(TẢI FREE ZALO 093 457 3149).
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
Giáo trình văn học dân gian các dân tộc thiều số Việt Nam. Tác giả: TS. Nguyễn Việt Hương (Chủ biên), GS.TSKH Phan Đăng Nhật, PGS.TS Nguyễn Thị Huế, TS. Phạm Việt Long.
(TẢI FREE ZALO 093 457 3149).
So sánh nội dung của bản Luận cương tháng 10/1930 với bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng? Ý nghĩa của vấn đề đối với bản thân
GIÁO TRÌNH VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐlongvanhien
Giáo trình văn học dân gian các dân tộc thiều số Việt Nam. Tác giả: TS. Nguyễn Việt Hương (Chủ biên), GS.TSKH Phan Đăng Nhật, PGS.TS Nguyễn Thị Huế, TS. Phạm Việt Long.
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...Minh Chanh
Chương 4
TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN
CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
Truyền thống là hệ thống những giá trị tinh thần và vật chất, hữu hình và vô hình, những phong tục, tập quán, thói quen, hành vi, việc làm thuộc lao động, lối sống, lối tổ chức của một dân tộc, một xã hội đã được gia đình và xã hội tích lũy từ đời này sang đời khác và đã được truyền lại cho nhau giữa những người sống trong cùng một thời đại, một thế hệ, tức là những người cùng thời và những người thuộc các thế hệ sau, các thế hệ tương lai .
Download luận văn thạc sĩ ngành đánh giá giáo dục với đề tài: Thực trạng về khả năng tự học của sinh viên các khoa và các hướng hỗ trợ hoạt động tự học
Chương 4 TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN H...Minh Chanh
Chương 4
TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ CƠ BẢN
CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
Truyền thống là hệ thống những giá trị tinh thần và vật chất, hữu hình và vô hình, những phong tục, tập quán, thói quen, hành vi, việc làm thuộc lao động, lối sống, lối tổ chức của một dân tộc, một xã hội đã được gia đình và xã hội tích lũy từ đời này sang đời khác và đã được truyền lại cho nhau giữa những người sống trong cùng một thời đại, một thế hệ, tức là những người cùng thời và những người thuộc các thế hệ sau, các thế hệ tương lai .
Download luận văn thạc sĩ ngành đánh giá giáo dục với đề tài: Thực trạng về khả năng tự học của sinh viên các khoa và các hướng hỗ trợ hoạt động tự học
The website is undergoing a facelift to improve the visual design, organize content better, and make the site easier to use with a focus on highlighting services. The relaunched site at neweast-west-sales.com will feature better visuals, organization, usability and emphasis on services at competitive prices for wholesale and retail products.
Hindustan Shipyard Ltd. was founded in 1941 as Scindia Shipyard and was nationalized in 1961. It was built by industrialist Walchand Hirachand and the first ship constructed was named Jai Usha. The company was transferred from the Ministry of Shipping to the Ministry of Defence in 2009. The board of directors includes several retired naval officers with engineering and management backgrounds, as well as an IAS officer who was previously an economics professor and worked for the International Labour Organization.
Teachers have a legal duty of care to protect students from foreseeable risks of harm during school activities. To avoid negligence claims, teachers must establish that they met their duty of care, did not breach it, and that any injuries were unforeseeable. This requires proper supervision, developmentally appropriate instruction, safe equipment, and consideration of student abilities. Teachers must constantly assess their practices to minimize risks and foresee potential issues in order to maximize safety and learning.
Dokumen tersebut membahas tentang budaya politik dan pengembangan budaya politik, mencakup pengertian budaya politik menurut para ahli, komponen-komponen budaya politik, proses sosialisasi politik, dan peran serta partisipan dalam budaya politik.
This document discusses how to overcome pride, haughtiness, and egotism through humility. It argues that one must recognize their dependence on God and sinfulness, submit to God's commands, accept life's circumstances as God's will, submit to authority ordained by God, honor others over oneself, serve the needs of others, work for unity and peace, and forgive rather than retaliate. Moses is presented as the ultimate example of humility before God and others.
Bronzeville is a neighborhood on the south side of Chicago that is 85.5% Black with a median income of $27,800. It was settled in the late 19th-early 20th century during the Great Migration, as African Americans moved north for greater opportunities. However, nearly a third of residents left after World War II due to economic decline. The neighborhood maintained segregation through public housing projects like Ida B. Wells in the 1930s-40s, though these were later demolished in the 2000s.
1. The document discusses plans for a music video to accompany the song "The Mother We Share" by Chvrches. It outlines how different scenes will incorporate either a narrative/storytelling element or a performance/lip-syncing element to match the lyrics.
2. Scenes in the first verse and chorus will show the actress looking through pictures of an ex and remembering their relationship through flashbacks to establish the narrative.
3. Later scenes will show the relationship deteriorating as the boyfriend cheats, culminating in the actress discovering the truth in the third verse and seeking revenge in the final chorus. Both narrative and performance elements will be used to convey the emotions of the story.
This document discusses how a person's character and intentions will be revealed by their actions and influences over time. It suggests that good people who do good things will produce good results, while bad people who do bad things will produce bad outcomes. The document also provides tips for how to give a thoughtful response after receiving a meaningful message, such as by thanking God and the message giver, reflecting on what part of the lesson impacted you, and committing to specific changes.
Download báo cáo tiểu luận môn học với đề tài: Tiểu luận vấn đề dân tộc và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa mác lenin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc
Smartbiz_He thong MES nganh may mac_2024juneSmartBiz
Cách Hệ thống MES giúp tối ưu Quản lý Sản xuất trong ngành May mặc như thế nào?
Ngành may mặc, với đặc thù luôn thay đổi theo xu hướng thị trường và đòi hỏi cao về chất lượng, đang ngày càng cần những giải pháp công nghệ tiên tiến để duy trì sự cạnh tranh. Bạn đã bao giờ tự hỏi làm thế nào mà những thương hiệu hàng đầu có thể sản xuất hàng triệu sản phẩm với độ chính xác gần như tuyệt đối và thời gian giao hàng nhanh chóng? Bí mật nằm ở hệ thống Quản lý Sản xuất (MES - Manufacturing Execution System).
Hãy cùng khám phá cách hệ thống MES đang cách mạng hóa ngành may mặc và mang lại những lợi ích vượt trội như thế nào.
1. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VIỆT NAM
1. Điều kiện hình thành, phát triển và những đặc điểm cơ bản
a) Điều kiện hình thành và phát triển
- Là một nước nằm ở phía Đông – Nam Châu Á, Việt Nam có vị trí địa lý rất thuận lợi
cho việc giao lưu về kinh tế, chính trị, văn hóa với hai nước có sự phát triển sớm là Trung
Quốc và Ấn Độ. Từ thời cận đại trở đi, Việt nam còn có sự tiếp xúc với nền tư tưởng và văn
hóa thế giới.
- Với phương thức sản xuất Châu Á, qua hàng ngàn năm các dân tộc Việt Nam thực hiện
nền kinh tế nông nghiệp, mà chủ yếu là tiểu nông lúa nước dựa vào thiên nhiên và trình độ lao
động thủ công - kinh nghiệm truyền đời của mình1. Dù đất đai và các tài nguyên khác đều
thuộc quyền sở hữu pháp lý của nhà nước, nhưng có sự phân cấp giao quyền sở hữu thực tế
cho các tổ chức làng xã quản lý và sử dụng. Chế độ tư hữu về ruộng đất manh nha từ cuối thời
Lý và phát triển vào thời cận đại đã làm xuất hiện một bộ phận nhỏ địa chủ trong xã hội;
nhưng nói chung, trong lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam, về căn bản, không diễn ra sự
phân hóa giai cấp sâu sắc. Chỉ khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị thuộc địa mới
dẫn tới sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ. Vì vậy, về cơ bản, lực lượng thống trị trong xã hội
Việt Nam truyền thống là đẳng cấp phong kiến cấu kết với lực lượng nhỏ lẻ giai cấp địa chủ
trong các cơ sở làng xã nông thôn. Trong những thời kỳ Bắc thuộc và Pháp thuộc, một bộ
phận lực lượng thống trị đó thường trở thành công cụ cai trị của các thế lực ngoại xâm, nhưng
một bộ phận khác cấp tiến và có tinh thần dân tộc đã tổ chức dân cư đấu tranh, khởi nghĩa
chống lại các thế lực thống trị đó để giành độc lập dân tộc.
- Với một lịch sử có trên hai ngàn năm văn hiến, dân tộc ta phải trải qua hơn một ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Do vậy, lịch sử chính trị Việt Nam trước hết là lịch sử
chống giặc ngoại xâm để xây dựng, bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc. Nhưng dù trong
thời kỳ nào, cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống Việt Nam cũng là một hệ thống kép mà hệ
thống dưới là cơ cấu các làng xã khép kín của các nhóm cư dân nông nghiệp2. Trong xã hội
phong kiến độc lập tự chủ Việt Nam (từ thế kỷ X đến thế kỷ XVIII), nhà nước quan liêu đó
luôn có hai nhiệm vụ cơ bản là tổ chức dân cư các làng xã chống giặc ngoại xâm và xây dựng,
bảo trì hệ thống thủy lợi, tức là thực hiện chức năng kinh tế và an ninh của nhà nước phong
kiến Việt Nam. Tuy nhiên, từ khi thực dân Pháp áp đặt nền cai trị theo chế độ thuộc địa (kiểu
cũ), cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống đó bắt đầu có những thay đổi, và thay đổi rất cơ bản
trong thời kỳ cách mạng thành công và công cuộc đổi mới hiện nay.
- Phương thức sản xuất châu Á được thực hiện trong một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu tồn tại hàng ngàn năm, lại được bảo tồn bằng một cơ cấu xã hội khép kín của các làng xã
đã trở thành cơ sở hiện thực của một “văn hóa làng mạc”. Tri thức cơ bản của các cư dân
nông nghiệp truyền thống Việt Nam là tri thức kinh nghiệm, được hình thành một cách tự
phát từ trong sinh hoạt sống hàng ngày. Những tri thức như vậy không đủ để hệ thống hóa
thành các lý luận khoa học tự nhiên, thành các hệ thống triết học thật sự3, nhưng chúng góp
phần làm nảy sinh lịch sử tư tưởng Việt Nam, trong đó có tư tưởng triết học.
b) Những đặc điểm cơ bản: Quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng triết học
Việt Nam là quá trình phát triển thống nhất trong mình hai xu hướng là xu hướng tự thân từ
hiện thực cuộc sống của dân tộc Việt nam và xu hướng tiếp biến các tư tưởng triết học được
1
Cuối thế kỷ XX mới có cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất nông nghiệp nhưng rất hạn chế.
2
Mỗi làng xã Việt Nam là một cơ cấu kinh tế – chính trị – văn hóa hoàn chỉnh khép kín và rất ổn định qua nhiều thế kỷ.
3
Một số tri thức về nghề thủ công với tư cách là nghề phụ trong các làng xã không đủ để đạt tới trình độ của công nghiệp và sản xuất hàng
hóa phổ biến. Nó thường được phát hiện ngẫu nhiên và trở thành bí quyết của các làng nghề truyền thống. Các tri thức về xã hội của người
Việt Nam truyền thống căn bản bị giới hạn ở các hiểu biết mang tính quy phạm giao tiếp trong tổ chức làng xã. Thêm vào đó là những hiểu
biết về truyền thống dân tộc mà chủ yếu là qua truyền khẩu. Khi có sự giao lưu tri thức với các học thuyết lớn từ Trung Quốc và Ấn Độ, một
tầng lớp trí thức không lớn đã có điều kiện tiếp thu theo tinh thần thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, những tri thức từ các học thuyết này chủ
yếu là các tri thức về chính trị - xã hội…
2. du nhập từ bên ngoài như Nho giáo từ Trung Quốc và Phật giáo có gốc từ Ấn Độ trước đó,
còn hiện nay là chủ nghĩa Mác - Lênin. Rất nhiều quan điểm triết học các của học thuyết nói
trên đã được biến đổi cho phù hợp phong cách tư duy triết học truyền thống của người Việt
Nam, trở thành nhân tố chủ đạo tạo nên quan điểm triết học của người Việt Nam.
- Về nội dung, tư tưởng triết học Việt Nam không chỉ phản ánh nhu cầu cố kết cộng đồng
dân cư làng xã và cộng đồng quốc gia dân tộc để tạo nên nội lực (xu thế hướng nội) mà còn
phản ánh nhu cầu học tập người nước ngoài để chống lại sự xâm lược nhằm bảo vệ nền độc
lập dân tộc để tìm kiếm thêm ngoại lực (xu thế hướng ngoại). Do vậy mà ý thức về cộng
đồng, về độc lập chủ quyền đã được nảy sinh rất sớm, được nâng lên thành tư tưởng yêu nước
và thường xuyên được nuôi dưỡng, phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc để ngày nay
trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
- Về hình thức thể hiện, các tư tưởng triết học Việt Nam được thể hiện qua rất nhiều hình
thức phong phú, chứ không giới hạn trong các trước tác của các nhà tư tưởng. Từ các triết lý
thể hiện thông qua các truyền thuyết, ca dao, tục ngữ mang nặng tính dân gian cho đến những
tư tưởng được gọt dũa khá kỹ trong các tác phẩm; thậm chí, ngay cả hoạt động của các phong
trào dân tộc cũng là một hình thức và là một phương thức thể hiện tư tưởng ở chiều sâu của tư
duy triết học.
2. Những nội dung cơ bản của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam
a) Những tư tưởng triết học chính trị, đạo đức và nhân văn
Tư tưởng yêu nước: Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng yêu nước vừa là
một tư tưởng chính trị vừa là một tư tưởng đạo đức, nhân văn; nó không ngừng được suy tư,
chiêm nghiệm trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước; cho nên xuyên qua chiều dài
lịch sử dân tộc nó đã đạt được chiều sâu của triết lý và trở thành chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một thể thống nhất ba quan niệm sâu sắc về dân tộc và
độc lập dân tộc; về một quốc gia độc lập ngang hàng với phương Bắc; về nguồn gốc, động lực
của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước.
- Quan niệm về dân tộc và độc lập dân tộc đã nảy sinh rất sớm (ở các cư dân người Việt
thuộc giai đoạn trước khi giành được quyền độc lập dân tộc nhằm xây dựng một quốc gia có
chủ quyền ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc) rồi dần dần phát triển thành
lý luận (trong giai đoạn lịch sử mới khi dân tộc đã giành được quyền độc lập tự chủ). Dựa trên
sự khác biệt về thiên văn và địa lý, người Việt Nam đã từng bước khẳng định sự tồn tại độc
lập, không phụ thuộc của dân tộc mình vào tộc Hán; cho dù người Hán bằng mọi cách ra sức
từng khẳng định điều ngược lại để làm cơ sở tư tưởng cho các cuộc xâm lược xuống phía
Nam. Tư tưởng độc lập đó, đến thời Lý đã được Lý Thường Kiệt kế thừa và khẳng định “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư”. Cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã buộc các nhà tư tưởng
phải khái quát về mặt lý luận tư tưởng trên. Trong các bức thư gửi quân Minh và nhất là trong
tác phẩm Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã chứng minh rằng, cộng đồng tộc Việt có đủ các
yếu tố địa lý, cương vực, phong tục, lịch sử, nhân tài nên nó đã là một cộng đồng người có bề
dày lịch sử ngang hàng với cộng đồng người của phương Bắc, không phụ thuộc vào phương
Bắc. Nhận thức đó của Nguyễn Trãi đã nêu lên được các yếu tố cần thiết làm nên một dân
tộc, đã đặt cơ sở lý luận cho sự độc lập dân tộc. Lý luận đó đã đạt tới đỉnh cao của quan niệm
về dân tộc độc lập dưới thời kỳ phong kiến Việt Nam. Nó tạo nên sức mạnh cho cộng đồng
người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược ở đầu thế kỷ XV và cả giai
đoạn lịch sử sau này. Nhưng khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, lý luận trên tỏ ra bất lực.
Phải hơn nửa thế kỷ sau, vào những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh mới tìm ra được lý
luận cứu nước mới và Người đã làm cho khái niệm dân tộc và dân tộc độc lập có nội dung và
sắc thái ngang tầm thời đại mới trên một cơ sở thế giới quan mới.
- Quan niệm về nhà nước của một quốc gia độc lập ngang hàng với phương Bắc. Ở Việt
Nam trước và sau khi giành được độc lập dân tộc từ sự thống trị của các tập đoàn phong kiến
phương Bắc, phạm trù dân tộc nằm trong hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, gắn với tính
chất và địa vị cũng như với chế độ chính trị - xã hội đã trở thành hình thức đặc biệt quan trọng
3. để cố kết các yếu tố cấu thành dân tộc và là điều kiện để thực hiện quyền dân tộc. Trước khi
người Hán đến, tộc Việt đã có nhà nước Văn Lang và Âu Lạc của mình. Người Hán đến, nhà
nước Âu Lạc bị tiêu diệt, lãnh thổ của tộc Việt bị biến thành một bộ phận của tộc Hán. Người
Việt đấu tranh chống lại sự thống trị của người Hán cũng có nghĩa là đấu tranh giành quyền tổ
chức ra nhà nước riêng của mình, chế độ riêng của mình. Quyền xây dựng nhà nước riêng,
chế độ riêng là mục tiêu hàng đầu của các cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Xây dựng
nhà nước trong lúc bấy giờ không thể không tính tới các yếu tố quốc hiệu, quốc đô, đế hiệu,
niên hiệu,… Cần phải làm sao để các quốc danh, quốc hiệu đó vừa thể hiện được sự độc lập
dân tộc, vừa cho thấy sự bền vững, sự phát triển và sự ngang hàng với các triều đại phương
Bắc4.
- Quan niệm nguồn gốc, động lực của cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước. Muốn
chiến thắng được kẻ thù đông đảo và hùng mạnh cần phải động viên được sức mạnh của toàn
dân. Do vậy, những suy tư ở chiều sâu triết học về nguồn gốc và động lực của cuộc chiến
tranh cứu nước và giữ nước cũng đã trở thành một nội dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam. Lý Công Uẩn từng nhấn mạnh “Trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, thấy thuận
tiện thì thay đổi”. Lý Phật Mã nói: “Nếu trăm họ mà no đủ thì ta lo gì thiếu thốn”. Trần Nhân
Tông thì nói: “Ngày thường có thị vệ hai bên, đến khi nước nhà hoạn nạn thì chỉ có bọn gia
nô đi theo thôi”. Nguyễn Trãi nói: “Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”, v.v. Lý
Thường Kiệt nói “Đạo làm chủ dân cốt ở nuôi dân”, v.v. Đến thời đại Hồ Chí Minh, quan
niệm về dân đã được phát triển đến một trình độ cao hơn và có cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Tư tưởng trọng dân đã là cơ sở cho đường lối đề cao nhân, nghĩa và cho đối
sách nhân hậu, cho những biện pháp nhằm hạn chế mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
Quan niệm về đạo làm người: Quan niệm này có liên quan mật thiết với việc xác
định cơ sở tư tưởng của hành động chính trị, đạo đức và nhân sinh. Quá trình suy tư về đạo
làm người đã làm cho các nhà tư tưởng Việt Nam tiếp thu và kết hợp tinh hoa của cả ba đạo
Nho, Phật, Lão - Trang thành một tư tưởng thống nhất phù hợp với điều kiện lịch sử chính trị,
đạo đức và cuộc sống của con người Việt Nam. Họ không chỉ thấm nhuần tư tưởng này mà
còn thể hiện nó thành hành động trong cuộc sống. Tuy nhiên, tùy theo các điều kiện lịch sử cụ
thể mà có thể nhận thấy vai trò trội hơn của mỗi đạo trong mỗi nhà tư tưởng cũng như trong
mỗi tình huống cụ thể. Trong giai đoạn lịch sử Lý - Trần, đạo Phật và đạo Lão - Trang có xu
hướng phát triển và ảnh hưởng trội hơn đạo Nho. Ngược lại, trong giai đoạn lịch sử thời Lê -
Nguyễn, đạo Nho lại có xu hướng được tôn vinh. Mỗi nhà tư tưởng khi nhập thế vào đời phò
vua, giúp nước thường chịu nhiều ảnh hưởng của những tư tưởng đạo Nho. Ngược lại, khi lui
về ở ẩn hoặc trong thời kỳ thanh bình của đất nước lại có xu hướng tôn vinh những tư tưởng
của đạo Phật và đạo Lão - Trang.
b) Tiếp biến một số tư tưởng triết học Phật giáo
- Trên phương diện bản thể, các nhà trí thức thời Lý - Trần đã suy ngẫm những tư tưởng
siêu hình học của triết học phật giáo Ấn Độ đã được Trung Hoa hóa và truyền bá vào Việt
Nam. Ví dụ, phái Thiền tông coi phạm trù triết học trung tâm là bản thể chân như (thực tướng
các pháp hay bản thể như lai). Theo phái này, các hiện tượng (pháp hữu vi) luôn biến đổi
không ngừng trong thế giới chỉ là sự biểu hiện cụ thể của một cơ sở thống nhất chung - bản
thể chân như. Vì vậy, muốn đạt tới sự giác ngộ cần phải vượt qua thế giới các hiện tượng để
đạt tới bản thể chân như bằng con đường siêu việt vượt qua các hiện tượng, chứ không phải
bằng con đường đi từ trực quan sinh động đến bản chất trừu tượng.
- Trên phương diện nhân sinh, Phật giáo Việt Nam rất coi trọng phạm trù từ bi. Dựa trên
phạm trù vô ngã trong triết học Phật giáo Ấn Độ cổ đại, phạm trù từ bi nói lên là tinh thần bao
4
Để thực hiện điều này, Lý Bí đã từng từ bỏ luôn các tên gọi mà họ đã áp đặt cho nước ta, như “Giao Chỉ”, “Giao Châu”, “Nam Giao”,
“Lĩnh Nam” v.v. Đó là những tên gọi gắn liền với sự phụ thuộc vào phong kiến phương Bắc. Lý Bí đã đặt tên nước ta là Vạn Xuân. Sau này
nhà Đinh đặt tên nước là Đại Cồ Việt, còn nhà Lý lại đặt quốc hiệu là Đại Việt… “Hiệu” của người đứng đầu quốc gia cũng được chuyển từ
Vương hiệu sang Đế hiệu để chứng tỏ sự độc lập ngang hàng với Hoàng Đế phương Bắc. Kinh đô cũng được chuyển từ Cổ Loa đến Hoa Lư,
rồi từ Hoa Lư đến Thăng Long để có được nơi “Trung tâm của bờ cõi đất nước… vị trí ở giữa bốn phương, muôn vật phong phú tốt tươi…
chỗ tụ họp của bốn phương” (Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn), nơi xứng đáng là kinh đô của một nước độc lập và phát triển phồn thịnh.
4. dung giữa con người với nhau cũng như với muôn loài vô tình và hữu tình. Với phạm trù từ
bi, triết học Phật giáo Việt Nam đã góp phần tạo dựng một cơ sở lý luận cho tư tưởng nhân ái
Việt Nam, vốn đã có cơ sở hiện thực từ lịch sử cố kết cộng đồng dân tộc.
c) Tiếp biến một số tư tưởng triết học Nho giáo
- Các nhà nho lỗi lạc của Việt Nam như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thời Nhậm tiếp tục
đi sâu vào triết lý ở tầm siêu hình học, gắn liền với sách Trung Dung (trong Tứ thư) và những
chú giải của các nhà Nho học Trung Hoa đối với bộ Chu Dịch (trong Ngũ Kinh).
- Nhiều tư tưởng tiến bộ trong các quan điểm về chính trị đạo đức của Nho giáo đã được
các nhà tư tưởng Việt Nam kế thừa theo tinh thần thực tiễn của dân tộc nhằm xác lập ý thức
hệ cai trị phong kiến theo mô hình chế độ trung ương tập quyền. Đó là tư tưởng thân dân,
trọng dân, coi dân là gốc của quốc gia; đó là tư tưởng nhân, nghĩa trong đời sống chính trị - xã
hội; đó là mối quan hệ biện chứng song trùng giữa vua - tôi, cha - con, chồng - vợ; đó là các
phạm trù đạo đức trung, hiếu, tiết, nghĩa v.v. Trong khi kế thừa và sử dụng các tư tưởng tiến
bộ đó, các nhà tư tưởng Việt Nam đã bổ sung và làm thay đổi các nội hàm một số khái niệm
vốn có của Nho giáo Trung Hoa.
d) Sự đối lập giữa thế giới quan duy vật và duy tâm, triết học và tôn giáo trong lịch sử
tư tưởng triết học Việt Nam
- Trong suốt thời đại phong kiến, quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa các hệ tư tưởng
bên ngoài du nhập vào Việt Nam được bản địa hóa thông qua cuộc đấu tranh gay gắt giữa thế
giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, giữa triết học và tôn giáo, tín ngưỡng. Cuộc đấu
tranh đó chỉ thật sự lắng dịu khi các hệ tư tưởng triết học phương Tây, đặc biệt là triết học
Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam. Ranh giới cuộc đấu tranh này không được phân
định rõ ràng và trải rộng trên nhiều vấn đề; trong đó, chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thường
biểu hiện ra như một hệ thống lý luận khá chặt chẽ (do sự giao thoa và có xu hướng hợp nhất
của ba đạo Nho, Phật và Lão - Trang với tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người Việt) còn
các quan điểm duy vật và vô thần còn đậm tính chất kinh nghiệm, ngẫu nhiên, lẻ tẻ. Đó là
cuộc đấu tranh để xác định mối quan hệ giữa tâm – vật, linh hồn – thể xác, lý – khí …; để
vạch ra nguyên nhân, nguồn gốc của các sự kiện chính trị của đất nước, sự an – nguy, hưng -
vong của các triều đại; bản tính - số mệnh của mỗi con người; đạo trời - đạo người, v.v..
- Mỗi khái niệm được sử dụng trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, mà tiêu biểu là
các khái niệm mệnh trời, nghiệp, kiếp, linh hồn, thể xác, v.v. đều bao hàm trong mình sự đan
xen, giao thoa của bốn chiều tư tưởng Nho - Phật - Đạo - Tín ngưỡng dân gian. Vì vậy, cùng
một thuật ngữ (khái niệm) nhưng trong nội hàm của nó có thể bao hàm những dấu hiệu khác
nhau, thậm chí tư tưởng trái ngược nhau (do thuộc về các thế giới quan khác nhau). Trong quá
trình phát triển, các quan điểm duy tâm và tôn giáo đã tự bộc lộ những hạn chế của mình
trong việc giải thích phù hợp với thực tiễn các sự kiện chính trị - xã hội; do đó, các quan điểm
theo lập trường duy vật và vô thần xuất hiện thay thế. Tuy nhiên, cách giải thích này không
thể không sử dụng các thuật ngữ vốn có của triết học đạo Nho, Phật hay Lão – Trang; do vậy,
nó chỉ mang tính duy vật và vô thần tự phát và thiếu triệt để. Thiên mệnh vốn là thuật ngữ của
Nho giáo nhưng được giải thích theo quan điểm duy vật và vô thần, khi đó, nó được coi là các
lực lượng khách quan, tất yếu của giới tự nhiên mà không phải là lực lượng thần bí và nhân
cách hóa. Vận dụng lý lẽ về sự biến đổi tất yếu khách quan được viết trong Kinh Dịch, một số
nhà tư tưởng Việt Nam đã giải thích khái niệm thời - thế theo nguyên tắc duy vật và có tính
biện chứng sâu sắc. Những tư tưởng duy vật và vô thần thường là lý luận của tầng lớp trí thức
cai trị tiến bộ và quần chúng nhân dân nhằm cải biến vận mệnh của đất nước; do đó, chúng
thường được hình thành từ thực tiễn lao động và bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc, xây dựng
quốc gia độc lập tự chủ trước các thế lực ngoại xâm và phù hợp với những triết lý của nhân
dân.
Tóm lại, xét về nguồn gốc, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là sự phản ánh lịch
sử trên hai ngàn năm cố kết cộng đồng dân tộc để dựng nước và giữ nước; là lịch sử phát sinh
và phát triển của tư tưởng triết học trong quá trình thường xuyên có sự giao lưu, tiếp biến đối
5. với các tư tưởng triết học lớn được du nhập từ bên ngoài mà trước hết là từ Trung Hoa và Ấn
Độ; còn xét về cấu trúc, lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam lấy chủ nghĩa yêu nước Việt Nam
làm cốt lõi để tiếp biến các lý luận bên ngoài. Những tư tưởng đó đã được nâng lên ở tầm cao
mới trong thời đại Hồ Chí Minh với sự du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin và dựa trên thực tiễn
mới của thời đại.
3. Vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của tư tưởng triết học Việt Nam
Từ khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị thực dân ở Việt Nam đã làm xuất hiện
hai nhu cầu lớn của lịch sử: một là, giải thích sự thất bại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn;
và hai là, tìm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Để giải quyết hai nhu cầu đó của lịch sử, các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này
đã trở về với các hệ tư tưởng đã có trong lịch sử - thế giới quan và phương pháp luận của Nho
giáo và Phật giáo (Ví dụ, Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX). Tuy nhiên, mọi cố gắng của các nhà tư tưởng Việt Nam thời kỳ này đều thất
bại. Bởi lẽ: Về mặt thực tế, sự thất bại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn là sự thất bại của
một phương thức sản xuất ở trình độ thấp hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở
phương Tây, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã chứng minh sức mạnh của nó bằng
việc tiêu diệt không thương tiếc phương thức sản xuất phong kiến và tiếp tục bành trướng sức
mạnh của nó trên phạm vi quốc tế. Về mặt ý thức, hệ tư tưởng tư sản ở trình độ phát triển cao
hơn hệ tư tưởng phong kiến, nó dựa trên một thế giới quan duy vật thời cận đại, gắn liền với
những tri thức khoa học tự nhiên ở thế kỷ XVII – XVIII, trong khi đó, hệ tư tưởng phong kiến
Việt Nam trong lịch sử gần một ngàn năm thời kỳ độc lập tự chủ (từ thế kỷ X) là hệ tư tưởng
được xác lập trên nền tảng duy tâm, gắn với những quan niệm tôn giáo và tín ngưỡng - đó là
thế giới quan và phương pháp luận của Nho giáo và Phật giáo5. Vì vậy, mọi nỗ lực của các
nhà tư tưởng Việt Nam thời cận đại tìm kiếm lời giải đáp những nguyên nhân thất bại của
triều đại Nhà Nguyễn cũng như con đường giải phóng dân tộc đều thất bại.
Để tạo ra tầng lớp trí thức phục vụ cho mục tiêu khai thác thuộc địa, thực dân
Pháp đã tiến hành tạo dựng một hệ thống giáo dục - đào tạo Tây học với nội dung cơ bản là
các kiến thức khoa học kỹ thuật. Điều này đã tạo cơ hội cho sự du nhập những tư tưởng triết
học phương Tây vào Việt Nam; nhưng những tư tưởng triết học phương Tây được du nhập
vào Việt Nam qua tầng lớp trí thức Tây học căn bản là những tư tưởng triết học Tây Âu thời
cận đại, thể hiện thế giới quan duy vật siêu hình, không triệt để (duy vật trong quan niệm về
tự nhiên, còn duy tâm quan niệm về xã hội). Dù một số nhà tư tưởng Tây học có lòng yêu
nước nhiệt thành nhưng với thế giới quan duy vật siêu hình, không triệt để họ đã không thể
giải đáp được những nhu cầu lớn lao của lịch sử Việt Nam.
Trước sự thất bại của tất cả các thế giới quan và phương pháp luận truyền thống
Nho học, Phật học cũng như Tây học, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc.
- Điểm xuất phát để Hồ Chí Minh đi ra nước ngoài tìm con đường cứu nước không phải
trực tiếp là nhu cầu đi tìm một thế giới quan và một phương pháp luận triết học mới, không
phải là một lý luận triết học trừu tượng, mà là những lý luận, những biện pháp có khả năng
thực tế nhất để dẫn dắt, lãnh đạo phong trào yêu nước đi đến thành công trong thực tiễn chính
trị là giải phóng dân tộc - cứu dân, cứu nước; là làm sao để dân tộc Việt Nam được độc lập,
đồng bào Việt Nam ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Cũng tức là độc lập
cho dân tộc và tự do, hạnh phúc cho mỗi người dân lao động. Suốt ba mươi năm tìm đường
cứu nước, như một tất yếu lịch sử Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, đến với hệ
tư tưởng cách mạng và khoa học nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đến với
học thuyết thống nhất ba bộ phận lý luận cấu thành là Triết học, Kinh tế chính trị học và Chủ
nghĩa xã hội khoa học.
5
Về mặt thế giới quan và phương pháp luận, Nho giáo, dù là ở Trung Quốc hay ở Việt Nam, về căn bản đều là duy tâm về lịch sử; còn Phật
giáo ở Aán Độ cổ đại có nhiều yếu tố duy vật bên cạnh những tư tưởng biện chứng sâu sắc, nhưng khi du nhập vào Việt Nam về cơ bản là
những tư tưởng Phật giáo đã ít nhiều Trung Hoa hóa, nên về tổng thể và cơ bản, đó vẫn là thế giới quan duy tâm.
6. - Triết học Mác - Lênin chính là thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng nhất; là thành quả vĩ đại của lịch sử triết học thế giới. Linh hồn của nó, sức sống mãnh
liệt nhất của nó là phép biện chứng duy vật ở trình độ lý luận cao nhất, khoa học nhất, vược
qua không những phép siêu hình của triết học duy vật cận đại Tây Âu mà còn vượt qua phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức. Thế giới quan duy vật của triết học Mác - Lênin đã khắc
phục được hạn chế của thế giới quan duy vật cận đại Tây Âu chính ở chỗ nó đã đem lại một
quan niệm duy vật và biện chứng về quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, lịch sử
phát triển của nhân loại. Trung tâm của những quan điểm duy vật về lịch sử chính là học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ có thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật của triết học Mác - Lênin mới có khả năng lý giải được một cách đúng đắn
khoa học đối với các sự kiện lịch sử, dù là các sự kiện lịch sử ở phương Tây hay phương
Đông Á6.
- Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy
vật để lý giải một cách đúng đắn khoa học những câu hỏi đặt ra của lịch sử Việt Nam thời cận
đại mà không một nhà tư tưởng tiến bộ nào có thể làm được và đỉnh cao của sự vận dụng đó
là tìm ra lý luận và phương pháp giải quyết đúng đắn khoa học con đường giải phóng dân tộc
đồng thời xác định hướng phát triển của xã hội Việt Nam lên hình thái kinh tế - xã hội mới
sau khi giành được độc lập - đó là con đường định hướng phát triển xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Điều này đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…”. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của những tư tưởng về độc lập dân tộc, về chủ nghĩa xã hội, về văn hóa, về đạo đức,
nhân văn… Thế giới quan và phương pháp luận Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn vẹn, thống
nhất của những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Hạt nhân của thế giới quan
đó là triết học Mác - Lênin; sự phong phú của thế giới quan đó là những tổng kết kinh nghiệm
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; vẻ đẹp của thế giới quan đó được tạo ra bởi sự
kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học của thế giới quan Mác - Lênin với các giá trị triết học
truyền thống Việt Nam, cũng như các giá trị của lịch sử triết học phương Đông và phương
Tây.
Chúng ta có thể tìm thấy trong mỗi lời nói, việc làm, bài viết của Hồ Chí Minh sự vững
chắc của các nguyên lý triết học Mác - Lênin, sự tinh tế của các triết lý trong nền triết học
phương Đông, phương Tây và một chiều sâu thẳm của các giá trị tư tưởng triết học Việt Nam
về độc lập dân tộc, về nhân văn, về đạo sống, đạo làm người của dân tộc Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, lịch sử triết học Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, hiện đại.
Thời kỳ hiện đại của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là thời kỳ phát triển tư tưởng triết
học với nội dung cơ bản của nó là nguyên cứu, vận dụng và phát triển các nguyên lý của triết
học Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình vượt qua những
hạn chế và kế thừa có chọn lọc các giá trị trong lịch sử triết học Việt Nam cũng như lịch sử
triết học phương Đông và phương Tây theo mục tiêu giải quyết các nhiệm vụ của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6
Không phải ngẫu nhiên mà khi nhận xét về giá trị của các học thuyết đã có trong lịch sử, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng cái hay của chủ
nghĩa Mác là phương pháp làm việc biện chứng. Ở đây, Hồ Chí Minh đã khẳng định không phải chỉ là cái hay của phương pháp tư duy biện
chứng mà quan trọng hơn là phương pháp biện chứng duy vật trong tổ chức hoạt động thực tiễn.
7. - Triết học Mác - Lênin chính là thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng nhất; là thành quả vĩ đại của lịch sử triết học thế giới. Linh hồn của nó, sức sống mãnh
liệt nhất của nó là phép biện chứng duy vật ở trình độ lý luận cao nhất, khoa học nhất, vược
qua không những phép siêu hình của triết học duy vật cận đại Tây Âu mà còn vượt qua phép
biện chứng duy tâm cổ điển Đức. Thế giới quan duy vật của triết học Mác - Lênin đã khắc
phục được hạn chế của thế giới quan duy vật cận đại Tây Âu chính ở chỗ nó đã đem lại một
quan niệm duy vật và biện chứng về quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, lịch sử
phát triển của nhân loại. Trung tâm của những quan điểm duy vật về lịch sử chính là học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội. Chỉ có thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện
chứng duy vật của triết học Mác - Lênin mới có khả năng lý giải được một cách đúng đắn
khoa học đối với các sự kiện lịch sử, dù là các sự kiện lịch sử ở phương Tây hay phương
Đông Á6.
- Hồ Chí Minh đã vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng và phép biện chứng duy
vật để lý giải một cách đúng đắn khoa học những câu hỏi đặt ra của lịch sử Việt Nam thời cận
đại mà không một nhà tư tưởng tiến bộ nào có thể làm được và đỉnh cao của sự vận dụng đó
là tìm ra lý luận và phương pháp giải quyết đúng đắn khoa học con đường giải phóng dân tộc
đồng thời xác định hướng phát triển của xã hội Việt Nam lên hình thái kinh tế - xã hội mới
sau khi giành được độc lập - đó là con đường định hướng phát triển xã hội - xã hội chủ nghĩa.
Điều này đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu
sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…”. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận khoa học, cách
mạng của những tư tưởng về độc lập dân tộc, về chủ nghĩa xã hội, về văn hóa, về đạo đức,
nhân văn… Thế giới quan và phương pháp luận Hồ Chí Minh là một hệ thống toàn vẹn, thống
nhất của những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Hạt nhân của thế giới quan
đó là triết học Mác - Lênin; sự phong phú của thế giới quan đó là những tổng kết kinh nghiệm
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; vẻ đẹp của thế giới quan đó được tạo ra bởi sự
kết hợp chặt chẽ giữa tính khoa học của thế giới quan Mác - Lênin với các giá trị triết học
truyền thống Việt Nam, cũng như các giá trị của lịch sử triết học phương Đông và phương
Tây.
Chúng ta có thể tìm thấy trong mỗi lời nói, việc làm, bài viết của Hồ Chí Minh sự vững
chắc của các nguyên lý triết học Mác - Lênin, sự tinh tế của các triết lý trong nền triết học
phương Đông, phương Tây và một chiều sâu thẳm của các giá trị tư tưởng triết học Việt Nam
về độc lập dân tộc, về nhân văn, về đạo sống, đạo làm người của dân tộc Việt Nam. Với Hồ
Chí Minh, lịch sử triết học Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, hiện đại.
Thời kỳ hiện đại của lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam là thời kỳ phát triển tư tưởng triết
học với nội dung cơ bản của nó là nguyên cứu, vận dụng và phát triển các nguyên lý của triết
học Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đó cũng là quá trình vượt qua những
hạn chế và kế thừa có chọn lọc các giá trị trong lịch sử triết học Việt Nam cũng như lịch sử
triết học phương Đông và phương Tây theo mục tiêu giải quyết các nhiệm vụ của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6
Không phải ngẫu nhiên mà khi nhận xét về giá trị của các học thuyết đã có trong lịch sử, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng cái hay của chủ
nghĩa Mác là phương pháp làm việc biện chứng. Ở đây, Hồ Chí Minh đã khẳng định không phải chỉ là cái hay của phương pháp tư duy biện
chứng mà quan trọng hơn là phương pháp biện chứng duy vật trong tổ chức hoạt động thực tiễn.