tượng bên ngoài hoặc những người khác. Đó là
  • 31. quan niệm về hành vi ta thấy trong tất cả các tác phẩm của Vư-gốt-xki, kể cả các tác phẩm đầu tay của ông. Từ đó bắt đầu vận dụng nguyên tắc tính tích cực, tính có ý thức, các nguyên tắc xuất phát từ việc sử dụng và sáng tạo ra các “phương tiện hỗ trợ cho hành vi”, vào giải thích hành vi người. Tâm lí, ý thức người được xem là kết quả của các mối liên hệ thực của con người với toàn bộ hiện thực của nó. Từ đó có thể có kết luận: Khái niệm tâm lí học lịch sử, người do Vư-gốt- xki đưa vào tâm lí học với tư cách là một khái niệm chi phối toàn bộ hệ thống khái niệm của tâm lí học mác-xít, đã mở ra con đường cho tâm lí học lĩnh hội phạm trù hoạt động của chủ nghĩa Marx. Bài báo có tính chất cương lĩnh “ý thức là vấn đề của tâm lí học hành vi” của Vư-gốt-xki là một bước quan trọng bậc nhất trên con đường đó. 3. Cương lĩnh đầu tiên: ý thức là vấn đề của tâm lí học hành vi Ngay từ những năm đầu trong đời hoạt động khoa học của mình (1915 – 1924), Vư-gốt-xki phân tích tình hình tâm lí học đương thời, đã phát hiện ra xu thế tiến tới khách quan là xu thế duy vật, khoa học tự nhiên, bao gồm thuyết hành vi Mĩ, phản xạ học Nga và phản ứng học. Ông chọn con đường dẫn tới tâm lí học khách quan, coi đó là con đường duy nhất có thể cứu khoa học thoát khỏi khủng hoảng và đặt khoa học vào những điều kiện phát triển thuận lợi. Nhưng chẳng bao lâu sau, ông thấy phải đoạn tuyệt với các trào lưu khách quan một thời là bạn đường của mình, để tìm ra con đường riêng xây dựng tâm lí học mác–xít. Ông viết: “Buổi đầu, cuộc khủng hoảng Nga nổ ra từ lúc hướng vào thuyết hành vi Mĩ có tính chiến đấu: lúc đầu như vậy là đúng. Cần phải chiếm lĩnh lấy quan điểm khách quan trong tâm lí học và thoát khỏi cảnh tù túng của chủ nghĩa chủ quan duy tâm, duy linh. Nhưng ngay từ bây giờ, đã rõ là tâm lí học mác–xít chỉ có thể cùng đi đường với behaviorism Mĩ và phản xạ học Nga đến một mốc nhất định thôi. Bây giờ cần đoạn tuyệt với các bạn đường ấy và định ra con đường riêng”.
  • 32. Vư-gốt-xki thấy rõ rằng, muốn cải tổ tận cội rễ tâm lí học theo hướng chủ nghĩa Mác mà Coóc– nhi– lốp, Blôn– xki, Ba– xôv và các nhà tâm lí học Liên Xô khác đã nói tới trong những năm hai mươi, thì không thể dùng thuyết hành vi hay phản ứng học, tâm lí học Ghes– tan hay thuyết Fhơ– rớt làm điểm xuất phát. Điểm xuất phát ấy nằm trong chủ nghĩa Marx: cần đi từ học thuyết của Karl Marx mà xây dựng một phương pháp luận mới cho việc nghiên cứu tâm lí học một cách cụ thể, tức là xây dựng nên một cơ cấu khái niệm mới của tâm lí học. Vư-gốt-xki là nhà tâm lí học đầu tiên hiểu ra điều đó; và điều đó được phản ánh một phần trong cách ông đặt vấn đề đối tượng và phương pháp nghiên cứu tâm lí hồi năm 1925. Chúng tôi muốn nói tới bài báo của ông: “ý thức là vấn đề của tâm lí học hành vi, bài báo này được xem là cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết tâm lí học về hoạt động. Chúng tôi chỉ sẽ dừng lại phân tích bài báo này dưới góc độ của các nguyên tắc dẫn tới phương pháp tiếp cận hoạt động dùng vào phân tích tâm lí người. Chúng ta đều biết tâm lí học chủ quan coi ý thức là một hiện tượng chung chung, không có chất lượng đặc thù. Khi thì coi đó là điều kiện cho các quá trình tâm lí diễn biến, khi thì coi đó là sân khấu, nơi xảy ra các quá trình tâm lí, khi thì coi đó là nguồn gốc chung của các chức năng tâm lí v.v… Vì vậy, tâm lí học, tuy được “mệnh danh là một khoa học về ý thức, kì thực, chưa bao giờ là một khoa học như vậy”. Còn các trào lưu tâm lí học khách quan, thì ngay từ những ngày đầu, đều nhằm vào lí giải các mối quan hệ giản đơn của tồn tại sống với thế giới bên ngoài. Kết quả là trong tâm lí học có tình trạng: đối tượng của tâm lí học hoặc là nghiên cứu tâm lí, không nghiên cứu hành vi, hoặc nghiên cứu hành vi, không nghiên cứu tâm lí”, theo cách nói của Blôn– xki. Trong tình trạng đó, các nhà tâm lí học buộc phải coi hành vi là các quá trình tự tồn tại ở bên ngoài, còn ý thức, tâm lí là các thể nghiệm chủ quan tự tồn tại ở bên trong, tức là mỗi thứ tồn tại riêng biệt, không phụ thuộc vào nhau, hoặc song song cùng tồn tại. Trong trường hợp này, tâm lí, ý thức hóa ra là một thứ vô dụng
  • 33. đối với cuộc đời, thậm chí có thể coi sự tồn tại của tâm lí, ý thức là một thứ kì quặc Tóm lại, toàn bộ tâm lí học cũ, kể cả các dạng nội quan lẫn các xu hướng khách quan, hành vi chủ nghĩa, đều ở trong vòng cương tỏa của thuyết nhị nguyên, duy linh và hiện tượng luận. Vư-gốt-xki thấy khả năng phủ định nền tâm lí học cũ trong việc đặt và giải quyết vấn đề ý thức con người là vấn đề trung tâm của tâm lí học hành vi. Vào những năm bài báo ra đời, đối với nhiều người, bản thân tên bài báo là một cái gì có vẻ ngược đời, vì ngay từ những ngày đầu tâm lí học hành vi loại trừ ý thức ra ngoài phạm vi nghiên cứu. Ngược lại, Vư-gốt-xki khẳng định: “Không nghiên cứu phản xạ, màng nghiên cứu hành vi, cơ chế, thành phần, cấu trúc của hành vi”. Đồng thời phải nghiên cứu cả ý thức trong nghiên cứu hành vi. Ông viết: “Nếu loại trừ vấn đề ý thức, thì bản thân tâm lí học tự ngăn mình không nghiên cứu bất cứ một vấn đề hơi phức tạp nào của hành vi con người”. Như vậy là tâm lí học phải nghiên cứu cả hành vi người với tư cách là “cái con người làm ra” lẫn ý thức người: ý thức người cũng là một thực tại như hành vi. Đó chính là đối tượng của tâm lí học. Cả cái này lẫn cái kia đều được xem xét trong mối liên hệ qua lại chặt chẽ với nhau, và đều được nghiên cứu bằng các phương pháp khách quan. “Về mặt tâm lí.., – Vư-gốt-xki viết – ý thức là một sự kiện quá rõ ràng, là một thực tế hàng đầu và đó là sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng, chứ không phải sự kiện phụ hay ngẫu nhiên. Không ai chối cãi điều đó. Có nghĩa là cần và có thể tạm để vấn đề đó lại chứ không phải bỏ đi nói chung. Chừng nào tâm lí học mới mà chưa đặt ra một cách rõ ràng, dũng cảm, vấn đề tâm lí và ý thức, chừng nào mà chưa giải quyết vấn đề này bằng con đường thực nghiệm khách quan, chừng đó tâm lí học chưa thoát cảnh cơ cực”. Vư-gốt-xki đã dành vị trí trung tâm trong bài báo cương lĩnh của mình cho một tư tưởng lớn: tâm lí học, với tư cách là một khoa học cụ thể, phải
  • 34. hướng các cố gắng của mình vào nghiên cứu ý thức và hành vi của người – người được hiểu là một tồn tại lịch sử, xã hội, lao động, có ý thức, chứ không phải là: “cái túi đựng đầy phản xạ”. Lập trường xuất phát đó chỉ ra rằng, chỉ có thể giải quyết vấn đề ý thức là hiện tượng chỉ con người mới có, trong sự phân tích các dạng hành vi đặc thù người, khác với hành vi động vật. Hoạt động lao động là dạng chủ đạo trong các dạng hành vi người. Chính vì vậy, ông đã lấy một đoạn trích từ tác phẩm “Tư bản” của Mác làm tiền đề cho cương lĩnh của mình: “Con nhện thực hiện các thao tác giống các thao tác của người thợ dệt, con ong xây tổ sáp làm cho đôi nhà kiến trúc phải hổ thẹn, nhưng ngay một nhà kiến trúc tồi, từ đầu đã khác một con ong cừ nhất ở chỗ trước khi dùng sáp xây tổ nhà kiến trúc đã xây nó trong đầu mình rồi. Khi quá trình lao động kết thúc, nhận được kết quả, thì kết quả này đã có dưới dạng tinh thần trong biểu tượng của con người từ lúc quá trình ấy mới bắt đầu. Con người không những chỉ biến đổi hình thức cái thiên nhiên đã cho; mà trong cái thiên nhiên cho, con người đồng thời còn thực hiện cả mục đích có ý thức của mình, mục đích này là quy luật quy định phương thức và tính chất của hành động của con người, con người bắt ý chí của mình phải theo mục đích đó”. Điểm đặc thù trong lao động của con người do Mác nêu ra, được Vư- gốt-xki gọi là “kinh nghiệm kép”. Nói “kép” là ở chỗ “trong cử động của tay và trong sự biến đổi vật liệu lao động lặp lại cái đã làm trước đó trong biểu tượng của người lao động, tựa như làm việc với mô hình của mình về chính các cử động đó và về chính vật liệu đó”. Chính trong kinh nghiệm kép ấy ta thấy nguồn gốc của ý thức, sự tồn tại thực của ý thức, cũng như chức năng định hướng hành động thực sự của ý thức. Khái niệm kinh nghiệm kép cũng chứa đựng tư tưởng cho rằng biểu tượng, ý thức hay tâm lí người nói chung, đều là các mặt của hành vi, và hành vi lúc đó (năm 1925) đã được ngầm hiểu là hoạt động. Vư-gốt-xki không coi ý thức là bản thể, tức là một phương thức tồn tại tạo ra tồn tại khác, hay một thuộc tính thần bí của tinh thần. Từ đó có thể hiểu ra rằng công nhận ý thức là đối tượng của tâm lí học hành vi, với quan niệm
  • 35. mới về bản chất, chức năng của ý thức đối với hành vi người, lần đầu tiên, tâm lí học có được khả năng thoát khỏi thuyết duy linh, hiện tượng luận và nhị nguyên luận. Thế là lần đầu tiên trong lịch sử khoa học này, ý thức với tư cách là vấn đế của tâm lí học được xem xét trong bối cảnh của hoạt động lao động của con người. Tình hình này, thực tế, là tiền đề của tư tưởng vận dụng nguyên tắc công cụ, nguyên tắc gián tiếp là các nguyên tắc đặc trưng cho hoạt động lao động vào nghiên cứu tâm lí: điều này mang lại một sức sáng tạo to lớn cho khoa học của chúng ta. Ở mộ t chỗ khác sẽ nói tiếp về điểm này, còn bây giờ ta quay trở lại ý kiến của Vư– gốt– xki cho rằng “ý thức là vấn đề cấu trúc của hành vi”. Điều đó có nghĩa là ý thức phải được xếp vào cùng hàng với toàn bộ các thành tố của hành vi và phải giải thích ý thức trong hành vi đó. Sự phân tích khái niệm kinh nghiệm kép phần nào đã nói lên điều đó. Đối với các thành tố khác của hành vi người cũng phải có sự suy xét tương tự. Vư-gốt-xki xác định ranh giới giữa hành vi động vật và hành vi người là ở chỗ chúng có các cấu trúc hoàn toàn khác nhau. Ở động vật, các dạng hành vi chủ yếu hợp thành bởi hai nhóm phản ứng: bẩm sinh hay vô điều kiện, tự tạo hay có điều kiện. Nói cách khác, hành vi động vật áng chừng có thể coi là (kinh nghiệm di truyền) hay (kinh nghiệm di truyền; kinh nghiệm cá thể). Ở người cấu trúc hành vi bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm kép. Ở trên đã nói về kinh nghiệm kép. Còn kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội là gì? Kinh nghiệm lịch sử được hiểu là việc sử dụng rộng rãi kinh nghiệm của các thế hệ trước, tức là cái có thể gọi là “di truyền xã hội”. Vư–gốt–xki viết: “… Toàn bộ cuộc sống của chúng ta, lao động, hành vi – dựa trên sự sử dụng rộng rãi kinh nghiệm của các thế hệ trước, không truyền qua con đường sinh đẻ từ cha sang con. đại thể chúng tôi gọi nó là kinh nghiệm lịch sử”. Trong nội dung của hành vi người có các tri thức trong nghĩa rộng nhất của từ này là thành tố bắt buộc của hành vi. Các tri thức, các kĩ xảo lao động, các kĩ năng sinh hoạt, các quy tắc văn hóa và các khái niệm văn hóa, v.v… là do các thế
  • 36. hệ trước truyền đạt lại cho thế hệ trẻ. Lĩnh hội những cái đó, con người có khả năng trở thành tồn tại xã hội. Muốn biến khả năng này thành hiện thực, từng người phải biến những tri thức đó thành các phương tiện của hành vi ở bản thân. Trong trường hợp này, hành vi người không còn bị hiểu là một hệ thống các cử động cơ thể hay một chuỗi phản ứng, hành vi được hiểu là một quá trình tích cực có nguồn gốc xã hội. Đồng thời, trong kinh nghiệm lịch sử cũng như trong kinh nghiệm kép có chứa đựng khả năng tiến hành nghiên cứu một cách khách quan ý thức, tâm lí người. Phải xem xét cả nguồn gốc lẫn sự vận hành của ý thức, tâm lí người trong các kinh nghiệm ấy. Trong cấu trúc của hành vi người có kinh nghiệm xã hội. Kinh nghiệm xã hội được hiểu là những tri thức nhận từ người khác tới. Kinh nghiệm này cũng được gọi là kinh nghiệm tập thể. Về thực chất, kinh nghiệm xã hội không khác kinh nghiệm lịch sử. Loại thứ nhất tựa như là một dạng của loại thứ hai. Có thể nói rằng kinh nghiệm xã hội là kinh nghiệm lịch sử trong hiện tại. Trong cả hai loại kinh nghiệm, vấn đề tựu trung là truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này qua thế hệ khác và từng người lĩnh hội kinh nghiệm ấy. Tách ra hai loại chỉ nhằm nhấn mạnh sự khác biệt giữa kinh nghiệm di truyền một cách sinh vật và kinh nghiệm lịch sử, đó là hai loại hình phát triển hành vi khác nhau về chất lượng. Có thể nhận xét ngay rằng, tư tưởng coi có hai loại hình phát triển hành vi – loại sinh vật và loại lịch sử – là một trong những tư tưởng nền tảng của các công trình tiếp theo của Vư-gốt-xki và những người cộng tác của ông. Ngoài ra tách kinh nghiệm xã hội ra khỏi các kinh nghiệm khác còn để cho thấy hành vi người, và cùng với hành vi là ý thức, tâm lí thường được hình thành, phát triển, vận hành trong giao lưu xã hội. Trong ý nghĩa đó, Vư– gốt– xki nói rằng cơ chế của ý thức chính là cơ chế của kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm xã hội. Một điểm cuối cùng rất đáng chú ý: Vư-gốt-xki cho rằng kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm xã hội có “cùng một số hiệu với kinh nghiệm kép”. Khai thác luận điểm này, người ta hiểu rằng, ba loại kinh nghiệm nói tới ở đây hợp thành công thức (cấu trúc) hành vi người. Cả ba đều thuộc một bước phát
  • 37. triển hành vi, cùng có những đặc điểm chất lượng chuyên chỉ có trong loại hình lịch sử của hành vi người. Cả ba có cái chung là nội dung của chúng đều xuất phát từ quá trình lao động, từ quá trình truyền đạt kinh nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này tới người khác, và từ việc mỗi người lĩnh hội các kinh nghiệm. Đương nhiên không thể thực hiện được các quá trình này, nếu không có tâm lí và ý thức giữ chức năng định hướng và tích cực hóa. Vì vậy Vư-gốt-xki lại viết: ý thức “hóa ra là một cấu trúc rất phức tạp của hành vi, nếu nói riêng, thì làm cấu trúc rất phức tạp của quá trình phân đôi của hành vi”. Trong tất cả các loại kinh nghiệm của con người nói tới đây đều có sự thống nhất giữa các hình thái bên trong và các hình thái bên ngoài của hành vi. Tóm lại, Vư-gốt-xki đã phác họa ra cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết tâm lí học về hoạt động. Lí thuyết này bao hàm mộ quan điểm mới về đối tượng của tâm lí học hành vi có cấu trúc bao gồm kinh nghiệm lịch sử, kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm kép, hành vi được hiểu ngầm là hoạt động của con người. Và cả ý thức nữa, cũng có trong đối tượng của tâm lý học với tư cách là một bộ phận tổ thành của đối tượng tâm lí học; ý thức được coi là một thực tại khách quan có chức năng điều chỉnh đối với hành vi, và cùng với hành vi, ý thức là một thành tố của hoạt động. “Tâm lí học hành vi” mà Vư- gốt-xki nói tới năm 1925 thực chất là tiền ảnh của tâm lí học lịch sử người. Có cùng một mục đích với xu hướng khách quan là hình thành nên tâm lí học khách quan, nhưng tâm lí học lịch sử con người, về tất cả các khoản đều khác với tâm lí học hành vi. Cương lĩnh đầu tiên của lí thuyết tâm lí học về hoạt động xuất phát thẳng từ Các Mác. Phương pháp tiếp cận mới đối với hành vi và ý thức với tư cách là đối tượng của tâm lí học khoa học, là một trong những kết quả đầu tiên của quá trình Vư-gốt-xki lĩnh hội học thuyết mác–xít về hoạt động của con người, kết quả ấy tạo ra nền tảng của mọi nền tảng tâm lí học kiểu mới. Mọi người biết rằng trong suốt đời hoạt động khoa học của mình, Vư- gốt-xki không một phút bỏ lơi vấn đề ý thức là vấn đề trung tâm trong toàn bộ