Luận án tiến sĩ y học Đánh giá kết quả của Imatinib Mesylate trong điều trị bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn ở trẻ em.Bạch cầu mạn dòng tủy là một rối loạn tăng sinh tủy mạn tính do bất thường về tế bào gốc tạo máu. Bệnh đặc trưng bởi sự hiện diện của nhiễm sắc thể Philadelphia từ đó tạo tổ hợp gen BCR-ABL1 [1]. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên độ tuổi trung vị ở thời điểm khởi phát thường là 50 – 60 tuổi [2], rất hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên. Bệnh chiếm lần lượt 2% và 9% trong tổng số các bệnh Bạch cầu ở trẻ em dưới 15 tuổi, và ở thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi [3]. Trước đây, cơ chế bệnh sinh của Bạch cầu mạn dòng tủy ở trẻ em được xem như tương tự ở người lớn, nhưng những dữ liệu mới nhất cho thấy có một số khác biệt về di truyền giữa 2 nhóm dù đều có sự xuất hiện của tổ hợp gen BCR-ABL1 [3]. Ở trẻ em, sự phân phối các điểm gãy của BCR-ABL1 gần tương tự với bệnh Bạch cầu cấp dòng lympho có nhiễm sắc thể Philadelphia dương và các gen đột biến gây ung thư xuất hiện với tần suất cao. Sự khác biệt này khiến cho đặc điểm lâm sàng, sinh học và tiến triển của bệnh ở trẻ em và người lớn không giống nhau hoàn toàn. Một số nghiên cứu cho thấy bệnh ở trẻ em có khuynh hướng nặng hơn (số lượng bạch cầu cao, lách to và tần suất chẩn đoán giai đoạn tiến triển nhiều hơn) [4], từ đó có thể dẫn đến đáp ứng điều trị khác nhau giữa 2 nhóm đối tượng này.
https://luanvanyhoc.com/danh-gia-ket-qua-cua-imatinib-mesylate-trong-dieu-tri-benh-bach-cau-man-dong-tuy-giai-doan-man-o-tre-em/
Đánh giá kết quả của Imatinib Mesylate trong điều trị bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn ở trẻ em
1. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
Luận án tiến sĩ y học Đánh giá kết quả của Imatinib Mesylate trong điều trị
bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn ở trẻ em.Bạch cầu mạn dòng tủy là
một rối loạn tăng sinh tủy mạn tính do bất thường về tế bào gốc tạo máu. Bệnh đặc
trưng bởi sự hiện diện của nhiễm sắc thể Philadelphia từ đó tạo tổ hợp gen BCR-
ABL1 [1]. Bệnh có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên độ tuổi trung vị ở thời điểm
khởi phát thường là 50 – 60 tuổi [2], rất hiếm gặp ở trẻ em và thanh thiếu niên.
Bệnh chiếm lần lượt 2% và 9% trong tổng số các bệnh Bạch cầu ở trẻ em dưới 15
tuổi, và ở thanh thiếu niên từ 15 đến 19 tuổi [3]. Trước đây, cơ chế bệnh sinh của
Bạch cầu mạn dòng tủy ở trẻ em được xem như tương tự ở người lớn, nhưng những
dữ liệu mới nhất cho thấy có một số khác biệt về di truyền giữa 2 nhóm dù đều có
sự xuất hiện của tổ hợp gen BCR-ABL1 [3]. Ở trẻ em, sự phân phối các điểm gãy
của BCR-ABL1 gần tương tự với bệnh Bạch cầu cấp dòng lympho có nhiễm sắc
thể Philadelphia dương và các gen đột biến gây ung thư xuất hiện với tần suất cao.
Sự khác biệt này khiến cho đặc điểm lâm sàng, sinh học và tiến triển của bệnh ở trẻ
em và người lớn không giống nhau hoàn toàn. Một số nghiên cứu cho thấy bệnh ở
trẻ em có khuynh hướng nặng hơn (số lượng bạch cầu cao, lách to và tần suất chẩn
đoán giai đoạn tiến triển nhiều hơn) [4], từ đó có thể dẫn đến đáp ứng điều trị khác
nhau giữa 2 nhóm đối tượng này.
MÃ TÀI LIỆU CAOHOC.2021.00011
Giá :
Liên Hệ 0927.007.596
Việc phát hiện và ứng dụng liệu pháp điều trị trúng đích với loại thuốc mới – thuốc
ức chế men Tyrosine kinase – đã mang lại những thành công vượt trội, trong đó,
Imatinib Mesylate đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam là thuốc thế hệ đầu tiên.
Đột biến gen BCR-ABL1 mã hóa protein 210 kDa mang hoạt tính Tyrosine kinase
có vai trò quan trọng trong việc tăng sinh tế bào. Imatinib Mesylate ức chế trực tiếp
men này, dẫn đến việc khống chế được sự tăng sinh, từ đó có thể kiểm soát bệnh
trong một thời gian dài. Thuốc được Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm
Hoa Kỳ (FDA – Food and Drug Administration) chấp thuận sử dụng cho bệnh nhân
Bạch cầu mạn dòng tủy người2 lớn từ năm 2001 và trẻ em từ năm 2003. Ở người
lớn, trong suốt nhiều thập kỉ qua đã có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả của
Imatinib Mesylate trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng; tuy nhiên,
ở trẻ em, vì tần suất xuất hiện bệnh thấp và thiếu các dữ liệu lâm sàng từ các nghiên
cứu nên hiệu quả và độ an toàn của Imatinib Mesylate vẫn chưa được đánh giá toàn
diện và các tiêu chuẩn về thực hành trong quản lý bệnh lý này ở trẻ em vẫn chưa
được thiết lập như ở người lớn.
Gần đây, có một số khuyến nghị được đưa ra về việc nên chọn Imatinib Mesylate,
các thuốc ức chế Tyrosine kinase thế hệ sau hay ghép tế bào gốc tạo máu là phương
án điều trị đầu tay cho bệnh nhi Bạch cầu mạn dòng tủy. Tuy nhiên đây vẫn còn là
2. LUANVANYHOC.COM TẢI LUẬN VĂN, LUẬN ÁN TÀI LIỆU Y HỌC
THEO YÊU CẦU LIÊN HỆ 0927.007.596
vấn đề tranh cãi, chưa đạt được sự thống nhất hoàn toàn. Tại Thành phố Hồ Chí
Minh, với Imatinib Mesylate là thuốc chủ lực, năm 2011, tác giả Nguyễn Quốc
Thành đã bước đầu đánh giá một số đặc điểm lâm sàng, sinh học và đáp ứng của
thuốc trên trẻ em bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy [5], tuy nhiên, số lượng mẫu ít, thời
gian nghiên cứu ngắn và các đánh giá còn mang tính sơ khởi.
Mong muốn làm rõ hơn những đặc điểm của bệnh, đồng thời khẳng định được vai
trò, hiệu quả cũng như độ an toàn của Imatinib Mesylate trên đối tượng bệnh nhân
trẻ em, hướng tới việc xây dựng một phác đồ hoàn chỉnh dành cho bệnh nhi Bạch
cầu mạn dòng tủy tại Việt Nam, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài “Đánh giá
kết quả của Imatinib Mesylate trong điều trị bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy giai
đoạn mạn ở trẻ em” với hai mục tiêu:
1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, sinh học của bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy ở trẻ
em tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/2005 đến
01/2019.
2. Đánh giá kết quả và một số yếu tố liên quan đến điều trị bằng Imatinib Mesylate
cho bệnh nhi bệnh Bạch cầu mạn dòng tủy giai đoạn mạn tại Bệnh viện Truyền
máu Huyết học Thành phố Hồ Chí Minh từ 01/2005 đến 01/2019