SlideShare a Scribd company logo
1 of 61
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
1
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu 02
Phần nội dung
I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 04
I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 04
1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam 04
1.2. Tình hình trong nước 07
I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam 14
2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản 14
2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam 15
2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 17
II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ ... 21
II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất 21
1.1. Điều kiện ra đời của phong trào 21
1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ … 23
1.3. Đặc điểm của các phong trào … 35
II.2. Phong trào cách mạng sau chiến tranh thế giới thứ nhất 37
2.1. Điều kiện ra đời và phát triển của các phong trào 37
2.2. Nội dung của các phong trào yêu nước dân chủ sau chiến tranh … 42
2.2.a. Phong trào ở nước ngoài
2.2.b. Phong trào đấu tranh trong nước
2.3. Đặc điểm của các phong trào dân chủ sau chiến tranh thế giới … 49
II.4. Nguyên nhân thất bại của các phong trào theo khuynh… 50
II.5. Vị trí của khuynh hướng dân chủ tư sản trong cuộc … 55
Kết Luận 58
Tài liệu tham khảo 60
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cận đại, một trong những vấn đề
quan trọng là việc nhìn nhận, đánh giá vị trí và vai trò của khuynh hướng dân chủ tư
sản ở Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam nằm trong quy luật vận
động của lịch sử. Nó tồn tại là tất yếu và sự thất bại của nó là do đặc điểm lịch sử, đặc
điểm xã hội Việt Nam quy định. Tất cả đều chịu sự chi phối của quy luật vận động
phát triển và có kế thừa, không thể phủ định sạch trơn. Bên cạnh mặt hạn chế hẳn còn
những mặt tích cực khác. Do đó, khi nhận định khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt
Nam nên có sự đánh giá khách quan, có tính đến hoàn cảnh cụ thể và phải đặt nó trong
tính biện chứng lịch sử.
Cũng như bên cạnh sự thất bại, không đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi
cuối cùng nhưng cũng không vì thế mà phủ nhận vai trò tích cực, tính tiến bộ của
khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc. Vì nó
đặt cơ sở xã hội cho sự tiếp thu tư tưởng mới-tư tưởng vô sản tiếp thu từ chủ nghĩa
Mác-Lênin, một tư tưởng tiến bộ của thời đại để thay đổi vận mệnh đất nước. Nhờ có
sự tồn tại khuynh hướng dân chủ tư sản mới chuẩn bị được tiền đề cho sự vận động
sang một khuynh hướng mới, khuynh hướng vô sản. Dân chủ bấy giờ được xác định là
một trong hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ càng
được xem là mục tiêu, là động lực cho sự công bằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh dân
tộc, thành công cho công cuộc đổi mới. Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân muốn thực hiện
được nhất định phải chú ý đến vấn đề dân chủ. Điều đó cũng có nghĩa là một tiềm
năng kinh tế hôm nay, một môi trường chính trị ổn định hôm nay là thành quả của sự
kế thừa, phát triển tư tưởng dân chủ trong khuynh hướng dân chủ tư sản cuối thế kỉ
XIX đầu thế kỉ XX.
Giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến trước năm 1930, có nhiều phong trào đấu tranh
chống Pháp nổ ra mang khuynh hướng dân chủ tư sản biểu hiện dưới nhiều hình thức
phong phú, đa dạng. Các phong trào diễn ra sôi nổi thể hiện sự khao khát giải phóng
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
3
dân tộc thay đổi số phận hiện tại của đất nước. Đồng thời là sự biểu hiện cụ thể của
tinh thần yêu nước Việt Nam.
Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn nuôi dưỡng âm mưu chống phá hòng tiêu diệt
chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta. Do đó, vấn đề khẳng định, phát huy chủ nghĩa yêu
nước hơn bao giờ hết càng giữ một vị trí quan trọng.
Tìm hiểu khuynh hướng dân chủ tư sản ở nước ta để thấy sự chuyển biến của con
đường giải phóng dân tộc, thấy được sự hy sinh, đóng góp của các bậc tiền bối trong
quá trình mày mò tìm giải pháp cứu nước. Đó là một chặng đường dài để thấy rằng giá
trị của nền độc lập hôm nay cao quý biết nhường nào, góp phần thức tỉnh ý thức dân
tộc, dân chủ trong việc góp công giữ gìn độc lập, phát huy những thành tựu đã dày
công đạt được.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
4
PHẦN NỘI DUNG
I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thế giới có nhiều sự kiện quan trọng tác động
mạnh mẽ đến sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam.
Thời gian này, hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới chuyển từ tự do
cạnh tranh sang giai đoạn cao hơn của nó, đó là chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy nhu cầu
về thị trường, nguyên liệu và nhân công ngày càng trở nên bức thiết. Do đó, chúng
đẩy mạnh quá trình xâm lược thuộc địa sang các nước phương Đông. Công việc “săn
tìm” thuộc địa lúc bấy giờ không còn là công việc của giai cấp tư sản hay võ quan
hiếu chiến nữa mà đã trở thành đường lối chung của nhà nước tư sản. Việt Nam cũng
không nằm ngoài quỹ đạo xâm lược thuộc địa của các nước đế quốc.
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX còn có một số biến cố lớn ảnh hưởng sâu sắc
đến cuộc vận động cách mạng và đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam. Đặc biệt là phong
trào Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868, và cuộc vận động biến pháp ở Trung
Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm 1911.
Nhật Bản trước khi cải cách Minh Trị là một nước phong kiến quân chủ “bế
quan tỏa cảng” như Việt Nam. Bước sang thế kỉ XVIII, sự phát triển nội tại của Nhật
Bản đã làm cho những mầm mống chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng. Đó là
những hải cảng, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều ở thành thị, kinh tế
hàng hóa phát triển. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc thế giới quý tộc hạng trung và
hạng nhỏ, không có ruộng đất chỉ phục vụ các Đaimiô bằng việc huấn luyện và chỉ
huy các đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh,
địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn, nhiều
người đã ra khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công,…
dần dần tư sản hoá. Họ có thế lực về kinh tế nhưng không có quyền lực về chính trị,
địa vị xã hội tương xứng. Vì vậy tầng lớp này trở thành lực lượng đấu tranh mạnh mẽ
chống chế độ phong kiến lỗi thời.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
5
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nhu cầu thị trường đòi hỏi
ban đầu là xâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là những nước phong kiến lạc hậu.
Chính vì thế, Nhật Bản bị các nước phương Tây đòi mở cửa. Nhật Bản đến giữa thế
kỉ XIX đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, với mâu thuẫn gay gắt giữa lực
lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất phong kiến, giờ đây đứng trước
sự lựa chọn: hoặc duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để các nước đế quốc sâu
xé; hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư
bản phương Tây. Cuối cùng, nhờ có một số nhà lãnh đạo thức thời sớm tỉnh ngộ
trước họa xâm lăng, đã chiến thắng các lực lượng bảo thủ trong nước, theo hướng tư
bản chủ nghĩa, mặc dù còn nhiều tàn tích phong kiến. Nhờ có duy tân, đổi mới, Nhật
đã trở thành nước độc lập, không những thế mà còn sớm cường thịnh và có chính
sách bành trướng thực dân.
Trong thời gian này, Việt Nam đang lúng túng trước cuộc chiến tranh xâm lược
của Pháp. Đặc biệt, khi phong trào Cần Vương thất bại (1896), những người Việt
Nam yêu nước đang lo tìm con đường cứu nước mới thì chiến tranh Nga-Nhật nổ ra.
Nhật đại thắng, sự kiện này vang dội khắp năm châu, tác động mạnh mẽ đến các nhà
yêu nước Việt Nam cũng như nhiều nhà yêu nước khác trong khu vực Châu Á. Họ bỏ
qua bản chất đế quốc của Nhật chỉ chú ý đến việc một cường quốc da vàng đánh bại
một cường quốc da trắng. Chỉ những điều đó thôi, Nhật cũng đã được tôn làm anh cả,
làm đầu đàn cho Châu Á vùng lên. Nhật Bản được xem là vị cứu tinh của dân tộc da
vàng. Xu hướng thân Nhật đã phát triển ở nhiều nước châu Á như: Trung Quốc, Thái
Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam,… Bằng chứng là khi sang Nhật,
Phan Bội Châu đã gặp Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cũng đang hoạt động ở
đây.
Bên cạnh sự tác động của Nhật Bản thì những sự kiện ở Trung Quốc lúc bấy giờ
cũng tác động tới cách mạng Việt Nam.
Sau chiến tranh Trung-Nhật (1895), uy thế của triều đình phong kiến Mãn
Thanh xuống thấp. Phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao. Nhiều sĩ phu tiến bộ
và trí thức tư sản Trung Quốc đã mạnh dạn đòi cải cách. Họ thành lập nhiều học hội,
học đường, nhà xuất bản, toà soạn,… truyền bá học thuyết mới mẻ. Tiêu biểu là học
hội của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ lập hiến
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
6
trực tiếp từ Nhật Bản), Hưng Trung hội của phái trí thức Tây học do Tôn Dật Tiên
đứng đầu.
Trong khuôn khổ một nước phong kiến thì đề nghị của Lương-Khang, tức cải
cách đưa đất nước phát triển nhưng sự thống trị của phong kiến vẫn còn thì dễ dàng
chấp nhận hơn. Tháng 6 năm 1897, vua Quang Tự nghe theo Khang Hữu Vi ban bố
hiến pháp. Chương trình gồm 11 điểm nhưng bị phái bảo thủ do Thái hậu Từ Hy
đứng đầu quyết liệt chống đối. Cuộc vận động cải cách của Trung Quốc bị thất bại.
Tuy nhiên những tư tưởng tiến bộ của Lương-Khang đã gây được tiếng vang lớn, ảnh
hưởng sâu rộng vào nhân dân, đặc biệt là nhận thức tư tưởng thời đại. Từ đây, những
trào lưu tư tưởng của phương Tây dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc, cũng như dễ
dàng được tiếp nhận, và bắt đầu tấn công hệ tư tưởng phong kiến quan liêu, hủ bại,
mở đường cho tư tưởng dân chủ tư sản phát triển trong xã hội Trung Quốc. Nó thức
tỉnh phong trào yêu nước của nhân dân, nâng cao ý thức độc lập dân tộc chống ngoại
xâm và ý thức dân chủ chống chuyên chế. Cuộc đấu tranh đó dần phát triển lên cao
dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến bộ ngay từ
chủ trương của Hội “đánh đổ Mãn thanh, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ liên
hiệp” trong khi chủ trương trước đó của Lương-Khang là áp dụng các biện pháp duy
tân nhưng còn duy trì và cải tiến chế độ phong kiến nhà Thanh.
Đối với nước ta, Trung Quốc là nước láng giềng có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trung
Quốc không chỉ là nước đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ: chế
độ phong kiến quân chủ chuyên chế, Nho giáo là thiết chế tư tưởng, chính trị-xã hội
lâu đời, và lúc bấy giờ đều bị đế quốc xâm lược,… Những biến cố về chính trị, tư
tưởng ở Trung Quốc nhanh chóng dội vào Việt Nam theo từng thời kì chuyển biến rõ
nét. Điển hình nhất là hoạt động của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Lúc Cường học
hội của Lương-Khang đang có vai trò mạnh ở Trung Quốc thì ở Việt Nam là hoạt
động của Duy Tân hội tôn Ngoại hầu Cường Để lên làm hội trưởng để “thu phục
nhân tâm”. Và khi cách mạng Tân Hợi nổ ra thì năm 1912, Duy Tân hội ở Việt Nam
cũng giải tán chuyển sang thành lập Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ “đánh
đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam”.
Trên thế giới lúc bấy giờ còn có một sự kiện mà sự tác động của nó cũng không
nhỏ đến cách mạng Việt Nam. Đó là cao trào Châu Á thức tỉnh.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
7
Các nước tư bản phương Tây đi xâm lược vô tình mang theo tư tưởng dân chủ,
Tự do-Bình đẳng-Bác ái (thành quả tiến bộ của các cuộc cách mạng tư sản) sang các
nước phụ thuộc và thuộc địa. Chính nó là một trong những nguyên nhân lớn thúc đẩy
phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt lúc bấy giờ ở Châu Á như: Thổ Nhĩ Kỳ,
Trung Quốc, Miến Điện,…
Cao trào Châu Á thức tỉnh càng làm cho khao khát giải phóng dân tộc giành độc
lập dân tộc trước hết của Việt Nam thêm cháy bỏng. Nó góp phần nâng cao chí quyết
tâm trong quá trình chống thực dân, đế quốc.
1.2. Tình hình trong nước
Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ
quyền nhưng chế độ phong kiến đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng và
suy yếu nghiêm trọng. Kinh tế ngày càng sa sút, tài chính khó khăn. Đúng như
Nguyễn Tri Phương nhận xét năm 1960 về tình hình Việt Nam, khi thực dân Pháp
xâm lược thì nước ta “của đã hết, sức đã thiếu”. Đã thế nhà Nguyễn còn đưa ra một
số chủ trương chính sách gây bất lợi cho sự phát triển nền kinh tế. Đường lối đối
ngoại sai lầm “bế quan toả cảng” đã khiến cho Việt Nam bị cô lập. Việc hạn chế
ngoại thương không xuất phát từ bảo vệ thị trường trong nước mà xuất phát từ ý định
ngăn chặn sự xâm nhập của đạo Thiên chúa, cho nên dã dẫn đến chính sách đàn áp
giáo sĩ và giáo dân một cách mù quáng. Việc cấm đạo, sát đạo gay gắt càng tạo thêm
cớ cho kẻ thù bên ngoài lợi dụng triển khai mưu đồ xâm lược. Các vua kế tiếp nhau
càng ra sức củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, quyền lực tập trung trong tay vua.
Chỗ dựa của nhà nước là giai cấp địa chủ. Ruộng đất tư lúc bấy giờ phát triển mạnh
hơn lúc nào hết với 83%, còn lại là 17% là đất công. Chính vì vậy, đời sống của nhân
dân ngày càng cực khổ, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra làm cho đất nước luôn
không ổn định. Mười tám năm cai trị của Gia Long (1802-1820) với 73 cuộc khởi
nghĩa của nông dân, 7 năm ở ngôi của Thiệu Trị (1940-1947) có 56 cuộc khởi nghĩa
của nông dân… Bên cạnh đó, khả năng quốc phòng yếu kém. Điều này đã ảnh hưởng
trực tiếp đến việc chống xâm lược của các nước đế quốc thực dân.
Trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa giữa các nước tư bản phương Tây,
cuối cùng tư bản Pháp bám sâu được vào Việt Nam qua hội truyền giáo thừa sai Pari.
Đồng thời thông qua các mối quan hệ đã có từ trước cùng với lợi dụng sự suy yếu
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
8
của chế độ phong kiến Việt Nam, chính phủ Pháp ráo riết xúc tiến thực hiện âm mưu
xâm lược.
Triều đình phong kiến Việt Nam vì những toan tính riêng tư bảo vệ quyền lợi
giai cấp nên từ chống cự yếu ớt rồi dần chuyển sang chịu chia sẻ quyền lực với Pháp,
ngày càng bộc lộ sự bất lực của mình trượt dài qua các hiệp ước nhượng đất Nhâm
Tuất (1862), Giáp Tuất (1874). Triều đình thực sự thừa nhận quyền cai trị của Pháp ở
Nam Kì, kết hợp với Pháp trong việc chống lại phong trào của nhân dân và sau cùng
là hai bản hiệp ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) chấm dứt quá trình xâm
lược của Pháp ở Việt Nam.
Như thế từ sau năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Năm 1897, Việt Nam trở thành bộ phận của Liên bang Đông Dương. Thực dân
Pháp thiết lập bộ máy cai trị Liên bang để tiến hành quá trình khai thác và bóc lột
thuộc địa. Các chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và lần thứ
hai (1919-1929) của Pháp chủ yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của chính
quốc. Hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo ra
những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở Việt Nam.
+ Về chính trị: Thực dân Pháp đặc biệt coi trọng chính sách về chính trị để cai
trị thuộc địa vừa chiếm được. Chúng tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước hoàn
chỉnh, thống nhất có tính chất chặt chẽ từ trên xuống. Để đảm bảo thu được lợi nhuận
thuộc địa tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị. Mọi
quyền hành đều nằm trong tay Pháp, vua quan triều Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng cai
trị trực tiếp và thẳng tay đàn áp, không cho dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào,
kể cả chủ nghĩa cải lương cũng không được phép.
“Chia để trị” là chính sách cai trị điển hình của Pháp ở Việt Nam. Mục đích của
chúng là làm suy yếu lực lượng dân tộc Việt Nam. Chúng chia cắt nước ta thành 3 xứ
với 3 chế độ khác nhau. Nam Kì là xứ thuộc địa do Pháp nắm nên được gọi là chế độ
trực trị do một viên Thống đốc của Pháp đứng đầu. Bắc Kì và Trung Kì là 2 xứ bảo
hộ vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức. Bắc Kì do Thống sứ đứng đầu,
Trung Kì do Khâm sứ đứng đầu, cả hai cũng đều là người Pháp. Người Việt Nam
muốn đi lại giữa các kì phải xin giấy phép như ra nước ngoài. Với thủ đoạn này, thực
dân Pháp muốn xoá tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới, vì bấy giờ
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
9
chỉ còn là Liên bang Đông Dương, chia rẽ nhân dân thuộc địa với nhân dân Pháp,
chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhau.
Riêng ở Việt Nam, thực dân Pháp đã phá hoại tính thống nhất dân tộc, dựng nên
hàng rào chia cắt về chế độ, kéo theo các cơ quan cai trị riêng biệt, ngăn cản sự giao
lưu qua lại, ngăn cản sự phát triển chung, đặc biệt là nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân
tộc của ta, giảm sức mạnh trong việc chống lại chúng.
Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa
(7/1/1900) bao gồm lính Pháp và lính bản xứ. Quân đội đặt dưới quyền chỉ huy trực
tiếp của viên Tổng chỉ huy người Pháp. Mục đích là nhằm đàn áp các cuộc khởi
nghĩa, canh giữ các nhà tù, đàn áp chống đối, ổn định thuộc địa.
Cùng với quân đội chính quy ngày 30 tháng 6 năm 1915, Tổng thống Pháp ra
sắc lệnh thành lập lực lượng cảnh sát đặc biệt. Nhiệm vụ là đảm bảo trật tự, an ninh
trong tỉnh, canh giữ các công sở, các tuyến đường giao thông. Để tăng cường đàn áp,
ngày 28 tháng 6 năm 1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Sở tình
báo và an ninh trung ương (Sở mật thám Đông Dương). Mỗi xứ có một cơ quan
mang tên cảnh sát an ninh.
Đi đôi với bộ máy quân sự, cảnh sát to lớn là hệ thống pháp luật khắc nghiệt
cùng hệ thống toà án nhà tù dày đặc khắp Việt Nam. Từ huyện, phủ, châu trở lên đều
có nhà tù và trại giam.
Như vậy, rõ ràng bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ
sở của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động do
thực dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác bóc lột vô cùng tàn bạo
của chúng. Nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng cuối
thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sống trong cảnh ngột ngạt, không có một quyền tự do dân
chủ nào. Hơn nữa, nhân dân còn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn vô hạn của chính quyền
thuộc địa.
+ Về kinh tế: Các nước đế quốc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa nhằm thoả mãn
nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao nguồn lợi nhuận. Do đó, sau khi hoàn thành
xâm lược thuộc địa thì chúng bắt tay ngay vào quá trình khai thác các nguồn lợi ở
thuộc địa một cách triệt để.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
10
Việt Nam là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí thuận lợi và sẵn
nhân công nhưng phương thức sản xuất lạc hậu. Do tư tưởng khép kín, không thức
thời nhạy bén tiếp cận thành tựu hiện đại, tiến bộ của phương Tây, nên không thể khai
thác hết tiềm năng nội sinh để phát triển đất nước. Vì vậy, để bóc lột tối đa lợi nhuận
ở thuộc địa, Pháp đã thi hành một chính sách thực dân rất phản động, bóc lột nặng nề
về kinh tế ở nước ta.
Trong chương trình hành động gởi bộ trưởng Bộ thuộc địa (22/3/1897), Đume
nêu rõ “xây dựng cho Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường
sắt, đường bộ, sông hào, bến cảng những cái cần thiết cho sự khai thác xứ Đông
Dương”1
Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, và các vùng
biên giới quan trọng: trục đường xuyên Đông Dương, đường Sài Gòn-Tây Ninh tới
biên giới Campuchia, đường Vinh-Sầm Nứa, Hà Nội-Cao Bằng,… lưu thông một
cách xuyên suốt. Tổng số chiều dài xây dựng thời kì này là 20.000 km, cùng với
14.000 km đường dây điện thoại.
Mở mang đường sắt được giới tư bản ưu tiên để phục vụ chuyên chở hàng hoá,
nguyên liệu và tạo ra phương tiện để đưa quân đội đến những nơi cần thiết nhằm đàn
áp các cuộc khởi nghĩa. Các đường xe lửa lần lượt được hoàn thành Hà Nội-Lạng
Sơn (1902), Hà Nội-Vinh (1905), Đà Nẵng-Huế (1906), Sài Gòn-Nha Trang, Hải
Phòng-Vân Nam (1910),…Tính đến năm 1912, tổng số chiều dài đường sắt đã xây
dựng ở Việt Nam là 2099 km. Tất cả những tuyến đường sắt trừ tuyến Hải Phòng-
Vân Nam đều do nhà nước thực dân Pháp thu lãi.
Đường thuỷ cũng được khai thông ở các con sông lớn như: Sông Hồng, Thái
Bình, Đồng Nai, sông Hậu Giang và các kênh rạch. Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng,
Sài Gòn cũng được xây dựng. Riêng ở Nam Kì đến năm 1914 có 1745 km đường
thủy và tàu chạy bằng hơi nước.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (hơn 10 năm đầu thế kỉ XX), thực dân
Pháp đã đầu tư làm thay đổi hẵn cơ sở hạ tầng Việt Nam. Đó là sự đầu tư có dụng ý,
nhằm phục vụ cho quyền lợi thực dân, phục vụ cho mưu đồ thống trị, khai thác và
bóc lột của chúng.
1
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 128
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
11
Trái với tinh thần của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789) là diệt trừ tận gốc chế độ
phong kiến, mở đường cho nước Pháp hướng mạnh vào con đường phát triển tư bản.
Chính sách kinh tế của Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lại duy
trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu kết hợp với thiết lập rất hạn chế phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trong nông nghiệp, Pháp cướp đoạt ruộng đất của nông dân một cách trắng trợn,
được che đậy bằng sự hợp thức hoá của Điều ước, Nghị định: “Năm 1897, thực dân
Pháp bắt triều đình Huế kí điều ước cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang.
Tiếp đó, ngày 1/5/1900 Thực dân Pháp ra Nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng
đất trong luật pháp phong kiến”2
. Chúng lập ra hàng loạt các đồn điền kinh doanh
theo phương thức tư bản chủ nghĩa nhưng lại bóc lột bằng cách phát canh thu tô kiểu
phong kiến. Những chính sách trong nông nghiệp của Pháp đã kiềm hãm nền nông
nghiệp Việt Nam trong vòng lạc hậu. Nông dân bị mất đất, bần cùng đói khổ, lực
lượng sản xuất bị hao mòn, kinh tế nông nghiệp ngày trở nên sa sút.
Trong công nghiệp, Pháp chỉ chú trọng một số ngành công nghiệp phục vụ cho
quá trình khai thác và vơ vét tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Công nghiệp nhẹ chỉ
được phép phát triển trong một số lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng
của Pháp ở thuộc địa. Công nghiệp Việt Nam không được cạnh tranh với công
nghiệp Pháp. Một nền công nghiệp đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng đó chỉ là một nền
công nghiệp phiến diện, què quặt, không có công nghiệp nặng. Điều đó thể hiện rõ
tính chất thuộc địa của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Về thương nghiệp, Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam. Hàng hoá Pháp thâm
nhập vào hoàn toàn miễn thuế còn hàng hoá nước khác thì phải chịu thuế cao nên hầu
hết ít vào được thị trường Việt Nam. Chính sách độc quyền về thương mại của Pháp
đã bần cùng hoá nhân dân lao động và bóp chết ngành tiểu thủ công nghiệp Việt
Nam. Hình thức bót lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp còn thể hiện ở việc
chúng lập ra Ngân sách chung cho 5 xứ Đông Dương dưới hình thức Ngân hàng
Đông Dương. Ngân hàng này là một tập đoàn tư bản tài chính lớn, chi phối mọi
ngành kinh tế ở Đông Dương. Nguồn thu của Ngân sách chủ yếu là thuế. Thuế cũ thì
tăng vọt, nhiều thuế mới thật vô lí được đặt ra: thuế thân, thuế chợ, thuế vỉa hè, thuế
2
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 130
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
12
xe… “Trên chiếc lưng cao su của người An Nam, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế
co dãn”3
Nhìn chung, chính sách về kinh tế của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế Việt
Nam có những thay đổi căn bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đan xen cùng tồn
tại với quan hệ sản xuất phong kiến vốn có. Công, nông, thương nghiệp có bước phát
triển nhưng không cân đối về cơ cấu, què quặt và phụ thuộc nặng nề vào đế quốc
Pháp.
Pháp là nước tư bản già lạc hậu so với các nước tư bản trẻ phát triển mạnh lúc
bấy giờ: Mĩ, Đức,… Pháp có nền kỉ thuật đã lỗi thời, hàng hoá không thể cạnh tranh
nổi với các nước tư bản đang lên nên Pháp phải giải quyết khủng hoảng của mình
bằng cách độc chiếm thị trường thuộc địa, hạn chế cạnh tranh, đồng thời là khai thác
triệt để nguồn lợi thuộc địa đem về chính quốc sản xuất rồi lại mang hàng hóa sang
tiêu thụ ở thuộc địa. Đây là phương thức kinh doanh khác cơ bản so với Mĩ, Đức.
Chính vì vậy, thuộc địa của Pháp có nền kinh tế bị què quặt, không tiếp nhận được
thành tựu mới, không được giao lưu. Đó cũng chính là nguyên nhân cho sự trì trệ kéo
dài, khó khắc phục, cải tạo của Việt Nam sau cách mạng giải phóng dân tộc.
+ Về xã hội: Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới sự tác động
của công cuộc khai thác của Pháp đã phân hoá sâu sắc.
Giai cấp địa chủ phong kiến vốn thuộc giai cấp thống trị nay đầu hàng đế quốc,
dựa vào đế quốc để áp bức bóc lột nhân dân ta. Vì vậy, đây là đối tượng của cách
mạng. Song, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hoá,
một bộ phận làm tay sai cho thực dân Pháp, một bộ phận địa chủ nhỏ và vừa ít nhiều
có tinh thần dân tộc đứng lên chống Pháp khi có cơ hội.
Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất trong xã hội, chiếm 90% dân số bị
đế quốc, địa chủ bóc lột nặng nề. Vì vậy, họ căm thù thực dân phong kiến, khao khát
độc lập và ruộng đất, họ tích cực tham gia và là nguồn động lực chính trong các cuộc
đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Nhưng trong cách mạng dân tộc, dân chủ, họ
không thể đóng vai trò lãnh đạo vì không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên
tiến.
3
Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 129
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
13
Bên cạnh các giai cấp phong kiến cũ thì thời kì này xuất hiện các giai tầng mới.
Đó là công nhân và tư sản.
Giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp. Mặc dù mới ra đời số lượng còn ít, trình độ văn hoá còn thấp
nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành về số lượng và
chất lượng, có khả năng lãnh đạo cách mạng sau này.
Còn tư sản thì thật sự trở thành một giai cấp từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
Bị tư bản Pháp chèn ép nên giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận: tư
sản mại bản và tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản mại bản gắn chặt quyền lợi với Pháp.
Giai cấp tư sản dân tộc tuy có tinh thần yêu nước chống đế quốc, phong kiến nhưng
ra đời muộn, thế lực yếu kém về kinh tế lẫn chính trị nên thường cải lương trong quá
trình đấu tranh và không có khả năng lãnh đạo và đưa cách mạng Việt Nam đến
thắng lợi.
Các chính sách cai trị của Pháp ở các nước thuộc địa còn làm cho tầng lớp trí
thức tiểu tư sản ngày càng đông. Đây là những người được chế độ phong kiến và
thực dân đào tạo. Họ ít nhiều bị chèn ép và do truyền thống yêu nước chi phối nên họ
cũng khát khao độc lập tự do. Khi có điều kiện thì đây là lực lượng nhạy bén tiếp thu
và truyền bá tư tưởng mới và là “ngòi pháo” của các cuộc đấu tranh chống thực dân,
phong kiến.
Như vậy, sự ra đời của những lực lượng xã hội mới đã tạo điều kiện bên trong
cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo những khuynh hướng mới với động lực là
những giai tầng có thái độ chính trị và khả năng cách mạng khác nhau.
+ Về văn hoá giáo dục: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân triệt để,
giam hãm, đầu độc nhân dân ta trong vùng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn
trường học và bệnh viện. Chính sách văn hoá của Pháp ở Việt Nam chỉ nhằm thực
hiện mục đích thực dân “làm cho dân ta ngu để dễ trị”. Pháp chỉ mở trường dạy tiếng
Pháp nhằm đào tạo đội ngũ tay sai thuộc địa. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng
văn hoá tiến bộ trên thế giới, truyền bá văn hoá đồi trị và mê tín dị đoan. Hậu quả là
trường học thiếu một cách trầm trọng, hàng ngàn trẻ em Việt Nam không biết chữ,
thanh niên thì bị ngăn cản không cho du học phương Tây để tiếp thu tư tưởng tiến bộ
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
14
của thế giới. Đồng thời chúng còn tìm cách trấn áp, loại trừ những nhà trí thức yêu
nước “đòi bỏ rọ lăn sông các sĩ phu”.
Tuy nhiên ngoài ý muốn chủ quan của Pháp, trong khi cố tạo ra những điều kiện
thuận lợi phục vụ cho bộ máy cai trị trực tiếp ở Việt Nam, chúng đã tạo ra một môi
trường văn hoá mới ngoài mục đích văn hoá thực dân. Trong thành phần những tri
thức do các trường học mới đào tạo có không ít người có nguồn gốc là con em của
chúng những nhà có thù với đế quốc Pháp. “Họ tất nhớ lại cha anh họ bị đày, bị giết
vì nước, người trước gnười sau sớm muộn gì cũng theo dấu cha anh, đứng lên đỡ lấy
cái gánh nặng non sông mà cha anh họ còn để lại giữa đường,…”4
.
Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đang khao khát tìm
kiếm một con đường giải phóng dân tộc khi tư tưởng phong kiến đang suy tàn, mất
hết vai trò lãnh đạo, tư tưởng dân chủ-tư tưởng mới được tiếp thu một cách nhanh
chóng. Thực dân Pháp cố gắng tìm mọi cách ngăn chặn nhưng có một thứ mà chúng
không thể nào ngăn chặn nổi đó là tinh thần tìm hiểu, nghiên cứu về giải phóng dân
tộc của nhiều người yêu nước Việt Nam.
Như vậy, những chính sách cai trị của Pháp ở Việt Nam mang đậm tính chất
thực dân: chuyên chính về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, nô dịch tàn bạo về
văn hoá giáo dục.
Khi mà hệ tư tưởng phong kiến không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, phong trào
yêu nước theo lập trường phong kiến dần tàn lụi, thất bại, thì những biến đổi về chính
trị-kinh tế-văn hoá trong chế độ thực dân là tiền đề cho sự xuất hiện những luồng tư
tưởng khác nhau. Đồng thời là cơ sở cho sự tiếp nhận, hấp thụ những nguyên lí cứu
nước mới đối với Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là khuynh hướng dân chủ tư sản.
I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam
2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản
Dân chủ ngày nay được hiểu là một chính quyền mà trong đó nhân dân là người
làm chủ, là người quyết định mọi việc. Dân chủ bao hàm ý nghĩa thừa nhận quyền tự
do bình đẳng của mọi công dân. Nguyên tắc đặc trưng của chế độ dân chủ là thiểu số
phải phục tùng đa số trong quá trình tham gia bàn bạc và định đoạt công việc chung.
4
. Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước trong ba mươi năm đầu thế kỉ
XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nộ, 22
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
15
Tư tưởng dân chủ tư sản là thành quả của các cuộc cách mạng tư sản thời cận
đại. Tuy nhiên không phải khi cách mạng thắng lợi, chính quyền cách mạng được
thiết lập thì tư tưởng dân chủ tư sản mới ra đời, mà tư tưởng này đã xuất hiện từ
trước. Tư tưởng dân chủ tư sản là tiền đề tư tưởng (cùng với tiền đề kinh tế, chính trị-
xã hội) xuất hiện trước mỗi cuộc cách mạng tư sản, chuẩn bị cho các cuộc cách mạng
tư sản bùng nổ.
Ở Anh, hệ tư tưởng dân chủ tư sản thể hiện qua cuộc đấu tranh của Thanh giáo
chống Anh giáo để xác lập một tôn giáo rẻ tiền, ít tốn kém thời gian và phù hợp với
việc kinh doanh của nhà tư bản. Thanh giáo ra đời nhằm hạn chế sự chuyên quyền
của nhà nước phong kiến, phản đối giáo hội Anh. Vì thế, nhà nước phong kiến đã sử
dụng bạo lực để đàn áp các tín đồ Thanh giáo. Giai cấp tư sản nấp dưới tà áo tôn giáo
mới để lôi kéo lực lượng thực hiện mục đích của mình. Ở Pháp, từ đầu thế kỉ XVIII
đã xuất hiện trào lưu tư tưởng “ánh sáng”, với nhiều quan điểm tốt đẹp-chống chế độ
phong kiến, tôn giáo xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng với ba đại biểu xuất sắc:
Mông-xte-ki-ơ, Rut-xô, Vôn-te. Ở Nhật, trước Duy Tân Minh Trị đã xuất hiện trào
lưu “Hà Lan học”, đề xướng tư tưởng “trọng thương”, tiếp thu nhiều thành tựu tiến
bộ của phương Tây…
Tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện từ sự khao khát một cuộc sống tự do; muốn
thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, sự hà khắc của giáo hội Kitô;
thoát khỏi sự áp bức bóc lột nặng nề của xã hội hiện tại, mơ ước một xã hội mới công
bằng.
2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam
Luồng tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX chủ yếu qua 3 con đường chính: từ Pháp, từ Nhật Bản và từ Trung Quốc.
Con đường du nhập tư tưởng này đến Việt Nam qua quá trình xâm lược và khai
thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là chủ yếu. Người Pháp đến Việt Nam, bên cạnh
bộ phận những người trong chính quyền thực dân, còn có những trí thức, hay các nhà
khoa học tới Việt Nam với mục đích nghiên cứu, dạy học… Và đặc biệt trong đó
không thể không kể tới, đó chính là các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, họ ít nhiều
cũng đã mang tư tưởng bình đẳng của Chúa đến với giáo dân và ảnh hưởng sâu rộng
tỉ lệ thuận với quá trình phát triển của đạo Thiên Chúa đối với nhân dân Việt Nam.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
16
Lê-nin viết “Thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hoá cho toàn thể nhân loại
đã tiếp diễn dưới dấu hiệu của đại cách mạng Pháp” [3; 191]. Hơn thế nữa, nền giáo
dục Pháp ở Việt Nam mặc dù với mục đích chính là đào tạo những người làm việc
cho bộ máy cai trị chính quyền thực dân nhưng ít hay nhiều cũng mang đến cho
những người Việt Nam theo Pháp học có những hiểu biết về tư tưởng “ánh sáng” với
Milê, người đã có quan niệm về chủ nghĩa cộng sản không tưởng; Mông-te-xki-ơ với
tư tưởng xây dựng hệ thống nhà nước “tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng”;
Vôn-te có tư tưởng chống độc tài phong kiến và nhà thờ Thiên Chúa; hay Đi-đơ-rô
với quan điểm triết học duy vật và Rut-xô với tư tưởng dân chủ cách mạng và nhà
nước dân chủ,… Vì vậy, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam không tránh khỏi đem những
tư tưởng này vào giới trí thức của nước ta.
Tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp đến Việt Nam không chỉ thâm nhập qua những
người Việt Nam làm việc cho Pháp, các trí thức Tây học trong nước, mà còn qua một
lực lượng quan trọng là những người Việt Nam xuất ngoại sang Pháp. Những người
Việt tới Pháp gồm những nhà tư sản hay trí thức, bằng cách này hay cách khác sang
Pháp học tập, làm ăn. Do Pháp ra sức ngăn cản việc người Việt Nam đi du học nước
ngoài, đặc biệt là qua Pháp vì sợ họ tiếp thu những thu tưởng mới nên số lượng này
là không nhiều ở nước ta lúc bấy giờ. Chiếm số lượng khá đông là người Việt Nam
làm việc trên những chuyến tàu của Pháp (Bác Hồ cũng từng làm việc như thế) hay
bị đưa sang Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Đây là con đường tiếp cận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây trực tiếp chính
bằng trình độ nhận thức của người Việt. Tuy nhiên, trong buổi đầu tư tưởng dân chủ
tư sản du nhập vào, thành phần tiếp nhận có nhiều hạn chế giai cấp, lịch sử cùng với
không gian tiếp cận không đầy đủ nên phong trào yêu nước Việt Nam gắn với tư
tưởng mới này chưa có sự chuyển biến rõ nét và phát triển cao.
Con đường thứ hai truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản tới Việt Nam là thông qua
Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản và việc nước Nhật chiến thắng trong
chiến tranh Nga-Nhật (1895) trong khi các nước Châu Á đều bị biến thành thuộc địa
hay phụ thuộc của các nước đế quốc thực dân. Điều đó khiến cho Nhật Bản trở thành
tấm gương, một “anh cả da vàng” để các nước khác học tập. Cuộc Duy Tân Minh Trị
có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Châu Á, trước hết là đối với Trung Quốc. Sau
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
17
cuộc Duy Tân Minh Trị 30 năm, một phong trào Duy Tân đã bùng nổ ở Trung Quốc.
Người chủ xướng phong trào duy tân ở Trung Quốc là Khang Hữu Vi. Ông muốn bắt
chước Nhật Bản, cũng tiến hành một cuộc cải cách dưới trướng của một đấng minh
quân. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Trung Quốc không cho phép
nên phong trào duy tân của Khang Hữu Vi bị thất bại. Cuộc Minh Trị Duy Tân ở
Nhật Bản cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX các sĩ phu yêu nước Việt Nam như cụ Phan Bội Châu đã hướng về Nhật Bản với
lòng ngưỡng mộ và đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại đất nước
của Thiên hoàng Minh Trị này. Thậm chí, ở Trung Quốc cũng diễn ra một phong trào
Đông du sang Nhật để học tập, và sau Đông du ở Trung Quốc là phong trào Đông du
ở Việt Nam. Nhật Bản cũng có những nhân vật ảnh hưởng đến các trào lưu tư sản ở
Nhật Bản mà cả với phong trào đấu tranh ở Việt Nam, như nhà tư tưởng dân chủ
Fukuzawa Yukichi.
Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đến với Việt Nam nhờ rất nhiều vào một
con đường khác là Trung Quốc. Đối với nước ta, Trung Quốc không chỉ là nước
đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh hưởng Nho giáo Trung
Quốc ở Việt Nam hết sức sâu đậm. Đầu thế kỉ XX cho đến chiến tranh thế giới thứ
nhất, hầu hết các sĩ phu yêu nước, cách mạng đều xuất thân từ tầng lớp sĩ phu Nho
học. Số theo Tây học hồi đó còn rất hiếm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chưa có
các nhà lãnh đạo cách mạng xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Việc người Việt
học tập những tư tưởng này qua Trung Quốc phần nào cũng vì tác động từ những
cuộc đấu tranh của trí thức tư sản Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,
Tôn Trung Sơn,… qua cuộc vận động biến pháp, qua cách mạng Tân Hợi,… Hơn thế
nữa, cả hai nước đều sử dụng Hán tự. Chính vì những lí do đó mà tư tưởng dân chủ
tư sản qua Trung Quốc vào Việt Nam có vai trò rất lớn của Tân thư, Tân văn Trung
Quốc bấy giờ. Và theo Tân thư, Tân văn từ Trung Quốc, tư tưởng của những nhà
“khai sáng” Pháp cũng được dịch truyền vào Việt Nam một cách phổ biến.
Tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam thông qua Nhật Bản và
Trung Quốc rõ ràng đã có sự biến dạng nhất định. Bởi vì đó là cách vận dụng, cách
nhìn của phần lớn những nhà theo tư tưởng quân chủ lập hiến.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
18
Cùng với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo phong kiến, chính sách
cai trị của chính quyền thực dân, sự khao khát độc lập, tự do mãnh liệt của nhân dân
Việt Nam càng tạo điều kiện cho những nhà yêu nước nhanh chóng tiếp thu tư tưởng
dân chủ tư sản, một tư tưởng mới và tiến bộ so với Việt Nam lúc bấy giờ.
2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam
Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
Sau khi buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp về cơ
bản đã hoàn thành quá trình xâm lược toàn bộ Việt Nam. Nhưng chúng còn mất thêm
hơn mười năm liên tục, hao người, tốn của để tiến hành cuộc bình định bằng quân sự
nhằm đối phó với cuộc chiến tranh quyết liệt của ta. Đó là cuộc nổi dậy của phái chủ
chiến ở kinh thành Huế (1884), phong trào yêu nước của văn thân, sĩ phu hưởng ứng
Chiếu Cần Vương (1885-1896). Và phong trào nông dân tự phát, tiêu biểu là khởi
nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913). Và đó cũng
chính là những phong trào thể hiện sự nổ lực cuối cùng của khuynh hướng cứu nước
theo tư tưởng phong kiến.
Cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương do
Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu với hy vọng khôi phục lại chủ quyền. Tôn
Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hai lần ban Chiếu Cần Vương (13/7/1885
và 20/9/1885) nhằm kêu gọi nhân sĩ khắp nơi giúp vua cứu nước. Tầng lớp văn thân,
sĩ phu yêu nước tiến bộ hưởng ứng sôi nổi, đứng ra chiêu mộ nghĩa sĩ lập đồn trại
kháng chiến. Văn thân, sĩ phu là những người không có đặc lợi ở triều đình, cũng
không có tư gia điền sản lớn ở nông thôn nhưng họ có hệ tư tưởng yêu nước gắn với
hệ tư tưởng phong kiến. Do đó, yêu nước phải trung quân. Đó là lập trường của Nho
giáo truyền thống của phong kiến. Nhưng kể từ khi Pháp xâm lược, cùng với thái độ
của triều đình, họ đã chống lại triều đình, không còn trung với vua nữa. Họ chống lại
mệnh lệnh của vua để cùng nhân dân kháng Pháp. Khi Chiếu Cần Vương ban ra, tư
tưởng “trung quân ái quốc” của họ đã trở lại. Văn thân, sĩ phu là những người hăng
hái nhất, đứng ra lãnh đạo phong trào nhân dân “giúp vua cứu nước”.
Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt thì đâu là động lực đấu tranh? Quá trình đấu
tranh chưa chấm dứt. Có những cuộc khởi nghĩa quy mô lớn trình độ cao như: Bãi
Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê. Và như vậy, động lực “giúp vua cứu nước”
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
19
đã chuyển sang “giúp dân cứu nước”. Hay quan điểm lập trường sĩ phu, văn thân
thay đổi từ “trung quân ái quốc” sang “trung dân ái quốc”, từ lập trường giai cấp
sang lập trường dân tộc. Đây là bước chuẩn bị đầu tiên cho sự tiếp nhận tư tưởng mới
phù hợp-tư tưởng dân chủ tư sản sau này.
Phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương đã tàn lụi với sự thất
bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896). Một số thổ hào địa phương
nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tuy lúc này vẫn còn,
nhưng đã phải duy trì cuộc chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, phải
thủ hiểm trong những vùng rừng núi hẻo lánh và suy yếu dần trên con đường đi tới
tan rã. Duy chỉ có cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn hiên
ngang đương đầu với địch. Nhưng trước âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, phong trào
dần đi vào thất bại.
Khác với phong trào Cần Vương-diễn ra và thất bại khi chưa chịu tác động của
tư tưởng dân chủ tư sản, nên khi kết thúc không có mầm mống chuyển sang dân chủ
tư sản. Còn đối với phong trào nhân dân Yên Thế, thời gian tồn tại có ảnh hưởng của
dân chủ tư sản. Vì thế giai đoạn sau, phong trào này có sự dao động khi mà người
lãnh đạo Hoàng Hoa Thám có tiếp xúc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Tôn
Trung Sơn (khi Tôn Trung Sơn sang tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho Hoa kiều,
ẩn náo tạm thời vì mục đích cách mạng…). Phong trào nông dân Yên Thế cuối cùng
cũng thất bại. Song đặc điểm của nó là sự dao động, mang hơi hướng của lập trường
dân chủ tư sản. Đây là bước quá độ chuyển biến tư tưởng đầu tiên trong cách mạng
Việt Nam.
Như vậy, tất cả những phong trào chống Pháp nổ ra cuối thế kỉ XIX đều lần lượt
thất bại. Thất bại không phải vì người lãnh đạo kém nhiệt huyết, nhân dân kém anh
dũng mà do nguyên nhân chủ quan, khách quan chi phối. Đặc biệt, thất bại là do hệ
tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ đã lạc hậu, lỗi thời, mất vai trò trong lãnh đạo cách
mạng Việt Nam trong tình tình mới. Điều đó chỉ ra yêu cầu bức thiết của phong trào
yêu nước Việt Nam thời điểm này cần nhanh chóng thoát khỏi những bế tắc của thời
đại. Và quan trọng là mau chóng tìm ra một hệ tư tưởng mới chỉ đạo cho con đường
cứu nước giành độc lập tự do.
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
20
Những chuyển biến kinh tế-xã hội Việt Nam sau cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của Pháp
Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả: kinh
tế tàn tạ, chính trị ngột ngạt, các giai cấp trong xã hội phân hoá sâu sắc, đời sống
nhân dân hết sức khó khăn,… Những cơ sở kinh tế-xã hội lúc bấy giờ là nguồn gốc
tất nhiên của chế độ thực dân nửa phong kiến. Được sống độc lập, tự do là nguyện
vọng thiết tha của mọi người. Đó là những tiền đề cho cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ ở nước ta.
Trong những năm đầu thế kỉ XX, chính sách cai trị của thực dân Pháp đã tước
đoạt hết quyền tự do của nhân dân ta. Chính sách khai thác của thực dân đã làm cho
nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế nước Pháp. Những nhà máy
xí nghiệp, hãng buôn, hệ thống giao thông, hải cảng, thành thị ra đời hợp thành bộ
phận kinh tế tư bản thực dân, chỉ có tác dụng tiêu thụ hàng công nghiệp của tư bản
Pháp; vơ vét các mặt hàng nông-lâm-nghiệp để xuất khẩu và “ăn cướp có tổ chức”
tài nguyên thiên nhiên nước ta. Tính chất độc quyền của nền kinh tế thực dân đã dẫn
tới hậu quả là: quan hệ sản xuất phong kiến trong nông nghiệp được duy trì gần như
nguyên vẹn, các ngành thủ công cổ truyền đang phát triển theo hướng tích cực thì bị
bóp nghẹt, kinh tế tư bản dân tộc bị kìm hãm không sao phát triển được. Kinh tế
nước ta do đó bị kiệt quệ. Công nhân, nông dân lâm vào cảnh đói rách, bần cùng. Đời
sống của các tầng lớp khác như tiểu tư sản, dân nghèo thành thị luôn bị đe dọa.
Đó là những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nước ta đầu thế kỉ XX, gọi là nền
kinh tế thực dân nửa phong kiến.
Sự áp bức tàn bạo về chính trị và sự bóc lột nặng nề về kinh tế của thực dân
Pháp đã gây nên phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân ta, nhất là công nhân và dân
nghèo thành thị, một bộ phận trí thức yêu nước. Độc lập, tự do bấy giờ là niềm khao
khát cháy bỏng, là động lực to lớn thúc đẩy họ đấu tranh chống thực dân, phong kiến
khi có thời cơ.
Mặt khác, đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
chưa sản sinh được một giai cấp có đủ sức lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ, nhưng không vì thế mà nó bị đình đốn. Xã hội Việt Nam bấy giờ đã sản
sinh ra một lớp người thay thế ban đầu, đó là lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
21
đang trên con đường tư sản hoá. Họ phần nào nắm bắt được nguyện vọng của quần
chúng nhân dân, đứng ra đảm nhiệm vai trò của giai cấp lãnh đạo, tạo tiền đề phát
triển cho cách mạng Việt Nam.
Chính những chuyển biến về kinh tế-xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế
kỉ XX là tiền đề cho sự tiếp thu khuynh hướng mới vào Việt Nam-khuynh hướng dân
chủ tư sản, tạo sự chuyển biến tư tưởng cách mạng Việt Nam.
II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở
Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1930
II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất
1.1. Điều kiện ra đời của phong trào
Việt Nam đầu thế kỉ XX đang trong tình trạng một nước thuộc địa nửa phong
kiến. Do vậy, các khuynh hướng chính trị-tư tưởng lúc bấy giờ có gắn bó chặt chẽ với
những phong trào đấu tranh, hoặc đòi hỏi quyền dân tộc hoặc đòi quyền dân chủ. Đầu
thế kỉ XX cũng là thời gian mà khuynh hướng dân chủ tư sản chính thức đóng vai trò
to lớn trong cuộc đấu tranh đó. Các cuộc khởi nghĩa nông dân cho đến đầu thế kỉ XIX
đã hầu như bị Pháp “bình định” cơ bản, chỉ còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn còn
hoạt động, nhưng cũng không gây ra nhiều đe dọa cho chính quyền thuộc địa. Đứng
trước sự bế tắc của con đường cứu nước cũ và sự du nhập của con đường cứu nước
mới, những trí thức Nho học đã có sự nhìn nhận lại phương pháp cách mạng của
mình. Đó là những cơ sở cho sự chuyển biến tư tưởng cứu nước của Việt Nam đầu
thế kỉ XX.
Quá trình cai trị của thực dân Pháp làm cho tình hình Việt Nam có nhiều biến
đổi, đặc biệt xã hội ngày càng phân hóa. Do đó, phong trào cách mạng Việt Nam theo
khuynh hướng tư sản theo thời gian cũng có sự khác nhau về đặc điểm.
Trước hết phải thấy rằng, giai cấp tư sản Việt Nam hình thành về cơ bản không
phải do sự phát triển của sức sản xuất xã hội trong sự vận động tự thân của lịch sử
Việt Nam mà do chính quá trình xâm lược và thống trị của Pháp. Ngay từ đầu các yếu
tố tư bản ở Việt Nam đã mang tính “ngoại nhập”. Những xí nghiệp, hầm mỏ, đồn
điền, các hoạt động công-thương nghiệp ở Việt Nam, phần lớn đều bị tư sản Pháp thao
túng. Hơn thế nữa, với tính cách tư bản tài chính là ít chú trọng đầu tư hạ tầng mà chủ
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
22
yếu là sử dụng hình thức đổ vốn vào việc khai thác và bóc lột thuộc địa với phương
châm “một vốn bốn lời”, thì nền kinh tế tư bản ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ
XX què cụt hơn nhiều ở các nước tư bản công nghiệp.
Việc thực dân Pháp gán ghép chủ nghĩa tư bản một cách không đầy đủ vào Việt
Nam đã khiến cho giai cấp tư sản Việt Nam hình thành có những đặc điểm khác với tư
sản các nước phương Tây. Một đặc điểm đầu tiên là giai cấp tư sản Việt Nam hình
thành rất muộn: sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp (1897-1914).
Trước đó, tư sản Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để hình thành một
giai cấp. Do đó có thể nói giai cấp tư sản ra đời thậm chí còn sau cả sự ra đời của giai
cấp công nhân, và giai cấp công nhân Việt Nam dường như ra đời gắn với tư sản
người Pháp nhiều hơn là với tư sản người Việt. Và như vậy, giai cấp làm tiền đề quan
trọng cho sự xuất hiện, tiếp thu hệ tư tưởng tư sản tràn vào Việt Nam giai đoạn trước
chiến tranh thế giới thứ nhất chưa có. Nhưng điều đó cũng không quyết định sự
chuyển biến tư tưởng trong cách mạng Việt Nam. Cụ thể là Phan Bội châu, Phan Châu
Trinh,… bản thân không phải là tư sản mà vẫn tiếp thu được tư tưởng dân chủ tư sản,
thành lập các tổ chức lãnh đạo và phát động phong trào đấu tranh theo tư tưởng tưởng
mới.
Bên cạnh đó, quá trình cai trị của Pháp làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội
Việt Nam. Hàng loạt các thành phố theo kiểu phương Tây ra đời. Cùng với nó đã tạo
ra một bộ phận thị dân. Thị dân là những người sống ở các thành thị, gồm không phải
chỉ là một giai cấp nhất định, mà có thể là giới thương nhân, công nhân, học sinh,
viên chức,… Những thị dân này, một mặt có nhu cầu và điều kiện về sinh hoạt văn
hóa, tư tưởng; mặt khác họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng mới. Họ cũng là lớp
người có tư tưởng cởi mở nhất, có thể thường xuyên giao tiếp với nhau và giao tiếp
với những người đến từ các nước khác nên rất nhanh chóng tiếp thu với những thông
tin, tri thức mới…Vậy nên, bộ phận thị dân chính là nơi du nhập đầu tiên các luồng tư
tưởng tiến bộ nói chung, trong đó có tư tưởng dân chủ tư sản. Họ là lực lượng quan
trọng cho khuynh hướng đấu tranh mới và là thành phần có thể giác ngộ đông đảo
quần chúng nhân dân trong buổi giao thời.
Thị dân cũng có mâu thuẫn với chính quyền thuộc địa về chính trị. Tuy nhiên, họ
đa phần tư tưởng còn phân tán, chưa qua trải nghiệm đấu tranh. Thế nên, họ chưa thể
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
23
đóng vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo phong trào bấy giờ là các sĩ phu Nho học, những tri
thức đang trong quá trình tư sản hóa. Lực lượng này có gắn bó thiết tha với sự nghiệp
cách mạng trước đó, những người tiếp nối trực tiếp phong trào vũ trang kháng Pháp
cuối thế kỉ XIX, mà lúc bấy giờ không có lực lượng nào khác đủ điều kiện thay thế.
Họ hình thành nên các nhóm chính trị, đề ra tôn chỉ, mục đích để vận động cách mạng
với nhiều hình thức phong phú lôi kéo quần chúng tham gia.
Những điều kiện nói trên, đặc biệt về giai cấp lãnh đạo sẽ quyết định rất nhiều tới
đặc điểm của khuynh hướng chính trị-tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ
XX.
1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản trước chiến
tranh thế giới thứ nhất
1.2.a. Phong trào Đông Du
Đây là cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản do
Phan Bội Châu khởi xướng.
Phan Bội Châu xuất thân là một tri thức Nho học. Ông lớn lên có sự gắn bó mật
thiết với các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến trước đó. Lúc nhỏ, ông
thường cùng bạn bè chơi trò “bình Tây”. Khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất (1883),
ông thảo hịch “Bình Tây thu bắc” để kêu gọi nhân dân chống Pháp. Năm 1885, hưởng
ứng chiếu Cần Vương, ông lập “Đội Thí sinh quân”. “Tiếp đó là mười năm dạy học,
mở rộng giao du, tìm những người đồng tâm, đồng chí bí mật liên lạc với các dư đảng
Cần Vương…”5
Trong buổi giao thời, tư tưởng dân chủ tư sản bên ngoài dội vào ngày càng
nhiều. Trong đó, gương tự cường của Nhật Bản theo chủ nghĩa dân chủ tư sản có sức
hấp dẫn lớn đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ. Nó giúp cho các sĩ phu khắc phục
nhanh chóng sự luyến tiếc chế độ phong kiến, cung cấp cho họ nhiều kiến thức mới về
tư tưởng chính trị và truyền cho họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Cả châu Á xuất
hiện phong trào “Châu Á bừng tỉnh”. Lúc này bất luận là cách mạng Ba Tư, Thổ Nhĩ
Kỳ, Trung Quốc hay là cuộc đấu tranh chống Anh của Ấn Độ do Tilak lãnh đạo đều
5
Nguyễn Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư
phạm., 151
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
24
mang tính quần chúng rộng rãi và thêm vào đó tính chất mới-tính chất tư sản. Điều
đáng nói ở đây là sự vùng lên của phong trào “Châu Á bừng tỉnh” đều có ảnh hưởng ít
nhiều từ phong trào Minh Trị Duy Tân (1868). Thành công của nước Nhật trên con
đường cải cách và công nghiệp hóa sau Minh Trị Duy Tân, rồi chiến thắng trong cuộc
chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), đã cổ vũ các dân tộc phương Đông về khả năng
khắc phục tình trạng lạc hậu và khả năng phục hưng của mỗi nước. Phan Bội Châu và
một số sĩ phu cấp tiến Việt Nam mở đường Đông Du bởi sự thôi thúc và hấp dẫn của
tấm gương phục hưng tự cường từ nước “đồng chủng, đồng văn” này.
Tháng 1 năm 1905, một số sĩ phu Việt Nam do Phan Bội Châu đứng đầu sang
Nhật cầu viện. Nhưng Nhật từ chối giúp đỡ viện trợ quân sự cho Việt Nam. Điều này
cũng dễ hiểu. Muốn có độc lập tự do thì không thể trông chờ vào người khác được,
huống chi bản thân Nhật là một nước đế quốc. Luận thuyết đồng chủng, đồng văn của
chúng chẳng qua là một trò bịp bợm. Chủ nghĩa đế quốc “hút máu người” thì không
kể đó là cùng màu da hay chủng tộc. Đế quốc làm gì đều có sự tính toán. Nếu họ có
đem quân giúp đỡ nước ta thì nhất định sẽ mang theo âm mưu nào đó, thậm chí đó là
một mối hiểm họa mới mà chính ta rước vào. Từ đó, Phan Bội Châu nhận ra vấn đề
quan trọng muốn giải phóng dân tộc là phải xây dựng thực lực của chính mình. Việc
cầu viện quân sự từ đây đã biến thành xuất dương du học.
Mặc dù Nhật không giúp Việt Nam quân sự nhưng hứa giúp du học sinh Việt
Nam ăn học. Từ năm 1906, phong trào Đông Du đi vào hoạt động ngày càng rầm rộ
trên cả ba miền đất nước. Hàng loạt tác phẩm của Phan Bội Châu được dịch từ chữ
Hán ra chữ Quốc ngữ, gửi về nước. Những năm 1907 - 1908 là thời kì phong trào
Đông Du phát triển mạnh nhất. “Năm 1908, số du học sinh lên tới 200 người, trong
đó có hơn 100 người quê ở Nam Kì, 50 người quê ở Bắc Kì, và 40 người quê ở Trung
kì” 6
.
Chương trình học tập ở đây khá đa dạng, chủ yếu là học tri thức phổ thông và tri
thức quân sự. Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông lập ra Hội Việt Nam Công
Hiến (10/1907). Hội chú trọng tổ chức những buổi sinh hoạt chính trị giúp học sinh
rèn luyện tư tưởng, đạo đức cách mạng. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành
hoạt động ở đây giống như một chính phủ lâm thời.
6
Nguyễn Khánh Toàn (2004), Lịch sử Việt Nam, tập II (1958-1945), Nxb Khoa học xã hội, 144
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
25
Cũng chính vào lúc này, Pháp nhận thấy sự phát triển của phong trào Đông Du
ngày càng gây bất lợi cho chúng. Pháp-Nhật câu kết nhau đàn áp cách mạng Việt
Nam. Tháng 9 năm 1908, Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam,
đuổi học sinh ra ngoài nước Nhật. Phía Pháp ở Việt Nam bắt buộc các phụ huynh có
con em du học tại Nhật phải viết thư gọi về, nhiều người còn bị bắt giam. Tháng 2
năm 1909, Phan Bội Châu và Cường Để cũng bị trục xuất khỏi Nhật.
Có thể khẳng định, Đông Du là hoạt động đầu tiên chống chủ nghĩa thực dân trên
nền tảng duy tân, đổi mới. Đây là một cuộc đổi mới từ tư duy yêu nước, cứu nước
truyền thống là bạo động để khôi phục độc lập dân tộc đã chuyển sang tư duy cải
cách, đề cao việc học tập tiến bộ. Xuất dương cầu học là một quyết định mang tính đột
phá, thay đổi hướng đi và phương pháp đấu tranh, mở cửa hướng ra bên ngoài để học
hỏi, tiếp nhận những cái mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Phan Bội
Châu, chính là con người với hoài bão cách tân, đứng trước bế tắc của lịch sử dân tộc
đã cố gắng đi tìm lời giải đáp: tự cường để cứu nước. Xuất phát điểm của Phan Bội
Châu chính là lòng yêu nước, thương dân-nền tảng vĩ đại đưa ông suốt cuộc đời phấn
đấu cho sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng “vọng ngoại” của Phan Bội Châu cũng là
một hình thức thể hiện của chủ nghĩa yêu nước chân chính và của tư tưởng duy tân tự
cường.
Mục tiêu của phong trào là muốn tìm một thế lực mạnh bên ngoài có thể giúp
Việt Nam chống lại Pháp để giành độc lập và sau đó phát triển đất nước giàu mạnh.
Chủ trương Đông Du từ cầu viện quân sự chuyển thành xuất dương cầu học. Đây là
một sự chuyển đổi hợp lý, có sức thuyết phục và có thể chuyển thành một phong trào
yêu nước được nhiều người hưởng ứng. So với phong trào duy tân ở Nhật Bản, con
đường canh tân ở Việt Nam có cả những điểm tương đồng và khác biệt. Cả hai nước
đều nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập khoa học kĩ thuật từ bên ngoài. Ở
Nhật có phong trào “Hà Lan học” thì ở Việt Nam có trào lưu canh tân đất nước của
Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… vào cuối thế kỷ XIX và phong trào Đông
Du, Duy Tân đầu thế kỷ XX. Chỉ có điều phong trào duy tân ở Nhật Bản được tiến
hành sau khi đã xóa bỏ sự tồn tại của chính quyền phong kiến Mạc Phủ, còn phong
trào duy tân ở Việt Nam được thực thi trong điều kiện chế độ phong kiến đang còn tồn
tại và đất nước đang nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Kết quả khác nhau là
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
26
điều dễ thấy. Tuy vậy, sự thức tỉnh ở Việt Nam được xem là khởi đểm cho những
chuyển biến mạnh mẽ trong thời gian tiếp theo.
Sự thực, hiện tượng Đông Du trên đất Nhật Bản đầu thế kỉ XX đã tác động sâu
sắc đến tư tưởng và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Thông qua hoạt
động của phong trào đã hình thành một nguồn lực quan trọng, làm phong phú nội lực
cho đất nước, tạo tiền đề phát huy nội lực trong tương lai. Không chỉ là một phong
trào xuất dương cầu học đơn thuần, đây còn là một phong trào chính trị, cách mạng, là
một trường rèn luyện cách mạng cho thanh niên Việt Nam. Thực tế lịch sử cho thấy,
phong trào đã đào tạo được một số cán bộ cách mạng cung cấp cho phong trào yêu
nước ở Việt Nam trong thế kỉ XX như Đặng Tử Mẫn, Lương Ngọc Quyến, Lương Nhị
Khanh, … và nhiều gương mặt thanh niên ưu tú khác.
Phong trào Đông Du đã góp phần làm phá sản chính sách ngu dân của thực dân
Pháp. Đông Du cùng những hoạt động sôi nổi, những tác phẩm tràn đầy nhiệt huyết
của Phan Bội Châu kết hợp với phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục ở trong
nước đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng và hình thái đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam từ hệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng
dân chủ tư sản. Như vậy, tầm nhìn của phong trào Đông Du rất xa và rộng, chỉ có điều
hoàn cảnh chính trị-xã hội đương thời không cho phép phong trào đến cái đích thành
công. Hoạt động của phong trào đã kích động, mở đường cho những người có tư
tưởng canh tân thực hiện chấn hưng đất nước sau này.
Những bài học lịch sử của phong trào Đông Du để lại rất có ý nghĩa. Đông Du
chỉ ra rằng không thể trông chờ vào đế quốc để chống đế quốc, mà phải biết tự “đem
sức ta mà giải phóng cho ta”. Điều đáng ghi nhận và đánh giá cao là Phan Bội Châu
cùng các đồng chí của ông đã thấy rõ không có bạo lực cách mạng thì không thể thắng
được kẻ thù. Dù chọn con đường bạo động vũ trang để giành độc lập dân tộc, những
nhà cách mạng Đông Du không hề coi nhẹ việc nâng cao dân trí, tuyên truyền giáo
dục và thức tỉnh quốc dân đồng bào.
Phong trào Đông Du đầu thế kỉ XX còn cho thấy, trong thời cận-hiện đại của lịch
sử Việt Nam để cứu nước, để phát triển xã hội, những nhà ái quốc không thể tự giam
mình trong phạm vi quốc gia mà phải tiếp cận với thế giới, phải tiếp xúc và giao lưu
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
27
bên ngoài. Từ đó có thể hiểu mình, hiểu người, hiểu rõ thực trạng đất nước, tìm ra giải
pháp đúng cho quá trình giải phóng dân tộc.
1.2.b. Phong trào Duy Tân
Phong trào Duy Tân diễn ra vào khoảng những năm 1906-1908 do một số sĩ phu
tiến bộ khởi xướng như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng,…
Phong trào Duy Tân là một biện pháp cách mạng điển hình đầu thế kỉ XX song song
tồn tại cùng tư tưởng bạo động vũ trang của Phan Bội Châu. Đại diện tiêu biểu cho xu
hướng cải cách lúc bấy giờ là Phan Châu Trinh.
Phan Châu Trinh (1872-1926) là một sĩ phu tư sản hóa. Ông đỗ Phó bảng năm
1901, không ra làm quan, lại sống ở một vùng giao thương với nước ngoài phát triển
là Quảng Nam-Đà Nẵng. Phan Châu Trinh không những chịu ảnh hưởng của tư tưởng
Nguyễn Lộ Trạch mà còn sớm tiếp xúc Tân thư, Tân văn nói về tư tưởng của nhiều
nhà dân chủ tư sản Pháp, Trung Quốc. Tháng 8 năm 1906, Phan Châu Trinh viết thư
gửi Toàn quyền Pôn Bô thể hiện tư tưởng của mình và lập tức trở thành thủ lĩnh của
xu hướng cải cách trong cả nước.
Phong trào Duy Tân nhằm vào cải cách đất nước về văn hóa, xã hội gắn liền với
việc động viên lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị thực dân.
Nếu như Phan Bội Châu chủ trương cầu viện để “bài Pháp” thì Phan Châu Trinh lại
“ỷ Pháp cầu tiến bộ”. Về đường lối cứu nước, Phan Châu Trinh chưa đặt việc khôi
phục chủ quyền quốc gia thành nhiệm vụ trước mắt. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn
phản đối việc dùng vũ lực để giành lại độc lập cũng như cầu viện bên ngoài: bất bạo
động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu. Ông chủ trương yêu cầu
chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị để có thể giúp nhân dân Việt Nam
từng bước tiến đến văn minh. Ông kịch liệt lên án bọn vua quan phong kiến hủ bại và
đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với yêu cầu: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh”. Phan Châu Trinh cho đây chính là những điều kiện để tiến tới giải phóng dân
tộc. Nhưng Phan Châu Trinh cũng như các sĩ phu cải cách không ai nghĩ tới một đảng
chính trị trong quá trình hoạt động. Điều này đã phần nào quyết định tính cách và
bước đi của xu hướng này.
Để thực hiện tư tưởng của mình, Phan Châu Trinh hô hào mở mang trường học,
phát triển công thương, cải cách phong tục lạc hậu, chống lề lối phong kiến cổ hủ,…
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
28
Chủ trương của ông được nhiều sĩ phu yêu nước hưởng ứng, phát triển nhanh chóng
rộng khắp cả nước trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… với nhiều hoạt
động rất đa dạng.
Trước hết ở Trung Kì từ 1906 đến 1908, Phan Châu Trinh trực tiếp lãnh đạo
phong trào Duy Tân và phong trào chống thuế. Để cổ vũ cho lối học thực nghiệp, từ
năm 1906, Phan Châu Trinh cho thành lập nhiều trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp,
văn hóa kĩ thuật. Các sĩ phu cải cách cũng rất chú trọng phát triển kinh tế, lập ra các
hội buôn lớn như: Hội An, Phan Thiết, Liên Thanh thương quán,… kinh doanh hàng
dệt vải, lâm sản, nông sản, hải sản,… giao thương với cả nước ngoài. Hoạt động sôi
nổi hơn cả là trên lĩnh vực tư tưởng, sinh hoạt với khẩu hiệu để răng trắng, cắt tóc
ngắn, ăn mặc theo kiểu mới,… Ở nông thôn nổi lên phong trào chống thuế của nông
dân. Đến đây phong trào đã vượt khỏi sự kiểm soát của các sĩ phu cải cách. Thực dân
Pháp lợi dụng sự kiện này thẳng tay đàn áp phong trào Duy Tân. Một số sĩ phu bị
chém như Trần Quý Cáp, Lê Khiết và hàng chục người bị án lưu đày ở Côn Đảo như
Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế,…
Ở Bắc Kì, đáng chú là sự ra đời của Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội. Ở đây,
Lương Văn Can, Nguyễn Quyền được sự ủng hộ của nhiều trí thức tiến bộ, đã mở
trường tư thục năm 1907 học theo kinh nghiệm của Nhật Bản. Nội dung dạy học theo
lối mới, chú trọng khoa học tự nhiên, học bằng chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp văn. Thầy
dạy là những nhân vật nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Dương
Bá Trạc,… Số học sinh lên tới hàng ngàn người. Nhà trường thường cho học sinh đi
ngoại khóa, tham gia các cuộc bình giảng thơ văn, nói chuyện với dân chúng. Trường
ngay từ lúc đầu đã dịch và biên soạn nhiều sách. Có những cuốn đã trở thành những
tác phẩm đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ in ở Hà Nội như Nam Quốc Giai Sử, Việt Nam
Quốc Sử Lược, Nam Quốc Địa Cư,… đặc biệt đã xuất hiện một số tác phẩm tả
khuynh như Tiếng cuốc kêu, Bài ca vận động lính tập,… Vì lo sợ, tháng 11 năm 1907,
thực dân Pháp đã cho đóng cửa trường này.
Phong trào Duy Tân ở Nam Kì diễn ra có vẻ ít rầm rộ hơn với cái tên cuộc Minh
Tân, tập trung vào những hoạt động kinh tế. Cùng với Sài Gòn, nhiều tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ,… đã mọc lên các khách
sạn (Nam Trung ở Sài Gòn, Minh Tân ở Mỹ Tho…), các cơ sở công nghệ (dệt, xà
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
29
phòng, may mặc…), các hội tương tế và đặc biệt một số công ty như Minh Tân công
nghệ xã, Nam Kì thương cuộc,… Phong trào Duy Tân ở đây cũng lắng xuống từ cuối
năm 1908, sau phong trào chống thuế do Pháp tiến hành đàn áp.
Phong trào Duy Tân cuối cùng đã thất bại. Đó cũng là sự thất bại chung của xu
hướng cải cách đầu thế kỉ XX. Nguyên nhân thất bại lớn nhất là tách rời hay đúng hơn
là đã chống lại biện pháp bạo động cứu nước. Phan Châu Trinh cũng không tán thành
cầu viện nước ngoài. Bài xích phương pháp đấu tranh vũ trang, Phan Châu Trinh đã tự
tách mình ra khỏi sức mạnh truyền thống lâu đời của ông cha trong đấu tranh chống
ngoại xâm đó là vũ trang khởi nghĩa. Tư tưởng cải cách đơn thuần không đặt vấn đề
bạo động của Phan Châu Trinh đã dẫn ông tới chỗ hoàn toàn loại trừ vấn đề đánh đuổi
người Pháp, ngược lại còn đặt vấn đề dựa vào Pháp để chống phong kiến. Nhưng
chống phong kiến chỉ dừng lại ở việc lên án quan lại hủ bại chứ chưa đụng đến toàn
bộ cơ cấu của nó. Như vậy chủ trương chống phong kiến của Phan Châu Trinh về cơ
bản còn đứng trên lập trường Nho giáo.
Do hạn chế nhãn quan chính trị, coi chủ nghĩa đế quốc cũng là chủ nghĩa tư bản,
mà chủ nghĩa tư bản thì tiến bộ hơn phương thức sản xuất phong kiến, nên Phan Châu
Trinh chủ trương tạm thời dựa vào đế quốc để chống phong kiến, giành lại chủ quyền,
sau đó sẽ đánh đổ đế quốc giành lại độc lập dân tộc. Điểm xuất phát trên đây của Phan
Châu Trinh là nhận thức sai lầm về bản chất của các cường quốc tư bản Âu, Mĩ, do
quá tin vào truyền thống tốt đẹp của nền dân chủ tư sản phương Tây. Mặt khác, Phan
Châu Trinh còn phê phán, đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém để từ đó không
tin vào khả năng cách mạng của nhân dân.
Thực dân và phong kiến đã câu kết chặt chẽ với nhau thì chủ trương dựa vào
Pháp để chống phong kiến của Phan Châu Trinh không chỉ là một ảo tưởng, mà còn là
một sai lầm nghiêm trọng, làm chệch mục tiêu đấu tranh của quần chúng lúc này, đó
là phải mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp.
Mặc dù chủ trương cứu nước của Phan Châu Trinh còn nhiều hạn chế về mặt lịch
sử, nhưng ông vẫn là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam trong những
năm đầu thế kỉ XX. Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước nhiệt thành, đã có những
đóng góp tích cực vào việc khơi dậy tư tưởng dân chủ, mở ra cách nhìn mới về vấn đề
dân tộc, dân chủ. Trong hoàn cảnh một xứ thuộc địa, xu hướng cải cách khi có điều
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
30
kiện thâm nhập vào quần chúng sẽ nhanh chóng biến thành bạo động, hoặc không
tránh khỏi dẫn tới vũ trang bạo động. Việc cổ động thực nghiệp, bài trừ hủ tục phong
kiến đã xen lẫn vận động binh lính chống Pháp. Đó là tiền đề dẫn đến các cuộc đấu
tranh chống đi phu, chống thuế điển hình là phong trào năm 1908.
1.2.c. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục
Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là “điểm sáng” thu hút nhiều chí sĩ
nhiều nước Châu Á đến học tập để duy tân đất nước. Đặc biệt mở trường học kiểu Tây
như Khánh Ứng nghĩa thục của Nhật Bản là hình thức rất được nhiều nước chú ý học
hỏi. Năm 1906, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tham quan Khánh Ứng nghĩa thục
tại Đông Kinh. Cuối năm 1906, trong một cuộc họp tại Bắc Ninh đã quyết định thành
lập tại Hà Nội Đông Kinh nghĩa thục. Tháng 3 năm 1907, một nhóm sĩ phu cùng chí
hướng đứng đầu là Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đứng ra thành lập Đông Kinh
nghĩa thục ở Hà Nội. Mục đích của trường là :
- Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho quần chúng.
- Truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ.
- Phối hợp hành động với các sĩ phu đã xuất dương và hỗ trợ cho phong trào
Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân đang phát triển trong cả
nước7
Thực chất, Đông Kinh nghĩa thục là một tổ chức cách mạng dùng hình thức mở
trường học, tuyên truyền văn hóa để đào tạo nhân tài, tập hợp lực lượng yêu nước và
là trung tâm của phong trào vận động văn hóa mang tính chất dân tộc, dân chủ. Do
tính chất vận động của văn hóa nên hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục phổ biến ở
thành thị là chủ yếu.
Nội dung hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục rất phong phú trên các lĩnh vực
văn hóa-giáo dục, tư tưởng, xã hội, kinh tế. Đông Kinh nghĩa thục đả kích nền giáo
dục phong kiến cũng như hậu quả của nền giáo dục ngu dân của chính quyền thực dân
không có ý nghĩa mở mang văn hóa, văn minh cho dân tộc. Đông Kinh nghĩa thục phê
phán nền giáo dục phong kiến xa rời thực tế, xem sách thánh hiền là đỉnh cao của trí
tuệ. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, là người quân tử, là
bậc trượng phu, hoàn toàn khác với những người bình dân, là thành phần đông đảo
7
. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2005), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 160
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
31
nhất trong xã hội. Nội dung chương trình học gồm các môn lịch sử, địa lý, khoa học
thường thức dạy chủ yếu bằng chữ Quốc ngữ có kèm chữ Hán và Pháp văn. Trường
còn đẩy mạnh biên soạn sách báo lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Đông Kinh nghĩa
thục vận động học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan, phê phán những nhà nho thủ
cựu, đả kích quan lại tham ô, cổ vũ lòng yêu nước, kết đoàn,… đánh thẳng vào hệ tư
tưởng phong kiến, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp trên mặt trận văn
hóa-tư tưởng. Về kinh tế, Đông Kinh nghĩa thục hô hào lập các hội buôn, nhằm tạo
thêm nguồn tài chính cho trường hoạt động. Phong trào văn hóa của Đông Kinh nghĩa
thục ngày càng phát triển mạnh. Số người quyên tiền ủng hộ và hưởng ứng Đông Kinh
nghĩa thục ngày càng đông. Nhiều chi nhánh được thành lập như Mai Lâm nghĩa thục,
Ngọc Xuyên nghĩa thục,…
Để thu hút lực lượng cho mình, trường còn chủ trương người học không cần
đóng học phí, lại còn được cấp giấy, bút, sách vở. Nhà trường có thư viện, kí túc xá,
có lớp học ban ngày và buổi tối. Việc tổ chức của trường tạo điều kiện thuận lợi cho
nhiều người theo học.
Thời gian đầu, thực dân Pháp phần nào có ngộ nhận về tính chất của Đông Kinh
nghĩa thục bởi sự hoạt động công khai, hợp pháp của nó. Nhưng rồi phạm vi hoạt
động ngày càng lan rộng, ảnh hưởng trong nhân dân càng lớn, thực tế phong trào đã
khơi dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết yêu nước sôi nổi. Đông Kinh nghĩa thục trở
thành nguy cơ lớn đối với thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính vì vậy, cuối năm 1907,
thực dân Pháp bắt đầu bắt đóng cửa trường. Năm 1908, pháp bắt các sĩ phu Đông
Kinh nghĩa thục trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc,… tịch
thu và cấm lưu hành tài liệu của trường.
Mặc dù chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn, nhưng những gì mà Đông Kinh
nghĩa thục làm được là rất lớn. Đó chính là xây dựng lực lượng vật chất trong các
phong trào quần chúng, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho sự nghiệp đấu tranh cách
mạng trong thời đại mới. Đông Kinh nghĩa thục đã xây dựng được một phong trào
cách mạng công khai hợp pháp khá sôi nổi trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng theo
khuynh hướng dân chủ tư sản. Đông Kinh nghĩa thục còn có tác dụng khơi dậy tinh
thần dân tộc, ý thức đấu tranh, lòng yêu nước góp phần chuẩn bị cho bạo động vũ
trang. Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục thường được kết hợp với hoạt
Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149
Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149
32
động của phong trào Đông Du và Duy Tân, phát triển thành cuộc cách mạng rộng lớn
trong cả nước, lôi cuốn đông đảo lực lượng tham gia.
Ngoài việc cống hiến lớn cho việc tuyên truyền cổ động cách mạng, phong trào
Đông Kinh nghĩa thục còn góp phần tích cực vào phát triển ngôn ngữ, văn tự và văn
hóa dân tộc. Phong trào đã đặt nền tảng cho một nền học thuật mới và một nếp sống
văn minh tiến bộ ở Việt Nam. Mặc dù kiến thức giảng dạy còn sơ sài nhưng rất thiết
thực với nhân dân, với sự phát triển đất nước hiện tại. Lần đầu tiên, một tư tưởng mới
xuất hiện phê phán kịch liệt tư tưởng phong kiến Nho giáo lỗi thời cùng những tệ nạn
xấu xa của xã hội thực dân. Những tư tưởng mới này dù khởi đầu chưa thể là một hệ
thống lý luận hoàn chỉnh, nhưng đã phần nào đáp ứng được nguyện vọng của quần
chúng bị áp bức, bóc lột đang phải sống bần cùng, tăm tối dưới chế độ thực dân phong
kiến. Không những thế, Đông Kinh nghĩa thục với những hoạt động tuyên truyền chấn
hưng thực nghiệp và kinh doanh của mình đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư sản
dân tộc trong quá trình hình thành thiếu cơ sở.
Nhìn chung, Đông Kinh nghĩa thục dù thất bại nhưng tác dụng của nó rõ ràng
không nhỏ. Nó góp phần chuẩn bị về mặt tinh thần cho các phong trào đấu tranh rộng
lớn hơn sau đó. Những kinh nghiệm hoạt động phong phú của Đông Kinh nghĩa thục
sẽ được các phong trào yêu nước giai đoạn sau kế thừa và phát huy, làm phong phú
thêm nội dung, phương pháp đấu tranh cho cách mạng Việt Nam.
1.2.d. Phong trào Việt Nam Quang Phục hội
Sau khi phong trào Đông Du tan rã, những người trong Duy Tân hội bị trục xuất
khỏi Nhật Bản, một số ở lại lén lút hoạt động chờ thời. Ở trong nước, tình thế cũng
không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Những người hoạt động trong Duy Tân hội bị
thực dân Pháp lùng bắt, sát hại. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế được xem là cuộc khởi
nghĩa có chiều sâu, là cơ sở quần chúng cho Duy Tân hội cũng gặp nhiều khó khăn do
Pháp tiến hành bao vây, cô lập.
Lúc bấy giờ, Xiêm là quốc gia Châu Á có tiếng độc lập tuy không có thực quyền.
Nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ đem đến cho nhiều chí sĩ yêu nước của Duy Tân hội
lòng ngưỡng mộ trong khi ngoài Nhật Bản và Xiêm thì các nước châu Á khác đương
thời không tránh khỏi số phận thuộc địa của các nước đế quốc. Xiêm bấy giờ đặc biệt
thu hút sự chuyển sang hoạt động của một số người trong tổ chức Duy Tân hội trong
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc
Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc

More Related Content

Similar to Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc

de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.doc
de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.docde_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.doc
de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.dochongxuan1987
 
Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn
 Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn
Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩnThích Hô Hấp
 
Dc on tap_lich_su_dang
Dc on tap_lich_su_dangDc on tap_lich_su_dang
Dc on tap_lich_su_dangautumnlovehn
 
Cuong linh-chinh-tri-dau-tien
Cuong linh-chinh-tri-dau-tienCuong linh-chinh-tri-dau-tien
Cuong linh-chinh-tri-dau-tienkysucongtrinh
 
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2Vinh Xuân
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt namhanghpu
 
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...Ho Quang Thanh
 
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_namYkazu
 
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookboomingbookbooming
 
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt namNhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt namthaothao thaonguyen
 
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)Ku Meo
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02Đôn Vũ
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02Đôn Vũ
 
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảngBài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảngquachduong_khang
 
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcQuan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcFørgët Løvë
 
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VNBộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VNVuKirikou
 
8. triết học việt nam
8. triết học việt nam8. triết học việt nam
8. triết học việt namQuang Tang Le
 

Similar to Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc (20)

de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.doc
de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.docde_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.doc
de_cuong_tuyen_truyen_ky_niem_88_nam_thanh_lap_dang.doc
 
Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn
 Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn
Câu hỏi ôn thi đường lối - có đáp án chuẩn
 
Dc on tap_lich_su_dang
Dc on tap_lich_su_dangDc on tap_lich_su_dang
Dc on tap_lich_su_dang
 
Cuong linh-chinh-tri-dau-tien
Cuong linh-chinh-tri-dau-tienCuong linh-chinh-tri-dau-tien
Cuong linh-chinh-tri-dau-tien
 
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
De cuong bai giang mon duong loi cach mang cua dang cong san viet nam 2
 
Thi
ThiThi
Thi
 
20 cau
20 cau20 cau
20 cau
 
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
20 câu hỏi ôn tập môn đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam
 
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ & DÂ...
 
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam
20 cau hoi_on_tap_mon_duong_loi_cach_mang_cua_dang_cong_san_viet_nam
 
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
[đườNg lối] 20 câu hỏi ôn tập (kèm đáp án) bookbooming
 
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt namNhóm 1  tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
Nhóm 1 tuần 1 - lịch sử đcs việt nam
 
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)
Đường lối CM Đảng Cộng Sản Việt Nam_Đề cương và đáp án (phần 1)
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
 
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp0220cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
20cuhintpmnnglicchmngcangcngsnvitnam 120807193754-phpapp02
 
TIỂU LUẬN VỀ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH [XUẤT SẮC].doc
TIỂU LUẬN VỀ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH [XUẤT SẮC].docTIỂU LUẬN VỀ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH [XUẤT SẮC].doc
TIỂU LUẬN VỀ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH [XUẤT SẮC].doc
 
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảngBài thu hoạch lớp cảm tình đảng
Bài thu hoạch lớp cảm tình đảng
 
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộcQuan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
Quan điểm sáng tạo của hồ chí minh về cách mạng giải phóng dân tộc
 
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VNBộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
Bộ câu hỏi về phong trào yêu nước ở VN
 
8. triết học việt nam
8. triết học việt nam8. triết học việt nam
8. triết học việt nam
 

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍

More from Dịch vụ viết thuê đề tài trọn gói ☎☎☎ Liên hệ ZALO/TELE: 0973.287.149 👍👍 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docxDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn An Ninh Mạng, Hay Nhất.docx
 
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
171 Đề Tài Luận Văn Du Lịch Tâm Linh, Từ Trường Đại Học.docx
 
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
195 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Sư Phạm Mầm Non, Mới Nhất.docx
 
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
171 Đề Tài Luận Văn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ, Điểm Cao.docx
 
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docxXem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
Xem Ngay 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thành Ngữ, 9 Điểm.docx
 
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docxCombo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
Combo 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Về Thừa Kế, Tuyển Chọn 10 Điểm.docx
 
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
180 Đề Tài Luận Văn Nghiên Cứu Khoa Học, Hay Nhất.docx
 
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
200 Đề Tài Luận Văn Phát Triển Du Lịch Cộng Đồng, Từ Sinh Viên Giỏi.docx
 
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docxTuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
Tuyển Chọn 201 Đề Tài Luận Văn Dịch Vụ Công, 9 Điểm.docx
 
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docxList 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
List 200 Đề Tài Khóa Luận Tốt Nghiệp Ngành Mầm Non, 9 Điểm.docx
 
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docxTuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
Tuyển Chọn 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Về An Ninh Mạng, Mới Nhất.docx
 
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docxCƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU.docx
 
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docxTải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
Tải Free Tiểu luận về công ty đa quốc gia 9 điểm.docx
 
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.docDOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
DOWNLOAD FREE - Tiểu luận về bảo hiểm y tế.doc
 
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.docTải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
Tải miễn phí - TIỂU LUẬN VỀ KINH TẾ HỌC 9 điểm.doc
 
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.docTiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
Tiểu luận về kỹ năng giao tiếp của sinh viên 9 điểm.doc
 
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docxTải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
Tải miễn phí - Tiểu luận về ngân hàng thương mại.docx
 
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.docTIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
TIỂU LUẬN MÔN QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG 9 điểm.doc
 
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.docTiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
Tiểu luận chế định thừa kế trong bộ luật dân sự.doc
 
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.docTiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
Tiểu luận về nền văn hóa bản sắc dân tộc Việt Nam.doc
 

Recently uploaded

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt NamĐào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptxsongtoan982017
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh Anlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxGingvin36HC
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareHuyBo25
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
XÂY DỰNG KẾ HOẠCH KINH DOANH CHO CÔNG TY KHÁCH SẠN SÀI GÒN CENTER ĐẾN NĂM 2025
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt NamĐào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển viên chức Đài Truyền hình Việt Nam
 
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
4.NGÂN HÀNG KĨ THUẬT SỐ-slide CHƯƠNG 3.pptx
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh AnPhân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
Phân tích báo cáo tài chính tại công ty TNHH xây dựng và thương mại Thịnh An
 
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptxVẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
VẤN ĐỀ 12 VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ.pptx
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
Tăng trưởng tín dụng khách hàng cá nhân tại Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Công...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshareTẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
Tẩy trắng răng - dental bleaching slideshare
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 11 - CÁN...
 
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌCLuận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
Luận Văn: HOÀNG TỬ BÉ TỪ GÓC NHÌN CẢI BIÊN HỌC
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Tải Free TIỂU LUẬN VỀ LỊCH SỬ VIỆT NAM 9 điểm.doc

  • 1. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 1 MỤC LỤC Trang Phần mở đầu 02 Phần nội dung I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 04 I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 04 1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam 04 1.2. Tình hình trong nước 07 I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam 14 2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản 14 2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam 15 2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam 17 II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ ... 21 II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất 21 1.1. Điều kiện ra đời của phong trào 21 1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ … 23 1.3. Đặc điểm của các phong trào … 35 II.2. Phong trào cách mạng sau chiến tranh thế giới thứ nhất 37 2.1. Điều kiện ra đời và phát triển của các phong trào 37 2.2. Nội dung của các phong trào yêu nước dân chủ sau chiến tranh … 42 2.2.a. Phong trào ở nước ngoài 2.2.b. Phong trào đấu tranh trong nước 2.3. Đặc điểm của các phong trào dân chủ sau chiến tranh thế giới … 49 II.4. Nguyên nhân thất bại của các phong trào theo khuynh… 50 II.5. Vị trí của khuynh hướng dân chủ tư sản trong cuộc … 55 Kết Luận 58 Tài liệu tham khảo 60
  • 2. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 2 PHẦN MỞ ĐẦU Nghiên cứu lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cận đại, một trong những vấn đề quan trọng là việc nhìn nhận, đánh giá vị trí và vai trò của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự tồn tại của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam nằm trong quy luật vận động của lịch sử. Nó tồn tại là tất yếu và sự thất bại của nó là do đặc điểm lịch sử, đặc điểm xã hội Việt Nam quy định. Tất cả đều chịu sự chi phối của quy luật vận động phát triển và có kế thừa, không thể phủ định sạch trơn. Bên cạnh mặt hạn chế hẳn còn những mặt tích cực khác. Do đó, khi nhận định khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam nên có sự đánh giá khách quan, có tính đến hoàn cảnh cụ thể và phải đặt nó trong tính biện chứng lịch sử. Cũng như bên cạnh sự thất bại, không đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng nhưng cũng không vì thế mà phủ nhận vai trò tích cực, tính tiến bộ của khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc. Vì nó đặt cơ sở xã hội cho sự tiếp thu tư tưởng mới-tư tưởng vô sản tiếp thu từ chủ nghĩa Mác-Lênin, một tư tưởng tiến bộ của thời đại để thay đổi vận mệnh đất nước. Nhờ có sự tồn tại khuynh hướng dân chủ tư sản mới chuẩn bị được tiền đề cho sự vận động sang một khuynh hướng mới, khuynh hướng vô sản. Dân chủ bấy giờ được xác định là một trong hai nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, dân chủ càng được xem là mục tiêu, là động lực cho sự công bằng, đoàn kết tạo nên sức mạnh dân tộc, thành công cho công cuộc đổi mới. Tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân muốn thực hiện được nhất định phải chú ý đến vấn đề dân chủ. Điều đó cũng có nghĩa là một tiềm năng kinh tế hôm nay, một môi trường chính trị ổn định hôm nay là thành quả của sự kế thừa, phát triển tư tưởng dân chủ trong khuynh hướng dân chủ tư sản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến trước năm 1930, có nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp nổ ra mang khuynh hướng dân chủ tư sản biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Các phong trào diễn ra sôi nổi thể hiện sự khao khát giải phóng
  • 3. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 3 dân tộc thay đổi số phận hiện tại của đất nước. Đồng thời là sự biểu hiện cụ thể của tinh thần yêu nước Việt Nam. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn nuôi dưỡng âm mưu chống phá hòng tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa nước ta. Do đó, vấn đề khẳng định, phát huy chủ nghĩa yêu nước hơn bao giờ hết càng giữ một vị trí quan trọng. Tìm hiểu khuynh hướng dân chủ tư sản ở nước ta để thấy sự chuyển biến của con đường giải phóng dân tộc, thấy được sự hy sinh, đóng góp của các bậc tiền bối trong quá trình mày mò tìm giải pháp cứu nước. Đó là một chặng đường dài để thấy rằng giá trị của nền độc lập hôm nay cao quý biết nhường nào, góp phần thức tỉnh ý thức dân tộc, dân chủ trong việc góp công giữ gìn độc lập, phát huy những thành tựu đã dày công đạt được.
  • 4. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 4 PHẦN NỘI DUNG I. Quá trình hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam I.1. Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX 1.1. Tác động của hoàn cảnh quốc tế đến Việt Nam Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, thế giới có nhiều sự kiện quan trọng tác động mạnh mẽ đến sự chuyển biến của cách mạng Việt Nam. Thời gian này, hầu hết các nước tư bản chủ nghĩa trên thế giới chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn cao hơn của nó, đó là chủ nghĩa đế quốc. Vì vậy nhu cầu về thị trường, nguyên liệu và nhân công ngày càng trở nên bức thiết. Do đó, chúng đẩy mạnh quá trình xâm lược thuộc địa sang các nước phương Đông. Công việc “săn tìm” thuộc địa lúc bấy giờ không còn là công việc của giai cấp tư sản hay võ quan hiếu chiến nữa mà đã trở thành đường lối chung của nhà nước tư sản. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo xâm lược thuộc địa của các nước đế quốc. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX còn có một số biến cố lớn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc vận động cách mạng và đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam. Đặc biệt là phong trào Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868, và cuộc vận động biến pháp ở Trung Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm 1911. Nhật Bản trước khi cải cách Minh Trị là một nước phong kiến quân chủ “bế quan tỏa cảng” như Việt Nam. Bước sang thế kỉ XVIII, sự phát triển nội tại của Nhật Bản đã làm cho những mầm mống chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng. Đó là những hải cảng, công trường thủ công xuất hiện ngày càng nhiều ở thành thị, kinh tế hàng hóa phát triển. Tầng lớp Samurai (võ sĩ) thuộc thế giới quý tộc hạng trung và hạng nhỏ, không có ruộng đất chỉ phục vụ các Đaimiô bằng việc huấn luyện và chỉ huy các đội vũ trang để hưởng bổng lộc. Do một thời gian dài không có chiến tranh, địa vị của Samurai bị suy giảm, lương bổng thất thường, đời sống khó khăn, nhiều người đã ra khỏi lãnh địa, tham gia hoạt động thương nghiệp, mở xưởng thủ công,… dần dần tư sản hoá. Họ có thế lực về kinh tế nhưng không có quyền lực về chính trị, địa vị xã hội tương xứng. Vì vậy tầng lớp này trở thành lực lượng đấu tranh mạnh mẽ chống chế độ phong kiến lỗi thời.
  • 5. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 5 Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, đồng thời nhu cầu thị trường đòi hỏi ban đầu là xâm nhập vào các nước khác, đặc biệt là những nước phong kiến lạc hậu. Chính vì thế, Nhật Bản bị các nước phương Tây đòi mở cửa. Nhật Bản đến giữa thế kỉ XIX đã lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, với mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa và quan hệ sản xuất phong kiến, giờ đây đứng trước sự lựa chọn: hoặc duy trì chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ để các nước đế quốc sâu xé; hoặc tiến hành duy tân, đưa Nhật Bản phát triển theo con đường của các nước tư bản phương Tây. Cuối cùng, nhờ có một số nhà lãnh đạo thức thời sớm tỉnh ngộ trước họa xâm lăng, đã chiến thắng các lực lượng bảo thủ trong nước, theo hướng tư bản chủ nghĩa, mặc dù còn nhiều tàn tích phong kiến. Nhờ có duy tân, đổi mới, Nhật đã trở thành nước độc lập, không những thế mà còn sớm cường thịnh và có chính sách bành trướng thực dân. Trong thời gian này, Việt Nam đang lúng túng trước cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp. Đặc biệt, khi phong trào Cần Vương thất bại (1896), những người Việt Nam yêu nước đang lo tìm con đường cứu nước mới thì chiến tranh Nga-Nhật nổ ra. Nhật đại thắng, sự kiện này vang dội khắp năm châu, tác động mạnh mẽ đến các nhà yêu nước Việt Nam cũng như nhiều nhà yêu nước khác trong khu vực Châu Á. Họ bỏ qua bản chất đế quốc của Nhật chỉ chú ý đến việc một cường quốc da vàng đánh bại một cường quốc da trắng. Chỉ những điều đó thôi, Nhật cũng đã được tôn làm anh cả, làm đầu đàn cho Châu Á vùng lên. Nhật Bản được xem là vị cứu tinh của dân tộc da vàng. Xu hướng thân Nhật đã phát triển ở nhiều nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam,… Bằng chứng là khi sang Nhật, Phan Bội Châu đã gặp Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cũng đang hoạt động ở đây. Bên cạnh sự tác động của Nhật Bản thì những sự kiện ở Trung Quốc lúc bấy giờ cũng tác động tới cách mạng Việt Nam. Sau chiến tranh Trung-Nhật (1895), uy thế của triều đình phong kiến Mãn Thanh xuống thấp. Phong trào đấu tranh của nhân dân lên cao. Nhiều sĩ phu tiến bộ và trí thức tư sản Trung Quốc đã mạnh dạn đòi cải cách. Họ thành lập nhiều học hội, học đường, nhà xuất bản, toà soạn,… truyền bá học thuyết mới mẻ. Tiêu biểu là học hội của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu (ảnh hưởng của tư tưởng quân chủ lập hiến
  • 6. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 6 trực tiếp từ Nhật Bản), Hưng Trung hội của phái trí thức Tây học do Tôn Dật Tiên đứng đầu. Trong khuôn khổ một nước phong kiến thì đề nghị của Lương-Khang, tức cải cách đưa đất nước phát triển nhưng sự thống trị của phong kiến vẫn còn thì dễ dàng chấp nhận hơn. Tháng 6 năm 1897, vua Quang Tự nghe theo Khang Hữu Vi ban bố hiến pháp. Chương trình gồm 11 điểm nhưng bị phái bảo thủ do Thái hậu Từ Hy đứng đầu quyết liệt chống đối. Cuộc vận động cải cách của Trung Quốc bị thất bại. Tuy nhiên những tư tưởng tiến bộ của Lương-Khang đã gây được tiếng vang lớn, ảnh hưởng sâu rộng vào nhân dân, đặc biệt là nhận thức tư tưởng thời đại. Từ đây, những trào lưu tư tưởng của phương Tây dễ dàng thâm nhập vào Trung Quốc, cũng như dễ dàng được tiếp nhận, và bắt đầu tấn công hệ tư tưởng phong kiến quan liêu, hủ bại, mở đường cho tư tưởng dân chủ tư sản phát triển trong xã hội Trung Quốc. Nó thức tỉnh phong trào yêu nước của nhân dân, nâng cao ý thức độc lập dân tộc chống ngoại xâm và ý thức dân chủ chống chuyên chế. Cuộc đấu tranh đó dần phát triển lên cao dẫn đến cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Trung Sơn lãnh đạo, tiến bộ ngay từ chủ trương của Hội “đánh đổ Mãn thanh, khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ liên hiệp” trong khi chủ trương trước đó của Lương-Khang là áp dụng các biện pháp duy tân nhưng còn duy trì và cải tiến chế độ phong kiến nhà Thanh. Đối với nước ta, Trung Quốc là nước láng giềng có ảnh hưởng rất sâu sắc. Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ: chế độ phong kiến quân chủ chuyên chế, Nho giáo là thiết chế tư tưởng, chính trị-xã hội lâu đời, và lúc bấy giờ đều bị đế quốc xâm lược,… Những biến cố về chính trị, tư tưởng ở Trung Quốc nhanh chóng dội vào Việt Nam theo từng thời kì chuyển biến rõ nét. Điển hình nhất là hoạt động của nhà yêu nước Phan Bội Châu. Lúc Cường học hội của Lương-Khang đang có vai trò mạnh ở Trung Quốc thì ở Việt Nam là hoạt động của Duy Tân hội tôn Ngoại hầu Cường Để lên làm hội trưởng để “thu phục nhân tâm”. Và khi cách mạng Tân Hợi nổ ra thì năm 1912, Duy Tân hội ở Việt Nam cũng giải tán chuyển sang thành lập Việt Nam Quang phục hội với tôn chỉ “đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam, thành lập cộng hòa dân quốc Việt Nam”. Trên thế giới lúc bấy giờ còn có một sự kiện mà sự tác động của nó cũng không nhỏ đến cách mạng Việt Nam. Đó là cao trào Châu Á thức tỉnh.
  • 7. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 7 Các nước tư bản phương Tây đi xâm lược vô tình mang theo tư tưởng dân chủ, Tự do-Bình đẳng-Bác ái (thành quả tiến bộ của các cuộc cách mạng tư sản) sang các nước phụ thuộc và thuộc địa. Chính nó là một trong những nguyên nhân lớn thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt lúc bấy giờ ở Châu Á như: Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Miến Điện,… Cao trào Châu Á thức tỉnh càng làm cho khao khát giải phóng dân tộc giành độc lập dân tộc trước hết của Việt Nam thêm cháy bỏng. Nó góp phần nâng cao chí quyết tâm trong quá trình chống thực dân, đế quốc. 1.2. Tình hình trong nước Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền nhưng chế độ phong kiến đã bộc lộ những dấu hiệu của sự khủng hoảng và suy yếu nghiêm trọng. Kinh tế ngày càng sa sút, tài chính khó khăn. Đúng như Nguyễn Tri Phương nhận xét năm 1960 về tình hình Việt Nam, khi thực dân Pháp xâm lược thì nước ta “của đã hết, sức đã thiếu”. Đã thế nhà Nguyễn còn đưa ra một số chủ trương chính sách gây bất lợi cho sự phát triển nền kinh tế. Đường lối đối ngoại sai lầm “bế quan toả cảng” đã khiến cho Việt Nam bị cô lập. Việc hạn chế ngoại thương không xuất phát từ bảo vệ thị trường trong nước mà xuất phát từ ý định ngăn chặn sự xâm nhập của đạo Thiên chúa, cho nên dã dẫn đến chính sách đàn áp giáo sĩ và giáo dân một cách mù quáng. Việc cấm đạo, sát đạo gay gắt càng tạo thêm cớ cho kẻ thù bên ngoài lợi dụng triển khai mưu đồ xâm lược. Các vua kế tiếp nhau càng ra sức củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, quyền lực tập trung trong tay vua. Chỗ dựa của nhà nước là giai cấp địa chủ. Ruộng đất tư lúc bấy giờ phát triển mạnh hơn lúc nào hết với 83%, còn lại là 17% là đất công. Chính vì vậy, đời sống của nhân dân ngày càng cực khổ, hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra làm cho đất nước luôn không ổn định. Mười tám năm cai trị của Gia Long (1802-1820) với 73 cuộc khởi nghĩa của nông dân, 7 năm ở ngôi của Thiệu Trị (1940-1947) có 56 cuộc khởi nghĩa của nông dân… Bên cạnh đó, khả năng quốc phòng yếu kém. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống xâm lược của các nước đế quốc thực dân. Trong cuộc chạy đua giành giật thuộc địa giữa các nước tư bản phương Tây, cuối cùng tư bản Pháp bám sâu được vào Việt Nam qua hội truyền giáo thừa sai Pari. Đồng thời thông qua các mối quan hệ đã có từ trước cùng với lợi dụng sự suy yếu
  • 8. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 8 của chế độ phong kiến Việt Nam, chính phủ Pháp ráo riết xúc tiến thực hiện âm mưu xâm lược. Triều đình phong kiến Việt Nam vì những toan tính riêng tư bảo vệ quyền lợi giai cấp nên từ chống cự yếu ớt rồi dần chuyển sang chịu chia sẻ quyền lực với Pháp, ngày càng bộc lộ sự bất lực của mình trượt dài qua các hiệp ước nhượng đất Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874). Triều đình thực sự thừa nhận quyền cai trị của Pháp ở Nam Kì, kết hợp với Pháp trong việc chống lại phong trào của nhân dân và sau cùng là hai bản hiệp ước Hác-măng (1883) và Pa-tơ-nốt (1884) chấm dứt quá trình xâm lược của Pháp ở Việt Nam. Như thế từ sau năm 1884, Việt Nam trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Năm 1897, Việt Nam trở thành bộ phận của Liên bang Đông Dương. Thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị Liên bang để tiến hành quá trình khai thác và bóc lột thuộc địa. Các chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất (1897-1914) và lần thứ hai (1919-1929) của Pháp chủ yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của chính quốc. Hai cuộc khai thác thuộc địa trước và sau chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo ra những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội ở Việt Nam. + Về chính trị: Thực dân Pháp đặc biệt coi trọng chính sách về chính trị để cai trị thuộc địa vừa chiếm được. Chúng tiến hành xây dựng bộ máy nhà nước hoàn chỉnh, thống nhất có tính chất chặt chẽ từ trên xuống. Để đảm bảo thu được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế về chính trị. Mọi quyền hành đều nằm trong tay Pháp, vua quan triều Nguyễn chỉ là bù nhìn. Chúng cai trị trực tiếp và thẳng tay đàn áp, không cho dân ta một chút quyền tự do dân chủ nào, kể cả chủ nghĩa cải lương cũng không được phép. “Chia để trị” là chính sách cai trị điển hình của Pháp ở Việt Nam. Mục đích của chúng là làm suy yếu lực lượng dân tộc Việt Nam. Chúng chia cắt nước ta thành 3 xứ với 3 chế độ khác nhau. Nam Kì là xứ thuộc địa do Pháp nắm nên được gọi là chế độ trực trị do một viên Thống đốc của Pháp đứng đầu. Bắc Kì và Trung Kì là 2 xứ bảo hộ vẫn giữ lại chính quyền phong kiến về hình thức. Bắc Kì do Thống sứ đứng đầu, Trung Kì do Khâm sứ đứng đầu, cả hai cũng đều là người Pháp. Người Việt Nam muốn đi lại giữa các kì phải xin giấy phép như ra nước ngoài. Với thủ đoạn này, thực dân Pháp muốn xoá tên Việt Nam, Lào, Campuchia trên bản đồ thế giới, vì bấy giờ
  • 9. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 9 chỉ còn là Liên bang Đông Dương, chia rẽ nhân dân thuộc địa với nhân dân Pháp, chia rẽ nhân dân các nước thuộc địa với nhau. Riêng ở Việt Nam, thực dân Pháp đã phá hoại tính thống nhất dân tộc, dựng nên hàng rào chia cắt về chế độ, kéo theo các cơ quan cai trị riêng biệt, ngăn cản sự giao lưu qua lại, ngăn cản sự phát triển chung, đặc biệt là nhằm phá vỡ khối đoàn kết dân tộc của ta, giảm sức mạnh trong việc chống lại chúng. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn ra đạo luật về tổ chức quân đội thuộc địa (7/1/1900) bao gồm lính Pháp và lính bản xứ. Quân đội đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của viên Tổng chỉ huy người Pháp. Mục đích là nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa, canh giữ các nhà tù, đàn áp chống đối, ổn định thuộc địa. Cùng với quân đội chính quy ngày 30 tháng 6 năm 1915, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập lực lượng cảnh sát đặc biệt. Nhiệm vụ là đảm bảo trật tự, an ninh trong tỉnh, canh giữ các công sở, các tuyến đường giao thông. Để tăng cường đàn áp, ngày 28 tháng 6 năm 1917, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập Sở tình báo và an ninh trung ương (Sở mật thám Đông Dương). Mỗi xứ có một cơ quan mang tên cảnh sát an ninh. Đi đôi với bộ máy quân sự, cảnh sát to lớn là hệ thống pháp luật khắc nghiệt cùng hệ thống toà án nhà tù dày đặc khắp Việt Nam. Từ huyện, phủ, châu trở lên đều có nhà tù và trại giam. Như vậy, rõ ràng bộ máy chính quyền của thực dân Pháp được thiết lập trên cơ sở của sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp với giai cấp phong kiến phản động do thực dân Pháp chi phối nhằm thực hiện chính sách khai thác bóc lột vô cùng tàn bạo của chúng. Nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX sống trong cảnh ngột ngạt, không có một quyền tự do dân chủ nào. Hơn nữa, nhân dân còn bị áp bức bóc lột tàn nhẫn vô hạn của chính quyền thuộc địa. + Về kinh tế: Các nước đế quốc đẩy mạnh xâm chiếm thuộc địa nhằm thoả mãn nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao nguồn lợi nhuận. Do đó, sau khi hoàn thành xâm lược thuộc địa thì chúng bắt tay ngay vào quá trình khai thác các nguồn lợi ở thuộc địa một cách triệt để.
  • 10. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 10 Việt Nam là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lí thuận lợi và sẵn nhân công nhưng phương thức sản xuất lạc hậu. Do tư tưởng khép kín, không thức thời nhạy bén tiếp cận thành tựu hiện đại, tiến bộ của phương Tây, nên không thể khai thác hết tiềm năng nội sinh để phát triển đất nước. Vì vậy, để bóc lột tối đa lợi nhuận ở thuộc địa, Pháp đã thi hành một chính sách thực dân rất phản động, bóc lột nặng nề về kinh tế ở nước ta. Trong chương trình hành động gởi bộ trưởng Bộ thuộc địa (22/3/1897), Đume nêu rõ “xây dựng cho Đông Dương một thiết bị kinh tế to lớn, một hệ thống đường sắt, đường bộ, sông hào, bến cảng những cái cần thiết cho sự khai thác xứ Đông Dương”1 Đường bộ được mở rộng đến những khu vực hầm mỏ, đồn điền, và các vùng biên giới quan trọng: trục đường xuyên Đông Dương, đường Sài Gòn-Tây Ninh tới biên giới Campuchia, đường Vinh-Sầm Nứa, Hà Nội-Cao Bằng,… lưu thông một cách xuyên suốt. Tổng số chiều dài xây dựng thời kì này là 20.000 km, cùng với 14.000 km đường dây điện thoại. Mở mang đường sắt được giới tư bản ưu tiên để phục vụ chuyên chở hàng hoá, nguyên liệu và tạo ra phương tiện để đưa quân đội đến những nơi cần thiết nhằm đàn áp các cuộc khởi nghĩa. Các đường xe lửa lần lượt được hoàn thành Hà Nội-Lạng Sơn (1902), Hà Nội-Vinh (1905), Đà Nẵng-Huế (1906), Sài Gòn-Nha Trang, Hải Phòng-Vân Nam (1910),…Tính đến năm 1912, tổng số chiều dài đường sắt đã xây dựng ở Việt Nam là 2099 km. Tất cả những tuyến đường sắt trừ tuyến Hải Phòng- Vân Nam đều do nhà nước thực dân Pháp thu lãi. Đường thuỷ cũng được khai thông ở các con sông lớn như: Sông Hồng, Thái Bình, Đồng Nai, sông Hậu Giang và các kênh rạch. Các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn cũng được xây dựng. Riêng ở Nam Kì đến năm 1914 có 1745 km đường thủy và tàu chạy bằng hơi nước. Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn (hơn 10 năm đầu thế kỉ XX), thực dân Pháp đã đầu tư làm thay đổi hẵn cơ sở hạ tầng Việt Nam. Đó là sự đầu tư có dụng ý, nhằm phục vụ cho quyền lợi thực dân, phục vụ cho mưu đồ thống trị, khai thác và bóc lột của chúng. 1 Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 128
  • 11. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 11 Trái với tinh thần của cuộc Đại cách mạng Pháp (1789) là diệt trừ tận gốc chế độ phong kiến, mở đường cho nước Pháp hướng mạnh vào con đường phát triển tư bản. Chính sách kinh tế của Pháp ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng lại duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu kết hợp với thiết lập rất hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong nông nghiệp, Pháp cướp đoạt ruộng đất của nông dân một cách trắng trợn, được che đậy bằng sự hợp thức hoá của Điều ước, Nghị định: “Năm 1897, thực dân Pháp bắt triều đình Huế kí điều ước cho thực dân Pháp quyền khai khẩn đất hoang. Tiếp đó, ngày 1/5/1900 Thực dân Pháp ra Nghị định phủ nhận quyền sở hữu ruộng đất trong luật pháp phong kiến”2 . Chúng lập ra hàng loạt các đồn điền kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa nhưng lại bóc lột bằng cách phát canh thu tô kiểu phong kiến. Những chính sách trong nông nghiệp của Pháp đã kiềm hãm nền nông nghiệp Việt Nam trong vòng lạc hậu. Nông dân bị mất đất, bần cùng đói khổ, lực lượng sản xuất bị hao mòn, kinh tế nông nghiệp ngày trở nên sa sút. Trong công nghiệp, Pháp chỉ chú trọng một số ngành công nghiệp phục vụ cho quá trình khai thác và vơ vét tài nguyên khoáng sản Việt Nam. Công nghiệp nhẹ chỉ được phép phát triển trong một số lĩnh vực phục vụ trực tiếp cho nhu cầu tiêu dùng của Pháp ở thuộc địa. Công nghiệp Việt Nam không được cạnh tranh với công nghiệp Pháp. Một nền công nghiệp đã xuất hiện ở Việt Nam nhưng đó chỉ là một nền công nghiệp phiến diện, què quặt, không có công nghiệp nặng. Điều đó thể hiện rõ tính chất thuộc địa của nền kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ. Về thương nghiệp, Pháp độc chiếm thị trường Việt Nam. Hàng hoá Pháp thâm nhập vào hoàn toàn miễn thuế còn hàng hoá nước khác thì phải chịu thuế cao nên hầu hết ít vào được thị trường Việt Nam. Chính sách độc quyền về thương mại của Pháp đã bần cùng hoá nhân dân lao động và bóp chết ngành tiểu thủ công nghiệp Việt Nam. Hình thức bót lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp còn thể hiện ở việc chúng lập ra Ngân sách chung cho 5 xứ Đông Dương dưới hình thức Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng này là một tập đoàn tư bản tài chính lớn, chi phối mọi ngành kinh tế ở Đông Dương. Nguồn thu của Ngân sách chủ yếu là thuế. Thuế cũ thì tăng vọt, nhiều thuế mới thật vô lí được đặt ra: thuế thân, thuế chợ, thuế vỉa hè, thuế 2 Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 130
  • 12. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 12 xe… “Trên chiếc lưng cao su của người An Nam, nhà nước tha hồ kéo dài mức thuế co dãn”3 Nhìn chung, chính sách về kinh tế của thực dân Pháp đã làm cho kinh tế Việt Nam có những thay đổi căn bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đan xen cùng tồn tại với quan hệ sản xuất phong kiến vốn có. Công, nông, thương nghiệp có bước phát triển nhưng không cân đối về cơ cấu, què quặt và phụ thuộc nặng nề vào đế quốc Pháp. Pháp là nước tư bản già lạc hậu so với các nước tư bản trẻ phát triển mạnh lúc bấy giờ: Mĩ, Đức,… Pháp có nền kỉ thuật đã lỗi thời, hàng hoá không thể cạnh tranh nổi với các nước tư bản đang lên nên Pháp phải giải quyết khủng hoảng của mình bằng cách độc chiếm thị trường thuộc địa, hạn chế cạnh tranh, đồng thời là khai thác triệt để nguồn lợi thuộc địa đem về chính quốc sản xuất rồi lại mang hàng hóa sang tiêu thụ ở thuộc địa. Đây là phương thức kinh doanh khác cơ bản so với Mĩ, Đức. Chính vì vậy, thuộc địa của Pháp có nền kinh tế bị què quặt, không tiếp nhận được thành tựu mới, không được giao lưu. Đó cũng chính là nguyên nhân cho sự trì trệ kéo dài, khó khắc phục, cải tạo của Việt Nam sau cách mạng giải phóng dân tộc. + Về xã hội: Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới sự tác động của công cuộc khai thác của Pháp đã phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ phong kiến vốn thuộc giai cấp thống trị nay đầu hàng đế quốc, dựa vào đế quốc để áp bức bóc lột nhân dân ta. Vì vậy, đây là đối tượng của cách mạng. Song, do chính sách cai trị của thực dân Pháp, giai cấp địa chủ bị phân hoá, một bộ phận làm tay sai cho thực dân Pháp, một bộ phận địa chủ nhỏ và vừa ít nhiều có tinh thần dân tộc đứng lên chống Pháp khi có cơ hội. Giai cấp nông dân là giai cấp đông đảo nhất trong xã hội, chiếm 90% dân số bị đế quốc, địa chủ bóc lột nặng nề. Vì vậy, họ căm thù thực dân phong kiến, khao khát độc lập và ruộng đất, họ tích cực tham gia và là nguồn động lực chính trong các cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến. Nhưng trong cách mạng dân tộc, dân chủ, họ không thể đóng vai trò lãnh đạo vì không đại diện cho một phương thức sản xuất tiên tiến. 3 Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm, 129
  • 13. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 13 Bên cạnh các giai cấp phong kiến cũ thì thời kì này xuất hiện các giai tầng mới. Đó là công nhân và tư sản. Giai cấp công nhân ra đời là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Mặc dù mới ra đời số lượng còn ít, trình độ văn hoá còn thấp nhưng giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng trưởng thành về số lượng và chất lượng, có khả năng lãnh đạo cách mạng sau này. Còn tư sản thì thật sự trở thành một giai cấp từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Bị tư bản Pháp chèn ép nên giai cấp tư sản Việt Nam phân hoá thành hai bộ phận: tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Giai cấp tư sản mại bản gắn chặt quyền lợi với Pháp. Giai cấp tư sản dân tộc tuy có tinh thần yêu nước chống đế quốc, phong kiến nhưng ra đời muộn, thế lực yếu kém về kinh tế lẫn chính trị nên thường cải lương trong quá trình đấu tranh và không có khả năng lãnh đạo và đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Các chính sách cai trị của Pháp ở các nước thuộc địa còn làm cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản ngày càng đông. Đây là những người được chế độ phong kiến và thực dân đào tạo. Họ ít nhiều bị chèn ép và do truyền thống yêu nước chi phối nên họ cũng khát khao độc lập tự do. Khi có điều kiện thì đây là lực lượng nhạy bén tiếp thu và truyền bá tư tưởng mới và là “ngòi pháo” của các cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến. Như vậy, sự ra đời của những lực lượng xã hội mới đã tạo điều kiện bên trong cho cuộc vận động giải phóng dân tộc theo những khuynh hướng mới với động lực là những giai tầng có thái độ chính trị và khả năng cách mạng khác nhau. + Về văn hoá giáo dục: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân triệt để, giam hãm, đầu độc nhân dân ta trong vùng tăm tối. Chúng xây dựng nhà tù nhiều hơn trường học và bệnh viện. Chính sách văn hoá của Pháp ở Việt Nam chỉ nhằm thực hiện mục đích thực dân “làm cho dân ta ngu để dễ trị”. Pháp chỉ mở trường dạy tiếng Pháp nhằm đào tạo đội ngũ tay sai thuộc địa. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng văn hoá tiến bộ trên thế giới, truyền bá văn hoá đồi trị và mê tín dị đoan. Hậu quả là trường học thiếu một cách trầm trọng, hàng ngàn trẻ em Việt Nam không biết chữ, thanh niên thì bị ngăn cản không cho du học phương Tây để tiếp thu tư tưởng tiến bộ
  • 14. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 14 của thế giới. Đồng thời chúng còn tìm cách trấn áp, loại trừ những nhà trí thức yêu nước “đòi bỏ rọ lăn sông các sĩ phu”. Tuy nhiên ngoài ý muốn chủ quan của Pháp, trong khi cố tạo ra những điều kiện thuận lợi phục vụ cho bộ máy cai trị trực tiếp ở Việt Nam, chúng đã tạo ra một môi trường văn hoá mới ngoài mục đích văn hoá thực dân. Trong thành phần những tri thức do các trường học mới đào tạo có không ít người có nguồn gốc là con em của chúng những nhà có thù với đế quốc Pháp. “Họ tất nhớ lại cha anh họ bị đày, bị giết vì nước, người trước gnười sau sớm muộn gì cũng theo dấu cha anh, đứng lên đỡ lấy cái gánh nặng non sông mà cha anh họ còn để lại giữa đường,…”4 . Dưới ách cai trị của thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam đang khao khát tìm kiếm một con đường giải phóng dân tộc khi tư tưởng phong kiến đang suy tàn, mất hết vai trò lãnh đạo, tư tưởng dân chủ-tư tưởng mới được tiếp thu một cách nhanh chóng. Thực dân Pháp cố gắng tìm mọi cách ngăn chặn nhưng có một thứ mà chúng không thể nào ngăn chặn nổi đó là tinh thần tìm hiểu, nghiên cứu về giải phóng dân tộc của nhiều người yêu nước Việt Nam. Như vậy, những chính sách cai trị của Pháp ở Việt Nam mang đậm tính chất thực dân: chuyên chính về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, nô dịch tàn bạo về văn hoá giáo dục. Khi mà hệ tư tưởng phong kiến không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến dần tàn lụi, thất bại, thì những biến đổi về chính trị-kinh tế-văn hoá trong chế độ thực dân là tiền đề cho sự xuất hiện những luồng tư tưởng khác nhau. Đồng thời là cơ sở cho sự tiếp nhận, hấp thụ những nguyên lí cứu nước mới đối với Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là khuynh hướng dân chủ tư sản. I.2. Sự du nhập của khuynh hướng dân chủ tư sản vào Việt Nam 2.1. Nguồn gốc của tư tưởng dân chủ tư sản Dân chủ ngày nay được hiểu là một chính quyền mà trong đó nhân dân là người làm chủ, là người quyết định mọi việc. Dân chủ bao hàm ý nghĩa thừa nhận quyền tự do bình đẳng của mọi công dân. Nguyên tắc đặc trưng của chế độ dân chủ là thiểu số phải phục tùng đa số trong quá trình tham gia bàn bạc và định đoạt công việc chung. 4 . Đinh Trần Dương (2002), Sự chuyển biến của phong trào yêu nước trong ba mươi năm đầu thế kỉ XX, Nxb Đại học quốc gia Hà Nộ, 22
  • 15. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 15 Tư tưởng dân chủ tư sản là thành quả của các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại. Tuy nhiên không phải khi cách mạng thắng lợi, chính quyền cách mạng được thiết lập thì tư tưởng dân chủ tư sản mới ra đời, mà tư tưởng này đã xuất hiện từ trước. Tư tưởng dân chủ tư sản là tiền đề tư tưởng (cùng với tiền đề kinh tế, chính trị- xã hội) xuất hiện trước mỗi cuộc cách mạng tư sản, chuẩn bị cho các cuộc cách mạng tư sản bùng nổ. Ở Anh, hệ tư tưởng dân chủ tư sản thể hiện qua cuộc đấu tranh của Thanh giáo chống Anh giáo để xác lập một tôn giáo rẻ tiền, ít tốn kém thời gian và phù hợp với việc kinh doanh của nhà tư bản. Thanh giáo ra đời nhằm hạn chế sự chuyên quyền của nhà nước phong kiến, phản đối giáo hội Anh. Vì thế, nhà nước phong kiến đã sử dụng bạo lực để đàn áp các tín đồ Thanh giáo. Giai cấp tư sản nấp dưới tà áo tôn giáo mới để lôi kéo lực lượng thực hiện mục đích của mình. Ở Pháp, từ đầu thế kỉ XVIII đã xuất hiện trào lưu tư tưởng “ánh sáng”, với nhiều quan điểm tốt đẹp-chống chế độ phong kiến, tôn giáo xây dựng một mô hình xã hội lý tưởng với ba đại biểu xuất sắc: Mông-xte-ki-ơ, Rut-xô, Vôn-te. Ở Nhật, trước Duy Tân Minh Trị đã xuất hiện trào lưu “Hà Lan học”, đề xướng tư tưởng “trọng thương”, tiếp thu nhiều thành tựu tiến bộ của phương Tây… Tư tưởng dân chủ tư sản xuất hiện từ sự khao khát một cuộc sống tự do; muốn thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, sự hà khắc của giáo hội Kitô; thoát khỏi sự áp bức bóc lột nặng nề của xã hội hiện tại, mơ ước một xã hội mới công bằng. 2.2. Các con đường du nhập vào Việt Nam Luồng tư tưởng dân chủ tư sản tràn vào Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX chủ yếu qua 3 con đường chính: từ Pháp, từ Nhật Bản và từ Trung Quốc. Con đường du nhập tư tưởng này đến Việt Nam qua quá trình xâm lược và khai thác thuộc địa của Pháp ở Việt Nam là chủ yếu. Người Pháp đến Việt Nam, bên cạnh bộ phận những người trong chính quyền thực dân, còn có những trí thức, hay các nhà khoa học tới Việt Nam với mục đích nghiên cứu, dạy học… Và đặc biệt trong đó không thể không kể tới, đó chính là các giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, họ ít nhiều cũng đã mang tư tưởng bình đẳng của Chúa đến với giáo dân và ảnh hưởng sâu rộng tỉ lệ thuận với quá trình phát triển của đạo Thiên Chúa đối với nhân dân Việt Nam.
  • 16. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 16 Lê-nin viết “Thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh và văn hoá cho toàn thể nhân loại đã tiếp diễn dưới dấu hiệu của đại cách mạng Pháp” [3; 191]. Hơn thế nữa, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam mặc dù với mục đích chính là đào tạo những người làm việc cho bộ máy cai trị chính quyền thực dân nhưng ít hay nhiều cũng mang đến cho những người Việt Nam theo Pháp học có những hiểu biết về tư tưởng “ánh sáng” với Milê, người đã có quan niệm về chủ nghĩa cộng sản không tưởng; Mông-te-xki-ơ với tư tưởng xây dựng hệ thống nhà nước “tam quyền phân lập, kiềm chế đối trọng”; Vôn-te có tư tưởng chống độc tài phong kiến và nhà thờ Thiên Chúa; hay Đi-đơ-rô với quan điểm triết học duy vật và Rut-xô với tư tưởng dân chủ cách mạng và nhà nước dân chủ,… Vì vậy, nền giáo dục Pháp ở Việt Nam không tránh khỏi đem những tư tưởng này vào giới trí thức của nước ta. Tư tưởng dân chủ tư sản ở Pháp đến Việt Nam không chỉ thâm nhập qua những người Việt Nam làm việc cho Pháp, các trí thức Tây học trong nước, mà còn qua một lực lượng quan trọng là những người Việt Nam xuất ngoại sang Pháp. Những người Việt tới Pháp gồm những nhà tư sản hay trí thức, bằng cách này hay cách khác sang Pháp học tập, làm ăn. Do Pháp ra sức ngăn cản việc người Việt Nam đi du học nước ngoài, đặc biệt là qua Pháp vì sợ họ tiếp thu những thu tưởng mới nên số lượng này là không nhiều ở nước ta lúc bấy giờ. Chiếm số lượng khá đông là người Việt Nam làm việc trên những chuyến tàu của Pháp (Bác Hồ cũng từng làm việc như thế) hay bị đưa sang Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Đây là con đường tiếp cận tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây trực tiếp chính bằng trình độ nhận thức của người Việt. Tuy nhiên, trong buổi đầu tư tưởng dân chủ tư sản du nhập vào, thành phần tiếp nhận có nhiều hạn chế giai cấp, lịch sử cùng với không gian tiếp cận không đầy đủ nên phong trào yêu nước Việt Nam gắn với tư tưởng mới này chưa có sự chuyển biến rõ nét và phát triển cao. Con đường thứ hai truyền bá tư tưởng dân chủ tư sản tới Việt Nam là thông qua Nhật Bản. Cuộc Duy Tân Minh Trị ở Nhật Bản và việc nước Nhật chiến thắng trong chiến tranh Nga-Nhật (1895) trong khi các nước Châu Á đều bị biến thành thuộc địa hay phụ thuộc của các nước đế quốc thực dân. Điều đó khiến cho Nhật Bản trở thành tấm gương, một “anh cả da vàng” để các nước khác học tập. Cuộc Duy Tân Minh Trị có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Châu Á, trước hết là đối với Trung Quốc. Sau
  • 17. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 17 cuộc Duy Tân Minh Trị 30 năm, một phong trào Duy Tân đã bùng nổ ở Trung Quốc. Người chủ xướng phong trào duy tân ở Trung Quốc là Khang Hữu Vi. Ông muốn bắt chước Nhật Bản, cũng tiến hành một cuộc cải cách dưới trướng của một đấng minh quân. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước Trung Quốc không cho phép nên phong trào duy tân của Khang Hữu Vi bị thất bại. Cuộc Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX các sĩ phu yêu nước Việt Nam như cụ Phan Bội Châu đã hướng về Nhật Bản với lòng ngưỡng mộ và đã bỏ nhiều công sức để tìm con đường cứu nước tại đất nước của Thiên hoàng Minh Trị này. Thậm chí, ở Trung Quốc cũng diễn ra một phong trào Đông du sang Nhật để học tập, và sau Đông du ở Trung Quốc là phong trào Đông du ở Việt Nam. Nhật Bản cũng có những nhân vật ảnh hưởng đến các trào lưu tư sản ở Nhật Bản mà cả với phong trào đấu tranh ở Việt Nam, như nhà tư tưởng dân chủ Fukuzawa Yukichi. Khuynh hướng dân chủ tư sản cũng đến với Việt Nam nhờ rất nhiều vào một con đường khác là Trung Quốc. Đối với nước ta, Trung Quốc không chỉ là nước đồng văn, đồng chủng mà còn là nước cùng cảnh ngộ, ảnh hưởng Nho giáo Trung Quốc ở Việt Nam hết sức sâu đậm. Đầu thế kỉ XX cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, hầu hết các sĩ phu yêu nước, cách mạng đều xuất thân từ tầng lớp sĩ phu Nho học. Số theo Tây học hồi đó còn rất hiếm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Chưa có các nhà lãnh đạo cách mạng xuất thân từ tầng lớp trí thức Tây học. Việc người Việt học tập những tư tưởng này qua Trung Quốc phần nào cũng vì tác động từ những cuộc đấu tranh của trí thức tư sản Trung Quốc như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,… qua cuộc vận động biến pháp, qua cách mạng Tân Hợi,… Hơn thế nữa, cả hai nước đều sử dụng Hán tự. Chính vì những lí do đó mà tư tưởng dân chủ tư sản qua Trung Quốc vào Việt Nam có vai trò rất lớn của Tân thư, Tân văn Trung Quốc bấy giờ. Và theo Tân thư, Tân văn từ Trung Quốc, tư tưởng của những nhà “khai sáng” Pháp cũng được dịch truyền vào Việt Nam một cách phổ biến. Tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây vào Việt Nam thông qua Nhật Bản và Trung Quốc rõ ràng đã có sự biến dạng nhất định. Bởi vì đó là cách vận dụng, cách nhìn của phần lớn những nhà theo tư tưởng quân chủ lập hiến.
  • 18. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 18 Cùng với sự thất bại của khuynh hướng cứu nước theo phong kiến, chính sách cai trị của chính quyền thực dân, sự khao khát độc lập, tự do mãnh liệt của nhân dân Việt Nam càng tạo điều kiện cho những nhà yêu nước nhanh chóng tiếp thu tư tưởng dân chủ tư sản, một tư tưởng mới và tiến bộ so với Việt Nam lúc bấy giờ. 2.3. Cơ sở hình thành khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam Sự thất bại của các phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến Sau khi buộc triều đình Huế kí Hiệp ước Pa-tơ-nốt (1884), thực dân Pháp về cơ bản đã hoàn thành quá trình xâm lược toàn bộ Việt Nam. Nhưng chúng còn mất thêm hơn mười năm liên tục, hao người, tốn của để tiến hành cuộc bình định bằng quân sự nhằm đối phó với cuộc chiến tranh quyết liệt của ta. Đó là cuộc nổi dậy của phái chủ chiến ở kinh thành Huế (1884), phong trào yêu nước của văn thân, sĩ phu hưởng ứng Chiếu Cần Vương (1885-1896). Và phong trào nông dân tự phát, tiêu biểu là khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884-1913). Và đó cũng chính là những phong trào thể hiện sự nổ lực cuối cùng của khuynh hướng cứu nước theo tư tưởng phong kiến. Cuối thế kỉ XIX, phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương do Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết đứng đầu với hy vọng khôi phục lại chủ quyền. Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi hai lần ban Chiếu Cần Vương (13/7/1885 và 20/9/1885) nhằm kêu gọi nhân sĩ khắp nơi giúp vua cứu nước. Tầng lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ hưởng ứng sôi nổi, đứng ra chiêu mộ nghĩa sĩ lập đồn trại kháng chiến. Văn thân, sĩ phu là những người không có đặc lợi ở triều đình, cũng không có tư gia điền sản lớn ở nông thôn nhưng họ có hệ tư tưởng yêu nước gắn với hệ tư tưởng phong kiến. Do đó, yêu nước phải trung quân. Đó là lập trường của Nho giáo truyền thống của phong kiến. Nhưng kể từ khi Pháp xâm lược, cùng với thái độ của triều đình, họ đã chống lại triều đình, không còn trung với vua nữa. Họ chống lại mệnh lệnh của vua để cùng nhân dân kháng Pháp. Khi Chiếu Cần Vương ban ra, tư tưởng “trung quân ái quốc” của họ đã trở lại. Văn thân, sĩ phu là những người hăng hái nhất, đứng ra lãnh đạo phong trào nhân dân “giúp vua cứu nước”. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị bắt thì đâu là động lực đấu tranh? Quá trình đấu tranh chưa chấm dứt. Có những cuộc khởi nghĩa quy mô lớn trình độ cao như: Bãi Sậy, Ba Đình, Hùng Lĩnh, Hương Khê. Và như vậy, động lực “giúp vua cứu nước”
  • 19. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 19 đã chuyển sang “giúp dân cứu nước”. Hay quan điểm lập trường sĩ phu, văn thân thay đổi từ “trung quân ái quốc” sang “trung dân ái quốc”, từ lập trường giai cấp sang lập trường dân tộc. Đây là bước chuẩn bị đầu tiên cho sự tiếp nhận tư tưởng mới phù hợp-tư tưởng dân chủ tư sản sau này. Phong trào vũ trang chống Pháp dưới ngọn cờ Cần Vương đã tàn lụi với sự thất bại hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1896). Một số thổ hào địa phương nổi dậy ngay từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tuy lúc này vẫn còn, nhưng đã phải duy trì cuộc chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, phải thủ hiểm trong những vùng rừng núi hẻo lánh và suy yếu dần trên con đường đi tới tan rã. Duy chỉ có cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo vẫn hiên ngang đương đầu với địch. Nhưng trước âm mưu và thủ đoạn của kẻ thù, phong trào dần đi vào thất bại. Khác với phong trào Cần Vương-diễn ra và thất bại khi chưa chịu tác động của tư tưởng dân chủ tư sản, nên khi kết thúc không có mầm mống chuyển sang dân chủ tư sản. Còn đối với phong trào nhân dân Yên Thế, thời gian tồn tại có ảnh hưởng của dân chủ tư sản. Vì thế giai đoạn sau, phong trào này có sự dao động khi mà người lãnh đạo Hoàng Hoa Thám có tiếp xúc với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và Tôn Trung Sơn (khi Tôn Trung Sơn sang tuyên truyền tư tưởng cách mạng cho Hoa kiều, ẩn náo tạm thời vì mục đích cách mạng…). Phong trào nông dân Yên Thế cuối cùng cũng thất bại. Song đặc điểm của nó là sự dao động, mang hơi hướng của lập trường dân chủ tư sản. Đây là bước quá độ chuyển biến tư tưởng đầu tiên trong cách mạng Việt Nam. Như vậy, tất cả những phong trào chống Pháp nổ ra cuối thế kỉ XIX đều lần lượt thất bại. Thất bại không phải vì người lãnh đạo kém nhiệt huyết, nhân dân kém anh dũng mà do nguyên nhân chủ quan, khách quan chi phối. Đặc biệt, thất bại là do hệ tư tưởng phong kiến lúc bấy giờ đã lạc hậu, lỗi thời, mất vai trò trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong tình tình mới. Điều đó chỉ ra yêu cầu bức thiết của phong trào yêu nước Việt Nam thời điểm này cần nhanh chóng thoát khỏi những bế tắc của thời đại. Và quan trọng là mau chóng tìm ra một hệ tư tưởng mới chỉ đạo cho con đường cứu nước giành độc lập tự do.
  • 20. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 20 Những chuyển biến kinh tế-xã hội Việt Nam sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam đã gây ra nhiều hậu quả: kinh tế tàn tạ, chính trị ngột ngạt, các giai cấp trong xã hội phân hoá sâu sắc, đời sống nhân dân hết sức khó khăn,… Những cơ sở kinh tế-xã hội lúc bấy giờ là nguồn gốc tất nhiên của chế độ thực dân nửa phong kiến. Được sống độc lập, tự do là nguyện vọng thiết tha của mọi người. Đó là những tiền đề cho cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta. Trong những năm đầu thế kỉ XX, chính sách cai trị của thực dân Pháp đã tước đoạt hết quyền tự do của nhân dân ta. Chính sách khai thác của thực dân đã làm cho nền kinh tế nước ta phụ thuộc hoàn toàn vào nền kinh tế nước Pháp. Những nhà máy xí nghiệp, hãng buôn, hệ thống giao thông, hải cảng, thành thị ra đời hợp thành bộ phận kinh tế tư bản thực dân, chỉ có tác dụng tiêu thụ hàng công nghiệp của tư bản Pháp; vơ vét các mặt hàng nông-lâm-nghiệp để xuất khẩu và “ăn cướp có tổ chức” tài nguyên thiên nhiên nước ta. Tính chất độc quyền của nền kinh tế thực dân đã dẫn tới hậu quả là: quan hệ sản xuất phong kiến trong nông nghiệp được duy trì gần như nguyên vẹn, các ngành thủ công cổ truyền đang phát triển theo hướng tích cực thì bị bóp nghẹt, kinh tế tư bản dân tộc bị kìm hãm không sao phát triển được. Kinh tế nước ta do đó bị kiệt quệ. Công nhân, nông dân lâm vào cảnh đói rách, bần cùng. Đời sống của các tầng lớp khác như tiểu tư sản, dân nghèo thành thị luôn bị đe dọa. Đó là những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế nước ta đầu thế kỉ XX, gọi là nền kinh tế thực dân nửa phong kiến. Sự áp bức tàn bạo về chính trị và sự bóc lột nặng nề về kinh tế của thực dân Pháp đã gây nên phản ứng mạnh mẽ trong nhân dân ta, nhất là công nhân và dân nghèo thành thị, một bộ phận trí thức yêu nước. Độc lập, tự do bấy giờ là niềm khao khát cháy bỏng, là động lực to lớn thúc đẩy họ đấu tranh chống thực dân, phong kiến khi có thời cơ. Mặt khác, đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX chưa sản sinh được một giai cấp có đủ sức lãnh đạo thành công cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nhưng không vì thế mà nó bị đình đốn. Xã hội Việt Nam bấy giờ đã sản sinh ra một lớp người thay thế ban đầu, đó là lớp văn thân, sĩ phu yêu nước tiến bộ
  • 21. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 21 đang trên con đường tư sản hoá. Họ phần nào nắm bắt được nguyện vọng của quần chúng nhân dân, đứng ra đảm nhiệm vai trò của giai cấp lãnh đạo, tạo tiền đề phát triển cho cách mạng Việt Nam. Chính những chuyển biến về kinh tế-xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là tiền đề cho sự tiếp thu khuynh hướng mới vào Việt Nam-khuynh hướng dân chủ tư sản, tạo sự chuyển biến tư tưởng cách mạng Việt Nam. II. Những phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến trước năm 1930 II.1. Phong trào đấu tranh trước chiến tranh thế giới thứ nhất 1.1. Điều kiện ra đời của phong trào Việt Nam đầu thế kỉ XX đang trong tình trạng một nước thuộc địa nửa phong kiến. Do vậy, các khuynh hướng chính trị-tư tưởng lúc bấy giờ có gắn bó chặt chẽ với những phong trào đấu tranh, hoặc đòi hỏi quyền dân tộc hoặc đòi quyền dân chủ. Đầu thế kỉ XX cũng là thời gian mà khuynh hướng dân chủ tư sản chính thức đóng vai trò to lớn trong cuộc đấu tranh đó. Các cuộc khởi nghĩa nông dân cho đến đầu thế kỉ XIX đã hầu như bị Pháp “bình định” cơ bản, chỉ còn cuộc khởi nghĩa Yên Thế vẫn còn hoạt động, nhưng cũng không gây ra nhiều đe dọa cho chính quyền thuộc địa. Đứng trước sự bế tắc của con đường cứu nước cũ và sự du nhập của con đường cứu nước mới, những trí thức Nho học đã có sự nhìn nhận lại phương pháp cách mạng của mình. Đó là những cơ sở cho sự chuyển biến tư tưởng cứu nước của Việt Nam đầu thế kỉ XX. Quá trình cai trị của thực dân Pháp làm cho tình hình Việt Nam có nhiều biến đổi, đặc biệt xã hội ngày càng phân hóa. Do đó, phong trào cách mạng Việt Nam theo khuynh hướng tư sản theo thời gian cũng có sự khác nhau về đặc điểm. Trước hết phải thấy rằng, giai cấp tư sản Việt Nam hình thành về cơ bản không phải do sự phát triển của sức sản xuất xã hội trong sự vận động tự thân của lịch sử Việt Nam mà do chính quá trình xâm lược và thống trị của Pháp. Ngay từ đầu các yếu tố tư bản ở Việt Nam đã mang tính “ngoại nhập”. Những xí nghiệp, hầm mỏ, đồn điền, các hoạt động công-thương nghiệp ở Việt Nam, phần lớn đều bị tư sản Pháp thao túng. Hơn thế nữa, với tính cách tư bản tài chính là ít chú trọng đầu tư hạ tầng mà chủ
  • 22. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 22 yếu là sử dụng hình thức đổ vốn vào việc khai thác và bóc lột thuộc địa với phương châm “một vốn bốn lời”, thì nền kinh tế tư bản ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX què cụt hơn nhiều ở các nước tư bản công nghiệp. Việc thực dân Pháp gán ghép chủ nghĩa tư bản một cách không đầy đủ vào Việt Nam đã khiến cho giai cấp tư sản Việt Nam hình thành có những đặc điểm khác với tư sản các nước phương Tây. Một đặc điểm đầu tiên là giai cấp tư sản Việt Nam hình thành rất muộn: sau cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp (1897-1914). Trước đó, tư sản Việt Nam đã xuất hiện nhưng chưa đủ điều kiện để hình thành một giai cấp. Do đó có thể nói giai cấp tư sản ra đời thậm chí còn sau cả sự ra đời của giai cấp công nhân, và giai cấp công nhân Việt Nam dường như ra đời gắn với tư sản người Pháp nhiều hơn là với tư sản người Việt. Và như vậy, giai cấp làm tiền đề quan trọng cho sự xuất hiện, tiếp thu hệ tư tưởng tư sản tràn vào Việt Nam giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ nhất chưa có. Nhưng điều đó cũng không quyết định sự chuyển biến tư tưởng trong cách mạng Việt Nam. Cụ thể là Phan Bội châu, Phan Châu Trinh,… bản thân không phải là tư sản mà vẫn tiếp thu được tư tưởng dân chủ tư sản, thành lập các tổ chức lãnh đạo và phát động phong trào đấu tranh theo tư tưởng tưởng mới. Bên cạnh đó, quá trình cai trị của Pháp làm thay đổi hẳn bộ mặt kinh tế xã hội Việt Nam. Hàng loạt các thành phố theo kiểu phương Tây ra đời. Cùng với nó đã tạo ra một bộ phận thị dân. Thị dân là những người sống ở các thành thị, gồm không phải chỉ là một giai cấp nhất định, mà có thể là giới thương nhân, công nhân, học sinh, viên chức,… Những thị dân này, một mặt có nhu cầu và điều kiện về sinh hoạt văn hóa, tư tưởng; mặt khác họ được tiếp xúc với các luồng tư tưởng mới. Họ cũng là lớp người có tư tưởng cởi mở nhất, có thể thường xuyên giao tiếp với nhau và giao tiếp với những người đến từ các nước khác nên rất nhanh chóng tiếp thu với những thông tin, tri thức mới…Vậy nên, bộ phận thị dân chính là nơi du nhập đầu tiên các luồng tư tưởng tiến bộ nói chung, trong đó có tư tưởng dân chủ tư sản. Họ là lực lượng quan trọng cho khuynh hướng đấu tranh mới và là thành phần có thể giác ngộ đông đảo quần chúng nhân dân trong buổi giao thời. Thị dân cũng có mâu thuẫn với chính quyền thuộc địa về chính trị. Tuy nhiên, họ đa phần tư tưởng còn phân tán, chưa qua trải nghiệm đấu tranh. Thế nên, họ chưa thể
  • 23. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 23 đóng vai trò lãnh đạo. Lãnh đạo phong trào bấy giờ là các sĩ phu Nho học, những tri thức đang trong quá trình tư sản hóa. Lực lượng này có gắn bó thiết tha với sự nghiệp cách mạng trước đó, những người tiếp nối trực tiếp phong trào vũ trang kháng Pháp cuối thế kỉ XIX, mà lúc bấy giờ không có lực lượng nào khác đủ điều kiện thay thế. Họ hình thành nên các nhóm chính trị, đề ra tôn chỉ, mục đích để vận động cách mạng với nhiều hình thức phong phú lôi kéo quần chúng tham gia. Những điều kiện nói trên, đặc biệt về giai cấp lãnh đạo sẽ quyết định rất nhiều tới đặc điểm của khuynh hướng chính trị-tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam đầu thế kỉ XX. 1.2. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản trước chiến tranh thế giới thứ nhất 1.2.a. Phong trào Đông Du Đây là cuộc vận động giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản do Phan Bội Châu khởi xướng. Phan Bội Châu xuất thân là một tri thức Nho học. Ông lớn lên có sự gắn bó mật thiết với các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến trước đó. Lúc nhỏ, ông thường cùng bạn bè chơi trò “bình Tây”. Khi Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất (1883), ông thảo hịch “Bình Tây thu bắc” để kêu gọi nhân dân chống Pháp. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông lập “Đội Thí sinh quân”. “Tiếp đó là mười năm dạy học, mở rộng giao du, tìm những người đồng tâm, đồng chí bí mật liên lạc với các dư đảng Cần Vương…”5 Trong buổi giao thời, tư tưởng dân chủ tư sản bên ngoài dội vào ngày càng nhiều. Trong đó, gương tự cường của Nhật Bản theo chủ nghĩa dân chủ tư sản có sức hấp dẫn lớn đối với các sĩ phu yêu nước tiến bộ. Nó giúp cho các sĩ phu khắc phục nhanh chóng sự luyến tiếc chế độ phong kiến, cung cấp cho họ nhiều kiến thức mới về tư tưởng chính trị và truyền cho họ ngọn lửa nhiệt tình cách mạng. Cả châu Á xuất hiện phong trào “Châu Á bừng tỉnh”. Lúc này bất luận là cách mạng Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc hay là cuộc đấu tranh chống Anh của Ấn Độ do Tilak lãnh đạo đều 5 Nguyễn Ngọc Cơ (chủ biên) (2005), Lịch sử Việt Nam từ năm 1858-1918, Nxb Đại học sư phạm., 151
  • 24. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 24 mang tính quần chúng rộng rãi và thêm vào đó tính chất mới-tính chất tư sản. Điều đáng nói ở đây là sự vùng lên của phong trào “Châu Á bừng tỉnh” đều có ảnh hưởng ít nhiều từ phong trào Minh Trị Duy Tân (1868). Thành công của nước Nhật trên con đường cải cách và công nghiệp hóa sau Minh Trị Duy Tân, rồi chiến thắng trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905), đã cổ vũ các dân tộc phương Đông về khả năng khắc phục tình trạng lạc hậu và khả năng phục hưng của mỗi nước. Phan Bội Châu và một số sĩ phu cấp tiến Việt Nam mở đường Đông Du bởi sự thôi thúc và hấp dẫn của tấm gương phục hưng tự cường từ nước “đồng chủng, đồng văn” này. Tháng 1 năm 1905, một số sĩ phu Việt Nam do Phan Bội Châu đứng đầu sang Nhật cầu viện. Nhưng Nhật từ chối giúp đỡ viện trợ quân sự cho Việt Nam. Điều này cũng dễ hiểu. Muốn có độc lập tự do thì không thể trông chờ vào người khác được, huống chi bản thân Nhật là một nước đế quốc. Luận thuyết đồng chủng, đồng văn của chúng chẳng qua là một trò bịp bợm. Chủ nghĩa đế quốc “hút máu người” thì không kể đó là cùng màu da hay chủng tộc. Đế quốc làm gì đều có sự tính toán. Nếu họ có đem quân giúp đỡ nước ta thì nhất định sẽ mang theo âm mưu nào đó, thậm chí đó là một mối hiểm họa mới mà chính ta rước vào. Từ đó, Phan Bội Châu nhận ra vấn đề quan trọng muốn giải phóng dân tộc là phải xây dựng thực lực của chính mình. Việc cầu viện quân sự từ đây đã biến thành xuất dương du học. Mặc dù Nhật không giúp Việt Nam quân sự nhưng hứa giúp du học sinh Việt Nam ăn học. Từ năm 1906, phong trào Đông Du đi vào hoạt động ngày càng rầm rộ trên cả ba miền đất nước. Hàng loạt tác phẩm của Phan Bội Châu được dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ, gửi về nước. Những năm 1907 - 1908 là thời kì phong trào Đông Du phát triển mạnh nhất. “Năm 1908, số du học sinh lên tới 200 người, trong đó có hơn 100 người quê ở Nam Kì, 50 người quê ở Bắc Kì, và 40 người quê ở Trung kì” 6 . Chương trình học tập ở đây khá đa dạng, chủ yếu là học tri thức phổ thông và tri thức quân sự. Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông lập ra Hội Việt Nam Công Hiến (10/1907). Hội chú trọng tổ chức những buổi sinh hoạt chính trị giúp học sinh rèn luyện tư tưởng, đạo đức cách mạng. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và điều hành hoạt động ở đây giống như một chính phủ lâm thời. 6 Nguyễn Khánh Toàn (2004), Lịch sử Việt Nam, tập II (1958-1945), Nxb Khoa học xã hội, 144
  • 25. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 25 Cũng chính vào lúc này, Pháp nhận thấy sự phát triển của phong trào Đông Du ngày càng gây bất lợi cho chúng. Pháp-Nhật câu kết nhau đàn áp cách mạng Việt Nam. Tháng 9 năm 1908, Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam, đuổi học sinh ra ngoài nước Nhật. Phía Pháp ở Việt Nam bắt buộc các phụ huynh có con em du học tại Nhật phải viết thư gọi về, nhiều người còn bị bắt giam. Tháng 2 năm 1909, Phan Bội Châu và Cường Để cũng bị trục xuất khỏi Nhật. Có thể khẳng định, Đông Du là hoạt động đầu tiên chống chủ nghĩa thực dân trên nền tảng duy tân, đổi mới. Đây là một cuộc đổi mới từ tư duy yêu nước, cứu nước truyền thống là bạo động để khôi phục độc lập dân tộc đã chuyển sang tư duy cải cách, đề cao việc học tập tiến bộ. Xuất dương cầu học là một quyết định mang tính đột phá, thay đổi hướng đi và phương pháp đấu tranh, mở cửa hướng ra bên ngoài để học hỏi, tiếp nhận những cái mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Phan Bội Châu, chính là con người với hoài bão cách tân, đứng trước bế tắc của lịch sử dân tộc đã cố gắng đi tìm lời giải đáp: tự cường để cứu nước. Xuất phát điểm của Phan Bội Châu chính là lòng yêu nước, thương dân-nền tảng vĩ đại đưa ông suốt cuộc đời phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng “vọng ngoại” của Phan Bội Châu cũng là một hình thức thể hiện của chủ nghĩa yêu nước chân chính và của tư tưởng duy tân tự cường. Mục tiêu của phong trào là muốn tìm một thế lực mạnh bên ngoài có thể giúp Việt Nam chống lại Pháp để giành độc lập và sau đó phát triển đất nước giàu mạnh. Chủ trương Đông Du từ cầu viện quân sự chuyển thành xuất dương cầu học. Đây là một sự chuyển đổi hợp lý, có sức thuyết phục và có thể chuyển thành một phong trào yêu nước được nhiều người hưởng ứng. So với phong trào duy tân ở Nhật Bản, con đường canh tân ở Việt Nam có cả những điểm tương đồng và khác biệt. Cả hai nước đều nhận thức được tầm quan trọng của việc học tập khoa học kĩ thuật từ bên ngoài. Ở Nhật có phong trào “Hà Lan học” thì ở Việt Nam có trào lưu canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch… vào cuối thế kỷ XIX và phong trào Đông Du, Duy Tân đầu thế kỷ XX. Chỉ có điều phong trào duy tân ở Nhật Bản được tiến hành sau khi đã xóa bỏ sự tồn tại của chính quyền phong kiến Mạc Phủ, còn phong trào duy tân ở Việt Nam được thực thi trong điều kiện chế độ phong kiến đang còn tồn tại và đất nước đang nằm dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Kết quả khác nhau là
  • 26. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 26 điều dễ thấy. Tuy vậy, sự thức tỉnh ở Việt Nam được xem là khởi đểm cho những chuyển biến mạnh mẽ trong thời gian tiếp theo. Sự thực, hiện tượng Đông Du trên đất Nhật Bản đầu thế kỉ XX đã tác động sâu sắc đến tư tưởng và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Thông qua hoạt động của phong trào đã hình thành một nguồn lực quan trọng, làm phong phú nội lực cho đất nước, tạo tiền đề phát huy nội lực trong tương lai. Không chỉ là một phong trào xuất dương cầu học đơn thuần, đây còn là một phong trào chính trị, cách mạng, là một trường rèn luyện cách mạng cho thanh niên Việt Nam. Thực tế lịch sử cho thấy, phong trào đã đào tạo được một số cán bộ cách mạng cung cấp cho phong trào yêu nước ở Việt Nam trong thế kỉ XX như Đặng Tử Mẫn, Lương Ngọc Quyến, Lương Nhị Khanh, … và nhiều gương mặt thanh niên ưu tú khác. Phong trào Đông Du đã góp phần làm phá sản chính sách ngu dân của thực dân Pháp. Đông Du cùng những hoạt động sôi nổi, những tác phẩm tràn đầy nhiệt huyết của Phan Bội Châu kết hợp với phong trào Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục ở trong nước đã tạo ra những chuyển biến mới trong nhận thức tư tưởng và hình thái đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam từ hệ tư tưởng phong kiến sang tư tưởng dân chủ tư sản. Như vậy, tầm nhìn của phong trào Đông Du rất xa và rộng, chỉ có điều hoàn cảnh chính trị-xã hội đương thời không cho phép phong trào đến cái đích thành công. Hoạt động của phong trào đã kích động, mở đường cho những người có tư tưởng canh tân thực hiện chấn hưng đất nước sau này. Những bài học lịch sử của phong trào Đông Du để lại rất có ý nghĩa. Đông Du chỉ ra rằng không thể trông chờ vào đế quốc để chống đế quốc, mà phải biết tự “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Điều đáng ghi nhận và đánh giá cao là Phan Bội Châu cùng các đồng chí của ông đã thấy rõ không có bạo lực cách mạng thì không thể thắng được kẻ thù. Dù chọn con đường bạo động vũ trang để giành độc lập dân tộc, những nhà cách mạng Đông Du không hề coi nhẹ việc nâng cao dân trí, tuyên truyền giáo dục và thức tỉnh quốc dân đồng bào. Phong trào Đông Du đầu thế kỉ XX còn cho thấy, trong thời cận-hiện đại của lịch sử Việt Nam để cứu nước, để phát triển xã hội, những nhà ái quốc không thể tự giam mình trong phạm vi quốc gia mà phải tiếp cận với thế giới, phải tiếp xúc và giao lưu
  • 27. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 27 bên ngoài. Từ đó có thể hiểu mình, hiểu người, hiểu rõ thực trạng đất nước, tìm ra giải pháp đúng cho quá trình giải phóng dân tộc. 1.2.b. Phong trào Duy Tân Phong trào Duy Tân diễn ra vào khoảng những năm 1906-1908 do một số sĩ phu tiến bộ khởi xướng như Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng,… Phong trào Duy Tân là một biện pháp cách mạng điển hình đầu thế kỉ XX song song tồn tại cùng tư tưởng bạo động vũ trang của Phan Bội Châu. Đại diện tiêu biểu cho xu hướng cải cách lúc bấy giờ là Phan Châu Trinh. Phan Châu Trinh (1872-1926) là một sĩ phu tư sản hóa. Ông đỗ Phó bảng năm 1901, không ra làm quan, lại sống ở một vùng giao thương với nước ngoài phát triển là Quảng Nam-Đà Nẵng. Phan Châu Trinh không những chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nguyễn Lộ Trạch mà còn sớm tiếp xúc Tân thư, Tân văn nói về tư tưởng của nhiều nhà dân chủ tư sản Pháp, Trung Quốc. Tháng 8 năm 1906, Phan Châu Trinh viết thư gửi Toàn quyền Pôn Bô thể hiện tư tưởng của mình và lập tức trở thành thủ lĩnh của xu hướng cải cách trong cả nước. Phong trào Duy Tân nhằm vào cải cách đất nước về văn hóa, xã hội gắn liền với việc động viên lòng yêu nước, đấu tranh cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị thực dân. Nếu như Phan Bội Châu chủ trương cầu viện để “bài Pháp” thì Phan Châu Trinh lại “ỷ Pháp cầu tiến bộ”. Về đường lối cứu nước, Phan Châu Trinh chưa đặt việc khôi phục chủ quyền quốc gia thành nhiệm vụ trước mắt. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phản đối việc dùng vũ lực để giành lại độc lập cũng như cầu viện bên ngoài: bất bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, vọng ngoại giả ngu. Ông chủ trương yêu cầu chính quyền thuộc địa sửa đổi chính sách cai trị để có thể giúp nhân dân Việt Nam từng bước tiến đến văn minh. Ông kịch liệt lên án bọn vua quan phong kiến hủ bại và đề xướng tư tưởng dân chủ tư sản với yêu cầu: “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”. Phan Châu Trinh cho đây chính là những điều kiện để tiến tới giải phóng dân tộc. Nhưng Phan Châu Trinh cũng như các sĩ phu cải cách không ai nghĩ tới một đảng chính trị trong quá trình hoạt động. Điều này đã phần nào quyết định tính cách và bước đi của xu hướng này. Để thực hiện tư tưởng của mình, Phan Châu Trinh hô hào mở mang trường học, phát triển công thương, cải cách phong tục lạc hậu, chống lề lối phong kiến cổ hủ,…
  • 28. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 28 Chủ trương của ông được nhiều sĩ phu yêu nước hưởng ứng, phát triển nhanh chóng rộng khắp cả nước trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội… với nhiều hoạt động rất đa dạng. Trước hết ở Trung Kì từ 1906 đến 1908, Phan Châu Trinh trực tiếp lãnh đạo phong trào Duy Tân và phong trào chống thuế. Để cổ vũ cho lối học thực nghiệp, từ năm 1906, Phan Châu Trinh cho thành lập nhiều trường dạy chữ Quốc ngữ, chữ Pháp, văn hóa kĩ thuật. Các sĩ phu cải cách cũng rất chú trọng phát triển kinh tế, lập ra các hội buôn lớn như: Hội An, Phan Thiết, Liên Thanh thương quán,… kinh doanh hàng dệt vải, lâm sản, nông sản, hải sản,… giao thương với cả nước ngoài. Hoạt động sôi nổi hơn cả là trên lĩnh vực tư tưởng, sinh hoạt với khẩu hiệu để răng trắng, cắt tóc ngắn, ăn mặc theo kiểu mới,… Ở nông thôn nổi lên phong trào chống thuế của nông dân. Đến đây phong trào đã vượt khỏi sự kiểm soát của các sĩ phu cải cách. Thực dân Pháp lợi dụng sự kiện này thẳng tay đàn áp phong trào Duy Tân. Một số sĩ phu bị chém như Trần Quý Cáp, Lê Khiết và hàng chục người bị án lưu đày ở Côn Đảo như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế,… Ở Bắc Kì, đáng chú là sự ra đời của Đông Kinh nghĩa thục tại Hà Nội. Ở đây, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền được sự ủng hộ của nhiều trí thức tiến bộ, đã mở trường tư thục năm 1907 học theo kinh nghiệm của Nhật Bản. Nội dung dạy học theo lối mới, chú trọng khoa học tự nhiên, học bằng chữ Quốc ngữ, Hán và Pháp văn. Thầy dạy là những nhân vật nổi tiếng như Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Dương Bá Trạc,… Số học sinh lên tới hàng ngàn người. Nhà trường thường cho học sinh đi ngoại khóa, tham gia các cuộc bình giảng thơ văn, nói chuyện với dân chúng. Trường ngay từ lúc đầu đã dịch và biên soạn nhiều sách. Có những cuốn đã trở thành những tác phẩm đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ in ở Hà Nội như Nam Quốc Giai Sử, Việt Nam Quốc Sử Lược, Nam Quốc Địa Cư,… đặc biệt đã xuất hiện một số tác phẩm tả khuynh như Tiếng cuốc kêu, Bài ca vận động lính tập,… Vì lo sợ, tháng 11 năm 1907, thực dân Pháp đã cho đóng cửa trường này. Phong trào Duy Tân ở Nam Kì diễn ra có vẻ ít rầm rộ hơn với cái tên cuộc Minh Tân, tập trung vào những hoạt động kinh tế. Cùng với Sài Gòn, nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cần Thơ,… đã mọc lên các khách sạn (Nam Trung ở Sài Gòn, Minh Tân ở Mỹ Tho…), các cơ sở công nghệ (dệt, xà
  • 29. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 29 phòng, may mặc…), các hội tương tế và đặc biệt một số công ty như Minh Tân công nghệ xã, Nam Kì thương cuộc,… Phong trào Duy Tân ở đây cũng lắng xuống từ cuối năm 1908, sau phong trào chống thuế do Pháp tiến hành đàn áp. Phong trào Duy Tân cuối cùng đã thất bại. Đó cũng là sự thất bại chung của xu hướng cải cách đầu thế kỉ XX. Nguyên nhân thất bại lớn nhất là tách rời hay đúng hơn là đã chống lại biện pháp bạo động cứu nước. Phan Châu Trinh cũng không tán thành cầu viện nước ngoài. Bài xích phương pháp đấu tranh vũ trang, Phan Châu Trinh đã tự tách mình ra khỏi sức mạnh truyền thống lâu đời của ông cha trong đấu tranh chống ngoại xâm đó là vũ trang khởi nghĩa. Tư tưởng cải cách đơn thuần không đặt vấn đề bạo động của Phan Châu Trinh đã dẫn ông tới chỗ hoàn toàn loại trừ vấn đề đánh đuổi người Pháp, ngược lại còn đặt vấn đề dựa vào Pháp để chống phong kiến. Nhưng chống phong kiến chỉ dừng lại ở việc lên án quan lại hủ bại chứ chưa đụng đến toàn bộ cơ cấu của nó. Như vậy chủ trương chống phong kiến của Phan Châu Trinh về cơ bản còn đứng trên lập trường Nho giáo. Do hạn chế nhãn quan chính trị, coi chủ nghĩa đế quốc cũng là chủ nghĩa tư bản, mà chủ nghĩa tư bản thì tiến bộ hơn phương thức sản xuất phong kiến, nên Phan Châu Trinh chủ trương tạm thời dựa vào đế quốc để chống phong kiến, giành lại chủ quyền, sau đó sẽ đánh đổ đế quốc giành lại độc lập dân tộc. Điểm xuất phát trên đây của Phan Châu Trinh là nhận thức sai lầm về bản chất của các cường quốc tư bản Âu, Mĩ, do quá tin vào truyền thống tốt đẹp của nền dân chủ tư sản phương Tây. Mặt khác, Phan Châu Trinh còn phê phán, đánh giá trình độ của nhân dân ta quá kém để từ đó không tin vào khả năng cách mạng của nhân dân. Thực dân và phong kiến đã câu kết chặt chẽ với nhau thì chủ trương dựa vào Pháp để chống phong kiến của Phan Châu Trinh không chỉ là một ảo tưởng, mà còn là một sai lầm nghiêm trọng, làm chệch mục tiêu đấu tranh của quần chúng lúc này, đó là phải mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp. Mặc dù chủ trương cứu nước của Phan Châu Trinh còn nhiều hạn chế về mặt lịch sử, nhưng ông vẫn là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất ở Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Phan Châu Trinh là một nhà yêu nước nhiệt thành, đã có những đóng góp tích cực vào việc khơi dậy tư tưởng dân chủ, mở ra cách nhìn mới về vấn đề dân tộc, dân chủ. Trong hoàn cảnh một xứ thuộc địa, xu hướng cải cách khi có điều
  • 30. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 30 kiện thâm nhập vào quần chúng sẽ nhanh chóng biến thành bạo động, hoặc không tránh khỏi dẫn tới vũ trang bạo động. Việc cổ động thực nghiệp, bài trừ hủ tục phong kiến đã xen lẫn vận động binh lính chống Pháp. Đó là tiền đề dẫn đến các cuộc đấu tranh chống đi phu, chống thuế điển hình là phong trào năm 1908. 1.2.c. Phong trào Đông Kinh nghĩa thục Nhật Bản cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là “điểm sáng” thu hút nhiều chí sĩ nhiều nước Châu Á đến học tập để duy tân đất nước. Đặc biệt mở trường học kiểu Tây như Khánh Ứng nghĩa thục của Nhật Bản là hình thức rất được nhiều nước chú ý học hỏi. Năm 1906, Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh tham quan Khánh Ứng nghĩa thục tại Đông Kinh. Cuối năm 1906, trong một cuộc họp tại Bắc Ninh đã quyết định thành lập tại Hà Nội Đông Kinh nghĩa thục. Tháng 3 năm 1907, một nhóm sĩ phu cùng chí hướng đứng đầu là Lương Văn Can, Nguyễn Quyền đứng ra thành lập Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội. Mục đích của trường là : - Nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc và chí tiến thủ cho quần chúng. - Truyền bá một nền tư tưởng học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ. - Phối hợp hành động với các sĩ phu đã xuất dương và hỗ trợ cho phong trào Đông Du của Phan Bội Châu và phong trào Duy Tân đang phát triển trong cả nước7 Thực chất, Đông Kinh nghĩa thục là một tổ chức cách mạng dùng hình thức mở trường học, tuyên truyền văn hóa để đào tạo nhân tài, tập hợp lực lượng yêu nước và là trung tâm của phong trào vận động văn hóa mang tính chất dân tộc, dân chủ. Do tính chất vận động của văn hóa nên hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục phổ biến ở thành thị là chủ yếu. Nội dung hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục rất phong phú trên các lĩnh vực văn hóa-giáo dục, tư tưởng, xã hội, kinh tế. Đông Kinh nghĩa thục đả kích nền giáo dục phong kiến cũng như hậu quả của nền giáo dục ngu dân của chính quyền thực dân không có ý nghĩa mở mang văn hóa, văn minh cho dân tộc. Đông Kinh nghĩa thục phê phán nền giáo dục phong kiến xa rời thực tế, xem sách thánh hiền là đỉnh cao của trí tuệ. Mẫu người của nền giáo dục phong kiến hướng tới là kẻ sĩ, là người quân tử, là bậc trượng phu, hoàn toàn khác với những người bình dân, là thành phần đông đảo 7 . Đinh Xuân Lâm (chủ biên) (2005), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 160
  • 31. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 31 nhất trong xã hội. Nội dung chương trình học gồm các môn lịch sử, địa lý, khoa học thường thức dạy chủ yếu bằng chữ Quốc ngữ có kèm chữ Hán và Pháp văn. Trường còn đẩy mạnh biên soạn sách báo lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Đông Kinh nghĩa thục vận động học chữ Quốc ngữ, bài trừ mê tín dị đoan, phê phán những nhà nho thủ cựu, đả kích quan lại tham ô, cổ vũ lòng yêu nước, kết đoàn,… đánh thẳng vào hệ tư tưởng phong kiến, chĩa mũi nhọn vào kẻ thù chính là thực dân Pháp trên mặt trận văn hóa-tư tưởng. Về kinh tế, Đông Kinh nghĩa thục hô hào lập các hội buôn, nhằm tạo thêm nguồn tài chính cho trường hoạt động. Phong trào văn hóa của Đông Kinh nghĩa thục ngày càng phát triển mạnh. Số người quyên tiền ủng hộ và hưởng ứng Đông Kinh nghĩa thục ngày càng đông. Nhiều chi nhánh được thành lập như Mai Lâm nghĩa thục, Ngọc Xuyên nghĩa thục,… Để thu hút lực lượng cho mình, trường còn chủ trương người học không cần đóng học phí, lại còn được cấp giấy, bút, sách vở. Nhà trường có thư viện, kí túc xá, có lớp học ban ngày và buổi tối. Việc tổ chức của trường tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều người theo học. Thời gian đầu, thực dân Pháp phần nào có ngộ nhận về tính chất của Đông Kinh nghĩa thục bởi sự hoạt động công khai, hợp pháp của nó. Nhưng rồi phạm vi hoạt động ngày càng lan rộng, ảnh hưởng trong nhân dân càng lớn, thực tế phong trào đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần đoàn kết yêu nước sôi nổi. Đông Kinh nghĩa thục trở thành nguy cơ lớn đối với thực dân Pháp ở Việt Nam. Chính vì vậy, cuối năm 1907, thực dân Pháp bắt đầu bắt đóng cửa trường. Năm 1908, pháp bắt các sĩ phu Đông Kinh nghĩa thục trong đó có Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc,… tịch thu và cấm lưu hành tài liệu của trường. Mặc dù chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn, nhưng những gì mà Đông Kinh nghĩa thục làm được là rất lớn. Đó chính là xây dựng lực lượng vật chất trong các phong trào quần chúng, chuẩn bị về tinh thần, tư tưởng cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng trong thời đại mới. Đông Kinh nghĩa thục đã xây dựng được một phong trào cách mạng công khai hợp pháp khá sôi nổi trên lĩnh vực văn hóa và tư tưởng theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Đông Kinh nghĩa thục còn có tác dụng khơi dậy tinh thần dân tộc, ý thức đấu tranh, lòng yêu nước góp phần chuẩn bị cho bạo động vũ trang. Những hoạt động của Đông Kinh nghĩa thục thường được kết hợp với hoạt
  • 32. Viết thuê đề tài giá rẻ trọn gói - KB Zalo/Tele : 0973.287.149 Luanvanmaster.com – Cần Kham Thảo - Kết bạn Zalo/Tele : 0973.287.149 32 động của phong trào Đông Du và Duy Tân, phát triển thành cuộc cách mạng rộng lớn trong cả nước, lôi cuốn đông đảo lực lượng tham gia. Ngoài việc cống hiến lớn cho việc tuyên truyền cổ động cách mạng, phong trào Đông Kinh nghĩa thục còn góp phần tích cực vào phát triển ngôn ngữ, văn tự và văn hóa dân tộc. Phong trào đã đặt nền tảng cho một nền học thuật mới và một nếp sống văn minh tiến bộ ở Việt Nam. Mặc dù kiến thức giảng dạy còn sơ sài nhưng rất thiết thực với nhân dân, với sự phát triển đất nước hiện tại. Lần đầu tiên, một tư tưởng mới xuất hiện phê phán kịch liệt tư tưởng phong kiến Nho giáo lỗi thời cùng những tệ nạn xấu xa của xã hội thực dân. Những tư tưởng mới này dù khởi đầu chưa thể là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, nhưng đã phần nào đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng bị áp bức, bóc lột đang phải sống bần cùng, tăm tối dưới chế độ thực dân phong kiến. Không những thế, Đông Kinh nghĩa thục với những hoạt động tuyên truyền chấn hưng thực nghiệp và kinh doanh của mình đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế tư sản dân tộc trong quá trình hình thành thiếu cơ sở. Nhìn chung, Đông Kinh nghĩa thục dù thất bại nhưng tác dụng của nó rõ ràng không nhỏ. Nó góp phần chuẩn bị về mặt tinh thần cho các phong trào đấu tranh rộng lớn hơn sau đó. Những kinh nghiệm hoạt động phong phú của Đông Kinh nghĩa thục sẽ được các phong trào yêu nước giai đoạn sau kế thừa và phát huy, làm phong phú thêm nội dung, phương pháp đấu tranh cho cách mạng Việt Nam. 1.2.d. Phong trào Việt Nam Quang Phục hội Sau khi phong trào Đông Du tan rã, những người trong Duy Tân hội bị trục xuất khỏi Nhật Bản, một số ở lại lén lút hoạt động chờ thời. Ở trong nước, tình thế cũng không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Những người hoạt động trong Duy Tân hội bị thực dân Pháp lùng bắt, sát hại. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế được xem là cuộc khởi nghĩa có chiều sâu, là cơ sở quần chúng cho Duy Tân hội cũng gặp nhiều khó khăn do Pháp tiến hành bao vây, cô lập. Lúc bấy giờ, Xiêm là quốc gia Châu Á có tiếng độc lập tuy không có thực quyền. Nhưng chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ đem đến cho nhiều chí sĩ yêu nước của Duy Tân hội lòng ngưỡng mộ trong khi ngoài Nhật Bản và Xiêm thì các nước châu Á khác đương thời không tránh khỏi số phận thuộc địa của các nước đế quốc. Xiêm bấy giờ đặc biệt thu hút sự chuyển sang hoạt động của một số người trong tổ chức Duy Tân hội trong