Cơ Sở Lý Luận Báo Cáo Tổng Kết Phân Tích Ảnh Hưởng Của Phát Triển Du Lịch Đến Tăng Trưởng Kinh Tế. đã chia sẻ đến cho các bạn nguồn tài liệu hoàn toàn hữu ích đáng để xem và tham khảo. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149 TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Cơ Sở Lý Luận Báo Cáo Tổng Kết Phân Tích Ảnh Hưởng Của Phát Triển Du Lịch Đến Tăng Trưởng Kinh Tế.
1. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
Cơ Sở Lý Luận Báo Cáo Tổng Kết Phân Tích Ảnh Hưởng Của Phát Triển Du Lịch
Đến Tăng Trưởng Kinh Tế
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH, TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH, TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ
1.1.1. Phát triển du lịch
1.1.1.1. Khái niệm
Khái niệm về du lịch
Thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ của nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có
nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được Latin hoá thành Tornus và sau đó thành
Tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh),... [9,8].
Trong đại hội lần thứ 5 Hiệp hội Quốc tế những nhà nghiên cứu khoa học về du
lịch đã chấp nhận định nghĩa của Hunziker và Kraft “… Du lịch là tổng hợp các mối
quan hệ và hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người
ngoài địa phương - những người không có mục đích định cư và không liên quan tới bất
kỳ một hoạt động kiếm tiền nào” [10, 5]. Với quan niệm này thì du lịch mới chỉ được
giải thích ở hiện tượng đi du lịch.
Xem xét du lịch một cách toàn diện hơn, tại Hội nghị liên hợp quốc về du lịch ở
Roma Ý năm 1963 đã đưa ra định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các
mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và
lưu trú của cá thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ với mục đích hòa bình. Nơi
họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ” [10, 5 - 7].
Theo khoản 1 điều 4 Luật Du lịch năm 2005: “Du lịch là hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Mặc dù
khái niệm này đã phản ánh rõ hơn đặc điểm của hoạt động du lịch nhưng chưa cụ thể về
thời gian cho phép đối với các hoạt động đi lại được coi là hoạt động du lịch.
2. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
10
Khái niệm về phát triển
Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng đi
lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn nhưng nếu hiểu vận động
phát triển một cách biện chứng toàn diện, sâu sắc thì trong tự bản thân sự vận động phát
triển đã bao hàm sự vận động thụt lùi, đi xuống với ý nghĩa là tiền đề, điều kiện cho sự
vận động đi lên, hoàn thiện.
Khái niệm phát triển du lịch
Phát triển du lịch là sự phát triển về quy mô, số lượng, năng lực kinh doanh của các
doanh nghiệp kinh doanh du lịch như cơ sở lưu trú, số phòng…; kết hợp với sự tăng trưởng
về doanh thu, số lượng khách du lịch đến lưu trú kể cả trong nước và quốc tế của ngành du
lịch. Đồng thời, chất lượng các dịch vụ về lưu trú, lữ hành,... ngày càng được đa dạng hóa,
cơ cấu dịch vụ du lịch tăng lên chiếm tỷ trọng cao trong tổng cơ cấu kinh tế chung của tỉnh,
giải quyết việc làm. Nói tóm lại, phát triển du lịch là hoạt động ngày càng phải nâng cao
hiệu quả của du lịch đến mức tốt nhất góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
1.1.1.2. Nội dung phát triển du lịch
Một là, gia tăng quy mô hoạt đô ng du lịch. Muốn gia tăng quy mô hoạt động du
lịch cần mở rộng các cơ sở du lịch và tăng sản phẩm du lịch.
Về mặt cơ sở du lịch: hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được tạo ra lại là yếu
tố quan trọng tác động đến mức độ thỏa mãn nhu cầu của du khách bởi năng lực và tính
tiện ích của nó. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quan trọng, không thể thiếu.
Con người bằng sức lao động của mình sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật để khai thác các
giá trị của tài nguyên du lịch tạo ra dịch vụ, hàng hóa cung ứng cho du khách. Muốn
phát triển du lịch tốt với tiềm năng về tài nguyên du lịch của mình các quốc gia, nhà
kinh doanh du lịch phải có hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật tương xứng và đáp ứng
nhu cầu phát triển đó. Cho nên, có thể nói rằng trình độ phát triển của cơ sở vật chất -
kỹ thuật du lịch là điều kiện, đồng thời cũng là sự thể hiện trình độ phát triển du lịch của
một đất nước.
Tăng sản phẩm du lịch: là tăng các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho du khách, được
tạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng
3. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
11
các nguồn lực: Cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một
quốc gia nào đó.
Hai là, nâng cao chất lượng và hiệu quả du lịch. Việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả du lịch là vấn đề luôn được các cơ sở kinh doanh du lịch chú trọng.
Vấn đề đặt ra trước tiên để đánh giá hiệu quả kinh tế trong du lịch có thể dùng các
chỉ tiêu gắn với khách du lịch như: tổng số khách, tổng số ngày khách… và hệ thống
các chỉ tiêu giá trị như: tổng doanh thu, tổng chi phí, tổng lợi nhuận…
Để đảm bảo tính khoa học, hệ thống các chỉ tiêu này phải đảm bảo các yêu cầu sau
đây: (i) Phải thể hiện được hiệu quả kinh tế chung của bản thân ngành du lịch với các
chỉ tiêu đặc trưng nhất; (ii) Phải đảm bảo sự so sánh được hiệu quả kinh tế giữa ngành
du lịch với ngành kinh tế khác, thấy được sự đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh
tế quốc dân; (iii) Phải thể hiện được sự khảo sát qua các yếu tố sản xuất, kinh doanh cơ
bản trên nhiều bình diện để có thể đánh giá được một cách tổng hợp và cụ thể về hiệu
quả kinh tế trong kinh doanh du lịch.
Theo phạm vi phản ánh, hệ thống chỉ tiêu có thể phân thành các nhóm cơ bản sau: (i)
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đánh giá sự đóng góp của ngành du lịch vào nền kinh tế
quốc dân; (ii) Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế so sánh ngành du lịch với các ngành khác;
(iii) Nhóm chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của các lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch. Theo
khái niệm nâng cao chất lượng thì nội dung của nâng cao chất lượng dịch vụ
du lịch bao gồm hai nội dung chính là duy trì và cải tiến chất lượng thường xuyên. Duy
trì chất lượng: Theo ISO 9001: 2000, việc duy trì chất lượng dịch vụ tập trung vào hai
nội dung chính là các hoạt động phục hồi và phòng ngừa. Cải tiến chất lượng thường
xuyên nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch.
1.1.1.3. Các tiêu chí đánh giá phát triển du
lịch Một là, khách du lịch
Chỉ tiêu về khách du lịch được chia thành hai loại đó là: chỉ tiêu khách du lịch quốc
tế và chỉ tiêu khách du lịch nội địa. Tùy theo đặc thù phát triển du lịch từng nơi để đưa
ra những chỉ tiêu về khách du lịch một cách cụ thể để phù hợp với thực tế và bối cảnh
phát triển chung.
4. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
12
Hai là, thu nhập từ du lịch
Chỉ tiêu thu nhập từ du lịch được phản ánh qua hai chỉ tiêu: ngày lưu trú trung bình
và mức chi tiêu trung bình của khách du lịch. Thu nhập từ du lịch nói lên được sự da
dạng, đặc sắc và chất lượng của dịch vụ và sản phẩm du lịch.
Ba là, tỷ trọng GDP ngành du lịch
Bằng những chỉ số cụ thể của ngành du lịch sau khi được tính toán để xác định tỷ
lệ so với GDP của toàn địa phương. Từ đó, có thể đánh giá được khả năng đóng góp của
ngành DL đối với nền kinh tế của địa phương.
Bốn là, cơ sở lưu trú
Chỉ tiêu này phản ánh năng suất sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật gồm: Công suất
sử dụng buồng, giường; Thời gian lưu lại trung bình; Chi phí trung bình cho một ngày
khách; Lợi nhuận trung bình một ngày khách; các chỉ tiêu tính thu nhập ngoại tệ của các
doanh nghiệp.
Theo quy định thì địa điểm cơ sở lưu trú du lịch phải cách trường học, bệnh viện
và những nơi có thể gây ra ô nhiễm một khoảng cách nhất định phù hợp với quy định
của địa phương nơi xây dựng cơ sở lưu trú; không được nằm trong hoặc liền kề khu vực
quốc phòng, an ninh và các mục tiêu cần được bảo vệ.
Mặt khác, muốn tính được nhu cầu số phòng của cơ sở lưu trú ta căn cứ vào tổng
số khách, số ngày lưu trú trung bình của khách, công suất sử dụng trung bình, cũng như
số người nghỉ trong một phòng:
(Số lượt khách) x (Số ngày lưu trú trung bình)
Nhu cầu số phòng =
(365ngày/năm)x(CSSD phòng/năm)x(Số khách/phòng)
Năm là, các chỉ tiêu đặc trưng cho ngành kinh doanh ăn uống, lữ hành
Đối với ngành kinh doanh dịch vụ ăn uống, có thể sử dụng các chỉ tiêu thu nhập
ngoại tệ. Ngoài ra, còn có thêm một số chỉ tiêu đặc trưng cho dịch vụ ăn uống đó là hệ
số sử dụng chỗ ngồi, doanh thu và lợi nhuận tính trên một chỗ ngồi, doanh thu và lợi
nhuận tính cho một nhân viên phục vụ ăn uống.
Các chỉ tiêu đặc trưng cho kinh doanh lữ hành có thể kể đến hai chỉ tiêu đó là: Số
ngày đi Tour và bình quân một ngày khách đi Tour.
5. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
13
Sau là, nguồn nhân lực du lịch
Nguồn nhân lực du lịch là yếu tố quan trọng trong kinh doanh du lịch, nó có tác
động to lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như phát triển ngành du
lịch của địa phương. Xét trên mức độ tác động cho thấy lao động trong lĩnh vực kinh
doanh du lịch có thể phân thành 3 nhóm: hóm lao động chức năng quản lý Nhà nước về
du lịch; nhóm lao động chức năng sự nghiệp ngành du lịch; nhóm lao động chức năng
kinh doanh du lịch.
Để đánh giá việc phát triển nguồn nhân lực du lịch thể hiện trên những nội dung:
(i) Hoàn thiện về chính sách tuyển dụng lao động trong du lịch, thống nhất nhận thức về
lao động trong lĩnh vực kinh doanh du lịch; xây dựng chức danh lao động và viên chức
ngành du lịch; chính sách tuyển dụng gắn với việc giải quyết lao động dôi dư trong các
doanh nghiệp; tăng cường công tác kiểm tra…; (ii) Đào tạo bồi dưỡng lao động trong
ngành du lịch bao gồm: dự báo nhu cầu lao động du lịch cần đào tạo, bồi dưỡng; định
hướng cơ cấu đào tạo hợp lý; xây dựng và hoàn thiện chương trình, nội dung đào tạo;
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và đội ngũ làm công tác đào tạo…; (iii) Ban hành và
hướng dẫn thực hiện chính sách đãi ngộ vật chất và động viên tinh thần cho người lao
động trong ngành du lịch.
Bảy là, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra
và thực hiện sản phẩm du lịch, cũng như quyết định mức độ khai thác tiềm năng du lịch
nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì vậy, sự phát triển của ngành du lịch
bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm nhiều thành phần, chúng có những chức
năng và ý nghĩa nhất định đối với việc tạo ra, thực hiện các sản phẩm du lịch. Để đảm
bảo cho việc tham quan du lịch trên qui mô lớn cần phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật tương ứng như các khách sạn, nhà hàng, cửa hiệu, trạm xăng dầu, trạm y tế, nơi
vui chơi giải trí,…Khâu trung tâm của cơ sở vật chất kỹ thuật là phương tiện phục vụ
cho việc ăn ngủ của khách, tức là nguồn vốn cố định của du lịch. Việc đánh giá cơ sở
vật chất kỹ thuật du lịch căn cứ vào 3 tiêu chí sau: Đảm bảo những điều kiện tốt cho
nghỉ nhơi du lịch; Đạt hiệu quả kinh tế tối ưu trong quá trình xây dựng và khai thác cơ
6. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
14
sở vật chất kỹ thuật; Thuận tiện cho việc đi lại của khách từ các nơi đến.
Tám là, chất lượng dịch vụ du lịch
Chất lượng dịch vụ du lịch chính là mức phù hợp của dịch vụ của các nhà cung
ứng du lịch thỏa mãn các yêu cầu của khách du lịch thuộc thị trường mục tiêu.
Chỉ tiêu đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch: Bằng các nghiên cứu của mình vào
năm 1991, hai tác giả Berry và Parasuraman đã đưa ra 5 chỉ tiêu để đánh giá chất lượng
dịch vụ, các chỉ tiêu được liệt kê theo thứ tự tầm quan trọng giảm dần tương đối đối với
khách hàng, đó là: sự tin cậy, tinh thần trách nhiệm, sự đảm bảo, sự đồng cảm và tính
hữu hình. Đây cũng chính là 5 chỉ tiêu để đánh giá chất lượng dịch vụ du lịch. Trong các
chỉ tiêu trên, có bốn chỉ tiêu mang tính vô hình, chỉ có một chỉ tiêu là hữu hình nên các
nhà cung ứng dịch vụ thường coi chỉ tiêu hữu hình chính là bản thông điệp gửi tới khách
hàng.
1.1.2. Tăng trưởng kinh tế
Kuznets cho rằng “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng bền vững về sản phẩm tính
theo đầu người hoặc theo từng công nhân” [39]. Định nghĩa này tương tự như định nghĩa
do North và Thomas đưa ra “Tăng trưởng kinh tế xảy ra nếu sản lượng tăng nhanh hơn
dân số” [43].
Trong khi đó, theo Samuelson và Nordhaus “tăng trưởng kinh tế được thể hiện ở
sự gia tăng của sản lượng tiềm năng, hay nói cách khác, thể hiện ở sự dịch chuyển ra
ngoài của đường giới hạn khả năng sản xuất” [14, 546 - 547]. Xét về mặt lý thuyết, quan
niệm về tăng trưởng như vậy rất hữu ích. Nó giúp chúng ta phân biệt rõ ràng hai mục
tiêu kinh tế vĩ mô: ổn định và tăng trưởng. Mục tiêu ổn định là làm cho sản lượng được
duy trì thường xuyên ở mức sản lượng tiềm năng, còn mục tiêu tăng trưởng nhằm đẩy
nhanh sự gia tăng của sản lượng tiềm năng.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng kết quả đầu ra của nền kinh tế trong
một thời kì (thường là năm) nhất định so với kì gốc (năm gốc). Sự gia tăng đó được thể
hiện cả ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng tuyệt đối, trong
khi đó tốc độ tăng trưởng thể hiện sự so sánh tương đối giữa các thời kì (năm).
7. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
15
Theo Bách khoa toàn thư “tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia
tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định” [26].
Ba chỉ tiêu chủ yếu sử dụng để đo lường quy mô sản lượng của nền kinh tế: tổng
sản phẩm quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân, tổng sản phẩm bình quân đầu người.
Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Products, GDP) hay tổng sản sản phẩm
trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản
xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một
năm) [26].
Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Products, GNP) là giá trị tính bằng tiền
của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một
thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm
quốc nội cộng với thu nhập ròng [26].
Tổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số.
Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.
Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường sử dụng chỉ tiêu về tốc độ tăng
trưởng kinh tế, thường được tính bằng tốc độ gia tăng của GDP theo giá so sánh hoặc
được tính bằng tốc độ gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người theo giá so sánh.
1.1.3. Vị trí, vai trò của phát triển du lịch và mối tương quan giữa phát triển du lịch
và tăng trưởng kinh tế
1.1.3.1. Vị trí và vai trò của phát triển du lịch
Trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia, việc đa dạng hóa
ngành nghề luôn được xem là chiến lược quan trọng. Cơ cấu ngành kinh tế bao gồm ba
ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Du lịch là một ngành thuộc nhóm ngành
dịch vụ, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong cơ cấu ngành của nền kinh tế quốc dân.
Xu hướng mang tính quy luật của cơ cấu kinh tế thế giới chỉ ra rằng, tỷ trọng nông nghiệp
từ chiếm vị trí quan trọng đã dần nhường chỗ cho công nghiệp và ngành dịch vụ, trong đó
có ngành du lịch. Hiện nay, du lịch còn được gọi là ngành công nghiệp “không khói”, đây
là ngành kinh tế phát triển nhanh nhất trên thế giới trong suốt thời gian qua. Đối với nhiều
nước, ngành du lịch được xem như là công cụ chính để thúc đẩy
8. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
16
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bởi lẽ, đây là ngành kinh tế có khả năng tạo ra các hoạt
động kinh tế mới, có thể ảnh hưởng tích cực đến cán cân thanh toán, xuất nhập khẩu, sản
lượng và việc làm. Mặc khác, sự phát triển của du lịch và các ngành nghề liên quan góp
phần tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu ngành kinh tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trên nhiều
lĩnh vực và góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng hợp lý. Đồng thời, phát
triển du lịch sẽ góp phần kích thích sự phát triển của các ngành sản xuất vật chất như sản
xuất công nghiệp, nông nghiệp, góp phần nâng cao đời sống vật chất của người dân. Như
vậy, du lịch giữ vị trí quan trọng, là chìa khóa để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
ở các quốc gia có tiềm năng phát triển du lịch, trong đó có Việt Nam.
Ngày nay, phát triển du lịch đang khẳng định vai trò quan trọng của mình đó là:
Một là, khi du lịch phát triển sẽ đóng góp vào GDP, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Hai là, phát triển du lịch sẽ góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế; giúp
cho doanh thu của nông dân và ngành nông nghiệp tăng bởi mối liên kết giữa các ngành.
Ba là, kinh tế du lịch phát triển góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tạo ra ngày
càng nhiều việc làm, giảm thất nghiệp và tăng thu nhập của người lao động. Cụ thể là,
hoạt động du lịch đòi hỏi nhiều lao động dịch vụ với nhiều ngành và nhiều trình độ khác
nhau, do đó, khi du lịch càng phát triển thì càng tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao
động, tăng thu nhập, đời sống của người dân vùng du lịch được cải thiện. Bốn là, phát
triển du lịch dẫn đến sự gia tăng đầu tư cả trong nước và ngoài nước, góp phần cân bằng
cán cân thanh toán đối với nhiều quốc gia, bởi lẽ, du lịch thường là
nguồn chính của thu ngoại tệ [44, 6].
Năm là, phát triển du lịch góp phần làm tăng giá trị xuất khẩu các sản phẩm của
địa phương; tăng nhập khẩu hàng hóa liên quan đến từ du lịch từ các vùng lân cận.
Cuối cùng, phát triển du lịch góp phần phát triển kinh tế của nhiều vùng, địa phương
trong cả nước: xoá đói giảm nghèo, khôi phục nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống,
khơi dậy bản sắc văn hoá của mỗi địa phương… Bởi lẽ, ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện
mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ
rệt. Hoạt động du lịch đã thúc đẩy các ngành khác phát triển, tạo ra khả năng tiêu thụ tại
chỗ cho hàng hoá và dịch vụ; mỗi năm, nhiều lễ hội truyền thống được tổ chức, phát huy
được thuần phong mỹ tục. Nhiều làng nghề thủ công truyền
9. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
17
thống được khôi phục và phát triển, tạo thêm các điểm tham quan du lịch, sản xuất hàng
lưu niệm, thủ công mỹ nghệ, nhân dân có thêm việc làm và thu nhập; góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và nhiều hộ dân đã giàu
lên nhờ làm du lịch. Du lịch phát triển đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di
tích và nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương
và cộng đồng dân cư giữ gìn, phát huy di sản văn hoá. Tuyên truyền, quảng bá du lịch ở
nước ngoài và trong nước đã truyền tải được giá trị văn hoá dân tộc đến bạn bè quốc tế,
khách du lịch và nhân dân.
Do đó, phát triển du lịch là lựa chọn hấp dẫn đối với nhiều nước, đặc biệt là các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Bởi lẽ, ngành du lịch tạo ra liên kết với các
ngành công nghiệp xây dựng, ngành giao thông vận tải, ngành nông nghiệp, và các tổ
chức văn hóa và lịch sử. Những kết nối sâu rộng tạo ra triển vọng cho phát triển bền
vững trong nền kinh tế tổng thể. Có thể khẳng định rằng, ngoài các khu vực có tiềm
năng để xúc tác cho tăng trưởng trong lĩnh vực kinh tế như nông nghiệp, công nghiệp
và khu vực dịch vụ, thì ngành du lịch có tiềm năng lớn để đóng góp vào việc đạt được
các mục tiêu phát triển và xóa đói giảm nghèo.
1.1.3.2. Mối tương quan giữa phát triển du lịch và tăng trưởng kinh tế
Xét về mặt lý thuyết, giữa phát triển du lịch và tăng trưởng kinh tế thường có mối
quan hệ nhân quả hai chiều. Bởi lẽ, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành
và liên vùng cao, do đó, khi ngành du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của hàng
loạt những ngành nghề liên quan như giao thông vận tải, xây dựng, sản xuất hàng lưu
niệm, chế biến thực phẩm, kinh doanh lưu trú, kinh doanh lữ hành, các dịch vụ thương
mại,… Giá trị kinh tế do những ngành nghề này mang lại sẽ góp phần làm tăng tổng sản
phẩm xã hội, kéo theo đó sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế
tăng trưởng cao sẽ tạo tiền đề, điều kiện đầu tư vào ngành du lịch, từ đó thúc đẩy phát
triển ngành du lịch. Như vậy, phát triển du lịch ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trên
hai mặt: tổng cung và tổng cầu.
Xét về mặt tổng cung, bốn nhân tố vốn, lao động, tài nguyên và công nghệ của du
lịch sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Do đó, hàm sản xuất có dạng:
Y= f (L, K, R, A)
10. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
18
Lý thuyết trên chọn hàm sản xuất dạng Cobb-Douglas để thể hiện ảnh hưởng của
các yếu tố đến tăng trưởng kinh tế:
Trong đó: g là tốc độ tăng trưởng GDP; k, l, r là tốc độ tăng trưởng các yếu tố
đầu vào; a là phần dư còn lại, phản ánh ảnh hưởng của khoa học công nghệ.
Các mô hình tăng trưởng cổ điển và tân cổ điển đã cố gắng lượng hóa sự đóng
góp của các yếu tố sản xuất vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong mô hình này năng
suất của các yếu tố tổng hợp (TFP - total factor productivity) được xem như là ảnh hưởng
của tiến bộ khoa học và công nghệ đến tăng trưởng kinh tế. Trong mô hình Solow, TFP
được xác định bằng phần dư của tăng trưởng kinh tế sau khi đã loại trừ đóng góp của
các yếu tố vốn và lao động.
Xét về mặt tổng cầu, theo phương pháp tiêu dùng, GDP bao gồm tiêu dùng cuối
cùng, tích luỹ tài sản cố định, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu ròng (xuất khẩu trừ đi
nhập khẩu) với hàm tổng cầu có dạng: Y = C + I + G + X – M
Trong đó, Y là sản lượng hay thu nhập quốc dân; C là tiêu dùng dân cư; I là đầu
tư, G là chi tiêu của Chính Phủ; X là xuất khẩu và M là nhập khẩu.
Ngành du lịch sẽ đóng góp vào mỗi yếu tố cấu thành nên GDP. Bởi lẽ, tất cả các
loại hình du lịch (bao gồm du lịch nội địa và du lịch quốc tế) có chi phí liên quan đến
ngành du lịch, theo đó, các khoản chi này sẽ liên quan đến xuất khẩu (X), nhập khẩu
(M), tiêu dùng (C) và đầu tư (I) [50]. Cụ thể là du khách quốc tế chi tiêu khi đi du lịch
ở nước khác, sẽ đóng góp vào xuất khẩu ròng; các khoản đầu tư (I) của công ty du lịch
là một phần của sự hình thành vốn cố định; tổng chi phí của nhân viên du lịch và du
khách trong nước được hạch toán trong tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình (C); ngân
sách nhà nước đầu tư vào ngành du lịch được xem là một phần chi tiêu của chính phủ
(G) vào GDP. Do đó, bất kỳ sự thay đổi nào trong các yếu tố của GDP ngành du lịch
đều sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến GDP của một quốc gia hay địa phương đó. Vì vậy, phát
triển du lịch luôn ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, mặc dù ảnh hưởng này có thể là
tích cực ở khía cạnh này hoặc tiêu cực ở khía cạnh khác; tích cực ở thời điểm này nhưng
tiêu cực ở thời điểm khác; hoặc cao hơn hoặc thấp hơn so với sự đóng góp của các ngành
công nghiệp khác [36].
11. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
19
1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
1.2.1. Tổng quan nghiên cứu ảnh hưởng kinh tế của du lịch
1.2.1.1. Tiêu chuẩn phân tích ảnh hưởng kinh tế của du lịch
Để đánh giá ảnh hưởng kinh tế của du lịch, các chuyên gia của UNWTO đã phân
tích theo ba cấp độ: ngành du lịch, kinh tế du lịch và tổng thể nền kinh tế. Trong đó, từ
giác độ ngành, du lịch sản xuất ra dịch vụ và hàng hóa phục vụ tiêu dùng của du khách.
Thước đo của nó là dựa vào chỉ tiêu chi tiêu của khách du lịch và được tính toán theo
công thức tính doanh thu du lịch [11].
Biểu đồ 1.1: Ảnh hưởng kinh tế của du lịch
Sự rò rỉ
Nhập khẩu
Chi tiêu du lịch
lịch
ảnh hưởng trực tiếp
Ngành du l ịch
Số nhân
Vd: Khách sạn
Tiền lương
tế
k
L
iê
n
ảnh hưởng (Hộ gia đình)
gián tiếp
ảnh hưởng
Các ngành khác hiệu ứng
Vd: thực phẩm
Dòng chảy của tiền tệ
Nguồn: Dịch từ “The Gambian Tourist Value Chain and Prospects for Pro-Poor Tourism”
Như vậy, tiêu chuẩn để phân tích ảnh hưởng kinh tế của du lịch đó là dựa vào dòng
tiền chảy ra từ chi tiêu du lịch. Dòng chảy đầu tiên (ảnh hưởng trực tiếp), du khách trả tiền
trực tiếp cho các đơn vị kinh doanh du lịch và cơ quan chính phủ. Số tiền này sau đó chảy
qua nền kinh tế (ảnh hưởng gián tiếp) như (i) các khoản thanh toán từ những người nhận
trực tiếp cho các nhà cung cấp của họ, (ii) tiền lương, tiền cho các hộ gia đình đã cung cấp
lao động cho du lịch hoặc các ngành công nghiệp hỗ trợ, (iii) các loại thuế khác nhau của
chính phủ và các khoản phí phải trả của khách du lịch, các doanh nghiệp và hộ gia đình.
Sau đó, hộ gia đình sử dụng tiền lương mà mình có được để chi tiêu và sẽ ảnh hưởng đến
các ngành khác gây ra những ảnh hưởng hiệu ứng thông qua
12. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
20
số nhân du lịch. Một sự rò rỉ xảy ra khi tiền thoát khỏi nền kinh tế của một khu vực bởi vì
một người tiêu dùng địa phương đã mua một sản phẩm từ một nhà cung cấp bên ngoài.
1.2.1.2. Một số khái niệm cơ bản
Ảnh hưởng kinh tế của du lịch
Ảnh hưởng kinh tế trong các sự kiện du lịch có thể được định nghĩa là sự thay đổi
ròng trong kết quả của một nền kinh tế từ một sự kiện. Sự thay đổi này được gây ra bởi
các hoạt động liên quan đến việc mua lại, hoạt động, phát triển và sử dụng các hàng hóa
và dịch vụ. Đó là việc lần lượt tạo ra chi tiêu của du khách, chi tiêu công, cơ hội việc
làm và doanh thu thuế. Cụ thể, ảnh hưởng kinh tế của chi tiêu du lịch bao gồm những
ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp và hiệu ứng [40].
Thực tiễn đã chứng minh có một mối tương quan tích cực giữa tăng trưởng du lịch
và phát triển kinh tế là du lịch có một vai trò rất quan trọng ở các nước đang phát triển,
đó là, giúp giảm thâm hụt trong cán cân thanh toán, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và
tạo ra nhiều cơ hội việc làm [41].
Theo Stynes, làm thế nào để du lịch ảnh hưởng đến nền kinh tế trên một mức độ
thực tế? "Du lịch có một loạt các tác động kinh tế. Khách du lịch đóng góp doanh thu,
lợi nhuận, công ăn việc làm, doanh thu thuế và thu nhập trong một khu vực. Những ảnh
hưởng trực tiếp diễn ra trong các lĩnh vực du lịch chính như khách sạn, nhà hàng, vận
chuyển, vui chơi giải trí và thương mại bán lẻ " [47, 11].
Keyser đã khẳng định, ảnh hưởng kinh tế của du lịch có thể được phân loại là ảnh
hưởng trực tiếp, ảnh hưởng gián tiếp và ảnh hưởng hiệu ứng [37, 307].
Tóm lại, ảnh hưởng kinh tế của du lịch là tổng hợp những ảnh hưởng trực tiếp, ảnh
hưởng gián tiếp và ảnh hưởng hiệu ứng đến nền kinh tế của một quốc gia, khu vực hay
địa phương. Những thay đổi này được đo lường thông qua sản lượng, việc làm, thu nhập,
hoặc giá trị tăng thêm. Trong đó:
Một là, ảnh hưởng trực tiếp (direct effects)
Ảnh hưởng trực tiếp là những ảnh hưởng dẫn đến những thay đổi trong sản xuất kinh
doanh do những ảnh hưởng tức thời và cùng lúc của những thay đổi trong chi tiêu của khách
du lịch, chẳng hạn một sự gia tăng số lượng khách lưu trú qua đêm tại các khách sạn sẽ trực
tiếp gia tăng doanh thu trong lĩnh vực khách sạn, đồng thời sẽ có những
13. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
21
thay đổi liên quan đến việc chi trả tiền thưởng hoặc tiền lương, thuế, trợ cấp và dịch vụ,
bố trí việc làm tại khách sạn [47, 12].
Ảnh hưởng trực tiếp của ngành du lịch dẫn đến sự gia tăng sản lượng, thu nhập của
hộ gia đình và việc làm trong lĩnh vực cung cấp các gói kích cầu ban đầu. Ví dụ, một nhà
điều hành du lịch sẽ mua các sản phẩm như thực phẩm, năng lượng, giao thông vận tải,
truyền thông, lao động, vệ sinh, văn phòng phẩm và dịch vụ tài chính [30, 14].
Ảnh hưởng trực tiếp chỉ bao gồm những ảnh hưởng trực tiếp của nhu cầu bổ sung
được tạo ra bởi du lịch. Chẳng hạn, điều này sẽ bao gồm chi tiêu du lịch về chỗ ở, bữa
ăn, hoạt động giải trí,… [30, 13].
Hai là, ảnh hưởng gián tiếp (indirect effects)
Ảnh hưởng gián tiếp là những ảnh hưởng dẫn đến sự thay đổi của sản lượng từ
những lần khác nhau của chi tiêu lại của thu nhập của ngành du lịch trong mối quan hệ
với những ngành công nghiệp trước đây [47, 12].
Ảnh hưởng gián tiếp liên quan đến nhu cầu gia tăng đối với hàng hoá và dịch vụ
của các ngành công nghiệp đang phục vụ khách du lịch. Nó bao gồm những thực phẩm
bổ sung mà các nhà hàng cần phải mua, sản lượng tăng thêm của vật tư và nguồn lao
động cần thiết để phục vụ cho du khách,… Những ảnh hưởng này cũng có thể bao gồm
đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển giao thông công cộng, các phương tiện cấp thoát nước và
phát triển các ngành công nghiệp khác…[30, 13].
Ba là, ảnh hưởng hiệu ứng (induced effects)
Ảnh hưởng hiệu ứng là những thay đổi trong hoạt động kinh tế phát sinh từ việc
chi tiêu của hộ gia đình từ nguồn thu nhập mà họ kiếm được một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp từ việc chi tiêu của ngành du lịch. Hoạt động kinh doanh và công việc mà kết
quả từ chi tiêu hộ gia đình bằng tiền lương hoặc thu nhập có được của chủ sở hữu sẽ gây
ra ảnh hưởng hiệu ứng [47, 12].
Ảnh hưởng hiệu ứng phát sinh khi nhu cầu đối với hàng hoá và dịch vụ từ các hộ
gia đình trong khu vực tăng lên như là một kết quả của ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp
của hoạt động du lịch, chẵn hạn, những nhân viên có việc làm được hỗ trợ trong chuỗi
giá trị chi tiêu thu nhập của họ vào khu vực hàng hóa và dịch vụ qua đó hỗ trợ các hoạt
động kinh tế khác [30, 13].
14. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
22
Như vậy, các nhà kinh tế đã phân biệt ảnh hưởng kinh tế trực tiếp, gián tiếp và hiệu
ứng. Tác động kinh tế tổng thể của du lịch là tổng hợp những ảnh hưởng trực tiếp, gián
tiếp và hiệu ứng trong một khu vực. Ảnh hưởng gián tiếp và hiệu ứng được gọi chung
là ảnh hưởng lan tỏa [47, 12].
Biểu đồ 1.2: Tính toán ảnh hưởng kinh tế của du lịch
+ + Ảnh = Tác động
Ảnh Ảnh
hưởng tổng thể
hưởng hưởng
hiệu
trực gián
ứng
tiếp tiếp
Nguồn: Dịch từ “Estimating Economic mpacts of Tourist Spending on Local
Region: A Comparison of Satellite and Survey/I-O Approachers”
Do đó, các chỉ tiêu để đo lường ảnh hưởng kinh tế của du lịch bao gồm: ảnh hưởng
trực tiếp, ảnh hưởng gián tiếp, ảnh hưởng hiệu ứng và tác động tổng thể. Đề tài sẽ tập
trung nghiên cứu và làm rõ hai chỉ tiêu cơ bản đó là ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng
lan tỏa của phát triển du lịch. Trong đó:
Tác động tổng thể = ảnh hưởng trực tiếp + ảnh hưởng lan tỏa [47, 12].
Tác động tổng thể = ảnh hưởng trực tiếp + ảnh hưởng gián tiếp + ảnh hưởng hiệu ứng.
Trên cơ sở những khái niệm nêu trên, nghiên cứu đề xuất một số khái niệm liên quan
đến ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế, trong đó, ảnh hưởng
của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ nét nhất ở tỷ lệ đóng góp của
ngành du lịch vào GDP. Tác động tổng thể của phát triển du lịch vào GDP được tính
theo công thức sau:
Tác động tổng thể của phát triển du lịch vào GDP = ảnh hưởng trực tiếp + ảnh
hưởng gián tiếp + ảnh hưởng hiệu ứng
Ảnh hưởng trực tiếp của phát triển du lịch vào GDP là những ảnh hưởng dẫn
đến những thay đổi trong GDP xuất phát từ việc chi tiêu của khách du lịch (bao gồm
khách quốc tế và khách nội địa) trực tiếp cho các đơn vị kinh doanh du lịch và cơ quan
15. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
23
chính phủ tạo ra thu nhập của các cơ sở lưu trú, các hãng lữ hành, nhà hàng, vận chuyển,
dịch vụ vui chơi giải trí, các điểm tham quan du lịch, các cửa hàng bán lẻ, bảo hiểm, y
tế, thu đổi ngoại tệ,…; chi tiêu của Chính phủ đầu tư cho các điểm tham quan như các
khu vui chơi giải trí, các công trình văn hóa lịch sử. Nhưng phải khấu trừ phần chi phí
mà các cơ sở cung cấp dịch vụ này mua các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ để phục vụ cho
khách du lịch.
Ảnh hưởng gián tiếp của phát triển du lịch vào GDP là những thay đổi trong
GDP xuất phát từ việc chi tiêu đầu tư vật chất cho ngành du lịch (đầu tư xây dựng khách
sạn, nhà hàng mới,…); việc tạo ra thu nhập, việc làm cho lực lượng lao động tham gia
cả trực tiếp hoặc gián tiếp vào ngành du lịch; tạo ra chi phí do các đơn vị, cơ sở cung
cấp dịch vụ mua sắm trong nước đối với hàng hóa, dịch vụ để phục vụ khách du lịch
(chi phí phát triển các ngành khác và các dịch vụ hỗ trợ,…); việc tạo ra các loại thuế
khác nhau của chính phủ và các khoản phí phải trả của khách du lịch, các doanh nghiệp
và hộ gia đình.
Ảnh hưởng hiệu ứng của phát triển du lịch vào GDP là những thay đổi trong
GDP phát sinh từ việc lực lượng lao động tham gia cả trực tiếp hoặc gián tiếp vào ngành
du lịch và sử dụng thu nhập có được để chi tiêu cho bản thân và gia đình họ.
1.2.2. Nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng
trưởng kinh tế
Trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn đã có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của
phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế ở một số vùng, quốc gia và địa phương với
nhiều phương pháp khác nhau.
1.2.2.1. Xét về địa lý và phạm vi nghiên cứu
ối với phạm vi các vùng lãnh thổ, trước hết, phải kể đến nghiên cứu của
Panagiotidis và cộng sự (2012) đã nghiên cứu giả thuyết du lịch dẫn đến tăng trưởng
kinh tế ở 187 quốc gia với bảng dữ liệu từ 1995 – 2009; nghiên cứu của Lanza và cộng
sự (2003) ở 13 nước OECD trong giai đoạn 1977 - 1992; Lee và Chang (2008) với
nghiên cứu tại các nước OECD và ngoài OECD từ 1992 – 2002; nghiên cứu của
Caglayan và cộng sự (2010) tại 135 quốc gia trong giai đoạn 1995 – 2008.
Đối với phạm vi quốc gia, trước hết, phải kể đến đó là nghiên cứu ở các đảo nhỏ
(như nghiên cứu của Hernández-Martín, 2008; Narayan, Narayan, Prasad và Prasad,
16. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
24
2010; Singh, Wright, Hayle và Craigwell, 2010; Vanegas và Croes, 2003), các nước ở
Châu Mỹ Latinh (nghiên cứu của Brida, Carrera và Risso, 2008), các nước thuộc vùng
Địa Trung Hải như nghiên cứu ở Thổ Nhĩ Kỳ (nghiên cứu của Tosun, 1999; Gökovali,
2010; Gunduz và Hatemi-J, 2005), nghiên cứu ở Jordan (Kreishan, 2010), ở Hy Lạp
(Dritsakis, 2004), ở Síp (Katircioglu, 2009a), nghiên cứu tại Crôatia (Payne Mervar,
2010), Tây Ban Nha (Balaguer và Cantavella-Jorda, 2002; Capo, Riera và Rossello,
2007), Bồ Đào Nha (Soukiazis và Proenca, 2008), Tunisia (Belloumi, 2010), đến nền
kinh tế ở các nước châu Á như Đài Loan (Kim, Chen và Jang, 2006), Hong Kong
(Raymond, 2001), Singapore (Katircioglu, 2010), Hàn Quốc (Oh, 2005) và Malaysia
(Tang, 2011), hay nghiên cứu ở các nước châu Phi (Akinboade và Braimoh, 2010;
Fayissa, Nsiah, Tadasse, 2008), và những nghiên cứu đối với nền kinh tế ở các nước
phát triển (Nissan, Galindo và Méndez, 2011).
Đối với phạm vi của một địa phương, đã có rất nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng
của phát triển du lịch lên tăng trưởng kinh tế, như nghiên cứu của Lau và cộng sự (2008)
ở tỉnh Sarawark, Malaysia; nghiên cứu của Zhou (2003) cho trường hợp tỉnh Tứ Xuyên,
Trung Quốc; nghiên cứu của Luo và cộng sự (2011) ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc;
nghiên cứu của Zhou (2010) ở tỉnh Shanxi, Trung Quốc; nghiên cứu của Brida và cộng
sự (2010) cho tiểu ban Trentino-Alto Adige, Italya; nghiên cứu của Suriyawan (2009) ở
ChaingMai và Thái Lan ; nghiên cứu của Xie và cộng sự (2011) ở thành phố Zhangjiajie,
Trung Quốc,...
Những nghiên cứu đó đã đưa ra được nhiều kết quả khác nhau. Hầu hết các tác giả
(Arslanturk, Balcinar và Ozdemir, 2011; Brida và cộng sự, 2010; Nissan và cộng sự,
2011; Seetanah, 2011) đã tìm thấy được ảnh hưởng tích cực của phát triển du lịch đến
tăng trưởng kinh tế ở các địa phương hay quốc gia điển hình. Tuy nhiên, cũng có những
tác giả khác đã không tìm thấy được những hỗ trợ thực nghiệm cho giả thuyết này, ví
dụ, Jimenez và cộng sự (2011) đã không tìm được bằng chứng cho thấy du lịch đóng
góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ở Tunisia; tương tự như nghiên cứu
của Oh (2005) cho trường hợp của Hàn Quốc hoặc Payne và Mervar (2010) với nghiên
cứu ở Crôatia đã không tìm thấy sự ảnh hưởng của phát triển du lịch lên tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn.
17. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
25
1.2.2.2. Xét về phương pháp nghiên cứu
Có nhiều phương pháp khác nhau để nghiên cứu ảnh hưởng của phát triển du lịch
lên tăng trưởng kinh tế, bao gồm:
Phương pháp kiểm tra và đo lường ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng
trưởng kinh tế (Melodologies for measuring tourism’s contribution to economic growth):
phương pháp phổ biến nhất để kiểm tra ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng trưởng
kinh tế là kiểm định đồng liên kết, mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số VECM và quan hệ nhân
quả Granger (nghiên cứu của Akinboade và Braimoh, 2010; Cortes-Jimenez, Nowak và
Sahli, 2011; Cortes- Jimenez và Pulina, 2010; Dritsakis, 2004; Durbarry, 2004; Katircioglu,
2009a, b, c, 2010; Lee và Chang, 2008; Oh, 2005; Seetanah, 2011; Tang, 2011). Mục tiêu
của phương pháp này l à kiểm tra sự tương quan trong dài hạn và trong ngắn hạn giữa những
thay đổi trong GDP và những thay đổi trong các biến đại diện cho phát triển du lịch. Phương
pháp này thường được áp dụng để kiểm tra giả thuyết du lịch kéo theo tăng trưởng kinh tế
(nghiên cứu của Brida, Barquet và Risso, 2010). Giả thiết đặt ra là phát triển du lịch sẽ làm
tăng GDP trong dài hạn. Và mối quan hệ đó cũng có thể là mối quan hệ hai chiều – tăng
trưởng kinh tế sẽ kích thích phát triể du lịch, đồng thời phát triển du lịch sẽ thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế (Katircioglu, 2009c; Kim, Chen và Jang, 2006; ngan và Demiröz, 2005).
Ưu điểm của lý thuyết đồng liên kết và quan hệ nhân quả Granger đó là xác định được
sự tồn tại của mối tương quan giữa phát triển du lịch và tăng trưởng kinh tế và đồng thời sẽ
xác định được giữa phát triển du lịch và tăng trưởng kinh tế nhân tố nào sẽ là nhân tố tác
động trước. Tuy nhiên, phương pháp này lại không thể xác định được tầm quan trọng của
phát triển du lịch đối với tăng trưởng kinh tế trong mỗi năm của giai đoạn phân tích, đồng
thời cũng không thể lượng hóa được ngành du lịch (mà đại diện là ngành khách sạn, nhà
hàng) đóng góp bao nhiêu phần trăm vào GDP. Hơn nữa, Po và Huang (2008) đã xác định
3 hạn chế của phương pháp đồng liên kết và quan hệ nhân quả Granger: thông thường sẽ
không có đủ các dữ liệu hàng năm để đại diện cho mối quan hệ trong dài hạn giữa hai biến,
sự hạn chế của các dữ liệu hàng năm để loại bỏ vấn đề của biến động ngắn hạn do chu kỳ
kinh doanh và thay đổi cấu trúc và sự thất bại để phân định các quốc gia với các tính năng
đặc biệt trong giới hạn của các mối quan hệ
18. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
26
nhân quả khác nhau. Mặc dù có những hạn chế nêu trên nhưng phương pháp đồng liên
kết và quan hệ nhân quả Granger vẫn là phương pháp cơ bản nhất để đo lường đóng góp
của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế [36].
Phương pháp phân tích bằng dữ liệu chéo (Cross-section analysis): phương pháp
này nhằm mục đích xác định mối tương quan giữa phát triển du lịch và tăng trưởng kinh
tế dựa vào dữ liệu chéo của các quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (nghiên
cứu của Brau, Lanza và Pigliaru, 2003; Figini và Vici, 2010; Goel và Budak, 2010; Po
và Huang, 2008). Ưu điểm chính của phương pháp này vượt qua kiểm định đồng liên
kết và quan hệ nhân quả Granger đó là khả năng để lượng hóa những đặc điểm khác
nhau của các quốc gia (ví dụ như thành viên trong một tổ chức hoặc khối kinh doanh,
nước xuất khẩu dầu, vị trí địa lý, ít nhất là các nước phát triển,...) và để kiểm tra tác động
của những yếu tố này lên tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, hạn chế cơ bản của phương
pháp này là quá trình hồi quy được áp dụng trong một mốc thời gian duy nhất, do đó ta
không thể nắm bắt được các khía cạnh năng động của mối quan hệ giữa ngành du lịch
và tăng trưởng kinh tế.
Hàm sản xuất Cobb-Douglas ( obb-Douglas production function): để phân tích
ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất vào tăng trưởng kinh tế. Một số nghiên cứu sử dụng
hàm sản xuất Cobb-Douglas vào các ngành ở cấp quốc gia (như nghiên cứu của Capo,
Riera và Rossello, 2007), đôi khi kết hợp với một bảng phân tích dữ liệu (nghiên cứu
của Fayissa, Nsiah và Tadasse, 2008; Holzner, 2011). Các mô hình Cobb-Douglas có
lợi thế là đẹp và có thể áp dụng rộng rãi trong nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, nhưng nó
cũng có một số hạn chế như nguồn lực được sử dụng ở quy mô doanh nghiệp hay hộ gia
đình và các doanh nghiệp trong cùng một ngành có chức năng sản xuất rất khác nhau
mà không thể tổng hợp được (Ivanov và Webster, 2010). Trong khi đó, du lịch lại là
ngành kinh tế tổng hợp do đó việc xem xét thực tế ngành du lịch là không đồng nhất,
nhưng bao gồm các hoạt động kinh tế có vốn đầu tư và yêu cầu lao động khác nhau
(chẳng hạn như khách sạn là lĩnh vực cần nhiều vốn đầu tư, vốn cố định và mặt bằng
kinh doanh, trong khi đó, các doanh nghiệp lữ hành và các dịch vụ hướng dẫn lại yêu
cầu không đáng kể về vốn cố định, thậm chí có thể chỉ cần thuê mặt bằng).
19. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
27
Lý thuyết phân chia mức tăng trưởng (the Growth decomposition methodology)
cung cấp phương pháp đo lường đóng góp của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh
tế. Người phát minh ra lý thuyết này là Ivanov (2005), được tiếp tục phát triển bởi Ivanov
và Webster (2007), sau đó tổng quát cho cả nền kinh tế và tất cả các ngành công nghiệp
bởi Ivanov và Webster (2010). Trong lĩnh vực du lịch, phương pháp này đã được áp
dụng cho trường hợp của nước Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Anh (Brida, Pereyra,Such
và Aquirre, 2008; Brida, Pereyra, Punzo và Such, 2008), ở Bulgaria (Ivanov, 2005), Tây
Ban Nha, Hy Lạp, Cyprus (Ivanov và Webster, 2007), ở Uruguay, Argentina, Brazil và
Mexico (Brida, Pereyra và Such, 2008; Brida, Pereyra, Punzo và Such, 2008), Colombia
(Brida, Pereyra, Risso, Such và Aguirre, 2009; Such, Aguirre, Risso, Brida Pereyra,
2009; Brida, Monterubbianesi và Zapata-Aguirre, 2011), Costa Rica (Brida và Aguirre,
2010), và ở các nước Trung Mỹ và vùng Caribê (Brida và Fabbro, 2010). Bản chất của
phương pháp này là sự phân chia mức tăng trưởng kinh tế. Các tác giả đã sử dụng chỉ
tiêu thu nhập bình quân đầu người thực tế là thước đo của tăng trưởng kinh tế và phân
chia được mức tăng trưởng được tạo ra bởi ngành du lịch và các ngành công nghiệp
khác. Các tác giả đã lập luận rằng các phương pháp phân tích ảnh hưởng của phát triển
du lịch đến tăng trưởng kinh tế của các nghiên cứu trước chỉ kiểm tra được mối quan hệ
giữa phát triển ngành du lịch và tăng trưởng kinh tế nhưng không đo lường được bao
nhiêu tăng trưởng là nhờ vào sự tăng trưởng của du lịch. Lợi thế chính của phương pháp
này là các yêu cầu dữ liệu thấp - chỉ cần dữ liệu về GDP, GDP du lịch và quy mô dân
số của quốc gia hay địa phương nghiên cứu.
1.2.3. Đo lường và đánh giá ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng trưởng
kinh tế
1.2.3.1. Đo lường ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế
Thứ nhất, đo lường ảnh hưởng trực tiếp
Ivanov và Webster, Juan Gabriel Brida và cộng sự cho rằng ảnh hưởng trực tiếp của
phát triển du lịch lên tăng trưởng kinh tế thể hiện đầy đủ nhất ở tỷ trọng đóng góp của tốc
độ tăng trưởng của ngành du lịch trong tốc độ tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trên
thực tế, vì du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao; do đó, rất khó để có thể tính toán đầy đủ GDP toàn ngành du lịch. Vì
20. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
28
vậy, hầu hết các nghiên cứu trước chọn ngành khách sạn, nhà hàng để đại diện cho ngành
du lịch khi đo lường ảnh hưởng trực tiếp của phát triển du lịch lên tăng trưởng kinh tế.
Một là, đo lường đóng góp trực tiếp của ngành khách sạn, nhà hàng đến tăng
trưởng kinh tế
Thước đo để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế dựa vào 3 chỉ tiêu: tổng sản phẩm
quốc nội, tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập bình quân trên đầu người. Trong khuôn
khổ của nghiên cứu, để đo lường tác động của ngành du lịch đến tăng trưởng kinh tế, đề
tài sẽ đo lường đóng góp dựa vào hai chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập bình
quân trên đầu người.
Dựa vào chỉ tiêu GDP, công thức tính GDP và tốc độ tăng trưởng kinh tế:
GDP = GDPt + GDPk
gr = St x gt + Sk x gk (St + Sk = 100%)
Trong đó: GDP là tổng sản phẩm quốc nội; GDPt là tổng sản phẩm ngành du lịch;
GDPk là tổng sản phẩm quốc nội của tất cả các ngành khác du lịch; gr là tốc độ tăng trưởng
kinh tế, gt là tốc độ tăng trưởng của ngành du lịch, gk là tốc độ tăng trưởng của các ngành
khác du lịch, gr
t
là đóng góp của ngành du lịch vào tăng trưởng kinh tế; St là tỷ trọng của
ngành du lịch trong GDP, Sk là tỷ trọng của các ngành khác du lịch trong GDP.
Như vậy, ngành du lịch đóng góp vào tăng trưởng kinh tế sẽ được tính theo công
thức sau: gr
t
= St x g t
Tuy nhiên, thước đo trên có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi
GDP lại tăng trưởng chậm. Một chỉ tiêu khác có thể thích hợp hơn để đo lường tăng trưởng
kinh tế đó là thu nhập bình quân đầu người tính bằng tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ
được tạo ra trong năm chia cho dân số. Để đo lường đóng góp trực tiếp của du lịch đến tăng
trưởng kinh tế, nghiên cứu sẽ dựa trên nghiên cứu của Ivanov và Webster, Brida và cộng
sự, Xie và cộng sự, đó là dựa vào chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người theo giá so sánh
tính theo năm ở tỉnh TTH. Theo các tác giả, một ảnh hưởng được coi là mang lại lợi ích đối
với nền kinh tế nếu nó làm tăng phúc lợi của người dân địa phương. Như vậy, tăng trưởng
kinh tế sẽ đưa đến tăng phúc lợi cho người dân địa phương, mặc dù trong các khoảng thời
gian nhất định sẽ có người được hưởng lợi nhiều
21. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
29
hơn những người khác. Vì vậy, các tác giả đã sử dụng chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu
người tính theo giá so sánh để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế.
( )
Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế là: gr = ( ( ) − ) . %
Trong đó: Yq1(p0) là GDP thực tế của năm tính; Yq0(p0) là GDP thực tế của năm
trước; N1 là dân số trung bình của năm tính; N0 là dân số trung bình của năm trước.
Sau đó các tác giả đã tiến hành phân nhóm nhỏ công thức trên để tách riêng GDP
của ngành du lịch của năm tính (Yt
q1(p0)) từ GDP trong giá so sánh của năm tính của các
ngành công nghiệp khác (ΣYi
q1(p0)); và tách GDP của ngành du lịch của năm trước
(Yt
q0(p0)) từ GDP của các ngành khác trong năm trước (ΣYi
q0(p0) ).
∑ ∑
( )
+
≠ ( )
−
( )
−
≠ ( )
gr = ( ) . %
( )
Từ đó, các tác giả tập hợp lại các bi ể u thức lại và đi đến công thức sau:
∑ ∑
( )
−
( ) ≠ ( )
−
≠ ( )
gr = ( + ) . %
( )
( )
Các biểu hiện đầu tiên trong công thức này cho thấy một phần của sự tăng trưởng
của GDP thực tế bình quân đầu người là một hệ quả của phát triển ngành du lịch. Do đó,
ngành du lịch đóng góp vào tăng trưởng kinh tế được tính theo công thức:
( )
−
( )
gt
r = . %
( )
Tuy nhiên, công thức này chỉ có thể đo lường đóng góp trực tiếp của khách sạn,
nhà hàng đến tăng trưởng kinh tế [34]. Vì vậy, để có thể đo lường một cách đầy đủ đóng
góp trực tiếp của ngành du lịch vào GDP của một quốc gia hay địa phương, nghiên cứu
sẽ tiếp tục đo lường đóng góp của các hoạt động du lịch vào GDP.
Hai là, đo lường đóng góp của các hoạt động du lịch đến GDP
Để đo lường đóng góp trực tiếp và một phần đóng góp gián tiếp của các hoạt động du
lịch đến GDP, nghiên cứu dựa theo khuyến cáo của UNWTO về phương pháp tính
22. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
30
theo nguồn cầu, kết hợp với phương pháp tính GDP đang áp dụng tại Việt Nam, nghiên cứu
của Trần Trí Dũng và Nguyễn Thị Tuyết Nhung để đưa ra phương pháp luận cho việc xác
định các trị số và phương pháp tính giá trị tăng thêm ngành du lịch theo phương pháp sản
xuất. Kết quả phân tích sẽ dựa trên một số chỉ tiêu và công thức tính như sau:
Doanh thu ngành du lịch (DT):
Để đánh giá quy mô của những khu vực kinh tế không được định nghĩa như là các
ngành riêng biệt trong các tài khoản quốc gia, chẳng hạn như ngành du lịch là một lĩnh
vực có sự tham gia của nhiều ngành như giao thông vận tải, dịch vụ ăn uống, vui chơi
giải trí và hoạt động lữ hành, Liên hợp quốc đã đưa ra khái niệm Tài khoản Vệ tinh Du
lịch (Tourism Sateline Account) – TSA – công cụ đáng tin cậy để đo lường đóng góp
của ngành du lịch vào nền kinh tế. Theo đó, hệ thống thống kê được xác định theo
phương diện cầu, có cân đối với nguồn cung của các sản phẩm du lịch [7, 74].
Doanh thu ngành du lịch theo phương diện cầu được xác định như sau:
DT = DTQT + DTNĐ
Trong đó: DT là doanh thu của ngành du lịch, DTQT là doanh thu của khách quốc
tế, DTNĐ là doanh thu của khách nội địa
Doanh thu theo nhóm khách = Tổng số khách theo nhóm x Độ dài ngày lưu trú
bình quân của nhóm x Mức chi tiêu bình quân một ngày khách của nhóm
Giá trị tăng thêm của ngành du lịch (VAi): là bộ phận giá trị mới được tạo ra,
phản ánh phần giá trị sản suất phần giá trị sản xuất du lịch còn lại sau khi đã trừ đi chi
phí trung gian, bao gồm tổng giá trị tăng thêm của các ngành, lĩnh vực kinh doanh cấu
thành nên hoạt động du lịch [13, 100].
VAi = GOi – ICi
Trong đó, VAi là giá trị tăng thêm của hoạt động du lịch i, ICi là chi phí trung gian
của hoạt động du lịch i.
Giá trị sản xuất của ngành du lịch (GOi): ngành du lịch bao gồm nhiều hoạt
động kinh tế khác nhau, vì vậy giá trị sản xuất của hoạt động du lịch sẽ được tính toán
dựa trên việc tổng hợp giá trị sản xuất của các hoạt động khác nhau mà việc thu thập
thông tin để tính giá trị sản xuất của các hoạt động mang đặc điểm du lịch như vậy là
hết sức khó khăn. Do đó, Tổng cục Thống kê thường phải tổ chức các cuộc điều tra để
23. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
31
xác định tỷ trọng giá trị sản xuất chiếm trong doanh thu, từ đó, dựa vào doanh thu hoạt
động du lịch để xác định giá trị sản xuất của hoạt động du lịch theo công thức:
GOi = DTi x Ki
Trong đó: GOi là giá trị sản xuất của hoạt động du lịch i, Ki là hệ số quy đổi giá trị
sản xuất theo doanh thu của hoạt động du lịch i (phụ lục 1.4).
Chi phí trung gian của từng hoạt động du lịch được tính đựa trên tỷ trọng
chi phí trung gian chiếm trong giá trị sản xuất (gọi là hệ số chi phí trung gia n trong giá
trị sản xuất), được Tổng cục Thống kê Việt Nam điều tra thu thập và tính sẵn, làm cơ sở
cho việc tính toán giá trị tăng thêm của hoạt động du lịch [13, 100].
ICi = GOi x Hi
Trong đó, Hi là hệ số chi phí trung gian của hoạt động du lịch i (phụ lục 1.5)
Tỷ lệ đóng góp của giá trị tăng thêm trong việc tạo ra GDP của nền kinh tế
quốc dân: chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy giá trị tăng thêm của từng hoạt động du
lịch chia cho GDP của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo giá thực tế [13, 103]. Đây là
chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng trực tiếp của ngành du lịch lên GDP.
Tỷ lệ đóng góp của chi phí trung gian trong việc tạo ra GDP của nền kinh tế
quốc dân: chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy IC của từng hoạt động du lịch chia cho
GDP của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo giá thực tế.
Trên thực tế, việc sử dụng phương pháp tính giá trị tăng thêm khi đo lường đóng
góp của du lịch vào GDP chỉ có tính tương đối. Bởi lẽ, du lịch là ngành kinh tế tổng hợp,
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, nên việc tính toán doanh thu ngành du lịch, giá
trị sản xuất, giá trị gia tăng của hoạt động du lịch, chi phí trung gian dựa vào hệ số chi
phí trung gian, hệ số quy đổi giá trị sản xuất từ những công thức trên cũng chỉ tương
đối, chứ chưa thực sự đầy đủ.
Thứ hai, đo lường ảnh hưởng lan tỏa của phát triển du lịch
Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế,
ảnh hưởng của ngành du lịch đến tăng trưởng kinh tế còn được thể hiện thông qua những
ảnh hưởng lan tỏa. Để đo lường ảnh hưởng lan tỏa của phát triển du lịch đến tăng trưởng
kinh tế, nghiên cứu tiến hành phân tích định tính dựa trên số liệu thống kê sơ cấp từ bảng
câu hỏi điều tra kết hợp với việc sử dụng phương pháp phân tích từ số liệu thống
(ICi):
24. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
32
kê dựa vào những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực được xác định bởi UNWTO (2008),
Kreag (2001), Cerina và cộng sự (2009) và Stynes (1997). Những ảnh hưởng lan tỏa tích
cực của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh tế bao gồm:
Một là, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói
giảm nghèo [47, 11]
Thực tế cho thấy nguồn thu từ ngành du lịch không những đóng góp trực tiếp vào
GDP, mà còn góp phần nâng cao đời sống thu nhập cho người dân địa phương liên quan
đến việc làm và sản phẩm du lịch kéo theo đó sẽ ảnh hưởng gián tiếp và hiệu ứng lên
tăng trưởng kinh tế của quốc gia hay địa phương đó.
Ngành du lịch tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Việc làm trực tiếp và
gián tiếp do ngành du lịch tạo ra liên tục tăng cùng với tăng trưởng về số du khách, dịch
vụ du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, du lịch phát
triển đã đang và sẽ tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới cho người lao động, nâng cao
thu nhập và mức sống của dân cư.
Phát triển du lịch làm thay đổi cơ cấu việc làm. Khi du lịch phát triển đến một trình
độ nhất định nó sẽ làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng của ngành dịch
vụ, công nghiệp và giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp. Theo đó, cơ cấu việc làm của
người lao động cũng có sự thay đổi mạnh mẽ. Hiện nay, cơ cấu việc làm thay đổi theo các
xu hướng: gia tăng chỗ việc làm trong lĩnh vực công nghiệp - xây dựng, du lịch
- dịch vụ nhưng giảm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp; gia tăng số chỗ việc làm có trình
độ chuyên môn cao nhưng giảm chỗ việc làm có trình độ chuyên môn thấp đặc biệt là lao
động phổ thông; gia tăng chỗ việc làm có năng suất, thu nhập cao nhưng giảm chỗ việc làm
có năng suất, thu nhập thấp. Sự thay đổi cơ cấu việc làm theo các xu hướng trên đây một
phần là do ngày nay ngành du lịch có xu hướng ngày càng phát triển để có thể đáp ứng được
một cách đầy đủ nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của du khách.
Nâng cao thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo. Du lịch là ngành kinh tế tổng
hợp, có tính liên ngành, liên vùng và thời vụ cao, tạo ra được một số lượng lớn lao động
gián tiếp cho người dân. Do đó, khi ngành du lịch phát triển nó sẽ tạo điều kiện để nâng
cao thu nhập cho người lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận lao
động nhàn rỗi trong dân.
25. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
33
Hai là, tăng doanh thu thuế vào ngân sách Nhà nước [38, 6]
Du lịch phát triển không chỉ đem lại những ảnh hưởng trực tiếp, mà còn mang lại
những ảnh hưởng lan tỏa đến tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh truyền dẫn như góp
phần tăng thu ngân sách nhà nước thông qua thuế, giảm thâm hụt cán cân thương mại quốc
gia [38]. Bởi lẽ, mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có
nghĩa vụ đóng góp ngân sách cho Nhà nước dưới các hình thức như thuế, phí và lệ phí. Nhà
nước sẽ sử dụng các khoản thu này để chi cho đầu tư phát triển của nền kinh tế quốc dân và
ở các lĩnh vực phi sản xuất kinh doanh. Do đó, mức đóng góp của các doanh nghiệp cho
ngân sách càng nhiều sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế được tái đầu tư nhiều hơn và tạo điều
kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp [47, 12].
Công thức tính mức đóng góp ngân sách Nhà nước của ngành du lịch như sau:
Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của du lịch = 10% doanh thu du lịch +
Thuế thu nhập doanh nghiệp và các khoản phải nộp [6, 75]
Ba là, ảnh hưởng đến đầu tư cơ sở vật chất cho ngành du lịch [50]
Mặc dù ra đời sau các ngành kinh tế khác nhưng du lịch đã sớm khẳng định được
vai trò và vị trí của mình trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Trên phương diện lý
thuyết, khi ngành du lịch phát triển, nó sẽ kéo theo sự gia tăng đầu tư vào cơ sở vật chất,
mà trước hết là sự gia tăng số lượng khách sạn, nhà hàng, các khu nghỉ dưỡng,… [50].
Tất cả những sự thay đổi đó sẽ làm tăng GDP của địa phương.
Bốn là, ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu tại chỗ, thu về nhiều ngoại tệ [29]
Tính hiệu quả trong kinh doanh du lịch thể hiện trên khía cạnh du lịch là ngành xuất
khẩu tại chỗ và có lợi hơn rất nhiều so với xuất khẩu ngoại thương. Trước hết một phần rất
lớn đối tượng mua bán trong du lịch quốc tế là các dịch vụ, vì vậy, xuất khẩu bằng du lịch
là xuất khẩu đa số dịch vụ, đó là điều mà ngoại thương không thể thực hiện được. Ngoài ra
đối tượng xuất khẩu của du lịch quốc tế còn là các mặt hàng ăn uống, hàng lưu niệm… là
những mặt hàng rất khó xuất theo đường ngoại thương, muốn xuất khẩu những mặt hàng
này phải đầu tư nhiều chi phí cho việc đóng gói, bảo quản các khoản thuế, phí và lệ phí mà
giá cả lại thấp. Mặc khác, du lịch còn là ngành xuất khẩu tại chỗ các hàng hoá du lịch vô
hình như các phong cảnh đẹp, những giá trị của di tích
26. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
34
lịch sử, tính độc đáo,... Những sản phẩm này không bị mất đi qua mỗi lần bán, thậm chí
giá trị và uy tín của nó còn tăng lên qua mỗi lần đưa ra thị trường nếu chất lượng cao và
đáp ứng được nhu cầu du khách. Bởi lẽ, chúng ta bán cho du khách không phải là bản
thân tài nguyên du lịch mà chỉ bán các giá trị có khả năng thoả mãn nhu cầu của khách
du lịch được chứa đựng trong tài nguyên du lịch. Do đó, du lịch phát triển sẽ làm tăng
hoạt động xuất khẩu tại chỗ các hàng hóa dịch vụ hữu hình và vô hình, thu về nhiều
ngoại tệ cho địa phương.
Có thể xác định công thức tính kim ngạnh xuất khẩu của ngành du lịch như sau:
Kim ngạch xuất khẩu ngành du lịch = Doanh thu khách du lịch quốc tế [7, 75]
Năm là, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của dịch vụ hỗ trợ và các ngành sản
xuất khác [38, 6]
Du lịch phát triển sẽ tạo cơ hội để phát triển các loại hình dịch vụ mới và các cơ sở
vui chơi giải trí trong cộng đồng mà trước đây chưa phát triển được. Mong đợi của khách
du lịch là địa phương nâng cấp dịch vụ của hệ thống khách sạn, nhà hàng và các khu thương
mại. Du lịch phát triển còn tạo cơ hội phát triển dịch vụ chăm sóc y tế, dịch vụ hỗ trợ thanh
toán tín dụng, dịch vụ vận chuyển [38]. Mặc khác, phát triển ngành du lịch tạo điều kiện
cho các ngành kinh tế khác phát triển; mở thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho
các ngành khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất
khẩu tại chỗ. Các ngành nông nghiệp, thủy sản, giao thông, xây dựng,… nhờ phát triển du
lịch đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế
- xã hội được cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn [31].
Bên cạnh những ảnh hưởng lan tỏa tích cực, ngành du lịch phát triển đã mang lại
những ảnh hưởng tiêu cực như làm tăng giá cả hàng hóa và dịch vụ, tăng giá cả đất đai
và nhà ở kéo theo đó làm tăng chi phí sinh hoạt ở mỗi gia đình; các công việc du lịch
thường theo mùa nên đã gây tình trạng thiếu việc làm hoặc thất nghiệp trong mùa vắng
khách; gây ra tình trạng bất bình đẳng về thu nhập ngày càng cao giữa những người lao
động; một bộ phận người nông dân bị mất đất và mất việc làm; xuất hiện tệ nạn trẻ em
bỏ học và phụ nữ đeo bám du khách; nhiều di sản văn hóa, cơ sở hạ tầng bị biến dạng,
xuống cấp; tăng lượng rác thải sinh hoạt và môi trường bị ô nhiễm; gia tăng các tệ nạn
xã hội… [38, [47], [50].
27. DỊCH VỤ VIẾT THUÊ ĐỀ TÀI TRỌN GÓI ZALO TELEGRAM : 0934.573.149
TẢI FLIE TÀI LIỆU – LUANVANTOT.COM
35
1.2.3.2. Đánh giá tác động của ngành du lịch đến tăng trưởng kinh tế
Dựa vào nghiên cứu “Báo cáo cuối cùng quy hoạch phát triển bền vững du lịch thành
phố Huế năm 2020” của chuyên gia Tây Ban Nha và chuyên gia Việt Nam, dựa vào nghiên
cứu của UNWTO (2008), Kreag (2001), Cerina và cộng sự (2009) và Stynes (1997), nghiên
cứu đã rút ra 15 chỉ tiêu để đánh giá ảnh hưởng của phát triển du lịch đến tăng trưởng kinh
tế ở TTH (bao gồm ảnh hưởng trực tiếp, ảnh hưởng gián tiếp và ảnh hưởng hiệu ứng) như
sau: (1) Phát triển ngành du lịch sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;
(2) Phát triển ngành du lịch sẽ tạo ra ngày càng nhiều việc làm; (3) Phát triển ngành du
lịch góp phần phát triển các dịch vụ hỗ trợ; (4) Phát triển du lịch tăng doanh thu thuế
cho chính quyền địa phương; (5) Phát triển du lịch tạo thu nhập cho các bên liên quan;
(6) Phát triển ngành du lịch dẫn đến sự gia tăng đầu tư trong và ngoài nước; (7) Phát triển
ngành du lịch sẽ mang về nhiều ngoại tệ; (8) Phát triển ngành du lịch góp phần làm tăng
nhập khẩu hàng hóa liên quan đến du lịch từ vùng lân cận; (9) Phát triển ngành du lịch góp
phần tăng giá trị xuất khẩu tại chỗ; (10) Phát triển ngành du lịch thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hợp lý; (11) Phát triển ngành du lịch góp phần phát triển cơ sở hạ
tầng; (12) Phát triển du lịch nâng cao chất lượng khách sạn, nhà hàng; (13) Phát
triển du lịch góp phần tăng giá hàng hoá và dịch vụ; (14) Phát triển du lịch góp phần làm
tăng giá đất đai và nhà ở; (15) Phát triển ngành du lịch tạo điều kiện mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Để đánh giá 15 chỉ tiêu trên dự kiến đề tài sẽ tiến hành các cuộc khảo sát đối với
các cán bộ quản lý và chuyên gia, kết hợp với cuộc khảo sát các doanh nghiệp và hộ gia
đình kinh doanh trong lĩnh vực du lịch. Sau đó sẽ tiến hành phân tích định tính dựa trên
số liệu thống kê sơ cấp từ bảng câu hỏi điều tra để xem xét sự khác biệt về sự ảnh hưởng
của mỗi yếu tố đến các nhân tố khác nhau trong nền kinh tế.