SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
Phong cách nghệ thuật truyện ngắn thạch lam luận văn th s. văn học 6793262
1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------
LÊ THANH HẢI
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức
HÀ NỘI-2010
2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------
LÊ THANH HẢI
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT
TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
HÀ NỘI-2010
3. 1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam
chỉ hiện diện chừng non mười năm, nhưng ông vẫn được xem là tác giả văn
xuôi có tầm vóc. Những sáng tác của ông khá đa dạng về thể loại: Các tập
truyện ngắn Gió lạnh đầu mùa” (1937); Nắng trong vườn (1938); Sợi tóc
(1942); tiểu thuyết Ngày mới (1939); tiểu luận Theo dòng (1941); bút ký Hà
Nội băm sáu phố phường (1943); truyện viết cho thiếu nhi : Quyển sách; Hạt
ngọc…Trong số đó truyện ngắn chiếm một vị trí quan trọng. Những sáng tác
của ông không chỉ có khẳng định sự nghiệp văn học của một nhà văn mà nó
còn có ý nghĩa to lớn đối với việc phát triển của lịch sử văn học nói chung và
thể loại truyện ngắn nói riêng.
Nhà văn Thạch Lam có một phong cách riêng “một lối riêng” trong Tự lực
văn đoàn. Ông cũng là cây bút truyện ngắn hiện đại mà sự độc đáo của phong
cách đến nay vẫn đầy sức hấp dẫn. Phong cách độc đáo thể hiện qua nhiều yếu
tố từ nội dung đến hình thức nghệ thuật. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật
truyện ngắn Thạch Lam chúng tôi muốn góp phần tìm ra cái riêng, cái độc
đáo trong phong cách nghệ thuật của nhà văn và những đóng góp của nhà văn
trong văn học Việt Nam 1930-1945.Từ đó có cơ sở để lí giải những đóng góp
có giá trị và sức sống của văn nghiệp Thạch Lam cùng vị trí xứng đáng của
ông trong nền văn học dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Thạch Lam là nhà văn “có tài nhất trong Tự lực văn đoàn” (Nhất Linh).
Ngay khi tập truyện đầu tay của ông ra đời, giới nghiên cứu phê bình đã quan
tâm chú ý. Tính đến nay đã hơn sáu mươi năm trôi qua, quá trình nghiên cứu
tìm hiểu văn chương Thạch Lam có lúc rầm rộ sôi nổi, có lúc yên ả lặng lẽ.
Các ý kiến đánh giá không khỏi khác nhau, nhưng nhìn chung là thống nhất.
4. 2
2.1 Trước năm 1945
Ngay khi tập truyện đầu tay “ Gió lạnh đầu mùa” ra đời, Khái Hưng đã
đánh giá rất cao văn phong của Thạch Lam. Với khả năng cảm nhận tinh tế
chính xác, Khái Hưng đã chỉ ra các đặc điểm nổi bật nhất, hơn người của
Thạch Lam là sự thành thực “Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng
rợn cả tâm hồn vì sự can đảm”, sự thành thực mà Khái Hưng từng ao ước
“nhưng không sao có được”. Ông đánh giá sự can đảm ấy tương đương với sự
can đảm ở Tolstôi. Khái Hưng là người đầu tiên nhận ra nhà văn Thạch Lam
là nhà văn của cảm giác, tư duy nghệ thuật của Thạch Lam là tư duy nghiêng
về cảm giác: “Nếu ta có thể chia ra hai dạng nhà văn: nhà văn thiên về tư
tưởng và nhà văn thiên về cảm giác, thì tôi qủa quyết đặt Thạch Lam vào
hạng dưới”.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã có công khảo sát và phân tích
một cách công phu dọc theo chiều dài sáng tác và phát hiện những nét đặc sắc
cơ bản của Thạch Lam. Ông vừa nhấn mạnh vào những phát hiện của Khái
Hưng vừa chỉ ra cụ thể hơn.Theo nhà nghiên cứu, Thạch lam có sở trường là
truyện ngắn. Ông “có một ngòi bút lặng lẽ và điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút đó
chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những tình cảm, những cảm giác
con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một cách tinh vi”.
Từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, Thạch Lam đã có một bước tiến dài về nghệ
thuật miêu tả cảm giác, nghệ thuật viết truyện ngắn. Ông nhấn mạnh “ngòi bút
Thạch Lam ghi cảm giác rất tài tình”, “cảm giác chiếm hẳn một phần quan
trọng”; “cảm giác rất nhỏ mà ảnh hưởng của nó đã rất lớn”. Nhà nghiên cứu
cũng đưa ra những nhận xét về nghệ thuật viết văn của Thạch Lam, “cái lối
viết nhẹ nhàng, kín đáo và xinh tươi trên này thật là một lối văn đặc biệt của
Thạch Lam, lối văn rất hợp với những truyện tâm tình”. Tuy nhiên ông cũng
5. 3
tỏ ra thiếu công bằng khi chê một số truyện là “tầm thường”, “đơn giản”,
“nhạt nhẽo và rời rạc” như Nắng trong vườn, Hai đứa trẻ, Đứa con đầu
lòng, Dưới bóng hoàng lan, Bên kia sông, Người đầm, Bóng người xưa
Nhân ngày giỗ đầu của nhà văn Thạch Lam, Thế Lữ, người bạn tâm giao
của ông đã viết rất hay về “Tính cách tạo tác của Thạch Lam”. Bên cạnh
những hoài niệm về cố nhà văn, Thế Lữ khẳng định: “Không một sáng tác nào
của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó”; “Thạch Lam
sống hết cả từng ý văn, từng câu văn anh viết trên giấy”. Cuối cùng ông kết
luận: “Sự thực tâm hồn mà Thạch Lam diễn trong lời của văn chương phức
tạp nhiều vẻ, nhưng bao giờ cũng đằm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào
một chút lệ thầm kín của tình thương”. Như vậy theo Thế Lữ, ở Thạch Lam,
văn chính là người.
Nhìn chung trước năm 1945 những bài viết về Thạch Lam đều là những
lời tri âm, những cảm nhận tinh tế. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho
rằng Thạch Lam có một phong cách riêng trong Tự lực văn đoàn.
2.2 Từ 1945 đến năm 1986.
Sau năm 1975, những bài nghiên cứu về Thạch Lam không có nhiều.
Trong đó đáng chú ý nhất là ý kiến của Nguyễn Tuân trong bài giới thiệu
riêng về Thạch lam. Nhà văn nổi tiếng và tài hoa này đã giành cho Thạch Lam
những lời thật trân trọng. Ông rất khâm phục nghệ thuật viết truyện của Thạch
Lam. Ông cho rằng “ Thạch Lam hay đi vào khám phá những cảnh ngộ trái
nghịch mà đồng thời cũng là đi sâu vào những tâm trạng, tâm tình, cảm xúc,
cảm giác”. Nhà văn đánh giá cao cách bố cục, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ
cách tả người tả việc …Ông chỉ ra một số truyện không nặng về cốt truyện mà
“nặng về biểu hiện mặt bên trong của suy nghĩ hơn là diễn tả cái bên
ngoài”.Và “ Bằng sáng tác văn học Thạch Lam đã làm cho Tiếng Việt gọn ghẽ
đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào
6. 4
tiếng ta”. Theo Nguyễn Tuân, đây là công lao lớn nhất của Thạch Lam đối với
nền văn xuôi nước nhà. So với Vũ Ngọc Phan, ông đã có bước tiến đáng kể
khi nhìn lại và nhìn đúng giá trị văn chương ở một số truyện thuộc loại
“truyện không có chuyện”, đã bị nhà nghiên cứu chê là tầm thường nhạt nhẽo
như Hai đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan. Tuy vậy, đôi chỗ ông cũng hơi khiên
cưỡng, cực đoan khi đánh giá những truyện như Nhà mẹ Lê, Người đầm…
Trong hai thập kỷ sáu mươi và bảy mươi, việc nghiên cứu Thạch Lam rơi
vào im lặng dè dặt. Ở miền Bắc, trong khi Tự lực văn đoàn hầu như không
được nhắc đến, có một số tác giả như Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn, Lê Thị
Đức Hạnh, Hà Minh Đức…đã có một vài bài báo đăng trên các báo và các tạp
chí chuyện ngành. Phần lớn các ý kiến chỉ dừng lại ở việc đánh giá tư tưởng,
lập trường quan điểm của nhà văn mà ít chú ý đến nghệ thuật viết văn của ông
.Tuy vậy những sáng tác của Thạch Lam vẫn được xem xét với thái độ trân
trọng (mặc dù dè dặt), thậm chí ông được xem là hiện tượng rất đặc biệt, tách
ra khỏi Tự lực văn đoàn. Nhìn chung những ý kiến đánh giá ở giai đoạn này
không có phát hiện gì mới đóng góp vào việc nghiên cứu Thạch Lam và văn
nghiệp của ông.
Ở miền Nam, trong thời gian này, giới sáng tác phê bình văn học đã đưa
ra hai tạp chí chuyên về Thạch Lam: Nguyệt san Văn số 36 (ra ngày
15.6.1965) và tạp chí Giao điểm (số ra 12.12.1971). Phần lớn bài viết ở hai
tạp chí này là những hồi kí của bạn bè và người thân viết về Thạch Lam, song
cũng có bài đi sâu vào tìm hiểu những nét đặc sắc của văn chương Thạch
Lam. Có thể kể tới các bài viết như: Thời của Thạch Lam của Dương
Nghiêm Mậu; Thạch Lam: những lời thủ thỉ của truyện ngắn của Đào
Trường Phúc; Hương thơm và nỗi u hoài của Nguyễn Nhật Duật; Thạch
Lam tiểu thuyết gia của Huỳnh Phan Anh… Đây là những bài viết đã đi thẳng
vào văn bản để tìm kiếm những nét đặc sắc, độc đáo của tác phẩm Thạch Lam,
7. 5
nhờ vậy mà không ít những nhận xét đều có tính thuyết phục. Tuy nhiên
những bài viết này chỉ mang tính phát hiện, gợi mở một số nét độc đáo về
phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Chúng chưa có tầm vóc như một công
trình nghiên cứu thực sự.
Trong suốt hơn 40 năm giới phê bình, nghiên cứu vẫn chưa có một
chuyên luận hay một tiểu luận nào thực sự đi sâu vào xem xét, nghiên cứu về
Thạch Lam một cách đầy đủ.
2.3 Từ những năm 1986 đến nay.
Bắt đầu những năm tám mươi, hoà chung không khí đổi mới của văn học,
việc đánh giá về vai trò và vị trí của Tự lực văn đoàn và việc nghiên cứu
Thạch Lam dần trở lại sôi nổi.
Trong lời giới thiệu về Gió đầu mùa (Từ điển văn học, Tập I; 1988),
Nguyễn Phương Chi và Nguyễn Hụê Chi đã phát hiện ra những hai yếu tố
hiện thực và thi vị “đan cài xen kẽ với nhau” trong truyện ngắn Thạch Lam.
Thạch Lam “thuộc số những nhà văn có khả năng đi sâu khai thác thế giới nội
tâm nhân vật một cách tinh tế và phát hiện được trong những cái bình thường
những điều sâu xa thầm kín”. Gió đầu mùa là tập truyện ngắn đầu tiên song
cũng là tập truyện ngắn bộc lộ rõ phong cách già dặn và điêu luyện của Thạch
Lam. Cũng trong tập truyện ngắn này thì chúng ta có thể thấy một Thạch Lam
với phong cách nhẹ nhàng, rất riêng so với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Nguyễn Hoàng Khung trong mục Thạch Lam (Từ điển văn học. Tập II,
1988) đã khẳng định thêm một lần nữa khuynh hướng đi vào thế giới bên
trong của Thạch Lam. Tác giả cũng cho rằng: “Văn của ông giản dị, trong
sáng nhiều khi nhẹ mà sâu sắc thâm trầm. Dường như ông là người đầu tiên
biết khai thác chất thơ trong đời sống hàng ngày”. Về mặt phong cách nghệ
thuật nhà nghiên cứu nhận xét “ Truyện của Thạch Lam xa lạ với mọi thứ hấp
8. 6
dẫn bề ngoài, nhiều truyện dường như không có cốt truyện, song vãn có sức
lôi cuốn riêng” [10. tr 347]
Trong Tuyển tập Thạch Lam(1988), Phong Lê viết lời giới thiệu khá dày
dặn. Đặt Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, nhà nghiên cứu đã xem xét truyện
ngắn Thạch Lam “ở giá trị hiện thực trên một số cảnh đời, ở tình thương và
lòng trân trọng người nghèo, ở ý vị và màu sắc dân tộc, mà Thạch Lam không
nặng vì những chữ dùng to tát, hoặc những cấu trúc gáp gáp, vội vàng. Câu
chữ chỉ cần đủ cho phô diễn, và ôm sát những cảnh ngộ, những tâm trạng cần
phô diễn”. Câu văn của Thạch Lam “mềm mại, uyển chuyển, giàu hình ảnh,
nhạc điệu mà không mất đi vẻ giản dị, tinh gọn, không thừa thãi lời, chữ,
không làm duyên dáng một cách uốn éo, cầu kỳ”. Tóm lại, Phong Lê đã khẳng
định Thạch Lam có “ những đóng góp cho câu văn xuôi Tiếng Việt giữ được
vẻ đẹp riêng tươi đậm và lâu bền của nó” [17. tr 28]
Tác giả Nguyễn Hoàng Khung trong Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn
Việt nam 1930-1945 (1989) tiếp tục đưa ra những nhận xét xác đáng về nghệ
thuật, về phong cách giàu chất nhân bản, chất thơ của truyện ngắn Thạch Lam.
Theo ông “nhiều truyện ngắn Thạch Lam không có truyện mà man mác như
một bài thơ”; “ngòi bút giản dị tinh tế lạ thường, ngôn ngữ đặc biệt trong
sáng đầy chất thơ…”… Thạch Lam đã góp phần nâng cao trình độ truyện
ngắn Việt Nam lên một bước mới.
Trong luận án PTS của Trần Ngọc Dung (1992) với đề tài “Ba phong
cách văn học Việt Nam thời kỳ đầu những năm 1930 đến 1945: Nguyễn
Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao” cho rằng: Thạch Lam đã xây dựng
những tình huống trữ tình với nhiều cách thức khác nhau; kết câu truyện “nói
chung đơn giản”. “kết cấu dựa theo tính chất và diễn biến tâm trạng của nhân
vật”. Thạch Lam có “giọng điệu trần thuật nhỏ nhẹ, dịu dàng, chậm rãi.”.
9. 7
“Truyện của Thạch Lam là tiếng nói trữ tình, chủ yếu diễn tả những tình cảm,
cảm xúc tinh vi, tế nhị của con người”
Các tác giả cuốn Tác giả văn học Việt Nam tập II (1993) cho rằng “ Phần
lớn truyện của Thạch Lam thuộc loại truyện không có chuyện. Mỗi truyện là
một tâm tình, một tâm trạng, nghĩa là một bài thơ trữ tình” [24.tr 118]
Năm 1995, kỉ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm năm mươi năm ngày mất
của Thạch Lam do Viện Văn học tổ chức được xuất bản với tên gọi Thạch
Lam văn chương và cái đẹp. Với hơn ba mươi bài viết của nhiều nhà nghiên
cứu có uy tín, truyện ngắn Thạch Lam được tiếp cận từ “một cái nhìn xã hội
và con người”, “văn chương và cái đẹp”, từ “thi pháp và thể loại”.
Năm 2001, cuốn Thạch Lam về tác gia và tác phẩm do hai tác giả Vũ
Tuấn Anh và Lê Dục Tú đã tuyển chọn, giới thiệu và tập hợp phần lớn các bài
nghiên cứu về Thạch Lam từ cuối những năm 1930 đến nay, cung cấp những
tài liệu cần thiết về cuộc đời và sự nghiệp của Thạch Lam. Sự xuất hiện của
tác phẩm đã chứng tỏ việc nghiên cứu Thạch Lam và những sáng tác của ông
đã có một bước tiến dài, và Thạch Lam đã được xếp vào hàng những nhà văn
lớn trong tiến trình của nền văn học Việt Nam.
Trong những năm gần đây, vận dụng lí thuyết về thi pháp học, nhiều luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã có những khám phá về những sáng tác của
Thạch Lam ở mọi phương diện. Luận án tiến sĩ của Phạm Thị Thu Hương
(1995) khẳng định ngôn ngữ của Thạch Lam tập trung diễn tả tâm trạng cảm
giác trên nhiều cấp độ. Thuộc thể loại truyện ngắn trữ tình, nên truyện của ông
có cách miêu tả hoà hợp giữa nội tâm và ngoại cảnh và kết cấu theo dòng tâm
trạng nhân vật. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thành Thi (2000) nghiên cứu khá
sâu sắc về phong cách văn xuôi nghệ thuật của Thạch Lam. Theo tác giả
những yếu tố như cốt truyện, kết cấu, tình huống, được nhà văn sáng tạo để
khắc họa nhân vật. Ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật của Thạch Lam là “ Ngôn
10. 8
ngữ của đời sống và của tâm hồn. Nét nổi bật ở đây là tính hiện đại và sức tập
trung gợi tả cảm giác”
Luận văn thạc sĩ phải kể đến: Thi pháp truyện ngắn Thạch Lam, của
Nguyễn Bích Thảo; Thạch Lam từ quan niệm nghệ thuật đến sáng tác của
Nguyễn Thị Thuý; Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Thạch Lam của
Vũ Thị Mỹ Hạnh; Hình tựơng nhân vật nữ trong truyện ngắn của Thạch
Lam của Hà Thuý Nga, Phong cách nghệ thuật Thạch Lam của Võ Thị
Hồng Thu, Quan niệm nghệ thuật của Thạch Lam của Đào Thị Yến…Nhìn
chung các luận văn trên khác nhau về góc nhìn, quy mô nghiên cứu, nhưng
trực tiếp hay gián tiếp đều góp một tiếng nói có ý nghĩa cho việc nghiên cứu
phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam.
Bên cạnh đó trong những năm qua các trường Đại học tổng hợp, trường
Đại học sư phạm trong cả nước đã có nhiều giáo trình nghiên cứu, giảng dạy
cho sinh viên khoa văn.
Tóm lại việc xem xét kết quả nghiên cứu trong hơn sáu mươi năm “tìm
kiếm Thạch Lam” có thể rút ra những ý kiến đã được thống nhất như sau:
Nhà văn Thạch Lam đứng giữa ranh giới văn học hiện thực và văn học
lãng mạn. Ông có sở trường về truyện ngắn, đặc biệt là truyện ngắn trữ tình và
có khả năng diễn tả những cảm xúc kỳ diệu trong tâm hồn con người.
Truyện ngắn của Thạch Lam ít hành động, vài trò của tất cả các yếu tố,
ngôn ngữ, cốt truyện, kết cấu, lời văn, giọng điệu, hệ thống nhân vật đã góp
phần làm nên một Thạch Lam rất riêng, đặc sắc so với Tự lực văn đoàn.
Tuy nhiên những ý kiến đó mới chỉ dừng lại ở việc nhận xét về các đặc
điểm nghệ thuật có ý nghĩa góp phần làm đầy đặn thêm nội dung. Đồng thời
cũng chưa có một đề tài nào đi sâu vào nghiên cứu phong cách nghệ thuật
truyện ngắn của Thạch Lam một cách sâu sắc và cụ thể. Chính vì vậy mà
trong luận văn này chúng tôi sẽ kế thừa và phát huy những nghiên cứu của
11. 9
những người đi trước, đồng thời cũng tránh sự trùng lặp trong nghiên cứu
chúng tôi đã chọn đề tài : Phong cách nghệ thuật truỵên ngắn Thạch Lam,
để góp thêm một tiếng nói khiêm nhường bổ sung vào chỗ khiếm khuyết đó.
3. Mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi đặt ra những mục đích sau:
-Khảo sát toàn bộ những bài tiểu luận phê bình về Thạch Lam, để thấy được
vị trí vai trò của nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Khảo sát toàn bộ truyện ngắn
của Thạch Lam để nghiên cứu, tìm ra những nét đặc sắc về phong cách nghệ
thuật của nhà văn. Từ đó cũng hiểu được quá trình sáng tạo nghệ thuật của nhà
văn, thấy được nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật qua những tác phẩm
của ông. Mặt khác luận văn cũng lí giải cho sự thành công, và sức sống của
văn nghiệp Thạch Lam cùng vị trí của ông trong tiến trình văn học Việt Nam.
-So sánh đối chiếu phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam với
phong cách nghệ thuật của các nhà văn đương thời để thấy được nét riêng biệt
trong phong cách của ông - một nhà văn với phong cách nhẹ nhàng mà thấm
đượm tình người.
4. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
-Lý thuyết về phong cách nghệ thuật .
-Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
-Khảo sát những tác phẩm truyện ngắn của nhà văn Thạch Lam để thấy
được nét riêng biệt ,đặc sắc trong phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch
Lam
4.2 phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp loại hình
Phương pháp nghiên từ góc nhìn thi pháp học
Phương pháp phân tích tổng hợp
12. 10
Phương pháp so sách đối chiếu , đây là phương pháp quan trọng nhằm
xử lí kết quả thống kê, phân loại, đi đến nhận xét đánh giá đối chiếu phong
cách nghệ thuật của Thạch Lam với các nhà văn đương thời.
5. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 4 chương.
Chương 1 : Phong cách nghệ thuật và hành trình sáng tác của Thạch
Lam
Chương 2 : Những kiểu nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam
Chương 3 : Không gian -thời gian nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam
Chương 4 : Ngôn ngữ và giọng điệu trong tác phẩm truyện ngắn Thạch
Lam.
13. 11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC CỦA
THẠCH LAM
1. 1 Khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn
Mặc dù xuất hiện từ rất sớm nhưng đến nay, phong cách vẫn là một khái
niệm rộng và đa nghĩa. Hiện nay đang tồn tại một số lượng rất lớn định nghĩa
khác nhau về phong cách, mỗi một định nghĩa đều đem đến cho người nghiên
cứu những cách tiếp cận khác nhau.
Trong khoa nghiên cứu văn học, người ta thường dùng thuật ngữ phong
cách để xác định đặc trưng phẩm chất của các hiện tượng: tác phẩm văn học,
nhà văn, trào lưu hay trường phái văn học. Nhiều nhất là khái niệm phong
cách nghệ thuật nhà văn. Có những nhà nghiên cứu văn học tiếp cận phong
cách học từ phía ngôn ngữ học,có người lại đưa vào phong cách cả tư tưởng,
đề tài, tính cách và ngôn ngữ hay cũng có người xem, phong cách là sự thống
nhất hữu cơ của tất cả các thành tố tạo nên tác phẩm văn học.
Việc nghiên cứu phong cách nhà văn là một trong những vấn đề lí luận đã
và đang gây nhiều tranh cãi, không chỉ ở Liên Xô cũ mà còn ở nhiều nước
khác trên thế giới. Có thể kể ra một số những nhà nghiên cứu đã trở nên quen
thuộc với độc giả Việt Nam như: Khrachenko M.V; Tritrerin A.V; Timôphêep
L.I; Paxpelop G.N; Xôlôkhốp A.N…ở Việt Nam, cũng có một số nhà nghiên
cứu bàn sâu về vấn đề phong cách như: Nguyễn Đăng Mạnh, Lê Đình Ky,
Phan Cự Đệ, Phan Ngọc…với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Trong thời kỳ hiện đại, dưới quan điểm của các nhà nghiên cứu văn
học, phong cách được xem như một phạm trù thẩm mỹ, một hiện tượng văn
học nghệ thuật, bao gồm trong đó tất cả sự đa dạng và phức tạp của nó. Phong
cách giờ đây được nghiên cứu trong mối quan hệ với tư tưởng, với nhà văn,
14. 12
với thời đại hay “giữa quá trình phong cách và truyền thống phong cách” giữa
“phong cách, phương pháp, cuộc sống” hay giữa “cốt truyện và phong
cách”… Phổ biến nhất, phong cách được hiểu theo 2 cách : thứ nhất, phong
cách là tính cá thể hoặc tính độc đáo; thứ hai phong cách là hệ thống các
phương tiện biểu đạt, là hình thức nghệ thuật được xem xét trong quy luật và
các nguyên tắc hài hoà. Qua các tài liệu bàn về lí thuyết phong cách, chúng
tôi thấy nổi bật lên ba vấn đề sau đây:
1 .1 Phong cách nghệ thuật nhà văn ;là sự thống nhất các đặc tính vốn có của
tất cả các tác phẩm của nhà văn đó. Trong thực tế cho thấy, phong cách vừa
có mặt thống nhất, vừa có mặt đa dạng. Phong cách là một cái gì đó rất chung
mà không trừu tượng, có thể thâu tóm tất cả nhưng lại là hình ảnh sinh động
của nhà văn, là thần thái là linh hồn của tác phẩm nhưng cũng là tâm trạng,
cách nhìn, giọng điệu, nụ cười quen thuộc của người nghệ sĩ. Cho nên, xác
định phong cách nếu chỉ sa vào phân tích những chi tiết, những yếu tố riêng rẽ
thì không hình dung được phong cách. Ngược lại, nếu tìm hiểu phong cách mà
chỉ tập trung vào một vài nét thống nhất nào đó thì cuối cùng không nói được
một điều gì về phong cách.
Vì vậy, nói đến phong cách trước hết phải nói đến tính thống nhất của nó
như một chỉnh thể nghệ thuật. Ở một nhà văn lớn, sự thống nhất về phong
cách được thấy rõ ở hàng loạt các tác phẩm. Điều đó có nghĩa là, chúng ta có
thể nhận ra phong cách của nhà văn khi đã biết từ trước qua các tác phẩm khác
của ông ta. Phong cách là sự thống nhất cuối cùng các yếu tố trong tác phẩm
từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng điệu…
1 .2 Phong cách là khái niệm bao gồm cả hình thức nội dung và nghệ thuật.
Nói phong cách là nói phẩm chất thẩm mỹ của tác phẩm văn học, nói tới
những sáng tạo độc đáo của nhà văn theo quy luật cái đẹp trong đó có mang
dấu ấn dân tộc và thời đại. Bởi vậy phong cách trước hết thể hiện ở hình thức
15. 13
nghệ thuật. Nhưng nếu như không nắm được tính độc đáo của nhà văn và tác
phẩm nghệ thuật thì cũng khó quan niệm được phong cách một cách sâu sắc.
Nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh đã nói “Không tìm ra cơ sở tư tưởng của phong
cách thì không phát hiện ra quy luật nghệ thuật và tính thống nhất bên trong
của phong cách”[21, tr.76 ].
Phong cách có thể nói rõ hơn ở nội dung tư tưởng hoặc đậm nét hơn ở
hình thức nghệ thuật. Tuy nhiên, trên cơ sở thống nhất biện chứng giữa nội
dung và hình thức, một phong cách thiên về nội dung vẫn có liên quan đến
hình thức nghệ thuật và một phong cách thiên về hình thức vẫn có gốc rễ ở nội
dung. Như vậy khi nói đến phong cách phải nói đến sự thống nhất giữa hình
thức và nội dung, tư tưởng và nghệ thuật “Phong cách liên hệ hình thức với
nội dung, cái biểu đạt với cái được biểu đạt. Phòng cách là chất liệu nghệ
thuật trong đó được thể hiện tư tưởng của người nghệ sĩ. Chính ở đây bộ lộ sự
phụ thuộc của phong cách vào tư duy hình tượng, thế giới quan”(Xôkôlốp
A.N). Như vậy phong cách nghệ thuật biểu hiện cả trong nội dung và hình
thức, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và bền vững, thể hiện được cả tính
sáng tạo của nhà văn.
1 .3 Phong cách nghệ thuật tập trung trong những đặc điểm mang giá trị
phẩm chất nghệ thuật cao, được kết tinh trong sự sáng tạo của nhà văn. Nói
đến phong cách là nói đến tính độc đáo của phẩm chất thẩm mĩ - nghĩa là phải
đem lại cho người đọc một sự hưởng thụ thẩm mĩ khiến cho họ tìm thấy sự
khác biệt giữa tài năng này với tài năng khác. Đó là một sự khó khăn đối với
quá trình sáng tạo của nhà văn. Chính vì thế không phải nhà văn nào cũng có
phong cách, mặc dù xét cho cùng, nhà văn nào cũng có đặc điểm riêng. Đặc
điểm mờ nhạt thì chưa thể có ý nghĩa gì với nghệ thuật phải là chỗ độc đáo
không thể thay thể được mới làm nên phong cách của nhà văn. Chỉ cần có sự
lặp đi lặp lại trong sáng tác nghệ thuật đã được gọi là đặc điểm, nhưng phong
16. 14
cách phải lặp đi lặp lại một cách đổi mới, phải là những sáng tạo có giá trị
bền vững, không bị phai mờ.
Mỗi một nhà văn đều có ít nhiều những đặc điểm riêng trong sáng tác,
nhưng những đặc điểm ấy phải phát triển đến một trình độ nghệ thuật nào đó
và hợp thành một chỉnh thể thống nhất, độc đáo và bền vững thì mới trở thành
phong cách. Cho nên, quá trình khẳng định phong cách của một nhà văn là
quá trình tu dưỡng nghệ thuật, quá trình nhà văn tự tìm hiểu chỗ mạnh, chỗ
yếu và bản sắc của mình. Có thể nói, phong cách là dấu hiệu trưởng thành của
một nhà văn, hơn thế nữa nó phát triển nở rộ thì đó là bằng chứng của một nền
văn học đang phát triển và trưởng thành.
Phong cách nghệ thuật độc đáo giúp cho sáng tác của người nghệ sĩ có
được bản sắc riêng. Chính cái mới lạ cái độc đáo trong phong cách nghệ thuật
giúp cho tác phẩm văn chương lay động được lòng người, tạo cho bạn đọc
hứng thú khi đọc tác phẩm. Phong cách nghệ thuật riêng độc đáo cũng là yếu
tố mới lạ kích thích bạn đọc, như cái duyên để họ bị cuốn hút bởi giọng văn,
một bút pháp, hay bị ám ảnh bởi hình tượng nghệ thuật nào đó, để rồi cái
giọng văn, hình tượng nghệ thuật đó sống mãi trong tâm hồn người đọc.
Tóm lại xung quanh khái niệm phong cách nghệ thuật nhà văn, có nhiều
vấn đề đang cần phải bàn luận. Tuy nhiên để có một khái niệm thích đáng cho
việc giải quyết vấn đề của luận văn, chúng tôi xác định nội hàm khái niệm
phong cách nghệ thuật như sau:
-Nói đến phong cách nghệ thuật của nhà văn, trước hết phải nói đến tính
thống nhất của nó được bộc lộ ở hàng loạt các tác phẩm và thể hiện ở mọi
bình diện, từ đề tài, chủ đề, kết cấu, hình tượng, giọng văn, ngôn ngữ và mọi
chi tiết khác của tác phẩm.
-Nói phong cách là nói phẩm chất thẩm mĩ của tác phẩm văn học, nói tới
những sáng tạo độc đáo của nhà văn theo quy luật của cái đẹp, điều đó được
17. 15
lặp đi lặp lại một cách có hệ thống, tạo được một chỉnh thể hoàn chỉnh và
bền vững, thể hiện được cá tính sáng tạo của nhà văn.
- Phong cách trước hết thể hiện ở hình thức nghệ thuật của tác phẩm, nhưng
nếu không nắm được tính độc đáo của tư tưởng nhà văn và tác phẩm, ở đây
là tư tưởng - nghệ thuật thì cũng không quan niệm phong cách được một
cách sâu sắc. Như vậy phong cách là khái niệm bao gồm cả nội dung lẫn
hình thức nghệ thuật, tuy nhiên, phong cách thể hiện một cách cụ thể nhất,
rõ rệt nhất ở hình thức nghệ thuật.
1.2 Khái niệm truyện ngắn.
Với khái niệm Truyện ngắn, việc xác lập lại một khái niệm cũng là vấn
đề không dễ “Thật ra thì cho đến bây giờ cũng chưa có ai tìm ra được một
khái niệm thật chuẩn về tiểu thuyết hay truyện ngắn” [46, tr. 20 ], bởi truyện
ngắn cũng như tiểu thuyết luôn biến chuyển.
Truyện ngắn có nguồn gốc tiếng Italia, novella có nghĩa đầu tiên là “cái
tin”, “một chuyện mới lạ” (Tiếng Pháp; Nouvelle, tiếng Anh short story,
tiếng Trung Quốc; Đoản thiên tiểu thuyết). Trước đến nay có rất nhiều cách
định nghĩa khác nhau về thể loại truyện ngắn ở khắp các châu lục. Nhà thơ
Đức, Gớt, xác định Novella là “là một câu chuyện lạ đang xảy ra làm ta
kinh ngạc” [35 tr,11 ]. Nhà văn K. Pauxtôpxki (Nga) cho rằng: “Thực chất
truyện ngắn là gi? Tôi nghĩ truyện ngắn là một truyện ngắn gọn trong đó
cái không bình thường hiện ra như một cái gì đó bình thường” [35 ,tr16]. D.
Grônôpxki trong sách Đọc truyện ngắn viết “Truyện ngắn là một thể loại
muôn hình, muôn vẻ, biến đổi không cùng. Nó là một vật biến hoá như quả
chanh của Lọ Lem. Biến hoá về kiểu loại: tình cảm, trào phúng, kỳ ảo,
hướng về biến cố thật hay tưởng tượng, hiên thực hoặc phóng túng. Biến
hoá về nội dung: thay đổi vô cùng tận…Trong thế giới của truyện ngắn, cái
18. 16
gì cũng thành biến cố, thậm chí sự thiếu vắng tình tiết, diện biến cũng gây
hiệu quả, vì nó làm cho sự chờ đợi bị hẫng hụt” [35 , tr.12 ].
Như vậy qua các tài liệu hiện hành và ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu,
phê bình và các nhà văn chúng tôi thấy truyện ngắn là một khái niệm rất khó
xác định cả về phương diện nội dung và hình thức. Lí luận về truyện ngắn
trở nên phong phú hơn nhờ ý kiến, kinh nghiệm của các nhà sáng tác từ
những Sêkhốp, Môom Môham, E.Hêminuê, An-tô-nôp.. ở nước ngoài, đến
những Nguyễn Công Hoan, Bùi Hiển, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc,
Nguyễn Kiên… ở nước ta.
Tuy nhiên, qua các tài liệu viết về truyện ngắn mà chúng tôi tiếp cận
được, chúng tôi thấy ý kiến của các nhà lí luận nhất là ý kiến của các nhà
sáng tác quả là có nhiều điểm không thống nhất, đặc biệt khi so sánh truyện
ngắn và tiểu thuyết về tính chất (chứ không phải độ ngắn dài)-một vấn đề
then chốt để xác định thể loại truyện ngắn. Chẳng hạn nhiều ý kiến cho
rằng, so với tiểu thuyết, truyện ngắn thường đề cập đến những vấn đề có
tính thời sự nóng hổi và thuộc về vấn đề đời sống hàng ngày của con người,
nội dung truyện ngắn đơn giản hơn, thường chỉ có một chủ đề, ít nhân vật
hơn, cốt truyện ít phức tạp, thường chỉ là một lát cắt, một khúc, hay một
khoảnh khắc nào đó của cuộc đời nhân vật…
Mặc dù chưa đi đến thống nhất về định nghĩa nhưng phần lớn các nhà
văn và các nhà nghiên cứu đều đồng ý cho rằng, truyện ngắn là một hình
thức tự sự cỡ nhỏ, tập trung mô tả một mảnh cuộc sống, một vài biến cố
trong đời sống nhân vật, biểu hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật,
một khía cạnh nào đó của xã hội. Truyện ngắn có tính quy định về dung
lượng, cốt truyện, nghệ thuật xây dựng và khắc họa tính cách nhân vật cũng
như nhiều đặc điểm khác về thời gian, không gian, biến cố, chi tiết nghệ
thuật.
19. 17
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi không có ý
đi tìm một định nghĩa chuẩn về thể loại truyện ngắn cũng như không có
tham vọng xây dựng khung đặc điểm về thể loại văn học này. Như vậy để
khảo sát về truyện ngắn không nhất thiết phải có một định nghĩa về truyện
ngắn tương ứng với mọi trường hợp trong thực tế văn học. Điều quan trọng
là xác định đâu là những bình diện quan trọng nhất xét về thể loại truyện
ngắn mà các phong cách truyện ngắn khác nhau đều bộc lộ những đặc trưng
cơ bản. Những bình diện này, một mặt phải là chung cho các loại truyện
ngắn, hay nó là những “linh kiện” không thể thiếu của cơ chế truyện ngắn,
đồng thời là nơi mà các phong cách truyện ngắn khác thể hiện những sáng
tạo độc đáo nhất.
Do vậy, xuất phát từ việc tìm hiểu phong cách nghệ thuật nhà văn dưới
góc độ thể loại nên chúng tôi tập trung vào những bình diện cơ bản sau của
truyện ngắn để tìm hiểu về phong cách nghệ thuật nhà văn:
-Khuynh hướng tư tưởng nghệ thuật: cảm quan về thế giới và con người
-Sự sáng tạo tình huống truyện
-Kết thúc truyện, cách mở đầu, kết thúc
-Nhân vật truyện
-Nghệ thuật trần thuật
-Ngôn ngữ
Mặc dù 6 bình diện trên đây chưa bao quát được đầy đủ các vấn đề của
phong cách truyện ngắn, nhưng đó là 6 bình diện cơ bản nhất, mà trong
khuôn khổ của luận văn, cần xác định và tìm hiểu. Bên cạch đó không phải
một phong cách nhà văn nào cũng có những sáng tạo độc đáo ở cả 6 bình
diện trên. Chính vì vậy mà trong giới hạn của đề tài sẽ đi phân tích bám vào
các bình diện của phong cách nghệ thuật truyện ngắn, dựa vào đặc điểm của
mỗi tác phẩm, trong những giai đoạn sáng tác nhất định.
20. 18
1. 3. Hành trình sáng tác của nhà văn Thạch Lam.
1. 3.1. Con người và sự nghiệp văn chương của Thạch Lam.
Thạch Lam là nhà văn đã trở nên thân thiết với bao thế hệ bạn đọc, từ
khi ra đời cho đến ngày hôm nay. Mặc dù nhà văn đã qua đời khi tuổi còn rất
trẻ. Ông mắc bệnh lao và mất khi tuổi 32 (1942) cái tuổi mà tài năng đang đến
độ chín và nổ rộ và để lại cho bạn bè niềm thương tiếc về một tài nghệ văn
chương. Dù thời gian cầm bút trong khoảng mười năm nhưng Thạch Lam đã
để lại cho đời những áng văn chương mà cho đến nay vẫn còn sự hấp dẫn với
bạn đọc. Đó là những trang truyện ngắn giàu chất trữ tình, giàu tình yêu
thương, đẹp đẽ và thấm đượm tình người.
Thạch Lam sinh ngày 7/7/1910 tại ấp Thái Hà- Hà Nội. Khi mới sinh đặt
tên là Nguyễn Tường Sáu, đến khi đi học tại trường huyện Cẩm Giàng thì khai
sinh lại là Nguyễn Tường Vinh. Năm mười lăm tuổi vì cần thêm tuổi để thi
vượt cấp ông lại khai sinh lại và lấy tên là Nguyễn Tường Lân và cái tên đó
giữ nguyên cho đến khi nhà văn qua đời. Ngoài bút hiệu Thạch Lam ông còn
một số bút danh khác như Việt Sinh, Thiện Sĩ.
Cha Thạch Lam là cụ Nguyễn Tường Nhu quê ở làng Cẩm Phổ, Hội An
(Quảng Nam). Ông nội Thạch Lam nguyên là tri huyện Cẩm Giàng (Hải
Dương), trong thời gian làm quan đã cùng một người đồng sự trở thành thông
gia. Ông Nguyễn Tường Nhu thành thân với con gái của ông Lê Quang
Thuận là bà Lê Thị Sâm, sinh hạ đựơc bảy anh em và Thạch Lam là con thứ
sáu.
Tuổi thơ Thạch Lam sống ở quê ngoại phố huyện Cẩm Giàng, Hải
Dương. Cả thời thơ ấu của ông gắn liền với phố huyện nhỏ bé này và cũng từ
những kỷ niệm này mà nhà văn đã đưa vào trang văn của mình những truyện
ngắn thành công. Và Cẩm Giàng là quê hương văn học của ông
21. 19
Trong gia đình của Thạch Lam có bảy anh em nhưng chỉ có một chị gái
duy nhất là Nguyễn Thị Thế. Chị ở nhà lo nội trợ còn sáu anh em đều được
học hành tử tế và đỗ đạt cao. Anh cả của Thạch Lam là Nguyễn Tường Thụy
(1903) là chuyên viên cao cấp của ngành Bưu điện. Anh thứ hai là Nguyễn
Tường Cẩm (1904) là kĩ sư canh nông. Ông Cẩm là người sau nay giữ chức
quản trị cho các cơ sở văn hóa của Tự lực văn đoàn. Anh trai thứ ba là
Nguyễn Tường Tam (1905) có bút danh là Nhất Linh, là người sáng lập ra Tự
lực văn đoàn và tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay...Nguyễn Tường Long (1907)
là anh thứ tư, có bút danh là Hoàng Đạo, Tứ Ly cũng là thành viên của nhóm
Tự lực văn đoàn. người thứ năm là Nguyễn Thị Thế (1909) là mẹ của nhà văn
Thế Uyên tác giả của những hồi kí viết về gia đình Nguyễn Tường. Thạch
Lam là con thứ sáu và người em út của nhà văn là bác sĩ Nguyễn Tường Bách.
Tên của bảy anh em nhà Thạch Lam được đặt theo bộ chữ “ Thụy Cẩm
Tam Long Vinh Bách Thế”, có nghĩa là ba con rồng bằng ngọc làm đẹp vinh
hiển cho đời.
Trong số bảy anh em thì “Thạch Lam là người thông minh nhất nhà” đó
là lời nhận xét của chị gái nhà văn. Nhưng cuộc đời nhà văn lại không suôn
sẻ, luôn gặp những bất trắc, những trở ngại trong cuộc đời, từ việc công danh
cho đến gia đình. Năm lên bảy tuổi thì cha mất (khi đang làm việc tại tòa công
sứ bên Lào). Gia đình bắt đầu lâm vào cảnh khó khăn. Mẹ nhà văn đã phải
ngược xuôi đủ nghề để kiếm sống nuôi các anh em ăn học. Các anh của
Thạch Lam đi học trên Hà Nội thỉnh thoảng mới về, ở nhà chỉ có hai chị em
(nhà văn và chi gái) trông quán hàng tạp hóa cho me. Những kỉ niệm êm đềm
thời thơ ấu cùng người chị gái bên phố chợ Cẩm Giàng đã theo nhà văn vào
những câu truyện của ông sau này như: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ...
Khi nhà văn lên mười lăm tuổi ông làm lại giấy khai sinh, tăng tuổi để
vào học trường Canh Nông (Tuyên Quang) và thi đỗ vào trường Cao Đẳng
22. 20
tiểu học. Sau một thời gian gia đình rời khỏi phố huyện Cẩm Giàng lên Hà
Nội, ông thôi không theo học trường Canh Nông và quyết định theo học
trường Albert Sarraut để thi tú tài. Đỗ tú tài một phần, ông không học tiếp nữa
mà quay về học với các anh trai tại nhà. Có một thời gian ông theo Hoàng
Đạo vào Sài Gòn ở với người anh thứ hai là Nguyễn Tường Cẩm đang làm Sở
Canh nông. Sau đó khoảng hai năm khi Hoàng Đạo bị đổi sang Lào thì ông
lại trở ra Hà Nội. Ông sống với gia đình và chuẩn bị đi du học bên Pháp cùng
Nhất Linh, nhưng chính quyền Pháp chỉ cho Nhất Linh đi. Năm 1932, Nhất
Linh sáng lập nên Tự lực văn đoàn và kể từ đây Thạch Lam bắt đầu sự nghiệp
sáng tác văn chương của mình.
Năm ông hai mươi lăm tuổi ông lập gia đình. Vợ ông là một người con
gái quê ở Ninh Bình, bà Nguyễn Thị Sáu là một người phụ nữ hiền lành nết
na, đoan trang yêu thương chồng con, khi Thạch Lam qua đời, bà đã ở vậy và
nuôi con khôn lớn.
Thạch Lam trong con mắt của người thân là người “mắt nâu và sâu, tóc
hơi đỏ” [1. tr352]. Theo chị gái kể lại rằng: Vinh có một cái áo mà cậu rất
thích “ Trong số đó có cái áo ma ga mà bà tôi bào người ta dệt bằng tóc, mua
cho thằng cả từ mười năm rồi” Vinh rất thích lấy ra sờ đi sờ lại cái áo này rồi
hỏi: Bà ơi người ta lấy tóc của ai mà dài thế ? Vinh ưa cái áo đó lắm vì mặc
ấm mà không bẩn vì bụi dính vào chỉ đập mấy cái là sạch. Tuy quý cái áo như
thế nhưng đến mùa đông thấy con chị Lê bên hàng xóm rét run cả ngày không
dám ra đường chơi cứ chúi vào ổ rơm Vinh đã cởi ra cho nó mặc.” Khi chị Lê
mang sang trả Vinh đã nói “cháu cho nó vì thấy nó rét quá. Cháu không thích
cái áo ấy nữa vì nó làm bằng tóc, mặc ngứa lắm. Cháu đã có cái áo di lê này
là đủ ấm rồi” [1. tr 352] Vinh đã biết nói khéo để chị Lê nhận nó mà không
thấy áy náy.
23. 21
Khi còn nhỏ Thạch Lam là người có niềm say mê khám phá sự vật, muốn
nắm bắt được những gì mà mình cảm thấy thích thú. Chị gái của nhà văn kể
lại rằng ông thích ngắm tàu chạy qua phố “Hôm nào đi học, em tôi cũng cố đi
sớm để lên cầu đứng lọt vào cột sắt đợi tàu chạy qua”. Vinh còn mê bánh xe
tàu hỏa đến mức mạo hiểm “Nó giằng tay tôi chạy vọt lên, bò tới trước bánh
xe lấy tay sờ lấy làm thú lắm. Nó vẫy tay tôi theo vào gầm toa với nó: [46 .
tr354]. Hết say xe lửa Vinh lại chuyển sang mê thỏ “suốt ngày nó ngồi ngắm
hai con thỏ bạch mắt đỏ của một người quen cho” : [1. tr 354]. Sự say mê rất
trẻ thơ đó có thể là những khởi đầu của những tình cảm với thế giới xung
quanh và tạo cho nhà văn lòng yêu mến, say mê và nâng niu cuộc sống.
Trong số những anh em trong gia đình Thạch Lam là người có cuộc sống
vất vả về vật chất. Lấy vợ xong, ông ra ở căn nhà tranh ở đầu làng Yên Phụ:
“Nhà mái tranh, cổng gỗ giữ nguyên vẻ thanh sơ, tuy rằng nếu muốn chủ nhân
lợp mái ngói, xây tường gạch”, nhưng tuyên bố “ở được nhà lá, nằm được
giường tre, ăn được rau đậu mà vẫn tìm thấy cái đẹp của mái lá, cái êm của
giường tre, cái ngon của rau đậu mới là biết sống có nghệ thuật” {46 .tr 391].
Cuộc sống của Thạch Lam nghèo nhưng thanh lịch. Ông nghèo nhất so với
mấy anh em, lương làm báo chỉ có ba mươi đồng “không bao giờ nhận sự
giúp đỡ của ai, dù của mẹ hay các anh” [ 1 .tr 356].
Trong cuộc sống đời thường Thạch Lam là một người khá ít nói, rất
điềm đạm không bao giờ to tiếng với bất cứ ai. Về quan hệ bạn bè ông ít giao
du và ít bạn. Nếp sống của Thạch Lam tuy thanh bạch, thích yên tĩnh, nhưng
căn nhà ở Hồ Tây luôn đón những người bạn bạn thân thiết đến với tác giả.
Thạch Lam nghèo nên có lần tổ chức trung thu ông viết “viết thiếp mời bạn bè
đến dự nhưng lại chữa thêm là ai tới phải mang một món ăn theo”[1. tr536]
Năm 1932 Nhất Linh thành lập Tự lực văn đoàn, từ đây Thạch Lam bắt
đầu sự nghiệp cầm bút của mình. Ông sáng tác bài cho các báo Phong Hóa,
24. 22
Ngày Nay...với đủ các thể loại, truyện, tùy bút...Đương thời sách của Thạch
Lam bán không chạy, có thể nói là ế nhất Tự lực văn đoàn, nhưng những
truyện ngắn của ông vẫn mang một phong cách riêng, văn ông viết không
chạy theo thị hiếu thời thượng của người đọc. Đó là một lối viết tinh tế nhẹ
nhàng đậm chất thơ.
Chỉ trong một khoảng thời gian cầm bút ngắn ngủi ông đã để lại 35
truyện ngắn sau đó được tập hợp thành 3 tập truyện ngắn
1. Gió đầu mùa (Xuất bản 1937)
2. Nắng trong vườn (Xuất bản 1938)
3. Sợi tóc (Xuất bản 1942)
Ngoài ra ông còn có một tiểu thuyết Ngày mới (1939), tùy bút Hà Nội
băm sáu phố phường (1943) Theo Dòng, tiểu luận văn học (1941). Ông có
bốn tập Sách Hồng viết cho thiếu nhi với bút danh Thiện Sĩ Quyển Sách
(1940), Hạt Ngọc (1941), Hai chị em và Lên chùa.
Là người nghệ sĩ có tâm hồn lãng mạn yêu cái đẹp, hướng tới cái đẹp.
Và những sáng tác của ông chính là “sự tìm kiếm cái đẹp bị đánh mất” và
chính ông là người suốt đời “chắt chiu cái đẹp” theo ông “cái đẹp man mác
khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm tiềm tàng ở mọi vật tầm thường.
Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ không ai ngờ, tìm cái đẹp
kín đáo để che lấp của sự vật khác một bài học trông nhìn và thưởng thức”
[20. tr 39.].
Trong toàn bộ truyện ngắn của ông ta thấy cái đẹp mà ông tìm kiếm
chính là cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Trong văn chương của
ông ta ít gặp những nhân vật phản diện, cái xấu, cái ác...Do vậy truyện ngắn
của ông ít ngột ngạt cùng quẫn mà thường tĩnh lặng thâm trầm đậm chất thơ.
Ông luôn hướng ngòi bút của mình vào những con người lao động nghèo khổ,
25. 23
yêu thương và thức tỉnh họ. Ở điểm này Thạch Lam có nhiều tiến bộ và khác
xa với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Sự nghiệp văn chương của Thạch Lam đã được độc giả mọi thời đại
khẳng định và đưa nó trở về đúng giá trị đích thực. Những tuyệt tác mà ông để
lại cho đời, được người đọc đón nhận bằng sự rung động trái tim, lí trí, bằng
sự đánh giá khoa học công bằng và thỏa đáng
Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam.
Khi nghiên cứu phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam,
chúng ta phải đặt những sáng tác của Thạch Lam với các nhà văn đương thời,
và đặc biệt là Tự lực văn đoàn. Tự lực văn đoàn được thành lập năm 1932 do
Nguyễn Tường Tam (anh trai của nhà văn) khởi xướng với một tôn chỉ mục
đích tạo ra những tác phẩm văn chương có giá trị. Thành phần nòng cốt của
Tự lực văn đoàn gồm: Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú
Mỡ, Thế Lữ, về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu và rất nhiều những cộng tác
viên khác. Cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn là tờ báo Phong Hóa, năm
1936 báo Phong Hóa bị đóng của thì có Ngày Nay thay thế. Tự lực văn đoàn
ra đời có những đóng góp nhất định cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Trong những người đóng góp đó phải kể đến Thạch Lam, ông là người đóng
góp nhiều nhất bằng những tác phẩm văn chương có giá trị, bằng những quan
niệm nghệ thuật tiến bộ. Ông tham gia Tự lực văn đoàn vì có mối quan hệ ruột
thịt và vì ông là người có sở trường viết văn.
“Khác với hai anh thứ nhất và thứ nhì không để ý và tha thiết với văn hóa,
cũng có khác với anh thứ ba và thứ tư quá say mê cách mạng, Thạch Lam
thường ngồi riêng một góc với vài bạn văn, cách biệt với tất cả như đôi mắt
sâu và tối” [1. 370 ] Đóng góp lớn nhất của Thạch Lam là ở hoạt động sáng
tác, ông trở thành một cây bút lớn của Tự lực văn đoàn và của văn học Việt
Nam đầu thế kỉ XX
26. 24
Mặc dù trong Tự lực văn đoàn có tôn chỉ mục đích riêng của các sáng
tác văn chương, nhưng Thạch Lam vẫn tìm cho mình một con đường đi riêng,
một phong cách riêng không lẫn với các nhà văn trong Tự lực văn đoàn. Ông
tham gia sáng tác rất nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí, phê bình
văn học. Truyện ngắn có tập Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc; tiểu
thuyết có Ngày mới; bút kí có Hà Nội băm sáu phố phường; tiểu luận phê
bình Theo dòng. Không giống với hai người anh Nhất Linh và Hoàng Đạo có
đời sống chính trị phức tạp, Thạch Lam hướng tới một xã hội công bằng và
nhiều yêu thương. Chính vì vậy mà phong cách nghệ thuật của Thạch Lam
mang một nét riêng biệt so với các nhà văn đương thời và những người anh
trong Tự lực văn đoàn. Những sáng tác của ông viết về thế giới nội tâm của
nhân vật, ông thường chú ý miêu tả những trạng thái tình cảm, những biến cố
tâm lí của nhân vật. Điều này đã làm cho truyện ngắn của Thạch Lam luôn thu
hút người đọc. Truyện Hai đứa trẻ là một truyện ngắn không có cốt truyện, nó
diễn tả lại trạng thái cảm xúc của Liên trong một khoảng thời gian ngắn ngủi
buổi chiều đi dần vào đêm tối ở phố huyện tràn ngập bóng tối. Hay trong
Cuốn sách bị bỏ quên ông đã khai thác tâm trạng đối lập của con người, đối
lập giữa hiện tại và ước mơ.
Những truyện ngắn của Thạch Lam đi sâu vào khám các trạng thái tâm lí
của nhân vật, cách tiếp cận khám phá con người trên phương diện đi sâu vào
những thế giới nội tâm, tinh thần của nhân vật đã tạo nên một nét độc đáo
trong thế giới nghệ thuật của Thạch Lam.
Không giống với phong cách của các thành viên trong Tự lực văn đoàn,
Thạch Lam thường viết về những con người có những số phận đau khổ bất
hạnh, những lớp người sống dưới đáy xã hội. Mỗi một kiểu nhân vật ông đều
đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm, tinh thần của họ. Những nhân vật của
ông bao giờ cũng thiên về cảm xúc suy nghĩ. Ví dụ viết về người trí thức tiểu
27. 25
tư sản Thạch Lam không lí tưởng hóa nhân vật như Khái Hưng, Nhất Linh
thích tạo ra những nhân vật lí tưởng. Nhân vật của họ thường là những người
xuất thân từ những gia đình giàu có, hoặc quan lại. Họ là những khách tình si
(Lộc -Nửa chừng xuân), hay những khách chinh phu (Tiêu sơn tráng sĩ- Khái
Hưng, Đôi bạn của Nhất Linh). Còn các nhân vật của Thạch Lam thường rơi
vào các hoàn cảnh như: đói nghèo, thất nghiệp, hoặc đang trên con đuờng tha
hóa...Đó là những truyện ngắn : Đói, Người bạn trẻ, cái chân què...Nhân vật
Sinh trong Đói đã rơi vào tình cảnh túng quẫn, vì đói qua mà Mai vợ anh phải
bán mình để lấy tiền. Khi phát hiện được điều đó quá đau đớn. Nhưng rồi cơn
đói đã không làm Sinh nhịn được khi nhìn thấy những miếng bánh ngon trước
mắt, Sinh đã phải đánh mất nhân cách của mình khi làm điều đó.
Trong khi những cây bút của Tự lực văn đoàn đi sâu vào miêu tả thế giới
của những con người nghèo khổ bằng cái nhìn ít thiện cảm, thì Thạch Lam
viết về những người nghèo khổ với nỗi lòng thương cảm. Họ là những người
chân lấm tay bùn, cả đời lam lũ nhưng vẫn vất vả. Ở kiểu nhân vật này nhà
văn như hóa thân vào nhân vật để viết nên những trang văn giàu cảm xúc
không giống với các nhà văn đương thời. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, hay
cô gái nghèo đi trừ nợ trong Đứa con, là người phu xe trong Một cơn
giận...Thông qua những tác phẩm của mình người đọc thấy được thái độ trân
trọng đối với những con người nghèo khổ.
Một dạng nhân vật nữa được nhà văn tập trung miêu tả nhiều đó là những
người phụ nữ. Họ là những người mẹ, người vợ, người chị đảm đang. Ngoài ra
Thạch Lam còn phát hiện ra ở những con người lam lũ đó những vẻ đẹp trong
tâm hồn của họ. Thạch Lam miêu tả họ và đồng thời thấy được nỗi vất vả của
họ, những truyện ngắn viết về kiểu nhân vật này Thạch Lam dường như thấu
hiểu những nỗi đau của các nhân vật. Đó là mẹ Lê trong Nhà mẹ Lê, Tâm
trong Cô hàng xén, Hai cô gái giang hồ trong Tối ba mươi . Dù những nhân
28. 26
vật đó như thế nào thì Thạch Lam vẫn dành cho họ những tình cảm nâng niu
trân trọng.
Bên cạnh những thành công về việc xây dựng riêng cho mình những
kiểu nhân vật mà một nét độc đáo trong phong cách nghệ thuật của Thạch
Lam là thành công trong việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ văn chương điêu
luyện, trau chuốt, không cầu kì, giản dị trong sáng thuần Việt, ít sử dụng chữ
Nho. Đọc văn của Thạch Lam hôm nay ta vẫn thấy nó thật hiện đại, đó không
phải là những câu văn của quá khứ như một số sáng tác của Tự lực văn đoàn.
Thạch Lam có một lối viết giàu cảm xúc và nhạc điệu, từ ngữ dùng giản dị,
không cầu kì.
Như vậy có thể nói Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam,
mang một phong cách rất riêng, không giống với bất cứ nhà văn nào trong Tự
lực văn đoàn. Đó là một phong cách nhẹ nhàng, những trang văn giàu cảm
xúc, thấm đượm tình người. Ông có lối viết đi sâu vào khám phá thế giới tình
cảm của con người bằng giọng điệu thủ thỉ tâm tình, bằng những nỗi cảm
thông sâu sắc, bằng niềm thương và bằng tình người. Cuộc đời ông gắn bó với
sự ra đời và phát triển của Tự lực văn đoàn, bằng một khuynh hướng khác,
một cách nhìn và khám khá cuộc sống theo lối riêng mình, Thạch Lam đã xác
định được giá trị của mình với bạn đọc bằng một phong cách nghệ thuật riêng,
độc đáo.
29. 27
Chương 2
NHỮNG KIỂU NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN THẠCH LAM .
Trong mỗi một tác phẩm văn học, thì hệ thống nhân vật cũng là một
nhân tố quan trong trong việc bộc lộ phong cách của người nghệ sĩ, đó cũng là
một yếu tố không kém phần quan trọng so với hệ thống tư tưởng của người
nghệ sĩ trong sáng tạo của mình. Đó là kết quả của sự quan sát cuộc sống một
cách tinh tế, kết hợp với trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người nghệ sĩ. Qua
nhân vật, nhà văn bộc lộ thái độ cảm xúc của mình đối với cuộc sống. Chính
vì vậy khi nghiên cứu về một tác giả văn học thì ta phải quan tâm đến hệ
thống các nhân vật trong tác phẩm của tác giả đó. Qua những nhân vật, chúng
ta sẽ thấy dấu ấn cá nhân của nhà văn trong đó.
Mỗi một nhà văn có một cách xây dựng hệ thống nhân vật của mình,
chính vì vậy mà ở mỗi nhà văn hệ thống nhân vật mang một đặc điểm khác
nhau. Cùng trong nhóm Tự lực văn đoàn, có những quan điểm sáng tác gần
gũi nhau, những nhân vật trong tác phẩm của Nhất Linh luôn mang trong
mình một lí tưởng đấu tranh thiên về hành động, trong khi đó lí tưởng của
nhân vật trong những sáng tác của Khái Hưng thì mang tính viễn vông, mơ hồ
chỉ có tác dụng an ủi con người. Chính vì vậy hình tượng nhân vật của Khái
Hưng thường mang tính lạc quan, mơ màng, sống nặng về tình cảm, còn nhân
vật của Nhất Linh là những nhât vật luôn đăm chiêu, quằn quại suy nghĩ, để
tìm ra con đường đi cho riêng mình. Một mô tuýp thường được lặp đi lặp lại
trong thơ và tiểu thuyết Tự lực văn đoàn là hình ảnh người khách chinh phu
đang dấn thân vào cuộc đời gió bụi, đang mải mê trong hoạt động bí mật và
một “người yêu” phương xa đang mỏi mắt chờ ở nhà. Những khách chinh phu
ấy là nhân vật Dũng trong tác phẩm Đoạn tuyệt, Phạm Thái trong Tiêu sơn
tráng sĩ. Họ lao vào hành động mà không có một mục đích nhất định. Có thể
nói, họ mang trong mình một triết lí “hành động để hành động”. Bản thân sự
30. 28
hành động đã mang một mục đích tự tại, một ý nghĩ thoát li. Nhu cầu hành
động của họ gần như là “siêu hình”. Trong những tác phẩm của Thạch Lam
người ta không tìm thấy những nhân vật kiểu như vậy. Nhân vật trong các tác
phẩm của Thạch Lam đa phần họ đều là những người thuộc tầng lớp dưới xã
hội: Những trí thức tiểu tư sản nghèo, những bác phu, những bác ích cùng
khổ, những người phụ nữ lao động cần cù chất phác…Họ là những con người
bình dị nhỏ bé và rất thật với những ước muốn lo toan đau khổ. Vì Thạch Lam
có cuộc sống gần gũi với những người lao động nghèo khổ trong xã hội. Bản
thân cuộc sống của nhà văn cũng rất thanh bạch, ông không thích sự ồn ào,
ông không tham gia các hoạt động náo nhiệt ồn ào giống như các anh mình;
Nhất Linh, Hoàng Đạo hay Khái Hưng…Với Thạch Lam hoạt động trong tâm
linh, trong suy nghĩ là quan trọng hơn cả vì ông không phải là con người của
hành động. Chính vì vậy mà nhân vật của ông cũng là những con người thiên
về suy nghĩ, cảm xúc nội tâm. Như vậy những nhân vật của Thạch Lam cũng
mang những dấu ấn tâm hồn của nhà văn và đó là những nhân vật mang phong
cách của tác giả : tinh tế, đa cảm, tha thiết thuần hậu, giàu tinh thần chịu
đựng…Chúng ta sẽ đi tìm hiểu qua ba kiểu nhân vật chủ yếu trong hệ thống
nhân vật của Thạch Lam.
1. Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản
2. Kiểu nhân vật người dân nghèo
2. 1 . Kiểu nhân vật người trí thức tiểu tư sản.
Một trong số kiểu nhân vật chiếm vị trí nhiều trong các truyện ngắn của
Thạch Lam là những người trí thức tiểu tư sản. Điều đó cũng có nghĩa là nhà
văn đã miêu tả một lớp người gần gũi với mình, vì vậy đã góp phần tạo nên
thành công của kiểu nhân vật này.
Thạch Lam thường hướng ngòi bút của mình vào những trí thức tiểu tư
sản lớp dưới. Bởi vì sinh thời, Thạch Lam không có một đời sống sung túc
31. 29
như các anh trai mình: Nhất Linh Làm giám đốc nhà xuất bản Đời nay , còn
Hoàng Đạo làm tham tá ngạch Tây. Theo hồi ức của bà Nguyễn Thị Thế, chị
ruột nhà văn “chú rất nghèo vì lương nhà báo chỉ có 30 đồng…vì nghèo nên
chú chỉ ước mơ mua một chiếc ghế bành ngồi mà cung không mua được. Mãi
sau một người bạn thân biết ý nên mua biếu hai chiếc”
Người trí thức tiểu tư sản trong những tác phẩm của Thạch Lam,khi chưa
va chạm với cuộc sống, cũng mang trong mình nhiều khát vọng, băn khoăn
tìm kiếm lí tưởng sống cho cuộc đời mình. Chỉ một nét thoáng qua, nhưng
người đọc cũng bắt gặp được hình ảnh đã lùi về quá khứ của một thanh niên
hăng hái đi theo tiếng gọi của lí tưởng trong Kẻ bại trận. Tuy vậy phần lớn
những ước mơ của những con người này thật bình thường, giản dị. Đối với
Trường trong Ngày mới, “ thi đỗ rồi đi làm công sở, đó là mục đích của cả
một đời”. Nhưng khi đối diện với cuộc sống khắc nghiệt, thì ngay cả những
ước mơ nhỏ bé như thế cũng trở nên xa vời. Trong hầu hết những truyện ngắn
của Thạch Lam hình ảnh người trí thức hiện lên với một “căn bệnh” đó là
nghèo. Họ nghèo vì bị thất nghiệp hoặc bị đe doạ thất nghiệp. “Sinh thở dài,
chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết lạnh
lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em
cùng cảnh ngộ với chàng…Từ đó bắt đầu những sự thiếu thốn khổ sở, cho đến
bây giờ.” [47. tr87]. Sống trong một xã hội mà người ta có thể đứng vững và
làm nên nhờ những thủ đoạn, mưu mô, những thanh niên trí thức nghèo chỉ có
kiến thức sách vở và một tấm lòng thanh sạch thì sẽ là những người bị đào
thải trước tiên. Bào trong Người bạn trẻ, cũng mang một tâm sự u uất vì bị
nghi oan, một nỗi chán nản đến cao độ vì không sao tìm được cho mình một
công việc lương thiện. “Suốt mấy tháng nay tôi đi khắp các nơi ở Hà Nội mà
chẳng tìm được việc gì cả. Đến đâu người ta cũng từ chối” [47-tr171]. Đối với
những con người như thế, việc làm là một nhu cầu cần thiết. Đó không những
32. 30
là cách để những con người nhỏ bé ấy tự khẳng định mình, mà còn là phương
tiện để giúp họ tồn tại trong xã hội. Khi hiểu được điều đó chúng ta mới thấy
được những chán nản, tuyệt vọng của họ, không có gì có thể an ủi nổi. Họ cố
gắng vươn lên để có một chỗ đứng trong xã hội dù là rất khiêm nhường.
Trong tác phẩm Cuốn sách bỏ quên tình cảnh không may của văn sĩ Thành
phải chăng có nét trùng hợp với nhà văn Thạch Lam. Đương thời sách của
Thạch Lam thường là những cuốn sách ế nhất Tự lực văn đoàn. Có thể nói
khi miêu tả cuộc sống của người trí thức, đặc biệt là người trí thức thất nghiệp,
Thạch Lam cũng đã gián tiếp miêu tả hoàn cảnh sa sút, bần cùng hoá của xã
hội Việt Nam những năm ba mươi. Ông không miêu tả chúng ở bình diện xã
hội rộng lớn, mà ông miêu tả chúng ở chiều sâu tác phẩm, trong từng cảnh đời
cụ thể.
Trong những năm trước Cách mạng, nạn thất nghiệp dẫn đến cảnh sống
nheo nhóc, túng thiếu của trí thức đã được khá nhiều nhà văn đương thời phản
ánh. Trong tác phẩm Mực mài nước mắt của Lan Khải đã giúp được người
đọc hình dung được khá rõ hoàn cảnh đó. Họ là những người đem trái tim ánh
sáng và những hoài bão lớn lao để hoà nhập vào một cuộc đời nhỏ nhen, tù
túng. Chính vì thế mà họ liên tiếp rơi vào những bi kịch. Bắt đàu là bi kịch của
cuộc sống, cơm áo, gạo tiền. Sau đó là sự dằn vặt về tinh thần là điều không
thể tránh khỏi.
Trong truyện ngắn Đói của Thạch Lam là một tấn bi kịch nhỏ trong số
rất nhiều những bi kịch như thế về cuộc đời nghèo đói, khổ sở. Những nhân
vật trong các tác phẩm của nhà văn phải đấu tranh, vật lộn vì miếng cơm
manh áo của những người trí thức nghèo. Nhiều lúc người đọc như đang
tưởng rằng tác giả đang viết về chính cuộc đời của tác giả , vì chỉ có những
người đã từng trải qua cơn đói khủng khiếp mới có thể miêu tả tỉ mỉ, chân
thực như thế. Trong tình cảnh cùng quẫn đến tột đỉnh thì bản năng con người
33. 31
mới có dịp bộc lộ dễ dàng hơn, bức bách hơn. Sự thật trần trụi ấy được bộc lộ
qua triết lí “ miếng ăn”. Trước kia Sinh vẫn cho rằng “miếng ăn là một sự
không đáng kể”,nhưng lúc này chàng mới thấy “cái cần mạnh mẽ của miếng
ăn là thế nào”[47. tr 91]. Như nhân vật trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn
Nam Cao đã nói rằng khi người ta bị đau chân, thì khó có thể nghĩ đến điều gì
khác ngoài cái chân đau của mình. Cái đói quặn thắt ruột gan khiến Sinh khó
có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài những ao ước tầm thường. Những nhân vật
trí thức tiểu tư sản luôn mang nặng tâm lí bi quan yếu thế trước cuộc đời
chung rộng lớn, quay trở về với cuộc đời riêng tù túng chật hẹp. Họ sa vào
những vụn vặt đời sống hàng ngày. Điều này cũng có những nét gần với
những nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng. Trong Sống
mòn, Thứ, San, Oanh, những con người chôn vùi cuộc đời mình ở một trường
tư nghèo nàn ở ngoại ô Hà Nội cũng sa vào những chuyện nhỏ nhặt tầm
thường mà trước đây họ từng khinh bỉ, “những bữa ăn họ cãi nhau toang
toang như họp làng”. Bữa ăn được tính toán một cách chi li, “cả hai người
mới được bốn hào, chưa đến năm hào, độ bốn hào với sáu xu gì đó”. Vì cuộc
sống khó khăn, nghèo túng đã làm cho họ trở nên bần hàn, làm cho lương tâm
họ khô héo. Nghèo khổ đã làm thui chột những hoài bão muốn vươn lên bằng
tài năng chân chính của mình và đầy họ tới hoàn cảnh sống mòn.
Những bi kịch tâm trạng do tác động của hoàn cảnh sống ở người trí
thức tiểu tư sản cũng khá rõ nét trong tác phẩm của Thạch Lam. Vì thất
nghiệp, nghèo túng, không còn lối thoát nào khác, Bào trong Người bạn trẻ đã
phải tìm đến cái chết khi chưa đầy 20 tuổi. Trước khi đến với cái chết, người
thanh niên ấy đã từng phải trải qua những giờ phút hoang mang day dứt và
tuyệt vọng. Ở trường hợp Sinh trong Đói, nhân vật không rơi vào cái chết,
nhưng tình thế thảm hại và đau xót hơn nhiều. Trước sự phản bội của người
vợ mà mình vẫn hằng tin yêu, Sinh cảm thấy “một nỗi buồn rầu chán nản vô
34. 32
cùng...trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạ lùng như thắt lấy ruột gan”.
Nhưng mà thảm hại hơn trước sự dày vò của cái đói, Sinh đã ăn vụng trộm,
những miếng bánh, thịt ướp mà trước đó chàng đã hất đi và nguyền rủa. Ở đây
nhân vật đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là những tín hiệu đầu tiên,
tuy còn rất mong manh và mang tính dự báo của quá trình tha hoá, biến đổi
nhân tính con người do tác động của hoàn cảnh. Bi kịch tâm trạng đã trở nên
khá phổ biến ở trí thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Những
cái tầm thường, hàng ngày, hàng giờ gặm nhấm, tàn phá tâm hồn con người.
Vì một miếng ăn, một nhu cầu vật chất tầm thường mà con người ta có thể
đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm. Cảm giác của Sinh sau hành động động
hèn mạt của mình, “một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh
lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở”, là biểu hiện của một bi kịch không lối thoát.
Đọc Đói ta liên tưởng đến một truyện ngắn khác của Nguyên Hồng. Truyện
Miếng bánh, ở đây có một cảnh tương tự truyện ngắn Đói. Hưng nhân vật
chính của truyện- sau khi không kiềm chế nổi lòng mình đã giấu vợ miếng
bánh, và từ đó anh sống trong tâm trạng ân hận nhục nhã đến độ “cả cổ họng
và ruột gan xoắn lại. Tâm trí Hưng nức nở. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như
mảnh thuỷ tinh tẩm mật cá”[48. tr 253]. Cảm giác của Nguyên Hồng tàn khốc
hơn nhưng dư vị chua chát có lẽ chưa đạt đến mức độ như của Thạch Lam.
Bởi vì bút pháp của Nguyên Hồng chưa đạt đến độ sâu lắng như Thạch Lam.
Bi kịch tâm trạng dẫn đến biến đổi tâm tính, xuất hiện ở tất cả các trí thức
tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Quanh quẩn vì miếng ăn, vì sự
chi tiêu của một gia đình, Xuân trong Ngày mới, mất cả nhân tính không thiết
gì vợ con và mẹ già. Chàng như một con thiêu thân, lao vào cuộc chơi bời để
tìm quên lãng. Bính trong Buổi sớm cũng vì chán nản mà lao đầu vào truỵ lạc
“chàng chơi mãi cho của cải hết, nhà cửa bán dần và sức khoẻ của chàng
ngày một mất đi. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng, một sự chán nản
35. 33
cho mình và cho người khác. Có lẽ nỗi thất vọng trước sự tan vỡ những mộng
tưởng cao quý và đẹp đẽ trong đời chàng đã đẩy chàng xuống vực sâu”. Khi
những ước vọng khiêm tốn bị đổ vỡ trước thực tế phũ phàng thì những con
người ấy rơi vào bi kịch vỡ mộng. Đó là những bi kich điển hình của Văn học
phương Tây. Văn học Việt Nam trước Cách mạng, kiểu nhân vật trí thức tiểu
tư sản của Nam Cao cũng mang nhiều bi kịch, nhiều nỗi đau sâu sắc. Với kiểu
nhân vật người trí thức nghèo Thạch Lam vẫn chưa tạo được những kiểu nhân
vật như vậy mang tính điển hình cao.
Trong tác phẩm của Thạch Lam, tâm lí của những nhân vật trí thức được
miêu tả rất tỉ mỉ. Bởi lẽ đó là những nhân vật, những con người có đời sống
tâm hồn hết sức phong phú. Trong tác phẩm Một cơn giận, vì sự vô cớ cáu
giận của nhân vật Thanh mà cả gia đình nhà bác phu xe đã lâm vào cảnh vô
cùng khốn khó, điều đó khiến anh day dứt mãi không thôi “Hình như có một
cái gì đè nặng lên ngực làm cho tôi khó thở và lúc này hình ảnh anh phu xe
cũng hiển hiện ra trước mắt”[47. tr64].ở đây cho ta thấy người trí thức trong
một lúc nào đó những người trí thức vẫn loay hoay với những suy nghĩ về bản
thân mình. Và sau rất nhiều hối hận Thanh trong Một cơn giận đã tự nhủ thầm
“người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng”. Cái cách nhìn sâu vào trong
tâm hồn, đúc rút những quy luật và phanh phui mọi góc cạnh của nó để người
đọc suy nghĩ và trăn trở theo nhân vật đã trở thành một đặc điểm rất riêng của
Thạch Lam. Điều đó đã giúp ông khắc hoạ thành công bộ mặt của những trí
thức tiểu tư sản, và các tác phẩm ông thường có tính tự truyện, bởi vì trong
những tác phẩm ấy mang dáng dấp của nhà văn. Những con người trí thức đó
thường vỡ mộng, cuộc sống bế tắc và họ cảm thấy thương hại chính mình.
Theo nhận xét của ông Đỗ Đức Thu- người bạn rất thân của nhà văn “Thạch
Lam là người giàu tình cảm, chỉ vì trường đời tạo cho anh cái thái độ dè dặt,
bắt anh phải sống cái đời con ốc trong một vỏ kín bưng. và cái tâm hồn phong
36. 34
phú, cái đời tâm tưởng rồi rào ấy đã có lần cởi mở với thế nhân để rồi chịu
những thương tích nó làm giảm dần lòng tin ở người đời”[47. tr20].
Khi so sánh kiểu nhân vật này của Thạch Lam với các nhà văn khác như
Nam Cao chúng ta thấy có những điểm gần gũi, nhưng khác với các nhân vật
trong tác phẩm của Nam Cao, người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm của
Thạch Lam chưa có được những giằng co để vươn lên và cũng chưa bao giờ
phê phán mình một cách chân thành. Những nét tâm lí này được nhà văn
Thạch Lam khai thác, nhưng đang ở chỗ là những khoảnh khắc chứ chưa phải
là những mâu thuẫn dồn nén. Đây cũng là một đặc điểm riêng của Thạch Lam.
Từ những đặc điểm đó ta thấy Thạch Lam thường thành công với việc xây
dựng những nhân vật thoáng qua hơn là những nhân vật những suy tư, đấu
tranh sâu sắc. Chính vì vậy mà hình tượng người trí thức tiểu tư sản trong tác
phẩm của Thạch Lam còn thiếu sức mạnh về sự khái quát và nâng cao, những
nhân vật đó thường có chung một nguyên mẫu, một suy nghĩ và một kiểu tư
duy bế tắc. Và những nhân vật đó thường mang đậm dấu ấn của chính nhà
văn, phảng phất tâm hồn Thạch Lam. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã
nhận xét “Tất cả những nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam đều có
những cái phảng phất của tâm hồn Thạch Lam”. Điều này vừa là đặc điểm
riêng, đồng thời cũng là hạn chế của Thạch Lam thể hiện rõ nét trong những
tác phẩm viết về người trí thức.
Kiểu nhân vật người dân nghèo.
2.2.1 Những người dân nghèo.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, những truyện ngắn
viết về người dân nghèo chiếm một tỉ lệ khá lớn. Họ là những người nông dân
nghèo lam lũ vất vả, hay những con người sống kiếp lầm than nơi thành thị.
Đó là hình ảnh người mẹ nghèo xóm Đoài thôn Nhà mẹ Lê, là gia đình người
phu xe cùng khổ ở ngoại ô Hà Nội trong Một cơn giân, hay cô gái nghèo phải
37. 35
đi ở để trả món nợ truyền kiếp trong Đứa con ...Những truyện ngắn viết về đề
tài này của Thạch Lam viết trong bối cảnh lịch sử dân tộc đang trong thời kỳ
mặt trận dân chủ 1936-1939. Những năm đó cách mạng Việt Nam đang sôi
sục khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy những tác phẩm ra đời trong thời gian
này cũng ít nhiều bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử. Cho nên trong giai đoạn này
người nông dân đã xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học. Ngay trên tờ
báo Ngày nay cũng xuất hiện một chuyên mục “Bùn lày nước đọng“ chuyên
viết về dân quê. Từ năm 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho
những tác phẩm giàu tính hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Kim tiền
của Vi Huyền Đắc. Báo Ngày Nay đăng Con trâu và Sau luỹ tre của Trần
Tiêu, hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Năm 1939 bàn về đạo
làm người Hoàng Đạo có viết trong Mười điều tâm niệm : “Con người phải
sống có lí tưởng và điều có ích cho xã hội“. Tinh thần dân tộc, thái độ phê
phán bọn địa chủ quan liêu, bóc lột, sự cảm thông chân thành đối với những
nỗi khổ cực của người dân quê sau luỹ tre xanh được thể hiện trong tác phẩm
Đoạn tuyệt (1934-1935), Tối tăm, Đôi bạn của Nhất Linh...Những sự kiện
như vậy chứng tỏ rằng số phận của những người bình dân cũng là một điều
băn khoăn đối với các nhà văn chủ nghĩa lãng mạn nói chung và Tự lực văn
đoàn nói riêng. Trong số những nhà văn ấy thì Thạch Lam được người đọc
nhìn nhận khác các bạn văn của ông như: Nhất Linh, Hoàng Đạo. Bởi có lẽ
những người dân nghèo thành thị hay thôn quê xuất hiện trong tác phẩm của
ông, không phải là một sự a dua chạy theo xu thế của các nhà văn đương thời,
mà hình tượng nhân vật nay xuất hiện khá lâu trong tác phẩm của ông. Nhưng
điều quan trọng hơn là hình tượng nhân vật này trong các tác phẩm của Thạch
Lam được ông miêu tả, giới thiệu một cách cặn kẽ với một tình cảm yêu
thương chân thành. Như vậy cũng không thể quy kết các nhà văn Tự lực văn
38. 36
đoàn là giả dối, hay là cơ hội chủ nghĩa, nhưng trong lĩnh vực này chúng ta
phải thừa nhận Thạch Lam là người thành thực hơn cả. Chính nhà văn cũng đã
từng phát biểu về vấn đề này “Ít lâu nay, những tiểu thuyết viết về dân quê khá
nhiều. Một số nhà văn, vì theo thời thượng hay vì một cái sở thích văn chương
đột ngột đã từ bỏ những nhân vật phi thường hay lãng mạn để quay đầu nhìn
về người nhà quê chân lấm tay bùn trên thửa ruộng. Người này trở nên nhân
vật chính trong tác phẩm của họ”. [49. tr 48]. Khác với họ ngày từ những sáng
tác đầu tay của mình, Thạch Lam đẫ hướng về người nghèo với một tình cảm
chân thành. Hình ảnh người dân nghèo hiện lên với những nỗi nghèo khổ thật
đa dạng. Đó là câu chuyện thương tâm của một gia đình đông con nghèo khổ.
Người mẹ của đàn con đói nghèo khổ vì không có miếng ăn phải đi ăn xin bị
nhà giàu xua chó cắn dẫn tới cái chết thương tâm Nhà mẹ Lê. Đó là cảnh
khốn cùng của gia đình người phu xe nghèo, không đủ tiền nộp phải trốn biệt
xứ để lại mẹ già, người vợ nheo nhóc và đứa con sài chết vì không có nổi một
đồng xu mua thuốc, là một tiếng kêu bi thương tha thiết “Trong cái hang tối
tăm bẩn thỉu ấy sống một đời sống khốn nạn những người gầy gò, người con
gái sống kiếp tôi đòi cũng được miêu tả thât cụ thể”. “Chị Sen cúi mình dưới
gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào những bước khó nhọc và chậm chạp.
Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai, nước trong thùng sánh toé ra mỗi
bước đi” [50 tr 75 ]. Mặc dù phải làm việc đến kiệt sức, người con gái tội
nghiệp ấy vẫn phải thường xuyên chịu những cơn thịnh nộ của bà chủ. Ở
truyện ngắn Cô hàng xén, sau khi lấy người chồng nghèo, gánh nặng gia đình
quá lớn với gia đình đã khiến cuộc đời trở thành một sự đoạ đày đối với một
có gái vốn dĩ là xinh đẹp và đáng yêu. Quanh năm suốt tháng lam lũ, mà cái
nghèo vẫn không buông tha. Cuộc đời của những con người ấy chỉ là chuỗi
dài những vất vả lo toan dường như vượt quá sức chịu đựng của họ.
39. 37
Trong những trang viết của mình, sự thành thực là một tiêu chí mà
Thạch Lam luôn tâm niệm trong quá trình sáng tác. Vì vậy, ông đã lên tiếng
phê phán những nhà văn lãng mạn chỉ biết lí tưởng hoá nông thôn và ca ngợi
cái thi vị của công việc đồng áng. Ông viết trong tiểu luận Theo dòng “ Một
cái tục lệ khác là vẻ nên thơ của công việc đồng áng. Nên thơ với nhà văn
đứng xem, phải. Nhưng sự thực không có công việc nào vất vả nặng nhọc
bằng. Bình minh tươi đẹp chỉ là còi hiệu bắt đầu làm việc” [49 tr 50]. Sự thật
ẩn đằng sau luỹ tre có vẻ thơ mộng ấy là những kiếp người sống đày đoạ khổ
cực trăm bề của người nông dân. Không những họ khổ vì công việc nặng nhọc
mà còn phải chịu bao nhiêu áp bức bất công trong xã hội. Những cảnh khổ sở
đớn đau ấy người đọc có thể bắt gặp đâu đó trong các tác phẩm của Thạch
Lam. Điều đáng nói ở đây là sự thành thực mà nhà văn tâm niệm không phải
chỉ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của nhà văn, mà nó có một cơ sở thực tế vững
chắc. Đó là sự hiểu biết khá đầy đủ về đối tượng miêu tả của nhà văn. Tuy là
nhà văn trong một trường phái văn học lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại có
điều kiện gần gũi và đồng cảm với người lao động nghèo. Bản thân nhà văn
cũng đã từng nếm trải bao nỗi cay đắng chua chát của cuộc đời người trí thức
nghèo có đầu óc những túi thì luôn trống rỗng. Như vậy có thể nói Thạch Lam
có một vốn sống, một vốn hiểu biết khá sâu sắc về người lao động nghèo. Chỉ
một nhận xét nhỏ của ông cũng chứng tỏ ông am hiểu tâm lí của những người
nông dân “Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào họ là chủ
ruộng đất ấy thôi. Và khi người nhà quê từ chối không chịu bỏ làng ra tỉnh
hay đi nơi khác kiếm ăn ấy là vì sự giàng buộc của những thói quen sinh
hoạt, những thói quen vật chất hay tinh thần hơn là lòng tha thiết với đồng
ruộng” [49 tr50]. Chính vì nhà văn là người cũng đã từng sống trong cảnh
nghèo khổ cho nên Thạch Lam mới hiểu và thông cảm cho cuộc đời của
những con người nghèo khổ. Ông hiểu và thông cảm cho cuộc sống bấp bênh
40. 38
không có tương lai của họ. Đó chính là điểm khác biệt giữa Thạch Lam và các
nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Những con người nông dân suốt ngày vật lộn với miếng cơm, manh áo
hiện lên khá chân thực trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê của Thạnh Lam. Cái đói
gõ cửa từng nhà người dân nghèo ngụ cư như bác Hiền, bác Đối và nhất là nhà
mẹ Lê. Đối với cái gia đình chưa bao giờ sung túc này thì những ngày nhịn
đói liên tục đã trở nên bình thường và thường xuyên, không lối thoát. Mặc dù
dứt ruột vì thương con vì cái đói, cái rét hành hạ, đến nỗi thịt da thâm tím lại
như thịt con trâu chết, người mẹ khốn khổ ấy vẫn không sao kiếm được việc
làm khả dĩ có thể kiếm chút ăn cho chúng cầm hơi. Có thể nói, vấn đề miếng
cơm manh áo đã xuyên suốt truyện ngắn của Thạch Lam. Cái nghèo khổ
truyền kiếp như thấm sâu vào trong cuộcc sống của những người dân lao
động. Nó như một cái nợ ám ảnh, đeo đẳng suốt cuộc đời họ, “Bác Lê tưởng
nhớ lại cả cuộc đời mình từ lúc bé đến bây giờ chỉ toàn là những ngày khổ sở
nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác
đã thấy nó rồi và từ đấy nó cứ theo liền bác mãi” [47 tr 36]. Cái chết của bác
Lê là sự vận động tất yếu của những kiếp người lầm than. Nó để lại trong lòng
người đang sống những nỗi ám ảnh, nhưng với người chết có lẽ đó là một sự
giải thoát, để thoát khỏi kiếp sống lầm than.
Như vậy trong các tác phẩm của Thạch Lam hình ảnh người nông dân
nghèo ở thành thị và nông thôn chiếm một vị trí khá quan trọng. Nhà văn có
một tình thương dành cho số phận của những con người nghèo khổ bất hạnh.
Nhân vật người dân nghèo trong tác phẩm của Thạch Lam thường là những
nhân vật chính diện, còn những kẻ nhà giàu thường mang tính cách xấu xa.
Hoặc nhân vật có tính cách địa chủ như trong truyện Đứa con, tàn bạo như cụ
Bá trong Nhà mẹ Lê, ngốc nghếch như Bân trong Sợi tóc. .. Lòng căm ghét
những kẻ giàu có nhưng xấu xa của Thạch Lam tuy âm thầm, nhưng dữ dội,
41. 39
nó gần như là một nỗi ám ảnh. Có lần Khái Hưng đọc đến tên một người bạn
giàu sang Thạch Lam chau mày nói “ồ tôi ghét hắn ta lạ...trong cái má hắn ta
phinh phính, cái bụng hắn ta xệ xệ: [47 tr, 2]. Đây cũng có lẽ là tâm sự chung
của những người tiểu tư sản có học, có đọc, luôn suy nghĩ về nhân tình thế
thái. Họ ghét cái đầu óc trưởng giả, cái nhân cách của kẻ trọc phú, không biết
sống một cách thanh tao, thậm chí còn hết sức độc ác với những người nghèo
khổ.
Cách xây dựng kiểu nhân vật người nghèo trong tác phẩm của Thạch
Lam cũng mang một phong cách rất riêng. Họ được miêu tả bằng một số
đường nét, chi tiết đơn sơ mang tính chất chấm phá nhưng vẫn hết sức chân
thật. Cuộc đời họ không thi vị hóa như một số văn sĩ lãng mạn khác, nhưng
ông cũng không miêu tả đến tận cùng những nỗi khổ sở điêu đứng có thể làm
bi thảm thêm cuộc đời họ. Ở mảng đề tài này những tác phẩm của Thạch Lam
có nét gần gũi với những nhà văn đương thời như Nam Cao, Nguyên Hồng..
Nhưng Thạch Lam nhìn hiện thực và đánh giá nó theo con mắt của riêng ông.
Những truyện ngắn của Nguyên Hồng làm sống dậy cuộc sống lam lũ, cơ cực
bần cùng của những người lao động nghèo khổ, ở các vùng ngoại ô, ngõ hẻm
các thành phố lớn như ngoại ô Bạch Mai, ô Yên Phụ, bãi Phúc Xá, bãi Nhà
Dầu ở Hà Nội...hay xóm Chợ con (Hải Phòng)..Nhân vật của Nguyên Hồng
hiện lên với nỗi khổ cùng cực được miêu tả một cách khá tỉ mỉ. Trong những
xóm nhà lá lợp tôn chen chúc, lúp xúp với những ngọn đèn leo lét ấy đêm đêm
vẫn vang lên những tiếng vo vo của đàn muỗi và tiếng ú ớ trong giấc ngủ mệt
nhọc của những người lao động nghèo...Những ngày mùa hè luôn luôn có
tiếng ầm ầm xô xát nhau vì những chuyện nhỏ nhặt. Đọc truyện của Nam Cao
người ta bắt gặp rất nhiều những cảnh cãi vã, chửi bới, đánh chửi nhau của
những con người vốn đã khổ trăm bề. Còn tác phẩm của Thạch Lam trước cái
khổ trăm bề con người chỉ biết âm thầm chịu đựng một mình “mỗi nhà đều
42. 40
lặng lẽ âm thầm và chịu khổ một mình, không than thở với láng giềng, hàng
xóm lời gì, ai nấy đều biết cũng nghèo khổ như nhau”[49. tr26]. Nhân vật của
Thạch Lam không bao giờ vì nghèo, vì bị đầy đọa mà trở nên điên rồ, liều
lĩnh đến đường cùng, trở thành lưu manh, trộm cắp. Đó là một nét riêng biệt
mà người đọc nhận ra sự khác biệt với các nhà văn đương thời.
Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thận trọng khi khai thác các mặt tốt đẹp
của người lao động. Trong các tác phẩm của nhà văn Nhất Linh, Khái Hưng,
dân quê hiện ra như một đám người ngờ nghệch, dốt nát, ngu đần sống ù ì bản
năng như những “con lợn không có tư tưởng”. Người nông thôn phần lớn là
quê mùa cục mịch như những chú Mộc trong Hồn bướm mơ tiên hay có cử
chỉ đến lố bịch như anh Vọi trong Trống mái. Thạch Lam không thể chấp
nhận cách gán ghép cho những nhân vật của mình như vậy “Những đức tính
và tật xấu mà người dân quê thực không có” [49 tr 58]. Ông nhìn thấy những
niềm vui bình dị, những ước mơ nho nhỏ, những đức tính tốt đẹp tiềm ẩn
trong họ. Cuộc sống đối với cô hàng xén vất vả quanh năm ấy là sự hi sinh vì
mọi người. Trước cái chết của Bác Lê, những con người cùng khổ đã thể hiện
tấm lòng nhân ái, đồng bào. Dù ai nấy đều túng thiếu cả, nhưng họ đã “gom
góp nhau mua cho bác một cỗ ván mọt, rồi đưa giúp bác ra cánh đồng” [47 tr
30 ]. Người lính cũ của Thạch Lam lâm vào cảnh cùng quẫn, xuống đến cái
chót dốc của sự bần cùng vẫn giữ được tính khí khái hiếm có. Thái độ nâng
niu trân trọng của Thạch Lam thật khác xa với các tác giả trong cùng Tự lực
văn đoàn với ông. Một nhân vật trong Lầm than đã từng thốt lên ; “ Khốn
nạn, cái vui, cái sướng của bọn nghèo khổ thật trơ trọi thực chẳng đắt đỏ là
bao”
Mặc dù vậy, Thạch Lam chưa đi sâu vào tìm ra căn nguyên của sự nghèo
khổ, chưa đi sâu vào tìm hiểu bản chất giai cấp mà ông mới dừng lại ở chỗ
băn khoăn, cảm thương chung với số phận người nghèo. Ông đã chủ quan và
43. 41
ảo tưởng khi cho rằng “Chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương, cũng đủ
để an ủi những người cùng khổ ấy”. Lòng trắc ẩn của ông tuy chân thành,
nhưng mới chỉ là thứ nhân đạo trừu tượng, do đó cuộc đời tầm thường đáng
thương của người dân nghèo trong truyện ngắn của ông cứ lặng lẽ trôi đi,
trong sự an phận, chịu đựng, cái thế giới tĩnh tại ấy dường như không thay đổi.
Sự cam chịu ấy cũng là một đặc điểm thuộc về bản chất của một kiểu nhân vật
phổ biến trong các tác phẩm của ông.
2.2.2. Nhân vật người phụ nữ.
Đối với các nghệ sĩ-dù sáng tạo trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác
nhau, nhưng hình tượng người phụ nữ luôn có một sức mạnh, sự quyến rũ để
các nhà văn hướng ngòi bút của mình đến. Và họ đã trở thành đề tài sáng tác
của các thế hệ nhà văn từ cổ tới kim...Chỉ tính riêng trong văn học Việt Nam
từ 1930-1945, người phụ nữ cũng nổi lên trong văn học như một hình tượng
nghệ thuật hết sức quen thuộc và quan trọng. Ở mỗi tác giả bên cạnh những
điểm chung, hình tượng này lại mang những nét rất riêng biệt. Người phụ nữ
trong các tác phẩm của Thạch Lam đa số là những người mẹ, người chị, hiền
lành chất phác, giản dị, chịu thương chịu khó theo đúng khuôn mẫu cổ truyền.
Những con người này hoàn toàn phù hợp với khung cảnh nghệ thuật quen
thuộc trong tác phẩm của Thạch Lam: Những làng quê, ngõ huyện thanh bình
nhưng đìu hiu. Không gian ấy chính là của họ, là môi trường để họ sống và
bộc lộ tính cách và bản chất. Thạch Lam hiểu họ và cũng rất yêu vẻ đẹp tiềm
ẩn trong họ. Điều này thật khác với các nghệ sĩ lãng mạn khác, những bạn văn
của ông thời ấy. Trong tác phẩm của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, hình
ảnh những cô gái mới, những cô gái thành thị với nhưng suy nghĩ và hành
động cũng hết sức tân thời chiếm đa số.
Người phụ nữ thường được gọi một cách âu yếm là phái đẹp, Thạch Lam
là người chuộng cái đẹp và hết sức tinh tế trong việc nhận thức cái đẹp đó.