SlideShare a Scribd company logo
1 of 40
Bµi tiÓu luËn


                Trường Đại học Văn hoá Hà Nội
                    Khoa Văn hoá dân tộc




          LỄ HỘI ĐỀN HẢ
                  (Trích Tiểu luận tốt nghiệp)




                                                     Sinh viên: Bùi Thị Hoa
                                   Giáo viên hướng dẫn: TS. Phạm Việt Long




Bïi ThÞ Hoa                    1                    Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn


                             CHƯƠNG 1.
                     MÔI TRUỜNG HÌNH THÀNH
            VÀ NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ

      1.1. Môi trường hình thành lễ hội

      1.1.2. Môi trường tự nhiên

      Xã Hồng Giang nằm trong toạ độ địa lí từ 21 o đến 21o27’ Bắc và
105o53’ đến 106 o11’ kinh độ Đông. Vị trí của xã cách trung tâm thành
phố Bắc Giang 42 km đến 50 km với đường cách ranh giới như sau: phía
Đông giáp xã Giáp Sơn, nơi cư trú tập trung của đồng bào Tày- Nùng,
phía Tây giáp xã Thanh Hải, phía Bắc giáp xã Biên Sơn, phía Nam giáp
xã Nghĩa Hồ và Tân Lập. Những xã trên là nơi cư trú của cộng đồng các
dân tộc thiểu số gồm đồng bào: Tày, Nùng, Hoa, Sán Dìu, Dao cùng cư
trú xen kẽ với người Kinh tạo ra một cộng đồng văn hoá rất đặc sắc, đặc
biệt là về lễ hôi.

      Địa hình của xã là vùng trung du. Đây là dải đường cong phân giới
của các chân núi vùng cao xuống với độ cao từ 30 m đến 50 m, thỉnh
thoảng có ngọn cao trên 100 m như núi Trống, núi Chiêng - nơi gắn với
chiến tích của tướng Thân Cảnh Phúc. Địa hình đồi thấp như vậy đã tạo
ra những cánh đồng nhỏ, dân cư tập trung từ lâu đời, là cơ sở để hình
thành những lễ hội cộng đồng với qui mô làng, xã.

      Do vị trí địa lí và địa hình qui định mà khí hậu của xã mang đặc
điểm nhiệt đới nóng ẩm và tính chất Á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình
hàng năm là 23 o C, lượng mưa khá phong phú từ 1500-> 1700 mm một
năm đáp ứng nhu cầu trồng trọt nhiều vụ trong năm. Do địa hinhg chi
phối, những đợt gió mùa từ phía Bắc theo dọc những cánh cung tràn
xuống làm nhiệt độ giảm xuống khá thấp tháng 12 và tháng 1, đồng thời


Bïi ThÞ Hoa                        2                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

do nằm sâu trong đất liền nên những cơn bão và áp thấp từ biển chuyển
vào đã bị rừng núi che chắn bớt, ít gây tác hại.

      Điều kiện khí hậu như trên rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp
trông cây ăn quả, đồng thời cũng tạo ta thời vụ và những tháng nông
nhàn là điều kiện lí tưởng để đồng bào tổ chức vui chơi, hội hè.

      Nguồn nước cung cấp cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hoá
có đóng góp quan trọng của sông Lục Nam (Minh Đức Giang). Đây là
một trong những con sông đẹp nhất của đất nước, nguồn sông ở miền núi
Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn chảy qua địa phận các huyện: Sơn Động, Lục
Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng rồi đổ vào sông Thương ở phía trên Phả Lại.
Lòng sông Lục Nam khá sâu, tàu thuỷ nhỏ có thể qua lại từ hạ lưu đến
Chũ (Lục Ngạn) mùa mưa, nước lũ đổ về lưu tốc khá mạnh đến Yên
Dũng thì lại êm ả xuôi về Đông Nam. Có thể nói dòng sông Lục Nam là
sợi dây nối văn hoá suốt từ Lạng Sơn xuống các huyện của Bắc Giang
mà xã Hồng Giang là một điểm nối. Dòng sông vừa tạo ra sự giao thoa
văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang với xung quanh, vừa lầ
nhân chứng lịch sử ghi lại chiến công của cha ông xưa, bằng chứng là
dọc theo sông Lục Nam có tới 73 ngôi đền thờ tướng quân Vũ Thành
(Thân Cảnh Phúc) mà xã Hồng Giang là điển hình.

      Ngoài ra xã còn có hệ động thực vật khá phong phú, đặc biệt là vải
thiều rất thích hợp với điều kiện tự nhiên ở đây. Vải thiều đã trở thành
một nét văn hoá đặc trưng của đồng bào trong xã.

      Nằm trên quốc lộ 31 và tỉnh lộ 290, 279 ngày nay, xã Hồng Giang là
điểm nối với huyện Sơn Đông, tiếp giáp với Lạng Sơn, nơi trấn thủ giặc
phương Bắc của cha ông ta. Trong lịch sử, nhân dân Hồng Giang đã cùng
nhân dân cả nước kiên cường chặn giặc, đánh phá đường tiến của giặc
phương Bắc xuống Thăng Long và đã ghi biết bao chiến công hiển hách.



Bïi ThÞ Hoa                          3                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

Những chiến công trong lịch sử chống giặc ngoại xâm là tiền đề chủ yếu của
hệ thống lễ hội ở Hồng Giang và các xã trong huyện Lục Ngạn.

      Những đặc điểm tự nhiên như trên đã tạo cho xã Hồng Giang
những điều kiện nhất định hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp.
Truyền thống cố kết cộng đồng các dân tộc trong xã cũng như hình thành
những dịp lễ, lễ hội qui tụ cộng đồng với qui mô khá tập trung thống nhất
trong phạm vi làng xã, thậm chí là cả vùng. Lễ hội Đền Hả cũng là một
điển hình được hình thành từ những tiền đề trên.

      1.1.2. Môi trường văn hoá xã hội

      1.1.2.1. Thành phần dân tộc

      Chủ nhân của những giá trị văn hoá của xã Hồng Giang là cộng
đồng các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Hoa, Dao. Các dân tộc
trong xã trải qua những chặng đường lịch sử đã cùng nhau xây dựng nên
nền văn hoá đặc sắc mà đến nay vẫn còn nhiều chứng tích, đặc biệt là lễ
hội Đền Hả. Lễ hội Đền Hả là một hiện tượng văn hoá thống nhất trong
sự đa dạng của cộng đồng các dân tộc trong xã Hồng Giang. Tuy thống
nhất nhưng mỗi dân tộc trong xã lại có những bản sắc riêng:

      Dân tộc Kinh (Việt)

      Người Việt có mặt ở đây từ nhiều ngàn năm trước. Họ luôn là trung
tâm đoàn kết các dân tộc, đóng vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh
tế, xã hội, văn hoá ở Hồng Giang. Hiện nay người Việt có dân số chiếm
76,66% trong tổng số 8.998 dân số toàn xã.

      Dân tộc Tày

      Đây là dân tộc có mặt sớm nhất trong các dân tộc thiểu số ở Hồng
Giang, cách đây hàng ngàn năm cùng với người Việt. Trong thành phần
của người Tày hiện nay không ít những người gốc Việt di cư từ miền


Bïi ThÞ Hoa                           4                  Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

xuôi lên với những thời gian và nguyên nhân khác nhau dần dần đã Tày
hoá, nhưng họ vẫn là một dân tộc chứ không phải là một nhóm hỗn hợp.
Nguời Tày ở Hồng Giang cư trú khá phân tán nhưng từ xưa tới nay vẫn
là một dân tộc thống nhất, có một nền văn hoá phong phú và đa dạng,
không phân chia thành từng nhóm.

      Dân tộc Nùng

      Có nguồn gốc từ Trung Quốc di cư đến đây khoảng vài thế kỷ.
Người Nùng có số dân trong xã đông thứ 2 sau người Kinh cư trú xen kẽ
trong từng thôn. ở Hồng Giang. Trong thành phần dân tộc Nùng có cả
một số nhóm người Việt từ miền xuôi lên, lâu nay hoà vào người Nùng
và tự nhận là người Nùng.

      Dân tộc Sán Dìu

      Người Sán Dìu ở Hồng Giang có nguồn gốc từ Trung Quốc. Họ di
cư vào đây khoảng 3, 4 thế kỷ trước. Cư trú ở nơi tiếp giáp giữa trung du
và miền núi giống Sán Dìu trong cả nước. Đồng bào Sán Dìu thường cư
trú thành làng, xóm chỉ khoảng mươi, mười lăm nóc nhà. Lục Ngạn là
nơi tập trung nhiều người Sán Dìu nhất ở Bắc Giang.

      Dân tộc Hoa

      Có nguồn gốc từ Trung Quốc, trong xã không có nhiều người Hoa
cư trú, nhưng số lượng ít biến động, các xã xung quanh lại có nhiều
người Hoa sinh sống. Tuy ít nhưng họ có những nét văn hoá rất đặc sắc
góp phần tạo nên bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở đây.

      Dân tộc Dao

      Chủ yếu là người Dao đỏ, có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang,
và cư trú tại đây vào thời nhà Lê. Họ cư trú phân tán nhưng lại tập trung




Bïi ThÞ Hoa                        5                  Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

thành từng làng bản riêng của người Dao, bảo lưu khá tốt những sinh
hoạt văn hoá đặc trưng của mình.

      Cộng đồng các dân tộc trên đây, qua quá trình lịch sử định cư lâu
đời, đã cùng nhau xây dựng nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú và
đặc sắc ở vùng Hồng Giang.

      1.1.2.2. Về kinh tế

      Đồng bào các dân tộc ở Hồng Giang chủ yếu sống bằng sản xuất
nông nghiệp. Cây trồng chính là lúa nước, ngoài ra có sắn, ngô, đậu. Từ
lâu đời đồng bào đã lưu truyền nghề trồng vải thiều. Vải thiều là đặc sản
của Lục Ngạn cũng như Hồng Giang. Đây cũng trở thành sản phẩm chính
phục vụ cho hoạt động giao thương với các vùng khác tạo điều kiện giao
lưu và phát triển kinh tế, văn hoá. Chăn nuôi chủ yếu là gia súc nhỏ và
gia cầm. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo mùa vụ và phụ thuộc vào
thời tiết nên tạo ra những chu kì nông nhàn là điều kiện để đồng bào tập
trung tổ chức lễ hội, vui chơi, múa hát. Những lễ vật dâng lên thần linh,
tổ tiên cũng từ nền sản xuất nông nghiệp mà ra.

      Là những dân cư nông nghiệp, cộng đồng 6 dân tộc ở xã Hồng
Giang đã xây nên những giá trị văn hoá vật chất rất quan trọng.

      Về nhà ở

       Truyền thống của đồng bào vùng này là ở nhà sàn, nhà đất lợp
ngói ngang (Nùng), nhà trình tường (Sán Dìu, Kinh) nhà dài hình ống lợp
ngói máng, trình tường (Hoa). Nổi trội nhất là các công trình kiến trúc
của người Việt như Đền Hả, chùa và miếu.

      Về trang phục

      Tuy có sự khác nhau nhưng trang phucj của 6 dân tộc ở đây rất gần
gũi về kiểu dáng và màu sắc.


Bïi ThÞ Hoa                        6                  Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Người Tày và người Nùng mặc màu chàm sẫm. Phụ nữ Tày mặc
quần dài, áo dài. Người Sán Dìu đàn ông xưa kia mặc áo dài quá gối, đầu
đội khăn xếp hoặc vấn khăn nhiễu, phụ nữ có áo dài, áo ngắn, váy cộc,
khăn đội đầu, dây lưng và xà cạp; cách ăn mặc của họ khá đặc trưng so
với các dân tộc khác.

      Ẩm thực

      Các món ăn ở đây không cầu kỳ, kiểu cách nhưng lại mang đặc
trưng của đất và người Hồng Giang. Rượu được nấu từ men vải thiều
thơm và say nồng, lợn quay, gà quay, bò quay khau nhụ, xá xíu đặc trưng
của người Hoa…

      Bên cạnh những giá trị văn hoá vật chất thì những giá trị văn hoá
tinh thần cũng đã góp phần quan trọng tạo nên đặc trưng của nền văn hoá
Hồng Giang, là cơ sở hình thành và lưu giữ những lễ hội trong vùng,
trong đó có lễ hội Đền Hả. Qua khảo cứu thì ngôn ngữ của đồng bào ở
Hồng Giang hầu hết đã thống nhất với nhau. Đồng bào dân tộc thiểu số
đều nói được tiếng Việt, mặc dù vẫn sử dụng tiếng nói của dân tộc mình
nhưng chỉ trong phạm vi gia đình. Hầu hết đều dùng chữ Nôm và chữ
Hán để lưu giữ các tài liệu cổ xưa, còn ngày nay đồng bào dùng chữ quốc
ngữ. Những tài liệu có ghi chép về Đền Hả và tướng quân Thân Cảnh
Phúc cũng dùng chữ Hán và sau này là chữ Nôm. Cùng với ngôn ngữ thì
tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào cũng tương đối đa dạng, phản ánh tư
duy và sinh hoạt của đồng bào. Tín ngưỡng đa thần tồn tại trong tất cả
các dân tộc ở đây, biểu hiện là ở các bản làng đều có các đình đền, miếu
thờ nhân thần, thổ thần. Đồng bào ở đây quan niệm vạn vật hữu linh.
Trong tâm thức người dân còn tồn tại nhiều tàn dư của tôn giáo nguyên
thuỷ, nhất là ở nhóm người Dao. Đạo phật và đạo giáo sớm đã có ảnh
hưởng tới nền văn hoá nơi đây, thấm sâu vào lối sống, suy nghĩ, quan



Bïi ThÞ Hoa                        7                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

niệm cũng như các công trình kiến trúc của người dân nơi đây như đền,
chùa, miếu.

     Tín ngưỡng sùng bái con người lan truyền rộng rãi trong cộng
đồng dân cư ở đây, đặc biệt là sùng bái những vị tướng tài giỏi có công
trong chiến tranh đuổi quân xâm lược. Vũ Thành là một vị tướng đời Lý
có công dẹp giặc Tống được nhân dân thờ như một vị thánh, tôn làm
phúc thần của nhân dân, hang năm mở hội để nhớ ơn công lao đánh giặc.
Chính tín ngưỡng sung bái con người này đã trở thành trục xương sống
cốt lõi tạo nên linh hông của lễ hội Đền Hả từ những nghi thức cúng lễ
cho đến các hoạt động hội. Vốn văn hoá cổ truyền phi vật thể được lưu
truyền rất phong phú. Hàng năm đồng bào ở Hồng Giang vẫn tổ chức lễ
hội Đền Hả rất qui mô, thu huts được rất nhiều người dân trong vùng
tham gia cũng như khách tập phương. Bên cạnh hội Đền Hả trong vùng
còn có hội đền Khánh Vân (thờ Vi Hùng Thắng), hội Lồng Tồng của
người Tày… đã tạo nên những giá trị văn hoá và lịch sử có giá trị cao.
Vốn văn hoá văn nghệ cũng rất đa dạng phong phú. Người Việt có các
làn điệu dân ca như quan họ, hát ống, hát đúm, hát trống quân. Người
Nùng có hát sli, hát lượn, hát song hầu, nhì hào từng tốp trai gái trong
dịp hội hè, chợ phiên. Hát then lưu truyền trong dân gian người Tày, hát
soong cô (Sán Dìu), hát soong hao… Những làn điệu dân ca trên được
lưu truyền trong dân gian và thường được hát kèm với nhạc cụ như trống,
thanh la, não bạt, kèn, xập xoè… nhịp vỗ tay. Cùng với dân ca thì kho
tàng truyện cổ, tri thức dân gian được lưu truyền khá nhiều, đó là các
thần tích, truyện nôm khuyết danh của người Tày, Nùng, Viêt,… những
bài thuốc, bài cúng, ca dao, tục ngữ được lưu truyền, … Nhũng điệu múa
của các dân tộc ở đây tương đối đa dạng, mỗi dân tôc lại lưu giữ những
chất liệu diễn xướng riêng của bộ môn nghệ thuật này. Trong truyền
thống cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang sống đoàn kết chan hoà



Bïi ThÞ Hoa                        8                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

tương trợ lẫn nhau, trong đó người Việt là chủ thể, là trung tâm cố kết
cộng đồng. Trong từng dân tộc cũng sống với nhau hoà thuận, gia đình,
làng xóm cộng đồng đàon két tốt đẹp bao đời nay.
     Chính những giá trị văn hoá nói trên đã tạo động lực cho đồng bào
Hồng Giang tiếp nối truyền thống xây dựng tương lai với đời sống ổn
định, giàu bản sắc văn hoá. Nó cũng là cơ sở vững chắc để hình thành,
tồn tại và phát triển của một hiện tượng văn hoá mang qui mô vùng, đó là
lễ hội Đền Hả.
     1.2. Đôi nét về lễ hội Đền Hả
     1.2.1. Tên gọi và nguồn gốc của lễ hội
     Lễ hội Đền Hả hay lễ hội Từ Hả đều là những tên gọi quen thuộc
của người dân Hồng Giang cũng như người dân trong vùng Lục Ngạn từ
lâu đời. Lễ hội Đền Hả được diễn ra tại ngôi đền thờ danh tướng Vũ
Thành có tên là Đền Hả nên người ta gọi là tên lễ hội trùng với tên đền.
Còn cái tên lễ hội Từ Hả thì cũng không có gì khác bởi vì từ chính là
đền, đây chỉ là cách gọi khác nhau bằng âm Hán Việt, do sự ảnh hưởng
của văn hoá Trung Quốc. Nói chung trong dân gian tồn tại hai cách gọi
tên lễ hội là Đền Hả và Từ Hả là hoàn toàn thống nhất với nhau.

     Lễ hội Đền Hả bắt nguồn từ một nhân vật lịch sử cùng với những
chiến công của ông, đó là Vũ Thành.

     Qua khảo sát cho thấy Vũ Thành là con trai một vị tù trưởng xứ
Đông giáp vùng Đông Bắc nước ta. Thời Lý, triều đình muốn kết mối
bang giao đoàn kết với các tù trưởng miền ngược nên thường gả công
chúa cho họ. Thân phụ của Vũ Thành (là Vũ Tỉnh) cũng được vua Lý gả
công chúa cho, sinh ra Vũ Thành, rồi sau đó đổi sang họ Thân, Vũ Thành
được mang tên là Cảnh Phúc. Nhân dân trong vùng vẫn gọi với cái tên
kính trọng là Vũ Thành tướng quân. Ông là một danh tướng đời nhà Lý
có tài thao lược quân sự như một thiên thần xứ Đông Giáp này. Khi xưa


Bïi ThÞ Hoa                        9                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

giặc Tống tràn sang cướp nước ta, cả vùng Đông Giáp ngập bóng quân
thù, nhân dân đau khổ chia li do giặc đốt phá, chém. giết. Cả đất nước
Đại Việt đã vùng lên giết giặc, đoàn kết một lòng, không để lũ cướp
nước tàn phá giang sơn. Vũ Thành là một vị tướng trấn giữ vùng đồi núi
xứ Đông Giáp rộng lớn chủ yếu tấn công giặc bằng lối đánh du kích để
ngăn cản đường tấn công của giặc và quấy phá sau lưng chúng khi chúng
tiến sâu vào đất Việt. Khi quân Tống do Quách Quỳ dẫn đầu tiến sát
Thăng Long đối chọi với quân của Lý Thường Kiệt ở phòng tuyến sông
Như Nguyệt thì Vũ Thành đã tài tình lãnh đạo quân dân các đội dân binh
người Tày, Nùng, Dao, Kinh, Sán Dìu… đánh phá địch ở vùng sau lưng
ngăn cản đưòng tiếp lương thực của chúng. Trước mặt bị đánh, đằng sau
bị đánh làm cho giặc ăn không ngon ngủ không yên. Bằng tài năng quân
sự của mình Vũ Thành đã dựa vào núi rừng, thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh
trận bách chiến bách thắng làm cho tướng giặc kinh hồn mà kêu lên rằng:
“Thân Cảnh Phúc ở Đông Giáp nắm cưòng binh”, còn nhân dân trong
vùng thì tôn ngài là chúa đông Giáp, các cụ còn truyền lại rằng ngài là
thiên xứ Đông Giáp. 1

          Sau này, trong một trận chiến đấu không cân sức, Vũ Thành bị
thương và hi sinh anh dũng, ngài tạ thế tại thôn Kép II, xã Hồng Giang.
Nhân dân thương tiếc lập đền thờ để tỏ long biết ơn công lao đánh giặc
bảo vệ quê hương của ngài.

          Sau này đất nước hoà bình, nhân dân không chỉ thờ phụng mà còn
tổ chức cả lễ hội nhằm tái hiện những công đức của vị tướng Vũ Thành
cũng như những chiến công của ông. Nhân dân thờ Vũ Thành như là vị
thành hoàng làng, vị thánh nhân, phúc thần che chở cho họ. Chính sự
thần thánh hoá con người cùng với những chiến công phi thường của
nhân dân đã tạo nên một nhân thần lịch sử, một lễ hội mang tính lịch sử.

1
    Theo lời kể của ông Giáp Văn Bê 71 tuổi, thôn Kép II xã Hồng Giang


    Bïi ThÞ Hoa                                     10                   Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Như vậy lễ hội đền Từ Hả là một lễ hội dân gian có nguồn gốc lịch
sử và mang bản chất lịch sử rõ ràng. Hiện tượng văn hóa ấy được tạo nên
từ cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang cho tới ngày nay.

      1.2.2 Quá trình phát triển và không gian diễn ra lễ hội

      Lễ hội Đền Hả là một lễ hội cổ, hàng năm người dân lại tụ tập vui
hội ở đền vào dịp mồng 8 tháng Giêng. Trước đây những người dân trong
vùng cứ đến ngày này là đến đền thắp hương, khấn vái, tập trung vui hội,
chơi trò chơi, hát đối đáp, gặp gỡ… Lễ hội này đã hình thành vững chắc
từ con đường dân gian cùng với cả đạo sắc phong của triều đình phong
kiến từ trên xuống. Đến năm 1988 – 1960, trong công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa, do có những nhận thức và hành động cực đoan về chống
phong kiến, chống mê tín dị đoan, nên nhiều tài kiệu ghi chép cổ bị huỷ,
sự tập trung tổ chức lễ hội cũng bị kìm hãm.

      Từ năm 1991 ngôi đền được nhà nước cấp bằmg di tích lịch sử văn
hoá cấp trung ương, được sự quan tâm của chính quyền và các đoàn thể,
lễ hội ngày càng mở rộng về qui mô, thời gian và sự tham gia của quần
chúng nhân dân trong vùng.

      Đến nay lễ hội được tổ chức định kỳ vào ngày 3 ngày 6, 7, 8 tháng
Giêng, ngày hội chính là ngày mồng 8. Người dân chọn ngày mồng 8 là
ngày hội chính không phải là theo ý muốn chủ quan của ai đó đặt ra mà
đồng bào kỉ niệm một trận thắng vang dội, một chiến công hiển hách của
vị tướng Vũ Thành trên vùng đất quê hương mình năm xưa vào ngày 8
tháng Giêng. Khi lễ hội diễn ra cũng là thời gian người dân nghỉ ngơi vui
chơi xuân, là dịp nông nhàn chuẩn bị bước vào vụ sản xuất. Lễ hội diễn
ra vào thời gian này đáp ứng được nhu cầu vui chơi sau bao ngày lao
động vất vả của người dân, làm cân bằng mối quan hệ giữa người và siêu
nhiên, người và thế giới tự nhiên, người và người, là dịp để những giá trị
văn hoá được bộc lộ và thưởng thức.

Bïi ThÞ Hoa                         11                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Lễ hội Đền Hả được tổ chức hàng năm theo thời gian như trên tại
Đền Hả và gò Bãi Bông. Hầu hết các hoạt động nghi lễ được diễn ra tại
đền kết hợp với một trò chơi, diễn xướng; gò Bãi Bông cũng là nơi tổ
chức vui chơi, tụ hội thi đấu… Nơi tụ hội chính vẫn là ngôi đền thờ danh
tướng Vũ Thành vương. Ngôi đền nằm ở đỉnh một gò đồi của thôn Kép
II, đối diện với núi Trống núi Chiêng bên bờ sông Lục Nam gắn liền với
chiến tích của ngài. Truyền thuyết kể rằng năm xưa tướng quân chinh
chiến sau bao trận bách chiến bách thắng, trong một trận không cân sức
tướng quân bị chém trọng thương vào đầu. Ngài cưõi ngựa phi về làng,
về đến gốc đa đầu làng gặp bà hàng nước ngồi đó, ngài hỏi: “ Tướng bị
đánh vỡ đầu thì sống hay chết ?”. Bà hàng nước trả lời rằng: “Tướng vỡ
đầu thì chết chứ sống làm sao”.Ngài cưỡi ngựa đi được một đoạn đến
đỉnh gò cạnh đó thì hoá.

      Nhân dân tiếc thương và ghi nhớ công ơn nên lập đền thờ tại nơi
ngài hoá. Sau này lễ hội đều được tổ chức tại đền. Lễ hội được tổ chức
tại đây mang một ý nghĩa tâm linh rất lớn, lại vừa mang ý nghĩa lịch sử
giáo dục truyền thống cho đồng bào trong vùng. Cách đền không xa lắm
Bãi Bông được làm nơi hội tụ cũng là nơi ghi dấu chiến thắng của ngài,
cho đến nay người dân vẫn làm lễ rước diễn tả lại chiến thắng đó. Ngôi
đền và Bãi Bông đã trở thành không gian thiêng liêng, là địa chỉ in sâu
vào tâm thức đồng bào ở Hồng Giang và quanh vùng.
      1.2.3. Tiến trình của lễ hội
      Để có thể tổ chức thành công lễ hội, nhân dân địa phương phải
chuẩn bị rất chu đáo từ lễ vật cúng cho đến sân khấu, các tiết mục… Tất
cả các tổ chức chính quyền, đoàn thể, quần chúng cùng bắt tay vào chuẩn
bị tổ chức lễ hội từ trước đó nhiều ngày.
      Trong lễ hội người ta phải chuẩn bị và bày cúng những lễ vật gồm:
Bánh dày khổ to, bánh chè lam, hoa quả, oản, bánh, kẹo, rượu, nước


Bïi ThÞ Hoa                          12              Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

mưa, trầu cau, xôi. Tất cả những đồ chay được cúng trong 3 ngày 6, 7 và
8. Sáng ngày mồng 9 thì người ta ngả mặn cúng thịt lợn, gà khao quân
kết thúc lễ hội.
      Lễ hội được diễn ra với những nghi thức tế lễ như lễ dâng thánh, lễ
rước thánh, lễ tắm thánh. Trong địa phương cử ra một ông chủ tế là
người cao tuổi, biết chữ nho, biết viết sớ, am hiểu phong tục tập quán…
cùng đó họ tổ chức một đội tế có đủ đạo cụ, trang phục văn tế phục vụ
các màn tế.
      Lễ dâng, trình diện thành được thực hiện bởi ông chủ tế và đội tế: Ông
Nguyễn Văn Bê làm chủ tế quỳ trước thánh đường, phía sau là 5 ông quỳ lạy
theo, tất cả đều mặc lễ phục. Có 3 nhạc công đánh một chiếc trống nhỏ, một
chiếc xập xoè, một ông chủ nhạc kêu lệnh ông chủ tế lạy theo. Sau 3 hồi
chiêng trống ông chủ tế đọc văn tế và tấu sớ đấu trình trước bài vị tướng
quân, cầu xin những điều tốt lành cho nhân dân, mong được che chở, mọi
người mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt, mưa thuận gió hoà…
      Lễ rước thánh là phần được nhân dân mong chờ nhất và cũng quan
trọng nhất trong lễ hội này. Vào buổi sáng sớm ngày mồng 8, sau khi tất
cả đã được chuẩn bị kĩ lưỡng, ông chủ tế ra lệnh nổi chiêng, trống đúng
giờ qui định. Họ làm lễ xuất kiệu, ngựa, cờ, binh khí… ra khởi đền, diễn
tả lại cảnh ra quân của một đoàn quân xưa kia. Tất cả người dân tập
trung đông đúc ở đền cùng đi theo đám rước. Người ta rước qua đoạn
đường từ đền Hả cho đến Bãi Bông. Trong đoạn đường đầu người ta rước
đi thật lặng lẽ, bí mật. Khi đoàn rước đến chân gò Bãi Bông thì dừng lại,
ông chủ đám rước ra hiệu lệnh chiêng trống nổi lên rầm rầm, cờ tung
bay, người và ngựa chồm lên mãnh liệt, vũ khí tua tủa tiến thẳng về đỉnh
gò. Tất cả mọi người đều cố gắng diễn tả thật hùng tráng cảnh ngài tấn
công quân giặc như vũ bão và giành thắng lợi. Tất cả các bộ kiệu, ngựa,
binh khí được đặt ở đỉnh gò, các đội tế làm các động tác ở phía dưới



Bïi ThÞ Hoa                          13                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

kiệu, múa võ dâng hương... Tại bãi Bông lúc này cũng chính thức diễn ra
các trò chơi dân gian và thể thao, biểu diễn... Kiệu và các đồ rước được
đặt ở đỉnh gò cho đến khi nào gió quay hướng Đông Nam thổi ngược về
đến thì làm lề thu kiệu và binh tướng trở về. Người dân quan niệm rằng
đó là lúc ngài đã chiến thắng giặc trở về, lúc này người ta rước cỗ ngựa
đỏ đi trước, biểu tượng cho chiến thăng của trận đánh.
      Nghi lễ tắm thánh được thực hiện vào buổi tối ngày 8/1 sau khi
ngài đã chiến thắng trở về. Ông chủ tế cùng các vị bô lão làm lễ rước
kiệu, các binh khí đồ rước... xuống hồ sen làm lễ tẩy uế mộc dục, rửa
sạch mọi bụi trần, tanh hôi của chiến tranh. Những đồ đó được rước vào
chùa với ý nghĩa quy y và siêu độ cho tướng sỹ, sau đó lại được rước trở
lại về đền. Ngày 9/1 người ta làm lễ cúng mặn tại đền và liên hoan bữa
cơm cộng cảm, những lễ vật được ban phát một cách bình đẳng.
      Trong suốt 3 ngày 6, 7, 8 tháng Giêng diễn ra các hoạt động vui
chơi giải trí, diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, trò chơi dân gian song song
cùng với các nghi lễ. Những nghi lễ được diễn ra tại đền nhưng dân làng
vẫn vui chơi tại Bãi Bông và ở đền, ngày mồng 8 người ta tụ hội cho đến
tối mới chịu ra về. Lễ hội Đền Hả với quy mô vùng khá lớn, kéo dài
trong 3 ngày, 3 đêm, có tầm ảnh hưởng rộng lớn đối với cộng đồng dân
cư ở Hồng Giang, là một lễ hội lịch sử cần được lưu giữ, phát triển và
quan tâm chặt chẽ hơn.




Bïi ThÞ Hoa                         14                   Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

                       CHƯƠNG 2.
       NHỮNG TRÒ CHƠI VÀ TRÒ DIỄN TRONG HỘI ĐỀN HẢ

      2.1. Một số khái niệm công cụ

      Trong phạm vi đề tài này, để đi sâu tìm hiểu phần hội của lễ hội
Đền Hả, người viết xin đưa ra một số khái niệm công cụ để đề tài được
khai thác sâu hơn, chính xác hơn. Đề tài khai thác sâu ở phần hội nên cần
phải hiểu rõ ràng về khái niệm “lễ”, “khái niệm “hội”, khái niệm “lễ hội”
một cách khoa học. Hiểu rõ khái niệm các yếu tố tạo nên hội trong một lễ
hội như trò chơi dân gian, trò diễn dân gian….
      Lễ là gì? Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ
niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó, là cách cư xử của con người
với thế giới tự nhiên bí ẩn, thế giới siêu nhiên kỳ ảo.
      Có ý kiến khác cho rằng lễ là những nghi thức ảo của con người
nhằm hướng đến một thế giới ngoài hiện thực và mong mỏi nó tác động
trở lại hiện thực theo ý muốn chủ quan của con người.
      Hội là gì? Hội là cuộc vui được tổ chức chung cho một cộng đồng
đông đảo người tham dự theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt. Hội là
đám vui đông người, tức đông người tập trung trong một địa điểm và vui
chơi với nhau.
      Khái niệm hội trong dân tộc học được hiểu là việc tổ chức nhân
dân kỉ niệm một sự kiện quan trọng, nó đem lại lợi ích tinh thần cho mọi
thành viên của cộng đồng, nơi có nhiều trò vui đến mức như hỗn độn, là
nơi cộng cảm, giải toả dồn nén, thăng bằng trở lại cho cộng đồng.
      Lễ hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí công cộng
diễn ra tại một điểm nhất định vào dịp lễ kỉ niệm một sự kiện xã hội hay
tự nhiên nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ hội.




Bïi ThÞ Hoa                          15                   Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

        Lễ hội dân gian là nơi chứa đựng, giải toả những ước muốn tâm
linh của người nông dân, hội làng được lập ra để người dân lập lại một
sự cân bằng trong quan hệ nhiều chiều giữa người với người, người với
vạn vật, người với thần linh, người với vũ trụ. Đọng trong lễ hội dân gian
là niềm tin dân dã được lịch sử hình thành những tín ngưỡng dân gian.
        Quan hệ giữa lễ và hội là mối quan hệ tương hỗ, tồn tại trong sự
thống nhất với nhau không tách rời. Lễ và hội đều là cuộc sống đích thực
của con người được phản ánh qua tâm linh của cộng đồng. Niềm tin tín
ngưỡng chi phối mạnh mẽ phần lễ và các nghi thức tế lễ. Chính tín
ngưỡng lắng đọng trong lễ hội là trục xương sống để qui tụ tất cả mọi
hoạt động hội, trò diễn nghi thức thờ cúng của cả lễ hội.
        Như vậy, dựa vào những khái niệm về lễ hội, có thể thấy rõ rằng:
nội hàm của khái niệm hội chính là đông đảo quần chúng tụ tập lại cùng
vui chơi, biểu diễn hay chia sẻ, cộng cảm với những trò chơi biểu diễn
đó. Làm nên phần hội chính là những trò chơi dân gian và diễn xướng
dân gian.
        Trò chơi dân gian là những trò chơi thu hút từ 2 người trở lên tuân
theo nguyên tắc nhất định và đem lại cảm giác vui vẻ, thoải mái cho
người chơi.
        Diễn xướng là toàn bộ những hành động của con người mà nó tách
khỏi môi trường lí thuyết để hoà hợp với thực tế. Diễn xướng là một mức
độ trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nghệ thuật biểu diễn dân
gian từ diễn xướng sơ khai (rước, hát cuộc) đến trò diễn và sân khấu dân
gian.
        Những trò chơi và diễn xướng được đề cập thông qua khái niệm
trên sẽ chủ yếu là mang tính dân gian, những trò chơi tồn tại từ lâu năm
trong nhân dân và những điệu múa, bài hát, lối hát, lối trình diễn hình
thành và tồn tại ở trong nhân dân.


Bïi ThÞ Hoa                          16                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      2.2. Những trò chơi dân gian trong hội

      Trong hội Đền Hả tập trung một số lượng lớn các trò chơi dân gian
của cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang. Có những trò chơi chỉ chơi ít
người, một nhóm người, có trò chơi thu hút cả cộng đồng đông đảo, họ
chơi một cách say mê tuân theo qui luật đơn giản để thoả mãn nhu cầu
tham gia thể hiện và giải toả những nhọc nhằn bao lâu nay của cuộc
sống. Ở đây có cả những trò chơi của người Việt, Tày, Nùng có trò chơi
vui vẻ, có trò chơi trí tuệ.
      Chọi gà
      Nhân dân ở đây vẫn gọi là trò chơi đá gà. Người ta tổ chức chơi
chọi gà ở sân Bãi Bông sau khi kiệu thánh đã được rước ra. Thành phần
chơi không hề phân biệt, miễn là chủ gà có gà chọi khoẻ, đủ tiêu chuẩn
thi đấu là thoả thuận cho thi đấu. Trò chơi này không có tổ chức giải
thưởng cụ thể như một giải thi đấu mà chủ yếu do các chủ gà thoả thuận
bằng miệng với nhau rồi cho đấu. Để chọn được gà chọi tốt, người ta
phải tìm những giống gà chọi nòi. Họ nuôi và huấn luyện cho con gà rất
công phu, qua thử nghiệm luyện tập, đấu thử nhiều lần mới có thể chọn
được những con gà để sử dụng vào hội thi. Khi vào cuộc thi chọi gà
người ta so các cặp đấu có chiều cao và cân năng tương đồng nhau. Mỗi
hiệp đấu gà gọi là “hồ” diễn ra trong 15 phút, cho nghỉ một lúc lại đấu
tiếp, một số chủ gà có thể cho chọi gà chọi đến cùng, gọi là: “Kỳ tẩu, kỳ
tử” tức là đấu đến khi có con bỏ chạy hoặc gục chết. Trò chơi chọi gà
luôn là niềm thích thú của nhiều người, những hiệp chọi gà thường có rất
đông người vây quanh hò reo cổ vũ, nhất là nam giới. Chọi gà mang một
vẻ đẹp văn hoá của con người nơi đây, thể hiện tinh thần thượng võ vũ
dũng, tín nghĩa truyền tục từ bao đời nay.
      Cờ tướng




Bïi ThÞ Hoa                         17               Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Đây là trò chơi trí tuệ có từ rất lâu đời vẫn được lưu giữ vững bền
cho đến ngày nay trong hội Đền Hả. Cờ này được xem như là một trong
bốn mặt tài năng của người xưa (cầm, kỳ, thi, hoạ). Chơi cờ là một sinh
hoạt truyền thống tồn tại trong lễ hội Đền Hả. Đối tượng tham dự thường
là những người cao tuổi hoặc trung niên có kiến thức chơi cờ rất tốt.
Người ta chơi cờ ở cửa và sân đền thờ trong ngày hội. Bàn cờ kẻ ô chia
làm hai, ở giữa có hàng ngàn cách gọi là “sông”, tất cả có 64 ô cờ. Quân
cờ mỗi bên có 16, gồm 1tướng, 2 sĩ, 2 tượng, 2 xe, 2 pháo, 2 mã, 5 tốt.
Bàn cờ và quân cờ có thể làm bằng sừng, ngà, gồ, giấy... Cờ tướng chơi
theo nguyên tắc: mã lệch, tương điền, xe liền, pháo cách, tốt chưa sang
sông chỉ được đi thẳng, sang sông có thể đi ngang, không được lui, khi
tướng bị chiếu không che chắn được là hết cờ. Ở hội Đền Hả người ta
còn chơi cờ thành 2 loại là cờ người và cờ bỏi.
      Cờ người
       Được chơi trên sân đền. Ở sân cờ các quân cờ do người thật thủ
vai, mỗi bên 16 người chưa lập gia đình (có thể một bên nam, một bên
nữ), tướng ông và tuớng bà có lọng che. Người đánh cờ trong tư thế
trang nghiêm, ăn mặc theo quy định, tay cầm cờ lệnh, trước khi đi quân
nào phải chỉ cờ lệnh vào quân ấy rồi mới phất cờ.
      Cờ bỏi
       Là chơi cờ tướng trên sân rộng có trong các ngày hội ở Hồng
Giang. Các quân cờ thay bằng người thủ vai thật, người ta thay bằng 1
biển gồ hay chất liệu khác. Họ khắc hay viết các quân cờ, buộc hay gắn
vào 1 cán gỗ, tre cắm lên vị trí các quân cờ ở bàn cờ. Ứng với vị trí các
quân cờ người ta khoét lỗ và chôn những ống tre để cắm quân. Trò chơi
nay được chơi ngay trên sân đền thờ và thu hút được rất nhiều người cổ
vũ đấu trí. Trò chơi này thể hiện trí tuệ của nhân dân, là sinh hoạt văn
hoá tao nhã được nhiều người ưa thích.


Bïi ThÞ Hoa                         18               Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Đánh đáo
      Đây là trò chơi dân gian phổ biến không chỉ những ngày thường
mà rất được yêu thích trong ngày hội Đền Hả. Người ta chơi nhiều loại
đáo như: đáo đĩa, đáo cạc, đáo cõng, đáo đá, đáo lỗ, đáo ném, đáo ô....
      Đáo đĩa
      Người ta lấy một cái đĩa đặt vào giữa một chiếc nia (mẹt) để làm
đích. Người chơi đứng ở ngòi vạch chấm cách đích khoảng vài mét tay
cầm “cả cái” (làm bằng đồng tiền xu) ném vào trúng đĩa sao cho cả cái
nằm trọn trong đĩa. Người bày đĩa gọi là “người cái”, người chơi đáo gọi
là “người con” đồng tiền do người con bỏ ra, nếu ném vào đĩa thì con sẽ
được cái thưởng theo thoả thuận trước, nếu con ném vào nia thì cái được
thưởng.
      Đáo cọc
      Trên sân rộng ở Bãi Bông người ta cắm một cái cọc, trên ngọn có
cờ, đáo là những viên đá tròn, người chơi đứng bên kia bãi đất cầm viên
đá ném sao cho nó nằm ngay ở chân cọc càng gần càng tốt. Người chơi
cũng có thể dùng viên đá của mình phá những viên đá của người khác
nằm vào vị trí đoạt giải. Số lượng những viên đá được sử dụng tuỳ từng
ván chơi. Trò chơi đáo này thu hút rất đông nam thanh niên chơi hội vào
tham gia.
      Đáo ô
      Giống như cách chơi của đáo đĩa nhưng người ta thay đĩa và nong
bằng khay gỗ vuông có gờ, mặt khay kẻ các ô vuông bôi 2 mầu khác
nhau và quy định một màu là ô ăn, người chơi đi đồng tiền vào khay nếu
đúng ô ăn thì được ăn theo tỷ lệ đã thoả thuận trước, nếu đi chệch khỏi ô
ăn thì nhà cái sẽ được. Trò chơi này mang tính thưởng phạt rõ ràng, được
thua theo quy định, được nhiều người ưa thích vì tính chất vui vẻ hào
hứng và khéo léo của nó vẫn nhiều hơn tính chất kinh tế, người ta thưởng


Bïi ThÞ Hoa                         19                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

phạt chỉ mang tính chất vui vẻ chứ không to tát hay có thể kinh doanh
được.

        Đánh phết

        Là trò chơi được duy trì khá lâu bền trong dân gian và cả trong hội
Đền Hả trước kia.
        Bãi phết được chơi trên gò bãi Bông, mỗi đầu người ta đào một hố
tròn sâu ngập đầu gối, giữa bãi đào một lỗ để làm vị trí đặt quả phết. Các
đấu thủ cầm một gậy tre dài bằng đòn gánh, gốc đẽo vát thành hình thừa
gọi là cây phết. Quả phết có thể làm bằng gỗ hoặc chất liệu khác to bằng
quả bóng da. Người chơi chia thành 2 phe dùng gậy hay tay hất quả phết
ở vị trí ban đầu rồi dùng gậy phết (đưa sệt hoặc hất bổng) để đánh quả
phết, nếu đưa quả phết vào lỗ của phe mình là thắng cuộc.

        Ném còn

        Đây là trò chơi dân gian lưu truyền chủ yếu ở cộng đồng người
Tày ở Hồng Giang. Qua thời gian nó trở thành trò chơi chung của mọi
người trong hội Đền Hả. Người ta chôn trước cây còn ở Bãi Bông, cây
còn là một cây mai dài, có lá, ngọn, uốn cong thành hình tròn, đường
kính khoảng 40cm, một bên hình tròn phía Đông dán giấy đỏ tượng trưng
mặt trời, một bên phía Tây của hình tròn dán giấy vàng tượng trưng cho
mặt trăng, thân được kết thêm một cành lá đao. Nếu không là một cây
mai thì người ta chôn 1 cây tre cao, trên buộc một vòng tròn có tua màu,
hay vòng tròn được bịt bằng giấy màu được viết chữ Nhật và Nguyệt ở
hai phía. Quả còn được làm bằng vải nhiễu màu đỏ, có đuôi tua màu đỏ
để khi tung và ném đi được đúng hướng. Trong quả còn người ta nhồi
thóc, hạt bông, cát. Bắt đầu chơi ném còn sẽ có ông chủ tế ra tung một
quả còn đầu tiên lên trời rồi tất cả thanh niên lao vào cướp lấy vui vẻ náo
nhiệt. Ai cướp được quả còn sẽ là người ném quả còn đầu tiên mở cuộc



Bïi ThÞ Hoa                          20                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

vui. Người chơi chia thành 2 phe ném sao cho quả còn qua hình tròn trên
ngọn tre là người thắng cuộc. Các quả còn liên tiếp bay lên hạ xuống hai
bên nam nữ, chàng trai ném qua phông còn cho thiếu nữ bắt. Các thiếu
nữ tung còn cho các chàng trai. Ai cũng náo nức thi nhau ném chúng
phông còn. Ai ném chúng phông còn thủng sẽ được thưởng. Quả còn
ném thủng phông còn sẽ được rạch ra lấy hạt bông, hạt thóc trộn với
thúng thóc rang, tung lên đám đông người dự hội, mọi người chen lấn, xô
đẩy, giơ vạt áo hứng lấy cho bằng được vài hạt thóc rang, mong nhận
được nhiều may mắn sức khoẻ dồi dào, cả năm làm ăn phát đạt, cây cối
gia súc sinh sôi, nảy nở, mùa màng tốt hơn. Sau khi tung còn qua vòng
trai gái còn tung còn vào nhau vui chơi.

      Trò đu quay

      Đây là trò chơi được nhiều bạn trẻ yêu thích. Trò chơi này vẫn
được duy trì đều đặn, bền vững mỗi khi hội diễn ra. Để có thể chơi được,
người ta phải dựng lên cây đu rất chắc chắn và công phu. Giàn đu được
làm bằng tre, thiết kế theo kiểu khung xà nhà rất chắc chắn. Bàn đu bằng
cả hai sào tre có thể dao động rất lớn. Trai gái đứng lên bàn đu, thường là
đứng một đôi trai gái với nhau, ở dưới thanh niên nam nữ đẩy bàn đu bay
qua bay lại. Những lúc đu bay dao động với tốc độ cao mọi người ở dưới
lại hò reo, cổ vũ rộn ràng cả một góc hội. Người đứng trên đu thì vừa
bám chắc vừa vui vẻ cười đùa. Nhiều đôi trai gái đu giỏi được mọi
người trầm trồ khen ngợi, còn những đôi khác thì luôn tìm cơ hội để
được thử tài trên đu. Trò chơi này vừa khỏe khoắn vui vẻ lại làm cho các
đôi trai gái gần nhau hơn nên người dự hội hầu hết lúc nào cũng tập
trung đông đúc ở bên giàn đu. Trước kia người ta vừa chơi đu vừa hát
giao duyên, hát song hao với nhau. Trò chơi này có ý nghĩa giải trí, vui
nhộn và mang ý nghĩa phồn thực dân gian. Sức hấp dẫn và khán giả,
người tham dự hầu như không bao giờ suy giảm.


Bïi ThÞ Hoa                         21                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Trò đập niêu

      Người ta treo niêu đất lên một sợi dây ở độ cao 2 – 2,5m, từng
nhóm thanh niêm phải xếp hàng từng người một, buộc khăn sao cho
không thể nhìn thấy bình thường được. Sau khi mắt được che kín bằng
vải, người chơi cầm một thanh kiếm gỗ hoặc gậy gỗ tre tiến về phía trước
từ 1 vạch xuất phát đã quy định. Người chơi, phải ước lượng khoảng
cách từ điểm xuất phát đến chỗ treo niêu để tung ra cú đập chính xác.
Người chơi nếu đập trượt thì sẽ đến lượt người dưới hàng thay thế, nếu
đi đúng quy định và đập vỡ niêu thì sẽ được thưởng. Trò chơi này kích
thích tinh thần thượng võ của thanh niên trong làng bản. Sau này người
ta thay niêu sành bằng củ chuối có khắc thành hình mặt người, rất sinh
động nhưng mở màn trò chơi không thể thiếu chiếc niêu sành. Chơi trò
này vừa vui vẻ lại không tốn kém, thử thách sự khéo léo và độ chính xác
của từng người. Trong mỗi dịp mở hội trò chơi này đều thu hút được rất
nhiều người tham gia cả nam lẫn nữ, cả thanh niên lẫn rung niên, thiếu
nhi, mọi người cũng chơi bình đẳng tuân theo quy định của trò chơi.

      Trò đánh quay

      Đánh quay phổ biến trong tất cả các dân tộc ở Hồng Giang trong
ngày hội cũng như những ngày thường. Vào dịp hội Đền Hả mỗi người
thanh niên, mỗi người chơi quay lại có dịp trổ tài đánh quay và đẽo con
quay giải trước những bạn bè trẩy hội.
      Người ta làm con quay to bằng hoặc nhỏ hơn cổ tay người lớn 1 tí dài
khoảng 15cm, một đầu tiện bằng, đầu kia vót nhọn, người ta thả quay bằng 1
sợi dây mềm, dài hơn sải tay, 1 đầu dây được buộc vào một chiếc gậy to
bằng ngón tay cái dài từ 40 – 50cm, đầu dây kia được cuốn tròn thật đều vào
thân con quay rồi tiến hành thả quay. Khi thả quay một tay cầm vào một gậy
không buộc dây rồi đánh ngang thân người thật mạnh thì quay rơi xuống đất
và sẽ quay tít rất hay. Người Tày ở đây làm quay hơi khác một chút. Họ đẽo

Bïi ThÞ Hoa                         22                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

con quay to bằng cổ tay người lớn, một đầu vót tròn, đầu kia vót nhỏ để dài
khoảng 4 – 7cm tuỳ thuộc vào độ lớn của đầu tròn. Người ta thả quay bằng
sợi dây mềm, dài hơn sải tay, một đầu dây buộc vào ngón tay, đầu kia cuốn
vào đầu nhỏ của con quay giữ chặt đầu buộc vào ngón tay rồi giật thật mạnh,
con quay sẽ rơi xuống đất và quay tít.
      Chơi quay được chia thành phe, mỗi bên một người hoặc mỗi phe
từ 2-10 người. Người ta chơi quay rất đông ở trên sân Bãi Bông. Nếu
chơi kiểu mỗi bên 3 người thì trước tiên có một bên thả, một bên chém
bên thả phải cùng lúc 3 người cùng thả, bên chém cũng cùng lúc 3 người
cùng chém. Bên chém nếu chỉ có một trong 3 người chém trúng con quay
thì đối thủ mà 2 người kia chém trượt thì cả nhóm vẫn thắng và được
chém tiếp. Trường hợp cả ba cùng chém trượt quay của đối phương thì
phải đổi lại thả quay cho đối phương chém. Tuy nhiên cũng có lối chơi
chỉ một người thả quay cho cả nhóm chém theo lần lượt, đến lượt người
nào chém trượt thì người đó phải thảy quay, cách chơi như vậy rất hấp
dẫn có thể thu hút sự tham gia của rất đông nam giới dự hội. Do chơi
đông người nên nhiều khi phải thả quay rất lâu nhưng ai cũng hào hứng
chờ đợi và vui chơi. Mới đầu vào chơi cả 2 bên hoặc chỉ chọn lấy một và
người thả cùng lúc xem con quay của bên nào quay được lâu hơn thì bên
đó được chém. Có trường hợp mọi người dùng một mảnh tre tung lên cao
để rơi xuống đất xem đúng xấp hay ngửa mà bên đó chọn là được chém
hay không được chém con quay của đối phương. Lối chơi thành phe
đông người thường là những người lớn, những người đã lập gia đình.
Cách chơi đông người rất vui vẻ, nhiều khi lôi kéo cả một đám người lớn
tham gia chơi và hò reo cổ vũ làm cho không khí hội vui tươi, náo nhiệt.

      Trò kéo co

      Kéo co là trò chơi dân gian phổ biến trong rất nhiều lễ hội cũng như
các dịp sinh hoạt cộng đồng khác của người dân Bắc Bộ. Trước kia trong hội


Bïi ThÞ Hoa                              23            Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

Đền Hả người ta chơi kéo co rất đậm màu nghi lễ. Các đội chơi phải để dây
kéo nằm dọc theo chiều dài của sông Lục Nam để thi đấu. Trong các lần thi
đấu đội kéo đứng ở phía trên dòng chảy, đứng trên gò Bãi Bông bao giờ
cũng được để là đội thắng trận. Người ta quan niệm rằng có như vậy thì năm
đó thánh Vũ Thành mới phù hộ cho mưa thuận gió hoà không bị thiên tai lụt
lội, người người mạnh khoẻ, cây cối sinh sôi nảy nở. Nếu ngược lại thì năm
đó sẽ bị mất mùa, bệnh tật. Ngày nay thì tính chất tín ngưỡng trong trò chơi
dường như đã phai nhạt, người ta tổ chức thi kéo co từng đội và có vòng, có
giải chung kết hẳn hoi. Đội nào lọt vào chung kết giành giải sẽ được thưởng
một phần thưởng của dân làng.

      2.2.1. Những biến đổi của các trò chơi dân gian trong hội Đền
Hả

      Những trò chơi dân gian được lưu truyền trong nhân dân và được
tụ hội biểu hiện ở hội Đền Hả. Thời gian và sự tác động của đời sống
kinh tế đã làm cho các trò chơi dân gian bị biến đổi đi. Nguyên nhân của
sự biến đổi đó là do kinh tế thị trường phát triển, lợi ích kinh tế xâm
nhập vào mọi hoạt động của con người. Các trò chơi được đưa ra để làm
phương tiện sinh lợi nhuận. Hơn nữa, do hoạt động kinh tế mà con người
luôn bận rộn không có nhiều thời gian để tham gia những trò chơi dân
gian nữa. Yếu tố văn hoá tiên tiến ảnh hưởng làm biến đổi những trò
chơi dân gian và ra đời nhiều trò chơi hiện đại khác. Nhiều trò chơi dân
gian hiện nay ở hội Đền Hả đã bị biến dạng về cách chơi, mục đích chơi,
thành phần tham dự, một số trò đã không còn tồn tại nữa, có trò thì
không duy trì liên tục được nữa. Biểu hiện như trò chọi gà, hầu hết các
cặp chọi gà đều cược nhau một số tiền khá lớn, có khi lên tới vài chục
triệu đồng. Cùng với đó là các khán giả dự hội cũng a dua đặt cược với
hi vọng tìm kiếm may mắn, lợi nhuận.




Bïi ThÞ Hoa                          24                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Trò đánh cờ vẫn duy trì và bảo tồn được giá trị của mình. Tuy thế,
chỉ có những người cao tuổi và trung niên yêu thích, ham mê, còn lớp
thanh niên thì rất nhiều người hờ hững, thậm chí không hiểu biết gì.
      Trò ném còn không còn được tổ chức thường xuyên nữa, năm có,
năm không. Tính chất vui vẻ đã giảm bớt đi mà thay vào đó là thách đố
lấy tiền, đòi hỏi giải thưởng, không còn nhiều người hiểu về ý nghĩa quả
còn, các hình vẽ lối chơi còn.
      Trò đu quay vẫn được duy trì và nhiều người yêu thích nhưng nam
nữ chơi đu quay không còn biết hát đối đáp như ngày xưa.
      Trò đánh đáo đã hoàn toàn trở thành thương mại, người ta đứng ra
làm chủ cái là để thu lợi từ những người chơi, người chơi cũng cố gắng
chơi thật giỏi để thu thật nhiều tiền thưởng.
      Đánh phết, hầu như không còn được tổ chức chơi nữa.
      Trò đánh quay đã có sự đánh cược, nếu thua phải trả tiền người
thắng...
      Những trò chơi dân gian cùng với sự thương mại hoá bị biến đổi đi
thì tính chất dân gian thuần khiết vui tươi trong sáng ngày càng bị mất
đi, người ta chơi không chỉ vì lợi ích tinh thần nữa mà còn vì lợi ích vật
chất, tuy thế sự biến đổi trên là khó tránh khỏi.

      2.3. Diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả

      Hội Đền Hả là nơi trình diễn những tinh hoa văn hoá nghệ thuật
của các dân tộc trong vùng. Người dân nơi đây rất yêu văn nghệ và có
một vốn văn nghệ rất đa dạng phong phú mà không kém phần đặc sắc.
Người dân lưu truyền vốn văn nghệ dân gian luôn có nhu cầu được biểu
hiện và sáng tạo nghệ thuật. Trong hội Đền Hả có khá nhiều diễn xướng
dân gian được cộng đồng các dân tộc ở đây thể hiện như múa sênh tiền,




Bïi ThÞ Hoa                          25               Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

hát soong hao, hát quan họ, rước thánh, múa dân gian, biểu diễn sân khấu
dân gian ngoài trời…

      Múa sênh tiền

      Là điệu múa dân gian mở đầu cho đám rước trong lễ hội Đền Hả.
Tên gọi đầy đủ là múa sênh tiền – mổ lợn. Tham gia múa là một đôi diễn
viên nam, một người ăn mặc sặc sỡ, hai tay gõ sênh tiền nhún nhảy, chân
theo nhịp nhạc bát âm, một thanh niên khác trang phục múa đối xứng tay
gõ mõ gỗ hoà nhịp với động tác nhảy lộn ngược chiều với người múa
sênh tiền. Tuy động tác múa của 2 người đối xứng nhau nhưng phải hoà
hợp trong bước nhảy trong di chuyển đội hình và trong các động tác tay
chân. Người múa sênh tiền động tác uyển chuyển, người múa mõ lộn hai
tay luôn di chuyển vị trí gõ, khi lên đầu khi sau lưng, lúc trái, lúc phải,
khi sấp khi ngửa… Những động tác phải dứt khoát và khớp nhịp. Điệu
múa này mang đậm màu sắc tím ngưỡng được bảo lưu vững chắc mỗi khi
hội diễn ra.

      Rước thánh diễn trận

      Hội rước được thực hiện để miêu tả lại chiến thắng của danh tướng
Vũ Thành khi xưa. Buổi sáng sớm ngày 8 tháng Giêng ông chủ tế ra hiệu
lệnh tất cả chiêng trống, cờ, binh khí chiến đấu, kiệu, ngựa chiến … vốn
đặt thờ trong đền được huy động thành một đám rước. Người ta dùng tới
98 thanh niên và đàn ông khoẻ mạnh vào đám rước. Đội rước mỗi người
một nhiệm vụ, người cầm cờ, người đánh cỗ ngựa gỗ, người khiêng kiệu,
người cầm binh khí đao, kíp... người đánh trống xập xoè theo nhịp. Đội
rước đi thành đội hình nghiêm chỉnh, trang phục rực rỡ, đi trước là cỗ
ngựa trắng (lúc rước đi) rồi đến kiệu, phía sau là cờ và các loại binh khí,
trống nhạc... Ông chủ tế luôn luôn điều chỉnh cho đám rước đi đúng đội
hình. Tất cả dân làng đi sau dự hội rước. Trong đoạn rước đầu tiên đi từ
đền ra tất cả mọi người phải im lặng, đám rước không được phất cờ, nổi

Bïi ThÞ Hoa                         26                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

trống, thể hiện sự nghiêm nghị của một đoàn quân đang hành quân bí mật
tới chiến trường tiêu diệt quân thù. Khi đến gò Bãi Bông tất cả đoàn rước
dừng lại, ông chủ tế ra hiệu lệnh tất cả cờ tung ra, trống chiêng nổi lên
rầm rầm, cỗ ngựa chiến lao vụt lên, kiệu và các binh khí xốc tới ào ạt
như cảnh một đại quân đang dốc sức mạnh vũ bão nghiền nát quân thù.
Đội hình rước tập kết ở gò Bãi Bông, một ông già trong đám rước cầm
cây Thanh long đao múa những đường đao kỳ ảo, tất cả bà con quây tròn
làm khán giả trầm trồ khen ngợi. Trước đám rước ngự ở bệ, nơi không
gian linh thiêng chỉ để dành cho dịp lễ hội, các cụ bô lão đồng loạt múa
dâng hương, trình diễn bằng những động tác nghiêm trang đầy tôn kính.
Đám rước và những người phục vụ lễ rước ở Bãi Bông cùng vui hội cho
đến khi nào nhìn thấy gió Đông Nam thổi về hướng đền thì phải tổ chức
rước thánh về đền. Lúc rước về, đám rước tưng bừng rộn rã, ngựa đỏ đi
trước, lúc này là tướng quân đã chiến thắng giặc trở về. Chiêng, trống
nổi rầm rầm, cờ bay phấp phới rước trở lại đền và tập kết ở sân. Hội rước
thánh này do truyền thuyết về chiến công của Vũ Thành qui định, nó
mang đậm màu lịch sử, là một hình thức diễn xướng dân gian sơ khai có
giá trị văn hoá lâu đời.

      Múa võ dân tộc

      Đây là một màn biểu diễn rất hấp dẫn, được duy trì đều đặn mỗi
dịp hội Đền Hả mở ra. Sau khi rước thánh lên Bãi Bông, mọi hoạt động
vui chơi được chính thức bắt đầu, trong đó có cả múa võ dân tộc. Người
ta lựa chọn một số thanh niên Tày, Nùng hay Kinh có võ nghệ xuất
chúng trong địa phương lên biểu diễn trước quần chúng tại sân bãi.
Những bài biểu diễn là những bài quyền cước đặc sắc của đồng bào các
dân tộc trong địa phương, những bài múa đao, kiếm... rất đặc sắc. Sau
những màn biểu diễn cá nhân là màn đồng diễn của các cụ cao tuổi múa
kiếm. Với những màn biểu diễn võ thuật đầy ấn tượng, múa võ dân tộc


Bïi ThÞ Hoa                        27                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

đã thực sự cổ vũ được tinh thần thượng võ của người dân Hồng Giang,
phát huy tinh thần độc lập tự chủ, truyền thống anh hùng của mình.

      Hát Quan họ

      Người dân đi trẩy hội Đền Hả luôn ấn tượng bởi những lời ca và
điệu nhạc dân ca Quan họ. Hát quan họ không phải là vốn văn nghệ của
người dân Hồng Giang. Hát quan họ trong hội Đền Hả là do những đoàn
quan họ từ các địa phương khác về dự hội, chủ yếu từ Bắc Ninh và các
địa phương ở Bắc Giang. Lễ hội Đền Hả đã thu hút được những đoàn
quan họ về biểu diễn, tụ hội. Đây thực sự là một hiện tượng giao lưu văn
hoá mạnh mẽ giữa các vùng văn hoá với nhau. Rất nhiều bài dân ca quan
họ được trình diễn trong suốt đêm ngày mồng 6, 7, 8, như: vào chùa, mời
trầu, cây trúc xinh.... có cả những ca cảnh như: cánh bèo xinh, rừng cây
xanh mãi, quà ra trận địa....
      Hiện tượng giao lưu văn hoá này tạo ra sự tiếp thu mạnh mẽ văn
hoá các vùng khác làm đa dạng hơn, bổ sung cho văn hoá cộng đồng các
dân tộc ở Hồng Giang.

      Hát soong hao

      Đây là một hình thức hát theo cách Sli, lượn, là dân ca trữ tình
Tày, Nùng. Sli và lượn là hai từ mà người Nùng và Tày dùng để chỉ hầu
hết vốn dân ca trữ tình của mình (do người Tày – Nùng không có từ hát).
Người ta có các điệu lượn, then, lượn nàng ới, luợn cọi... với những nội
dung trữ tình về tình yêu, gọi bạn tình, đối đáp tìm hiểu nhau giữa nam
và nữ.... Người Tày, Nùng đến dự hội Đền Hả không phân biệt tuổi tác,
mặc áo đẹp đi trẩy hội kín hai bên đường từ rẻo cao Lục Ngạn xuống.
Những bộ trang phục màu chàm rải kín 2 bên đường, dọc đường đi dự
hội người ta hát đối đáp với nhau vui vẻ tự nhiên. Ở những quán hàng tại
lễ hội trai ngồi một dãy, gái ngồi một dãy đối diện nhau, vừa ăn vừa



Bïi ThÞ Hoa                        28                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

uống rượu, vừa hát. Cuộc hát soong hao thường bắt đầu từ 9h sáng đến
3h chiều. Nhiều khi vì quá lưu luyến mà trên đường về họ vẫn hát dọc
đường. Sau Tết Nguyên Đán lại là mùa hát soong hao kéo dài cả tháng
trời, lễ hội Đền Hả vào đúng mùa hát soong hao nên càng thu hút đông
đảo người về dự hội. Tại hội Đền Hả thanh niên Tày, Nùng với những bộ
quần áo khăn mũ đẹp nhất tụ hội về đây. Họ sôi nổi tham gia các cuộc
vui tung còn và các trò chơi dân gian khác. Nổi bật nhất là họ tụ tập lại
thành từng nhóm nam nữ hát sli, lượn. Như vậy biểu diễn soong hao ở
hội Đền Hả của người Tày, Nùng đã thực sự tạo nên ngày hội văn hoá
dân tộc của họ cùng cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang, chính những
làn điệu dân ca này đã làm cuộc sống miền núi có đầy chất nhạc, thơ;
tinh thần, người miền núi được nuôi dưỡng trong niềm tin yêu phơi phới.
      Biểu diễn văn nghệ trên sân khấu dân gian
      Vào dịp lễ hội, năm nào người ta cũng dựng một sân khấu ngoài
trời tại sân đền. Tại sân khấu này nhân dân biểu diễn văn nghệ vào các
buổi tói chơi hội (tối ngày 6, ngày 7. Trên sân khấu người dân biểu diễn
các điệu múa dân gian của người Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu...)
      Những bài múa ấy các thôn trong xã chọn, tập luyện trên cơ sở đội
văn nghệ thôn bản và biểu diễn tại lễ hội. Những bài múa được dựng
theo chất liệu dân gian của từng dân tộc, nhóm dân tộc, Tày thì dựng
múa Tày, Dao thì dựng múa Dao, Sán Dìu thì múa Sán Dìu...
      Tại sân khấu người dân không chỉ múa mà còn tự dựng những tiểu
phẩm để diễn một cách vui vẻ bình đẳng.
      Có thể nói những diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả là rất đa
dạng, có cả những diễn xướng đậm màu tín ngưỡng, có cả những diễn
xướng đậm tính chất sinh hoạt thường ngày.

      2.3.1. Những biến đổi của diễn xướng dân gian trong hội Đền
Hả


Bïi ThÞ Hoa                        29                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

       Cùng với sự biến đổi của những trò chơi dân gian thì những diễn
xướng dân gian ở lễ hội Đền Hả cũng có sự biến đổi do chịu sự chi phối
của kinh tế xã hội.
       Những diễn xướng dân gian mang đậm màu tín ngưỡng như múa
sênh tiền và rước thánh thì rất ít có sự biến đổi và hầu như được nhân
dân ở Hồng Giang bảo lưu nguyên vẹn do niềm tin và truyền thống vẫn
còn rất mạnh mẽ, sức mạnh văn hoá bản địa rất sâu rộng. Tuy nhiên
những diễn xướng khác lại đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của nền kinh
tế thị trường, các dòng văn hoá ngoại lai và đang có sự biến đổi mạnh mẽ
từ nội dung đến hình thức. Cụ thể như hát soong hao, giờ đây nhiều
thanh niên người Tày, Nùng đã không còn biết hát nữa, những người hát
giỏi soong hao chủ yếu là những người cao tuổi. Người dân đi trẩy hội
hát soong hao ngày một ít đi, người ta còn không dám hát vì sợ sự kỳ thị
của người khác. Nam nữ không còn hát đối đáp ở hội nữa mà chỉ dám hát
dọc đường đi hội, nơi ít có người qua lại. Người ta cũng dần dần quên
lãng những lời, những điệu hát lưu truyền trong dân gian. Sự mai một
của soong hao là một hiện trạng đáng quan tâm, cần phải có biện pháp để
bảo tồn phát huy, góp phần phát huy truyền thống văn hoá dân tộc miền
núi.
       Những điệu múa dân gian của các dân tộc ngày càng bị mai một,
người biết múa ngày một ít đi và người dân không say mê biểu diễn như
trước kia. Trên sân khấu biểu diễn lặp đi lặp lại một số điệu múa của các
dân tộc trong khi vốn của họ có rất nhiều, chưa được khai thác đúng
mức. Cùng với những tiết mục văn nghệ dân gian trên sân khấu hầu hết
đã được biểu diễn những bài hát, điệu múa hiện đại, diễn kịch bằng kịch
bản hiện đại với nội dung về kế hoạch hoá gia đình, phát triển kinh tế
VAC, chống tệ nạn xã hội...




Bïi ThÞ Hoa                        30                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Những biến đổi trên là khó tránh khỏi. Tuy vậy, cần biết lựa chọn
những yếu tố văn hoá tích cực trên cơ sở kế thừa truyền thống để xây
dựng văn hoá Hồng Giang tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

      2.4. Sự xuất hiện những trò chơi, diễn xướng hiện đại và sự
tiếp nhận của công chúng trong lễ hội Đền Hả

      Theo những phân tích ở trên thì sự tác động của nền kinh tế thị
trường cùng với sự giao lưu văn hoá làm xuất hiện những trò chơi mới và
diễn xướng hiện đại, bên cạnh những trò chơi dân gian và diễn xướng
dân gian. Ở một chừng mực nhất định, những trò chơi và diễn xướng
hiện đại ấy có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đến đời sống
nhân dân cũng như nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở Hồng
Giang. Có thể kể một số trò chơi và diễn xướng hiện đaị như: bóng đá,
điện tử xèng, bi a, bi lắc, phi tiêu, ném ống bơ, hát karaokê…

      Điện tử xèng

      Là một trò chơi kinh doanh kiếm tiền của một số chủ kinh doanh
dựa vào kỹ thuật điện tử. Chủ kinh doanh mua những chiếc máy điện tử
đã được lập trình sẵn cách chơi, người chơi muốn tham gia phải có đồng
xu điện tử. Chủ máy bán những đồng xu ấy cho người chơi thu lấy tiền
mặt. Người chơi dùng xèng chơi với máy điện tử nhằm tìm kiếm sự may
mắn, nếu thắng nhiều xèng thì bán lại cho chủ lấy tiền mặt mang về còn
thua thì lợi nhuận thuộc về chủ kinh doanh.
      Những quán điện tử xèng mọc lên rất nhiều ở các hộ xung quanh
đền. Về bản chất nó là một trò chơi kinh doanh vì đồng tiền, trò chơi này
thu hút được số đông nam thanh niên chơi hội vào tham gia, nhiều người
đã có gia đình rồi cũng tham gia chơi. Tham gia trò chơi này tạo cho con
người sự phấn khích hồi hộp, ít nhiều giải toả những lo lắng, căng thẳng
tạo không khí vui tươi trong ngày hội. Tuy nhiên đây là một trò chơi kinh



Bïi ThÞ Hoa                         31                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

doanh mang tính cờ bạc, phuơng hại đến kinh tế của từng cá nhân tham
dự. Những người thua cuộc nhiều gây cảm giác cay cú phục thù, chơi
ham quá thành ra nghiện, coi trò chơi này như một hình thức cờ bạc.
Trong hội vui chơi một cách có văn hoá là điều đáng khuyến khích
nhưng điện tử xèng cần phải có sự quản lý của chính quyền.

      Bóng đá

      Đây là trò chơi tập thể được tiếp thu vào Hồng Giang khá muộn.
Hầu hết nam thanh niên ở đây đều rất thích chơi bóng đá, hâm mộ bóng
đá. Các tầng lớp nhân dân ở đây rất say mê bóng đá, họ muốn được tham
dự, cổ vũ cho những giải bóng đá tại địa phương. Mặc dù tiếp thu muộn
nhưng phong trào bóng đá ở Hồng Giang phát triển rất mạnh mẽ. Bãi
Bông đã được cải tạo thành một sân vận động rất rộng rãi và phẳng tạo
điều kiện lý tưởng cho thanh niên chơi và luyện tập bóng đá. Người dân
chơi bóng đá đúng như cách mà cả thế giới hiện nay chơi trò này. Mỗi
năm đến dịp mở hội là xã Hồng Giang lại mở một giải bóng đá thi đấu
giữa các thôn, giữa các xã hoặc cụm xã với nhau. Các đội đá vòng loại và
trận chung kết sẽ được thi đấu vào chiều mồng 8 tại sân vận động Bãi
Bông. Trò chơi này cùng với giải đấu của nó thu hút hầu hết quần chúng
tham dự cổ vũ nồng nhiệt. Tham dự hội và cổ vũ bóng đá mới biết người
dân ham mê trò chơi này thế nào. Đây là một trò chơi thể thao lành mạnh
trong sáng đem lại lợi ích sức khoẻ cho người luyện tập và mang lại niềm
hứng khởi, vui mừng thích thú cho bao người dự hội. Bóng đá làm hội
Đền Hả thêm sôI nổi, mang thêm một màu sắc mới, màu sắc thể thao.
Những lợi ích to lớn mà trò chơi này mang lại cho từng người chơi cũng
như cổ vũ cho cả lễ hội là rất to lớn, chính quyền, đoàn thể địa phương
cần đẩy mạnh phát triển trò chơi này cũng như các giải đấu bóng đá
trong lễ hội Đền Hả phục vụ nhu cầu tham gia của nhân dân, thúc đẩy
nhân dân luyện tập thể thao rèn luyện sức khoẻ.


Bïi ThÞ Hoa                        32                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

      Trò phi tiêu trúng thưởng
      Trò chơi này cũng mở ra nhằm mục đích kiếm tiền từ các ông bà
chủ kinh doanh. Người ta dùng những phi tiêu và bảng gỗ có ghi các
phần thưởng trên đó. Người chơi sẽ phải dùng tiền mua phi tiêu để phi.
Người ta bán phi tiêu khoảng 1000đ một chiếc tương đương với mỗi lần
phi. Ai phi trúng ô có phần thưởng thì được thưởng chính vật ghi ở ô đó.
Có biển gỗ là vòng tròn phi tính điểm, nếu phi được điểm cao thì được
hưởng. Hầu hết người chơi đều không phi trúng được các phần thưởng
như ý. do trò chơi này đòi hỏi sự khéo léo và mạnh mẽ. Trò chơi này
cũng đem lại những lợi ích tinh thần nhất định, sau những lượt phi làm
cho người ta vui vẻ thích thú. Tuy nhiên, tính chất thương mại của nó
được đặt lên hàng đầu, chơi nhiều thành nghiện và phương hại không
nhỏ đến kinh tế của người chơi. Trò chơi này cũng cần có sự kiểm tra
quản lý của chính quyền.

      Đánh bi a

      Là trò chơi hiện đại du nhập muộn vào Hồng Giang. Chủ bàn mở
trò chơi này để thu tiền lệ phí bàn theo tiếng. Nó thu hút số đông nam
thanh niên tham gia để vui chơi giải trí và đánh thi tài. Trò chơi này
mang tính văn hoá, sự khéo léo và tài năng rất cao. Tuy vậy nó rất dễ
được sử dụng vào mục đích chơi ăn tiền sau mỗi ván thắng thua hoặc
những hình thức khác. Rất nhiều nam thanh niên nghiện trò này và chơi
kiếm tiền. Trò này cần được quản lý tốt của chính quyền.
      Cùng với các trò chơi hiện đại kể ở trên thì một số diễn xướng hiện
đại cũng xuất hiện như hát karaoke.
      Hát karaoke kết hợp với khiêu vũ là một sinh hoạt văn hoá vui tươi
mang tính giải trí cao làm con người tươi trẻ sảng khoái sau những vất vả
của cuộc sống. Trong ngày hội lại là dịp tụ tập vui vẻ với bạn bè, gắn kết
mọi người lại gần nhau, làm cân bằng tâm lý con người. Những ngày lễ

Bïi ThÞ Hoa                           33              Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

hội diễn ra thì bên ngoài đền một số các rạp karaoke mọc lên và hoạt
động rất mạnh, suốt ngày đêm. Cùng với những lợi ích ở trên thì tụ tập
hát karaoke và nhảy suốt đêm sẽ tổn hại sức khoẻ của nam nữ thanh niên
dự hội. Trong lúc vui hát thường say rượu bia dễ gây ra ẩu đả và tệ nạn
xã hội. Trò này được mở ra nhằm mục đích kinh tế, làm ảnh hưởng đến
môi trường âm thanh của người dân vào đêm khuya, ảnh hưởng đến vẻ
linh thiêng của ngôi đền.
      Tóm lại, những trò chơi và diễn xướng hiện đại xuất hiện và tồn tại
trong lễ hội Đền Hả ngày một nhiều hơn. Chúng có cả những giá trị tích
cực và mặt tiêu cực. Bên cạnh việc khai thác những giá trị tích cực, chính
quyền địa phương cần kiểm soát hạn chế mặt tiêu cực.




Bïi ThÞ Hoa                         34                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

                               CHƯƠNG 3
                     NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ

      3.1. Những giá trị văn hoá của các trò chơi, diễn xướng trong lễ
hội Đền Hả

      Các trò chơi và diễn xướng trong lễ hội Đền Hả mang nhiều giá trị,
đặc biệt là những giá trị về văn hoá mà nó đem lại.

      Tính thẩm mỹ

      Những trò chơi và diễn xướng dân gian ngoài mục đích là tạo ra
sân chơi giúp đông đảo nhân dân tham gia vui chơi giải trí, biểu diễn, tạo
cảm giác thoải mái thì bên cạnh đó nó còn mang tính nghệ thuật cao.
      Điển hình như trò chơi đánh quay: Đánh quay là trò được rất nhiều
người yêu thích, nó tạo nên không khí vui tươi cho ngày hội. Để làm nên
một con quay có thể chơi tốt trong hội thì đòi hỏi người tham gia phải
chuẩn bị từ trước và để có một con quay quay tốt buộc người làm quay
phải có kinh nghiệm trong việc làm quay từ các khâu chọn gỗ làm quay,
phải chọn loại gỗ nào để khi đẽo, gọt quay không bị nứt, vỡ. Và quan
trọng nhất là người làm quay phải biết một con quay có kích thước như
thế nào là hợp lí và hình dáng phải đẹp mắt để tạo ra một con quay đạt
yêu cầu. Quay được đẽo gọt công phu rồi người chơi phải biết chọn dây
thả quay làm sao để sợi dây đó vừa mềm, vừa dai lại phải có độ dài, rộng
phù hợp cho quay được thả dễ dàng, thuận lợi. Người chơi quay có vai
trò rất quan trọng, khi thả quay đòi hỏi người chơi phải thật khéo léo lại
phải thật dứt khoát, động tác mạnh mẽ khi thả quay. Để có những màn
trình diễn quay hấp dẫn, thu hút người xem, tạo sự náo nhiệt vui vẻ cho
ngày hội thì việc chuẩn bị cho trò chơi đó phải có sự chuẩn bị chu đáo từ
trước. Quay được làm ra và trổ tài trong hội bởi những đôi tay khéo léo
trước đông đảo quần chúng thì càng làm cho người làm quay có thêm sự


Bïi ThÞ Hoa                         35                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

phần khích, họ sẵn sàng đem sự khéo léo của đôi bàn tay để tạo ra những
con quay vừa tít vừa đẹp góp phần vào không khí vui tươi của lễ hội.
      Diễn xướng dân gian trong lễ hội Đền Hả cũng giống như những
trò chơi nhằm thu hút người dự hội tham gia vui chơi, biểu diễn, tạo sự
thoải mái, vui vẻ khi tham dự lễ hội thì diễn xướng dân gian trong hội
Đền Hả cũng mang trong nó tính nghệ thuật cao.
      Múa là một trong những hình thức diễn xướng dân gian ở hội Đền
Hả. Để có thể tái hiện những sinh hoạt hàng ngày của con người không
qua lời nói mà bằng những động tác của cơ thể nhằm phản ánh một cách
sinh động, hấp dẫn cuộc sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của một
con người thì đòi hỏi người tham gia múa vừa phải thực sự khéo léo,
động tác phải mềm dẻo, uyển chuyển, nhịp nhàng mà lại phải dứt khoát
và khớp nhịp.
      Hầu hết những trò chơi hiện đại thâm nhập vào dịp lễ hội Đền Hả
thiếu tính thẩm mỹ cho nên muốn nâng cao tính thẩm mỹ của lễ hội, Đền
Hả, cần tìm mọi biện pháp để phục hồi, phát triển các trò chơi, diễn
xướng truyền thống.

      Tính cố kết cộng đồng

      Các trò chơi và diễn xướng trong lễ hội bên cạnh tính thẩm mỹ mà
nó đem lại thì nó còn mang tính cố kết cộng đồng cao. Hồng Giang là
một xã có nhiều dân tộc anh em cùng làm ăn, sinh sống ở đây từ lâu đời.
Tuy không cùng dân tộc song họ sống rất chan hoà, đoàn kết, bình đẳng,
không có mâu thuẫn giữa các dân tộc với nhau. Để có được điều này thì
lễ hội là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên tính cố kết
cộng đồng các dân tộc nơi đây. Đến lễ hội ngoài việc cầu khấn ra người
ta còn tham gia vào hội qua các trò chơi, trò diễn. Như vậy có thể thấy
các trò chơi và diễn xướng chính là linh hồn của hội. Các trò chơi và
diễn xướng tại hội là nơi mà đông đảo quần chúng nhân dân cùng nhau tụ

Bïi ThÞ Hoa                        36                Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

tập chơi vui, biểu diễn không phân biệt dân tộc, già trẻ, trai gái... đều có
thể tham gia.
      Trong trò chơi ném còn, trước đây nó vốn là trò chơi của người
Tày ở Hồng Giang nhưng qua thời gian được chơi trong mỗi kỳ hội thì
nó đã trở thành trò chơi chung đối với tất cả những người dự hội. Tham
gia trò chơi này, tất cả mọi người đều có thể chen lấn cố lấy được vài hạt
thóc rang mong có được chút lộc về nhà.
      Đập niêu cũng thu hút được đông đảo mọi người tham dự, không
phân biệt nam, nữ, kể cả trẻ em, người lớn tuổi cũng có thể chơi chỉ cần
tuân theo đúng luật chơi.
      Hát soong hao là một hình thức diễn xướng dân gian của người
Tày, Nùng, tạo nên không khí sôi động cho ngày hội chung của các dân
tộc ở địa phương.
      Trong số những trò chơi hiện đại được du nhập vào hoạt động lễ
hội Đền Hả, bóng đá là loại hình có khả năng cố kết cộng đồng khá cao,
cần được phát huy. Qua việc tổ chức thi đấu, mối quan hệ làng xã được
tăng cường, tinh thần thi đấu lành mạnh khiến cho cuộc sống cộng đồng
càng thêm sôi động và khi cùng theo dõi đường chạy của quả bóng, mọi
người cùng được sống trong bầu không khí vui tươi, đoàn kết. Điều cần
lưu ý là phải cổ vũ cho tinh thần thể thao lành mạnh, tránh tư tưởng ăn
thua, cay cú, dẫn đến sự mất đoàn kết trong cộng đồng.
      Như vậy các trò chơi và diễn xướng trong hội Đền Hả tuy có
những phương thức khác nhau song đều mang những giá trị văn hoá sâu
sắc mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
      3.2. Khuyến nghị giải pháp bảo tồn và quản lý các trò chơi và
diễn xướng trong hội Đền Hả
      Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về phần hội trong lễ hội Từ Hả gồm:
Những trò chơi và diễn xướng dân gian cùng những biến đổi của chúng
qua thời gian, những trò chơi hiện đại, là một sinh viên, tôi nhận thấy các

Bïi ThÞ Hoa                          37                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

cấp, ban ngành và đoàn thể quần chúng cần có những biện pháp thích
hợp nhằm bảo tồn và phát huy những trò chơi, diễn xướng trong hội Đền
Hả.
      Đối với cộng đồng và đoàn thể quần chúng
      Đây là một tập hợp đông đảo quần chúng có vai trò hết sức quan
trọng đến việc bảo tồn và phát huy những trò chơi, diễn xướng. Do đó
cần được tuyên truyền, giáo dục một cách sâu rộng bằng các hình thức
khác nhau. Cần hướng sự hứng thú của quần chúng vào những hoạt động
lành mạnh, có tính thẩm mỹ và tính cố kết cộg đồng cao.
      Ví dụ: Hàng năm nên phát động các cuộc thi tìm hiểu, thi biểu diễn
các làn điệu dân ca của các dân tộc trong vùng. Xây dựng các câu lạc bộ
chuyên đề về bảo tồn văn hoá truyền thống nhằm thu hút tất cả các tầng
lớp nhân dân có thể tham dự. Khuyến khích thế hệ trẻ học hỏi các bậc
cao tuổi về văn hoá truyền thống của dân tộc mình, đồng thời động viên
các nghệ nhân, người cao tuổi có hiểu biết về văn hoá truyền thống, đặc
biệt là những người có hiểu biết sâu sắc về các trò chơi và diễn xướng
dân gian để họ sẵn sàng truyền đạt lại cho thế hệ trẻ.
      Tổ chức các câu lạc bộ thể thao mà trong đó có những môn thể
thao được diễn ra ở hội, đặc biệt là bóng đá, đây là môn thể thao hiện đại
thu hút được nhiều người hưởng ứng. Sự góp mặt của một số môn thể
thao hiện đại trong hội sẽ góp phần làm tăng sự đa dạng trong phần hội,
góp phần làm cho không khí ngày hội thêm sôi động, hấp dẫn.
      Đối với ngành Văn hoá – Thể thao – Du lịch
      Ngành Văn hoá - Thông tin có vai trò quan trọng trong việc bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc, đặc biệt là các trò chơi, diễn
xướng trong hội Đền Hả. Ngành Văn hoá - Thông tin cần điều tra, nghiên
cứu các trò chơi, diễn xướng dân gian và hiện đại để thấy được những
giá trị tích cực. Từ đó sẽ có phương hướng cụ thể trong việc tổ chức và
quản lý các trò chơi, diễn xướng một cách hợp lý nhất. Đồng thời ngành

Bïi ThÞ Hoa                          38                  Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

văn hoá thông tin phải tham mưu cho các cấp Đảng, chính quyền và phối
hợp với địa phương mở các lớp đào tạo nghiệp vụ bảo tồn văn hoá truyền
thống của địa phương.
      Đối với các cấp chính quyền
      Các cấp chính quyền cần có những quyết định hành chính liên
quan đến lễ hội, đặc biệt cần đầu tư mọi mặt để bảo tồn và phát huy các
trò chơi, diễn xướng trong hội.
      Đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương nhằm nâng cao đời sống
cho nhân dân trong vùng. Khi đời sống kinh tế được phát triển thì nhu
cầu đời sống tinh thần của họ càng cao.
      Hàng năm vào ngày hội, các cấp chính quyền nên tổ chức các trò
chơi và diễn xướng với quy mô phù hợp, đồng thời có những phần
thưởng cho nhứng người thạm dự những trò chơI, diễn xướng có tính
thẩm mỹ và tính cố kết cộng đồng cao, nhằm thu hút đông đảo người dân
tham gia. Như vậy, các trò chơi và diễn xướng trong hội sẽ không bị mất
đi mà vẫn được bảo tồn, phát huy có hiệu quả.
      Ngày nay do đời sống kinh tế phát triển, xuất hiên nhiều trò chơi
có hậu quả xấu như: đánh đáo ăn tiền, đánh bạc dưới mọi hình thức, chọi
gà ăn tiền, các cấp chính quyền cần phải có biện pháp loại trừ sự biến
tướng của những trò chơi trên thay vào đó nên khuyến khích các trò thi
tài, giải trí phù hợp và chiếu cố tất cả các giới để ai đến cũng có thể tham
dự một, hai trò nào đó.
      Trong phần nghi lễ: Cần duy trì ở mức độ vừa phải việc dâng
hương, dâng rượu. Chúc văn viết bằng chữ phổ thông mỗi năm cần thay
đổi nội dung cho phù hợp, cập nhật với tình hình làng xóm. Tinh thần hội
nhờ đó sẽ năng động hơn, ý nghĩa hội sẽ thiết thực hơn.




Bïi ThÞ Hoa                          39                 Líp VHDT 10A
Bµi tiÓu luËn

                               KẾT LUẬN

      Lễ hội Đền Hả là một lễ hội có từ lâu đời và được cộng đồng nhân
dân bảo tồn cho đến ngày nay, hàng năm vẫn được tổ chức vào ngày 8
tháng Giêng, nhân dân trong vùng cứ đến dịp này là nô nức kéo về đến
thắp hương, khấn vái, vui hội, tham gia hát đối và chơi các trò chơi... Hội
Đền Hả ngày càng được mở rộng về quy mô, thời gian, đã thu hút được
không chỉ nhân dân trong vùng mà còn đông đảo nhân dân các nơi khác
về dự.
      Những trò chơi và diễn xướng ngoài việc phục vụ cho nhu cầu
tham gia vui chơi giải trí cho nhân dân, còn có những giá trị văn hoá có
tác động tích cực đối với việc xây dựng đời sống hiện nay.
      Ngày nay, tuy các trò chơi và diễn xướng trong hội Đền Hả có xuất
hiện những mặt tiêu cực, nhưng những mặt tích cực vẫn là mặt cơ bản,
cần được bảo tồn và phát huy, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá
ở cơ sở.




Bïi ThÞ Hoa                         40                 Líp VHDT 10A

More Related Content

What's hot

Tam ly tre em co hoan canh kho khan
Tam ly tre em co hoan canh kho khanTam ly tre em co hoan canh kho khan
Tam ly tre em co hoan canh kho khanforeman
 
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay nataliej4
 
Vùng đồng bằng sông cửu long
Vùng đồng bằng sông cửu longVùng đồng bằng sông cửu long
Vùng đồng bằng sông cửu longtruognnghiac4
 
Thuyết trình mác ăngghen - lênin
Thuyết trình mác   ăngghen - lêninThuyết trình mác   ăngghen - lênin
Thuyết trình mác ăngghen - lêninthanhthanh317
 
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG Chau Duong
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Nengyong Ye
 
6 vung xinh dep viet nam
6 vung xinh dep viet nam6 vung xinh dep viet nam
6 vung xinh dep viet namDuDu122
 
Kinh te lương chương 3
Kinh te lương chương 3Kinh te lương chương 3
Kinh te lương chương 3hung bonglau
 
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptx
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptxppt-triết-học 15 (2) (3).pptx
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptxNamDngTun
 
Dap an cau hoi triet hoc (1)
Dap an cau hoi triet hoc (1)Dap an cau hoi triet hoc (1)
Dap an cau hoi triet hoc (1)trongduong83
 
đồ áN-công-cộng-4 -----------cuối giai đoạn 1
đồ áN-công-cộng-4   -----------cuối giai đoạn 1đồ áN-công-cộng-4   -----------cuối giai đoạn 1
đồ áN-công-cộng-4 -----------cuối giai đoạn 1Khánh Nguyễn
 
Chương 2 phép duy vật biện chứng
Chương 2 phép duy vật biện chứngChương 2 phép duy vật biện chứng
Chương 2 phép duy vật biện chứngSu Chann
 
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptx
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptxVĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptx
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptxPersieVan2
 
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luan
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luanMoi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luan
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luanAlice Jane
 

What's hot (20)

Tam ly tre em co hoan canh kho khan
Tam ly tre em co hoan canh kho khanTam ly tre em co hoan canh kho khan
Tam ly tre em co hoan canh kho khan
 
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh Đại đoàn kết dân tộcTiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc
Tiểu Luận Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh Đại đoàn kết dân tộc
 
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
Vấn Đề Nhân Cách Trong Tâm Lý Học Ngày Nay
 
Vùng đồng bằng sông cửu long
Vùng đồng bằng sông cửu longVùng đồng bằng sông cửu long
Vùng đồng bằng sông cửu long
 
Thuyết trình mác ăngghen - lênin
Thuyết trình mác   ăngghen - lêninThuyết trình mác   ăngghen - lênin
Thuyết trình mác ăngghen - lênin
 
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG
THUYẾT MINH TỈNH AN GIANG
 
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà NộiLuận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
 
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
Bai giang ctxh ca nhan (vta quan)
 
6 vung xinh dep viet nam
6 vung xinh dep viet nam6 vung xinh dep viet nam
6 vung xinh dep viet nam
 
Kinh te lương chương 3
Kinh te lương chương 3Kinh te lương chương 3
Kinh te lương chương 3
 
vô gia cư
vô gia cưvô gia cư
vô gia cư
 
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptx
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptxppt-triết-học 15 (2) (3).pptx
ppt-triết-học 15 (2) (3).pptx
 
Dap an cau hoi triet hoc (1)
Dap an cau hoi triet hoc (1)Dap an cau hoi triet hoc (1)
Dap an cau hoi triet hoc (1)
 
Quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đấtQuy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất
 
đồ áN-công-cộng-4 -----------cuối giai đoạn 1
đồ áN-công-cộng-4   -----------cuối giai đoạn 1đồ áN-công-cộng-4   -----------cuối giai đoạn 1
đồ áN-công-cộng-4 -----------cuối giai đoạn 1
 
Chương 2 phép duy vật biện chứng
Chương 2 phép duy vật biện chứngChương 2 phép duy vật biện chứng
Chương 2 phép duy vật biện chứng
 
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptx
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptxVĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptx
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI NHÓM 2.pptx
 
Thuyết gắn bó mẹ con
Thuyết gắn bó mẹ conThuyết gắn bó mẹ con
Thuyết gắn bó mẹ con
 
Bai thuyet trinh
Bai thuyet trinhBai thuyet trinh
Bai thuyet trinh
 
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luan
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luanMoi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luan
Moi quan he bien chung giua vat chat va y thuc y nghia va phuong phap luan
 

Similar to Lễ hội đền Hả

Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIHuynh ICT
 
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
Văn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpVăn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpMinhHuL2
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngPham Van Tam
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồngTrò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồnglongvanhien
 
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Cơ sở văn hóa Việt NamCơ sở văn hóa Việt Nam
Cơ sở văn hóa Việt NamQunhTmPhm
 
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxĐề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxTuanPham84308
 
Cơ Sở VăN HóA ViệT Nam
Cơ Sở VăN HóA ViệT NamCơ Sở VăN HóA ViệT Nam
Cơ Sở VăN HóA ViệT Namguest2414f
 
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17NgcHoa15
 
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà GiangDân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Gianglongvanhien
 
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtTiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc người
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc ngườiSo sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc người
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc ngườiHoiNguynTh6
 
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...Dịch vụ viết đề tài trọn gói 0934.573.149
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngttkhhanam
 

Similar to Lễ hội đền Hả (20)

Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUIVùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
Vùng văn hóa châu thổ bắc bộ - Nhóm Văn Hóa - HaUI
 
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc BộVùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
 
Văn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh NghiệpVăn Hóa Doanh Nghiệp
Văn Hóa Doanh Nghiệp
 
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạngVăn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
Văn hóa việt nam thống nhất trong đa dạng
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
 
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồngTrò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
Trò diễn và trò chơi trong lễ hội lồng tồng
 
Cơ sở văn hóa Việt Nam
Cơ sở văn hóa Việt NamCơ sở văn hóa Việt Nam
Cơ sở văn hóa Việt Nam
 
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptxĐề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
Đề tài văn hóa Tây Bắc.pptx
 
Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mớ...
Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mớ...Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mớ...
Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa gắn với phong trào xây dựng nông thôn mớ...
 
TL.DSVH.docx
TL.DSVH.docxTL.DSVH.docx
TL.DSVH.docx
 
Cơ Sở VăN HóA ViệT Nam
Cơ Sở VăN HóA ViệT NamCơ Sở VăN HóA ViệT Nam
Cơ Sở VăN HóA ViệT Nam
 
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17
Dai cuong-van-hoa-viet-nam-thuyet-trinh-17
 
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà GiangDân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
Dân ca Lô Lô ở Đồng Văn Hà Giang
 
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người ViệtTiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
Tiểu Luận Cơ Sở Văn Hóa Việt Nam - Ẩm Thực Văn Hóa Của người Việt
 
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc người
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc ngườiSo sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc người
So sánh quốc gia dân tộc với dân tộc tộc người
 
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docxCơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
Cơ sở lý luận về văn hóa tộc người tày tại huyện bình liêu tỉnh Quảng Ninh.docx
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...
Tìm Hiểu Hát Sình Ca Của Dân Tộc Cao Lan Ở Xã Đại Phú, Huyện Sơn Dương, Tỉnh ...
 
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn LaLuận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
 
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồngLễ hội đình làng trung nghĩa   nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Lễ hội đình làng trung nghĩa nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng
 

More from longvanhien

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnlongvanhien
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnlongvanhien
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏelongvanhien
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bàlongvanhien
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấmlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnlongvanhien
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnlongvanhien
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014longvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnlongvanhien
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnlongvanhien
 

More from longvanhien (20)

Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1070 - vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1069 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vnDiễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam-Số 3/2014-vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1067 - vanhien.vn
 
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam - Số 2.
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1066
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1065 - vanhien.vn
 
So 12
So 12So 12
So 12
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1064 –vanhien.vn
 
Thực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏeThực phẩm và sức khỏe
Thực phẩm và sức khỏe
 
Cẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu BàCẩm nang người đi Miếu Bà
Cẩm nang người đi Miếu Bà
 
Cẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi CấmCẩm nang đi Núi Cấm
Cẩm nang đi Núi Cấm
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1063 –vanhien.vn
 
Những đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ HồNhững đồng tiền Cụ Hồ
Những đồng tiền Cụ Hồ
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1062 –vanhien.vn
 
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
Văn hiến Việt Nam - Số Xuân 2014
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1059 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1058 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1057 –vanhien.vn
 
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vnToàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
Toàn cảnh văn hóa, thể thao và du lịch – Số 1056 –vanhien.vn
 

Recently uploaded

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họchelenafalet
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Namlamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptphanai
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnKabala
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...lamluanvan.net Viết thuê luận văn
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...VnTh47
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
Báo cáo bài tập lớn E - Marketing Xây dựng kế hoạch marketing điện tử cho nhã...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
Luận văn 2024 Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý hành...
 
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt NamNhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
Nhân vật người mang lốt cóc trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam
 
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.pptNHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
NHững vấn đề chung về Thuế Tiêu thụ đặc biệt.ppt
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN...
 
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft WordTrích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
Trích dẫn theo Harvard với Microsoft Word
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
Luận văn 2024 Tạo động lực lao động tại khối cơ quan Tập đoàn Viễn thông Quân...
 
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌCTIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN MÔN PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
 
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
[123doc] - ao-dai-truyen-thong-viet-nam-va-xuong-xam-trung-quoc-trong-nen-van...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Lễ hội đền Hả

  • 1. Bµi tiÓu luËn Trường Đại học Văn hoá Hà Nội Khoa Văn hoá dân tộc LỄ HỘI ĐỀN HẢ (Trích Tiểu luận tốt nghiệp) Sinh viên: Bùi Thị Hoa Giáo viên hướng dẫn: TS. Phạm Việt Long Bïi ThÞ Hoa 1 Líp VHDT 10A
  • 2. Bµi tiÓu luËn CHƯƠNG 1. MÔI TRUỜNG HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ 1.1. Môi trường hình thành lễ hội 1.1.2. Môi trường tự nhiên Xã Hồng Giang nằm trong toạ độ địa lí từ 21 o đến 21o27’ Bắc và 105o53’ đến 106 o11’ kinh độ Đông. Vị trí của xã cách trung tâm thành phố Bắc Giang 42 km đến 50 km với đường cách ranh giới như sau: phía Đông giáp xã Giáp Sơn, nơi cư trú tập trung của đồng bào Tày- Nùng, phía Tây giáp xã Thanh Hải, phía Bắc giáp xã Biên Sơn, phía Nam giáp xã Nghĩa Hồ và Tân Lập. Những xã trên là nơi cư trú của cộng đồng các dân tộc thiểu số gồm đồng bào: Tày, Nùng, Hoa, Sán Dìu, Dao cùng cư trú xen kẽ với người Kinh tạo ra một cộng đồng văn hoá rất đặc sắc, đặc biệt là về lễ hôi. Địa hình của xã là vùng trung du. Đây là dải đường cong phân giới của các chân núi vùng cao xuống với độ cao từ 30 m đến 50 m, thỉnh thoảng có ngọn cao trên 100 m như núi Trống, núi Chiêng - nơi gắn với chiến tích của tướng Thân Cảnh Phúc. Địa hình đồi thấp như vậy đã tạo ra những cánh đồng nhỏ, dân cư tập trung từ lâu đời, là cơ sở để hình thành những lễ hội cộng đồng với qui mô làng, xã. Do vị trí địa lí và địa hình qui định mà khí hậu của xã mang đặc điểm nhiệt đới nóng ẩm và tính chất Á nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23 o C, lượng mưa khá phong phú từ 1500-> 1700 mm một năm đáp ứng nhu cầu trồng trọt nhiều vụ trong năm. Do địa hinhg chi phối, những đợt gió mùa từ phía Bắc theo dọc những cánh cung tràn xuống làm nhiệt độ giảm xuống khá thấp tháng 12 và tháng 1, đồng thời Bïi ThÞ Hoa 2 Líp VHDT 10A
  • 3. Bµi tiÓu luËn do nằm sâu trong đất liền nên những cơn bão và áp thấp từ biển chuyển vào đã bị rừng núi che chắn bớt, ít gây tác hại. Điều kiện khí hậu như trên rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp trông cây ăn quả, đồng thời cũng tạo ta thời vụ và những tháng nông nhàn là điều kiện lí tưởng để đồng bào tổ chức vui chơi, hội hè. Nguồn nước cung cấp cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt văn hoá có đóng góp quan trọng của sông Lục Nam (Minh Đức Giang). Đây là một trong những con sông đẹp nhất của đất nước, nguồn sông ở miền núi Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn chảy qua địa phận các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Dũng rồi đổ vào sông Thương ở phía trên Phả Lại. Lòng sông Lục Nam khá sâu, tàu thuỷ nhỏ có thể qua lại từ hạ lưu đến Chũ (Lục Ngạn) mùa mưa, nước lũ đổ về lưu tốc khá mạnh đến Yên Dũng thì lại êm ả xuôi về Đông Nam. Có thể nói dòng sông Lục Nam là sợi dây nối văn hoá suốt từ Lạng Sơn xuống các huyện của Bắc Giang mà xã Hồng Giang là một điểm nối. Dòng sông vừa tạo ra sự giao thoa văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang với xung quanh, vừa lầ nhân chứng lịch sử ghi lại chiến công của cha ông xưa, bằng chứng là dọc theo sông Lục Nam có tới 73 ngôi đền thờ tướng quân Vũ Thành (Thân Cảnh Phúc) mà xã Hồng Giang là điển hình. Ngoài ra xã còn có hệ động thực vật khá phong phú, đặc biệt là vải thiều rất thích hợp với điều kiện tự nhiên ở đây. Vải thiều đã trở thành một nét văn hoá đặc trưng của đồng bào trong xã. Nằm trên quốc lộ 31 và tỉnh lộ 290, 279 ngày nay, xã Hồng Giang là điểm nối với huyện Sơn Đông, tiếp giáp với Lạng Sơn, nơi trấn thủ giặc phương Bắc của cha ông ta. Trong lịch sử, nhân dân Hồng Giang đã cùng nhân dân cả nước kiên cường chặn giặc, đánh phá đường tiến của giặc phương Bắc xuống Thăng Long và đã ghi biết bao chiến công hiển hách. Bïi ThÞ Hoa 3 Líp VHDT 10A
  • 4. Bµi tiÓu luËn Những chiến công trong lịch sử chống giặc ngoại xâm là tiền đề chủ yếu của hệ thống lễ hội ở Hồng Giang và các xã trong huyện Lục Ngạn. Những đặc điểm tự nhiên như trên đã tạo cho xã Hồng Giang những điều kiện nhất định hình thành nên nền văn hoá nông nghiệp. Truyền thống cố kết cộng đồng các dân tộc trong xã cũng như hình thành những dịp lễ, lễ hội qui tụ cộng đồng với qui mô khá tập trung thống nhất trong phạm vi làng xã, thậm chí là cả vùng. Lễ hội Đền Hả cũng là một điển hình được hình thành từ những tiền đề trên. 1.1.2. Môi trường văn hoá xã hội 1.1.2.1. Thành phần dân tộc Chủ nhân của những giá trị văn hoá của xã Hồng Giang là cộng đồng các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Hoa, Dao. Các dân tộc trong xã trải qua những chặng đường lịch sử đã cùng nhau xây dựng nên nền văn hoá đặc sắc mà đến nay vẫn còn nhiều chứng tích, đặc biệt là lễ hội Đền Hả. Lễ hội Đền Hả là một hiện tượng văn hoá thống nhất trong sự đa dạng của cộng đồng các dân tộc trong xã Hồng Giang. Tuy thống nhất nhưng mỗi dân tộc trong xã lại có những bản sắc riêng: Dân tộc Kinh (Việt) Người Việt có mặt ở đây từ nhiều ngàn năm trước. Họ luôn là trung tâm đoàn kết các dân tộc, đóng vai trò chủ đạo trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá ở Hồng Giang. Hiện nay người Việt có dân số chiếm 76,66% trong tổng số 8.998 dân số toàn xã. Dân tộc Tày Đây là dân tộc có mặt sớm nhất trong các dân tộc thiểu số ở Hồng Giang, cách đây hàng ngàn năm cùng với người Việt. Trong thành phần của người Tày hiện nay không ít những người gốc Việt di cư từ miền Bïi ThÞ Hoa 4 Líp VHDT 10A
  • 5. Bµi tiÓu luËn xuôi lên với những thời gian và nguyên nhân khác nhau dần dần đã Tày hoá, nhưng họ vẫn là một dân tộc chứ không phải là một nhóm hỗn hợp. Nguời Tày ở Hồng Giang cư trú khá phân tán nhưng từ xưa tới nay vẫn là một dân tộc thống nhất, có một nền văn hoá phong phú và đa dạng, không phân chia thành từng nhóm. Dân tộc Nùng Có nguồn gốc từ Trung Quốc di cư đến đây khoảng vài thế kỷ. Người Nùng có số dân trong xã đông thứ 2 sau người Kinh cư trú xen kẽ trong từng thôn. ở Hồng Giang. Trong thành phần dân tộc Nùng có cả một số nhóm người Việt từ miền xuôi lên, lâu nay hoà vào người Nùng và tự nhận là người Nùng. Dân tộc Sán Dìu Người Sán Dìu ở Hồng Giang có nguồn gốc từ Trung Quốc. Họ di cư vào đây khoảng 3, 4 thế kỷ trước. Cư trú ở nơi tiếp giáp giữa trung du và miền núi giống Sán Dìu trong cả nước. Đồng bào Sán Dìu thường cư trú thành làng, xóm chỉ khoảng mươi, mười lăm nóc nhà. Lục Ngạn là nơi tập trung nhiều người Sán Dìu nhất ở Bắc Giang. Dân tộc Hoa Có nguồn gốc từ Trung Quốc, trong xã không có nhiều người Hoa cư trú, nhưng số lượng ít biến động, các xã xung quanh lại có nhiều người Hoa sinh sống. Tuy ít nhưng họ có những nét văn hoá rất đặc sắc góp phần tạo nên bản sắc văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở đây. Dân tộc Dao Chủ yếu là người Dao đỏ, có nguồn gốc từ Trung Quốc, di cư sang, và cư trú tại đây vào thời nhà Lê. Họ cư trú phân tán nhưng lại tập trung Bïi ThÞ Hoa 5 Líp VHDT 10A
  • 6. Bµi tiÓu luËn thành từng làng bản riêng của người Dao, bảo lưu khá tốt những sinh hoạt văn hoá đặc trưng của mình. Cộng đồng các dân tộc trên đây, qua quá trình lịch sử định cư lâu đời, đã cùng nhau xây dựng nên một nền văn hoá đa dạng, phong phú và đặc sắc ở vùng Hồng Giang. 1.1.2.2. Về kinh tế Đồng bào các dân tộc ở Hồng Giang chủ yếu sống bằng sản xuất nông nghiệp. Cây trồng chính là lúa nước, ngoài ra có sắn, ngô, đậu. Từ lâu đời đồng bào đã lưu truyền nghề trồng vải thiều. Vải thiều là đặc sản của Lục Ngạn cũng như Hồng Giang. Đây cũng trở thành sản phẩm chính phục vụ cho hoạt động giao thương với các vùng khác tạo điều kiện giao lưu và phát triển kinh tế, văn hoá. Chăn nuôi chủ yếu là gia súc nhỏ và gia cầm. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu theo mùa vụ và phụ thuộc vào thời tiết nên tạo ra những chu kì nông nhàn là điều kiện để đồng bào tập trung tổ chức lễ hội, vui chơi, múa hát. Những lễ vật dâng lên thần linh, tổ tiên cũng từ nền sản xuất nông nghiệp mà ra. Là những dân cư nông nghiệp, cộng đồng 6 dân tộc ở xã Hồng Giang đã xây nên những giá trị văn hoá vật chất rất quan trọng. Về nhà ở Truyền thống của đồng bào vùng này là ở nhà sàn, nhà đất lợp ngói ngang (Nùng), nhà trình tường (Sán Dìu, Kinh) nhà dài hình ống lợp ngói máng, trình tường (Hoa). Nổi trội nhất là các công trình kiến trúc của người Việt như Đền Hả, chùa và miếu. Về trang phục Tuy có sự khác nhau nhưng trang phucj của 6 dân tộc ở đây rất gần gũi về kiểu dáng và màu sắc. Bïi ThÞ Hoa 6 Líp VHDT 10A
  • 7. Bµi tiÓu luËn Người Tày và người Nùng mặc màu chàm sẫm. Phụ nữ Tày mặc quần dài, áo dài. Người Sán Dìu đàn ông xưa kia mặc áo dài quá gối, đầu đội khăn xếp hoặc vấn khăn nhiễu, phụ nữ có áo dài, áo ngắn, váy cộc, khăn đội đầu, dây lưng và xà cạp; cách ăn mặc của họ khá đặc trưng so với các dân tộc khác. Ẩm thực Các món ăn ở đây không cầu kỳ, kiểu cách nhưng lại mang đặc trưng của đất và người Hồng Giang. Rượu được nấu từ men vải thiều thơm và say nồng, lợn quay, gà quay, bò quay khau nhụ, xá xíu đặc trưng của người Hoa… Bên cạnh những giá trị văn hoá vật chất thì những giá trị văn hoá tinh thần cũng đã góp phần quan trọng tạo nên đặc trưng của nền văn hoá Hồng Giang, là cơ sở hình thành và lưu giữ những lễ hội trong vùng, trong đó có lễ hội Đền Hả. Qua khảo cứu thì ngôn ngữ của đồng bào ở Hồng Giang hầu hết đã thống nhất với nhau. Đồng bào dân tộc thiểu số đều nói được tiếng Việt, mặc dù vẫn sử dụng tiếng nói của dân tộc mình nhưng chỉ trong phạm vi gia đình. Hầu hết đều dùng chữ Nôm và chữ Hán để lưu giữ các tài liệu cổ xưa, còn ngày nay đồng bào dùng chữ quốc ngữ. Những tài liệu có ghi chép về Đền Hả và tướng quân Thân Cảnh Phúc cũng dùng chữ Hán và sau này là chữ Nôm. Cùng với ngôn ngữ thì tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào cũng tương đối đa dạng, phản ánh tư duy và sinh hoạt của đồng bào. Tín ngưỡng đa thần tồn tại trong tất cả các dân tộc ở đây, biểu hiện là ở các bản làng đều có các đình đền, miếu thờ nhân thần, thổ thần. Đồng bào ở đây quan niệm vạn vật hữu linh. Trong tâm thức người dân còn tồn tại nhiều tàn dư của tôn giáo nguyên thuỷ, nhất là ở nhóm người Dao. Đạo phật và đạo giáo sớm đã có ảnh hưởng tới nền văn hoá nơi đây, thấm sâu vào lối sống, suy nghĩ, quan Bïi ThÞ Hoa 7 Líp VHDT 10A
  • 8. Bµi tiÓu luËn niệm cũng như các công trình kiến trúc của người dân nơi đây như đền, chùa, miếu. Tín ngưỡng sùng bái con người lan truyền rộng rãi trong cộng đồng dân cư ở đây, đặc biệt là sùng bái những vị tướng tài giỏi có công trong chiến tranh đuổi quân xâm lược. Vũ Thành là một vị tướng đời Lý có công dẹp giặc Tống được nhân dân thờ như một vị thánh, tôn làm phúc thần của nhân dân, hang năm mở hội để nhớ ơn công lao đánh giặc. Chính tín ngưỡng sung bái con người này đã trở thành trục xương sống cốt lõi tạo nên linh hông của lễ hội Đền Hả từ những nghi thức cúng lễ cho đến các hoạt động hội. Vốn văn hoá cổ truyền phi vật thể được lưu truyền rất phong phú. Hàng năm đồng bào ở Hồng Giang vẫn tổ chức lễ hội Đền Hả rất qui mô, thu huts được rất nhiều người dân trong vùng tham gia cũng như khách tập phương. Bên cạnh hội Đền Hả trong vùng còn có hội đền Khánh Vân (thờ Vi Hùng Thắng), hội Lồng Tồng của người Tày… đã tạo nên những giá trị văn hoá và lịch sử có giá trị cao. Vốn văn hoá văn nghệ cũng rất đa dạng phong phú. Người Việt có các làn điệu dân ca như quan họ, hát ống, hát đúm, hát trống quân. Người Nùng có hát sli, hát lượn, hát song hầu, nhì hào từng tốp trai gái trong dịp hội hè, chợ phiên. Hát then lưu truyền trong dân gian người Tày, hát soong cô (Sán Dìu), hát soong hao… Những làn điệu dân ca trên được lưu truyền trong dân gian và thường được hát kèm với nhạc cụ như trống, thanh la, não bạt, kèn, xập xoè… nhịp vỗ tay. Cùng với dân ca thì kho tàng truyện cổ, tri thức dân gian được lưu truyền khá nhiều, đó là các thần tích, truyện nôm khuyết danh của người Tày, Nùng, Viêt,… những bài thuốc, bài cúng, ca dao, tục ngữ được lưu truyền, … Nhũng điệu múa của các dân tộc ở đây tương đối đa dạng, mỗi dân tôc lại lưu giữ những chất liệu diễn xướng riêng của bộ môn nghệ thuật này. Trong truyền thống cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang sống đoàn kết chan hoà Bïi ThÞ Hoa 8 Líp VHDT 10A
  • 9. Bµi tiÓu luËn tương trợ lẫn nhau, trong đó người Việt là chủ thể, là trung tâm cố kết cộng đồng. Trong từng dân tộc cũng sống với nhau hoà thuận, gia đình, làng xóm cộng đồng đàon két tốt đẹp bao đời nay. Chính những giá trị văn hoá nói trên đã tạo động lực cho đồng bào Hồng Giang tiếp nối truyền thống xây dựng tương lai với đời sống ổn định, giàu bản sắc văn hoá. Nó cũng là cơ sở vững chắc để hình thành, tồn tại và phát triển của một hiện tượng văn hoá mang qui mô vùng, đó là lễ hội Đền Hả. 1.2. Đôi nét về lễ hội Đền Hả 1.2.1. Tên gọi và nguồn gốc của lễ hội Lễ hội Đền Hả hay lễ hội Từ Hả đều là những tên gọi quen thuộc của người dân Hồng Giang cũng như người dân trong vùng Lục Ngạn từ lâu đời. Lễ hội Đền Hả được diễn ra tại ngôi đền thờ danh tướng Vũ Thành có tên là Đền Hả nên người ta gọi là tên lễ hội trùng với tên đền. Còn cái tên lễ hội Từ Hả thì cũng không có gì khác bởi vì từ chính là đền, đây chỉ là cách gọi khác nhau bằng âm Hán Việt, do sự ảnh hưởng của văn hoá Trung Quốc. Nói chung trong dân gian tồn tại hai cách gọi tên lễ hội là Đền Hả và Từ Hả là hoàn toàn thống nhất với nhau. Lễ hội Đền Hả bắt nguồn từ một nhân vật lịch sử cùng với những chiến công của ông, đó là Vũ Thành. Qua khảo sát cho thấy Vũ Thành là con trai một vị tù trưởng xứ Đông giáp vùng Đông Bắc nước ta. Thời Lý, triều đình muốn kết mối bang giao đoàn kết với các tù trưởng miền ngược nên thường gả công chúa cho họ. Thân phụ của Vũ Thành (là Vũ Tỉnh) cũng được vua Lý gả công chúa cho, sinh ra Vũ Thành, rồi sau đó đổi sang họ Thân, Vũ Thành được mang tên là Cảnh Phúc. Nhân dân trong vùng vẫn gọi với cái tên kính trọng là Vũ Thành tướng quân. Ông là một danh tướng đời nhà Lý có tài thao lược quân sự như một thiên thần xứ Đông Giáp này. Khi xưa Bïi ThÞ Hoa 9 Líp VHDT 10A
  • 10. Bµi tiÓu luËn giặc Tống tràn sang cướp nước ta, cả vùng Đông Giáp ngập bóng quân thù, nhân dân đau khổ chia li do giặc đốt phá, chém. giết. Cả đất nước Đại Việt đã vùng lên giết giặc, đoàn kết một lòng, không để lũ cướp nước tàn phá giang sơn. Vũ Thành là một vị tướng trấn giữ vùng đồi núi xứ Đông Giáp rộng lớn chủ yếu tấn công giặc bằng lối đánh du kích để ngăn cản đường tấn công của giặc và quấy phá sau lưng chúng khi chúng tiến sâu vào đất Việt. Khi quân Tống do Quách Quỳ dẫn đầu tiến sát Thăng Long đối chọi với quân của Lý Thường Kiệt ở phòng tuyến sông Như Nguyệt thì Vũ Thành đã tài tình lãnh đạo quân dân các đội dân binh người Tày, Nùng, Dao, Kinh, Sán Dìu… đánh phá địch ở vùng sau lưng ngăn cản đưòng tiếp lương thực của chúng. Trước mặt bị đánh, đằng sau bị đánh làm cho giặc ăn không ngon ngủ không yên. Bằng tài năng quân sự của mình Vũ Thành đã dựa vào núi rừng, thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh trận bách chiến bách thắng làm cho tướng giặc kinh hồn mà kêu lên rằng: “Thân Cảnh Phúc ở Đông Giáp nắm cưòng binh”, còn nhân dân trong vùng thì tôn ngài là chúa đông Giáp, các cụ còn truyền lại rằng ngài là thiên xứ Đông Giáp. 1 Sau này, trong một trận chiến đấu không cân sức, Vũ Thành bị thương và hi sinh anh dũng, ngài tạ thế tại thôn Kép II, xã Hồng Giang. Nhân dân thương tiếc lập đền thờ để tỏ long biết ơn công lao đánh giặc bảo vệ quê hương của ngài. Sau này đất nước hoà bình, nhân dân không chỉ thờ phụng mà còn tổ chức cả lễ hội nhằm tái hiện những công đức của vị tướng Vũ Thành cũng như những chiến công của ông. Nhân dân thờ Vũ Thành như là vị thành hoàng làng, vị thánh nhân, phúc thần che chở cho họ. Chính sự thần thánh hoá con người cùng với những chiến công phi thường của nhân dân đã tạo nên một nhân thần lịch sử, một lễ hội mang tính lịch sử. 1 Theo lời kể của ông Giáp Văn Bê 71 tuổi, thôn Kép II xã Hồng Giang Bïi ThÞ Hoa 10 Líp VHDT 10A
  • 11. Bµi tiÓu luËn Như vậy lễ hội đền Từ Hả là một lễ hội dân gian có nguồn gốc lịch sử và mang bản chất lịch sử rõ ràng. Hiện tượng văn hóa ấy được tạo nên từ cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang cho tới ngày nay. 1.2.2 Quá trình phát triển và không gian diễn ra lễ hội Lễ hội Đền Hả là một lễ hội cổ, hàng năm người dân lại tụ tập vui hội ở đền vào dịp mồng 8 tháng Giêng. Trước đây những người dân trong vùng cứ đến ngày này là đến đền thắp hương, khấn vái, tập trung vui hội, chơi trò chơi, hát đối đáp, gặp gỡ… Lễ hội này đã hình thành vững chắc từ con đường dân gian cùng với cả đạo sắc phong của triều đình phong kiến từ trên xuống. Đến năm 1988 – 1960, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, do có những nhận thức và hành động cực đoan về chống phong kiến, chống mê tín dị đoan, nên nhiều tài kiệu ghi chép cổ bị huỷ, sự tập trung tổ chức lễ hội cũng bị kìm hãm. Từ năm 1991 ngôi đền được nhà nước cấp bằmg di tích lịch sử văn hoá cấp trung ương, được sự quan tâm của chính quyền và các đoàn thể, lễ hội ngày càng mở rộng về qui mô, thời gian và sự tham gia của quần chúng nhân dân trong vùng. Đến nay lễ hội được tổ chức định kỳ vào ngày 3 ngày 6, 7, 8 tháng Giêng, ngày hội chính là ngày mồng 8. Người dân chọn ngày mồng 8 là ngày hội chính không phải là theo ý muốn chủ quan của ai đó đặt ra mà đồng bào kỉ niệm một trận thắng vang dội, một chiến công hiển hách của vị tướng Vũ Thành trên vùng đất quê hương mình năm xưa vào ngày 8 tháng Giêng. Khi lễ hội diễn ra cũng là thời gian người dân nghỉ ngơi vui chơi xuân, là dịp nông nhàn chuẩn bị bước vào vụ sản xuất. Lễ hội diễn ra vào thời gian này đáp ứng được nhu cầu vui chơi sau bao ngày lao động vất vả của người dân, làm cân bằng mối quan hệ giữa người và siêu nhiên, người và thế giới tự nhiên, người và người, là dịp để những giá trị văn hoá được bộc lộ và thưởng thức. Bïi ThÞ Hoa 11 Líp VHDT 10A
  • 12. Bµi tiÓu luËn Lễ hội Đền Hả được tổ chức hàng năm theo thời gian như trên tại Đền Hả và gò Bãi Bông. Hầu hết các hoạt động nghi lễ được diễn ra tại đền kết hợp với một trò chơi, diễn xướng; gò Bãi Bông cũng là nơi tổ chức vui chơi, tụ hội thi đấu… Nơi tụ hội chính vẫn là ngôi đền thờ danh tướng Vũ Thành vương. Ngôi đền nằm ở đỉnh một gò đồi của thôn Kép II, đối diện với núi Trống núi Chiêng bên bờ sông Lục Nam gắn liền với chiến tích của ngài. Truyền thuyết kể rằng năm xưa tướng quân chinh chiến sau bao trận bách chiến bách thắng, trong một trận không cân sức tướng quân bị chém trọng thương vào đầu. Ngài cưõi ngựa phi về làng, về đến gốc đa đầu làng gặp bà hàng nước ngồi đó, ngài hỏi: “ Tướng bị đánh vỡ đầu thì sống hay chết ?”. Bà hàng nước trả lời rằng: “Tướng vỡ đầu thì chết chứ sống làm sao”.Ngài cưỡi ngựa đi được một đoạn đến đỉnh gò cạnh đó thì hoá. Nhân dân tiếc thương và ghi nhớ công ơn nên lập đền thờ tại nơi ngài hoá. Sau này lễ hội đều được tổ chức tại đền. Lễ hội được tổ chức tại đây mang một ý nghĩa tâm linh rất lớn, lại vừa mang ý nghĩa lịch sử giáo dục truyền thống cho đồng bào trong vùng. Cách đền không xa lắm Bãi Bông được làm nơi hội tụ cũng là nơi ghi dấu chiến thắng của ngài, cho đến nay người dân vẫn làm lễ rước diễn tả lại chiến thắng đó. Ngôi đền và Bãi Bông đã trở thành không gian thiêng liêng, là địa chỉ in sâu vào tâm thức đồng bào ở Hồng Giang và quanh vùng. 1.2.3. Tiến trình của lễ hội Để có thể tổ chức thành công lễ hội, nhân dân địa phương phải chuẩn bị rất chu đáo từ lễ vật cúng cho đến sân khấu, các tiết mục… Tất cả các tổ chức chính quyền, đoàn thể, quần chúng cùng bắt tay vào chuẩn bị tổ chức lễ hội từ trước đó nhiều ngày. Trong lễ hội người ta phải chuẩn bị và bày cúng những lễ vật gồm: Bánh dày khổ to, bánh chè lam, hoa quả, oản, bánh, kẹo, rượu, nước Bïi ThÞ Hoa 12 Líp VHDT 10A
  • 13. Bµi tiÓu luËn mưa, trầu cau, xôi. Tất cả những đồ chay được cúng trong 3 ngày 6, 7 và 8. Sáng ngày mồng 9 thì người ta ngả mặn cúng thịt lợn, gà khao quân kết thúc lễ hội. Lễ hội được diễn ra với những nghi thức tế lễ như lễ dâng thánh, lễ rước thánh, lễ tắm thánh. Trong địa phương cử ra một ông chủ tế là người cao tuổi, biết chữ nho, biết viết sớ, am hiểu phong tục tập quán… cùng đó họ tổ chức một đội tế có đủ đạo cụ, trang phục văn tế phục vụ các màn tế. Lễ dâng, trình diện thành được thực hiện bởi ông chủ tế và đội tế: Ông Nguyễn Văn Bê làm chủ tế quỳ trước thánh đường, phía sau là 5 ông quỳ lạy theo, tất cả đều mặc lễ phục. Có 3 nhạc công đánh một chiếc trống nhỏ, một chiếc xập xoè, một ông chủ nhạc kêu lệnh ông chủ tế lạy theo. Sau 3 hồi chiêng trống ông chủ tế đọc văn tế và tấu sớ đấu trình trước bài vị tướng quân, cầu xin những điều tốt lành cho nhân dân, mong được che chở, mọi người mạnh khoẻ, làm ăn phát đạt, mưa thuận gió hoà… Lễ rước thánh là phần được nhân dân mong chờ nhất và cũng quan trọng nhất trong lễ hội này. Vào buổi sáng sớm ngày mồng 8, sau khi tất cả đã được chuẩn bị kĩ lưỡng, ông chủ tế ra lệnh nổi chiêng, trống đúng giờ qui định. Họ làm lễ xuất kiệu, ngựa, cờ, binh khí… ra khởi đền, diễn tả lại cảnh ra quân của một đoàn quân xưa kia. Tất cả người dân tập trung đông đúc ở đền cùng đi theo đám rước. Người ta rước qua đoạn đường từ đền Hả cho đến Bãi Bông. Trong đoạn đường đầu người ta rước đi thật lặng lẽ, bí mật. Khi đoàn rước đến chân gò Bãi Bông thì dừng lại, ông chủ đám rước ra hiệu lệnh chiêng trống nổi lên rầm rầm, cờ tung bay, người và ngựa chồm lên mãnh liệt, vũ khí tua tủa tiến thẳng về đỉnh gò. Tất cả mọi người đều cố gắng diễn tả thật hùng tráng cảnh ngài tấn công quân giặc như vũ bão và giành thắng lợi. Tất cả các bộ kiệu, ngựa, binh khí được đặt ở đỉnh gò, các đội tế làm các động tác ở phía dưới Bïi ThÞ Hoa 13 Líp VHDT 10A
  • 14. Bµi tiÓu luËn kiệu, múa võ dâng hương... Tại bãi Bông lúc này cũng chính thức diễn ra các trò chơi dân gian và thể thao, biểu diễn... Kiệu và các đồ rước được đặt ở đỉnh gò cho đến khi nào gió quay hướng Đông Nam thổi ngược về đến thì làm lề thu kiệu và binh tướng trở về. Người dân quan niệm rằng đó là lúc ngài đã chiến thắng giặc trở về, lúc này người ta rước cỗ ngựa đỏ đi trước, biểu tượng cho chiến thăng của trận đánh. Nghi lễ tắm thánh được thực hiện vào buổi tối ngày 8/1 sau khi ngài đã chiến thắng trở về. Ông chủ tế cùng các vị bô lão làm lễ rước kiệu, các binh khí đồ rước... xuống hồ sen làm lễ tẩy uế mộc dục, rửa sạch mọi bụi trần, tanh hôi của chiến tranh. Những đồ đó được rước vào chùa với ý nghĩa quy y và siêu độ cho tướng sỹ, sau đó lại được rước trở lại về đền. Ngày 9/1 người ta làm lễ cúng mặn tại đền và liên hoan bữa cơm cộng cảm, những lễ vật được ban phát một cách bình đẳng. Trong suốt 3 ngày 6, 7, 8 tháng Giêng diễn ra các hoạt động vui chơi giải trí, diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, trò chơi dân gian song song cùng với các nghi lễ. Những nghi lễ được diễn ra tại đền nhưng dân làng vẫn vui chơi tại Bãi Bông và ở đền, ngày mồng 8 người ta tụ hội cho đến tối mới chịu ra về. Lễ hội Đền Hả với quy mô vùng khá lớn, kéo dài trong 3 ngày, 3 đêm, có tầm ảnh hưởng rộng lớn đối với cộng đồng dân cư ở Hồng Giang, là một lễ hội lịch sử cần được lưu giữ, phát triển và quan tâm chặt chẽ hơn. Bïi ThÞ Hoa 14 Líp VHDT 10A
  • 15. Bµi tiÓu luËn CHƯƠNG 2. NHỮNG TRÒ CHƠI VÀ TRÒ DIỄN TRONG HỘI ĐỀN HẢ 2.1. Một số khái niệm công cụ Trong phạm vi đề tài này, để đi sâu tìm hiểu phần hội của lễ hội Đền Hả, người viết xin đưa ra một số khái niệm công cụ để đề tài được khai thác sâu hơn, chính xác hơn. Đề tài khai thác sâu ở phần hội nên cần phải hiểu rõ ràng về khái niệm “lễ”, “khái niệm “hội”, khái niệm “lễ hội” một cách khoa học. Hiểu rõ khái niệm các yếu tố tạo nên hội trong một lễ hội như trò chơi dân gian, trò diễn dân gian…. Lễ là gì? Lễ là những nghi thức tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó, là cách cư xử của con người với thế giới tự nhiên bí ẩn, thế giới siêu nhiên kỳ ảo. Có ý kiến khác cho rằng lễ là những nghi thức ảo của con người nhằm hướng đến một thế giới ngoài hiện thực và mong mỏi nó tác động trở lại hiện thực theo ý muốn chủ quan của con người. Hội là gì? Hội là cuộc vui được tổ chức chung cho một cộng đồng đông đảo người tham dự theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt. Hội là đám vui đông người, tức đông người tập trung trong một địa điểm và vui chơi với nhau. Khái niệm hội trong dân tộc học được hiểu là việc tổ chức nhân dân kỉ niệm một sự kiện quan trọng, nó đem lại lợi ích tinh thần cho mọi thành viên của cộng đồng, nơi có nhiều trò vui đến mức như hỗn độn, là nơi cộng cảm, giải toả dồn nén, thăng bằng trở lại cho cộng đồng. Lễ hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí công cộng diễn ra tại một điểm nhất định vào dịp lễ kỉ niệm một sự kiện xã hội hay tự nhiên nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ hội. Bïi ThÞ Hoa 15 Líp VHDT 10A
  • 16. Bµi tiÓu luËn Lễ hội dân gian là nơi chứa đựng, giải toả những ước muốn tâm linh của người nông dân, hội làng được lập ra để người dân lập lại một sự cân bằng trong quan hệ nhiều chiều giữa người với người, người với vạn vật, người với thần linh, người với vũ trụ. Đọng trong lễ hội dân gian là niềm tin dân dã được lịch sử hình thành những tín ngưỡng dân gian. Quan hệ giữa lễ và hội là mối quan hệ tương hỗ, tồn tại trong sự thống nhất với nhau không tách rời. Lễ và hội đều là cuộc sống đích thực của con người được phản ánh qua tâm linh của cộng đồng. Niềm tin tín ngưỡng chi phối mạnh mẽ phần lễ và các nghi thức tế lễ. Chính tín ngưỡng lắng đọng trong lễ hội là trục xương sống để qui tụ tất cả mọi hoạt động hội, trò diễn nghi thức thờ cúng của cả lễ hội. Như vậy, dựa vào những khái niệm về lễ hội, có thể thấy rõ rằng: nội hàm của khái niệm hội chính là đông đảo quần chúng tụ tập lại cùng vui chơi, biểu diễn hay chia sẻ, cộng cảm với những trò chơi biểu diễn đó. Làm nên phần hội chính là những trò chơi dân gian và diễn xướng dân gian. Trò chơi dân gian là những trò chơi thu hút từ 2 người trở lên tuân theo nguyên tắc nhất định và đem lại cảm giác vui vẻ, thoải mái cho người chơi. Diễn xướng là toàn bộ những hành động của con người mà nó tách khỏi môi trường lí thuyết để hoà hợp với thực tế. Diễn xướng là một mức độ trong các giai đoạn phát triển khác nhau của nghệ thuật biểu diễn dân gian từ diễn xướng sơ khai (rước, hát cuộc) đến trò diễn và sân khấu dân gian. Những trò chơi và diễn xướng được đề cập thông qua khái niệm trên sẽ chủ yếu là mang tính dân gian, những trò chơi tồn tại từ lâu năm trong nhân dân và những điệu múa, bài hát, lối hát, lối trình diễn hình thành và tồn tại ở trong nhân dân. Bïi ThÞ Hoa 16 Líp VHDT 10A
  • 17. Bµi tiÓu luËn 2.2. Những trò chơi dân gian trong hội Trong hội Đền Hả tập trung một số lượng lớn các trò chơi dân gian của cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang. Có những trò chơi chỉ chơi ít người, một nhóm người, có trò chơi thu hút cả cộng đồng đông đảo, họ chơi một cách say mê tuân theo qui luật đơn giản để thoả mãn nhu cầu tham gia thể hiện và giải toả những nhọc nhằn bao lâu nay của cuộc sống. Ở đây có cả những trò chơi của người Việt, Tày, Nùng có trò chơi vui vẻ, có trò chơi trí tuệ. Chọi gà Nhân dân ở đây vẫn gọi là trò chơi đá gà. Người ta tổ chức chơi chọi gà ở sân Bãi Bông sau khi kiệu thánh đã được rước ra. Thành phần chơi không hề phân biệt, miễn là chủ gà có gà chọi khoẻ, đủ tiêu chuẩn thi đấu là thoả thuận cho thi đấu. Trò chơi này không có tổ chức giải thưởng cụ thể như một giải thi đấu mà chủ yếu do các chủ gà thoả thuận bằng miệng với nhau rồi cho đấu. Để chọn được gà chọi tốt, người ta phải tìm những giống gà chọi nòi. Họ nuôi và huấn luyện cho con gà rất công phu, qua thử nghiệm luyện tập, đấu thử nhiều lần mới có thể chọn được những con gà để sử dụng vào hội thi. Khi vào cuộc thi chọi gà người ta so các cặp đấu có chiều cao và cân năng tương đồng nhau. Mỗi hiệp đấu gà gọi là “hồ” diễn ra trong 15 phút, cho nghỉ một lúc lại đấu tiếp, một số chủ gà có thể cho chọi gà chọi đến cùng, gọi là: “Kỳ tẩu, kỳ tử” tức là đấu đến khi có con bỏ chạy hoặc gục chết. Trò chơi chọi gà luôn là niềm thích thú của nhiều người, những hiệp chọi gà thường có rất đông người vây quanh hò reo cổ vũ, nhất là nam giới. Chọi gà mang một vẻ đẹp văn hoá của con người nơi đây, thể hiện tinh thần thượng võ vũ dũng, tín nghĩa truyền tục từ bao đời nay. Cờ tướng Bïi ThÞ Hoa 17 Líp VHDT 10A
  • 18. Bµi tiÓu luËn Đây là trò chơi trí tuệ có từ rất lâu đời vẫn được lưu giữ vững bền cho đến ngày nay trong hội Đền Hả. Cờ này được xem như là một trong bốn mặt tài năng của người xưa (cầm, kỳ, thi, hoạ). Chơi cờ là một sinh hoạt truyền thống tồn tại trong lễ hội Đền Hả. Đối tượng tham dự thường là những người cao tuổi hoặc trung niên có kiến thức chơi cờ rất tốt. Người ta chơi cờ ở cửa và sân đền thờ trong ngày hội. Bàn cờ kẻ ô chia làm hai, ở giữa có hàng ngàn cách gọi là “sông”, tất cả có 64 ô cờ. Quân cờ mỗi bên có 16, gồm 1tướng, 2 sĩ, 2 tượng, 2 xe, 2 pháo, 2 mã, 5 tốt. Bàn cờ và quân cờ có thể làm bằng sừng, ngà, gồ, giấy... Cờ tướng chơi theo nguyên tắc: mã lệch, tương điền, xe liền, pháo cách, tốt chưa sang sông chỉ được đi thẳng, sang sông có thể đi ngang, không được lui, khi tướng bị chiếu không che chắn được là hết cờ. Ở hội Đền Hả người ta còn chơi cờ thành 2 loại là cờ người và cờ bỏi. Cờ người Được chơi trên sân đền. Ở sân cờ các quân cờ do người thật thủ vai, mỗi bên 16 người chưa lập gia đình (có thể một bên nam, một bên nữ), tướng ông và tuớng bà có lọng che. Người đánh cờ trong tư thế trang nghiêm, ăn mặc theo quy định, tay cầm cờ lệnh, trước khi đi quân nào phải chỉ cờ lệnh vào quân ấy rồi mới phất cờ. Cờ bỏi Là chơi cờ tướng trên sân rộng có trong các ngày hội ở Hồng Giang. Các quân cờ thay bằng người thủ vai thật, người ta thay bằng 1 biển gồ hay chất liệu khác. Họ khắc hay viết các quân cờ, buộc hay gắn vào 1 cán gỗ, tre cắm lên vị trí các quân cờ ở bàn cờ. Ứng với vị trí các quân cờ người ta khoét lỗ và chôn những ống tre để cắm quân. Trò chơi nay được chơi ngay trên sân đền thờ và thu hút được rất nhiều người cổ vũ đấu trí. Trò chơi này thể hiện trí tuệ của nhân dân, là sinh hoạt văn hoá tao nhã được nhiều người ưa thích. Bïi ThÞ Hoa 18 Líp VHDT 10A
  • 19. Bµi tiÓu luËn Đánh đáo Đây là trò chơi dân gian phổ biến không chỉ những ngày thường mà rất được yêu thích trong ngày hội Đền Hả. Người ta chơi nhiều loại đáo như: đáo đĩa, đáo cạc, đáo cõng, đáo đá, đáo lỗ, đáo ném, đáo ô.... Đáo đĩa Người ta lấy một cái đĩa đặt vào giữa một chiếc nia (mẹt) để làm đích. Người chơi đứng ở ngòi vạch chấm cách đích khoảng vài mét tay cầm “cả cái” (làm bằng đồng tiền xu) ném vào trúng đĩa sao cho cả cái nằm trọn trong đĩa. Người bày đĩa gọi là “người cái”, người chơi đáo gọi là “người con” đồng tiền do người con bỏ ra, nếu ném vào đĩa thì con sẽ được cái thưởng theo thoả thuận trước, nếu con ném vào nia thì cái được thưởng. Đáo cọc Trên sân rộng ở Bãi Bông người ta cắm một cái cọc, trên ngọn có cờ, đáo là những viên đá tròn, người chơi đứng bên kia bãi đất cầm viên đá ném sao cho nó nằm ngay ở chân cọc càng gần càng tốt. Người chơi cũng có thể dùng viên đá của mình phá những viên đá của người khác nằm vào vị trí đoạt giải. Số lượng những viên đá được sử dụng tuỳ từng ván chơi. Trò chơi đáo này thu hút rất đông nam thanh niên chơi hội vào tham gia. Đáo ô Giống như cách chơi của đáo đĩa nhưng người ta thay đĩa và nong bằng khay gỗ vuông có gờ, mặt khay kẻ các ô vuông bôi 2 mầu khác nhau và quy định một màu là ô ăn, người chơi đi đồng tiền vào khay nếu đúng ô ăn thì được ăn theo tỷ lệ đã thoả thuận trước, nếu đi chệch khỏi ô ăn thì nhà cái sẽ được. Trò chơi này mang tính thưởng phạt rõ ràng, được thua theo quy định, được nhiều người ưa thích vì tính chất vui vẻ hào hứng và khéo léo của nó vẫn nhiều hơn tính chất kinh tế, người ta thưởng Bïi ThÞ Hoa 19 Líp VHDT 10A
  • 20. Bµi tiÓu luËn phạt chỉ mang tính chất vui vẻ chứ không to tát hay có thể kinh doanh được. Đánh phết Là trò chơi được duy trì khá lâu bền trong dân gian và cả trong hội Đền Hả trước kia. Bãi phết được chơi trên gò bãi Bông, mỗi đầu người ta đào một hố tròn sâu ngập đầu gối, giữa bãi đào một lỗ để làm vị trí đặt quả phết. Các đấu thủ cầm một gậy tre dài bằng đòn gánh, gốc đẽo vát thành hình thừa gọi là cây phết. Quả phết có thể làm bằng gỗ hoặc chất liệu khác to bằng quả bóng da. Người chơi chia thành 2 phe dùng gậy hay tay hất quả phết ở vị trí ban đầu rồi dùng gậy phết (đưa sệt hoặc hất bổng) để đánh quả phết, nếu đưa quả phết vào lỗ của phe mình là thắng cuộc. Ném còn Đây là trò chơi dân gian lưu truyền chủ yếu ở cộng đồng người Tày ở Hồng Giang. Qua thời gian nó trở thành trò chơi chung của mọi người trong hội Đền Hả. Người ta chôn trước cây còn ở Bãi Bông, cây còn là một cây mai dài, có lá, ngọn, uốn cong thành hình tròn, đường kính khoảng 40cm, một bên hình tròn phía Đông dán giấy đỏ tượng trưng mặt trời, một bên phía Tây của hình tròn dán giấy vàng tượng trưng cho mặt trăng, thân được kết thêm một cành lá đao. Nếu không là một cây mai thì người ta chôn 1 cây tre cao, trên buộc một vòng tròn có tua màu, hay vòng tròn được bịt bằng giấy màu được viết chữ Nhật và Nguyệt ở hai phía. Quả còn được làm bằng vải nhiễu màu đỏ, có đuôi tua màu đỏ để khi tung và ném đi được đúng hướng. Trong quả còn người ta nhồi thóc, hạt bông, cát. Bắt đầu chơi ném còn sẽ có ông chủ tế ra tung một quả còn đầu tiên lên trời rồi tất cả thanh niên lao vào cướp lấy vui vẻ náo nhiệt. Ai cướp được quả còn sẽ là người ném quả còn đầu tiên mở cuộc Bïi ThÞ Hoa 20 Líp VHDT 10A
  • 21. Bµi tiÓu luËn vui. Người chơi chia thành 2 phe ném sao cho quả còn qua hình tròn trên ngọn tre là người thắng cuộc. Các quả còn liên tiếp bay lên hạ xuống hai bên nam nữ, chàng trai ném qua phông còn cho thiếu nữ bắt. Các thiếu nữ tung còn cho các chàng trai. Ai cũng náo nức thi nhau ném chúng phông còn. Ai ném chúng phông còn thủng sẽ được thưởng. Quả còn ném thủng phông còn sẽ được rạch ra lấy hạt bông, hạt thóc trộn với thúng thóc rang, tung lên đám đông người dự hội, mọi người chen lấn, xô đẩy, giơ vạt áo hứng lấy cho bằng được vài hạt thóc rang, mong nhận được nhiều may mắn sức khoẻ dồi dào, cả năm làm ăn phát đạt, cây cối gia súc sinh sôi, nảy nở, mùa màng tốt hơn. Sau khi tung còn qua vòng trai gái còn tung còn vào nhau vui chơi. Trò đu quay Đây là trò chơi được nhiều bạn trẻ yêu thích. Trò chơi này vẫn được duy trì đều đặn, bền vững mỗi khi hội diễn ra. Để có thể chơi được, người ta phải dựng lên cây đu rất chắc chắn và công phu. Giàn đu được làm bằng tre, thiết kế theo kiểu khung xà nhà rất chắc chắn. Bàn đu bằng cả hai sào tre có thể dao động rất lớn. Trai gái đứng lên bàn đu, thường là đứng một đôi trai gái với nhau, ở dưới thanh niên nam nữ đẩy bàn đu bay qua bay lại. Những lúc đu bay dao động với tốc độ cao mọi người ở dưới lại hò reo, cổ vũ rộn ràng cả một góc hội. Người đứng trên đu thì vừa bám chắc vừa vui vẻ cười đùa. Nhiều đôi trai gái đu giỏi được mọi người trầm trồ khen ngợi, còn những đôi khác thì luôn tìm cơ hội để được thử tài trên đu. Trò chơi này vừa khỏe khoắn vui vẻ lại làm cho các đôi trai gái gần nhau hơn nên người dự hội hầu hết lúc nào cũng tập trung đông đúc ở bên giàn đu. Trước kia người ta vừa chơi đu vừa hát giao duyên, hát song hao với nhau. Trò chơi này có ý nghĩa giải trí, vui nhộn và mang ý nghĩa phồn thực dân gian. Sức hấp dẫn và khán giả, người tham dự hầu như không bao giờ suy giảm. Bïi ThÞ Hoa 21 Líp VHDT 10A
  • 22. Bµi tiÓu luËn Trò đập niêu Người ta treo niêu đất lên một sợi dây ở độ cao 2 – 2,5m, từng nhóm thanh niêm phải xếp hàng từng người một, buộc khăn sao cho không thể nhìn thấy bình thường được. Sau khi mắt được che kín bằng vải, người chơi cầm một thanh kiếm gỗ hoặc gậy gỗ tre tiến về phía trước từ 1 vạch xuất phát đã quy định. Người chơi, phải ước lượng khoảng cách từ điểm xuất phát đến chỗ treo niêu để tung ra cú đập chính xác. Người chơi nếu đập trượt thì sẽ đến lượt người dưới hàng thay thế, nếu đi đúng quy định và đập vỡ niêu thì sẽ được thưởng. Trò chơi này kích thích tinh thần thượng võ của thanh niên trong làng bản. Sau này người ta thay niêu sành bằng củ chuối có khắc thành hình mặt người, rất sinh động nhưng mở màn trò chơi không thể thiếu chiếc niêu sành. Chơi trò này vừa vui vẻ lại không tốn kém, thử thách sự khéo léo và độ chính xác của từng người. Trong mỗi dịp mở hội trò chơi này đều thu hút được rất nhiều người tham gia cả nam lẫn nữ, cả thanh niên lẫn rung niên, thiếu nhi, mọi người cũng chơi bình đẳng tuân theo quy định của trò chơi. Trò đánh quay Đánh quay phổ biến trong tất cả các dân tộc ở Hồng Giang trong ngày hội cũng như những ngày thường. Vào dịp hội Đền Hả mỗi người thanh niên, mỗi người chơi quay lại có dịp trổ tài đánh quay và đẽo con quay giải trước những bạn bè trẩy hội. Người ta làm con quay to bằng hoặc nhỏ hơn cổ tay người lớn 1 tí dài khoảng 15cm, một đầu tiện bằng, đầu kia vót nhọn, người ta thả quay bằng 1 sợi dây mềm, dài hơn sải tay, 1 đầu dây được buộc vào một chiếc gậy to bằng ngón tay cái dài từ 40 – 50cm, đầu dây kia được cuốn tròn thật đều vào thân con quay rồi tiến hành thả quay. Khi thả quay một tay cầm vào một gậy không buộc dây rồi đánh ngang thân người thật mạnh thì quay rơi xuống đất và sẽ quay tít rất hay. Người Tày ở đây làm quay hơi khác một chút. Họ đẽo Bïi ThÞ Hoa 22 Líp VHDT 10A
  • 23. Bµi tiÓu luËn con quay to bằng cổ tay người lớn, một đầu vót tròn, đầu kia vót nhỏ để dài khoảng 4 – 7cm tuỳ thuộc vào độ lớn của đầu tròn. Người ta thả quay bằng sợi dây mềm, dài hơn sải tay, một đầu dây buộc vào ngón tay, đầu kia cuốn vào đầu nhỏ của con quay giữ chặt đầu buộc vào ngón tay rồi giật thật mạnh, con quay sẽ rơi xuống đất và quay tít. Chơi quay được chia thành phe, mỗi bên một người hoặc mỗi phe từ 2-10 người. Người ta chơi quay rất đông ở trên sân Bãi Bông. Nếu chơi kiểu mỗi bên 3 người thì trước tiên có một bên thả, một bên chém bên thả phải cùng lúc 3 người cùng thả, bên chém cũng cùng lúc 3 người cùng chém. Bên chém nếu chỉ có một trong 3 người chém trúng con quay thì đối thủ mà 2 người kia chém trượt thì cả nhóm vẫn thắng và được chém tiếp. Trường hợp cả ba cùng chém trượt quay của đối phương thì phải đổi lại thả quay cho đối phương chém. Tuy nhiên cũng có lối chơi chỉ một người thả quay cho cả nhóm chém theo lần lượt, đến lượt người nào chém trượt thì người đó phải thảy quay, cách chơi như vậy rất hấp dẫn có thể thu hút sự tham gia của rất đông nam giới dự hội. Do chơi đông người nên nhiều khi phải thả quay rất lâu nhưng ai cũng hào hứng chờ đợi và vui chơi. Mới đầu vào chơi cả 2 bên hoặc chỉ chọn lấy một và người thả cùng lúc xem con quay của bên nào quay được lâu hơn thì bên đó được chém. Có trường hợp mọi người dùng một mảnh tre tung lên cao để rơi xuống đất xem đúng xấp hay ngửa mà bên đó chọn là được chém hay không được chém con quay của đối phương. Lối chơi thành phe đông người thường là những người lớn, những người đã lập gia đình. Cách chơi đông người rất vui vẻ, nhiều khi lôi kéo cả một đám người lớn tham gia chơi và hò reo cổ vũ làm cho không khí hội vui tươi, náo nhiệt. Trò kéo co Kéo co là trò chơi dân gian phổ biến trong rất nhiều lễ hội cũng như các dịp sinh hoạt cộng đồng khác của người dân Bắc Bộ. Trước kia trong hội Bïi ThÞ Hoa 23 Líp VHDT 10A
  • 24. Bµi tiÓu luËn Đền Hả người ta chơi kéo co rất đậm màu nghi lễ. Các đội chơi phải để dây kéo nằm dọc theo chiều dài của sông Lục Nam để thi đấu. Trong các lần thi đấu đội kéo đứng ở phía trên dòng chảy, đứng trên gò Bãi Bông bao giờ cũng được để là đội thắng trận. Người ta quan niệm rằng có như vậy thì năm đó thánh Vũ Thành mới phù hộ cho mưa thuận gió hoà không bị thiên tai lụt lội, người người mạnh khoẻ, cây cối sinh sôi nảy nở. Nếu ngược lại thì năm đó sẽ bị mất mùa, bệnh tật. Ngày nay thì tính chất tín ngưỡng trong trò chơi dường như đã phai nhạt, người ta tổ chức thi kéo co từng đội và có vòng, có giải chung kết hẳn hoi. Đội nào lọt vào chung kết giành giải sẽ được thưởng một phần thưởng của dân làng. 2.2.1. Những biến đổi của các trò chơi dân gian trong hội Đền Hả Những trò chơi dân gian được lưu truyền trong nhân dân và được tụ hội biểu hiện ở hội Đền Hả. Thời gian và sự tác động của đời sống kinh tế đã làm cho các trò chơi dân gian bị biến đổi đi. Nguyên nhân của sự biến đổi đó là do kinh tế thị trường phát triển, lợi ích kinh tế xâm nhập vào mọi hoạt động của con người. Các trò chơi được đưa ra để làm phương tiện sinh lợi nhuận. Hơn nữa, do hoạt động kinh tế mà con người luôn bận rộn không có nhiều thời gian để tham gia những trò chơi dân gian nữa. Yếu tố văn hoá tiên tiến ảnh hưởng làm biến đổi những trò chơi dân gian và ra đời nhiều trò chơi hiện đại khác. Nhiều trò chơi dân gian hiện nay ở hội Đền Hả đã bị biến dạng về cách chơi, mục đích chơi, thành phần tham dự, một số trò đã không còn tồn tại nữa, có trò thì không duy trì liên tục được nữa. Biểu hiện như trò chọi gà, hầu hết các cặp chọi gà đều cược nhau một số tiền khá lớn, có khi lên tới vài chục triệu đồng. Cùng với đó là các khán giả dự hội cũng a dua đặt cược với hi vọng tìm kiếm may mắn, lợi nhuận. Bïi ThÞ Hoa 24 Líp VHDT 10A
  • 25. Bµi tiÓu luËn Trò đánh cờ vẫn duy trì và bảo tồn được giá trị của mình. Tuy thế, chỉ có những người cao tuổi và trung niên yêu thích, ham mê, còn lớp thanh niên thì rất nhiều người hờ hững, thậm chí không hiểu biết gì. Trò ném còn không còn được tổ chức thường xuyên nữa, năm có, năm không. Tính chất vui vẻ đã giảm bớt đi mà thay vào đó là thách đố lấy tiền, đòi hỏi giải thưởng, không còn nhiều người hiểu về ý nghĩa quả còn, các hình vẽ lối chơi còn. Trò đu quay vẫn được duy trì và nhiều người yêu thích nhưng nam nữ chơi đu quay không còn biết hát đối đáp như ngày xưa. Trò đánh đáo đã hoàn toàn trở thành thương mại, người ta đứng ra làm chủ cái là để thu lợi từ những người chơi, người chơi cũng cố gắng chơi thật giỏi để thu thật nhiều tiền thưởng. Đánh phết, hầu như không còn được tổ chức chơi nữa. Trò đánh quay đã có sự đánh cược, nếu thua phải trả tiền người thắng... Những trò chơi dân gian cùng với sự thương mại hoá bị biến đổi đi thì tính chất dân gian thuần khiết vui tươi trong sáng ngày càng bị mất đi, người ta chơi không chỉ vì lợi ích tinh thần nữa mà còn vì lợi ích vật chất, tuy thế sự biến đổi trên là khó tránh khỏi. 2.3. Diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả Hội Đền Hả là nơi trình diễn những tinh hoa văn hoá nghệ thuật của các dân tộc trong vùng. Người dân nơi đây rất yêu văn nghệ và có một vốn văn nghệ rất đa dạng phong phú mà không kém phần đặc sắc. Người dân lưu truyền vốn văn nghệ dân gian luôn có nhu cầu được biểu hiện và sáng tạo nghệ thuật. Trong hội Đền Hả có khá nhiều diễn xướng dân gian được cộng đồng các dân tộc ở đây thể hiện như múa sênh tiền, Bïi ThÞ Hoa 25 Líp VHDT 10A
  • 26. Bµi tiÓu luËn hát soong hao, hát quan họ, rước thánh, múa dân gian, biểu diễn sân khấu dân gian ngoài trời… Múa sênh tiền Là điệu múa dân gian mở đầu cho đám rước trong lễ hội Đền Hả. Tên gọi đầy đủ là múa sênh tiền – mổ lợn. Tham gia múa là một đôi diễn viên nam, một người ăn mặc sặc sỡ, hai tay gõ sênh tiền nhún nhảy, chân theo nhịp nhạc bát âm, một thanh niên khác trang phục múa đối xứng tay gõ mõ gỗ hoà nhịp với động tác nhảy lộn ngược chiều với người múa sênh tiền. Tuy động tác múa của 2 người đối xứng nhau nhưng phải hoà hợp trong bước nhảy trong di chuyển đội hình và trong các động tác tay chân. Người múa sênh tiền động tác uyển chuyển, người múa mõ lộn hai tay luôn di chuyển vị trí gõ, khi lên đầu khi sau lưng, lúc trái, lúc phải, khi sấp khi ngửa… Những động tác phải dứt khoát và khớp nhịp. Điệu múa này mang đậm màu sắc tím ngưỡng được bảo lưu vững chắc mỗi khi hội diễn ra. Rước thánh diễn trận Hội rước được thực hiện để miêu tả lại chiến thắng của danh tướng Vũ Thành khi xưa. Buổi sáng sớm ngày 8 tháng Giêng ông chủ tế ra hiệu lệnh tất cả chiêng trống, cờ, binh khí chiến đấu, kiệu, ngựa chiến … vốn đặt thờ trong đền được huy động thành một đám rước. Người ta dùng tới 98 thanh niên và đàn ông khoẻ mạnh vào đám rước. Đội rước mỗi người một nhiệm vụ, người cầm cờ, người đánh cỗ ngựa gỗ, người khiêng kiệu, người cầm binh khí đao, kíp... người đánh trống xập xoè theo nhịp. Đội rước đi thành đội hình nghiêm chỉnh, trang phục rực rỡ, đi trước là cỗ ngựa trắng (lúc rước đi) rồi đến kiệu, phía sau là cờ và các loại binh khí, trống nhạc... Ông chủ tế luôn luôn điều chỉnh cho đám rước đi đúng đội hình. Tất cả dân làng đi sau dự hội rước. Trong đoạn rước đầu tiên đi từ đền ra tất cả mọi người phải im lặng, đám rước không được phất cờ, nổi Bïi ThÞ Hoa 26 Líp VHDT 10A
  • 27. Bµi tiÓu luËn trống, thể hiện sự nghiêm nghị của một đoàn quân đang hành quân bí mật tới chiến trường tiêu diệt quân thù. Khi đến gò Bãi Bông tất cả đoàn rước dừng lại, ông chủ tế ra hiệu lệnh tất cả cờ tung ra, trống chiêng nổi lên rầm rầm, cỗ ngựa chiến lao vụt lên, kiệu và các binh khí xốc tới ào ạt như cảnh một đại quân đang dốc sức mạnh vũ bão nghiền nát quân thù. Đội hình rước tập kết ở gò Bãi Bông, một ông già trong đám rước cầm cây Thanh long đao múa những đường đao kỳ ảo, tất cả bà con quây tròn làm khán giả trầm trồ khen ngợi. Trước đám rước ngự ở bệ, nơi không gian linh thiêng chỉ để dành cho dịp lễ hội, các cụ bô lão đồng loạt múa dâng hương, trình diễn bằng những động tác nghiêm trang đầy tôn kính. Đám rước và những người phục vụ lễ rước ở Bãi Bông cùng vui hội cho đến khi nào nhìn thấy gió Đông Nam thổi về hướng đền thì phải tổ chức rước thánh về đền. Lúc rước về, đám rước tưng bừng rộn rã, ngựa đỏ đi trước, lúc này là tướng quân đã chiến thắng giặc trở về. Chiêng, trống nổi rầm rầm, cờ bay phấp phới rước trở lại đền và tập kết ở sân. Hội rước thánh này do truyền thuyết về chiến công của Vũ Thành qui định, nó mang đậm màu lịch sử, là một hình thức diễn xướng dân gian sơ khai có giá trị văn hoá lâu đời. Múa võ dân tộc Đây là một màn biểu diễn rất hấp dẫn, được duy trì đều đặn mỗi dịp hội Đền Hả mở ra. Sau khi rước thánh lên Bãi Bông, mọi hoạt động vui chơi được chính thức bắt đầu, trong đó có cả múa võ dân tộc. Người ta lựa chọn một số thanh niên Tày, Nùng hay Kinh có võ nghệ xuất chúng trong địa phương lên biểu diễn trước quần chúng tại sân bãi. Những bài biểu diễn là những bài quyền cước đặc sắc của đồng bào các dân tộc trong địa phương, những bài múa đao, kiếm... rất đặc sắc. Sau những màn biểu diễn cá nhân là màn đồng diễn của các cụ cao tuổi múa kiếm. Với những màn biểu diễn võ thuật đầy ấn tượng, múa võ dân tộc Bïi ThÞ Hoa 27 Líp VHDT 10A
  • 28. Bµi tiÓu luËn đã thực sự cổ vũ được tinh thần thượng võ của người dân Hồng Giang, phát huy tinh thần độc lập tự chủ, truyền thống anh hùng của mình. Hát Quan họ Người dân đi trẩy hội Đền Hả luôn ấn tượng bởi những lời ca và điệu nhạc dân ca Quan họ. Hát quan họ không phải là vốn văn nghệ của người dân Hồng Giang. Hát quan họ trong hội Đền Hả là do những đoàn quan họ từ các địa phương khác về dự hội, chủ yếu từ Bắc Ninh và các địa phương ở Bắc Giang. Lễ hội Đền Hả đã thu hút được những đoàn quan họ về biểu diễn, tụ hội. Đây thực sự là một hiện tượng giao lưu văn hoá mạnh mẽ giữa các vùng văn hoá với nhau. Rất nhiều bài dân ca quan họ được trình diễn trong suốt đêm ngày mồng 6, 7, 8, như: vào chùa, mời trầu, cây trúc xinh.... có cả những ca cảnh như: cánh bèo xinh, rừng cây xanh mãi, quà ra trận địa.... Hiện tượng giao lưu văn hoá này tạo ra sự tiếp thu mạnh mẽ văn hoá các vùng khác làm đa dạng hơn, bổ sung cho văn hoá cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang. Hát soong hao Đây là một hình thức hát theo cách Sli, lượn, là dân ca trữ tình Tày, Nùng. Sli và lượn là hai từ mà người Nùng và Tày dùng để chỉ hầu hết vốn dân ca trữ tình của mình (do người Tày – Nùng không có từ hát). Người ta có các điệu lượn, then, lượn nàng ới, luợn cọi... với những nội dung trữ tình về tình yêu, gọi bạn tình, đối đáp tìm hiểu nhau giữa nam và nữ.... Người Tày, Nùng đến dự hội Đền Hả không phân biệt tuổi tác, mặc áo đẹp đi trẩy hội kín hai bên đường từ rẻo cao Lục Ngạn xuống. Những bộ trang phục màu chàm rải kín 2 bên đường, dọc đường đi dự hội người ta hát đối đáp với nhau vui vẻ tự nhiên. Ở những quán hàng tại lễ hội trai ngồi một dãy, gái ngồi một dãy đối diện nhau, vừa ăn vừa Bïi ThÞ Hoa 28 Líp VHDT 10A
  • 29. Bµi tiÓu luËn uống rượu, vừa hát. Cuộc hát soong hao thường bắt đầu từ 9h sáng đến 3h chiều. Nhiều khi vì quá lưu luyến mà trên đường về họ vẫn hát dọc đường. Sau Tết Nguyên Đán lại là mùa hát soong hao kéo dài cả tháng trời, lễ hội Đền Hả vào đúng mùa hát soong hao nên càng thu hút đông đảo người về dự hội. Tại hội Đền Hả thanh niên Tày, Nùng với những bộ quần áo khăn mũ đẹp nhất tụ hội về đây. Họ sôi nổi tham gia các cuộc vui tung còn và các trò chơi dân gian khác. Nổi bật nhất là họ tụ tập lại thành từng nhóm nam nữ hát sli, lượn. Như vậy biểu diễn soong hao ở hội Đền Hả của người Tày, Nùng đã thực sự tạo nên ngày hội văn hoá dân tộc của họ cùng cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang, chính những làn điệu dân ca này đã làm cuộc sống miền núi có đầy chất nhạc, thơ; tinh thần, người miền núi được nuôi dưỡng trong niềm tin yêu phơi phới. Biểu diễn văn nghệ trên sân khấu dân gian Vào dịp lễ hội, năm nào người ta cũng dựng một sân khấu ngoài trời tại sân đền. Tại sân khấu này nhân dân biểu diễn văn nghệ vào các buổi tói chơi hội (tối ngày 6, ngày 7. Trên sân khấu người dân biểu diễn các điệu múa dân gian của người Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu...) Những bài múa ấy các thôn trong xã chọn, tập luyện trên cơ sở đội văn nghệ thôn bản và biểu diễn tại lễ hội. Những bài múa được dựng theo chất liệu dân gian của từng dân tộc, nhóm dân tộc, Tày thì dựng múa Tày, Dao thì dựng múa Dao, Sán Dìu thì múa Sán Dìu... Tại sân khấu người dân không chỉ múa mà còn tự dựng những tiểu phẩm để diễn một cách vui vẻ bình đẳng. Có thể nói những diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả là rất đa dạng, có cả những diễn xướng đậm màu tín ngưỡng, có cả những diễn xướng đậm tính chất sinh hoạt thường ngày. 2.3.1. Những biến đổi của diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả Bïi ThÞ Hoa 29 Líp VHDT 10A
  • 30. Bµi tiÓu luËn Cùng với sự biến đổi của những trò chơi dân gian thì những diễn xướng dân gian ở lễ hội Đền Hả cũng có sự biến đổi do chịu sự chi phối của kinh tế xã hội. Những diễn xướng dân gian mang đậm màu tín ngưỡng như múa sênh tiền và rước thánh thì rất ít có sự biến đổi và hầu như được nhân dân ở Hồng Giang bảo lưu nguyên vẹn do niềm tin và truyền thống vẫn còn rất mạnh mẽ, sức mạnh văn hoá bản địa rất sâu rộng. Tuy nhiên những diễn xướng khác lại đang chịu sự chi phối mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, các dòng văn hoá ngoại lai và đang có sự biến đổi mạnh mẽ từ nội dung đến hình thức. Cụ thể như hát soong hao, giờ đây nhiều thanh niên người Tày, Nùng đã không còn biết hát nữa, những người hát giỏi soong hao chủ yếu là những người cao tuổi. Người dân đi trẩy hội hát soong hao ngày một ít đi, người ta còn không dám hát vì sợ sự kỳ thị của người khác. Nam nữ không còn hát đối đáp ở hội nữa mà chỉ dám hát dọc đường đi hội, nơi ít có người qua lại. Người ta cũng dần dần quên lãng những lời, những điệu hát lưu truyền trong dân gian. Sự mai một của soong hao là một hiện trạng đáng quan tâm, cần phải có biện pháp để bảo tồn phát huy, góp phần phát huy truyền thống văn hoá dân tộc miền núi. Những điệu múa dân gian của các dân tộc ngày càng bị mai một, người biết múa ngày một ít đi và người dân không say mê biểu diễn như trước kia. Trên sân khấu biểu diễn lặp đi lặp lại một số điệu múa của các dân tộc trong khi vốn của họ có rất nhiều, chưa được khai thác đúng mức. Cùng với những tiết mục văn nghệ dân gian trên sân khấu hầu hết đã được biểu diễn những bài hát, điệu múa hiện đại, diễn kịch bằng kịch bản hiện đại với nội dung về kế hoạch hoá gia đình, phát triển kinh tế VAC, chống tệ nạn xã hội... Bïi ThÞ Hoa 30 Líp VHDT 10A
  • 31. Bµi tiÓu luËn Những biến đổi trên là khó tránh khỏi. Tuy vậy, cần biết lựa chọn những yếu tố văn hoá tích cực trên cơ sở kế thừa truyền thống để xây dựng văn hoá Hồng Giang tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 2.4. Sự xuất hiện những trò chơi, diễn xướng hiện đại và sự tiếp nhận của công chúng trong lễ hội Đền Hả Theo những phân tích ở trên thì sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự giao lưu văn hoá làm xuất hiện những trò chơi mới và diễn xướng hiện đại, bên cạnh những trò chơi dân gian và diễn xướng dân gian. Ở một chừng mực nhất định, những trò chơi và diễn xướng hiện đại ấy có tác động hai chiều, cả tích cực lẫn tiêu cực, đến đời sống nhân dân cũng như nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc ở Hồng Giang. Có thể kể một số trò chơi và diễn xướng hiện đaị như: bóng đá, điện tử xèng, bi a, bi lắc, phi tiêu, ném ống bơ, hát karaokê… Điện tử xèng Là một trò chơi kinh doanh kiếm tiền của một số chủ kinh doanh dựa vào kỹ thuật điện tử. Chủ kinh doanh mua những chiếc máy điện tử đã được lập trình sẵn cách chơi, người chơi muốn tham gia phải có đồng xu điện tử. Chủ máy bán những đồng xu ấy cho người chơi thu lấy tiền mặt. Người chơi dùng xèng chơi với máy điện tử nhằm tìm kiếm sự may mắn, nếu thắng nhiều xèng thì bán lại cho chủ lấy tiền mặt mang về còn thua thì lợi nhuận thuộc về chủ kinh doanh. Những quán điện tử xèng mọc lên rất nhiều ở các hộ xung quanh đền. Về bản chất nó là một trò chơi kinh doanh vì đồng tiền, trò chơi này thu hút được số đông nam thanh niên chơi hội vào tham gia, nhiều người đã có gia đình rồi cũng tham gia chơi. Tham gia trò chơi này tạo cho con người sự phấn khích hồi hộp, ít nhiều giải toả những lo lắng, căng thẳng tạo không khí vui tươi trong ngày hội. Tuy nhiên đây là một trò chơi kinh Bïi ThÞ Hoa 31 Líp VHDT 10A
  • 32. Bµi tiÓu luËn doanh mang tính cờ bạc, phuơng hại đến kinh tế của từng cá nhân tham dự. Những người thua cuộc nhiều gây cảm giác cay cú phục thù, chơi ham quá thành ra nghiện, coi trò chơi này như một hình thức cờ bạc. Trong hội vui chơi một cách có văn hoá là điều đáng khuyến khích nhưng điện tử xèng cần phải có sự quản lý của chính quyền. Bóng đá Đây là trò chơi tập thể được tiếp thu vào Hồng Giang khá muộn. Hầu hết nam thanh niên ở đây đều rất thích chơi bóng đá, hâm mộ bóng đá. Các tầng lớp nhân dân ở đây rất say mê bóng đá, họ muốn được tham dự, cổ vũ cho những giải bóng đá tại địa phương. Mặc dù tiếp thu muộn nhưng phong trào bóng đá ở Hồng Giang phát triển rất mạnh mẽ. Bãi Bông đã được cải tạo thành một sân vận động rất rộng rãi và phẳng tạo điều kiện lý tưởng cho thanh niên chơi và luyện tập bóng đá. Người dân chơi bóng đá đúng như cách mà cả thế giới hiện nay chơi trò này. Mỗi năm đến dịp mở hội là xã Hồng Giang lại mở một giải bóng đá thi đấu giữa các thôn, giữa các xã hoặc cụm xã với nhau. Các đội đá vòng loại và trận chung kết sẽ được thi đấu vào chiều mồng 8 tại sân vận động Bãi Bông. Trò chơi này cùng với giải đấu của nó thu hút hầu hết quần chúng tham dự cổ vũ nồng nhiệt. Tham dự hội và cổ vũ bóng đá mới biết người dân ham mê trò chơi này thế nào. Đây là một trò chơi thể thao lành mạnh trong sáng đem lại lợi ích sức khoẻ cho người luyện tập và mang lại niềm hứng khởi, vui mừng thích thú cho bao người dự hội. Bóng đá làm hội Đền Hả thêm sôI nổi, mang thêm một màu sắc mới, màu sắc thể thao. Những lợi ích to lớn mà trò chơi này mang lại cho từng người chơi cũng như cổ vũ cho cả lễ hội là rất to lớn, chính quyền, đoàn thể địa phương cần đẩy mạnh phát triển trò chơi này cũng như các giải đấu bóng đá trong lễ hội Đền Hả phục vụ nhu cầu tham gia của nhân dân, thúc đẩy nhân dân luyện tập thể thao rèn luyện sức khoẻ. Bïi ThÞ Hoa 32 Líp VHDT 10A
  • 33. Bµi tiÓu luËn Trò phi tiêu trúng thưởng Trò chơi này cũng mở ra nhằm mục đích kiếm tiền từ các ông bà chủ kinh doanh. Người ta dùng những phi tiêu và bảng gỗ có ghi các phần thưởng trên đó. Người chơi sẽ phải dùng tiền mua phi tiêu để phi. Người ta bán phi tiêu khoảng 1000đ một chiếc tương đương với mỗi lần phi. Ai phi trúng ô có phần thưởng thì được thưởng chính vật ghi ở ô đó. Có biển gỗ là vòng tròn phi tính điểm, nếu phi được điểm cao thì được hưởng. Hầu hết người chơi đều không phi trúng được các phần thưởng như ý. do trò chơi này đòi hỏi sự khéo léo và mạnh mẽ. Trò chơi này cũng đem lại những lợi ích tinh thần nhất định, sau những lượt phi làm cho người ta vui vẻ thích thú. Tuy nhiên, tính chất thương mại của nó được đặt lên hàng đầu, chơi nhiều thành nghiện và phương hại không nhỏ đến kinh tế của người chơi. Trò chơi này cũng cần có sự kiểm tra quản lý của chính quyền. Đánh bi a Là trò chơi hiện đại du nhập muộn vào Hồng Giang. Chủ bàn mở trò chơi này để thu tiền lệ phí bàn theo tiếng. Nó thu hút số đông nam thanh niên tham gia để vui chơi giải trí và đánh thi tài. Trò chơi này mang tính văn hoá, sự khéo léo và tài năng rất cao. Tuy vậy nó rất dễ được sử dụng vào mục đích chơi ăn tiền sau mỗi ván thắng thua hoặc những hình thức khác. Rất nhiều nam thanh niên nghiện trò này và chơi kiếm tiền. Trò này cần được quản lý tốt của chính quyền. Cùng với các trò chơi hiện đại kể ở trên thì một số diễn xướng hiện đại cũng xuất hiện như hát karaoke. Hát karaoke kết hợp với khiêu vũ là một sinh hoạt văn hoá vui tươi mang tính giải trí cao làm con người tươi trẻ sảng khoái sau những vất vả của cuộc sống. Trong ngày hội lại là dịp tụ tập vui vẻ với bạn bè, gắn kết mọi người lại gần nhau, làm cân bằng tâm lý con người. Những ngày lễ Bïi ThÞ Hoa 33 Líp VHDT 10A
  • 34. Bµi tiÓu luËn hội diễn ra thì bên ngoài đền một số các rạp karaoke mọc lên và hoạt động rất mạnh, suốt ngày đêm. Cùng với những lợi ích ở trên thì tụ tập hát karaoke và nhảy suốt đêm sẽ tổn hại sức khoẻ của nam nữ thanh niên dự hội. Trong lúc vui hát thường say rượu bia dễ gây ra ẩu đả và tệ nạn xã hội. Trò này được mở ra nhằm mục đích kinh tế, làm ảnh hưởng đến môi trường âm thanh của người dân vào đêm khuya, ảnh hưởng đến vẻ linh thiêng của ngôi đền. Tóm lại, những trò chơi và diễn xướng hiện đại xuất hiện và tồn tại trong lễ hội Đền Hả ngày một nhiều hơn. Chúng có cả những giá trị tích cực và mặt tiêu cực. Bên cạnh việc khai thác những giá trị tích cực, chính quyền địa phương cần kiểm soát hạn chế mặt tiêu cực. Bïi ThÞ Hoa 34 Líp VHDT 10A
  • 35. Bµi tiÓu luËn CHƯƠNG 3 NHẬN XÉT VÀ KHUYẾN NGHỊ 3.1. Những giá trị văn hoá của các trò chơi, diễn xướng trong lễ hội Đền Hả Các trò chơi và diễn xướng trong lễ hội Đền Hả mang nhiều giá trị, đặc biệt là những giá trị về văn hoá mà nó đem lại. Tính thẩm mỹ Những trò chơi và diễn xướng dân gian ngoài mục đích là tạo ra sân chơi giúp đông đảo nhân dân tham gia vui chơi giải trí, biểu diễn, tạo cảm giác thoải mái thì bên cạnh đó nó còn mang tính nghệ thuật cao. Điển hình như trò chơi đánh quay: Đánh quay là trò được rất nhiều người yêu thích, nó tạo nên không khí vui tươi cho ngày hội. Để làm nên một con quay có thể chơi tốt trong hội thì đòi hỏi người tham gia phải chuẩn bị từ trước và để có một con quay quay tốt buộc người làm quay phải có kinh nghiệm trong việc làm quay từ các khâu chọn gỗ làm quay, phải chọn loại gỗ nào để khi đẽo, gọt quay không bị nứt, vỡ. Và quan trọng nhất là người làm quay phải biết một con quay có kích thước như thế nào là hợp lí và hình dáng phải đẹp mắt để tạo ra một con quay đạt yêu cầu. Quay được đẽo gọt công phu rồi người chơi phải biết chọn dây thả quay làm sao để sợi dây đó vừa mềm, vừa dai lại phải có độ dài, rộng phù hợp cho quay được thả dễ dàng, thuận lợi. Người chơi quay có vai trò rất quan trọng, khi thả quay đòi hỏi người chơi phải thật khéo léo lại phải thật dứt khoát, động tác mạnh mẽ khi thả quay. Để có những màn trình diễn quay hấp dẫn, thu hút người xem, tạo sự náo nhiệt vui vẻ cho ngày hội thì việc chuẩn bị cho trò chơi đó phải có sự chuẩn bị chu đáo từ trước. Quay được làm ra và trổ tài trong hội bởi những đôi tay khéo léo trước đông đảo quần chúng thì càng làm cho người làm quay có thêm sự Bïi ThÞ Hoa 35 Líp VHDT 10A
  • 36. Bµi tiÓu luËn phần khích, họ sẵn sàng đem sự khéo léo của đôi bàn tay để tạo ra những con quay vừa tít vừa đẹp góp phần vào không khí vui tươi của lễ hội. Diễn xướng dân gian trong lễ hội Đền Hả cũng giống như những trò chơi nhằm thu hút người dự hội tham gia vui chơi, biểu diễn, tạo sự thoải mái, vui vẻ khi tham dự lễ hội thì diễn xướng dân gian trong hội Đền Hả cũng mang trong nó tính nghệ thuật cao. Múa là một trong những hình thức diễn xướng dân gian ở hội Đền Hả. Để có thể tái hiện những sinh hoạt hàng ngày của con người không qua lời nói mà bằng những động tác của cơ thể nhằm phản ánh một cách sinh động, hấp dẫn cuộc sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của một con người thì đòi hỏi người tham gia múa vừa phải thực sự khéo léo, động tác phải mềm dẻo, uyển chuyển, nhịp nhàng mà lại phải dứt khoát và khớp nhịp. Hầu hết những trò chơi hiện đại thâm nhập vào dịp lễ hội Đền Hả thiếu tính thẩm mỹ cho nên muốn nâng cao tính thẩm mỹ của lễ hội, Đền Hả, cần tìm mọi biện pháp để phục hồi, phát triển các trò chơi, diễn xướng truyền thống. Tính cố kết cộng đồng Các trò chơi và diễn xướng trong lễ hội bên cạnh tính thẩm mỹ mà nó đem lại thì nó còn mang tính cố kết cộng đồng cao. Hồng Giang là một xã có nhiều dân tộc anh em cùng làm ăn, sinh sống ở đây từ lâu đời. Tuy không cùng dân tộc song họ sống rất chan hoà, đoàn kết, bình đẳng, không có mâu thuẫn giữa các dân tộc với nhau. Để có được điều này thì lễ hội là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm nên tính cố kết cộng đồng các dân tộc nơi đây. Đến lễ hội ngoài việc cầu khấn ra người ta còn tham gia vào hội qua các trò chơi, trò diễn. Như vậy có thể thấy các trò chơi và diễn xướng chính là linh hồn của hội. Các trò chơi và diễn xướng tại hội là nơi mà đông đảo quần chúng nhân dân cùng nhau tụ Bïi ThÞ Hoa 36 Líp VHDT 10A
  • 37. Bµi tiÓu luËn tập chơi vui, biểu diễn không phân biệt dân tộc, già trẻ, trai gái... đều có thể tham gia. Trong trò chơi ném còn, trước đây nó vốn là trò chơi của người Tày ở Hồng Giang nhưng qua thời gian được chơi trong mỗi kỳ hội thì nó đã trở thành trò chơi chung đối với tất cả những người dự hội. Tham gia trò chơi này, tất cả mọi người đều có thể chen lấn cố lấy được vài hạt thóc rang mong có được chút lộc về nhà. Đập niêu cũng thu hút được đông đảo mọi người tham dự, không phân biệt nam, nữ, kể cả trẻ em, người lớn tuổi cũng có thể chơi chỉ cần tuân theo đúng luật chơi. Hát soong hao là một hình thức diễn xướng dân gian của người Tày, Nùng, tạo nên không khí sôi động cho ngày hội chung của các dân tộc ở địa phương. Trong số những trò chơi hiện đại được du nhập vào hoạt động lễ hội Đền Hả, bóng đá là loại hình có khả năng cố kết cộng đồng khá cao, cần được phát huy. Qua việc tổ chức thi đấu, mối quan hệ làng xã được tăng cường, tinh thần thi đấu lành mạnh khiến cho cuộc sống cộng đồng càng thêm sôi động và khi cùng theo dõi đường chạy của quả bóng, mọi người cùng được sống trong bầu không khí vui tươi, đoàn kết. Điều cần lưu ý là phải cổ vũ cho tinh thần thể thao lành mạnh, tránh tư tưởng ăn thua, cay cú, dẫn đến sự mất đoàn kết trong cộng đồng. Như vậy các trò chơi và diễn xướng trong hội Đền Hả tuy có những phương thức khác nhau song đều mang những giá trị văn hoá sâu sắc mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị. 3.2. Khuyến nghị giải pháp bảo tồn và quản lý các trò chơi và diễn xướng trong hội Đền Hả Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về phần hội trong lễ hội Từ Hả gồm: Những trò chơi và diễn xướng dân gian cùng những biến đổi của chúng qua thời gian, những trò chơi hiện đại, là một sinh viên, tôi nhận thấy các Bïi ThÞ Hoa 37 Líp VHDT 10A
  • 38. Bµi tiÓu luËn cấp, ban ngành và đoàn thể quần chúng cần có những biện pháp thích hợp nhằm bảo tồn và phát huy những trò chơi, diễn xướng trong hội Đền Hả. Đối với cộng đồng và đoàn thể quần chúng Đây là một tập hợp đông đảo quần chúng có vai trò hết sức quan trọng đến việc bảo tồn và phát huy những trò chơi, diễn xướng. Do đó cần được tuyên truyền, giáo dục một cách sâu rộng bằng các hình thức khác nhau. Cần hướng sự hứng thú của quần chúng vào những hoạt động lành mạnh, có tính thẩm mỹ và tính cố kết cộg đồng cao. Ví dụ: Hàng năm nên phát động các cuộc thi tìm hiểu, thi biểu diễn các làn điệu dân ca của các dân tộc trong vùng. Xây dựng các câu lạc bộ chuyên đề về bảo tồn văn hoá truyền thống nhằm thu hút tất cả các tầng lớp nhân dân có thể tham dự. Khuyến khích thế hệ trẻ học hỏi các bậc cao tuổi về văn hoá truyền thống của dân tộc mình, đồng thời động viên các nghệ nhân, người cao tuổi có hiểu biết về văn hoá truyền thống, đặc biệt là những người có hiểu biết sâu sắc về các trò chơi và diễn xướng dân gian để họ sẵn sàng truyền đạt lại cho thế hệ trẻ. Tổ chức các câu lạc bộ thể thao mà trong đó có những môn thể thao được diễn ra ở hội, đặc biệt là bóng đá, đây là môn thể thao hiện đại thu hút được nhiều người hưởng ứng. Sự góp mặt của một số môn thể thao hiện đại trong hội sẽ góp phần làm tăng sự đa dạng trong phần hội, góp phần làm cho không khí ngày hội thêm sôi động, hấp dẫn. Đối với ngành Văn hoá – Thể thao – Du lịch Ngành Văn hoá - Thông tin có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hoá dân tộc, đặc biệt là các trò chơi, diễn xướng trong hội Đền Hả. Ngành Văn hoá - Thông tin cần điều tra, nghiên cứu các trò chơi, diễn xướng dân gian và hiện đại để thấy được những giá trị tích cực. Từ đó sẽ có phương hướng cụ thể trong việc tổ chức và quản lý các trò chơi, diễn xướng một cách hợp lý nhất. Đồng thời ngành Bïi ThÞ Hoa 38 Líp VHDT 10A
  • 39. Bµi tiÓu luËn văn hoá thông tin phải tham mưu cho các cấp Đảng, chính quyền và phối hợp với địa phương mở các lớp đào tạo nghiệp vụ bảo tồn văn hoá truyền thống của địa phương. Đối với các cấp chính quyền Các cấp chính quyền cần có những quyết định hành chính liên quan đến lễ hội, đặc biệt cần đầu tư mọi mặt để bảo tồn và phát huy các trò chơi, diễn xướng trong hội. Đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân trong vùng. Khi đời sống kinh tế được phát triển thì nhu cầu đời sống tinh thần của họ càng cao. Hàng năm vào ngày hội, các cấp chính quyền nên tổ chức các trò chơi và diễn xướng với quy mô phù hợp, đồng thời có những phần thưởng cho nhứng người thạm dự những trò chơI, diễn xướng có tính thẩm mỹ và tính cố kết cộng đồng cao, nhằm thu hút đông đảo người dân tham gia. Như vậy, các trò chơi và diễn xướng trong hội sẽ không bị mất đi mà vẫn được bảo tồn, phát huy có hiệu quả. Ngày nay do đời sống kinh tế phát triển, xuất hiên nhiều trò chơi có hậu quả xấu như: đánh đáo ăn tiền, đánh bạc dưới mọi hình thức, chọi gà ăn tiền, các cấp chính quyền cần phải có biện pháp loại trừ sự biến tướng của những trò chơi trên thay vào đó nên khuyến khích các trò thi tài, giải trí phù hợp và chiếu cố tất cả các giới để ai đến cũng có thể tham dự một, hai trò nào đó. Trong phần nghi lễ: Cần duy trì ở mức độ vừa phải việc dâng hương, dâng rượu. Chúc văn viết bằng chữ phổ thông mỗi năm cần thay đổi nội dung cho phù hợp, cập nhật với tình hình làng xóm. Tinh thần hội nhờ đó sẽ năng động hơn, ý nghĩa hội sẽ thiết thực hơn. Bïi ThÞ Hoa 39 Líp VHDT 10A
  • 40. Bµi tiÓu luËn KẾT LUẬN Lễ hội Đền Hả là một lễ hội có từ lâu đời và được cộng đồng nhân dân bảo tồn cho đến ngày nay, hàng năm vẫn được tổ chức vào ngày 8 tháng Giêng, nhân dân trong vùng cứ đến dịp này là nô nức kéo về đến thắp hương, khấn vái, vui hội, tham gia hát đối và chơi các trò chơi... Hội Đền Hả ngày càng được mở rộng về quy mô, thời gian, đã thu hút được không chỉ nhân dân trong vùng mà còn đông đảo nhân dân các nơi khác về dự. Những trò chơi và diễn xướng ngoài việc phục vụ cho nhu cầu tham gia vui chơi giải trí cho nhân dân, còn có những giá trị văn hoá có tác động tích cực đối với việc xây dựng đời sống hiện nay. Ngày nay, tuy các trò chơi và diễn xướng trong hội Đền Hả có xuất hiện những mặt tiêu cực, nhưng những mặt tích cực vẫn là mặt cơ bản, cần được bảo tồn và phát huy, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá ở cơ sở. Bïi ThÞ Hoa 40 Líp VHDT 10A