bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
SKKN Các phương pháp dạy kiểu bài văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8
1. PHẦN A - ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong mấy chục năm qua, khoa học kĩ thuật “bùng nổ”. Nhiều vấn đề cần
trang bị cho người lao động để đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và nâng
cao chất lượng cuộc sống cá nhân. Có những tri thức không còn thích hợp,
thậm chí đã lỗi thời cần được loại bỏ. Nội dung và phương pháp giáo dục
trong nhà trường, trong đó bậc THCS cần được xem xét, điều chỉnh. Từ
năm 1997, những đổi mới đồng bộ về giáo dục THCS và việc xây dựng lại
chương trình, biên soạn lại sách giáo khoa các môn học theo tư tưởng tích
cực hoá hoạt động của học sinh đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về đổi mới
phương pháp giáo dục. Cùng với các bộ sách giáo khoa của các khối lớp
khác, sách giáo khoa Ngữ văn 8 được biên soạn theo nguyên tắc tích hợp ba
phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập làm văn theo định hướng tích cực hoá
hoạt động học tập của người học. Sự tuân thủ hai nguyên tắc trên này đã tạo
nên những tiền đề thuận lợi cho việc vận dụng định hướng đổi mới phương
pháp dạy học.
Một điểm dễ nhận thấy ở chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 8 là sự
cố gắng vừa tiếp thu những nội dung ổn định, hợp lí của bộ sách giáo khoa cũ mà
có những thay đổi phù hợp với tinh thần tích hợp và những yêu cầu mới
hiện đại hoá thể hiện rõ nhất việc tránh xu hướng hàn lâm, quá tải, nặng nề,
thiếu thiết thực, tăng cường tính ứng dụng thực hành. Theo tinh thần này,
nội dung phần Tập làm văn đã chú ý cân đối nội dung, hướng tới tính toàn
diện và gắn với thực tiễn đời sống nhằm đào tạo năng lực đọc, viết cho học
sinh. Việc đưa kiểu văn bản thuyết minh vào giảng dạy là một minh chứng.
văn bản thuyết minh góp phần đáp ứng yêu cầu đời sống, đào tạo một năng lực
cần thiết mà học sinh xưa nay vốn thiếu và yếu. Để giảng dạy có hiệu quả kiểu
văn bản này, đòi hỏi người giáo viên phải có sự nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới
phương pháp nhằm đáp ứng yêu cầu cụ thể của chương trình về kiến thức và kĩ
Trang 1
2. năng. Đó cũng chính là lí do tôi chọn đề tài “Các phương pháp dạy kiểu bài văn
thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8”
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Nâng cao hiệu quả giảng dạy kiểu bài thuyết minh.
- Cụ thể hoá lí thuyết qua các bài tập thực hành, giúp học sinh nắm bài
nhanh và dễ dàng hơn.
- Học sinh biết vận dụng văn thuyết minh vào học tập và thực tế cuộc sống.
III. KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Với nội dung đề tài Giảng dạy kiểu bài thuyết minh trong chương trình
Ngữ văn 8, giúp học sinh đạt được những yêu cầu sau:
1. Chuẩn:
* Kiến thức: HS nắm được
- Những đặc điểm cơ bản của kiểu bài thuyết minh.
- Các phương pháp thuyết minh.
- Một số dạng bài thuyết minh cơ bản, cần thiết trong cuộc sống.
* Kĩ năng:
- Kĩ năng phân tích mẫu, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, hình thành kiến thức.
- Kĩ năng vận dụng lí thuyết để sáng tạo văn bản thuyết minh.
- Kĩ năng diễn đạt rõ ràng, lưu loát, có sức cuốn hút.
* Thái độ:
- HS có thái độ học tập nghiêm túc, tích cực, tư duy, sáng tạo.
- Yêu thích môn học.
Trang 2
3. - Có ý thức vận dụng lí thuyết vào thực hành: sản sinh văn bản phù hợp với
hoạt động thực tiễn.
2. Nâng cao: HS biết vận dụng các kiến thức và kĩ năng từ kiểu bài thuyết minh
đem lại vào học tập và thực tiễn.
IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
- Các tiết học về kiểu bài thuyết minh trong chương trình sách giáo khoa
Ngữ văn 8.
- Học sinh lớp 8
2. Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu lí luận: Nghiên cứu lí luận kiểu bài thuyết minh, lí luận dạy -
học kiểu bài thuyết minh.
- Nghiên cứu thực tiễn: Dự giờ đồng nghiệp để đánh giá tình hình đổi mới
phương pháp, vận dụng phương pháp mới trong giảng dạy kiểu bài thuyết minh.
3. Kế hoạch nghiên cứu: Đã nghiên cứu và vận dụng giảng dạy trong các năm
học.
Trang 3
4. PHẦN B - NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Vai trò của văn bản thuyết minh trong đời sống
Văn bản thuyết minh là loại văn bản thông dụng, có phạm vi sử dụng
phổ biến trong đời sống. Từ lâu nhiều nước trên thế giới đã đưa vào chương
trình học cho học sinh. Tuy nhiên trong chương trình Ngữ văn THCS, văn
thuyết minh còn hạn chế so với các kiểu văn bản khác.
Văn bản thuyết minh là văn bản trình bày tính chất, cấu tạo, cách dùng, lí
do phát minh, quy luật phát triển, biến hoá của sự vật, nhằm cung cấp tri thức,
hướng dẫn cách sử dụng cho con người.Văn bản thuyết minh được sử dụng
rộng rãi, phổ biến. Mua một thứ đồ dùng sinh hoạt (Ti vi, máy bơm, quạt
điện, xe máy…) đều phải kèm theo những thuyết minh về tính năng, cấu tạo,
cách sử dụng, bảo quản để nắm vững; mua một loại thực phẩm ( hộp bánh,
chai rượu…) trên đó cũng có ghi xuất xứ, thành phần, ngày sản xuất, hạn sử
dụng, trọng lượng…Ra ngoài phố gặp có thể gặp ngay các biển quảng cáo
giới thiệu sản phẩm ; cầm quyển sách bìa sau có thể có lời giới thiệu tác giả,
tóm tắt nội dung ; trước một danh lam thắng cảnh có bảng ghi lời giới thiệu,
lai lịch, sơ đồ thắng cảnh…Trong sách giáo khoa, có bài trình bày một sự
kiện lịch sử, tiểu sử một nhà văn, tác phẩm được trích, một thí nghiệm…Tất
cả đều dùng văn bản thuyết minh. Loại văn bản này được ứng dụng nhiều
trong văn bản giáo khoa, khoa học, nhật dụng. Như vậy, hai chữ “thuyết
minh” ở đây đã bao hàm cả ý giải thích, trình bày, giới thiệu. Khác với các
loại văn bản tự sự, biểu cảm, miêu tả, nghị luận, điều hành, văn bản thuyết
minh chủ yếu trình bày tri thức một cách khách quan, khoa học về đối
tượng nhằm cung cấp những tri thức xác thực, hữu ích về đặc trưng, tính
chất của sự vật, hiện tượng và sử dụng chúng vào mục đích có lợi.
Trang 4
5. Tóm lại, dù ngắn hay dài, dù đơn giản hay phức tạp, văn bản thuyết minh
đều đóng vai trò cung cấp thông tin để giúp người đọc, người nghe hiểu đối
tượng, sự việc. Đưa văn bản thuyết minh vào nhà trường là cung cấp cho học
sinh một kiểu văn bản thông dụng, rèn luyện kĩ năng trình bày các tri thức, nâng
cao năng lực tư duy và biểu đạt cho học sinh , giúp các em làm quen với lối làm
văn có tính khoa học, chính xác.
2. Những điểm của đặc văn bản thuyết minh
2.1. Văn bản thuyết minh có tính tri thức, khách quan
Văn bản thuyết minh không sử dụng khả năng quan sát và trí tưởng
tượng phong phú để tạo dựng hình ảnh, diễn biến, cốt truyện như trong văn bản
tự sự, đồng thời cũng không phụ thuộc vào cảm xúc như văn biểu cảm, không
bày tỏ ý định, nguyện vọng hay thông báo tin tức như trong văn bản hành chính.
Với mục đích cung cấp tri thức và nâng cao hiểu biết cho con người, văn bản
thuyết minh sử dụng lối tư duy khoa học, đòi hỏi sự chính xác, rạch ròi. Muốn
làm văn bản thuyết minh thì phải tiến hành quan sát, tìm hiểu, điều tra, nghiên
cứu, tích luỹ kiến thức. Không có sự hiểu biết để có lượng tri thức thì khó có thể
trình bày, giải thích được một cách sâu sắc, chặt chẽ, chính xác, rạch ròi đặc
trưng, tính chất của sự vật hiện tượng.
Mặt khác, dù có sử dụng thao tác giải thích nhưng nó không phụ thuộc
phương thức nghị luận, bởi hình thức giải thích ở đây không phải là dùng lí lẽ và
dẫn chứng làm sáng tỏ vấn đề hay bày tỏ một quan niệm nào đó. Nói cách khác
người làm văn thuyết minh không cần bộc lộ những nhận xét, đánh giá chủ quan
của mình trong quá trình cung cấp tri thức, cũng không tự hư cấu, bịa đặt, tưởng
tượng…Tất cả những gì được giới thiệu, trình bày đều phải phù hợp với quy luật
khách quan, đúng như đặc trưng bản chất của nó ; tức là đúng như hiện trạng vốn
có, đúng như trình tự đã hoặc đang diễn ra…Tóm lại, người viết văn thuyết minh
Trang 5
6. phải tôn trọng sự thật, không vì lòng yêu ghét mà thuyết minh sai sự thật, không
dùng cảm quan cá nhân để thay đổi thông tin về đối tượng được thuyết minh.
2.2. Văn bản thuyết minh có tính thực dụng
Văn bản thuyết minh được sử dụng rộng rãi trong đời sống, không lĩnh
vực nào trong đời sống lại không cần đến kiểu văn bản này. Với mục đích cung
cấp tri thức, hướng dẫn con người tiếp cận và nắm bắt sự vật, hiện tượng, văn bản
thuyết minh ngày càng trở nên phổ biến. Người hướng dẫn du lịch dùng văn bản
thuyết minh để giới thiệu danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử. Nhà sản xuất dùng
văn bản thuyết minh để giới thiệu quảng cáo về xuất xứ, thành phần, cấu tạo, tính
năng, cách bảo quản sử dụng sản phẩm…Như vậy, văn bản thuyết minh có khả
năng cung cấp tri thức xác thực cho con người giúp con người có hành động, thái
độ, cách sử dụng, bảo quản đúng đắn với sự vật, hiện tượng xung quanh mình.
2.3. Ngôn ngữ và cách diễn đạt trong văn bản thuyết minh
Văn bản thuyết minh phải có cách trình bày rõ ràng, ngôn ngữ chính
xác, cô đọng. Ở loại văn bản này không chú trọng sử dụng ngôn ngữ giàu hình
ảnh, giàu sức gợi như trong miêu tả hay biểu cảm. Văn bản thuyết minh thuộc
lĩnh vực nào, liên quan đến ngành nghề nào thì phải sử dụng những thuật ngữ,
khái niệm có tính chất chuyên ngành của lĩnh vực, ngành nghề đó. Các thông tin
trong văn bản thuyết minh ngắn gọn, hàm súc, các số liệu được nêu phải chính
xác. Ví dụ : “ Lá cây có màu xanh lục vì các tế bào của lá chứa nhiều lạp lục.
Một milimet lá chứa bốn mươi vạn lạp lục. Trong các lạp lục này có chứa một
chất gọi là diệp lục, tức là chất xanh của lá”.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
- Đây là một kiểu văn bản mới, lần đầu tiên được đưa vào chương trình Tập
làm văn THCS, cũng là kiểu bài lạ đối với học sinh lớp 8 nên việc học có phần
lúng túng.
Trang 6
7. - Các bài văn thuyết minh trong chương trình Ngữ văn 8 ít có yếu tố nghệ
thuật nên bài dạy dễ rơi vào tình trạng rời rạc, ít hấp dẫn.
- Muốn sản sinh văn bản thuyết minh đòi hỏi học sinh cần nhiều kiến thức
thực tế, chính xác, khoa học. Thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh có phần lúng
túng trong vấn đề này.
Vậy, làm thế nào để giảng dạy kiểu bài thuyết minh có hiệu quả nhất ?
Đây là vấn đề tôi luôn băn khoăn. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với
hy vọng được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp.
III. GIẢI PHÁP:
Nhìn khái quát có thể nói việc dạy học làm văn bao gồm hai việc chính :
dạy lí thuyết và dạy thực hành. Khi giảng dạy, giáo viên có thể áp dụng nhiều
phương pháp khác nhau. Song phương pháp phân tích mẫu, luyện tập theo
mẫu ; phương pháp dạy thực hành ; phương pháp giao tiếp có thể xem là
phương pháp cơ bản, phổ biến trong khoa học – kĩ thuật dạy học hiện đại.
Để áp dụng các phương pháp trên vào giảng dạy kiểu bài thuyết minh có
hiệu quả, người giáo viên cần có sự đầu tư thời gian, đào sâu suy nghĩ, tìm
tòi, sáng tạo nhằm giúp các em học sinh nắm vững bản chất của kiểu bài với
những đặc trưng mang tính khu biệt với kiểu bài khác trong chương trình,
đồng thời có những kỹ năng cơ bản để có thể tạo lập được những văn bản
thuyết minh đơn giản, gần gũi.
Sau đây tôi xin trình bày 3 phương pháp cơ bản trên mà tôi đã áp dụng
trong quá trình giảng dạy.
1. Vận dụng phương pháp phân tích mẫu trong giảng dạy kiến thức lí thuyết
kiểu bài thuyết minh .
Có thể nói phương thức đi từ mẫu chuẩn là một phương thức phổ biến
trong khoa học kĩ thuật ngày nay. Phân tích mẫu để hình thành tri thức là con
Trang 7
8. đường quy nạp giúp học sinh nắm kiến thức lí thuyết. Đây là một phương pháp
quen thuộc, không mới trong giáo dục và khoa học. Cái mới chính là ở chỗ nhấn
mạnh đến việc chỉ cho học sinh cách rút ra những kết luận cần thiết từ việc phân
tích các mẫu rồi căn cứ trên các mẫu đã có để học sinh có thể học và sáng tạo
một cách chủ động tích cực.
1.1. Khi vận dụng phương pháp phân tích mẫu cần chú ý lựa chọn, trình
bày ngữ liệu, từ đó giúp học sinh quan sát, phân tích để tìm ra kết luận về
đặc trưng cơ bản của kiểu bài.
* Ví dụ : Dạy tiết “ Tìm hiểu chung về văn bản thuyết minh” ( Sách
giáo khoa Ngữ văn 8 tập 1 ), giáo viên sử dụng các mẫu trong sách giáo khoa
là các văn bản “ Cây dừa Bình Định”, “ Tại sao lá cây có màu xanh lục”, “
Huế”. Cho các em đọc từng văn bản và phân tích các mẫu bằng câu hỏi :
( ? ) : Mỗi văn bản trình bày, giới thiệu, giải thích vấn đề gì ? Em thường
gặp các loại văn bản như trên ở đâu ? Kể thêm một số văn bản cùng loại mà em
biết ?
Trả lời câu hỏi này là các em đã bước đầu tìm ra đặc điểm nội dung và hình
thức biểu hiện của văn bản thuyết minh :
-Văn bản 1 “ Cây dừa Bình Định” : Trình bày lợi ích của cây dừa, lợi ích
này gắn với đặc điểm của cây dừa mà các loài cây khác không có và gắn với đời
sống của người dân Bình Định.
-Văn bản 2 “ Tại sao lá cây có màu xanh lục” : Giải thích về tác dụng của
chất diệp lục làm cho người ta thấy lá cây có màu xanh.
-Văn bản 3 “ Huế” : Giới thiệu Huế như một trung tâm văn hoá nghệ thuật
lớn của Việt Nam với những đặc điểm tiêu biểu và riêng biệt.
Các loại văn bản này rất phổ biến trong đời sống nhất là trong lĩnh vực giáo
khoa, khoa học, nhật dụng.
Trang 8
9. Để học sinh hiểu đúng tính chất, đặc điểm của văn bản thuyết minh, giáo
viên tiếp tục hướng dẫn học sinh phân tích mẫu bằng câu hỏi thảo luận nhóm :
( ? ) : Các văn bản trên có thể xem là văn bản tự sự hoặc miêu tả, biểu cảm,
nghị luận, điều hành được không ? Vì sao ?
Trả lời câu hỏi này sẽ giúp cho học sinh phân biệt văn bản thuyết minh với
các kiểu văn bản khác trong chương trình.
Yêu cầu :
- Nhớ, nêu lại những đặc điểm của các loại văn bản tự sự, biểu cảm, nghị luận,
miêu tả.
- Đối chiếu đặc điểm các văn bản mẫu với những đặc điểm đó xem tương đồng
hay khác biệt ( về cơ bản ).
Sau khi thảo luận, giáo viên cần giúp các em rút ra những kết luận về sự
khác biệt của những văn bản mẫu với các loại văn bản khác. Cụ thể :
- Các văn bản trên không nhằm mục đích trình bày diễn biến sự việc xoay quanh
các nhân vật từ đó thể hiện một ý nghĩa nào đó như trong văn bản tự sự.
- Nếu văn bản miêu tả nhằm tái hiện chi tiết, cụ thể về đối tượng giúp người đọc,
người nghe cảm tháy hình ảnh, chân dung về đối tượng thì các văn bản trên chủ
yếu làm cho người ta hiểu về đối tượng.
- Nếu văn bản nghị luận trình bày ý kiến, luận điểm ( trình bày cách hiểu thể hiện
quan điểm tư tưởng của cá nhân về vấn đề theo suy luận chủ quan ) thì các văn
bản mẫu không nhằm mục đích trên mà cung cấp những hiểu biết về đối tượng
dựa trên những tri thức và dữ liệu khách quan, khoa học.
- Khi trình bày tri thức về đối tượng đối với các văn bản trên không phụ thuộc
vào cảm xúc chủ quan của cá nhân như trong văn bản biểu cảm, mà đúng như đặc
trưng bản chất của nó ( tức là đúng sự thật ). Và cũng không nhằm bày tỏ ý định,
nguyện vọng, hay thông báo tin tức như trong văn bản điều hành….
Trang 9
4131578
10. Từ những lí do trên có thể khẳng định đây là kiểu văn bản khác mà các văn
bản tự sự, miêu tả, nghị luận, biểu cảm không thay thế được.
Thấy được sự khác biệt trên, giáo viên hướng dẫn tìm ra đặc trưng khu biệt
của các văn bản trên với các văn bản khác bằng câu hỏi :
( ? ) : Các văn bản trên có những đặc điểm chung nào làm chúng trở thành
một kiểu riêng ( thuyết minh ) ?
Các văn bản trên cung cấp tri thức khách quan về sự vật, giúp con
người có được hiểu biết về sự vật một cách đúng đắn đầy đủ.
Giáo viên cần nhấn mạnh :
- Đã là tri thức thì không thể hư cấu, bịa đặt hay tưởng tượng, suy luận.
- Nói là tri thức khách quan nghĩa là thực dụng, cung cấp kiến thức khách quan là
chính, không đòi hỏi bắt buộc phải làm cho người đọc thưởng thức cái hay, cái
đẹp như tác phẩm văn học. Tuy nhiên, nếu viết có cảm xúc, biết gây hứng thú
cho người đọc thì vẫn tốt.
Để tiếp tục tìm hiểu đặc điểm, tính chất của kiểu bài thuyết minh, giáo viên
cho học sinh phân tích mẫu bằng câu hỏi :
( ? ) : Các văn bản trên chủ yếu thuyết minh về đối tượng bằng những
phương thức nào ? Ngôn ngữ, cách diễn đạt của cả 3 văn bản có những đặc điểm
gì ?
Phương thức thuyết minh : Giới thiệu, trình bày, giải thích cần lưu ý
cho học sinh về bản chất của hai chữ “ giải thích” trong văn bản thuyết
minh. Giải thích trong nội dung đã học là một thao tác trong văn nghị luận,
thực chất là trình bày cách hiểu của cá nhân về một vấn đề nghị luận. Cách
giải thích trong văn nghị luận có thể theo suy luận chủ quan nhằm phát biểu
quan điểm. Còn “giải thích” trong thuyết minh là trình bày lai lịch, cấu tạo,
hoạt động hay tác dụng để người đọc, người nghe có được hiểu biết về sự
vật, hiện tượng một cách đúng đắn và biết cách sử dụng chúng vào mục đích
Trang 10
- Tải bản FULL (FILE WORD 24 trang): https://bit.ly/3iPxWf5
- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc
11. có lợi. Như vậy, thuyết minh là một kiểu văn bản còn giải thích trong văn
nghị luận chỉ là một phép lập luận.
Ngôn ngữ trong văn bản thuyết minh ( thể hiện ở 3 văn bản mẫu ) :
chính xác, gãy gọn, mạch lạc.
Từ những phân tích trên, giáo viên hướng dẫn cho học sinh rút ra
những kết luận chung trong nội dung phần ghi nhớ ( sách giáo khoa Ngữ văn 8
tập 1 / 117 ) và vận dụng vào làm các bài tập phần luyện tập.
1.2. Bên cạnh những kiến thức mang tính lý thuyết cơ bản về kiểu văn bản,
chương trình còn bố trí một số tiết cung cấp cho học sinh những hiểu biết về
một số dạng bài thuyết minh cơ bản. Như : Thuyết minh về một thứ đồ
dùng; Thuyết minh về một thể loại văn học, Thuyết minh về một phương
pháp ( cách làm ); Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh.
Các mẫu được chọn là văn bản : “Chiếc xe đạp”, “ Vào nhà ngục Quảng
Đông cảm tác”, “Đập đá ở Côn Lôn”, “ Cách làm đồ chơi em bé đá bóng
bằng quả khô”, “ Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn”.
Qua tiết học “ Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh”, giáo
viên đã giúp học sinh rút ra bố cục chung của một bài văn thuyết minh là :
- Mở bài : Giới thiệu về đối tượng thuyết minh.
- Thân bài : Trình bày, giới thiệu về đối tượng thuyết minh.
- Kết bài : Bày tỏ thái độ với đối tượng thuyết minh.
Đến đây, giáo viên cần tiến hành cho học sinh quan sát văn bản mẫu, tìm ra
đặc điểm và cách làm của từng dạng bài cụ thể.
a. Dạng bài : Thuyết minh về một thứ đồ dùng.
Cần quan sát, tìm hiểu kĩ cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng, tác dụng của
đồ dùng đó. Bố cục chung của dạng bài này là :
- Mở bài : Giới thiệu đồ dùng.
Trang 11
- Tải bản FULL (FILE WORD 24 trang): https://bit.ly/3iPxWf5
- Dự phòng: https://bit.ly/3l68gwc
12. - Thân bài : Trình bày đặc điểm cấu tạo, cơ chế hoạt động, tính năng, tác
dụng, cách sử dụng, bảo quản đồ dùng.
- Kết bài : ích lợi của đồ dùng trong cuộc sống.
Phương pháp chủ yếu : Định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, sử dụng số
liệu.
b. Dạng bài : Thuyết minh về một thể loại văn học.
Cần quan sát, nhận xét, sau đó khái quát thành những đặc điểm ( tiêu biểu
và quan trọng ). Bố cục chung của bài văn này là :
- Mở bài : Giới thiệu khái quát về thể loại.
- Thân bài :
+ Trình bày những đặc điểm hình thức của thể loại ( Thơ : thể thơ, vần,
nhịp, thanh điệu, cấu trúc…Truyện : thể loại, dung lượng, cốt truyện, tình huống,
nhân vât…Tác phẩm chính luận : bố cục, luận điểm, phương pháp lập luận…)
+ Tác dụng của thể loại trong việc thể hiện chủ đề.
-Kết bài : Vai trò của thể loại trong nền văn học.
Giáo viên lưu ý mở rộng cho học sinh, dạng bài này có thể gồm cả thuyết
minh về một tác giả, một tác phẩm.
Phương pháp chủ yếu : định nghĩa, giải thích, nêu ví dụ, phân tích.
c. Dạng bài: Thuyết minh về một phương pháp ( cách làm ) :
Đối tượng thuyết minh của dạng bài này không phải là sự vật, hiện tượng
mà là quá trình hoạt động đề làm ra một sản phẩm hoặc đạt một kết quả nào đó
nên bố cục bài viết khá linh hoạt. Song bài cũng cần theo một trình tự :
- Mở bài : Giới thiệu sản phẩm.
- Thân bài : Giới thiệu lần lượt :
+ Điều kiện ( nguyên vật liệu, dụng cụ ),
Trang 12
4131578