SlideShare a Scribd company logo
1 of 87
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ THỊ LUYỆN
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ
TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời
Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái
HÀ NỘI - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
VŨ THỊ LUYỆN
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lờ i cam đoan
Mục lục
Danh mục cá c chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS .......8
1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ......................................................................................................8
1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS.................................................................................8
1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..........................................14
1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS...........................16
1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS ..........27
1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS............................................................................................27
1.2.2 Các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS .........................................37
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM ....49
2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ............................................................49
2.1.1 Thành tựu của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................50
2.1.2 Hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................60
2.2 Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam...............................................................................62
2.2.1 Thành tựu trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................62
2.2.2 Hạn chế trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................69
2.3 Giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh
HIV/AIDS ở Việt Nam...............................................................................72
2.3.1 Giải pháp về pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của
phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam ............................................72
2.3.2 Giải pháp thực tiễn trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS............................................................................................73
KẾT LUẬN..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................80
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS: Aquired ImmunoDeficiency Syndrome
CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
HIV: Human Immunodeficiency Virus
ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị
ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
ILO: Tổ chức lao động quốc tế
PLTMC: Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con
UDHR: Tuyên ngôn nhân quyền
UNAIDS: Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS
WHO: Tổ chức y tế thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
HIV là một loại vi rút gây suy giảm hệ thống miễn dịch cơ thể người, làm
cho cơ thể không có khả năng chống chọi với các bệnh tật khác, giai đoạn cuối cùng
của HIV là AIDS và dẫn đến tử vong. Khác với các bệnh dịch khác, HIV có khả
năng lây nhiễm và hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh và chưa có thuốc điều trị
đặc hiệu, mặt khác nguồn gốc lây nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, do quan hệ
tình dục và do mẹ truyền sang con khi mang thai. Chính vì những lý do dịch tễ học
nêu trên mà dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện tại Mỹ vào năm 1980,
sau đó lây lan nhanh chóng và được coi là một đại dịch mang tính toàn cầu. Theo
thống kê của UNAIDS và WHO cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu
người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS,
ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới
mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và
trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình
trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với
HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6].
Trong suốt những năm đầu thập kỷ 1980 sự kỳ thị, phân biệt đối xử với
những người có HIV/AIDS và người thân của họ diễn ra khá phổ biến trên thế giới.
Các biện pháp như giam giữ, cách ly người nhiễm HIV/AIDS khỏi cộng đồng với
mục đích ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã tỏ ra không hiệu quả, bởi số lượng
người nhiễm HIV ngày càng tăng trên thế giới, mặt khác làm tăng sự kỳ thị, phân
biệt đối xử của xã hội đối với người nhiễm HIV/AIDS và như vậy là vi phạm
nghiêm trọng các quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS.
Cũng giống như những căn bệnh khác, người nhiễm HIV có nhu cầu thiết
yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, được chăm sóc y tế, được đảm bảo an ninh cá nhân, giáo
dục, lao động …để sống một cuộc sống có nhân phẩm, nhưng những nhu cầu thiết
yếu này luôn bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội.
2
Cùng với sự phát triển của y học thì con người nhận thức rõ hơn về cơ chế
lây truyền HIV/AIDS và sự đấu tranh bền bỉ của các tổ chức, cá nhân hoạt động
trong lĩnh vực quyền con người đã tạo sự chuyển biến lớn trong cách đối xử với
những người có HIV/AIDS. Dần dần, quan điểm cho rằng việc chống kỳ thị, phân
biệt đối xử, thừa nhận và bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của người có HIV/AIDS
là một yếu tố cốt yếu để phòng ngừa sự lây lan của đại dịch mặt khác, góp phần bảo
đảm quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS. Thực tế cho thấy sự kỳ
thị, phân biệt đối xử đã đẩy những người có HIV/AIDS vào “bóng tối” từ đó làm
tăng nguy cơ với cộng đồng do họ tìm cách che dấu tình trạng của bản thân, thậm trí
có người còn tìm cách trả thù cộng đồng.
Trong bối cảnh HIV/AIDS, phụ nữ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề
nhất, do phụ nữ là đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV và phải chịu những hậu quả
nghiêm trọng về mọi mặt do tình trạng nhiễm HIV của bản thân như bị phân biệt
đối xử, không được đảm bảo các nhu cầu về học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe,
an ninh cá nhân … điều này là đi ngược lại với những giá trị về quyền con người đã
được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người
như: Tuyên ngôn nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966)…
Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được
tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền”, Điều 2 tiếp tục ghi nhận: “Mọi
người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà
không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính ngôn ngữ,
tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội,
tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị khác”.
Vì vậy, phụ nữ nhiễm HIV được hưởng đầy đủ các quyền con người đã được
cộng đồng quốc tế ghi nhận và trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức
trong xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đó, được ghi nhận trong
pháp luật quốc gia và bảo đảm thực thi trên thực tế.
Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình phòng, chống lây nhiễm HIV đã chỉ ra
3
rằng, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS góp phần
quan trọng vào việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch.
Mặc dù vậy, trên thực tế quyền con người của những phụ nữ nhiễm
HIV/AIDS vẫn bị vi phạm nghiêm trọng bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Đòi hỏi các
quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền của
nhóm xã hội dễ bị tổn thương này.
Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các
công ước quốc tế về quyền con người, do đó hệ thống pháp luật quốc gia không
ngừng được hoàn thiện để ghi nhận và thực thi các quyền con người đã được thừa
nhận, trong đó có quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS
dưới góc độ quyền con người còn chưa phổ biến. Do vậy tác giả đã chọn đề tài
“Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam” là
đề tài luận văn thạc sỹ của mình, với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các quy định
của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người
của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam trong việc
bảo đảm quyền con người của phụ nữ và qua đó đề xuất các biện pháp về mặt pháp
lý cũng như về mặt thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của
phụ nữ để hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đến
đời sống của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng HIV/AIDS thường được tiếp
cận dưới góc độ là một vấn đề y học, vấn đề xã hội nhằm các mục tiêu y tế công.
Một cách tiếp cận mới là phòng chống HIV/AIDS dựa trên quyền con người,
theo đó Chương trình hỗn hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Văn phòng cao
ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã thông qua “Hướng dẫn quốc tế về
HIV/AIDS và quyền con người” năm 2001 nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một
cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo
hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch trong khi
vẫn đảm bảo được sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.
4
Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người
của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ. Các
bài nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó
khăn mà phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài “Phụ nữ và trẻ em gái
Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS” hay bài “Phụ nữ và HIV/AIDS – đương đầu với
khủng hoảng” của tác giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số
271 năm 2005 hay cuốn “Sức khỏe sinh sản và tình dục đối với phụ nữ sống chung
với HIV/AIDS” do tác giả Lê Anh Tuấn chủ biên. Các bài viết này mới chỉ phân tích
ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích
vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người. Hay các bài viết về
phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam như bài
“Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới”của tác giả Nguyễn
Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài “Vấn đề nhiễm
HIV/AIDS trong các gia đình” của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên tạp chí Lao
động xã hội số 289 năm 2006. Đặc biệt bài viết “Quyền con người của phụ nữ trong
bối cảnh HIV/AIDS” của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng
trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể
và cơ sở của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp
nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm
“HIV/AIDS và quyền con người” trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở
pháp luật, chính trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh
HIV/AIDS và đảm bảo quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối
cảnh HIV/AIDS trong đó có đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu
phân tích toàn diện các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của
pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của
pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy
5
được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và
bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác
giả hoàn thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về
quyền con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các
giải pháp mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với
các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các
giải pháp thực tiễn để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS.
Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên của luận văn, tác giả
đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS.
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối
với phụ nữ có HIV/AIDS.
Phân tích rõ cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền
con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s
Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực
tiễn về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh,
nhận xét, đánh giá để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
6
5. Những nét mới của luận văn
Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những
bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo
đảm quyền con người của phụ nữ.
Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt
Nam về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó
đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời
đánh giá thực trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như
những giải pháp thực tiễn để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản
về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực
chính trị, pháp luật và kinh tế đồng thời làm rõ các quyền con người của phụ nữ có
HIV/AIDS được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt
Nam, qua đó đưa ra những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp
luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật
Việt Nam, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở đánh
giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp thực tiễn
nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên
cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý
nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con
người của phụ nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và
thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
7
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu gồm 02 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người
của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về
HIV/AIDS. Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích
các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế
và đưa ra những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo
đảm về chính trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ
trong bối cảnh HIV/AIDS. Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật
Việt Nam và thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo
đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS
1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS
1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS
HIV (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency
Virus) là tên gọi tắt của một loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người. Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, dẫn đến hệ miễn
dịch của cơ thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị “vô hiệu hóa” và điều đó có nghĩa là cơ thể
con người không còn được bảo vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi
trùng nhân cơ hội gây nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người có HIV... và dẫn đến tử vong.
AIDS (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired
ImmunoDeficiency Syndrome) - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người -
giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Thời gian từ khi nhiễm HIV cho đến khi thành
AIDS dài hay ngắn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành vi của từng người.
Trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi thành AIDS kéo dài từ 5-7 năm, nhưng có nhiều
trường hợp có thể kéo dài đến hàng chục năm nếu người nhiễm HIV biết cách giữ gìn
sức khỏe và không có hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV.
Nhiễm HIV không phải là thành AIDS ngay mà nó diễn ra trong một khoảng
thời gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và trong khoảng thời gian này,
người nhiễm HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ vẫn sống, lao động và học tập bình
thường, nhưng họ có thể làm lây truyền HIV từ người này sang người khác. Quá
trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức
đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự
chăm sóc của gia đình, người thân, mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội.
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa nghiên cứu và sản xuất được vắc xin phòng
ngừa và thuốc điều trị triệt để HIV/AIDS.
9
Trên thực tế HIV chỉ có thể lây truyền qua ba con đường đó là:
- Đường máu;
- Đường tình dục
- Đường truyền từ mẹ sang con;
Phụ nữ dễ bị tổn thương với lây nhiễm HIV hơn so với nam giới, cụ thể:
Về mặt sinh học: Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn nam giới do đặc
điểm đặc thù về sinh học. Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV do quan hệ tình dục cao
gấp 2 đến 4 lần so với nam giới do diện tích cơ thể tiếp xúc với vi rút HIV cao
hơn nam giới.
Về y học: Khi có thai, hệ thống miễn dịch trong cơ thể phụ nữ bị giảm sút,
sức đề kháng đối với bệnh tật giảm vì vậy vi rút HIV dễ dàng xâm nhập hơn. Mặt
khác, phụ nữ thường phải truyền máu vì bị giảm sút hồng cầu hay do những bất trắc
trong sinh nở làm tăng khả năng nhiễm HIV cao hơn nhiều so với nam giới.
Về kinh tế: Phụ nữ thường phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế. Hơn
2/3 phụ nữ trên thế giới mù chữ và 70% sống trong đói nghèo [29,41], vì vậy họ
khó có cơ hội thực hiện quyền tự chủ, dẫn đến họ khó có thể chủ động về địa
điểm cũng như cách thức quan hệ tình dục an toàn. Do đó nguy cơ phơi nhiễm
HIV là khó tránh khỏi.
Về xã hội: Nam giới thường có nhiều quyền lực hơn nữ giới trong gia đình
và ngoài xã hội. Phụ nữ thường không có nhiều quyền quyết định đến những việc
có liên quan đến cơ thể của họ như đàn ông. Thông thường, đàn ông cảm thấy
mình có quyền lực đối với phụ nữ, đặc biệt là với vợ và bạn tình của mình. Vì vậy,
một người phụ nữ khi có quan hệ tình cảm với một người đàn ông thì người đàn
ông có thể kiểm soát việc khi nào họ quan hệ tình dục và có sử dụng biện pháp
bảo vệ hay không. Người phụ nữ thường cảm thấy mình không có quyền để nói
“không” với quan hệ tình dục hoặc yêu cầu bạn tình của mình sử dụng biện pháp
bảo vệ. Mặt khác, đàn ông thường có nhiều bạn tình hoặc có quan hệ tình dục
ngoài hôn nhân. Đây là yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV từ chồng hoặc bạn
tình đối với phụ nữ. Hơn nữa, ở Việt Nam, những chuẩn mực xã hội lâu đời không
10
khuyến khích thảo luận cởi mở về tình dục, điều này hạn chế cơ hội của phụ nữ để
có được tình dục an toàn.
HIV không lây qua tiếp xúc thông thường. Như vậy, chúng ta có thể sống,
làm việc, học tập... chung với người nhiễm HIV.
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980 tại Mỹ,
sau đó đã lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS
cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với
HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ
em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở
những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng
gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản
thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có
17,5 triệu là phụ nữ [44,6].
Tại khu vực châu Á, từ lâu dịch HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các
nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm và
khách hàng của họ và nam tình dục đồng giới. Tuy nhiên dịch HIV/AIDS tại nhiều
khu vực của châu Á đang dần lan sang các nhóm có nguy cơ lây nhiễm thấp như
thông qua sự lây nhiễm HIV sang bạn tình của những người thuộc nhóm có nguy cơ
lây nhiễm cao. Năm 2008, tại Châu Á có 4,7 triệu người sống với HIV/AIDS, ước
tính khoảng 35% trong số đó là phụ nữ trong khi đó tỷ lệ phụ nữ có HIV/AIDS năm
2000 chiếm khoảng 19% [44,6]. Bằng chứng thực tiễn từ nhiều quốc gia châu Á
cũng chỉ ra rằng hầu hết số phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS không phải do hành vi tình
dục của bản thân họ mà do chồng hoặc bạn tình của họ đã tham gia vào các hành vi
không an toàn. Ước tính có đến hơn 90% số phụ nữ sống với HIV/AIDS bị lây
nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nam của họ [44,6].
Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS hiện đang tập trung ở các nhóm có nguy cơ
lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam tình dục đồng
giới. Theo thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 197.335 người nhiễm HIV
đang còn sống, đã có 52.325 người chết do HIV/AIDS, dịch HIV/AIDS đã xuất
11
hiện ở 100% tỉnh, thành phố [22]. Năm 2007, số nam giới trong độ tuổi trưởng
thành (từ 15 tuổi trở lên) nhiễm HIV/AIDS cao gấp 3 lần so với phụ nữ và nam giới
vẫn chiếm đa số các ca nhiễm mới [44]. Nhưng theo ước tính của Bộ Y tế, khoảng
cách này giảm xuống còn 2,6% vào năm 2012 [44].
Như vậy, HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, đói
nghèo, lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc.
Ở Việt Nam, Chị thỉ 54 ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư đã nhận định “Cho
đến nay ở nước ta HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng
ngày càng lan rộng. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao, HIV/AIDS đang đe
dọa trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người, trật tự, an toàn xã hội, đến sự
phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi”. Chiến lược quốc gia về phòng,
chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài.
Khác với nhiều căn bệnh khác HIV/AIDS là một vấn đề y học – xã hội.
Về mặt dịch tễ học, khác với nhiều bệnh lây truyền, mãn tính khác
HIV/AIDS là bệnh mãn tính, thời gian ủ bệnh kéo dài, gây tử vong, hiện tại vẫn
chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Con đường lây nhiễm
chủ yếu qua quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. Những đặc điểm
dịch tễ học nói trên cùng với sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS là nguyên nhân chủ
yếu dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội đối với những người có
HIV/AIDS và những người thân của họ làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của
những người có HIV/AIDS và những người thân của họ.
Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, thái
độ ban đầu của cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các gia đình
là tiêu cực. Khi bị phát hiện là nhiễm HIV/AIDS, những người bị bệnh bị từ bỏ,
cách ly, ngay cả người thân trong gia đình cũng không cho họ cùng ăn, thậm chí
còn nhốt họ và cách ly để tránh lây nhiễm. Cộng đồng từ chối làm việc với những
người có HIV/AIDS và những thành viên gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS.
Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn
sóng kế tiếp nhau:
12
Giai đoạn đầu: Người mạnh khỏe trở thành người mang virut HIV. Đặc điểm
của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh kéo dài, khó nhận biết và có thể lây truyền
sang người khác. Do đặc điểm của giai đoạn này, nhiều người không biết tình trạng
có HIV của bản thân do vậy họ vẫn tiếp tục có những hành vi vô tình làm lây truyền
HIV sang cho người khác như: quan hệ tình dục với vợ hoặc bạn tình của mình.
Giai đoạn hai: Người mang virut chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất
hiện nhiều bệnh lây nhiễm khác do hệ miễn dịch bị tàn phá. Giai đoạn này tác động
đến nhiều mặt của đời sống người có HIV, gia đình họ và toàn xã hội. Đối với
người có HIV họ phải sống trong sự lo sợ do cái chết đã được báo trước đồng thời
họ phải đối mặt với nhiều bệnh tật do hệ miễn dịch của cơ thể bị tàn phá đồng thời
họ phải chịu sự xa lánh, kỳ thị của người thân, của cộng đồng. Đối với gia đình
người có HIV kinh tế gia đình giảm sút do thu nhập của những thành viên có HIV
bị mất hoặc giảm đi mặt khác phải tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc, thuốc điều
trị cho người có HIV. Đồng thời họ cũng phải gánh chịu sự phân biệt, kỳ thị của
cộng đồng. Đối với xã hội, cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do năng suất lao động
xã hội giảm, những chi phí cho y tế, cho phòng ngừa, ngăn chặn HIV cũng tăng lên,
kèm theo đó là những vấn đề về đói nghèo, thất học, mồ côi …cũng là những gánh
nặng cho xã hội.
Giai đoạn ba: Người có HIV chuyển sang giai đoạn AIDS – là giai đoạn cuối
cùng của quá trình nhiễm HIV trong cơ thể. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6
tháng đến 2 năm và kết quả là người bệnh sẽ tử vong. Giống như giai đoạn trước,
người bệnh, gia đình họ và xã hội đều bị tác động to lớn về nhiều mặt.
Giai đoạn bốn: Là những hậu quả sau cái chết của người có AIDS. Sự kỳ thị,
phân biệt đối xử với người thân của người chết vì AIDS, cũng như gây ra các vấn
đề xã hội như trẻ em mồ côi, đói nghèo, thất học, góa bụa…
Về mặt xã hội: Cho rằng HIV/AIDS là một căn bệnh do suy đồi đạo đức, lối
sống, gắn liền với các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, ngoại tình và đây cũng là
một nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS.
Những người có HIV/AIDS theo một số nghiên cứu được chia làm ba thế hệ:
13
Thế hệ thứ nhất: Đó là những người bị lây nhiễm do tiêm chích ma túy và
mại dâm không an toàn.
Thế hệ thứ hai: Là những người bị lây nhiễm từ người thân của thế hệ thứ
nhất (vợ, chồng).
Thế hệ thứ ba: Bao gồm con cái của những người có HIV/AIDS và những
người bị lây nhiễm bởi nhiều lý do khác như rủi ro nghề nghiệp hoặc phơi nhiễm.
Thế hệ thứ hai và thứ ba đang có xu hướng mở rộng. Hai thế hệ này hoàn
toàn không liên quan đến ma túy, mại dâm, không vi phạm pháp luật xong họ vẫn bị
kỳ thị, phân biệt đối xử.
Nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn những người có HIV/AIDS thuộc tầng
lớp nghèo, thiếu hiểu biết, thiếu điều kiện tự bảo vệ mình dẫn đến họ phải chịu ảnh
hưởng nghiêm trọng hơn như không có điều kiện để được chăm sóc sức khỏe, thất
nghiệp, đói nghèo…
Thế hệ thứ hai bị nhiễm HIV/AIDS trong hoàn cảnh sinh hoạt gia đình bình
thường, hoàn toàn lành mạnh. Do thời gian ủ bệnh kéo dài, do không có điều kiện
xét nghiệm, do bất bình đẳng về giới đã vô tình nhiễm HIV từ người thân của mình.
Nhóm thế hệ lây nhiễm này đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Như vậy, những người có HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều
kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu bao trùm dẫn
đến sự lây nhiễm là do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và nhận thức chung
của xã hội còn thấp.
Những quan niệm về HIV/AIDS gắn liền với tệ nạn xã hội, những người có
HIV/AIDS là những người thoái hóa về đạo đức, lối sống đã không còn phù hợp.
Khi dịch HIV mới xuất hiện trên thế giới, do sự hiểu biết hạn chế về
HIV/AIDS nên biện pháp cô lập, tách biệt người có HIV/AIDS với cộng đồng đã
được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và nhận thức
của con người về HIV/AIDS thì biện pháp cô lập người có HIV/AIDS trở nên bất
cập trước diễn biến của đại dịch. Bởi số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng lên
mặt khác làm tăng gánh nặng cho nhà nước và vi phạm nghiêm trọng các quyền con
người của người có HIV/AIDS.
14
Dưới góc độ quyền con người: HIV/AIDS dẫn đến hậu quả tiêu cực to lớn.
Đó là hình thành một nhóm xã hội dễ bị tổn thương với số lượng ngày càng tăng
gồm những người có HIV/AIDS và những người sống chung với họ. Nhiều quyền
của nhóm người sống chung với HIV/AIDS bị vi phạm nghiêm trọng đặc biệt là
quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền
được làm việc, đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ,
người di cư…
Như vậy, những người nhiễm HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều
kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nhưng xuất phát từ những đặc điểm về dịch tễ
học của căn bệnh này mà cộng đồng thậm chí người thân của người có HIV/AIDS
xa lánh, kỳ thị, phân biệt đối xử với họ dẫn đến sự vi phạm nghiêm trọng các quyền
con người của những người có HIV/AIDS và phụ nữ là đối tượng phải chịu hậu quả
nặng nề nhất.
1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
Bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người, quyền công dân và cũng
là nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong quá trình lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Đó là quyền của mỗi người được xác lập tư cách công dân trước pháp luật,
không bị pháp luật phân biệt đối xử và quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật
và được pháp luật bảo vệ như nhau.
Trước hết, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một
chủ thể tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Trong
xã hội, sẽ không thể có tự do nếu không có sự bình đẳng thật sự giữa các thành
viên trong xã hội. Bản chất của sự bình đẳng là công nhận các giá trị như nhau
của các thành viên xã hội trong tất cả các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa và xã hội.
Điều 1 UDHR nêu rõ, mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng
về nhân phẩm và các quyền...
Điều 2 UDHR quy định, mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và
tự do…mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
15
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc
dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác.
Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định: “Mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật”.
Điều 63 Hiến pháp qui định: “công dân nữ và nam có quyền ngang
nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình.”
Thứ hai, bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Dưới
góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một
quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Điều 6 UDHR quy định, mọi người đều có quyền được công nhận tư
cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Quy định này được tái khẳng
định nguyên văn trong Điều 16 ICCPR.
Thứ ba, quyền bình đẳng trước pháp luật có nội dung là quyền không bị
pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ.
Như trên đã nói, con người sinh ra có sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín
ngưỡng, tôn giáo và địa vị xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ để pháp luật
phân biệt trong việc hưởng các quyền và chịu trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, pháp
luật luôn đặt giá trị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách
không bình đẳng đó bằng việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau.
Quyền bình đẳng trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử còn có khía
cạnh khác đó là quyền được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi,
mọi lúc và mọi hoàn cảnh.
Thứ tư, quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng: Quyền con người
luôn đứng trước nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía. Đó có thể là các cá nhân, tổ chức
khác trong xã hội cũng có thể từ phía công quyền. Khi những quyền đó bị xâm hại,
dưới góc độ bình đẳng trước pháp luật, con người đều có quyền được pháp luật bảo
vệ như nhau với các quyền pháp lý nhất định. Bảo vệ quyền bình đẳng này cũng là cơ
16
sở để bảo vệ các quyền khác của con người. Quyền được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp lý từ phía nhà nước.
Về khía cạnh này, Điều 7 UDHR quy định, mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự
phân biệt nào… Điều 8 UDHR cụ thể hóa một khía cạnh quy định ở Điều 7 khi nêu
rằng, mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng
các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của
họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định.
Điều 26 ICCPR tái khẳng định hai quy định kể trên của UDHR, đồng thời
nêu rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm
bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân
biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính
trị hoặc quan điểm khác.
Như vậy, trách nhiệm của nhà nước trong vấn đề này là ghi nhận trong pháp
luật các quyền một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và tạo ra cơ chế bảo vệ
quyền khi nó bị xâm phạm. Nội dung của quyền bình đẳng trong bảo vệ quyền đòi
hỏi mọi hành vi vi phạm phạm đều phải bị xử lý như nhau trước pháp luật.
Như vậy, sự bình đẳng của công dân trước pháp luật, là một quyền cơ bản
của con người và cũng là cơ sở, nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong việc ghi
nhận, thực thi và bảo vệ quyền của mỗi công dân quốc gia mình. Đặc biệt, trong bối
cảnh HIV/AIDS, quyền này của công dân phải được nhà nước thi hành triệt để bởi
quyền này dễ bị vi phạm nghiêm trọng nhất và trong trường hợp bị vi phạm sẽ ảnh
hưởng đến việc thực thi các quyền con người khác của người có HIV/AIDS.
1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
Mặc dù các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS là quyền tự nhiên,
vốn có nhưng các quyền đó luôn đứng trước nguy cơ bị vi phạm bởi các cơ quan
nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, vì vậy cần có các biện pháp để bảo
đảm cho việc ghi nhận và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS
tránh bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội và tạo điều kiện cho nhóm đối
17
tượng dễ bị tổn thương này có điều kiện để thực hiện các quyền của mình. Theo đó
các đảm bảo quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được bảo đảm về chính trị,
bảo đảm về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật.
1.1.3.1 Bảo đảm về chính trị
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS về mặt chính trị bao
gồm những cam kết của nhà nước ở cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ
quốc tế là những cam kết của nhà nước với cộng đồng quốc tế và cấp độ quốc gia là
những cam kết của nhà nước với nhân dân.
Ở cấp độ quốc tế, tiêu biểu là cam kết của các quốc gia nỗ lực trong việc
thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Bao gồm 8 mục
tiêu của Liên hợp quốc được 189 quốc gia thành viên cam kết đạt được vào năm
2015. Những mục tiêu này được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của
Liên hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày mùng 6 đến
ngày mùng 8 tháng 9 năm 2000 tại trụ sở của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Liên
quan đến việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS: mục tiêu thứ ba
về nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ: Xóa bỏ tình trạng chênh
lệch về giới tính ở giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tốt nhất là vào năm 2005 và
ở mọi cấp không chậm hơn năm 2015; mục tiêu thứ năm là cải thiện sức khỏe bà
mẹ: Giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990 – 2015 và đến năm
2015, phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản; trong đó mục tiêu trực tiếp nhất trong
việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS đó là mục tiêu sáu: Phòng
chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác, theo đó các quốc gia sẽ chặn đứng
và bắt đầu thu hẹp sự lây lan của HIV/AIDS vào năm 2015, đến năm 2010, mọi đối
tượng có nhu cầu đều được điều trị HIV/AIDS.
Các mục tiêu Thiên niên kỷ là cơ sở quan trọng cho việc các quyền con
người của phụ nữ HIV/AIDS được bảo đảm tốt hơn, bởi các quốc gia ký cam kết, sẽ
nỗ lực bằng mọi biện pháp và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đạt được
mục tiêu chung.
Một cam kết của cộng đồng quốc tế về HIV/AIDS đó là Tuyên bố cam kết về
18
HIV/AIDS năm 2001- “Khủng hoảng toàn cầu – Hành động toàn cầu” được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết S-26/2 ngày 27/06/2001. Đây là
một văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề ra những mục
tiêu cơ bản về bảo vệ quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS,
đặc biệt với đối tượng là phụ nữ và đây là cam kết khẳng định lại một lần nữa cam
kết về HIV/AIDS trong tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Nội dung của Tuyên bố này khá toàn diện. Trước tiên, Tuyên bố nhận định
tình hình, diễn biến của đại dịch, thừa nhận sự quan ngại sâu sắc của cộng đồng
quốc tế về phạm vi, quy mô tác động và tàn phá của HIV/AIDS đối với con người
và khẳng định đây là một vấn đề toàn cầu và là một trong những khó khăn nhất đối
với cuộc sống và nhân phẩm cũng như cho việc hưởng thụ có hiệu quả các quyền
con người. Tuyên bố nhấn mạnh “phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái là những
người phải chịu rủi ro nhiều nhất”.
Tuyên bố đề ra phương hướng lãnh đạo toàn diện, ở mọi cấp độ từ cấp quốc
gia, cấp khu vực và cấp độ toàn cầu nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Tuyên bố đưa ra những mục tiêu, đòi hỏi các quốc gia cần có biện pháp thích
hợp để đạt được các mục tiêu này. Một trong những yêu cầu đặt ra là các quốc gia
cần xây dựng chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS, phát huy mọi nguồn
lực quốc gia cùng với sự hợp tác quốc tế để đạt được các mục tiêu: đến năm 2005,
giảm 25% tình trạng nhiễm HIV phổ biến trong nam và nữ thanh niên từ 14 đến 24
tuổi ở những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất và đến năm 2010 là 25% trên phạm vi
toàn cầu. Cam kết đến năm 2005 sẽ tạo được môi trường lao động nhằm trợ giúp
người lao động có HIV/AIDS. Đặc biệt, trong đó có mục tiêu về giảm bất bình đẳng
giới, đến năm 2005 đảm bảo ít nhất 90% và đến năm 2010 ít nhất 95% nam, nữ
thanh niên từ 14-24 tuổi được tiếp cận giáo dục về HIV/AIDS, mục tiêu đến năm
2010 bảo đảm 80% phụ nữ mang thai được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc tiền sản,
được cung cấp dịch vụ tư vấn và phòng chống HIV.
Tuyên bố thừa nhận hiện thực hóa các quyền con người là cần thiết để làm
giảm nguy cơ trước HIV/AIDS. Các quốc gia cam kết, đến năm 2003, ban hành,
19
tăng cường hoặc thực hiện pháp luật, các quy định và những biện pháp khác để xóa
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử và đảm bảo sự thụ hưởng đầy đủ các quyền con
người và tự do căn bản của người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt bảo đảm cho
họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục phục hồi, lao động, y tế, xã hội và sức khỏe, phòng
chống, hỗ trợ và điều trị, thông tin và bảo vệ pháp luật, đồng thời tôn trọng cuộc
sống riêng tư của họ và đảm bảo bí mật. Đặc biệt, Tuyên bố nhấn mạnh đến việc
thực hiện các chiến lược quốc gia nhằm mục tiêu đến năm 2005, thúc đẩy sự tiến bộ
của phụ nữ và sự thụ hưởng đầy đủ tất cả các quyền con người của phụ nữ bằng
cách nâng cao quyền năng cho phụ nữ để kiểm soát và quyết định tự do và có trách
nhiệm về những vấn đề liên quan đến tình dục của họ để nâng cao khả năng tự bảo
vệ trước sự lây nhiễm HIV, bằng việc thông qua các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
y tế kể cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, thông qua giáo dục nhằm thúc
đẩy bình đẳng giới và bằng cách xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử cũng
như mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái.
Trên phương diện nghiên cứu và phát triển ứng dụng, Tuyên bố này khuyến
khích các quốc gia tăng cường nghiên cứu các loại thuốc vắc-xin về HIV, thuốc về
phòng chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đảm bảo người dân đặc biệt là phụ nữ
có thể tiếp cận an toàn, đáp ứng được về mặt chi phí đối với các thuốc này.
Tuyên bố cũng nhấn mạnh đến việc các quốc gia cam kết sẽ bảo đảm các
nguồn lực dành cho hành động toàn cầu nhằm giải quyết HIV/AIDS là thỏa đáng,
bền vững và tập trung hướng tới đạt kết quả.
Như vậy, Tuyên bố cam kết này, có vai trò quan trọng đối với hoạt động
phòng chống HIV/AIDS ở mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Cam kết này đòi
hỏi các quốc gia ký cam kết phải thực hiện mọi biện pháp được đề xuất tại Tuyên
bố này có xét đến yếu tố đặc thù của từng quốc gia, cũng như diễn biến HIV/AIDS
ở mỗi quốc gia để xây dựng chiến lược, chính sách phòng chống HIV/AIDS của
quốc gia mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Có thể nói, Tuyên bố cam kết năm 2001, có vai trò quan trọng trong việc bảo
đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, thể hiện ở các khía cạnh sau:
20
Các quốc gia xác định được sự tác động to lớn của HIV/AIDS đến mọi mặt
của đời sống xã hội mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế, đặc biệt thừa nhận phụ nữ và
trẻ em gái là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất qua đó có sự quan tâm và đầu tư
mọi nguồn lực cho việc hạn chế những rủi ro do HIV/AIDS gây ra.
Tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế trong một
cuộc chiến toàn cầu phòng chống HIV/AIDS và bảo đảm các quyền con người của
những người có HIV/AIDS đặc biệt là việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ.
Những mục tiêu mà Tuyên bố đề ra là đòi hỏi các quốc gia phải có chính
sách, chiến lược và áp dụng mọi biện pháp để thực hiện.
Sau 10 năm thực hiện, đến năm 2011, trong Tuyên bố chính trị về HIV và
AIDS của Liên hợp quốc đã ghi nhận, cộng đồng quốc tế đã đạt được những kết quả
quan trọng như: giảm hơn 25% tỷ lệ các ca nhiễm mới ở hơn 30 quốc gia, giảm
đáng kể lây truyền HIV từ mẹ sang con, và việc mở rộng chưa từng có khả năng
tiếp cận điều trị ARV cho hơn 6 triệu người, kết quả đưa đến là giảm hơn 20% số ca
tử vong có liên quan đến HIV. Tuyên bố này cũng ghi nhận, cam kết trên toàn thế
giới đối với dịch HIV toàn cầu là chưa từng có tiền lệ kể từ Tuyên bố cam kết năm
2001 về phòng, chống HIV, những cam kết này được thể hiện bằng việc gia tăng
nguồn kinh phí gấp 8 từ 1,8 tỷ USD năm 2001 lên 16 tỷ USD năm 2010, số lượng
tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh duy nhất trong lịch sử.
Vào tháng 6 năm 2011, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên bố chính trị về
phòng, chống HIV và AID với mục tiêu tăng cường mạnh mẽ nỗ lực của cộng đồng
quốc tế để xóa bỏ HIV và AIDS bằng cách thúc đẩy việc tiếp tục các cam kết chính
trị và sự tham gia của các nhà lãnh đạo vào một ứng phó toàn diện tại cấp độ cộng
đồng, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đẩy lùi dịch
HIV và giảm thiểu tác động của dịch. Yêu cầu các quốc gia xây dựng và triển khai
các kế hoạch tài chính và chiến lược quốc gia đa ngành để chống HIV/AIDS, chú
trọng vào những vấn đề trọng tâm như: xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử và cách ly
xã hội, lôi kéo sự tham gia của các nhóm có nguy cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, lồng
ghép quan điểm về giới …
21
Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 đã nhận định
tình hình, diễn biến của HIV và AIDS trên toàn thế giới, xác định những hậu quả
mà HIV và AIDS đã gây ra với nhân loại, đồng thời nhấn mạnh HIV tác động
không đồng đều đối với mỗi quốc gia, khu vực và đối với mỗi nhóm xã hội. Tuyên
bố chính trị về phòng chống HIV/AIDS đã nhận định: “Phụ nữ và trẻ em gái trên
toàn cầu vẫn bị ảnh hưởng nhiều nhất từ dịch HIV” và phải chịu gánh nặng về chăm
sóc và khả năng để phụ nữ và trẻ em gái tự bảo vệ tránh khỏi lây nhiễm HIV vẫn
tiếp tục bị tổn hại do các yếu tố sinh lý, sự bất bình đẳng giới, kể cả tình trạng bất
bình đẳng về pháp lý, kinh tế và xã hội, tiếp cận không đầy đủ đến chăm sóc sức
khỏe và các dịch vụ khác như: sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản và tất cả các
hình thức phân biệt đối xử và bạo hành, kể cả bạo lực và bóc lột về tình dục. Tuyên
bố khẳng định lại một lần nữa sự cần thiết của “việc thành lập tổ chức Phụ nữ Liên
hợp quốc (UN Women) như là một bên đối tác mới, đóng một vai trò quan trọng
trong các nỗ lực toàn cầu phòng, chống HIV, thông qua thúc đẩy bình đẳng giới và
tăng cường quyền lực cho phụ nữ, đó là nguyên tắc cơ bản để giảm tính dễ tổn
thương của phụ nữ đối với HIV”
Các quốc gia ký Tuyên bố cam kết xóa bỏ bất bình đẳng giới, lạm dụng và
bạo hành giới, tăng cường năng lực của phụ nữ và em gái vị thành niên để tự bảo
vệ bản thân trước nguy cơ lây nhiễm, chủ yếu thông qua cung cấp sự chăm sóc y tế
và các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, và
cung cấp sự tiếp cận đầy đủ đến các thông tin và giáo dục toàn diện; bảo đảm rằng
phụ nữ có thể thực hiện được quyền kiểm soát, và quyết định một cách tự do và có
trách nhiệm đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động tình dục của họ nhằm tăng
cường khả năng bảo vệ bản thân họ trước nguy cơ lây nhiễm HIV, bao gồm cả sức
khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản của họ, không chịu sự ép buộc, phân biệt đối xử
và bạo hành, và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tạo ra một môi trường thuận
lợi cho việc trao quyền cho phụ nữ và tăng cường sự độc lập về kinh tế của họ”
Các quốc gia cam kết tăng cường bảo vệ các quyền con người thông qua các
chương trình xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử với những người có HIV, kể cả gia
22
đình họ, tính bảo mật, hỗ trợ các chiến dịch quốc gia về đào tạo các quyền con người,
phổ biến văn bản pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý, chăm sóc sức khỏe.
Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 có vai trò quan
trọng đối với các quốc gia trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp để đạt được
những mục tiêu đã đề ra bởi các lý do sau:
HIV và AIDS không phải là vấn đề của một quốc gia, một khu vực mà đó là
một vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các quốc gia trong việc
giảm thiểu tác động do HIV và AIDS gây ra cũng như giảm thiểu sự lây lan của đại
dịch trên toàn thế giới. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp
tác cũng như sự hỗ trợ của những quốc gia phát triển cho những quốc gia kém phát
triển nhưng lại chịu hậu quả nặng nề của HIV và AIDS.
Tuyên bố đề ra những mục tiêu chung, đòi hỏi các quốc gia cam kết phải nỗ lực
thực hiện mọi biện pháp để đạt được những mục tiêu mà cộng đồng quốc tế đã đề ra.
Đồng thời Tuyên bố đưa ra những giải pháp để các quốc gia có thể xây dựng
những chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS phù hợp với từng điều kiện
cụ thể và bối cảnh xã hội cũng như hình thái dịch tễ của từng quốc gia có liên quan.
Tất cả những nỗ lực của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đều hướng đến
mục tiêu hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ đảm bảo cho con người có một
cuộc sống lành mạnh cả về thể chất và tinh thần.
Định kỳ các quốc gia phải lập báo cáo nhận đình về tình hình, diễn biến của
đại dịch ở quốc gia mình, kết quả mà quốc gia đã đạt được và các biện pháp mà
quốc gia đã tiến hành trong quá trình thực hiện mục tiêu.
Việt Nam là một thành viên ký kết Tuyên bố chính trị năm 2011 về phòng chống
HIV và AIDS. Tại Hội nghị cấp cao về HIV/AIDS ở New York, Mỹ tháng 6 năm 2012,
Việt Nam đã khẳng định lại quyết tâm của mình trong công cuộc phòng, chống
HIV/AIDS dựa trên việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS.
Tháng 03 năm 2012, Việt Nam có báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS
thực hiện Tuyên bố chính trị năm 2011 về HIV/AIDS. Bản báo cáo đã nhận định:
Việt Nam coi trọng cam kết này và đảm bảo rằng bản báo cáo quốc gia về tiến trình
23
thực hiện cam kết mang tính toàn diện và phản ánh chính xác tình hình thực tế của
ứng phó với HIV tại Việt Nam, thể hiện sự đồng thuận quốc gia về các thành tựu và
thách thức chính trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2010 và 2011.
Đối với nhà nước ta, cơ sở chính trị của việc bảo đảm quyền con người của
những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng là đường lối
lãnh đạo của Đảng với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Công tác lãnh đạo phòng chống HIV/AIDS và đảm bảo quyền con người của
những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng được ghi
nhận trong một số văn bản như Chỉ thị số 52 năm 1995 về lãnh đạo công tác phòng,
chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, Nghị
quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày
30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường
lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới.
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị đã xác định bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là một trong những chính sách ưu tiên
hàng đầu của Đảng và Nhà nước, đó là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình
và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Một trong những nhiệm vụ được đề ra
tại Nghị quyết là “nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh
đặc biệt là HIV/AIDS, chú trọng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em”.
Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày 30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS
trong tình hình mới đã nêu lên những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chỉ thị
52-CT/TW đồng thời nhận định những khó khăn, hạn chế trong quá trình lãnh đạo
và thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS. Với quan điểm không để
HIV/AIDS phát triển tràn lan thành đại dịch, chỉ thị đã đề ra những yêu cầu trong
công tác phòng chống HIV/AIDS, một trong những yêu cầu đó là:
Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp
24
ủy đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội và của người dân đối với công tác phòng
chống HIV/AIDS.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ để tạo môi trường pháp
lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Đổi mới, đa dạng hóa và đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục
rộng rãi trong xã hội nhằm xây dựng nhận thức đúng về nguy cơ và hiểm họa của
dịch HIV/AIDS và có thái độ, hành vi, cư xử đúng đối với người nhiễm HIV/AIDS.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng chống HIV/AIDS, phát huy truyền
thống tương thân, tương ái, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị, phân
biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS.
Các văn bản trên có vai trò quan trọng trong công tác phòng chống HIV/AIDS
cũng như cho việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS trong đó
có nhóm phụ nữ, thể hiện ở các khía cạnh sau:
Tạo được sự tham gia của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương,
sự tham gia của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác phòng,
chống HIV/AIDS.
Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội
đối với nhóm người có HIV/AIDS, trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng phụ nữ.
Tăng cường hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc
phòng chống và bảo đảm quyền con người của người có HIV/AIDS.
Tổ chức bộ máy phòng chống HIV/AIDS được thành lập từ trung ương đến
cơ sở đã tăng cường vai trò lãnh đạo trong công tác phòng, chống HIV/AIDS.
Những chương trình dự phòng, lây truyền HIV/AIDS được triển khai và
nhân rộng, đặc biệt là những chương trình dành cho phụ nữ như chương trình dự
phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con, chương trình bao cao su, chương trình
bơm kim tiêm.
1.1.3.2 Bảo đảm bằng pháp luật
Bảo đảm bằng pháp luật là biện pháp bảo đảm có hiệu quả và thiết thực
nhất đối với phụ nữ có HIV/AIDS, bởi pháp luật chính là những quy tắc xử sự có
25
tính bắt buộc chung và được nhà nước bảo đảm thi hành. Bảo đảm về pháp luật
đối với các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cả ba phương diện lập pháp,
hành pháp và tư pháp:
Về mặt lập pháp: Pháp luật là nơi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của phụ
nữ có HIV/AIDS, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác trong việc tôn
trọng các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS cũng như các quy định về biện pháp thực
hiện và bảo đảm quyền và quy định các chế tài áp dụng trong trường hợp các quyền
đó bị vi phạm.
Yêu cầu đặt ra trong quá trình lập pháp đó là:
Phải đảm bảo độ bao phủ của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội có liên quan, tức là phải có một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ ghi
nhận các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên mọi lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo về chất lượng tức là các quy định đó phải rõ ràng,
thống nhất, ổn định không có sự mâu thuẫn với các quy định của pháp luật quốc tế
và giữa các văn bản pháp luật quốc gia đảm bảo cho việc thực hiện quyền một
cách có hiệu quả. Đảm bảo được các yêu cầu về sự bình đẳng, không phân biệt đối
xử trong pháp luật.
Về mặt hành pháp: Bảo đảm thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS
trên thực tế theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biêt đối xử. Có các chương
trình, chính sách nhằm đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể thực hiện các
quyền của mình. Đảm bảo các yếu tố về con người, cơ sở vật chất, tài chính cho
việc thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS một cách có hiệu quả.
Về mặt tư pháp: Xử lý những người có hành vi vi phạm quy định của pháp
luật. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, người vi phạm tùy theo tính
chất, mức độ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý hình sự và bồi
thường cho người bị vi phạm. Đây là cơ chế đảm bảo cho quyền con người được
tôn trọng và thực thi có hiệu quả, bởi các quyền con người của phụ nữ có
HIV/AIDS luôn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm bởi nhiều chủ thể trong xã hội.
Việc xử lý người có hành vi vi phạm một mặt nhằm đảm bảo sự nghiêm minh,
26
công bằng của pháp luật, bảo vệ người bị vi phạm, mặt khác nhằm răn đe, giáo
dục người có hành vi vi phạm và các chủ thể khác trong việc tôn trọng các quyền
của phụ nữ có HIV/AIDS.
Để bảo đảm các quyền của người bị vi phạm, các thủ tục giải quyết cần đơn
giản, nhanh chóng, trong một số trường hợp phải đảm bảo sự bảo mật các thông tin
liên quan đến người bị vi phạm và cần có biện pháp để đảm bảo thi hành những
phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền.
Ở Việt Nam, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, có các cơ
quan bảo đảm quyền của phụ nữ bị vi phạm. Các cơ quan chủ yếu là tòa án và Ủy
ban nhân dân các cấp.
Trong đó tòa án là cơ quan xét xử, có vai trò quan trọng nhất trong việc xử lý
vi phạm các quyền của phụ nữ khi bị xâm phạm trên các lĩnh vực dân sự, hình sự,
hành chính:
Trên lĩnh vực dân sự: Tòa án có thẩm quyền giải quyết những trường hợp vi
phạm các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS khi có yêu cầu của người bị vi phạm, các
lĩnh vực giải quyết chủ yếu thuộc thẩm quyền của Tòa án như các tranh chấp trong
các lĩnh vực dân sự như lao động, hôn nhân gia đình…
Trên lĩnh vực hình sự: Các hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy
định của bộ luật hình sự như nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm trong đó tình tiết “biết mình có HIV mà vẫn phạm tội” là một trong
những tình tiết tăng nặng khung hình phạt, đồng thời có các quy định về tội “lây
truyền HIV cho người khác” và tội “cố ý truyền HIV cho người khác” đều bị pháp
luật xử lý nghiêm minh.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý hành chính ở địa phương, có
trách nhiệm bảo đảm các quyền của phụ nữ ở địa phương trong một số lĩnh vực như
hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình.
1.1.3.3 Bảo đảm về kinh tế
Phần lớn những người có HIV/AIDS là người nghèo, trình độ dân trí thấp
cộng thêm tác động của HIV/AIDS nên dễ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đói nghèo,
27
thất học. Hơn nữa, trong gia đình, phụ nữ thường có vai trò phụ thuộc về mặt kinh tế.
Do vậy, việc đảm bảo về mặt kinh tế đối với những phụ nữ có HIV/AIDS có vai trò
quan trọng bởi yếu tố kinh tế tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ, khi được bảo
đảm về kinh tế họ có thể chủ động ứng phó với hậu quả của HIV/AIDS. Việc đảm
bảo về kinh tế cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể dưới các hình thức:
Dành ngân sách nhà nước phù hợp cho các hoạt động bảo đảm quyền của
phụ nữ. Nhà nước là chủ thể quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các chính sách
liên quan đến việc giảm tác hại của HIV/AIDS đối với đời sống của những người có
HIV/AIDS. Ngân sách nhà nước đảm bảo cho các hoạt động như thực hiện chương
trình truyền thông, giáo dục, đáp ứng các nhu cầu về xét nghiệm, chăm sóc, điều trị
cho phụ nữ có HIV/AIDS.
Nhà nước có chính sách trợ cấp cho phụ nữ có HIV/AIDS để họ có thể đáp
ứng được nhu cầu thiết yếu của bản thân như về ăn, mặc, ở và điều trị HIV/AIDS.
Có chương trình hỗ trợ cho phụ nữ có HIV/AIDS được học nghề và tạo công
ăn việc làm cho họ. Vì đây là nhân tố vững chắc đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS
điều kiện để tạo ra thu nhập chính đáng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bản thân.
Các chương trình đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS được tiếp cận các
nguồn vốn và những khoản tín dụng để họ tự tạo việc làm và thúc đẩy sự độc lập
về kinh tế để giảm gánh nặng cho gia đình, xã hội và giúp họ có được niềm tin
trong cuộc sống.
1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS
1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối
cảnh HIV/AIDS
Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980, sau đó đã
lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Trước bối cảnh đại dịch HIV/AIDS, cộng đồng
quốc tế nhận thấy rằng cần thiết phải xây dựng một văn bản pháp lý riêng trong việc
bảo đảm các quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ
có HIV/AIDS nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, các văn kiện pháp luật quốc tế
28
hiện có là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người
của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
1.2.1.1 Hiến chương Liên hợp quốc
Trước hết phải kể đến là Hiến chương Liên hợp quốc. Mặc dù vấn đề quyền
con người không phải là mục tiêu duy nhất của Hiến chương Liên hợp quốc, tuy
nhiên văn kiện này được coi là cơ sở để xác lập nền tảng của luật nhân quyền quốc tế.
Điều này được thể hiện trước hết là bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người, không phân biệt chủng tộc, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc.
Tại Lời nói đầu của Hiến chương đã khẳng định ý chí của các dân tộc trong
Liên hợp quốc là “tin tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân phẩm và
giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia”.
Một số điều khoản trong Hiến chương Liên hợp quốc đã tái khẳng định và cụ
thể hóa các mục tiêu của Liên hợp quốc trên lĩnh vực quyền con người bằng mọi
biện pháp “nâng cao mức sống, công ăn việc làm … giải quyết những vấn đề quốc
tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế …tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền
con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng
tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”.
Hiến chương Liên Hợp quốc là văn kiện chính quy định về cơ cấu tổ chức,
hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan Liên hợp quốc, một trong những mục tiêu
hoạt động của các cơ quan đó là nhằm thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc về
quyền con người.
Những quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc là cơ sở pháp lý cho việc
xây dựng và thông qua các văn kiện quốc tế về quyền con người.
1.2.1.2 Bộ luật nhân quyền quốc tế
Bộ luật nhân quyền quốc tế - bao gồm ba văn kiện quốc tế về quyền con
người đó là Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR).
Tuyên ngôn nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
29
ngày 10/12/1948, đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đề cập đến quyền con người.
Tuyên ngôn gồm 30 điều, xác định các quyền và tự do cơ bản của con người
trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tập hợp các
quyền và tự do trong UDHR được coi là “khuôn mẫu chung” mà các quốc gia,
tổ chức, cá nhân cần đạt tới.
Mặc dù đây không phải là một điều ước quốc tế, song UDHR được xem là
cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế về quyền con người tức là có hiệu lực
bắt buộc đối với mọi quốc gia trên thế giới.
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR) cùng được
thông qua bằng Nghị quyết 2200 A (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng
Liên hợp quốc, nội dung hai công ước ghi nhận các quyền của con người trên các
lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và có hiệu lực bắt buộc đối
với các quốc gia thành viên.
Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của cá nhân thì tương ứng với mỗi quyền
là nghĩa vụ của nhà nước, của tổ chức, cá nhân khác trong việc tôn trọng, bảo vệ và
thực thi các quyền đã được thừa nhận. Tôn trọng quyền con người là việc nhà nước,
cá nhân, tổ chức tránh thực hiện những biện pháp gây trở ngại hoặc ngăn cản việc
thụ hưởng quyền con người đã được thừa nhận của công dân; bảo vệ quyền là việc
thực hiện các biện pháp không cho phép bên thứ ba can thiệp vào việc thụ hưởng
quyền và nghĩa vụ thực thi là việc thực hiện các biện pháp tích cực để tạo điều kiện
và hỗ trợ các cá nhân thụ hưởng quyền.
Quy định về quyền con người trong UDHR, ICCPR và ICESCR thể hiện
các tính chất của quyền con người đó là: Các quyền con người mang tính phổ
biến, không thể chia tách, phụ thuộc và liên kết với nhau. Các tính chất này còn
được xem là các nguyên tắc về quyền con người, là cơ sở để các quốc gia thành
viên xây dựng và áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm các quyền của công dân
quốc gia mình.
Thứ nhất: Quyền con người mang tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ quyền con
30
người là những gì bẩm sinh, vốn có và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành
viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Nguyên
tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử yêu cầu các quốc gia phải tôn trọng và bảo
đảm cho tất cả mọi người trong lãnh thổ và phạm vi tài phán của mình các quyền đã
được ghi nhận trong các công ước quốc tế mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử
nào như về giới tính, tình trạng sức khỏe bao gồm cả tình trạng có HIV/AIDS.
Trong các bình luận chung của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
như: Bình luận chung số 7 về quyền có nhà ở thích đáng, bình luận chung số 12 về
quyền được có lương thực, thực phẩm ở mức thích đáng, bình luận chung số 13 về
quyền được giáo dục, bình luận chung số 14 quyền đạt được mức độ sức khỏe cao
nhất có thể, bình luận chung số 15 về quyền tiếp cận với nước, bình luận chung số
18 về quyền được làm việc và bình luận chung số 19 về quyền được hưởng an sinh
xã hội đều khẳng định quyền bình đẳng của mọi người được thụ hưởng đầy đủ các
quyền đó mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào kể cả yếu tố về giới tính và
tình trạng có HIV/AIDS.
Tương tự như vậy, các bình luận chung của Ủy ban nhân quyền đối với các
quyền được ghi nhận trong các công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị như
bình luận chung số 4 về bình đẳng nam nữ trong việc thụ hưởng các quyền dân sự,
chính trị, bình luận chung số 18 về không phân biệt đối xử, bình luận chung số 19
về gia đình, bình luận chung số 28 - sự bình đẳng về quyền giữa nam và nữ cũng
ghi nhận quyền bình đẳng của mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại được hưởng
các quyền về dân sự, chính trị mà không bị phân biệt đối xử trên bất cứ yếu tố nào.
Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm nguyên tắc này đó là phải
đảm bảo sự bình đẳng về thực chất, tức là các quyền con người được thừa nhận
trong các văn bản pháp luật quốc gia và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo thực thi
các quyền này một cách bình đẳng trên thực tế. Đối với nhóm phụ nữ và phụ nữ có
HIV/AIDS- nhóm xã hội dễ bị tổn thương, do vậy nhà nước cần có sự đối xử ưu
tiên đối với nhóm này tạo cho họ có vị thế ngang với các nhóm xã hội khác trong
việc thực thi có hiệu quả các quyền con người.
31
Thứ hai: Nguyên tắc quyền con người không thể tước bỏ được thể hiện ở
chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi
bất cứ chủ thể nào. Theo nguyên tắc này các quốc gia có nghĩa vụ ghi nhận và bảo
đảm thực thi đầy đủ các quyền con người, đặc biệt trong bối cảnh HIV/AIDS.
Theo luật quốc tế về quyền con người, trừ một số quyền tuyệt đối các nhà
nước có thể đưa ra những giới hạn về một số quyền con người trong những bối cảnh
do nhà nước xác định với điều kiện là: Các giới hạn đó là cần thiết cho lợi ích chung
như bảo đảm cho sức khỏe của cộng đồng, các quyền của người khác, đạo đức và
trật tự xã hội hay lợi ích chung trong một xã hội dân chủ hoặc để bảo đảm an ninh
quốc gia. Để bảo đảm sự hạn chế của các quyền con người là hợp pháp nhà nước
phải bảo đảm rằng: Các giới hạn đó phải được quy định và thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật; Các giới hạn đó phải được xác lập dựa trên một lợi ích hợp
pháp; Các giới hạn đó phải tương thích với các lợi ích được bảo vệ và tối thiểu hóa
đến mức có những biện pháp xâm hại hay hạn chế và phù hợp trong một xã hội dân
chủ, như phải được đưa ra bằng một tiến trình ra quyết định phù hợp với các nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền [28,967].
Trong bối cảnh HIV/AIDS, bảo đảm sức khỏe cộng đồng là một lý do
thường được các nhà nước viện dẫn nhiều nhất cho việc hạn chế các quyền con
người. Tuy nhiên có những giới hạn vi phạm nguyên tắc về không phân biệt đối xử
như tình trạng có HIV/AIDS được sử dụng như là cơ sở cho những đối xử khác biệt
trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, đi lại, an ninh xã hội…,
các quyền về đời tư cũng bị vi phạm thông qua việc cưỡng bức xét nghiệm
HIV/AIDS và công khai tình trạng có HIV/AIDS, quyền tự do cá nhân cũng bị vi
phạm khi HIV/AIDS được sử dụng để biện minh cho việc tước bỏ tự do hay để chia
tách những người có HIV/AIDS với những người bình thường. Mặc dù những biện
pháp như vậy có thể hiệu quả đối với những bệnh dễ lây truyền thông qua tiếp xúc
thông thường nhưng không có hiệu quả khi áp dụng với HIV/AIDS bởi HIV/AIDS
không lây qua tiếp xúc thường do đó hiếm khi có một cơ sở hợp pháp cho những
giới hạn về quyền con người, đặc biệt là với những phụ nữ có HIV/AIDS. Những
việc làm như vậy là vi phạm các quyền con người của những người có HIV/AIDS.
32
Thứ ba: Tính không thể phân chia bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền
con người đều có tầm quan trọng như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào
được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền
con người nào đều có tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của
con người. Trong bối cảnh HIV/AIDS, việc đảm bảo thực thi nguyên tắc này trong
các hoạt động lập pháp và hành pháp có vai trò quan trọng, góp phần hạn chế nguy
cơ lây nhiễm HIV và hạn chế hậu quả do HIV gây ra, việc phòng chống HIV/AIDS
gắn liền với chăm sóc và điều trị cho người có HIV/AIDS.
Thứ tư: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các
quyền con người, toàn bộ hoặc một phần nằm trong mối liên hệ và phụ thuộc và tác
động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián gây ảnh hưởng tiêu cực
đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền
sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
1.2.1.3 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ,
1979 (CEDAW)
Là một văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm các quyền
con người. CEDAW đã khẳng định các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt
đối xử giữa nam và nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người được ghi nhận
trong UDHR, ICCPR và ICESCR, cũng như trách nhiệm của các quốc gia trong
việc bảo đảm quyền này được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, do lo ngại rằng dù đã
có những văn kiện nêu trên, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại
phổ biến trên thế giới nên các quốc gia đã nhất trí thông qua công ước này với quyết
tâm nhằm mục đích xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng cách
thông qua những biện pháp cần thiết để xóa bỏ tất cả sự phân biệt đối xử như vậy
dưới những hình thức và biểu hiện của chúng.
CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ mà thay vào
đó, công ước này đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối
xử chống lại phụ nữ trong việc thụ hưởng những quyền con người mà họ đã được
thừa nhận trong các công ước quốc tế. Cụ thể, công ước chỉ ra những quyền mà phụ
33
nữ bị phân biệt đối xử nặng nề như các quyền liên quan đến hôn nhân, gia đình,
quyền về việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế … đồng thời công ước xác định
những biện pháp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong các lĩnh vực đó.
Để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ các quốc gia có nghĩa vụ:
Quy định các nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế;
Ngăn chặn mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng mọi biện
pháp, kể cả bằng chế tài hình sự;
Bảo đảm rằng hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp không có tính
chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ;
Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ những hành động phân
biệt đối xử với phụ nữ của bất kỳ chủ thể nào;
Điều chỉnh, xóa bỏ những phong tục tập quán có tính chất phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ.
Đặc biệt, công ước CEDAW cho phép các quốc gia thành viên có thể áp
dụng những ưu đãi (còn gọi là biện pháp đặc biệt tạm thời) đối với phụ nữ để thúc
đẩy nhanh sự bình đẳng trên thực tế giữa nam và nữ mà không bị coi là phân biệt
đối xử với nam giới và các biện pháp này sẽ chấm dứt khi mục tiêu bình đẳng nam
nữ đã đạt được.
CEDAW cũng đưa ra những yêu cầu trong việc thay đổi những tập tục và
khuôn mẫu giới có tác động tiêu cực đến phụ nữ như các phong tục, tập quán mang
tính định kiến, dập khuôn về vị thế thấp kém của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội. Một trong các biện pháp được đưa ra để thay đổi những tư tưởng, tập quán này
đó là đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về gia đình với nội dung thừa nhận vai trò
của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội.
Khuyến nghị chung số 15 về chống phân biệt đối xử với phụ nữ trong các
chiến lực quốc gia về ngăn chặn và kiểm soát hội chứng suy giảm miễn dịch mắc
phải ở người (AIDS) được Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
thông qua đã đưa ra khuyến nghị với các quốc gia, theo đó các quốc gia cần tăng
34
cường những nỗ lực phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về
nguy cơ nhiễm HIV và AIDS đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em cùng với những tác
động của HIV/AIDS đối với họ. Các chương trình phòng chống HIV/AIDS cần chú
ý đặc biệt đến những quyền và nhu cầu của phụ nữ và trẻ em cùng những yếu tố liên
quan đến vai trò sinh sản của phụ nữ và vị thế của phụ thuộc của họ là nhân tố làm
tăng nguy cơ lây nhiễm HIV và tăng tính tổn thương trước HIV/AIDS. Đồng thời
các quốc gia có trách nhiệm phải bảo đảm sự tham gia tích cực của phụ nữ trong
việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao vai trò
của phụ nữ trong gia đình và xã hội.
1.2.1.4 Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996
Văn kiện này bao gồm những hướng dẫn được thông qua tại Hội nghị tư vấn
quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con người, do Cao ủy Liên hợp
quốc/Trung tâm quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS của Liên hợp quốc
(UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva từ ngày 23 – 25/9/1996, nhằm hỗ trợ các quốc
gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền -
điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại
dịch, trong khi vẫn bảo đảm sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.
Mục đích của hướng dẫn là hỗ trợ các quốc gia trong việc vận dụng những quy
phạm quốc tế về quyền con người vào hoạt động thực tiễn trong bối cảnh HIV/AIDS.
Nhằm đạt được mục tiêu đó, văn kiện này được chia thành hai phần: Phần thứ nhất
xác định những nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm nền tảng cho cách ứng xử
tích cực trong bối cảnh HIV/AIDS. Phần thứ hai đưa ra những biện pháp mang tính
định hướng hành động mà các chính phủ cần thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật,
chính sách và thực tiễn quản lý hành chính nhằm bảo vệ các quyền con người và đạt
được những mục tiêu bảo vệ y tế công liên quan tới HIV/AIDS.
Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế nên không có hiệu lực ràng buộc
về mặt pháp lý với các quốc gia, tuy nhiên Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và
quyền con người sẽ đặc biệt hữu ích với các nhà nước, nhà lập pháp, nhà hoạch định
chính sách của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các tổ
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT

More Related Content

What's hot

Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyềnSuc Khoe Today
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSỨC KHỎE VÀ CUỘC SỐNG
 
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bản
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bảnABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bản
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bảnSỨC KHỎE VÀ CUỘC SỐNG
 

What's hot (16)

Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
Luận văn: Chế đinh quyền con người trong Hiến pháp Viêṭ Nam - Gửi miễn ...
 
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt NamLuận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
Luận văn: Đảm bảo quyền của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
 
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền
25 câu Hỏi & Đáp về vấn đề Sức khỏe & Nhân quyền
 
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật Bảo đảm xã hội Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật Bảo đảm xã hội Việt Nam, HOTLuận văn thạc sĩ: Pháp luật Bảo đảm xã hội Việt Nam, HOT
Luận văn thạc sĩ: Pháp luật Bảo đảm xã hội Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền của người dân tộc thiểu số theo luật pháp, HOT
Luận văn: Quyền của người dân tộc thiểu số theo luật pháp, HOTLuận văn: Quyền của người dân tộc thiểu số theo luật pháp, HOT
Luận văn: Quyền của người dân tộc thiểu số theo luật pháp, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền phụ nữ bằng pháp luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luậtLuận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
 
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hộiĐảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội
 
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt NamLuận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
Luận văn: Giải pháp xây dựng văn hoá nhân quyền ở Việt Nam
 
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại họcLuận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
Luận văn: Giáo dục nhân quyền trong hệ thống các trường đại học
 
Human right
Human rightHuman right
Human right
 
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiếnSự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
Sự tham gia của nhân dân vào Quy trình Lập hiến
 
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luậtĐề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
 
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bản
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bảnABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bản
ABC về các quyền dân sự và chính trị cơ bản
 
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOTLuận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
Luận văn: Quyền của người khuyết tật trong pháp Luật, HOT
 
Đề tài: Pháp luật về đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số
Đề tài: Pháp luật về đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số Đề tài: Pháp luật về đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số
Đề tài: Pháp luật về đảm bảo quyền của các dân tộc thiểu số
 

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT

5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong
5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong
5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuongtripmhs
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDS
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDSThái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDS
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDSLuanvanyhoc.com-Zalo 0927.007.596
 
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạn
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạnHIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạn
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạnKham Tran
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfTÀI LIỆU NGÀNH MAY
 
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...Luanvanyhoc.com-Zalo 0927.007.596
 
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...Luanvanyhoc.com-Zalo 0927.007.596
 

Similar to Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT (20)

Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam.doc
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam.docBảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam.doc
Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV AIDS ở Việt Nam.doc
 
5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong
5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong
5 kho khan tam ly cua pn nhiem hiv - ng thi minh phuong
 
Law hiv v
Law hiv vLaw hiv v
Law hiv v
 
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự Việt Nam
 
Các tội có liên quan đến HIV trong Luật Hình Sự Việt Nam
Các tội có liên quan đến HIV trong Luật Hình Sự Việt NamCác tội có liên quan đến HIV trong Luật Hình Sự Việt Nam
Các tội có liên quan đến HIV trong Luật Hình Sự Việt Nam
 
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội có liên quan đến HIV trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
Luận văn: Nhận thức, thái độ, hành vi của sinh viên đối với vấn đề quan hệ tì...
 
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDS
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDSThái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDS
Thái độ kỳ thị của cộng đồng dân cư đối với người nhiễm HIV/AIDS
 
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạn
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạnHIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạn
HIV-hiểu về quyền và nghĩa vụ của bạn
 
Lối sống tiêu cực của giới trẻ Việt Nam theo học thuyết của Freud
Lối sống tiêu cực của giới trẻ Việt Nam theo học thuyết của FreudLối sống tiêu cực của giới trẻ Việt Nam theo học thuyết của Freud
Lối sống tiêu cực của giới trẻ Việt Nam theo học thuyết của Freud
 
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAYĐề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
Đề tài: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, HAY
 
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đìnhLuận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
Luận văn: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOTLuận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi phụ nữ theo Luật Hôn nhân, HOT
 
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdfBảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
Bảo vệ nạn nhân của tội phạm là trẻ em dưới góc độ pháp lý.pdf
 
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docxBảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
Bảo đảm Quyền của người đồng tính tại thành phố Hải Phòng.docx
 
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...
Thực trạng kiến thức, thái độ, hành vi và hiệu quả mô hình can thiệp phòng lâ...
 
Phòng, chống bạo lực gia đình bằng các biện pháp hành chính, HAY
Phòng, chống bạo lực gia đình bằng các biện pháp hành chính, HAYPhòng, chống bạo lực gia đình bằng các biện pháp hành chính, HAY
Phòng, chống bạo lực gia đình bằng các biện pháp hành chính, HAY
 
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...
Thuc hanh va giai phap truyen thong phong, chong hiv.aids cho phu nu dan toc ...
 
Truyền thông Công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình
Truyền thông Công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đìnhTruyền thông Công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình
Truyền thông Công tác xã hội trong phòng chống bạo lực gia đình
 
Luận văn: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS, HAY
Luận văn: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS, HAYLuận văn: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS, HAY
Luận văn: Rối loạn trầm cảm ở người nhiễm HIV/AIDS, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 

Đề tài: Bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THỊ LUYỆN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM Chuyên ngành: Pháp luật về quyền con ngƣời Mã số: Chuyên ngành đào tạo thí điểm LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS. Phạm Hồng Thái HÀ NỘI - 2014
  • 2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN VŨ THỊ LUYỆN
  • 3. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lờ i cam đoan Mục lục Danh mục cá c chữ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS .......8 1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ......................................................................................................8 1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS.................................................................................8 1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật..........................................14 1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS...........................16 1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS ..........27 1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS............................................................................................27 1.2.2 Các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS .........................................37 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS Ở VIỆT NAM ....49 2.1 Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ............................................................49 2.1.1 Thành tựu của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................50 2.1.2 Hạn chế của pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS......................................................................................60 2.2 Thực trạng bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam...............................................................................62
  • 4. 2.2.1 Thành tựu trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................62 2.2.2 Hạn chế trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam ................................................................................69 2.3 Giải pháp bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam...............................................................................72 2.3.1 Giải pháp về pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam ............................................72 2.3.2 Giải pháp thực tiễn trong việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS............................................................................................73 KẾT LUẬN..............................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................80
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT AIDS: Aquired ImmunoDeficiency Syndrome CEDAW: Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ HIV: Human Immunodeficiency Virus ICCPR: Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị ICESCR: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa ILO: Tổ chức lao động quốc tế PLTMC: Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con UDHR: Tuyên ngôn nhân quyền UNAIDS: Chương trình Phối hợp của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS WHO: Tổ chức y tế thế giới
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài HIV là một loại vi rút gây suy giảm hệ thống miễn dịch cơ thể người, làm cho cơ thể không có khả năng chống chọi với các bệnh tật khác, giai đoạn cuối cùng của HIV là AIDS và dẫn đến tử vong. Khác với các bệnh dịch khác, HIV có khả năng lây nhiễm và hiện tại chưa có vắc xin phòng bệnh và chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, mặt khác nguồn gốc lây nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, do quan hệ tình dục và do mẹ truyền sang con khi mang thai. Chính vì những lý do dịch tễ học nêu trên mà dẫn đến tình trạng kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV. Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện tại Mỹ vào năm 1980, sau đó lây lan nhanh chóng và được coi là một đại dịch mang tính toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS và WHO cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6]. Trong suốt những năm đầu thập kỷ 1980 sự kỳ thị, phân biệt đối xử với những người có HIV/AIDS và người thân của họ diễn ra khá phổ biến trên thế giới. Các biện pháp như giam giữ, cách ly người nhiễm HIV/AIDS khỏi cộng đồng với mục đích ngăn ngừa sự lây lan của đại dịch đã tỏ ra không hiệu quả, bởi số lượng người nhiễm HIV ngày càng tăng trên thế giới, mặt khác làm tăng sự kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội đối với người nhiễm HIV/AIDS và như vậy là vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS. Cũng giống như những căn bệnh khác, người nhiễm HIV có nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở, đi lại, được chăm sóc y tế, được đảm bảo an ninh cá nhân, giáo dục, lao động …để sống một cuộc sống có nhân phẩm, nhưng những nhu cầu thiết yếu này luôn bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội.
  • 7. 2 Cùng với sự phát triển của y học thì con người nhận thức rõ hơn về cơ chế lây truyền HIV/AIDS và sự đấu tranh bền bỉ của các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực quyền con người đã tạo sự chuyển biến lớn trong cách đối xử với những người có HIV/AIDS. Dần dần, quan điểm cho rằng việc chống kỳ thị, phân biệt đối xử, thừa nhận và bảo đảm các quyền, tự do cơ bản của người có HIV/AIDS là một yếu tố cốt yếu để phòng ngừa sự lây lan của đại dịch mặt khác, góp phần bảo đảm quyền con người của những người nhiễm HIV/AIDS. Thực tế cho thấy sự kỳ thị, phân biệt đối xử đã đẩy những người có HIV/AIDS vào “bóng tối” từ đó làm tăng nguy cơ với cộng đồng do họ tìm cách che dấu tình trạng của bản thân, thậm trí có người còn tìm cách trả thù cộng đồng. Trong bối cảnh HIV/AIDS, phụ nữ là đối tượng phải chịu ảnh hưởng nặng nề nhất, do phụ nữ là đối tượng dễ bị lây nhiễm HIV và phải chịu những hậu quả nghiêm trọng về mọi mặt do tình trạng nhiễm HIV của bản thân như bị phân biệt đối xử, không được đảm bảo các nhu cầu về học tập, làm việc, chăm sóc sức khỏe, an ninh cá nhân … điều này là đi ngược lại với những giá trị về quyền con người đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người như: Tuyên ngôn nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966), Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966)… Điều 1 Tuyên ngôn nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền”, Điều 2 tiếp tục ghi nhận: “Mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu trong bản Tuyên ngôn này mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới tính ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay địa vị khác”. Vì vậy, phụ nữ nhiễm HIV được hưởng đầy đủ các quyền con người đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và trách nhiệm của nhà nước, của các cá nhân, tổ chức trong xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đó, được ghi nhận trong pháp luật quốc gia và bảo đảm thực thi trên thực tế. Kinh nghiệm quốc tế trong quá trình phòng, chống lây nhiễm HIV đã chỉ ra
  • 8. 3 rằng, việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS góp phần quan trọng vào việc ngăn chặn sự lây lan của đại dịch. Mặc dù vậy, trên thực tế quyền con người của những phụ nữ nhiễm HIV/AIDS vẫn bị vi phạm nghiêm trọng bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Đòi hỏi các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp nhằm bảo đảm hơn nữa quyền của nhóm xã hội dễ bị tổn thương này. Việt Nam, với tư cách là thành viên của Liên hợp quốc, thành viên của các công ước quốc tế về quyền con người, do đó hệ thống pháp luật quốc gia không ngừng được hoàn thiện để ghi nhận và thực thi các quyền con người đã được thừa nhận, trong đó có quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS. Ở Việt Nam, tình hình nghiên cứu về quyền của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người còn chưa phổ biến. Do vậy tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam” là đề tài luận văn thạc sỹ của mình, với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tìm hiểu thực trạng ở Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ và qua đó đề xuất các biện pháp về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ để hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đến đời sống của phụ nữ nhiễm HIV/AIDS. 2. Tình hình nghiên cứu Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng HIV/AIDS thường được tiếp cận dưới góc độ là một vấn đề y học, vấn đề xã hội nhằm các mục tiêu y tế công. Một cách tiếp cận mới là phòng chống HIV/AIDS dựa trên quyền con người, theo đó Chương trình hỗn hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS và Văn phòng cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đã thông qua “Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người” năm 2001 nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền, điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch trong khi vẫn đảm bảo được sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người.
  • 9. 4 Có thể nói ở Việt Nam hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về quyền con người của người nhiễm HIV/AIDS còn chưa phổ biến, đặc biệt là quyền của phụ nữ. Các bài nghiên cứu chủ yếu mới dừng lại ở việc đưa ra thực trạng cũng như những khó khăn mà phụ nữ gặp phải trước đại dịch HIV/AIDS như bài “Phụ nữ và trẻ em gái Việt Nam trước đại dịch HIV/AIDS” hay bài “Phụ nữ và HIV/AIDS – đương đầu với khủng hoảng” của tác giả Trần Tiến Đức đăng trên tạp chí Lao động và xã hội số 271 năm 2005 hay cuốn “Sức khỏe sinh sản và tình dục đối với phụ nữ sống chung với HIV/AIDS” do tác giả Lê Anh Tuấn chủ biên. Các bài viết này mới chỉ phân tích ở khía cạnh các vấn đề xã hội mà phụ nữ có HIV/AIDS gặp phải chứ chưa phân tích vấn đề phụ nữ có HIV/AIDS dưới góc độ quyền con người. Hay các bài viết về phòng ngừa lây nhiễm HIV đối với phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam như bài “Ngăn ngừa nhiễm HIV ở phụ nữ và trẻ em gái trên thế giới”của tác giả Nguyễn Trần Hiển trên tạp chí Lao động xã hội số 271 năm 2005, bài “Vấn đề nhiễm HIV/AIDS trong các gia đình” của tác giả Khuất Thu Hồng đăng trên tạp chí Lao động xã hội số 289 năm 2006. Đặc biệt bài viết “Quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS” của tác giả Hoàng Mai Hương và Chu Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí Khoa học về phụ nữ số 3 năm 2006 đã đề cập đến quyền của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, tuy nhiên bài viết chưa đi sâu phân tích các quyền cụ thể và cơ sở của việc bảo đảm các quyền này và cũng chưa đề cập đến các giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. Gần đây Viện nghiên cứu quyền con người đã phát hành ấn phẩm “HIV/AIDS và quyền con người” trong đó một phần cuốn sách đã phân tích cơ sở pháp luật, chính trị, đạo đức của việc bảo đảm quyền con người trong bối cảnh HIV/AIDS và đảm bảo quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong bối cảnh HIV/AIDS trong đó có đối tượng là phụ nữ. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đi sâu phân tích toàn diện các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cơ sở các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam. Với mục đích trên cơ sở nghiên cứu các cam kết quốc tế, các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người và quy định của pháp luật Việt Nam để thấy
  • 10. 5 được các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS được ghi nhận và bảo đảm thực thi, vì vậy tài liệu này là một tài liệu tham khảo quan trọng giúp tác giả hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn: Nghiên cứu một cách tổng quát các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền con người và trong các quy định của pháp luật Việt Nam từ đó đề xuất các giải pháp mang tính pháp lý để đảm bảo tính thống nhất của pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật quốc tế về quyền con người của phụ nữ và đưa ra các giải pháp thực tiễn để thực thi có hiệu quả hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện mục đích trên của luận văn, tác giả đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: Nghiên cứu khái quát về HIV/AIDS và các tác động xã hội của HIV/AIDS. Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS Phân tích các bảo đảm về chính trị, về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật đối với phụ nữ có HIV/AIDS. Phân tích rõ cơ sở pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.s Đánh giá thực trạng của việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp pháp luật và biện pháp thực tiễn về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. 4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
  • 11. 6 5. Những nét mới của luận văn Phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, phân tích những bảo đảm về chính trị, bảo đảm về pháp luật và bảo đảm về kinh tế trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ. Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS, qua đó đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với pháp luật quốc tế đồng thời đánh giá thực trạng của việc đảm bảo các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS ở Việt Nam hiện nay và đề xuất các giải pháp pháp lý cũng như những giải pháp thực tiễn để bảo đảm tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. 6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những tri thức cơ bản về cơ sở bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS trên các lĩnh vực chính trị, pháp luật và kinh tế đồng thời làm rõ các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được quy định trong các văn kiện pháp lý quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đưa ra những điểm phù hợp và những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế trong việc bảo đảm thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở phân tích những hạn chế của pháp luật Việt Nam, luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả của các hoạt động thực tiễn, luận văn đưa ra một số giải pháp thực tiễn nhằm thực thi tốt hơn nữa các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS. Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và phần nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật về quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS.
  • 12. 7 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm 02 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS: Chương này tác giả trình bày khái quát về HIV/AIDS. Nội dung của sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, phân tích các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS theo quy định của pháp luật quốc tế và đưa ra những bảo đảm đối với phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS đó là những bảo đảm về chính trị, bảo đảm bằng pháp luật và bảo đảm về kinh tế. Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. Chương này tác giả đánh giá thực trạng của pháp luật Việt Nam và thực trạng bảo đảm thực tế các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và đưa ra các giải pháp pháp lý và giải pháp thực tiễn nhằm bảo đảm tốt hơn các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS.
  • 13. 8 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƢỜI CỦA PHỤ NỮ TRONG BỐI CẢNH HIV/AIDS 1.1 Cơ sở lý luận về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS 1.1.1 Khái quát về HIV/AIDS HIV (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Human Immunodeficiency Virus) là tên gọi tắt của một loại vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người. Sau khi xâm nhập cơ thể, HIV tấn công ngay vào các bạch cầu, dẫn đến hệ miễn dịch của cơ thể bị suy giảm dần, cuối cùng là bị “vô hiệu hóa” và điều đó có nghĩa là cơ thể con người không còn được bảo vệ nữa. Lúc đó, mọi mầm bệnh khác như vi trùng, siêu vi trùng nhân cơ hội gây nên nhiều bệnh nguy hiểm cho người có HIV... và dẫn đến tử vong. AIDS (viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired ImmunoDeficiency Syndrome) - là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người - giai đoạn cuối của quá trình nhiễm HIV. Thời gian từ khi nhiễm HIV cho đến khi thành AIDS dài hay ngắn tùy thuộc vào sức chống đỡ bệnh tật và hành vi của từng người. Trung bình từ khi nhiễm HIV đến khi thành AIDS kéo dài từ 5-7 năm, nhưng có nhiều trường hợp có thể kéo dài đến hàng chục năm nếu người nhiễm HIV biết cách giữ gìn sức khỏe và không có hành vi nguy cơ liên quan đến lây nhiễm HIV. Nhiễm HIV không phải là thành AIDS ngay mà nó diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và trong khoảng thời gian này, người nhiễm HIV hoàn toàn khỏe mạnh, họ vẫn sống, lao động và học tập bình thường, nhưng họ có thể làm lây truyền HIV từ người này sang người khác. Quá trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự chăm sóc của gia đình, người thân, mức độ kỳ thị, phân biệt đối xử của xã hội. Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa nghiên cứu và sản xuất được vắc xin phòng ngừa và thuốc điều trị triệt để HIV/AIDS.
  • 14. 9 Trên thực tế HIV chỉ có thể lây truyền qua ba con đường đó là: - Đường máu; - Đường tình dục - Đường truyền từ mẹ sang con; Phụ nữ dễ bị tổn thương với lây nhiễm HIV hơn so với nam giới, cụ thể: Về mặt sinh học: Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn nam giới do đặc điểm đặc thù về sinh học. Phụ nữ có nguy cơ nhiễm HIV do quan hệ tình dục cao gấp 2 đến 4 lần so với nam giới do diện tích cơ thể tiếp xúc với vi rút HIV cao hơn nam giới. Về y học: Khi có thai, hệ thống miễn dịch trong cơ thể phụ nữ bị giảm sút, sức đề kháng đối với bệnh tật giảm vì vậy vi rút HIV dễ dàng xâm nhập hơn. Mặt khác, phụ nữ thường phải truyền máu vì bị giảm sút hồng cầu hay do những bất trắc trong sinh nở làm tăng khả năng nhiễm HIV cao hơn nhiều so với nam giới. Về kinh tế: Phụ nữ thường phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế. Hơn 2/3 phụ nữ trên thế giới mù chữ và 70% sống trong đói nghèo [29,41], vì vậy họ khó có cơ hội thực hiện quyền tự chủ, dẫn đến họ khó có thể chủ động về địa điểm cũng như cách thức quan hệ tình dục an toàn. Do đó nguy cơ phơi nhiễm HIV là khó tránh khỏi. Về xã hội: Nam giới thường có nhiều quyền lực hơn nữ giới trong gia đình và ngoài xã hội. Phụ nữ thường không có nhiều quyền quyết định đến những việc có liên quan đến cơ thể của họ như đàn ông. Thông thường, đàn ông cảm thấy mình có quyền lực đối với phụ nữ, đặc biệt là với vợ và bạn tình của mình. Vì vậy, một người phụ nữ khi có quan hệ tình cảm với một người đàn ông thì người đàn ông có thể kiểm soát việc khi nào họ quan hệ tình dục và có sử dụng biện pháp bảo vệ hay không. Người phụ nữ thường cảm thấy mình không có quyền để nói “không” với quan hệ tình dục hoặc yêu cầu bạn tình của mình sử dụng biện pháp bảo vệ. Mặt khác, đàn ông thường có nhiều bạn tình hoặc có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Đây là yếu tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV từ chồng hoặc bạn tình đối với phụ nữ. Hơn nữa, ở Việt Nam, những chuẩn mực xã hội lâu đời không
  • 15. 10 khuyến khích thảo luận cởi mở về tình dục, điều này hạn chế cơ hội của phụ nữ để có được tình dục an toàn. HIV không lây qua tiếp xúc thông thường. Như vậy, chúng ta có thể sống, làm việc, học tập... chung với người nhiễm HIV. Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980 tại Mỹ, sau đó đã lây lan nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu. Theo thống kê của UNAIDS cho đến gần đây trên thế giới có hơn 33,4 triệu người đang sống chung với HIV/AIDS và hơn 30 triệu người chết vì HIV/AIDS, ước tính khoảng 16 triệu trẻ em bị mồ côi vì AIDS và hơn 7.000 ca nhiễm HIV mới mỗi ngày chủ yếu xảy ra ở những người sống tại các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình và mới có khoảng gần một nửa những người sống với HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của bản thân [57]. Trong số 33,4 triệu người đang sống chung với HIV trên toàn thế giới có 17,5 triệu là phụ nữ [44,6]. Tại khu vực châu Á, từ lâu dịch HIV/AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ mại dâm và khách hàng của họ và nam tình dục đồng giới. Tuy nhiên dịch HIV/AIDS tại nhiều khu vực của châu Á đang dần lan sang các nhóm có nguy cơ lây nhiễm thấp như thông qua sự lây nhiễm HIV sang bạn tình của những người thuộc nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao. Năm 2008, tại Châu Á có 4,7 triệu người sống với HIV/AIDS, ước tính khoảng 35% trong số đó là phụ nữ trong khi đó tỷ lệ phụ nữ có HIV/AIDS năm 2000 chiếm khoảng 19% [44,6]. Bằng chứng thực tiễn từ nhiều quốc gia châu Á cũng chỉ ra rằng hầu hết số phụ nữ bị nhiễm HIV/AIDS không phải do hành vi tình dục của bản thân họ mà do chồng hoặc bạn tình của họ đã tham gia vào các hành vi không an toàn. Ước tính có đến hơn 90% số phụ nữ sống với HIV/AIDS bị lây nhiễm từ chồng hoặc bạn tình nam của họ [44,6]. Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS hiện đang tập trung ở các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao như người tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm và nam tình dục đồng giới. Theo thống kê, đến cuối năm 2011, cả nước có 197.335 người nhiễm HIV đang còn sống, đã có 52.325 người chết do HIV/AIDS, dịch HIV/AIDS đã xuất
  • 16. 11 hiện ở 100% tỉnh, thành phố [22]. Năm 2007, số nam giới trong độ tuổi trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) nhiễm HIV/AIDS cao gấp 3 lần so với phụ nữ và nam giới vẫn chiếm đa số các ca nhiễm mới [44]. Nhưng theo ước tính của Bộ Y tế, khoảng cách này giảm xuống còn 2,6% vào năm 2012 [44]. Như vậy, HIV/AIDS đang là hiểm họa hàng đầu về việc gây ra chết chóc, đói nghèo, lạc hậu ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều thế hệ ở nhiều quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, Chị thỉ 54 ngày 30/11/2005, của Ban Bí thư đã nhận định “Cho đến nay ở nước ta HIV/AIDS xuất hiện ở tất cả các tỉnh, thành phố và có xu hướng ngày càng lan rộng. Ngoài các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao, HIV/AIDS đang đe dọa trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người, trật tự, an toàn xã hội, đến sự phát triển của đất nước, tương lai của giống nòi”. Chiến lược quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS phải được coi là một nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài. Khác với nhiều căn bệnh khác HIV/AIDS là một vấn đề y học – xã hội. Về mặt dịch tễ học, khác với nhiều bệnh lây truyền, mãn tính khác HIV/AIDS là bệnh mãn tính, thời gian ủ bệnh kéo dài, gây tử vong, hiện tại vẫn chưa có vắc xin phòng bệnh, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Con đường lây nhiễm chủ yếu qua quan hệ tình dục, qua đường máu và từ mẹ sang con. Những đặc điểm dịch tễ học nói trên cùng với sự thiếu hiểu biết về HIV/AIDS là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự kỳ thị và phân biệt đối xử của xã hội đối với những người có HIV/AIDS và những người thân của họ làm ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của những người có HIV/AIDS và những người thân của họ. Ở Việt Nam cũng như tất cả các quốc gia bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, thái độ ban đầu của cộng đồng đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các gia đình là tiêu cực. Khi bị phát hiện là nhiễm HIV/AIDS, những người bị bệnh bị từ bỏ, cách ly, ngay cả người thân trong gia đình cũng không cho họ cùng ăn, thậm chí còn nhốt họ và cách ly để tránh lây nhiễm. Cộng đồng từ chối làm việc với những người có HIV/AIDS và những thành viên gia đình có người bị nhiễm HIV/AIDS. Theo một số nghiên cứu, ảnh hưởng của HIV/AIDS tác động như nhiều làn sóng kế tiếp nhau:
  • 17. 12 Giai đoạn đầu: Người mạnh khỏe trở thành người mang virut HIV. Đặc điểm của giai đoạn này là thời gian ủ bệnh kéo dài, khó nhận biết và có thể lây truyền sang người khác. Do đặc điểm của giai đoạn này, nhiều người không biết tình trạng có HIV của bản thân do vậy họ vẫn tiếp tục có những hành vi vô tình làm lây truyền HIV sang cho người khác như: quan hệ tình dục với vợ hoặc bạn tình của mình. Giai đoạn hai: Người mang virut chuyển thành người bệnh, đồng thời xuất hiện nhiều bệnh lây nhiễm khác do hệ miễn dịch bị tàn phá. Giai đoạn này tác động đến nhiều mặt của đời sống người có HIV, gia đình họ và toàn xã hội. Đối với người có HIV họ phải sống trong sự lo sợ do cái chết đã được báo trước đồng thời họ phải đối mặt với nhiều bệnh tật do hệ miễn dịch của cơ thể bị tàn phá đồng thời họ phải chịu sự xa lánh, kỳ thị của người thân, của cộng đồng. Đối với gia đình người có HIV kinh tế gia đình giảm sút do thu nhập của những thành viên có HIV bị mất hoặc giảm đi mặt khác phải tăng thêm chi phí cho việc chăm sóc, thuốc điều trị cho người có HIV. Đồng thời họ cũng phải gánh chịu sự phân biệt, kỳ thị của cộng đồng. Đối với xã hội, cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do năng suất lao động xã hội giảm, những chi phí cho y tế, cho phòng ngừa, ngăn chặn HIV cũng tăng lên, kèm theo đó là những vấn đề về đói nghèo, thất học, mồ côi …cũng là những gánh nặng cho xã hội. Giai đoạn ba: Người có HIV chuyển sang giai đoạn AIDS – là giai đoạn cuối cùng của quá trình nhiễm HIV trong cơ thể. Giai đoạn này thường kéo dài từ 6 tháng đến 2 năm và kết quả là người bệnh sẽ tử vong. Giống như giai đoạn trước, người bệnh, gia đình họ và xã hội đều bị tác động to lớn về nhiều mặt. Giai đoạn bốn: Là những hậu quả sau cái chết của người có AIDS. Sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người thân của người chết vì AIDS, cũng như gây ra các vấn đề xã hội như trẻ em mồ côi, đói nghèo, thất học, góa bụa… Về mặt xã hội: Cho rằng HIV/AIDS là một căn bệnh do suy đồi đạo đức, lối sống, gắn liền với các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, ngoại tình và đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người có HIV/AIDS. Những người có HIV/AIDS theo một số nghiên cứu được chia làm ba thế hệ:
  • 18. 13 Thế hệ thứ nhất: Đó là những người bị lây nhiễm do tiêm chích ma túy và mại dâm không an toàn. Thế hệ thứ hai: Là những người bị lây nhiễm từ người thân của thế hệ thứ nhất (vợ, chồng). Thế hệ thứ ba: Bao gồm con cái của những người có HIV/AIDS và những người bị lây nhiễm bởi nhiều lý do khác như rủi ro nghề nghiệp hoặc phơi nhiễm. Thế hệ thứ hai và thứ ba đang có xu hướng mở rộng. Hai thế hệ này hoàn toàn không liên quan đến ma túy, mại dâm, không vi phạm pháp luật xong họ vẫn bị kỳ thị, phân biệt đối xử. Nhiều nghiên cứu cho thấy phần lớn những người có HIV/AIDS thuộc tầng lớp nghèo, thiếu hiểu biết, thiếu điều kiện tự bảo vệ mình dẫn đến họ phải chịu ảnh hưởng nghiêm trọng hơn như không có điều kiện để được chăm sóc sức khỏe, thất nghiệp, đói nghèo… Thế hệ thứ hai bị nhiễm HIV/AIDS trong hoàn cảnh sinh hoạt gia đình bình thường, hoàn toàn lành mạnh. Do thời gian ủ bệnh kéo dài, do không có điều kiện xét nghiệm, do bất bình đẳng về giới đã vô tình nhiễm HIV từ người thân của mình. Nhóm thế hệ lây nhiễm này đang có xu hướng gia tăng, đặc biệt là đối với phụ nữ. Như vậy, những người có HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu bao trùm dẫn đến sự lây nhiễm là do trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và nhận thức chung của xã hội còn thấp. Những quan niệm về HIV/AIDS gắn liền với tệ nạn xã hội, những người có HIV/AIDS là những người thoái hóa về đạo đức, lối sống đã không còn phù hợp. Khi dịch HIV mới xuất hiện trên thế giới, do sự hiểu biết hạn chế về HIV/AIDS nên biện pháp cô lập, tách biệt người có HIV/AIDS với cộng đồng đã được áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và nhận thức của con người về HIV/AIDS thì biện pháp cô lập người có HIV/AIDS trở nên bất cập trước diễn biến của đại dịch. Bởi số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn tăng lên mặt khác làm tăng gánh nặng cho nhà nước và vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của người có HIV/AIDS.
  • 19. 14 Dưới góc độ quyền con người: HIV/AIDS dẫn đến hậu quả tiêu cực to lớn. Đó là hình thành một nhóm xã hội dễ bị tổn thương với số lượng ngày càng tăng gồm những người có HIV/AIDS và những người sống chung với họ. Nhiều quyền của nhóm người sống chung với HIV/AIDS bị vi phạm nghiêm trọng đặc biệt là quyền không bị phân biệt đối xử, quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe, quyền được làm việc, đặc biệt là đối với các nhóm dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người di cư… Như vậy, những người nhiễm HIV/AIDS rất đa dạng về nhóm xã hội, điều kiện kinh tế và hoàn cảnh lây nhiễm. Nhưng xuất phát từ những đặc điểm về dịch tễ học của căn bệnh này mà cộng đồng thậm chí người thân của người có HIV/AIDS xa lánh, kỳ thị, phân biệt đối xử với họ dẫn đến sự vi phạm nghiêm trọng các quyền con người của những người có HIV/AIDS và phụ nữ là đối tượng phải chịu hậu quả nặng nề nhất. 1.1.2 Sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật Bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người, quyền công dân và cũng là nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong quá trình lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đó là quyền của mỗi người được xác lập tư cách công dân trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử và quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như nhau. Trước hết, bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ thể tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Trong xã hội, sẽ không thể có tự do nếu không có sự bình đẳng thật sự giữa các thành viên trong xã hội. Bản chất của sự bình đẳng là công nhận các giá trị như nhau của các thành viên xã hội trong tất cả các lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Điều 1 UDHR nêu rõ, mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền... Điều 2 UDHR quy định, mọi người đều được hưởng tất cả các quyền và tự do…mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào về chủng tộc, màu da, giới
  • 20. 15 tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hoặc xã hội, tài sản, thành phần xuất thân hay các địa vị khác. Điều 52 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 qui định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Điều 63 Hiến pháp qui định: “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và gia đình.” Thứ hai, bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Dưới góc độ pháp lý, quyền con người trong đó có quyền bình đẳng trước pháp luật là một quan hệ pháp luật mà mỗi bên tham gia quan hệ đó đều có quyền và nghĩa vụ pháp lý. Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền tự nhiên của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và nó phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Điều 6 UDHR quy định, mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi. Quy định này được tái khẳng định nguyên văn trong Điều 16 ICCPR. Thứ ba, quyền bình đẳng trước pháp luật có nội dung là quyền không bị pháp luật phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ. Như trên đã nói, con người sinh ra có sự khác nhau về chủng tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo và địa vị xã hội. Tuy nhiên, đó không phải là căn cứ để pháp luật phân biệt trong việc hưởng các quyền và chịu trách nhiệm pháp lý. Ngược lại, pháp luật luôn đặt giá trị bình đẳng làm thước đo, tiêu chuẩn để lấp đầy khoảng cách không bình đẳng đó bằng việc quy định các quyền, nghĩa vụ pháp lý ngang nhau. Quyền bình đẳng trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử còn có khía cạnh khác đó là quyền được hưởng tất cả các quyền con người như nhau ở mọi nơi, mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Thứ tư, quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng: Quyền con người luôn đứng trước nguy cơ bị xâm hại từ nhiều phía. Đó có thể là các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội cũng có thể từ phía công quyền. Khi những quyền đó bị xâm hại, dưới góc độ bình đẳng trước pháp luật, con người đều có quyền được pháp luật bảo vệ như nhau với các quyền pháp lý nhất định. Bảo vệ quyền bình đẳng này cũng là cơ
  • 21. 16 sở để bảo vệ các quyền khác của con người. Quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng là nhu cầu đòi hỏi cần có phương tiện, công cụ pháp lý từ phía nhà nước. Về khía cạnh này, Điều 7 UDHR quy định, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào… Điều 8 UDHR cụ thể hóa một khía cạnh quy định ở Điều 7 khi nêu rằng, mọi người đều có quyền được các toà án quốc gia có thẩm quyền bảo vệ bằng các biện pháp hữu hiệu để chống lại những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của họ mà đã được hiến pháp hay luật pháp quy định. Điều 26 ICCPR tái khẳng định hai quy định kể trên của UDHR, đồng thời nêu rõ, về mặt này, pháp luật phải nghiêm cấm mọi sự phân biệt đối xử và đảm bảo cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng và có hiệu quả chống lại những phân biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hoặc quan điểm khác. Như vậy, trách nhiệm của nhà nước trong vấn đề này là ghi nhận trong pháp luật các quyền một cách bình đẳng, không phân biệt đối xử và tạo ra cơ chế bảo vệ quyền khi nó bị xâm phạm. Nội dung của quyền bình đẳng trong bảo vệ quyền đòi hỏi mọi hành vi vi phạm phạm đều phải bị xử lý như nhau trước pháp luật. Như vậy, sự bình đẳng của công dân trước pháp luật, là một quyền cơ bản của con người và cũng là cơ sở, nguyên tắc chung của mỗi quốc gia trong việc ghi nhận, thực thi và bảo vệ quyền của mỗi công dân quốc gia mình. Đặc biệt, trong bối cảnh HIV/AIDS, quyền này của công dân phải được nhà nước thi hành triệt để bởi quyền này dễ bị vi phạm nghiêm trọng nhất và trong trường hợp bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi các quyền con người khác của người có HIV/AIDS. 1.1.3 Các bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS Mặc dù các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS là quyền tự nhiên, vốn có nhưng các quyền đó luôn đứng trước nguy cơ bị vi phạm bởi các cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội, vì vậy cần có các biện pháp để bảo đảm cho việc ghi nhận và thực thi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS tránh bị vi phạm bởi các chủ thể khác trong xã hội và tạo điều kiện cho nhóm đối
  • 22. 17 tượng dễ bị tổn thương này có điều kiện để thực hiện các quyền của mình. Theo đó các đảm bảo quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS được bảo đảm về chính trị, bảo đảm về kinh tế và bảo đảm bằng pháp luật. 1.1.3.1 Bảo đảm về chính trị Bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS về mặt chính trị bao gồm những cam kết của nhà nước ở cấp độ quốc tế và cấp độ quốc gia. Ở cấp độ quốc tế là những cam kết của nhà nước với cộng đồng quốc tế và cấp độ quốc gia là những cam kết của nhà nước với nhân dân. Ở cấp độ quốc tế, tiêu biểu là cam kết của các quốc gia nỗ lực trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Bao gồm 8 mục tiêu của Liên hợp quốc được 189 quốc gia thành viên cam kết đạt được vào năm 2015. Những mục tiêu này được ghi nhận trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 9 năm 2000 tại trụ sở của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Liên quan đến việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS: mục tiêu thứ ba về nâng cao bình đẳng giới và vị thế, năng lực của phụ nữ: Xóa bỏ tình trạng chênh lệch về giới tính ở giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tốt nhất là vào năm 2005 và ở mọi cấp không chậm hơn năm 2015; mục tiêu thứ năm là cải thiện sức khỏe bà mẹ: Giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990 – 2015 và đến năm 2015, phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản; trong đó mục tiêu trực tiếp nhất trong việc bảo đảm quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS đó là mục tiêu sáu: Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh dịch khác, theo đó các quốc gia sẽ chặn đứng và bắt đầu thu hẹp sự lây lan của HIV/AIDS vào năm 2015, đến năm 2010, mọi đối tượng có nhu cầu đều được điều trị HIV/AIDS. Các mục tiêu Thiên niên kỷ là cơ sở quan trọng cho việc các quyền con người của phụ nữ HIV/AIDS được bảo đảm tốt hơn, bởi các quốc gia ký cam kết, sẽ nỗ lực bằng mọi biện pháp và tăng cường hợp tác giữa các quốc gia để đạt được mục tiêu chung. Một cam kết của cộng đồng quốc tế về HIV/AIDS đó là Tuyên bố cam kết về
  • 23. 18 HIV/AIDS năm 2001- “Khủng hoảng toàn cầu – Hành động toàn cầu” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua theo Nghị quyết S-26/2 ngày 27/06/2001. Đây là một văn kiện nổi bật, chứa đựng những nguyên tắc, tiêu chuẩn và đề ra những mục tiêu cơ bản về bảo vệ quyền con người của những người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt với đối tượng là phụ nữ và đây là cam kết khẳng định lại một lần nữa cam kết về HIV/AIDS trong tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Nội dung của Tuyên bố này khá toàn diện. Trước tiên, Tuyên bố nhận định tình hình, diễn biến của đại dịch, thừa nhận sự quan ngại sâu sắc của cộng đồng quốc tế về phạm vi, quy mô tác động và tàn phá của HIV/AIDS đối với con người và khẳng định đây là một vấn đề toàn cầu và là một trong những khó khăn nhất đối với cuộc sống và nhân phẩm cũng như cho việc hưởng thụ có hiệu quả các quyền con người. Tuyên bố nhấn mạnh “phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là trẻ em gái là những người phải chịu rủi ro nhiều nhất”. Tuyên bố đề ra phương hướng lãnh đạo toàn diện, ở mọi cấp độ từ cấp quốc gia, cấp khu vực và cấp độ toàn cầu nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Tuyên bố đưa ra những mục tiêu, đòi hỏi các quốc gia cần có biện pháp thích hợp để đạt được các mục tiêu này. Một trong những yêu cầu đặt ra là các quốc gia cần xây dựng chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS, phát huy mọi nguồn lực quốc gia cùng với sự hợp tác quốc tế để đạt được các mục tiêu: đến năm 2005, giảm 25% tình trạng nhiễm HIV phổ biến trong nam và nữ thanh niên từ 14 đến 24 tuổi ở những nước bị ảnh hưởng nhiều nhất và đến năm 2010 là 25% trên phạm vi toàn cầu. Cam kết đến năm 2005 sẽ tạo được môi trường lao động nhằm trợ giúp người lao động có HIV/AIDS. Đặc biệt, trong đó có mục tiêu về giảm bất bình đẳng giới, đến năm 2005 đảm bảo ít nhất 90% và đến năm 2010 ít nhất 95% nam, nữ thanh niên từ 14-24 tuổi được tiếp cận giáo dục về HIV/AIDS, mục tiêu đến năm 2010 bảo đảm 80% phụ nữ mang thai được tiếp cận với dịch vụ chăm sóc tiền sản, được cung cấp dịch vụ tư vấn và phòng chống HIV. Tuyên bố thừa nhận hiện thực hóa các quyền con người là cần thiết để làm giảm nguy cơ trước HIV/AIDS. Các quốc gia cam kết, đến năm 2003, ban hành,
  • 24. 19 tăng cường hoặc thực hiện pháp luật, các quy định và những biện pháp khác để xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử và đảm bảo sự thụ hưởng đầy đủ các quyền con người và tự do căn bản của người sống chung với HIV/AIDS, đặc biệt bảo đảm cho họ tiếp cận các dịch vụ giáo dục phục hồi, lao động, y tế, xã hội và sức khỏe, phòng chống, hỗ trợ và điều trị, thông tin và bảo vệ pháp luật, đồng thời tôn trọng cuộc sống riêng tư của họ và đảm bảo bí mật. Đặc biệt, Tuyên bố nhấn mạnh đến việc thực hiện các chiến lược quốc gia nhằm mục tiêu đến năm 2005, thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và sự thụ hưởng đầy đủ tất cả các quyền con người của phụ nữ bằng cách nâng cao quyền năng cho phụ nữ để kiểm soát và quyết định tự do và có trách nhiệm về những vấn đề liên quan đến tình dục của họ để nâng cao khả năng tự bảo vệ trước sự lây nhiễm HIV, bằng việc thông qua các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và y tế kể cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, thông qua giáo dục nhằm thúc đẩy bình đẳng giới và bằng cách xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử cũng như mọi hình thức bạo lực chống lại phụ nữ và trẻ em gái. Trên phương diện nghiên cứu và phát triển ứng dụng, Tuyên bố này khuyến khích các quốc gia tăng cường nghiên cứu các loại thuốc vắc-xin về HIV, thuốc về phòng chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con đảm bảo người dân đặc biệt là phụ nữ có thể tiếp cận an toàn, đáp ứng được về mặt chi phí đối với các thuốc này. Tuyên bố cũng nhấn mạnh đến việc các quốc gia cam kết sẽ bảo đảm các nguồn lực dành cho hành động toàn cầu nhằm giải quyết HIV/AIDS là thỏa đáng, bền vững và tập trung hướng tới đạt kết quả. Như vậy, Tuyên bố cam kết này, có vai trò quan trọng đối với hoạt động phòng chống HIV/AIDS ở mỗi quốc gia, khu vực và toàn thế giới. Cam kết này đòi hỏi các quốc gia ký cam kết phải thực hiện mọi biện pháp được đề xuất tại Tuyên bố này có xét đến yếu tố đặc thù của từng quốc gia, cũng như diễn biến HIV/AIDS ở mỗi quốc gia để xây dựng chiến lược, chính sách phòng chống HIV/AIDS của quốc gia mình nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra. Có thể nói, Tuyên bố cam kết năm 2001, có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS, thể hiện ở các khía cạnh sau:
  • 25. 20 Các quốc gia xác định được sự tác động to lớn của HIV/AIDS đến mọi mặt của đời sống xã hội mỗi quốc gia, khu vực và quốc tế, đặc biệt thừa nhận phụ nữ và trẻ em gái là đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất qua đó có sự quan tâm và đầu tư mọi nguồn lực cho việc hạn chế những rủi ro do HIV/AIDS gây ra. Tạo cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia, khu vực và quốc tế trong một cuộc chiến toàn cầu phòng chống HIV/AIDS và bảo đảm các quyền con người của những người có HIV/AIDS đặc biệt là việc nâng cao quyền năng cho phụ nữ. Những mục tiêu mà Tuyên bố đề ra là đòi hỏi các quốc gia phải có chính sách, chiến lược và áp dụng mọi biện pháp để thực hiện. Sau 10 năm thực hiện, đến năm 2011, trong Tuyên bố chính trị về HIV và AIDS của Liên hợp quốc đã ghi nhận, cộng đồng quốc tế đã đạt được những kết quả quan trọng như: giảm hơn 25% tỷ lệ các ca nhiễm mới ở hơn 30 quốc gia, giảm đáng kể lây truyền HIV từ mẹ sang con, và việc mở rộng chưa từng có khả năng tiếp cận điều trị ARV cho hơn 6 triệu người, kết quả đưa đến là giảm hơn 20% số ca tử vong có liên quan đến HIV. Tuyên bố này cũng ghi nhận, cam kết trên toàn thế giới đối với dịch HIV toàn cầu là chưa từng có tiền lệ kể từ Tuyên bố cam kết năm 2001 về phòng, chống HIV, những cam kết này được thể hiện bằng việc gia tăng nguồn kinh phí gấp 8 từ 1,8 tỷ USD năm 2001 lên 16 tỷ USD năm 2010, số lượng tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh duy nhất trong lịch sử. Vào tháng 6 năm 2011, Liên Hợp quốc đã thông qua Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AID với mục tiêu tăng cường mạnh mẽ nỗ lực của cộng đồng quốc tế để xóa bỏ HIV và AIDS bằng cách thúc đẩy việc tiếp tục các cam kết chính trị và sự tham gia của các nhà lãnh đạo vào một ứng phó toàn diện tại cấp độ cộng đồng, địa phương, quốc gia, khu vực và quốc tế nhằm ngăn chặn và đẩy lùi dịch HIV và giảm thiểu tác động của dịch. Yêu cầu các quốc gia xây dựng và triển khai các kế hoạch tài chính và chiến lược quốc gia đa ngành để chống HIV/AIDS, chú trọng vào những vấn đề trọng tâm như: xóa bỏ tình trạng phân biệt đối xử và cách ly xã hội, lôi kéo sự tham gia của các nhóm có nguy cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, lồng ghép quan điểm về giới …
  • 26. 21 Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 đã nhận định tình hình, diễn biến của HIV và AIDS trên toàn thế giới, xác định những hậu quả mà HIV và AIDS đã gây ra với nhân loại, đồng thời nhấn mạnh HIV tác động không đồng đều đối với mỗi quốc gia, khu vực và đối với mỗi nhóm xã hội. Tuyên bố chính trị về phòng chống HIV/AIDS đã nhận định: “Phụ nữ và trẻ em gái trên toàn cầu vẫn bị ảnh hưởng nhiều nhất từ dịch HIV” và phải chịu gánh nặng về chăm sóc và khả năng để phụ nữ và trẻ em gái tự bảo vệ tránh khỏi lây nhiễm HIV vẫn tiếp tục bị tổn hại do các yếu tố sinh lý, sự bất bình đẳng giới, kể cả tình trạng bất bình đẳng về pháp lý, kinh tế và xã hội, tiếp cận không đầy đủ đến chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ khác như: sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản và tất cả các hình thức phân biệt đối xử và bạo hành, kể cả bạo lực và bóc lột về tình dục. Tuyên bố khẳng định lại một lần nữa sự cần thiết của “việc thành lập tổ chức Phụ nữ Liên hợp quốc (UN Women) như là một bên đối tác mới, đóng một vai trò quan trọng trong các nỗ lực toàn cầu phòng, chống HIV, thông qua thúc đẩy bình đẳng giới và tăng cường quyền lực cho phụ nữ, đó là nguyên tắc cơ bản để giảm tính dễ tổn thương của phụ nữ đối với HIV” Các quốc gia ký Tuyên bố cam kết xóa bỏ bất bình đẳng giới, lạm dụng và bạo hành giới, tăng cường năng lực của phụ nữ và em gái vị thành niên để tự bảo vệ bản thân trước nguy cơ lây nhiễm, chủ yếu thông qua cung cấp sự chăm sóc y tế và các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ về sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản, và cung cấp sự tiếp cận đầy đủ đến các thông tin và giáo dục toàn diện; bảo đảm rằng phụ nữ có thể thực hiện được quyền kiểm soát, và quyết định một cách tự do và có trách nhiệm đối với các vấn đề liên quan đến hoạt động tình dục của họ nhằm tăng cường khả năng bảo vệ bản thân họ trước nguy cơ lây nhiễm HIV, bao gồm cả sức khỏe tình dục và sức khỏe sinh sản của họ, không chịu sự ép buộc, phân biệt đối xử và bạo hành, và thực hiện mọi biện pháp cần thiết để tạo ra một môi trường thuận lợi cho việc trao quyền cho phụ nữ và tăng cường sự độc lập về kinh tế của họ” Các quốc gia cam kết tăng cường bảo vệ các quyền con người thông qua các chương trình xóa bỏ kỳ thị và phân biệt đối xử với những người có HIV, kể cả gia
  • 27. 22 đình họ, tính bảo mật, hỗ trợ các chiến dịch quốc gia về đào tạo các quyền con người, phổ biến văn bản pháp luật và các dịch vụ hỗ trợ pháp lý, chăm sóc sức khỏe. Tuyên bố chính trị về phòng, chống HIV và AIDS năm 2011 có vai trò quan trọng đối với các quốc gia trong việc nỗ lực thực hiện các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã đề ra bởi các lý do sau: HIV và AIDS không phải là vấn đề của một quốc gia, một khu vực mà đó là một vấn đề toàn cầu, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các quốc gia trong việc giảm thiểu tác động do HIV và AIDS gây ra cũng như giảm thiểu sự lây lan của đại dịch trên toàn thế giới. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các quốc gia phải có sự hợp tác cũng như sự hỗ trợ của những quốc gia phát triển cho những quốc gia kém phát triển nhưng lại chịu hậu quả nặng nề của HIV và AIDS. Tuyên bố đề ra những mục tiêu chung, đòi hỏi các quốc gia cam kết phải nỗ lực thực hiện mọi biện pháp để đạt được những mục tiêu mà cộng đồng quốc tế đã đề ra. Đồng thời Tuyên bố đưa ra những giải pháp để các quốc gia có thể xây dựng những chiến lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS phù hợp với từng điều kiện cụ thể và bối cảnh xã hội cũng như hình thái dịch tễ của từng quốc gia có liên quan. Tất cả những nỗ lực của mỗi quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đều hướng đến mục tiêu hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ đảm bảo cho con người có một cuộc sống lành mạnh cả về thể chất và tinh thần. Định kỳ các quốc gia phải lập báo cáo nhận đình về tình hình, diễn biến của đại dịch ở quốc gia mình, kết quả mà quốc gia đã đạt được và các biện pháp mà quốc gia đã tiến hành trong quá trình thực hiện mục tiêu. Việt Nam là một thành viên ký kết Tuyên bố chính trị năm 2011 về phòng chống HIV và AIDS. Tại Hội nghị cấp cao về HIV/AIDS ở New York, Mỹ tháng 6 năm 2012, Việt Nam đã khẳng định lại quyết tâm của mình trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS dựa trên việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS. Tháng 03 năm 2012, Việt Nam có báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS thực hiện Tuyên bố chính trị năm 2011 về HIV/AIDS. Bản báo cáo đã nhận định: Việt Nam coi trọng cam kết này và đảm bảo rằng bản báo cáo quốc gia về tiến trình
  • 28. 23 thực hiện cam kết mang tính toàn diện và phản ánh chính xác tình hình thực tế của ứng phó với HIV tại Việt Nam, thể hiện sự đồng thuận quốc gia về các thành tựu và thách thức chính trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2010 và 2011. Đối với nhà nước ta, cơ sở chính trị của việc bảo đảm quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng là đường lối lãnh đạo của Đảng với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Công tác lãnh đạo phòng chống HIV/AIDS và đảm bảo quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng được ghi nhận trong một số văn bản như Chỉ thị số 52 năm 1995 về lãnh đạo công tác phòng, chống nhiễm virut gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới và Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày 30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/02/2005 của Bộ chính trị đã xác định bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước, đó là bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội. Một trong những nhiệm vụ được đề ra tại Nghị quyết là “nâng cao năng lực giám sát, phát hiện và khống chế dịch bệnh đặc biệt là HIV/AIDS, chú trọng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em”. Chỉ thị 54/2005/CT-TW ngày 30/11/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống HIV/AIDS trong tình hình mới đã nêu lên những thành tựu đạt được trong việc thực hiện chỉ thị 52-CT/TW đồng thời nhận định những khó khăn, hạn chế trong quá trình lãnh đạo và thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS. Với quan điểm không để HIV/AIDS phát triển tràn lan thành đại dịch, chỉ thị đã đề ra những yêu cầu trong công tác phòng chống HIV/AIDS, một trong những yêu cầu đó là: Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp
  • 29. 24 ủy đảng, chính quyền và đoàn thể xã hội và của người dân đối với công tác phòng chống HIV/AIDS. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS. Đổi mới, đa dạng hóa và đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục rộng rãi trong xã hội nhằm xây dựng nhận thức đúng về nguy cơ và hiểm họa của dịch HIV/AIDS và có thái độ, hành vi, cư xử đúng đối với người nhiễm HIV/AIDS. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng chống HIV/AIDS, phát huy truyền thống tương thân, tương ái, chăm sóc, giúp đỡ của cộng đồng, chống kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Các văn bản trên có vai trò quan trọng trong công tác phòng chống HIV/AIDS cũng như cho việc đảm bảo các quyền con người của người có HIV/AIDS trong đó có nhóm phụ nữ, thể hiện ở các khía cạnh sau: Tạo được sự tham gia của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương, sự tham gia của mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội đối với nhóm người có HIV/AIDS, trong đó đặc biệt quan tâm đến đối tượng phụ nữ. Tăng cường hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong việc phòng chống và bảo đảm quyền con người của người có HIV/AIDS. Tổ chức bộ máy phòng chống HIV/AIDS được thành lập từ trung ương đến cơ sở đã tăng cường vai trò lãnh đạo trong công tác phòng, chống HIV/AIDS. Những chương trình dự phòng, lây truyền HIV/AIDS được triển khai và nhân rộng, đặc biệt là những chương trình dành cho phụ nữ như chương trình dự phòng lây truyền HIV/AIDS từ mẹ sang con, chương trình bao cao su, chương trình bơm kim tiêm. 1.1.3.2 Bảo đảm bằng pháp luật Bảo đảm bằng pháp luật là biện pháp bảo đảm có hiệu quả và thiết thực nhất đối với phụ nữ có HIV/AIDS, bởi pháp luật chính là những quy tắc xử sự có
  • 30. 25 tính bắt buộc chung và được nhà nước bảo đảm thi hành. Bảo đảm về pháp luật đối với các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên cả ba phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp: Về mặt lập pháp: Pháp luật là nơi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của phụ nữ có HIV/AIDS, trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan tổ chức khác trong việc tôn trọng các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS cũng như các quy định về biện pháp thực hiện và bảo đảm quyền và quy định các chế tài áp dụng trong trường hợp các quyền đó bị vi phạm. Yêu cầu đặt ra trong quá trình lập pháp đó là: Phải đảm bảo độ bao phủ của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội có liên quan, tức là phải có một hệ thống pháp luật toàn diện, đầy đủ ghi nhận các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên mọi lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và đảm bảo về chất lượng tức là các quy định đó phải rõ ràng, thống nhất, ổn định không có sự mâu thuẫn với các quy định của pháp luật quốc tế và giữa các văn bản pháp luật quốc gia đảm bảo cho việc thực hiện quyền một cách có hiệu quả. Đảm bảo được các yêu cầu về sự bình đẳng, không phân biệt đối xử trong pháp luật. Về mặt hành pháp: Bảo đảm thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS trên thực tế theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biêt đối xử. Có các chương trình, chính sách nhằm đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể thực hiện các quyền của mình. Đảm bảo các yếu tố về con người, cơ sở vật chất, tài chính cho việc thực thi các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS một cách có hiệu quả. Về mặt tư pháp: Xử lý những người có hành vi vi phạm quy định của pháp luật. Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật, người vi phạm tùy theo tính chất, mức độ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý hình sự và bồi thường cho người bị vi phạm. Đây là cơ chế đảm bảo cho quyền con người được tôn trọng và thực thi có hiệu quả, bởi các quyền con người của phụ nữ có HIV/AIDS luôn đứng trước nguy cơ bị xâm phạm bởi nhiều chủ thể trong xã hội. Việc xử lý người có hành vi vi phạm một mặt nhằm đảm bảo sự nghiêm minh,
  • 31. 26 công bằng của pháp luật, bảo vệ người bị vi phạm, mặt khác nhằm răn đe, giáo dục người có hành vi vi phạm và các chủ thể khác trong việc tôn trọng các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS. Để bảo đảm các quyền của người bị vi phạm, các thủ tục giải quyết cần đơn giản, nhanh chóng, trong một số trường hợp phải đảm bảo sự bảo mật các thông tin liên quan đến người bị vi phạm và cần có biện pháp để đảm bảo thi hành những phán quyết của các cơ quan có thẩm quyền. Ở Việt Nam, tùy theo tính chất và mức độ của hành vi vi phạm, có các cơ quan bảo đảm quyền của phụ nữ bị vi phạm. Các cơ quan chủ yếu là tòa án và Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó tòa án là cơ quan xét xử, có vai trò quan trọng nhất trong việc xử lý vi phạm các quyền của phụ nữ khi bị xâm phạm trên các lĩnh vực dân sự, hình sự, hành chính: Trên lĩnh vực dân sự: Tòa án có thẩm quyền giải quyết những trường hợp vi phạm các quyền của phụ nữ có HIV/AIDS khi có yêu cầu của người bị vi phạm, các lĩnh vực giải quyết chủ yếu thuộc thẩm quyền của Tòa án như các tranh chấp trong các lĩnh vực dân sự như lao động, hôn nhân gia đình… Trên lĩnh vực hình sự: Các hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự như nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm trong đó tình tiết “biết mình có HIV mà vẫn phạm tội” là một trong những tình tiết tăng nặng khung hình phạt, đồng thời có các quy định về tội “lây truyền HIV cho người khác” và tội “cố ý truyền HIV cho người khác” đều bị pháp luật xử lý nghiêm minh. Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý hành chính ở địa phương, có trách nhiệm bảo đảm các quyền của phụ nữ ở địa phương trong một số lĩnh vực như hôn nhân gia đình, bạo lực gia đình. 1.1.3.3 Bảo đảm về kinh tế Phần lớn những người có HIV/AIDS là người nghèo, trình độ dân trí thấp cộng thêm tác động của HIV/AIDS nên dễ dẫn đến tình trạng thất nghiệp, đói nghèo,
  • 32. 27 thất học. Hơn nữa, trong gia đình, phụ nữ thường có vai trò phụ thuộc về mặt kinh tế. Do vậy, việc đảm bảo về mặt kinh tế đối với những phụ nữ có HIV/AIDS có vai trò quan trọng bởi yếu tố kinh tế tác động trực tiếp đến cuộc sống của họ, khi được bảo đảm về kinh tế họ có thể chủ động ứng phó với hậu quả của HIV/AIDS. Việc đảm bảo về kinh tế cho phụ nữ có HIV/AIDS có thể dưới các hình thức: Dành ngân sách nhà nước phù hợp cho các hoạt động bảo đảm quyền của phụ nữ. Nhà nước là chủ thể quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các chính sách liên quan đến việc giảm tác hại của HIV/AIDS đối với đời sống của những người có HIV/AIDS. Ngân sách nhà nước đảm bảo cho các hoạt động như thực hiện chương trình truyền thông, giáo dục, đáp ứng các nhu cầu về xét nghiệm, chăm sóc, điều trị cho phụ nữ có HIV/AIDS. Nhà nước có chính sách trợ cấp cho phụ nữ có HIV/AIDS để họ có thể đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của bản thân như về ăn, mặc, ở và điều trị HIV/AIDS. Có chương trình hỗ trợ cho phụ nữ có HIV/AIDS được học nghề và tạo công ăn việc làm cho họ. Vì đây là nhân tố vững chắc đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS điều kiện để tạo ra thu nhập chính đáng, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bản thân. Các chương trình đảm bảo cho phụ nữ có HIV/AIDS được tiếp cận các nguồn vốn và những khoản tín dụng để họ tự tạo việc làm và thúc đẩy sự độc lập về kinh tế để giảm gánh nặng cho gia đình, xã hội và giúp họ có được niềm tin trong cuộc sống. 1.2 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con ngƣời của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS và các quyền con ngƣời của phụ nữ có HIV/AIDS 1.2.1 Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS Ca nhiễm HIV đầu tiên trên thế giới được phát hiện vào năm 1980, sau đó đã lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Trước bối cảnh đại dịch HIV/AIDS, cộng đồng quốc tế nhận thấy rằng cần thiết phải xây dựng một văn bản pháp lý riêng trong việc bảo đảm các quyền con người của những người có HIV/AIDS nói chung và phụ nữ có HIV/AIDS nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, các văn kiện pháp luật quốc tế
  • 33. 28 hiện có là cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người của phụ nữ trong bối cảnh HIV/AIDS. 1.2.1.1 Hiến chương Liên hợp quốc Trước hết phải kể đến là Hiến chương Liên hợp quốc. Mặc dù vấn đề quyền con người không phải là mục tiêu duy nhất của Hiến chương Liên hợp quốc, tuy nhiên văn kiện này được coi là cơ sở để xác lập nền tảng của luật nhân quyền quốc tế. Điều này được thể hiện trước hết là bởi Hiến chương đã khẳng định việc thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo là một trong những mục tiêu hoạt động của Liên hợp quốc. Tại Lời nói đầu của Hiến chương đã khẳng định ý chí của các dân tộc trong Liên hợp quốc là “tin tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân phẩm và giá trị của con người, vào quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia”. Một số điều khoản trong Hiến chương Liên hợp quốc đã tái khẳng định và cụ thể hóa các mục tiêu của Liên hợp quốc trên lĩnh vực quyền con người bằng mọi biện pháp “nâng cao mức sống, công ăn việc làm … giải quyết những vấn đề quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, y tế …tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo”. Hiến chương Liên Hợp quốc là văn kiện chính quy định về cơ cấu tổ chức, hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan Liên hợp quốc, một trong những mục tiêu hoạt động của các cơ quan đó là nhằm thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc về quyền con người. Những quy định trong Hiến chương Liên hợp quốc là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và thông qua các văn kiện quốc tế về quyền con người. 1.2.1.2 Bộ luật nhân quyền quốc tế Bộ luật nhân quyền quốc tế - bao gồm ba văn kiện quốc tế về quyền con người đó là Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR). Tuyên ngôn nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
  • 34. 29 ngày 10/12/1948, đây là văn kiện pháp lý đầu tiên đề cập đến quyền con người. Tuyên ngôn gồm 30 điều, xác định các quyền và tự do cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Tập hợp các quyền và tự do trong UDHR được coi là “khuôn mẫu chung” mà các quốc gia, tổ chức, cá nhân cần đạt tới. Mặc dù đây không phải là một điều ước quốc tế, song UDHR được xem là cấu thành trung tâm của luật tập quán quốc tế về quyền con người tức là có hiệu lực bắt buộc đối với mọi quốc gia trên thế giới. Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR) cùng được thông qua bằng Nghị quyết 2200 A (XXI) ngày 16/12/1966 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, nội dung hai công ước ghi nhận các quyền của con người trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và có hiệu lực bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của cá nhân thì tương ứng với mỗi quyền là nghĩa vụ của nhà nước, của tổ chức, cá nhân khác trong việc tôn trọng, bảo vệ và thực thi các quyền đã được thừa nhận. Tôn trọng quyền con người là việc nhà nước, cá nhân, tổ chức tránh thực hiện những biện pháp gây trở ngại hoặc ngăn cản việc thụ hưởng quyền con người đã được thừa nhận của công dân; bảo vệ quyền là việc thực hiện các biện pháp không cho phép bên thứ ba can thiệp vào việc thụ hưởng quyền và nghĩa vụ thực thi là việc thực hiện các biện pháp tích cực để tạo điều kiện và hỗ trợ các cá nhân thụ hưởng quyền. Quy định về quyền con người trong UDHR, ICCPR và ICESCR thể hiện các tính chất của quyền con người đó là: Các quyền con người mang tính phổ biến, không thể chia tách, phụ thuộc và liên kết với nhau. Các tính chất này còn được xem là các nguyên tắc về quyền con người, là cơ sở để các quốc gia thành viên xây dựng và áp dụng pháp luật trong việc bảo đảm các quyền của công dân quốc gia mình. Thứ nhất: Quyền con người mang tính phổ biến: Thể hiện ở chỗ quyền con
  • 35. 30 người là những gì bẩm sinh, vốn có và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì. Nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử yêu cầu các quốc gia phải tôn trọng và bảo đảm cho tất cả mọi người trong lãnh thổ và phạm vi tài phán của mình các quyền đã được ghi nhận trong các công ước quốc tế mà không có bất cứ sự phân biệt đối xử nào như về giới tính, tình trạng sức khỏe bao gồm cả tình trạng có HIV/AIDS. Trong các bình luận chung của Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa như: Bình luận chung số 7 về quyền có nhà ở thích đáng, bình luận chung số 12 về quyền được có lương thực, thực phẩm ở mức thích đáng, bình luận chung số 13 về quyền được giáo dục, bình luận chung số 14 quyền đạt được mức độ sức khỏe cao nhất có thể, bình luận chung số 15 về quyền tiếp cận với nước, bình luận chung số 18 về quyền được làm việc và bình luận chung số 19 về quyền được hưởng an sinh xã hội đều khẳng định quyền bình đẳng của mọi người được thụ hưởng đầy đủ các quyền đó mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào kể cả yếu tố về giới tính và tình trạng có HIV/AIDS. Tương tự như vậy, các bình luận chung của Ủy ban nhân quyền đối với các quyền được ghi nhận trong các công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị như bình luận chung số 4 về bình đẳng nam nữ trong việc thụ hưởng các quyền dân sự, chính trị, bình luận chung số 18 về không phân biệt đối xử, bình luận chung số 19 về gia đình, bình luận chung số 28 - sự bình đẳng về quyền giữa nam và nữ cũng ghi nhận quyền bình đẳng của mọi cá nhân trong cộng đồng nhân loại được hưởng các quyền về dân sự, chính trị mà không bị phân biệt đối xử trên bất cứ yếu tố nào. Trách nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm nguyên tắc này đó là phải đảm bảo sự bình đẳng về thực chất, tức là các quyền con người được thừa nhận trong các văn bản pháp luật quốc gia và nhà nước có trách nhiệm đảm bảo thực thi các quyền này một cách bình đẳng trên thực tế. Đối với nhóm phụ nữ và phụ nữ có HIV/AIDS- nhóm xã hội dễ bị tổn thương, do vậy nhà nước cần có sự đối xử ưu tiên đối với nhóm này tạo cho họ có vị thế ngang với các nhóm xã hội khác trong việc thực thi có hiệu quả các quyền con người.
  • 36. 31 Thứ hai: Nguyên tắc quyền con người không thể tước bỏ được thể hiện ở chỗ các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào. Theo nguyên tắc này các quốc gia có nghĩa vụ ghi nhận và bảo đảm thực thi đầy đủ các quyền con người, đặc biệt trong bối cảnh HIV/AIDS. Theo luật quốc tế về quyền con người, trừ một số quyền tuyệt đối các nhà nước có thể đưa ra những giới hạn về một số quyền con người trong những bối cảnh do nhà nước xác định với điều kiện là: Các giới hạn đó là cần thiết cho lợi ích chung như bảo đảm cho sức khỏe của cộng đồng, các quyền của người khác, đạo đức và trật tự xã hội hay lợi ích chung trong một xã hội dân chủ hoặc để bảo đảm an ninh quốc gia. Để bảo đảm sự hạn chế của các quyền con người là hợp pháp nhà nước phải bảo đảm rằng: Các giới hạn đó phải được quy định và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; Các giới hạn đó phải được xác lập dựa trên một lợi ích hợp pháp; Các giới hạn đó phải tương thích với các lợi ích được bảo vệ và tối thiểu hóa đến mức có những biện pháp xâm hại hay hạn chế và phù hợp trong một xã hội dân chủ, như phải được đưa ra bằng một tiến trình ra quyết định phù hợp với các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền [28,967]. Trong bối cảnh HIV/AIDS, bảo đảm sức khỏe cộng đồng là một lý do thường được các nhà nước viện dẫn nhiều nhất cho việc hạn chế các quyền con người. Tuy nhiên có những giới hạn vi phạm nguyên tắc về không phân biệt đối xử như tình trạng có HIV/AIDS được sử dụng như là cơ sở cho những đối xử khác biệt trong các lĩnh vực giáo dục, việc làm, chăm sóc sức khỏe, đi lại, an ninh xã hội…, các quyền về đời tư cũng bị vi phạm thông qua việc cưỡng bức xét nghiệm HIV/AIDS và công khai tình trạng có HIV/AIDS, quyền tự do cá nhân cũng bị vi phạm khi HIV/AIDS được sử dụng để biện minh cho việc tước bỏ tự do hay để chia tách những người có HIV/AIDS với những người bình thường. Mặc dù những biện pháp như vậy có thể hiệu quả đối với những bệnh dễ lây truyền thông qua tiếp xúc thông thường nhưng không có hiệu quả khi áp dụng với HIV/AIDS bởi HIV/AIDS không lây qua tiếp xúc thường do đó hiếm khi có một cơ sở hợp pháp cho những giới hạn về quyền con người, đặc biệt là với những phụ nữ có HIV/AIDS. Những việc làm như vậy là vi phạm các quyền con người của những người có HIV/AIDS.
  • 37. 32 Thứ ba: Tính không thể phân chia bắt nguồn từ nhận thức rằng các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau nên về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều có tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người. Trong bối cảnh HIV/AIDS, việc đảm bảo thực thi nguyên tắc này trong các hoạt động lập pháp và hành pháp có vai trò quan trọng, góp phần hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV và hạn chế hậu quả do HIV gây ra, việc phòng chống HIV/AIDS gắn liền với chăm sóc và điều trị cho người có HIV/AIDS. Thứ tư: Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần nằm trong mối liên hệ và phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. 1.2.1.3 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979 (CEDAW) Là một văn kiện quan trọng của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm các quyền con người. CEDAW đã khẳng định các nguyên tắc về bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa nam và nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người được ghi nhận trong UDHR, ICCPR và ICESCR, cũng như trách nhiệm của các quốc gia trong việc bảo đảm quyền này được thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, do lo ngại rằng dù đã có những văn kiện nêu trên, sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ vẫn đang tồn tại phổ biến trên thế giới nên các quốc gia đã nhất trí thông qua công ước này với quyết tâm nhằm mục đích xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng cách thông qua những biện pháp cần thiết để xóa bỏ tất cả sự phân biệt đối xử như vậy dưới những hình thức và biểu hiện của chúng. CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ mà thay vào đó, công ước này đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc thụ hưởng những quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong các công ước quốc tế. Cụ thể, công ước chỉ ra những quyền mà phụ
  • 38. 33 nữ bị phân biệt đối xử nặng nề như các quyền liên quan đến hôn nhân, gia đình, quyền về việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế … đồng thời công ước xác định những biện pháp để xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ trong các lĩnh vực đó. Để loại trừ mọi sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ các quốc gia có nghĩa vụ: Quy định các nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm thực hiện các nguyên tắc này trên thực tế; Ngăn chặn mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ bằng mọi biện pháp, kể cả bằng chế tài hình sự; Bảo đảm rằng hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp không có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ; Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ những hành động phân biệt đối xử với phụ nữ của bất kỳ chủ thể nào; Điều chỉnh, xóa bỏ những phong tục tập quán có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. Đặc biệt, công ước CEDAW cho phép các quốc gia thành viên có thể áp dụng những ưu đãi (còn gọi là biện pháp đặc biệt tạm thời) đối với phụ nữ để thúc đẩy nhanh sự bình đẳng trên thực tế giữa nam và nữ mà không bị coi là phân biệt đối xử với nam giới và các biện pháp này sẽ chấm dứt khi mục tiêu bình đẳng nam nữ đã đạt được. CEDAW cũng đưa ra những yêu cầu trong việc thay đổi những tập tục và khuôn mẫu giới có tác động tiêu cực đến phụ nữ như các phong tục, tập quán mang tính định kiến, dập khuôn về vị thế thấp kém của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Một trong các biện pháp được đưa ra để thay đổi những tư tưởng, tập quán này đó là đẩy mạnh các hoạt động giáo dục về gia đình với nội dung thừa nhận vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Khuyến nghị chung số 15 về chống phân biệt đối xử với phụ nữ trong các chiến lực quốc gia về ngăn chặn và kiểm soát hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (AIDS) được Ủy ban về xóa bỏ phân biệt đối xử chống lại phụ nữ thông qua đã đưa ra khuyến nghị với các quốc gia, theo đó các quốc gia cần tăng
  • 39. 34 cường những nỗ lực phổ biến thông tin nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng về nguy cơ nhiễm HIV và AIDS đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em cùng với những tác động của HIV/AIDS đối với họ. Các chương trình phòng chống HIV/AIDS cần chú ý đặc biệt đến những quyền và nhu cầu của phụ nữ và trẻ em cùng những yếu tố liên quan đến vai trò sinh sản của phụ nữ và vị thế của phụ thuộc của họ là nhân tố làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV và tăng tính tổn thương trước HIV/AIDS. Đồng thời các quốc gia có trách nhiệm phải bảo đảm sự tham gia tích cực của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe ban đầu và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao vai trò của phụ nữ trong gia đình và xã hội. 1.2.1.4 Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người, 1996 Văn kiện này bao gồm những hướng dẫn được thông qua tại Hội nghị tư vấn quốc tế lần thứ hai về HIV/AIDS và quyền con người, do Cao ủy Liên hợp quốc/Trung tâm quyền con người và Chương trình về HIV/AIDS của Liên hợp quốc (UNAIDS) đồng tổ chức ở Geneva từ ngày 23 – 25/9/1996, nhằm hỗ trợ các quốc gia xác lập một cách ứng xử với HIV/AIDS mang tính tích cực và dựa trên quyền - điều mà sẽ tạo hiệu quả trong việc giảm thiểu sự lây truyền và ảnh hưởng của đại dịch, trong khi vẫn bảo đảm sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người. Mục đích của hướng dẫn là hỗ trợ các quốc gia trong việc vận dụng những quy phạm quốc tế về quyền con người vào hoạt động thực tiễn trong bối cảnh HIV/AIDS. Nhằm đạt được mục tiêu đó, văn kiện này được chia thành hai phần: Phần thứ nhất xác định những nguyên tắc cơ bản về quyền con người làm nền tảng cho cách ứng xử tích cực trong bối cảnh HIV/AIDS. Phần thứ hai đưa ra những biện pháp mang tính định hướng hành động mà các chính phủ cần thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, chính sách và thực tiễn quản lý hành chính nhằm bảo vệ các quyền con người và đạt được những mục tiêu bảo vệ y tế công liên quan tới HIV/AIDS. Mặc dù không phải là một điều ước quốc tế nên không có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý với các quốc gia, tuy nhiên Hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người sẽ đặc biệt hữu ích với các nhà nước, nhà lập pháp, nhà hoạch định chính sách của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ, các tổ