SlideShare a Scribd company logo
1 of 114
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG DIỆP QUẦN
TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
DƢƠNG DIỆP QUẦN
TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trƣơng Quang Vinh
HÀ NỘI - 2014
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
D-¬ng DiÖp QuÇn
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC
CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
8
1.1. Khái niệm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
8
1.2. Cơ sở pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
10
1.3. Các yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
16
1.3.1. Khách thể của tội phạm 16
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm 17
1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm 23
1.3.4. Chủ thể của tội phạm 25
1.3.5. Hậu quả của tội phạm 26
Chương 2: TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU
NỔ THEO ĐIỀU 232 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC
TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
28
2.1. Các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ
28
2.1.1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232
Bộ luật Hình sự
28
5
2.1.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232
Bộ luật Hình sự
32
2.1.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3
Điều 232 Bộ luật Hình sự
40
2.1.4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 232
Bộ luật Hình sự
43
2.1.5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội 46
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
50
2.2.1. Diễn biến chung về tình hình tội phạm và tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
51
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
59
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CHẾ TẠO,
TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI
PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
74
3.1. Cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp
dụng Điều 232 Bộ luật Hình sự
74
3.2. Hạn chế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát
triển tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
78
3.3. Tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân thực hiện
Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong đó có tội
phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
80
3.4. Chấn chỉnh công tác thống kê, báo cáo tình hình tội phạm chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ
84
6
3.5. Nâng cao hiệu quả tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử các vụ án về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
86
3.6. Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức trong hệ
thống cơ quan tư pháp, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều
tra, truy tố, xét xử với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và
công dân trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác
định tội phạm và người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ, xử lý tội phạm
95
3.7. Tăng cường những biện pháp quản lý trật tự, xã hội 99
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Thành phần của những người phạm tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ 56 tại tỉnh Thái Nguyên
56
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 (năm 1986) đến
nay, trên đất nước ta đã và đang diễn ra quá trình đổi mới sâu sắc và toàn
diện. Đời sống chính trị - xã hội đã có những biến đổi quan trọng. Đặc biệt,
nền kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển lớn, tạo tiền đề vững chắc
cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, sau một thời gian xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung
quan liêu, bao cấp để bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội nước ta vẫn
còn chịu ảnh hưởng và tác động lớn của cơ chế quản lý cũ và tác động của
mặt trái của cơ chế thị trường, do đó tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật
khác còn nhiều phức tạp, gây thiệt hại đáng kể đến tài sản xã hội chủ nghĩa và
tài sản của công dân, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Trong điều kiện đất nước ta hiện nay, công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm vẫn còn nhiều hạn chế. Diễn biến của tình hình tội phạm nói
chung cũng như các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
nói riêng hết sức phức tạp và đang có xu hướng gia tăng. Trong đó tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
đang ngày càng phổ biến và diễn biến ngày càng phức tạp, gây mất trật tự
công cộng và tạo ra dư luận xấu trong cộng đồng dân cư. Tuy Bộ luật Hình sự
có quy định cụ thể và khá đầy đủ về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, song vẫn chưa hoàn
toàn đáp ứng được những yêu cầu, những tình huống xảy ra trong thực tế ở
Việt Nam hiện nay cũng như trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tôi thấy rằng, việc nghiên cứu
về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
9
đoạt vật liệu nổ mang tính cấp bách, để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần
nâng cao, hoàn thiện cơ sở pháp lý về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, từ đó trừng trị nghiêm
khắc người phạm tội, răn đe người có ý định thực hiện tội phạm đó, đồng thời
bảo vệ trật tự xã hội, tạo niềm tin cho người dân yên tâm sinh sống. Với mong
muốn có những đóng góp một phần nhỏ về mặt lý luận và thực tiễn, tác giả chọn
đề tài "Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)" để làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng, nên đã có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những
phương diện khác nhau về tội tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Trần
Đức Thìn, Luật Hình sự - Phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2010; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa Luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; Đinh Văn
Quế, Bình luận khoa học luật Hình sự, Phần các tội phạm, tập 2, Nxb Thành
phố Hồ Chí Minh, 2002.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu chung về phần các
tội phạm hoặc các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng,
chưa nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
10
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng
định việc nghiên cứu đề tài "Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)" là đòi hỏi
khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu và đối tƣợng, phạm vi nghiên
cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
3.1.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hình
sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực
tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định của loại tội này trong
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
Từ việc nghiên cứu tổng quát về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ luận văn nghiên cứu sâu về
cơ sở của việc hình thành quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, khái niệm, cơ sở pháp lý, các quy
định trong pháp luật hình sự hiện hành, thực trạng áp dụng các quy định pháp
luật hình sự trong hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ đó đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của áp dụng pháp luật đối với tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nội dung nghiên
cứu chủ yếu sau:
11
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung như: Khái niệm,
quá trình hình thành và phát triển những quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật
Hình sự Việt Nam, nghiên cứu những quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; thực tiễn xét
xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, những khó khăn, vướng
mắc, bất cập khi áp dụng.
- Khái quát sự phát triển của tội tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong lịch sử pháp luật
hình sự để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong Bộ luật Hình sự
hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung
quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định về tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong
Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng của tội này trong thực tiễn.
3.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
12
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, tìm hiểu thực trạng về tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây.
Dựa trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm
2009, đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề:
- Các vấn đề trọng tâm liên quan đến tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ như: Khái niệm, các
trường hợp áp dụng...
- Nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên về tội chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ trong thời gian gần đây và đưa ra những nhận xét, đánh giá.
- Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn về tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo
quy định của luật hình sự và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên
hiện nay, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế
còn tồn tại, nâng cao hiệu quả của các quy định của pháp luật về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Nghiên cứu tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật nổ trên cơ sở thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên từ năm 2009 đến năm 2013.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng chính sách
hình sự áp dụng đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
5. Địa điểm nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo quy định của luật hình sự
13
và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong năm năm từ năm 2009
đến năm 2013.
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Đây là đề tài khoa học nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận của tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở và thực tiễn xét xử trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật
hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ những tồn tại, hạn chế của thực
tiễn áp dụng tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn
tại, hạn chế đó;
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất
các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu
quả áp dụng tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
Ngoài ra, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những
người nghiên cứu, cho người làm công tác thực tiễn liên quan đến việc áp
dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong thực tế. Đồng
thời là nguồn tham khảo cho những cá nhân quan tâm đến pháp luật hình sự
nói chung và tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
14
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nói riêng, tạo tiền đề cho việc hiểu rõ hơn các quy
định cũng như những tồn tại, hạn chế của loại tội này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Chương 2: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo Điều 232 Bộ luật Hình sự 1999 và thực
tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình
sự về về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ.
15
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ,
VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP
HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
1.1. Khái niệm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Đất nước Việt Nam tuy chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm nhưng đến
nay vẫn còn để lại hàng trăm nghìn tấn bom, mìn, vật liệu nổ còn sót lại. Chỉ tính
riêng số bom, mìn do quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam là trên 15 triệu tấn,
trong đó có khoảng 10% không phát nổ, hiện đang nằm rải rác trên diện tích
khoảng 6,6 triệu ha của trên 10.500 xã trong cả nước (chưa kể trên biển). Có
rất nhiều vụ nổ bom, mìn đã xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân
tự phá để lấy thuốc nổ và phế liệu để bán hoặc sử dụng. Hậu quả của các vụ
nổ đã làm thiệt hại về tình mạng và tài sản của người dân, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống hàng ngày của nhân dân, gây mất trật tự và an toàn
xã hội.
Trong thời gian qua nền kinh tế nước ta đang có những bước phát
triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp với
tâm lý hưởng thụ, lối sống coi trọng chủ nghĩa thực dụng, cá nhân vị kỷ, tìm
kiếm lợi nhuận là trên hết đã khiến cho một bộ phận cá nhân muốn làm giầu
bất chính, buôn bán các mặt hàng nguy hiểm để kiếm lợi nhuận cao trong đó
có các loại hàng thuộc nhóm vật liệu nổ như pháo, thuốc nổ... Nhiều đối
tượng sử dụng các loại mìn, thuốc nổ trái phép có chiều hướng gia tăng, gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội, công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải quy định cụ thể về các hành vi
vi phạm pháp luật nêu trên trong một điều luật tương ứng của Bộ luật Hình
16
sự, đảm bảo có căn cứ pháp luật xử lý các đối tượng vi phạm, đảm bảo an
toàn xã hội, đồng thời răn đe người dân để tránh vi phạm pháp luật.
Đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trong đó có đấu tranh phòng chống
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ.
Để đấu tranh, phòng chống tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đạt hiệu quả cao vấn đề đầu
tiên cần phải xác định rõ khái niệm của tội phạm này. Bởi vì, chỉ trên cơ sở
nhận thức đúng và đầy đủ về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ mới có thể đề ra được các phương
hướng, giải pháp cụ thể để đấu tranh, phòng chống. Thực tiễn của nước ta
hiện nay càng khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải làm
sáng tỏ vấn đề đó.
Theo Từ điển bách khoa mở, Vật liệu nổ là chất hóa học hay các hợp
chất, các vật liệu có khả năng tạo thành một thể tích khí lớn (gấp 15.000 lần
thể tích ban đầu), phát ra nhiệt độ cao (3.000 - 4.000 độ C), áp suất rất cao,
trong thời gian rất ngắn (1/10.000 giây). Các đặc trưng của một vật liệu nổ:
Nó là một chất hóa học hay hợp chất hóa học không an định (không bền). Sự
tăng lên đột ngột của chất nổ thường kết hợp bởi việc tạo ra nhiệt độ cao và
thay đổi rất lớn về áp suất. Chất nổ có khả năng tạo ra một vụ nổ khi có kích
thích ban đầu. Các kích thích ban đầu có thể là các xung cơ học, đâm chọc, va
đập, cọ xát, nhiệt.
Qua khái niệm trên cho thấy định nghĩa về vật liệu nổ theo phương
diện hóa học, qua đó thể hiện các chất tạo thành vật liệu nổ, chu trình hoạt
động của các chất tạo ra chất nổ.
Tại Điều 3 Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 ngày 30 tháng 6 năm
2011 giải thích về vật liệu nổ như sau:
17
6. Vật liệu nổ gồm thuốc nổ và các phụ kiện nổ.
7. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục
đích quốc phòng, an ninh
8. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục
đích sản xuất công nghiệp, kinh tế, dân sinh [43].
Tại Điều 3 Nghị định số 39/2009/NĐ-CP ngày 23/4/2009 giải thích về
thuốc nổ và các phụ kiện nổ như sau:
1. "Thuốc nổ" là hóa chất hoặc hỗn hợp hóa chất được sản
xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của các kích
thích cơ, nhiệt, hóa hoặc điện.
2. "Phụ kiện nổ" là các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm,
mồi nổ, các vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban
đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có
chứa thuốc nổ [7].
Tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau: "1. Người
nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [26].
Như vậy, qua khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự có thể hiểu chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi
làm ra, cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp nhằm chiếm đoạt,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt vật liệu nổ.
1.2. Cơ sở pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Vào những năm 1970 do đất nước ta lúc đó vẫn còn chiến tranh, loại
tội về vật liệu nổ chưa xuất hiện do vậy khi ban hành Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 1970 chưa có
điều luật nào quy định về vật liệu nổ.
18
Đến năm 1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta ra đời. Ở thời
điểm đó bắt đầu xuất hiện các hành vi phạm pháp liên quan đến chất nổ. Do
sự nguy hiểm và sự ảnh hưởng nghiêm trọng của nhóm tội này đối với từng
cá nhân và toàn xã hội, do vậy tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy
định về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ như sau:
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ thì
bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân [23].
Việc quy định loại tội này cụ thể trong điều luật chính là bước ngoặt
quan trọng, tạo cơ sở cho việc xử lý các hành vi vi phạm luật về chất nổ, thể
hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc chế tạo, tàng trữ, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ.
Mặc dù đã được pháp điển hóa thành Bộ luật, nhưng việc quy định
trong cùng một điều luật về chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ
tạo nên khó khăn trong quá trình áp dụng điều luật, mặt khác nếu chỉ quy định
về chất nổ sẽ không bao quát hết các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến
loại tội này, dễ bỏ lọt tội phạm, gây nhiều tranh cãi về việc xử lý hành vi
phạm pháp. Do vậy khi Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời trên cơ sở kế thừa
những quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985, Điều 232 Bộ luật
Hình sự năm 1999 quy định như sau:
19
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng
đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một
năm đến năm năm [26].
Quy định như vậy đã tạo nên bước tiến vượt bậc của quá trình lập
pháp, trong quá trình áp dụng điều luật các cơ quan có thẩm quyền không chỉ
có cơ sở xử lý các hành vi vi phạm về chất nổ mà còn có cơ sở để xử lý hành
vi liên quan đến các phụ kiện nổ.
So với Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì Điều 232 Bộ luật Hình
sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau:
Nếu Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ "chất nổ" là
đối tượng tác động, thì Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 dùng thuật ngữ
20
"vật liệu nổ", thuật ngữ "vật liệu nổ" có nghĩa rộng hơn so với "chất nổ". Nếu
tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ quy định về các tội phạm liên quan
đến chất nổ, như vậy chỉ khi có hành vi vi phạm các quy định về chất nổ ở
một mức độ nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khi vi
phạm các quy định về các loại chất liệu không phải là chất nổ như vận chuyển
trái phép kíp nổ, dây nổ... sẽ khó có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi đó, bởi vì Bộ luật Hình sự chỉ quy định về
chất nổ chứ không quy định các phụ kiện nổ như kíp nổ, dây nổ.... Việc sử
dụng thuật ngữ "chất nổ" theo quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985
đã không bao quát được hết các hành vi vi phạm, người phạm tội sẽ lợi dụng
kẽ hở của pháp luật nhằm thu lợi bất chính vì ngoài thuốc nổ còn rất nhiều vật
khác liên quan đến thuốc nổ như kíp nổ, mồi nổ..., những vật này chính là một
bộ phận để đảm bảo cho thuốc nổ có thể phát huy công dụng. Bộ luật Hình sự
năm 1999 ra đời đã thay thế thành thuật ngữ "vật liệu nổ", điều này đã đáp
ứng được yêu cầu xử lý loại tội này, bởi vì vật liệu nổ sẽ bao hàm cả thuốc nổ
và các loại phụ kiện nổ như dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các vật phẩm
chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc
các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ.
Ngoài ra tại Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 còn bổ sung thêm
hành vi "vận chuyển" là hành vi phạm tội mà Điều 96 Bộ luật Hình sự năm
1985 chưa quy định. Quy định thêm về hành vi "vận chuyển" trái phép vật
liệu nổ đã đáp ứng yêu cầu bức thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình
sự, bởi vì sau khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời hành vi phạm tội vận
chuyển vật liệu nổ khi không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xảy ra rất nhiều, người phạm tội lợi dụng pháp luật hình sự không quy định về
hành vi vận chuyển trái phép vật liệu nổ khi bị phát hiện dù người phạm tội
trên thực tế đang tàng trữ trái phép vật liệu nổ trong người thì cũng khai là
vận chuyển, hoặc do điều luật không quy định đó là hành vi phạm tội cho nên
21
khi được thuê vận chuyển trái phép vật liệu nổ, người được thuê sẽ không do
dự mà đồng ý thực hiện ngay nhằm thu được một nguồn lợi nhất định. Chính
vì Bộ luật Hình sự năm 1985 không quy định về hành vi vận chuyển dẫn đến
khó khăn trong việc điều tra, xử lý đối tượng phạm pháp thuộc trường hợp
này. Chính vì vậy, khi Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời tại Điều 232 đã bổ
sung thêm hành vi "vận chuyển" trái phép vật liệu nổ, từ đó có cơ sở để xử lý
người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm.
Về cấu tạo, Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 có 3 khoản, còn Điều 232
Bộ luật Hình sự năm 1999 cấu tạo thành 5 khoản, trong đó khoản 5 của điều
luật quy định hình phạt bổ sung; hình phạt quy định trong tưng khoản cũng
được quy định lại cho phù hợp với cấu tạo của điều luật (mức hình phạt cao
nhất ở khoản 2 là mười năm; của khoản 3 là mười lăm năm; của khoản 4 là
chung thân). Khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời dựa trên các điều kiện kinh
tế - xã hội, chính trị, an ninh của đất nước ta lúc đó, đời sống của người dân
còn gặp nhiều khó khăn, tình hình tội phạm liên quan đến vật liệu nổ chưa
xảy ra nhiều, người phạm tội chưa có nhiều thủ đoạn tinh vi. Do vậy tại Điều
96 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định chỉ có 3 khoản là hoàn toàn phù hợp
với tình hình tội phạm lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự đã biểu hiện có nhiều bất cập, không phù hợp
với sự phát triển của đất nước, đồng thời không thể bao quát được hết các
hành vi phạm pháp về tội liên quan đến vật liệu nổ. Điều 232 Bộ luật Hình sự
năm 1999 có 05 khoản chính là kế thừa từ các quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình
sự năm 1985, điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh của đất nước, đồng thời dựa
trên tình hình phát triển của tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, từ đó có từng mức quy định về
hình phạt tương ứng với từng hành vi cụ thể, hậu quả do hành vi đó gây ra.
Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: Vận
chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; vật phạm pháp có số lượng rất lớn,
22
đặc biệt lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; Bỏ tình tiết
"phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" là yếu tố định khung hình
phạt. Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 bổ sung thêm các yếu tố định
khung hình phạt đó là hoàn toàn phù hợp, tại khoản 2 Điều 96 Bộ luật Hình
sự năm 1985 chỉ quy định về yếu tộ định khung hình phạt là "Vật phạm pháp
có số lượng lớn". Như vậy, trong tất cả trường hợp phạm tội mà số lượng vật
phạp pháp nếu không thuộc khoản 1 Điều 96 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm
hình sự theo khoản 2 Điều 96, chính điều đó đã thể hiện sự bất cập của điều
luật, làm cho việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong nhiều
trường hợp còn nhẹ, không đảm bảo tính nghiêm khắc của pháp luật hình sự.
Ví dụ nếu căn cứ theo Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ quy định về tình
tiết định khung hình phạt là "Vật phạm pháp có số lượng lớn" tại khoản 2 của
điều luật. Như vậy người phạm tội mua bán trái phép chất nổ có số lượng
100kg so với người phạm tội mua bán trái phép chất nổ có số lượng 400kg,
khi quyết định hình phạt đều áp dụng khoản 2 Điều 96 là "Vật phạm pháp có
số lượng lớn". Chính vì vậy, Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bổ sung
thêm các yếu tố định khung hình phạt là "Vật phạm pháp có số lượng rất lớn"
và "Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn" để đảm bảo việc áp dụng pháp
luật được chính xác, việc áp dụng hình phạt tương ứng đúng với hành vi phạm
tội, số lượng vật phạm pháp.
Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định thêm về hình phạt bổ
sung đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Cụ thể như sau: "5. Người phạm tội còn có thể bị
phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm
cư trú từ một năm đến năm năm" [26].
Việc quy định về hình phạt bổ sung chính là một bước tiến trong quá
trình hoàn thiện pháp luật, căn cứ vào từng hành vi phạm tội, từng vụ án cụ
thể mà có thể áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Hình phạt
23
tiền ngoài mục đích trừng phạt người phạm tội về lĩnh vực tài chính thì việc
áp dụng hình phạt này còn với mục đích là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, từ đó thông qua các chương trình cụ thể của Đảng và Nhà nước để khắc
phục một phần những thiệt hại do người phạm tội gây ra cho con người, xã
hội, cho môi trường xung quanh. Khi áp dụng hình phạt quản chế hoặc cấm
cư trú tại một địa phương nhất định, các cơ quan có thẩm quyền sẽ dễ dàng
kiểm tra, giám sát người phạm tội tại địa phương đó hoặc do hậu quả của
người phạm tội gây ra cho một địa phương nào đó mà xét thấy cần thiết phải
cấm cư trú đối với người phạm tội thì có thể cấm người phạm tội cư trú tại địa
phương đó.
1.3. Các yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
Cấu thành tội phạm là căn cứ để xác định tội danh (định tội). Định tội
là việc xác định một hành vi cụ thể đã được thực hiện phạm vào tội nào đó
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Định tội là cơ sở đầu tiên để có thể truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Như vậy, cấu thành tội phạm
là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội. Với ý nghĩa như vậy, cần phải
tìm hiểu các yếu tố cấu thành của loại tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999, các yếu tố cấu
thành của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ được thể hiện sau đây.
1.3.1. Khách thể của tội phạm
Về mặt lý luận, khách thể của tội phạm được hiểu là những quan hệ xã
hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đặt vào tình
trạng đe dọa bị xâm hại. Khách thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chính là an toàn công
cộng, trật tự công cộng. Điều đó có nghĩa tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là tội xâm phạm đến an
24
toàn công cộng, trật tự công cộng. Nói cách khác đó là tội xâm phạm đến chế
độ quản lý nhà nước đối với vật liệu nổ.
Như vậy, tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội về an
toàn công cộng, trật tự công cộng, đó là quan hệ xã hội được tôn trọng, bảo vệ.
Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của con người ở nơi công cộng,
làm cho mọi người hoang mang lo sợ, gây rối loạn an ninh, làm xáo trộn trật tự
công cộng đã được xác lập trước đó. Điều này thì ai cũng thấy, bất kể ở đâu khi
xảy ra tội phạm về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ xảy ra ai cũng sợ hãi, có thể gây ra hậu quả chết
người hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của con người, gây thiệt hại cho xã hội.
Cùng với việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính
mạng, sức khỏe của con người thì hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ còn gây mất trật tự nơi
công cộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của cộng
đồng, gây náo động nơi công cộng.
Đối tượng tác động của tội phạm này là vật liệu nổ, bao gồm thuốc nổ
và các phụ kiện nổ là các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các vật
phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ
hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ. Tuy nhiên, nếu vật liệu
nổ là vật liệu nổ quân dụng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội "chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng", chỉ vật liệu nổ công nghiệp mới là đối tượng
của tội phạm này.
1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn
tại bên ngoài thế giới khách quan. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
25
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có dấu hiệu khách quan khác là
dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là:đối với hành vi chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán vật liệu phải là trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ thì mới cấu thành tội phạm, nếu việc chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán vật liệu nổ được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội
quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự. Ví dụ như các cơ quan chuyên môn
đặc thù được Nhà nước cho phép chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán vật liệu nổ thì không coi là phạm tội này.
Khi xác định hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
có trái phép hay không trong một số trường hợp cần chú ý: Nếu người được
phép sử dụng vật liệu nổ nhưng lại cho người khác không được phép mượn để
sử dụng thì người mượn là người sử dụng trái phép, còn người cho mượn là
người vi phạm quy định về quản lý vật liệu nổ; nếu người được giao quản lý
vật liệu nổ nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định
về quản lý, sử dụng, cất giữ, bảo quản để người khác sử dụng, chiếm đoạt, thì
thuộc trường hợp vi phạm quy định về quản lý vật liệu nổ quy định tại Điều 234
và 235 Bộ luật Hình sự; nếu đem vật liệu nổ trao đổi, mua bán thì thuộc
trường hợp quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự.
* Chế tạo trái phép vật liệu nổ
Chế tạo trái phép vật liệu nổ là làm ra các loại vật liệu nổ dưới bất kỳ
hình thức nào mà không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.
Người thực hiện hành vi chế tạo trái phép vật liệu nổ tuy biết đó là hành vi vi
phạm điều cấm của pháp luật hình sự nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Hành vi chế tạo vật liệu nổ bao gồm làm mới hoàn toàn hoặc cải tạo,
dùng các vật liệu sẵn có để làm ra vật liệu nổ có tạo ra tác dụng theo mục đích
của người phạm tội.
Thực tiễn xét xử cho thấy loại hành vi làm mới hoàn toàn ít xảy ra vì
việc chế tạo ra vật liệu nổ không phải là việc làm đơn giản, phải sử dụng các
26
máy móc, thiết bị hiện đại và phải có kinh nghiệm trong việc sản xuất ra vật
liệu nổ, người phạm tội chủ yếu dùng các vật liệu sẵn có như cưa bom, mìn để
lấy thuốc nổ, người phạm tội chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thủ công.
Tuy nhiên, nhà làm luật quy định hành vi chế tạo cũng hoàn toàn phù hợp vì
cũng có thể có trường hợp lợi dụng việc được phép chế tạo vật liệu nổ mà chế
tạo thêm đem trao đổi, buôn bán hoặc cung cấp cho những người mà mình
quan tâm nhằm mục đích trục lợi hoặc vì động cơ khác.
* Tàng trữ trái phép vật liệu nổ
Tàng trữ trái phép vật liệu nổ là cất giữ bất hợp pháp vật liệu nổ ở bất
cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức;
phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách..., việc cất giữ với hành vi
lén lút nhằm thoát khỏi cơ quan điều tra, người phạm tội chỉ cất giữ trái phép
vật liệu nổ mà không nhằm mục đích mua bán hay chế tạo trái phép vật liệu
nổ hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác.
Nguồn gốc vật liệu nổ mà người phạm tội tàng trữ có thể là bất cứ từ
nguồn gốc nào, có thể người phạm tội được tặng, cho, đào được, nhặt được...
Tuy nhiên, nếu người phạm tội cất giấu vật liệu nổ là vật chứng của vụ án,
người phạm tội biết rõ đó là vật chứng của một vụ án nào đó mà người phạm
tội có thể được nhờ hoặc do quan hệ bạn bè, người thân mà vẫn tàng trữ trái
phép vật liệu nổ nhằm che giấu tội phạm thì tùy trường hợp có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ vật liệu nổ và tội che giấu tội phạm.
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định người phạm
tội có tàng trữ trái phép vật liệu nổ hay không, không là căn cứ để xác định
hình phạt nhẹ hay nặng đối với người phạm tội.
Nếu tàng trữ trái phép vật liệu nổ cho người khác mà biết rõ người
này mua bán trái phép vật liệu nổ đó thì hành vi cất giữ không phải là hành
vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ mà là hành vi giúp sức người mua bán trái
phép vật liệu nổ và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép
27
vật liệu nổ với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi mua bán, vận chuyển
đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành
vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi mua bán chỉ có ý nghĩa trong
việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành
vi đầy đủ).
* Vận chuyển trái phép vật liệu nổ
Vận chuyển trái phép vật liệu nổ là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp
vật liệu nổ từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này
sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương
thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua
bán. Hành vi chuyển dịch vật liệu nổ trong trường hợp này không được cơ
quan nhà nước cho phép, người phạm tội có thể chuyển dịch vật liệu nổ công
khai hoặc lén lút nhằm thoát khỏi việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có
thẩm quyền, vật liệu nổ mà người phạm tội chuyển dịch bất hợp pháp có thể
là của chính người phạm tội hoặc có thể người phạm tội được thuê để chuyển
dịch vật liệu nổ.
Như vậy, khái niệm vận chuyển trái phép vật liệu nổ được dùng ở đây
có nội hàm rộng hơn khái niệm vận chuyển hàng hóa thông thường. Vận
chuyển trái phép vật liệu nổ có thể giống với vận chuyển hàng hóa từ nơi này
đến nơi khác có một cự ly nhất định như: Dùng ôtô, xe đạp, xe máy, tàu thủy,
máy bay... nhưng cũng có thể chỉ là hành vi chuyển dịch từ vị trí này sang vị
trí khác trong một không gian chật hẹp như từ túi của người này sang túi của
người khác, từ phòng này sang phòng khác hoặc có thể từ ngăn bàn sang tủ để
nhằm xóa dấu vết khi bị phát hiện, tránh sự kiểm tra, giám sát.
Nếu vận chuyển vật liệu nổ hộ cho người khác mà biết rõ mục đích
mua bán vật liệu nổ của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có
hành vi vận chuyển đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán vật liệu
nổ với vai trò giúp sức.
28
* Sử dụng trái phép vật liệu nổ
Sử dụng trái phép vật liệu nổ là dùng vật liệu nổ chính là người phạm
tội dùng vật liệu nổ để phát huy công dụng của nó, người phạm tội có những
hành động nhằm tác động lên vật liệu nổ để đạt được mục đích mà mình quan
tâm quan tâm như: Dùng thuốc nổ để đánh cá dưới sông, dùng thuốc nổ để trả
thù cá nhân… Việc sử dụng trái phép vật liệu nổ chính là việc khai thác công
dụng nhờ sự tác động của chính người phạm tội.
Sử dụng trái phép vật liệu nổ chính là hành vi cố ý của người phạm
tội, người phạm tội biết rõ hành vi sử dụng vật liệu nổ của mình là không
được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vì nguyên nhân nào
đó mà cố tình tác động vào vật liệu nổ làm cho vật liệu nổ chuyển hoá thành
một dạng khác với ban đầu.
* Mua bán trái phép vật liệu nổ
Mua bán trái phép vật liệu nổ là bán hay mua để bán lại; vận chuyển
vật liệu nổ để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để chế tạo ra vật
liệu nổ để bán lại trái phép; hoặc dùng vật liệu nổ để đổi lấy hàng hóa hay
dùng hàng hóa để đổi lấy vật liệu nổ.
Khi xác định hành vi mua bán trái phép vật liệu nổ cần chú ý một số
vấn đề sau:
Vật liệu nổ mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ
thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ thuộc vào vật liệu nổ còn tác
dụng hay đã mất tác dụng.
Trong trường hợp không chứng minh được mục đích bán trái phép vật
liệu nổ, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép vật
liệu nổ" hay tội "vận chuyển trái phép vật liệu nổ" hoặc "tàng trữ, vận chuyển
trái phép vật liệu nổ".
Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi chế tạo và kèm theo
các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì tùy
29
từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu
nổ"; "vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ"; "chiếm đoạt, mua
bán trái phép vật liệu nổ" hay tội danh đầy đủ là "tàng trữ, vận chuyển, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ".
* Chiếm đoạt vật liệu nổ
Chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt,
cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt,
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, tham ô vật liệu nổ.
Hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt
tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ ngay
trước, trong khi thực hiện thủ đoạn phạm tội.
Cũng coi là chiếm đoạt vật liệu nổ nếu người được phép sản xuất, chế
tạo, vận chuyển, mua bán vật liệu nổ theo quy định của pháp luật dùng để
huấn luyện, chiến đấu, để thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, hoặc
sản xuất khi được phép của cơ quan nhà nước khi chuyển ngành, nghỉ việc mà
không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước.
Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ hoặc
không chứng minh được ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ mà chỉ nhằm chiếm
đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn
có vật liệu nổ nhưng sau khi biết vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì
không bị coi là hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ, mà tùy trường hợp cụ thể
người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt tài sản
(cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên
chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận
chuyển hoặc mua bán trái phép vật liệu nổ.
Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài
sản có vật liệu nổ và đem nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không
coi là hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản. Tuy
30
nhiên, nếu mục đích ban đầu là chiếm đoạt vật liệu nổ nhưng khi thực hiện
hành vi chiếm đoạt thì lại không có vật liệu nổ mà chỉ có tài sản thì người
phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vật liệu nổ (ở
giai đoạn chưa đạt). Nếu người phạm tội không có mục đích rõ rệt là sẽ chiếm
đoạt cái gì (cái gì cũng được) nhưng khi chiếm đoạt là vật liệu nổ thì vẫn bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vật liệu nổ.
Khi định tội đối với người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ cần chú ý:
Nếu người phạm tội thực hiện tất cả các hành vi quy định tại điều luật
thì định tội danh đầy đủ là tội "chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; nếu người phạm tội chỉ thực hiện
một hoặc một số hành vi quy định trong điều luật thì chỉ định tội theo hành vi
mà họ đã thực hiện. Ví dụ: A chỉ thực hiện hành vi tàng trữ thì định tội là
"tàng trữ hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ"; nếu A thực hiện hành vi tàng trữ và hành vi
chiếm đoạt thì định tội là: "tàng trữ và chiếm đoạt hành vi chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ".
1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm
Khoa học luật hình sự chỉ ra rằng, tội phạm là một thể thống nhất của
hai mặt chủ quan và khách quan. Nếu khách quan là những biểu hiện bên
ngoài của tội phạm thì chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội. Với ý nghĩa là một hiện tượng thống nhất của các yếu tố cấu thành
tội phạm, mặt chủ quan không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách
quan của tội phạm. Nói cách khác, hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm
luôn gắn liền với biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Mặt chủ quan bao gồm
lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó
gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hay vô ý.
31
Lý trí và ý chí là hai yếu tố cần thiết tạo thành lỗi. Lý trí thể hiện năng
lực nhận thức thực tại khách quan còn ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành
vi trên cơ sở nhận thức. Đây là những yếu tố tâm lý cần thiết của mọi hoạt
động có ý thức của con người.
Một hành vi bị coi là có lỗi chỉ khi người thực hiện hành vi đó nhận
thức được và điều khiển được hành vi của mình, đồng thời có khả năng xử sự
phù hợp với lợi ích của xã hội, nhưng người thực hiện hành vi đã lựa chọn,
quyết định và thực hiện xử sự gây thiệt hại cho xã hội, cho công dân.
Lỗi của người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chỉ có thể là cố ý trực tiếp. Theo Bộ
luật Hình sự, cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã
hội, thấy được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Về lý trí, người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nhận thức rõ tính chất nguy hiểm
cho xã hội, nhận biết mức độ thực hiện hành vi, công cụ, phương tiện phạm
tội cũng như các phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội
phạm... sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác, gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Điều này có nghĩa là người phạm tội
đã dự kiến trước, đã thấy trước hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Về ý chí, người
phạm tội biết rõ hành vi của mình là trái phép nhưng vẫn cố tình thực hiện
nhằm đạt được mục đích. Do đó, lỗi của người thực hiện hành vi chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là cố
ý trực tiếp, không thể có trường hợp cố ý gián tiếp hay vô ý.
Trong tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, động cơ và mục đích vụ lợi luôn là dấu hiệu đặc
trưng. Động cơ và mục đích vụ lợi được thể hiện qua việc người phạm tội
32
thực hiện hành vi trái pháp luật để mong muốn đạt được một lợi ích nào đó, ví
dụ như hành vi bán trái phép pháo nổ nhằm thu lợi bất chính.
Trên thực tế, điều tra làm rõ động cơ mục đích của hành vi tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
trong những trường hợp cụ thể có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong đó có
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, chẳng hạn như:
Người phạm tội thực hiện hành vi mua bán vật liệu nổ để lấy tiền điều trị cho
con bị mắc bệnh hiểm nghèo v.v...
1.3.4. Chủ thể của tội phạm
Không phải bất kỳ người nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội
phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, mà chỉ những người có đủ các điều kiện để có lỗi mới trở thành
chủ thể của tội phạm; các điều kiện đó là:
- Có năng lực trách nhiệm hình sự.
- Đạt đến một độ tuổi nhất định.
Thứ nhất, nói về năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực
trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của
hành vi do mình thực hiện và có năng lực điều khiển được hành vi theo những
đòi hỏi tất yếu của xã hội. Người không có khả năng đó là người không có
năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 1999
quy định: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu năng lực trách nhiệm
hình sự" [26].
Thứ hai, nói về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình
sự 1999 quy định:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm.
33
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [26].
Đây là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc về chủ thể của tội phạm.
Ngoài những dấu hiệu cơ bản ấy, một số tội phạm đòi hỏi phải có thêm các
dấu hiệu đặc biệt khác và chỉ khi có những dấu hiệu đặc biệt đó, chủ thể mới
có thể thực hiện được hành vi khách quan của những tội này. Lý luận khoa
học luật hình sự gọi đó là chủ thể đặc biệt.
Chủ thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là chủ thể bình thường, nghĩa là bất kỳ ai đủ
hai điều kiện của chủ thể nêu trên khi có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đều trở thành
chủ thể của tội này.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của
điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
1.3.5. Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chính là những thiệt hại do hành vi
phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội, là khách thể bảo vệ của luật hình sự, cụ
thể là gây hại cho an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định như sau:
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
34
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [26].
Như vậy, những thiệt hại do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra có thể là thiệt hại về vật
chất; thiệt hại về thể chất, tinh thần. Thiệt hại về thể chất được thể hiện thông
qua sự biến đối tình trạng bình thường do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra gồm thiệt hại về
tính mạng gây hậu quả chết người, thiệt hại về sức khỏe như gây thương tích
hoặc tổn hại sức khỏe. Ngoài thiệt hại về thể chất, người phạm tội còn có thể
gây thiệt hại về tinh thần như gây hoang mang, lo sợ... Các thiệt hại dưới dạng
vật chất như tài sản bị phá hoại, bị hủy hoại, gây ô nhiễm môi trường nước,
không khí, đất; làm rối loạn xã hội, gây mất trật tự công cộng.
Hậu quả của hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với
tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra
là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tùy trường
hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3
hoặc khoản 4 của điều luật [22, tr. 104].
35
Chương 2
TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG,
MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ
THEO ĐIỀU 232 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ là một trong những tội phạm thuộc nhóm các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, có khả năng gây ra thiệt hai lớn
cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân, hậu quả của loại tội phạm
này gây ra có thể làm ảnh hưởng trên địa bàn rộng. Trong thời gian qua, tội
phạm này diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng cả số vụ và số người
thực hiện, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, tỉ lệ phát hiện và phá án loại tội liên quan đến vật liệu nổ còn thấp,
chưa đạt hiệu quả cao. Để việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình
sự, xử lý các tội phạm liên quan vật liệu nổ, chúng ta cần hiểu rõ các quy định
của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
2.1. Các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ
2.1.1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232
Bộ luật Hình sự
Người thực hiện một hoặc nhiều các hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ khi đủ các yếu tố cấu
thành tội phạm thì người đó sẽ phải chịu những chế tài tương ứng với hành vi
của mình. Tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau: "1. Người
nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [26].
36
Theo quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự, thì người phạm
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4
Điều 232 Bộ luật Hình sự thì bị bị phạt tù từ một năm đến năm năm [22, tr. 105].
Căn cứ để xử lý người phạm tội trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232
Bộ luật Hình sự là người phạm tội khi có một trong các hành chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ hoặc có
từ hai hành vi phạm tội liên quan đến vật liệu nổ nhưng thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng, số lượng vật liệu nổ không lớn, người phạm tội chỉ phạm tội
lần đầu, không có sự liên lạc hoặc có kế hoạch cụ thể, chưa gây ra hậu quả
hoặc hậu quả gây ra rất nhỏ…
Về số lượng vật liệu nổ để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, tuy khoản 1 của điều luật không quy định số lượng
vật liệu nổ làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng theo hướng dẫn
tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng
dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì người bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 nếu chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc
nổ các loại từ 1kg đến 15kg; thuốc pháo từ 3kg đến 30kg; thuốc phóng từ 1kg
đến 10kg; dây cháy chậm, dây nổ từ 500m đến 3.000m; kíp nổ, nụ xòe từ 200
cái đến 1.000 cái. Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội cần căn cứ vào số lượng vật liệu nổ mà cơ quan điều tra thu giữ
được hoặc thông qua khai nhận của người phạm tội, khi số lượng vật liệu nổ
thuộc các trường hợp theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN
ngày 7/1/1995 thì hành vi phạm tội đó đã đủ yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Người phạm tội đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và căn cứ vào đặc điểm
37
tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, đặc điểm của từng vùng, miền
và từng vụ việc cụ thể, người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt tù từ một năm
đến năm năm.
Nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt dưới mức trên nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về tội cố ý hoặc gây hậu quả
nghiêm trọng thì có thể vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của
điều luật. Người phạm tội thuộc trường hợp này là khi người đó có hành vi
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ nhưng số lượng vật liệu nổ dưới mức quy định cụ thể là: Chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc nổ các
loại dưới mức 1kg; thuốc pháo dưới 3kg; thuốc phóng dưới 1kg; dây cháy
chậm, dây nổ dưới 500m; kíp nổ, nụ xòe dưới 200 cái sẽ bị xử phạt hành
chính về hành vi đó mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên nếu
người phạm tội đó đã bị xử phạt hành chính về một hoặc nhiều hành vi chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu
nổ trong khi chưa được xóa quyết định xử phạt hành chính, người đó lại thực
hiện hành vi phạm pháp liên quan đến chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tuy số lượng vật liệu nổ chưa
đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp này người
phạm tội vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 232
Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người phạm tội tuy có hành vi chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tuy số
lượng vật liệu nổ dưới mức quy định nhưng đã bị kết án nhưng chưa được xóa
án tích về tội cố ý hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Trường hợp này người phạm tội tuy
38
hành vi chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm nhưng do người phạm tội có
nhân thân xấu, đã bị kết án về tội cố ý và đang phải chịu sự quản chế của Nhà
nước nhưng người phạm tội không chịu sửa chữa, rèn luyện để trở thành công
dân tốt, người đó lại tiếp tục phạm pháp. Việc quy định như vậy là phù hợp
do người phạm tội đang phải chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước, của
xã hội, người đó biết rõ việc mình đang chịu sự giám sát và cần phải sửa đổi
theo hướng tích cực nhưng lại cố tình phạm pháp. Đồng thời việc quy định
như vậy để răn đe người phạm tội và thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta đối với người phạm tội, xử lý kịp thời những hành vi phạm pháp, cố
tình phạm tội và coi thường pháp luật.
Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về Điều 232 Bộ luật Hình sự
năm 1999 thì theo chúng tôi hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN
ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) vẫn còn phù hợp, các cơ quan tiến hành tố
tụng nên vận dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật
liệu nổ.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, cơ quan tiến hành tố
tụng căn cứ vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể để quyết định hình phạt. Nếu
người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình
sự như phạm tội do lạc hậu, người phạm tội do có trình độ hiểu biết pháp luật
thấp, không biết được hành vi của mình là phạm pháp và sẽ bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc người phạm tội tự thú, có thái độ thành khẩn khai báo và
phối hợp với các cơ quan tố tụng để điều tra, phá án…, người phạm tội không
có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì
có thể được áp dụng hình phạt mức một hoặc hai năm tù; nếu người phạm tội
có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự như phạm
tội vì động cơ đê hèn, ví dụ người phạm tội dùng vật liệu nổ để trả thù cá
39
nhân hoặc khi thực hiện phạm tội do nguyên nhân nào đó mà người phạm tội
không thực hiện được hành vi phạm tội như mong muốn nhưng vẫn cố tình
thực hiện hành vi phạm tội cho đến cùng nhằm đạt được mục đích đã đặt ra,
ví dụ như A dùng thuốc nổ ném vào B với mục đích làm cho B bị thương do
A ghét B, muốn trả thù B, nhưng do vội vàng nên khi A ném thuốc nổ vào B
nhưng không nổ, khi thấy không nổ A lại dùng thuốc nổ dự phòng ném vào B
khiến B bị thương hoặc có người phát hiện và ngăn cản nhưng người phạm tội
vẫn cố tình thực hiện việc phạm tội đó đến cùng. Không có tình tiết giảm nhẹ
ví dụ như người phạm tội có thái độ chống đối, không hợp tác với cơ quan tố
tụng, khai báo gian dối hoặc quanh co nhằm gây khó khăn cho cơ quan tố
tụng…, hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị xử
phạt ở mức cao nhất là đến năm năm tù.
2.1.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232
Bộ luật Hình sự
Người phạm tội khi thực hiện các hành vi phạm tội chế tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không
thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự như người
phạm tội đó không chỉ thực hiện một mình mà còn có sự tham gia của nhiều
người, có kế hoạch và có sự phân công cụ thể hoặc hành vi phạm tội liên quan
đến vật liệu nổ không chỉ được thực hiện ở Việt Nam mà còn vận chuyển trái
phép vật liệu nổ từ Việt Nam sang Trung Quốc… Rõ ràng, các hành vi phạm
tội đó thể hiện tính nguy hiểm, người phạm tội đã có sự tính toán và bàn bạc
trước. Do vậy, khi hành vi phạm tội liên quan đến vật liệu nổ có các dấu hiệu
như phạm tội có tổ chức hay vật phạm pháp có số lượng lớn… sẽ được quy
định cụ thể trong khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự, mức hình phạt sẽ cao
hơn so với người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thuộc khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình
sự. Cụ thể khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau:
40
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng;
đ) Tái phạm nguy hiểm [26].
* Phạm tội có tổ chức
Khoản 3 Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định về phạm tội có tổ chức
như sau: "3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt
chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm" [26].
Như vậy, theo quy định của điều luật phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm, đó là trường hợp có từ hai người trở nên cố ý cùng thực hiện một
tội phạm. Khi thực hiện tội phạm những người đó có sự câu kết chặt chẽ với
nhau, liên hệ với nhau để cùng thực hiện tội phạm.
Phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức, là trường hợp có từ hai người trở lên
hoặc có sự tham gia của nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với
nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ dưới sự điều khiển thống
nhất của người cầm đầu.
Trong vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức, tùy thuộc vào quy mô và từng vụ việc
cụ thể mà có thể có những người như người thực hành, người tổ chức, người
giúp sức hoặc có thể có đầy đủ cả người tổ chức, người thực hành, người xúi
giục, người giúp sức. Đối với tội phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có đặc điểm riêng như:
Người thực hành là người trực tiếp chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
41
Phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức thể hiện sự nguy hiểm của người phạm
tội. Người phạm tội vạch ra kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ, có thể dự kiến tất cả các
trường hợp khi thực hiện hành vi phạm pháp có thể xảy ra, có sự phân chia
công việc cụ thể cho từng người trong nhóm. Do có sự chuẩn bị từ trước nên
những người thực hiện phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tỉ lệ thành công cao, có thể đạt
được mục đích ban đầu đã vạch ra, dễ tránh thoát khỏi việc kiểm tra của cơ
quan điều tra, cơ quan điều tra khó phát hiện tội phạm hoặc khi phát hiện tội
phạm những người phạm tội sẽ dùng mọi cách để đánh lạc hướng của cơ quan
điều tra nhằm mục đích cho đồng bọn chạy thoát. Với tính chất của việc phạm
tội có tổ chức thể hiện sự nguy hiểm, có sự bàn bạc trước, được thực hiện với
hành vi cố ý của người phạm tội do đó khi người phạm tội có dấu hiệu phạm
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ có tổ chức thì yếu tố có tổ chức chính là tình tiết định khung hình
phạt, người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt nặng hơn so với những người
phạm tội không có tổ chức cụ thể có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.
* Vật phạm pháp có số lượng lớn
Vật phạm pháp có số lượng lớn đối với tội phạm này là vật liệu nổ mà
người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt có số lượng lớn.
Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa quy định cụ thể như thế nào
được coi là số lượng lớn để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ.
Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp
dụng Bộ luật Hình sự, thực tiễn áp dụng pháp luật có thể giải thích về vật
phạm pháp liên quan đến vật liệu nổ theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN
42
ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ
luật Hình sự năm 1985, thì được coi là vật phạm pháp có số lượng lớn nếu chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc
nổ các loại từ trên 15kg đến 75kg; thuốc pháo từ trên 30kg đến 150kg; thuốc
phóng từ trên 10kg đến 50kg; dây cháy chậm, dây nổ từ trên 3.000m đến
15.000m; kíp nổ, nụ xòe từ trên 1.000 cái đến 10.000 cái.
Như vậy, khi người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ khi bị phát hiện mà vật phạm
pháp là vật liệu nổ với số lượng thỏa mãn theo hướng dẫn của Thông tư liên
ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án cụ thể
phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ cùng là vật phạm pháp có số lượng lớn nhưng xét về số
lượng vật phạm pháp đó nhiều hay ít để từ đó quyết định hình phạt được
chính xác, tương ứng với hành vi phạm tội.
Ví dụ: Ngày 21/10/2011, Trần Văn C bị bắt vì có hành vi tàng trữ
16kg thuốc nổ, với số lượng 16kg Trần Văn C đã thỏa mãn dấu hiện tội phạm
thuộc điểm b khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 là vật phạm pháp
có số lượng lớn, tuy nhiên, do số lượng thuốc nổ là 16kg gần ở mức tối thiểu
của mức quy định về vật phạm pháp có số lượng lớn. Do đó, trong quá trình
giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có thể cân nhắc về số lượng
thuốc nổ mà xử phạt Nguyễn Văn C mức ba năm tù.
Trên thực tế có những trường hợp cùng là vật phạm pháp có số lượng
lớn, nhưng trường hợp có số lượng vật phạm pháp cao hơn thì sẽ bị xử phạt
nghiêm khắc hơn.
Ví dụ: Ngày 5/9/2013, Nguyễn Tuấn H bị bắt do có hành vi tàng trữ
70kg thuốc nổ, với số lượng là 70kg thuốc nổ Nguyễn Tuấn H vẫn thuộc
43
trường hợp theo hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày
7/1/1995 là vật phạm pháp có số lượng lớn. Nguyễn Tuấn H bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do
vật phạm pháp có số lượng lớn, gần mức tối đa của khung vật phạm pháp có
số lượng lớn, do đó khi giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có thể
phạt Nguyễn Tuấn H ở mức hình phạt cao nhất là mười năm.
* Vận chuyển, mua bán qua biên giới
So với Bộ luật Hình sự năm 1985, khi quy định về tội chế tạo, tàng
trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép và chiếm đoạt vật liệu nổ. Các
nhà làm luật đã bổ sung thêm tình tiết về "vận chuyển, mua bán qua biên giới"
là một tình tiết định khung hình phạt.
Vận chuyển, mua bán vật liệu nổ qua biên giới là đưa vật liệu nổ ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào lãnh thổ Việt Nam các loại vật liệu nổ
mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc vận chuyển,
mua bán vật liệu nổ qua biên giới có thể thực hiện bằng các phương tiện giao
thông như ô tô, tàu hỏa hoặc tàu, thuyền… Việc vận chuyển, mua bán vật liệu
nổ qua biên giới cũng tương tự như vận chuyển, mua bán hàng hóa nhưng đây
là loại hàng hóa đặc biệt đó là vật liệu nổ, do có tính nguy hiểm cao, dễ gây
thiệt hại đến xã hội và con người do đó nếu người thực hiện việc vận chuyển,
mua bán vật liệu nổ qua biên giới mà không được sự cho phép của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền thì sẽ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật, bị truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Khi người phạm tội thực hiện hành vi vận chuyển, mua bán qua biên
giới ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, trường hợp này do tính chất nguy hiểm và có
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nước ta với
nước mà người phạm tội thực hiện. Do vậy, khi người phạm tội thuộc trường
hợp này có thể sẽ phải chịu mức hình phạt từ ba năm đến mười năm.
44
* Gây hậu quả nghiêm trọng
Gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển,
sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra là những thiệt
hại về vật chất và phi vật chất do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra.
Trong khi chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do
hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt vật liệu nổ gây ra có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-
TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp
hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở
hữu" của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm
trọng do hành vi hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra.
Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác
định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, tinh thần, về tài sản, phi vật chất
do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra. Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do
hành vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đã gây ra những thiệt hại ngoài những thiệt hại đã
được quy định là yếu tố định tội hay định khung hình phạt. Những thiệt hại
này gọi chung là "hậu quả nghiêm trọng". Căn cứ vào Điều 232 Bộ luật Hình
sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử có thể coi thiệt hại sau là gây hậu quả
nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vẫn chuyển, sử dụng, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra: Gây thương tích hoặc tổn hại cho
sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%,
nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả người này từ 11% đến 30%. Ngoài
những thiệt hại về sức khỏe còn thiệt hại về tài sản như làm sập nhà, làm hỏng
45
đường sá, sập núi dẫn đến lấp đường..., những thiệt hại phi vật chất cần được
xác định để đánh giá hậu quả của hành vi phạm tội gây ra như: gây ảnh hưởng
xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu
đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người
trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất đòi hỏi các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án, trong
hoàn cảnh cụ thể, xảy ra trên địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác.
* Tái phạm nguy hiểm
Là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội chế tạo,
tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật
hoặc đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này không phân biệt
thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc
một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm
nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự như người phạm tội thành khẩn khai
báo, ăn năn hối cải, phối hợp với cơ quan điều tra để phá án, người phạm tội
là người già hoặc phụ nữ có thai…, người phạm tội không có tình tiết tăng
nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp
dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự. Trường hợp này có thể áp dụng hình phạt dưới
ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù. Ngược lại nếu thuộc nhiều
trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật như người phạm tội vừa tham
gia, bàn bạc với những người khác nhằm thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội
của người đó gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc người phạm tội đã bị kết án,
chưa được xóa án tích mà lại phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ rất nghiêm trọng và được thực
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ
Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ

More Related Content

What's hot

Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...TÀI LIỆU NGÀNH MAY
 

What's hot (20)

Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuýLuận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
Luận văn: Định tội danh đối với tội Mua bán trái phép chất ma tuý
 
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dânLuận văn: Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân
Luận văn: Cải cách thủ tục hành chính tư pháp tại Tòa án nhân dân
 
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAYLuận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội buôn bán hàng cấm theo pháp luật hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
Luận văn thạc sĩ luật hình sự và tố tụng hình sự tội tổ chức sử dụng trái phé...
 
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Thu thập, đánh giá chứng cứ trong Luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOTLuận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
Luận văn: Định tội danh đối với tội cướp tài sản theo luâṭ, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túyLuận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
Luận văn: Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy
 
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấnĐề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
Đề tài: So sánh mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và thẩm vấn
 
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luậtLuận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
Luận văn: Trách nhiệm của pháp nhân thương mại theo pháp luật
 
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sựĐề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
Đề tài: Biện pháp điều tra khám xét theo luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAYLuận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
Luận văn: Tội sử dụng mạng internet chiếm đoạt tài sản, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOTLuận văn thạc sĩ:  Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật về Thi hành án dân sự, HOT
 
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAYĐề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
Đề tài: Vai trò của Kiểm sát viên trong giải quyết vụ án hình sự, HAY
 
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tếLuận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
Luận án: Trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
 
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà NộiLuận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
Luận văn: Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội
 
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOTLuận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
Luận văn: Thẩm quyền xét xử của Tòa hành chính, HOT
 
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tộiLuận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
Luận văn: Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
 
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOTĐề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
Đề tài: Tội vi phạm an toàn giao thông đường bộ theo Luật, HOT
 

Similar to Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ

Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTieuNgocLy
 
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 

Similar to Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ (20)

Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấmĐề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
Đề tài: Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm
 
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAYLuận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
Luận văn: Tội sử dụng trái phép tài sản theo luật hình sự, HAY
 
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy t...
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy t...Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy t...
Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy t...
 
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOTBiện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
Biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội, HOT
 
Luận văn: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo luật hình sự
Luận văn: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo luật hình sựLuận văn: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo luật hình sự
Luận văn: Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo luật hình sự
 
Thu thập, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người, HAY
Thu thập, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người, HAYThu thập, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người, HAY
Thu thập, sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ án giết người, HAY
 
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOTĐề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
Đề tài: hình phạt đối với tội vi phạm quy định về sử dụng đất, HOT
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Tội làm tàng trữ vận chuyển lưu hành giấy tờ có giá giả
Luận văn: Tội làm tàng trữ vận chuyển lưu hành giấy tờ có giá giảLuận văn: Tội làm tàng trữ vận chuyển lưu hành giấy tờ có giá giả
Luận văn: Tội làm tàng trữ vận chuyển lưu hành giấy tờ có giá giả
 
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sựBiện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
Biện pháp bắt người đang bị truy nã theo luật tố tụng hình sự
 
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
 
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình SựKhóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
Khóa Luận Tội Che Giấu Tội Phạm Theo Quy Định Bộ Luật Hình Sự
 
Luận án: Pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, HAYLuận án: Pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, HAY
Luận án: Pháp luật về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdfTội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật trong luật hình sự Việt Nam.pdf
 
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
Quy Định Của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bắt Người, Thực Tiễn Thi Hành Và Hướn...
 
Luận văn: Quyền công tố trong điều tra mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Quyền công tố trong điều tra mua bán trái phép chất ma túyLuận văn: Quyền công tố trong điều tra mua bán trái phép chất ma túy
Luận văn: Quyền công tố trong điều tra mua bán trái phép chất ma túy
 
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 

Tội chế tạo, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG DIỆP QUẦN TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG DIỆP QUẦN TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trƣơng Quang Vinh HÀ NỘI - 2014
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n D-¬ng DiÖp QuÇn
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ 8 1.1. Khái niệm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 8 1.2. Cơ sở pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 10 1.3. Các yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 16 1.3.1. Khách thể của tội phạm 16 1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm 17 1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm 23 1.3.4. Chủ thể của tội phạm 25 1.3.5. Hậu quả của tội phạm 26 Chương 2: TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ THEO ĐIỀU 232 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN 28 2.1. Các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 28 2.1.1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự 28
  • 5. 5 2.1.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự 32 2.1.3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 Bộ luật Hình sự 40 2.1.4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 232 Bộ luật Hình sự 43 2.1.5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội 46 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 50 2.2.1. Diễn biến chung về tình hình tội phạm và tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 51 2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 59 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ 74 3.1. Cần có những quy định, hướng dẫn cụ thể để thống nhất áp dụng Điều 232 Bộ luật Hình sự 74 3.2. Hạn chế những nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh, phát triển tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 78 3.3. Tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân thực hiện Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong đó có tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 80 3.4. Chấn chỉnh công tác thống kê, báo cáo tình hình tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 84
  • 6. 6 3.5. Nâng cao hiệu quả tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 86 3.6. Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp, phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan điều tra, truy tố, xét xử với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nhằm xác định tội phạm và người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, xử lý tội phạm 95 3.7. Tăng cường những biện pháp quản lý trật tự, xã hội 99 KẾT LUẬN 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 104
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Thành phần của những người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 56 tại tỉnh Thái Nguyên 56
  • 8. 8 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6 (năm 1986) đến nay, trên đất nước ta đã và đang diễn ra quá trình đổi mới sâu sắc và toàn diện. Đời sống chính trị - xã hội đã có những biến đổi quan trọng. Đặc biệt, nền kinh tế - xã hội đã có những bước phát triển lớn, tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, sau một thời gian xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp để bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng và tác động lớn của cơ chế quản lý cũ và tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, do đó tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật khác còn nhiều phức tạp, gây thiệt hại đáng kể đến tài sản xã hội chủ nghĩa và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Trong điều kiện đất nước ta hiện nay, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn nhiều hạn chế. Diễn biến của tình hình tội phạm nói chung cũng như các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói riêng hết sức phức tạp và đang có xu hướng gia tăng. Trong đó tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đang ngày càng phổ biến và diễn biến ngày càng phức tạp, gây mất trật tự công cộng và tạo ra dư luận xấu trong cộng đồng dân cư. Tuy Bộ luật Hình sự có quy định cụ thể và khá đầy đủ về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, song vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được những yêu cầu, những tình huống xảy ra trong thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng như trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tôi thấy rằng, việc nghiên cứu về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm
  • 9. 9 đoạt vật liệu nổ mang tính cấp bách, để từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao, hoàn thiện cơ sở pháp lý về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, từ đó trừng trị nghiêm khắc người phạm tội, răn đe người có ý định thực hiện tội phạm đó, đồng thời bảo vệ trật tự xã hội, tạo niềm tin cho người dân yên tâm sinh sống. Với mong muốn có những đóng góp một phần nhỏ về mặt lý luận và thực tiễn, tác giả chọn đề tài "Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)" để làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ diễn biến phức tạp và ngày càng gia tăng, nên đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học ở những mức độ khác nhau, những phương diện khác nhau về tội tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Trần Đức Thìn, Luật Hình sự - Phần các tội phạm, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học luật Hình sự, Phần các tội phạm, tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản. Tuy nhiên, những nghiên cứu về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu chung về phần các tội phạm hoặc các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, chưa nghiên cứu độc lập, đánh giá lý luận và tổng kết thực tiễn về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
  • 10. 10 Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên)" là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. 3. Mục tiêu, nội dung nghiên cứu và đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục tiêu nghiên cứu 3.1.1. Mục tiêu tổng quát Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định của loại tội này trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. 3.1.2. Mục tiêu cụ thể Từ việc nghiên cứu tổng quát về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ luận văn nghiên cứu sâu về cơ sở của việc hình thành quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, khái niệm, cơ sở pháp lý, các quy định trong pháp luật hình sự hiện hành, thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hình sự trong hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của áp dụng pháp luật đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. 3.2. Nội dung nghiên cứu Từ mục tiêu nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nội dung nghiên cứu chủ yếu sau:
  • 11. 11 - Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung như: Khái niệm, quá trình hình thành và phát triển những quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật Hình sự Việt Nam, nghiên cứu những quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, những khó khăn, vướng mắc, bất cập khi áp dụng. - Khái quát sự phát triển của tội tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong lịch sử pháp luật hình sự để rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện các quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của tội này trong thực tiễn. 3.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
  • 12. 12 hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, tìm hiểu thực trạng về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong những năm gần đây. Dựa trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ những vấn đề: - Các vấn đề trọng tâm liên quan đến tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ như: Khái niệm, các trường hợp áp dụng... - Nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong thời gian gần đây và đưa ra những nhận xét, đánh giá. - Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo quy định của luật hình sự và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên hiện nay, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại, nâng cao hiệu quả của các quy định của pháp luật về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Nghiên cứu tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật nổ trên cơ sở thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2009 đến năm 2013. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng chính sách hình sự áp dụng đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. 5. Địa điểm nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo quy định của luật hình sự
  • 13. 13 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong năm năm từ năm 2009 đến năm 2013. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Đây là đề tài khoa học nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Những điểm mới cơ bản của luận văn là: - Tổng hợp các quan điểm khoa học về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. - Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong luật hình sự Việt Nam. - Nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ những tồn tại, hạn chế của thực tiễn áp dụng tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, cũng như những nguyên nhân cơ bản của các tồn tại, hạn chế đó; - Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. Ngoài ra, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, cho người làm công tác thực tiễn liên quan đến việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong thực tế. Đồng thời là nguồn tham khảo cho những cá nhân quan tâm đến pháp luật hình sự nói chung và tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
  • 14. 14 hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nói riêng, tạo tiền đề cho việc hiểu rõ hơn các quy định cũng như những tồn tại, hạn chế của loại tội này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Chương 2: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ theo Điều 232 Bộ luật Hình sự 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự về về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
  • 15. 15 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ 1.1. Khái niệm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ Đất nước Việt Nam tuy chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm nhưng đến nay vẫn còn để lại hàng trăm nghìn tấn bom, mìn, vật liệu nổ còn sót lại. Chỉ tính riêng số bom, mìn do quân đội Mỹ đã sử dụng tại Việt Nam là trên 15 triệu tấn, trong đó có khoảng 10% không phát nổ, hiện đang nằm rải rác trên diện tích khoảng 6,6 triệu ha của trên 10.500 xã trong cả nước (chưa kể trên biển). Có rất nhiều vụ nổ bom, mìn đã xảy ra mà nguyên nhân chủ yếu là do người dân tự phá để lấy thuốc nổ và phế liệu để bán hoặc sử dụng. Hậu quả của các vụ nổ đã làm thiệt hại về tình mạng và tài sản của người dân, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống hàng ngày của nhân dân, gây mất trật tự và an toàn xã hội. Trong thời gian qua nền kinh tế nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều của cải cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp với tâm lý hưởng thụ, lối sống coi trọng chủ nghĩa thực dụng, cá nhân vị kỷ, tìm kiếm lợi nhuận là trên hết đã khiến cho một bộ phận cá nhân muốn làm giầu bất chính, buôn bán các mặt hàng nguy hiểm để kiếm lợi nhuận cao trong đó có các loại hàng thuộc nhóm vật liệu nổ như pháo, thuốc nổ... Nhiều đối tượng sử dụng các loại mìn, thuốc nổ trái phép có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống xã hội, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải quy định cụ thể về các hành vi vi phạm pháp luật nêu trên trong một điều luật tương ứng của Bộ luật Hình
  • 16. 16 sự, đảm bảo có căn cứ pháp luật xử lý các đối tượng vi phạm, đảm bảo an toàn xã hội, đồng thời răn đe người dân để tránh vi phạm pháp luật. Đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trong đó có đấu tranh phòng chống tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Để đấu tranh, phòng chống tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đạt hiệu quả cao vấn đề đầu tiên cần phải xác định rõ khái niệm của tội phạm này. Bởi vì, chỉ trên cơ sở nhận thức đúng và đầy đủ về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ mới có thể đề ra được các phương hướng, giải pháp cụ thể để đấu tranh, phòng chống. Thực tiễn của nước ta hiện nay càng khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết phải làm sáng tỏ vấn đề đó. Theo Từ điển bách khoa mở, Vật liệu nổ là chất hóa học hay các hợp chất, các vật liệu có khả năng tạo thành một thể tích khí lớn (gấp 15.000 lần thể tích ban đầu), phát ra nhiệt độ cao (3.000 - 4.000 độ C), áp suất rất cao, trong thời gian rất ngắn (1/10.000 giây). Các đặc trưng của một vật liệu nổ: Nó là một chất hóa học hay hợp chất hóa học không an định (không bền). Sự tăng lên đột ngột của chất nổ thường kết hợp bởi việc tạo ra nhiệt độ cao và thay đổi rất lớn về áp suất. Chất nổ có khả năng tạo ra một vụ nổ khi có kích thích ban đầu. Các kích thích ban đầu có thể là các xung cơ học, đâm chọc, va đập, cọ xát, nhiệt. Qua khái niệm trên cho thấy định nghĩa về vật liệu nổ theo phương diện hóa học, qua đó thể hiện các chất tạo thành vật liệu nổ, chu trình hoạt động của các chất tạo ra chất nổ. Tại Điều 3 Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 ngày 30 tháng 6 năm 2011 giải thích về vật liệu nổ như sau:
  • 17. 17 6. Vật liệu nổ gồm thuốc nổ và các phụ kiện nổ. 7. Vật liệu nổ quân dụng là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh 8. Vật liệu nổ công nghiệp là vật liệu nổ sử dụng cho mục đích sản xuất công nghiệp, kinh tế, dân sinh [43]. Tại Điều 3 Nghị định số 39/2009/NĐ-CP ngày 23/4/2009 giải thích về thuốc nổ và các phụ kiện nổ như sau: 1. "Thuốc nổ" là hóa chất hoặc hỗn hợp hóa chất được sản xuất, sử dụng nhằm tạo ra phản ứng nổ dưới tác động của các kích thích cơ, nhiệt, hóa hoặc điện. 2. "Phụ kiện nổ" là các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ [7]. Tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau: "1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [26]. Như vậy, qua khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự có thể hiểu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi làm ra, cất giữ, chuyển dịch, bán hay mua để bán lại, cướp nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, tham ô, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt vật liệu nổ. 1.2. Cơ sở pháp lý của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ Vào những năm 1970 do đất nước ta lúc đó vẫn còn chiến tranh, loại tội về vật liệu nổ chưa xuất hiện do vậy khi ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21 tháng 10 năm 1970 chưa có điều luật nào quy định về vật liệu nổ.
  • 18. 18 Đến năm 1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta ra đời. Ở thời điểm đó bắt đầu xuất hiện các hành vi phạm pháp liên quan đến chất nổ. Do sự nguy hiểm và sự ảnh hưởng nghiêm trọng của nhóm tội này đối với từng cá nhân và toàn xã hội, do vậy tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định về tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ như sau: 1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn; c) Gây hậu quả nghiêm trọng; d) Tái phạm nguy hiểm; 3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân [23]. Việc quy định loại tội này cụ thể trong điều luật chính là bước ngoặt quan trọng, tạo cơ sở cho việc xử lý các hành vi vi phạm luật về chất nổ, thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với việc chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất nổ. Mặc dù đã được pháp điển hóa thành Bộ luật, nhưng việc quy định trong cùng một điều luật về chất nổ, chất cháy, chất độc hoặc chất phóng xạ tạo nên khó khăn trong quá trình áp dụng điều luật, mặt khác nếu chỉ quy định về chất nổ sẽ không bao quát hết các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến loại tội này, dễ bỏ lọt tội phạm, gây nhiều tranh cãi về việc xử lý hành vi phạm pháp. Do vậy khi Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời trên cơ sở kế thừa những quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985, Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định như sau:
  • 19. 19 1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn; c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm: a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân: a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn; b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm [26]. Quy định như vậy đã tạo nên bước tiến vượt bậc của quá trình lập pháp, trong quá trình áp dụng điều luật các cơ quan có thẩm quyền không chỉ có cơ sở xử lý các hành vi vi phạm về chất nổ mà còn có cơ sở để xử lý hành vi liên quan đến các phụ kiện nổ. So với Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 có những sửa đổi, bổ sung sau: Nếu Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 dùng thuật ngữ "chất nổ" là đối tượng tác động, thì Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 dùng thuật ngữ
  • 20. 20 "vật liệu nổ", thuật ngữ "vật liệu nổ" có nghĩa rộng hơn so với "chất nổ". Nếu tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ quy định về các tội phạm liên quan đến chất nổ, như vậy chỉ khi có hành vi vi phạm các quy định về chất nổ ở một mức độ nhất định thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khi vi phạm các quy định về các loại chất liệu không phải là chất nổ như vận chuyển trái phép kíp nổ, dây nổ... sẽ khó có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi đó, bởi vì Bộ luật Hình sự chỉ quy định về chất nổ chứ không quy định các phụ kiện nổ như kíp nổ, dây nổ.... Việc sử dụng thuật ngữ "chất nổ" theo quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 đã không bao quát được hết các hành vi vi phạm, người phạm tội sẽ lợi dụng kẽ hở của pháp luật nhằm thu lợi bất chính vì ngoài thuốc nổ còn rất nhiều vật khác liên quan đến thuốc nổ như kíp nổ, mồi nổ..., những vật này chính là một bộ phận để đảm bảo cho thuốc nổ có thể phát huy công dụng. Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời đã thay thế thành thuật ngữ "vật liệu nổ", điều này đã đáp ứng được yêu cầu xử lý loại tội này, bởi vì vật liệu nổ sẽ bao hàm cả thuốc nổ và các loại phụ kiện nổ như dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ. Ngoài ra tại Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 còn bổ sung thêm hành vi "vận chuyển" là hành vi phạm tội mà Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chưa quy định. Quy định thêm về hành vi "vận chuyển" trái phép vật liệu nổ đã đáp ứng yêu cầu bức thiết trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự, bởi vì sau khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời hành vi phạm tội vận chuyển vật liệu nổ khi không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xảy ra rất nhiều, người phạm tội lợi dụng pháp luật hình sự không quy định về hành vi vận chuyển trái phép vật liệu nổ khi bị phát hiện dù người phạm tội trên thực tế đang tàng trữ trái phép vật liệu nổ trong người thì cũng khai là vận chuyển, hoặc do điều luật không quy định đó là hành vi phạm tội cho nên
  • 21. 21 khi được thuê vận chuyển trái phép vật liệu nổ, người được thuê sẽ không do dự mà đồng ý thực hiện ngay nhằm thu được một nguồn lợi nhất định. Chính vì Bộ luật Hình sự năm 1985 không quy định về hành vi vận chuyển dẫn đến khó khăn trong việc điều tra, xử lý đối tượng phạm pháp thuộc trường hợp này. Chính vì vậy, khi Bộ luật Hình sự năm 1999 ra đời tại Điều 232 đã bổ sung thêm hành vi "vận chuyển" trái phép vật liệu nổ, từ đó có cơ sở để xử lý người phạm tội, không bỏ lọt tội phạm. Về cấu tạo, Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 có 3 khoản, còn Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 cấu tạo thành 5 khoản, trong đó khoản 5 của điều luật quy định hình phạt bổ sung; hình phạt quy định trong tưng khoản cũng được quy định lại cho phù hợp với cấu tạo của điều luật (mức hình phạt cao nhất ở khoản 2 là mười năm; của khoản 3 là mười lăm năm; của khoản 4 là chung thân). Khi Bộ luật Hình sự năm 1985 ra đời dựa trên các điều kiện kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh của đất nước ta lúc đó, đời sống của người dân còn gặp nhiều khó khăn, tình hình tội phạm liên quan đến vật liệu nổ chưa xảy ra nhiều, người phạm tội chưa có nhiều thủ đoạn tinh vi. Do vậy tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định chỉ có 3 khoản là hoàn toàn phù hợp với tình hình tội phạm lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đã biểu hiện có nhiều bất cập, không phù hợp với sự phát triển của đất nước, đồng thời không thể bao quát được hết các hành vi phạm pháp về tội liên quan đến vật liệu nổ. Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 có 05 khoản chính là kế thừa từ các quy định tại Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985, điều kiện kinh tế, chính trị, an ninh của đất nước, đồng thời dựa trên tình hình phát triển của tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, từ đó có từng mức quy định về hình phạt tương ứng với từng hành vi cụ thể, hậu quả do hành vi đó gây ra. Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; vật phạm pháp có số lượng rất lớn,
  • 22. 22 đặc biệt lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; Bỏ tình tiết "phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng" là yếu tố định khung hình phạt. Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 bổ sung thêm các yếu tố định khung hình phạt đó là hoàn toàn phù hợp, tại khoản 2 Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ quy định về yếu tộ định khung hình phạt là "Vật phạm pháp có số lượng lớn". Như vậy, trong tất cả trường hợp phạm tội mà số lượng vật phạp pháp nếu không thuộc khoản 1 Điều 96 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 96, chính điều đó đã thể hiện sự bất cập của điều luật, làm cho việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong nhiều trường hợp còn nhẹ, không đảm bảo tính nghiêm khắc của pháp luật hình sự. Ví dụ nếu căn cứ theo Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 chỉ quy định về tình tiết định khung hình phạt là "Vật phạm pháp có số lượng lớn" tại khoản 2 của điều luật. Như vậy người phạm tội mua bán trái phép chất nổ có số lượng 100kg so với người phạm tội mua bán trái phép chất nổ có số lượng 400kg, khi quyết định hình phạt đều áp dụng khoản 2 Điều 96 là "Vật phạm pháp có số lượng lớn". Chính vì vậy, Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bổ sung thêm các yếu tố định khung hình phạt là "Vật phạm pháp có số lượng rất lớn" và "Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn" để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chính xác, việc áp dụng hình phạt tương ứng đúng với hành vi phạm tội, số lượng vật phạm pháp. Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định thêm về hình phạt bổ sung đối với tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Cụ thể như sau: "5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm" [26]. Việc quy định về hình phạt bổ sung chính là một bước tiến trong quá trình hoàn thiện pháp luật, căn cứ vào từng hành vi phạm tội, từng vụ án cụ thể mà có thể áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Hình phạt
  • 23. 23 tiền ngoài mục đích trừng phạt người phạm tội về lĩnh vực tài chính thì việc áp dụng hình phạt này còn với mục đích là tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, từ đó thông qua các chương trình cụ thể của Đảng và Nhà nước để khắc phục một phần những thiệt hại do người phạm tội gây ra cho con người, xã hội, cho môi trường xung quanh. Khi áp dụng hình phạt quản chế hoặc cấm cư trú tại một địa phương nhất định, các cơ quan có thẩm quyền sẽ dễ dàng kiểm tra, giám sát người phạm tội tại địa phương đó hoặc do hậu quả của người phạm tội gây ra cho một địa phương nào đó mà xét thấy cần thiết phải cấm cư trú đối với người phạm tội thì có thể cấm người phạm tội cư trú tại địa phương đó. 1.3. Các yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ Cấu thành tội phạm là căn cứ để xác định tội danh (định tội). Định tội là việc xác định một hành vi cụ thể đã được thực hiện phạm vào tội nào đó được quy định trong Bộ luật Hình sự. Định tội là cơ sở đầu tiên để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Như vậy, cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lý duy nhất của việc định tội. Với ý nghĩa như vậy, cần phải tìm hiểu các yếu tố cấu thành của loại tội phạm này. Theo quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999, các yếu tố cấu thành của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ được thể hiện sau đây. 1.3.1. Khách thể của tội phạm Về mặt lý luận, khách thể của tội phạm được hiểu là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại hoặc đặt vào tình trạng đe dọa bị xâm hại. Khách thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chính là an toàn công cộng, trật tự công cộng. Điều đó có nghĩa tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là tội xâm phạm đến an
  • 24. 24 toàn công cộng, trật tự công cộng. Nói cách khác đó là tội xâm phạm đến chế độ quản lý nhà nước đối với vật liệu nổ. Như vậy, tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội về an toàn công cộng, trật tự công cộng, đó là quan hệ xã hội được tôn trọng, bảo vệ. Xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng là gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của con người ở nơi công cộng, làm cho mọi người hoang mang lo sợ, gây rối loạn an ninh, làm xáo trộn trật tự công cộng đã được xác lập trước đó. Điều này thì ai cũng thấy, bất kể ở đâu khi xảy ra tội phạm về chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ xảy ra ai cũng sợ hãi, có thể gây ra hậu quả chết người hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của con người, gây thiệt hại cho xã hội. Cùng với việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến tài sản, tính mạng, sức khỏe của con người thì hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ còn gây mất trật tự nơi công cộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của cộng đồng, gây náo động nơi công cộng. Đối tượng tác động của tội phạm này là vật liệu nổ, bao gồm thuốc nổ và các phụ kiện nổ là các loại kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, các vật phẩm chứa thuốc nổ có tác dụng tạo kích thích ban đầu làm nổ khối thuốc nổ hoặc các loại thiết bị chuyên dùng có chứa thuốc nổ. Tuy nhiên, nếu vật liệu nổ là vật liệu nổ quân dụng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng", chỉ vật liệu nổ công nghiệp mới là đối tượng của tội phạm này. 1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm Mặt khách quan của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
  • 25. 25 mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành, đó là:đối với hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán vật liệu phải là trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì mới cấu thành tội phạm, nếu việc chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán vật liệu nổ được phép thì không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự. Ví dụ như các cơ quan chuyên môn đặc thù được Nhà nước cho phép chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán vật liệu nổ thì không coi là phạm tội này. Khi xác định hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán có trái phép hay không trong một số trường hợp cần chú ý: Nếu người được phép sử dụng vật liệu nổ nhưng lại cho người khác không được phép mượn để sử dụng thì người mượn là người sử dụng trái phép, còn người cho mượn là người vi phạm quy định về quản lý vật liệu nổ; nếu người được giao quản lý vật liệu nổ nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định về quản lý, sử dụng, cất giữ, bảo quản để người khác sử dụng, chiếm đoạt, thì thuộc trường hợp vi phạm quy định về quản lý vật liệu nổ quy định tại Điều 234 và 235 Bộ luật Hình sự; nếu đem vật liệu nổ trao đổi, mua bán thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 232 Bộ luật Hình sự. * Chế tạo trái phép vật liệu nổ Chế tạo trái phép vật liệu nổ là làm ra các loại vật liệu nổ dưới bất kỳ hình thức nào mà không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Người thực hiện hành vi chế tạo trái phép vật liệu nổ tuy biết đó là hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật hình sự nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi chế tạo vật liệu nổ bao gồm làm mới hoàn toàn hoặc cải tạo, dùng các vật liệu sẵn có để làm ra vật liệu nổ có tạo ra tác dụng theo mục đích của người phạm tội. Thực tiễn xét xử cho thấy loại hành vi làm mới hoàn toàn ít xảy ra vì việc chế tạo ra vật liệu nổ không phải là việc làm đơn giản, phải sử dụng các
  • 26. 26 máy móc, thiết bị hiện đại và phải có kinh nghiệm trong việc sản xuất ra vật liệu nổ, người phạm tội chủ yếu dùng các vật liệu sẵn có như cưa bom, mìn để lấy thuốc nổ, người phạm tội chủ yếu thực hiện bằng phương pháp thủ công. Tuy nhiên, nhà làm luật quy định hành vi chế tạo cũng hoàn toàn phù hợp vì cũng có thể có trường hợp lợi dụng việc được phép chế tạo vật liệu nổ mà chế tạo thêm đem trao đổi, buôn bán hoặc cung cấp cho những người mà mình quan tâm nhằm mục đích trục lợi hoặc vì động cơ khác. * Tàng trữ trái phép vật liệu nổ Tàng trữ trái phép vật liệu nổ là cất giữ bất hợp pháp vật liệu nổ ở bất cứ nơi nào như: Trong nhà ở; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách..., việc cất giữ với hành vi lén lút nhằm thoát khỏi cơ quan điều tra, người phạm tội chỉ cất giữ trái phép vật liệu nổ mà không nhằm mục đích mua bán hay chế tạo trái phép vật liệu nổ hoặc vận chuyển từ này đến nơi khác. Nguồn gốc vật liệu nổ mà người phạm tội tàng trữ có thể là bất cứ từ nguồn gốc nào, có thể người phạm tội được tặng, cho, đào được, nhặt được... Tuy nhiên, nếu người phạm tội cất giấu vật liệu nổ là vật chứng của vụ án, người phạm tội biết rõ đó là vật chứng của một vụ án nào đó mà người phạm tội có thể được nhờ hoặc do quan hệ bạn bè, người thân mà vẫn tàng trữ trái phép vật liệu nổ nhằm che giấu tội phạm thì tùy trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ vật liệu nổ và tội che giấu tội phạm. Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định người phạm tội có tàng trữ trái phép vật liệu nổ hay không, không là căn cứ để xác định hình phạt nhẹ hay nặng đối với người phạm tội. Nếu tàng trữ trái phép vật liệu nổ cho người khác mà biết rõ người này mua bán trái phép vật liệu nổ đó thì hành vi cất giữ không phải là hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ mà là hành vi giúp sức người mua bán trái phép vật liệu nổ và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép
  • 27. 27 vật liệu nổ với vai trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi mua bán, vận chuyển đã được quy định trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận chuyển hay hành vi mua bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ). * Vận chuyển trái phép vật liệu nổ Vận chuyển trái phép vật liệu nổ là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp vật liệu nổ từ nơi này đến nơi khác, từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác... bằng bất kỳ phương thức nào (trừ hình thức chiếm đoạt), nhưng đều không nhằm mục đích mua bán. Hành vi chuyển dịch vật liệu nổ trong trường hợp này không được cơ quan nhà nước cho phép, người phạm tội có thể chuyển dịch vật liệu nổ công khai hoặc lén lút nhằm thoát khỏi việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, vật liệu nổ mà người phạm tội chuyển dịch bất hợp pháp có thể là của chính người phạm tội hoặc có thể người phạm tội được thuê để chuyển dịch vật liệu nổ. Như vậy, khái niệm vận chuyển trái phép vật liệu nổ được dùng ở đây có nội hàm rộng hơn khái niệm vận chuyển hàng hóa thông thường. Vận chuyển trái phép vật liệu nổ có thể giống với vận chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác có một cự ly nhất định như: Dùng ôtô, xe đạp, xe máy, tàu thủy, máy bay... nhưng cũng có thể chỉ là hành vi chuyển dịch từ vị trí này sang vị trí khác trong một không gian chật hẹp như từ túi của người này sang túi của người khác, từ phòng này sang phòng khác hoặc có thể từ ngăn bàn sang tủ để nhằm xóa dấu vết khi bị phát hiện, tránh sự kiểm tra, giám sát. Nếu vận chuyển vật liệu nổ hộ cho người khác mà biết rõ mục đích mua bán vật liệu nổ của người mà mình nhận vận chuyển hộ thì người có hành vi vận chuyển đó bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán vật liệu nổ với vai trò giúp sức.
  • 28. 28 * Sử dụng trái phép vật liệu nổ Sử dụng trái phép vật liệu nổ là dùng vật liệu nổ chính là người phạm tội dùng vật liệu nổ để phát huy công dụng của nó, người phạm tội có những hành động nhằm tác động lên vật liệu nổ để đạt được mục đích mà mình quan tâm quan tâm như: Dùng thuốc nổ để đánh cá dưới sông, dùng thuốc nổ để trả thù cá nhân… Việc sử dụng trái phép vật liệu nổ chính là việc khai thác công dụng nhờ sự tác động của chính người phạm tội. Sử dụng trái phép vật liệu nổ chính là hành vi cố ý của người phạm tội, người phạm tội biết rõ hành vi sử dụng vật liệu nổ của mình là không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vì nguyên nhân nào đó mà cố tình tác động vào vật liệu nổ làm cho vật liệu nổ chuyển hoá thành một dạng khác với ban đầu. * Mua bán trái phép vật liệu nổ Mua bán trái phép vật liệu nổ là bán hay mua để bán lại; vận chuyển vật liệu nổ để bán cho người khác; tàng trữ để bán lại hoặc để chế tạo ra vật liệu nổ để bán lại trái phép; hoặc dùng vật liệu nổ để đổi lấy hàng hóa hay dùng hàng hóa để đổi lấy vật liệu nổ. Khi xác định hành vi mua bán trái phép vật liệu nổ cần chú ý một số vấn đề sau: Vật liệu nổ mà người phạm tội có để bán cho người khác không phụ thuộc vào nguồn gốc do đâu mà có; không phụ thuộc vào vật liệu nổ còn tác dụng hay đã mất tác dụng. Trong trường hợp không chứng minh được mục đích bán trái phép vật liệu nổ, thì tùy từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ trái phép vật liệu nổ" hay tội "vận chuyển trái phép vật liệu nổ" hoặc "tàng trữ, vận chuyển trái phép vật liệu nổ". Trong trường hợp người phạm tội vừa có hành vi chế tạo và kèm theo các hành vi khác như tàng trữ, vận chuyển hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thì tùy
  • 29. 29 từng trường hợp cụ thể mà định tội là "tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ"; "vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ"; "chiếm đoạt, mua bán trái phép vật liệu nổ" hay tội danh đầy đủ là "tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ". * Chiếm đoạt vật liệu nổ Chiếm đoạt vật liệu nổ là hành vi cướp, bắt cóc nhằm chiếm đoạt, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt, tham ô vật liệu nổ. Hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ cũng tương tự như hành vi chiếm đoạt tài sản, tức là người phạm tội phải có ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ ngay trước, trong khi thực hiện thủ đoạn phạm tội. Cũng coi là chiếm đoạt vật liệu nổ nếu người được phép sản xuất, chế tạo, vận chuyển, mua bán vật liệu nổ theo quy định của pháp luật dùng để huấn luyện, chiến đấu, để thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, hoặc sản xuất khi được phép của cơ quan nhà nước khi chuyển ngành, nghỉ việc mà không giao nộp lại theo quy định của Nhà nước. Nếu người phạm tội không có ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ hoặc không chứng minh được ý thức chiếm đoạt vật liệu nổ mà chỉ nhằm chiếm đoạt tài sản, nhưng sau khi chiếm đoạt được tài sản mới biết trong tài sản còn có vật liệu nổ nhưng sau khi biết vẫn cất giữ, vận chuyển hoặc mua bán thì không bị coi là hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ, mà tùy trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt tài sản (cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản, trộm cắp tài sản...) và tội tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép vật liệu nổ. Nếu ngay sau khi chiếm đoạt tài sản người phạm tội mới biết trong tài sản có vật liệu nổ và đem nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì không coi là hành vi chiếm đoạt vật liệu nổ mà chỉ bị coi là chiếm đoạt tài sản. Tuy
  • 30. 30 nhiên, nếu mục đích ban đầu là chiếm đoạt vật liệu nổ nhưng khi thực hiện hành vi chiếm đoạt thì lại không có vật liệu nổ mà chỉ có tài sản thì người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vật liệu nổ (ở giai đoạn chưa đạt). Nếu người phạm tội không có mục đích rõ rệt là sẽ chiếm đoạt cái gì (cái gì cũng được) nhưng khi chiếm đoạt là vật liệu nổ thì vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm đoạt vật liệu nổ. Khi định tội đối với người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ cần chú ý: Nếu người phạm tội thực hiện tất cả các hành vi quy định tại điều luật thì định tội danh đầy đủ là tội "chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hoặc một số hành vi quy định trong điều luật thì chỉ định tội theo hành vi mà họ đã thực hiện. Ví dụ: A chỉ thực hiện hành vi tàng trữ thì định tội là "tàng trữ hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ"; nếu A thực hiện hành vi tàng trữ và hành vi chiếm đoạt thì định tội là: "tàng trữ và chiếm đoạt hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ". 1.3.3. Mặt chủ quan của tội phạm Khoa học luật hình sự chỉ ra rằng, tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt chủ quan và khách quan. Nếu khách quan là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm thì chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một hiện tượng thống nhất của các yếu tố cấu thành tội phạm, mặt chủ quan không tồn tại độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Nói cách khác, hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm luôn gắn liền với biểu hiện bên ngoài của tội phạm. Mặt chủ quan bao gồm lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, được biểu hiện dưới hình thức cố ý hay vô ý.
  • 31. 31 Lý trí và ý chí là hai yếu tố cần thiết tạo thành lỗi. Lý trí thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan còn ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức. Đây là những yếu tố tâm lý cần thiết của mọi hoạt động có ý thức của con người. Một hành vi bị coi là có lỗi chỉ khi người thực hiện hành vi đó nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình, đồng thời có khả năng xử sự phù hợp với lợi ích của xã hội, nhưng người thực hiện hành vi đã lựa chọn, quyết định và thực hiện xử sự gây thiệt hại cho xã hội, cho công dân. Lỗi của người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chỉ có thể là cố ý trực tiếp. Theo Bộ luật Hình sự, cố ý trực tiếp là lỗi của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình có tính chất nguy hiểm cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Về lý trí, người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội, nhận biết mức độ thực hiện hành vi, công cụ, phương tiện phạm tội cũng như các phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện tội phạm... sẽ gây thiệt hại đến tính mạng, tài sản của người khác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Điều này có nghĩa là người phạm tội đã dự kiến trước, đã thấy trước hậu quả tất yếu sẽ xảy ra. Về ý chí, người phạm tội biết rõ hành vi của mình là trái phép nhưng vẫn cố tình thực hiện nhằm đạt được mục đích. Do đó, lỗi của người thực hiện hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là cố ý trực tiếp, không thể có trường hợp cố ý gián tiếp hay vô ý. Trong tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, động cơ và mục đích vụ lợi luôn là dấu hiệu đặc trưng. Động cơ và mục đích vụ lợi được thể hiện qua việc người phạm tội
  • 32. 32 thực hiện hành vi trái pháp luật để mong muốn đạt được một lợi ích nào đó, ví dụ như hành vi bán trái phép pháo nổ nhằm thu lợi bất chính. Trên thực tế, điều tra làm rõ động cơ mục đích của hành vi tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong những trường hợp cụ thể có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề trong đó có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, chẳng hạn như: Người phạm tội thực hiện hành vi mua bán vật liệu nổ để lấy tiền điều trị cho con bị mắc bệnh hiểm nghèo v.v... 1.3.4. Chủ thể của tội phạm Không phải bất kỳ người nào cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, mà chỉ những người có đủ các điều kiện để có lỗi mới trở thành chủ thể của tội phạm; các điều kiện đó là: - Có năng lực trách nhiệm hình sự. - Đạt đến một độ tuổi nhất định. Thứ nhất, nói về năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người có khả năng nhận thức được ý nghĩa xã hội của hành vi do mình thực hiện và có năng lực điều khiển được hành vi theo những đòi hỏi tất yếu của xã hội. Người không có khả năng đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: "Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu năng lực trách nhiệm hình sự" [26]. Thứ hai, nói về tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Điều 12 Bộ luật Hình sự 1999 quy định: 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
  • 33. 33 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [26]. Đây là những dấu hiệu pháp lý bắt buộc về chủ thể của tội phạm. Ngoài những dấu hiệu cơ bản ấy, một số tội phạm đòi hỏi phải có thêm các dấu hiệu đặc biệt khác và chỉ khi có những dấu hiệu đặc biệt đó, chủ thể mới có thể thực hiện được hành vi khách quan của những tội này. Lý luận khoa học luật hình sự gọi đó là chủ thể đặc biệt. Chủ thể của tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là chủ thể bình thường, nghĩa là bất kỳ ai đủ hai điều kiện của chủ thể nêu trên khi có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đều trở thành chủ thể của tội này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. 1.3.5. Hậu quả của tội phạm Hậu quả của tội phạm chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ chính là những thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội, là khách thể bảo vệ của luật hình sự, cụ thể là gây hại cho an toàn công cộng, trật tự công cộng. Tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định như sau: 1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
  • 34. 34 hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [26]. Như vậy, những thiệt hại do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra có thể là thiệt hại về vật chất; thiệt hại về thể chất, tinh thần. Thiệt hại về thể chất được thể hiện thông qua sự biến đối tình trạng bình thường do tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra gồm thiệt hại về tính mạng gây hậu quả chết người, thiệt hại về sức khỏe như gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe. Ngoài thiệt hại về thể chất, người phạm tội còn có thể gây thiệt hại về tinh thần như gây hoang mang, lo sợ... Các thiệt hại dưới dạng vật chất như tài sản bị phá hoại, bị hủy hoại, gây ô nhiễm môi trường nước, không khí, đất; làm rối loạn xã hội, gây mất trật tự công cộng. Hậu quả của hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết. Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tùy trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật [22, tr. 104].
  • 35. 35 Chương 2 TỘI CHẾ TẠO, TÀNG TRỮ, VẬN CHUYỂN, SỬ DỤNG, MUA BÁN TRÁI PHÉP HOẶC CHIẾM ĐOẠT VẬT LIỆU NỔ THEO ĐIỀU 232 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là một trong những tội phạm thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, có khả năng gây ra thiệt hai lớn cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của nhân dân, hậu quả của loại tội phạm này gây ra có thể làm ảnh hưởng trên địa bàn rộng. Trong thời gian qua, tội phạm này diễn biến phức tạp và có xu hướng gia tăng cả số vụ và số người thực hiện, gây khó khăn cho công tác điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, tỉ lệ phát hiện và phá án loại tội liên quan đến vật liệu nổ còn thấp, chưa đạt hiệu quả cao. Để việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự, xử lý các tội phạm liên quan vật liệu nổ, chúng ta cần hiểu rõ các quy định của pháp luật hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. 2.1. Các quy định của bộ luật hình sự Việt Nam về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ 2.1.1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự Người thực hiện một hoặc nhiều các hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ khi đủ các yếu tố cấu thành tội phạm thì người đó sẽ phải chịu những chế tài tương ứng với hành vi của mình. Tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau: "1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [26].
  • 36. 36 Theo quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự, thì người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 232 Bộ luật Hình sự thì bị bị phạt tù từ một năm đến năm năm [22, tr. 105]. Căn cứ để xử lý người phạm tội trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự là người phạm tội khi có một trong các hành chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ hoặc có từ hai hành vi phạm tội liên quan đến vật liệu nổ nhưng thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số lượng vật liệu nổ không lớn, người phạm tội chỉ phạm tội lần đầu, không có sự liên lạc hoặc có kế hoạch cụ thể, chưa gây ra hậu quả hoặc hậu quả gây ra rất nhỏ… Về số lượng vật liệu nổ để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tuy khoản 1 của điều luật không quy định số lượng vật liệu nổ làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì người bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc nổ các loại từ 1kg đến 15kg; thuốc pháo từ 3kg đến 30kg; thuốc phóng từ 1kg đến 10kg; dây cháy chậm, dây nổ từ 500m đến 3.000m; kíp nổ, nụ xòe từ 200 cái đến 1.000 cái. Như vậy, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cần căn cứ vào số lượng vật liệu nổ mà cơ quan điều tra thu giữ được hoặc thông qua khai nhận của người phạm tội, khi số lượng vật liệu nổ thuộc các trường hợp theo hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 thì hành vi phạm tội đó đã đủ yếu tố cấu thành tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Người phạm tội đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và căn cứ vào đặc điểm
  • 37. 37 tình hình tội phạm, nhân thân người phạm tội, đặc điểm của từng vùng, miền và từng vụ việc cụ thể, người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt tù từ một năm đến năm năm. Nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt dưới mức trên nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về tội cố ý hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật. Người phạm tội thuộc trường hợp này là khi người đó có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ nhưng số lượng vật liệu nổ dưới mức quy định cụ thể là: Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc nổ các loại dưới mức 1kg; thuốc pháo dưới 3kg; thuốc phóng dưới 1kg; dây cháy chậm, dây nổ dưới 500m; kíp nổ, nụ xòe dưới 200 cái sẽ bị xử phạt hành chính về hành vi đó mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên nếu người phạm tội đó đã bị xử phạt hành chính về một hoặc nhiều hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ trong khi chưa được xóa quyết định xử phạt hành chính, người đó lại thực hiện hành vi phạm pháp liên quan đến chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tuy số lượng vật liệu nổ chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu thuộc trường hợp này người phạm tội vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, người phạm tội tuy có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ tuy số lượng vật liệu nổ dưới mức quy định nhưng đã bị kết án nhưng chưa được xóa án tích về tội cố ý hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Trường hợp này người phạm tội tuy
  • 38. 38 hành vi chưa đủ yếu tố để cấu thành tội phạm nhưng do người phạm tội có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội cố ý và đang phải chịu sự quản chế của Nhà nước nhưng người phạm tội không chịu sửa chữa, rèn luyện để trở thành công dân tốt, người đó lại tiếp tục phạm pháp. Việc quy định như vậy là phù hợp do người phạm tội đang phải chịu sự giám sát của các cơ quan nhà nước, của xã hội, người đó biết rõ việc mình đang chịu sự giám sát và cần phải sửa đổi theo hướng tích cực nhưng lại cố tình phạm pháp. Đồng thời việc quy định như vậy để răn đe người phạm tội và thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, xử lý kịp thời những hành vi phạm pháp, cố tình phạm tội và coi thường pháp luật. Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì theo chúng tôi hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) vẫn còn phù hợp, các cơ quan tiến hành tố tụng nên vận dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng căn cứ vào từng trường hợp, vụ việc cụ thể để quyết định hình phạt. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự như phạm tội do lạc hậu, người phạm tội do có trình độ hiểu biết pháp luật thấp, không biết được hành vi của mình là phạm pháp và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người phạm tội tự thú, có thái độ thành khẩn khai báo và phối hợp với các cơ quan tố tụng để điều tra, phá án…, người phạm tội không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt mức một hoặc hai năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự như phạm tội vì động cơ đê hèn, ví dụ người phạm tội dùng vật liệu nổ để trả thù cá
  • 39. 39 nhân hoặc khi thực hiện phạm tội do nguyên nhân nào đó mà người phạm tội không thực hiện được hành vi phạm tội như mong muốn nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội cho đến cùng nhằm đạt được mục đích đã đặt ra, ví dụ như A dùng thuốc nổ ném vào B với mục đích làm cho B bị thương do A ghét B, muốn trả thù B, nhưng do vội vàng nên khi A ném thuốc nổ vào B nhưng không nổ, khi thấy không nổ A lại dùng thuốc nổ dự phòng ném vào B khiến B bị thương hoặc có người phát hiện và ngăn cản nhưng người phạm tội vẫn cố tình thực hiện việc phạm tội đó đến cùng. Không có tình tiết giảm nhẹ ví dụ như người phạm tội có thái độ chống đối, không hợp tác với cơ quan tố tụng, khai báo gian dối hoặc quanh co nhằm gây khó khăn cho cơ quan tố tụng…, hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị xử phạt ở mức cao nhất là đến năm năm tù. 2.1.2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự Người phạm tội khi thực hiện các hành vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự như người phạm tội đó không chỉ thực hiện một mình mà còn có sự tham gia của nhiều người, có kế hoạch và có sự phân công cụ thể hoặc hành vi phạm tội liên quan đến vật liệu nổ không chỉ được thực hiện ở Việt Nam mà còn vận chuyển trái phép vật liệu nổ từ Việt Nam sang Trung Quốc… Rõ ràng, các hành vi phạm tội đó thể hiện tính nguy hiểm, người phạm tội đã có sự tính toán và bàn bạc trước. Do vậy, khi hành vi phạm tội liên quan đến vật liệu nổ có các dấu hiệu như phạm tội có tổ chức hay vật phạm pháp có số lượng lớn… sẽ được quy định cụ thể trong khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự, mức hình phạt sẽ cao hơn so với người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thuộc khoản 1 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Cụ thể khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự quy định như sau:
  • 40. 40 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm: a) Có tổ chức; b) Vật phạm pháp có số lượng lớn; c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới; d) Gây hậu quả nghiêm trọng; đ) Tái phạm nguy hiểm [26]. * Phạm tội có tổ chức Khoản 3 Điều 20 Bộ luật Hình sự quy định về phạm tội có tổ chức như sau: "3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm" [26]. Như vậy, theo quy định của điều luật phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm, đó là trường hợp có từ hai người trở nên cố ý cùng thực hiện một tội phạm. Khi thực hiện tội phạm những người đó có sự câu kết chặt chẽ với nhau, liên hệ với nhau để cùng thực hiện tội phạm. Phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức, là trường hợp có từ hai người trở lên hoặc có sự tham gia của nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Trong vụ án chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức, tùy thuộc vào quy mô và từng vụ việc cụ thể mà có thể có những người như người thực hành, người tổ chức, người giúp sức hoặc có thể có đầy đủ cả người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức. Đối với tội phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có đặc điểm riêng như: Người thực hành là người trực tiếp chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
  • 41. 41 Phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức thể hiện sự nguy hiểm của người phạm tội. Người phạm tội vạch ra kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ, có thể dự kiến tất cả các trường hợp khi thực hiện hành vi phạm pháp có thể xảy ra, có sự phân chia công việc cụ thể cho từng người trong nhóm. Do có sự chuẩn bị từ trước nên những người thực hiện phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tỉ lệ thành công cao, có thể đạt được mục đích ban đầu đã vạch ra, dễ tránh thoát khỏi việc kiểm tra của cơ quan điều tra, cơ quan điều tra khó phát hiện tội phạm hoặc khi phát hiện tội phạm những người phạm tội sẽ dùng mọi cách để đánh lạc hướng của cơ quan điều tra nhằm mục đích cho đồng bọn chạy thoát. Với tính chất của việc phạm tội có tổ chức thể hiện sự nguy hiểm, có sự bàn bạc trước, được thực hiện với hành vi cố ý của người phạm tội do đó khi người phạm tội có dấu hiệu phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có tổ chức thì yếu tố có tổ chức chính là tình tiết định khung hình phạt, người phạm tội sẽ phải chịu hình phạt nặng hơn so với những người phạm tội không có tổ chức cụ thể có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. * Vật phạm pháp có số lượng lớn Vật phạm pháp có số lượng lớn đối với tội phạm này là vật liệu nổ mà người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt có số lượng lớn. Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa quy định cụ thể như thế nào được coi là số lượng lớn để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật, các văn bản hướng dẫn áp dụng Bộ luật Hình sự, thực tiễn áp dụng pháp luật có thể giải thích về vật phạm pháp liên quan đến vật liệu nổ theo Thông tư liên ngành số 01/TTLN
  • 42. 42 ngày 7/1/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật Hình sự năm 1985, thì được coi là vật phạm pháp có số lượng lớn nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc nổ các loại từ trên 15kg đến 75kg; thuốc pháo từ trên 30kg đến 150kg; thuốc phóng từ trên 10kg đến 50kg; dây cháy chậm, dây nổ từ trên 3.000m đến 15.000m; kíp nổ, nụ xòe từ trên 1.000 cái đến 10.000 cái. Như vậy, khi người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ khi bị phát hiện mà vật phạm pháp là vật liệu nổ với số lượng thỏa mãn theo hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án cụ thể phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ cùng là vật phạm pháp có số lượng lớn nhưng xét về số lượng vật phạm pháp đó nhiều hay ít để từ đó quyết định hình phạt được chính xác, tương ứng với hành vi phạm tội. Ví dụ: Ngày 21/10/2011, Trần Văn C bị bắt vì có hành vi tàng trữ 16kg thuốc nổ, với số lượng 16kg Trần Văn C đã thỏa mãn dấu hiện tội phạm thuộc điểm b khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999 là vật phạm pháp có số lượng lớn, tuy nhiên, do số lượng thuốc nổ là 16kg gần ở mức tối thiểu của mức quy định về vật phạm pháp có số lượng lớn. Do đó, trong quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có thể cân nhắc về số lượng thuốc nổ mà xử phạt Nguyễn Văn C mức ba năm tù. Trên thực tế có những trường hợp cùng là vật phạm pháp có số lượng lớn, nhưng trường hợp có số lượng vật phạm pháp cao hơn thì sẽ bị xử phạt nghiêm khắc hơn. Ví dụ: Ngày 5/9/2013, Nguyễn Tuấn H bị bắt do có hành vi tàng trữ 70kg thuốc nổ, với số lượng là 70kg thuốc nổ Nguyễn Tuấn H vẫn thuộc
  • 43. 43 trường hợp theo hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7/1/1995 là vật phạm pháp có số lượng lớn. Nguyễn Tuấn H bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, do vật phạm pháp có số lượng lớn, gần mức tối đa của khung vật phạm pháp có số lượng lớn, do đó khi giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có thể phạt Nguyễn Tuấn H ở mức hình phạt cao nhất là mười năm. * Vận chuyển, mua bán qua biên giới So với Bộ luật Hình sự năm 1985, khi quy định về tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép và chiếm đoạt vật liệu nổ. Các nhà làm luật đã bổ sung thêm tình tiết về "vận chuyển, mua bán qua biên giới" là một tình tiết định khung hình phạt. Vận chuyển, mua bán vật liệu nổ qua biên giới là đưa vật liệu nổ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào lãnh thổ Việt Nam các loại vật liệu nổ mà không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, việc vận chuyển, mua bán vật liệu nổ qua biên giới có thể thực hiện bằng các phương tiện giao thông như ô tô, tàu hỏa hoặc tàu, thuyền… Việc vận chuyển, mua bán vật liệu nổ qua biên giới cũng tương tự như vận chuyển, mua bán hàng hóa nhưng đây là loại hàng hóa đặc biệt đó là vật liệu nổ, do có tính nguy hiểm cao, dễ gây thiệt hại đến xã hội và con người do đó nếu người thực hiện việc vận chuyển, mua bán vật liệu nổ qua biên giới mà không được sự cho phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì sẽ bị coi là hành vi vi phạm pháp luật, bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi người phạm tội thực hiện hành vi vận chuyển, mua bán qua biên giới ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, trường hợp này do tính chất nguy hiểm và có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa nước ta với nước mà người phạm tội thực hiện. Do vậy, khi người phạm tội thuộc trường hợp này có thể sẽ phải chịu mức hình phạt từ ba năm đến mười năm.
  • 44. 44 * Gây hậu quả nghiêm trọng Gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra. Trong khi chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra. Cũng như các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, tinh thần, về tài sản, phi vật chất do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra. Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp do hành vi phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ đã gây ra những thiệt hại ngoài những thiệt hại đã được quy định là yếu tố định tội hay định khung hình phạt. Những thiệt hại này gọi chung là "hậu quả nghiêm trọng". Căn cứ vào Điều 232 Bộ luật Hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử có thể coi thiệt hại sau là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vẫn chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra: Gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 11%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả người này từ 11% đến 30%. Ngoài những thiệt hại về sức khỏe còn thiệt hại về tài sản như làm sập nhà, làm hỏng
  • 45. 45 đường sá, sập núi dẫn đến lấp đường..., những thiệt hại phi vật chất cần được xác định để đánh giá hậu quả của hành vi phạm tội gây ra như: gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng và Nhà nước; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; gây hoang mang cho nhiều người trên một địa bàn nhất định. Những thiệt hại phi vật chất đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải căn cứ vào từng vụ án, trong hoàn cảnh cụ thể, xảy ra trên địa bàn cụ thể, mới có thể xác định được chính xác. * Tái phạm nguy hiểm Là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật hoặc đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật Hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự như người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phối hợp với cơ quan điều tra để phá án, người phạm tội là người già hoặc phụ nữ có thai…, người phạm tội không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự. Trường hợp này có thể áp dụng hình phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù. Ngược lại nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật như người phạm tội vừa tham gia, bàn bạc với những người khác nhằm thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của người đó gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc người phạm tội đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ rất nghiêm trọng và được thực