Để nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng và phân tích nguyên nhân, yếu tố dẫn đến ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau và đưa ra giải pháp khắc phục về vấn đề nêu trên, tôi xin chọn đề tài: “ Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau - thực trạng và giải pháp ” làm tiểu luận cuối môn học Luật Môi Trường. Do kiến thức còn hạn hẹp, kính nhờ Cô giúp đỡ và hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt tiểu luận này. Trân trọng cảm ơn!
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau - thực trạng và giải pháp
1. 1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
MÔI TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TỈNH CÀ
MAU - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2. 2
LỜI NÓI ĐẦU
Cà Mau là tỉnh địa đầu cực Nam của Tổ quốc, diện tích 5.211km2, dân số
1.225.000 người, có ba mặt giáp biển, chiều dài bờ biển 254 km, ngư trường rộng trên
80 ngàn km2, hệ thống sông rạch chằng chịt. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
thuận lợi nêu trên, Cà Mau có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản cả về nuôi
trồng, đánh bắt, chế biến; được xem là vùng trọng điểm thủy sản của khu vực đồng
bằng sông Cửu Long và cả nước, những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của Cà
Mau trên các mặt đều có bước phát triển, tiến bộ, nhất là kinh tế thủy sản có sự phát
triển khá nhanh, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế địa phương và góp phần hoàn
thành các mục tiêu phát triển của ngành thủy sản cả nước.
Kinh tế thủy sản Cà Mau phát triển khá toàn diện trên cả 3 mặt: nuôi trồng, đánh
bắt, chế biến và đã thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn, là động lực thúc đẩy các ngành
kinh tế khác của tỉnh cùng phát triển, trong tổng số 277.000 ha diện tích nuôi trồng
thủy sản, tỉnh bố trí 240 ngàn ha nuôi tôm (bao gồm nuôi công nghiệp, nuôi tôm kết
hợp với trồng một vụ lúa, nuôi sinh thái với mô hình tôm - rừng và nuôi tôm kết hợp
với các loài thủy sản khác).
Năm 2001, được Chính phủ cho phép, tỉnh đã thực hiện chủ trương chuyển đổi
cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp từ nông - lâm - ngư nghiệp sang ngư - nông - lâm
nghiệp. Cụ thể là đã chuyển trên 130 ngàn ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi
trồng thủy sản và nuôi trồng thủy sản kết hợp với trồng một vụ lúa; nâng tổng diện tích
mặt nước nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh lên 277 ngàn ha (chiếm 42% diện tích nuôi
thủy sản toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và chiếm 27,6% diện tích nuôi thủy sản
cả nước).
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã tạo ra sức sản xuất mới,
cho phép Cà Mau khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng, lợi thế của tỉnh; xuất khẩu thủy
sản đã trở thành thế mạnh kinh tế đặc biệt ở Cà Mau, tuy nhiên trong bước chuyển vừa
qua, đã gặp không ít những trở ngại và thách thức đối với môi trường nuôi trồng thủy
sản Cà Mau, ngày một gay gắt, đe dọa trực tiếp tới các thành quả về phát triển kinh tế -
xã hội, đã xảy ra một số vấn đề ô nhiễm cần phải có giải pháp khắc phục, sự phát triển
nuôi trồng thủy sản mạnh mẽ lại kéo theo các tác động môi trường diễn ra ở quy mô
ngày càng lớn và hết sức đa dạng, bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà
3. 3
Mau đang trở thành vấn đề bức xúc, cần được tập trung giải quyết để bảo đảm sự phát
triển bền vững.
Để nghiên cứu, tìm hiểu về thực trạng và phân tích nguyên nhân, yếu tố dẫn
đến ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau và đưa ra giải pháp khắc
phục về vấn đề nêu trên, tôi xin chọn đề tài: “Phân tích những yếu tố ảnh hưởng
đến môi trường trong nuôi trồng thủy sản ở Cà Mau - thực trạng và giải pháp”
làm tiểu luận cuối môn học Luật Môi Trường. Do kiến thức còn hạn hẹp, kính nhờ Cô
giúp đỡ và hướng dẫn để tôi hoàn thành tốt tiểu luận này. Trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU
4. 4
1. Khái niệm và đặc điểm nuôi trồng thủy sản:
1.1. Khái Niệm:
Nuôi trồng thủy sản là hoạt động sản xuất dựa trên cơ sở kết hợp giữ tài nguyên
thiên nhiên sẵn có (mặt nước biển, nước sông ngòi, ruộng trũng, ao hồ, sông cụt, đầm
phá, thiết bị nuôi lồng, bè, khí hậu…) với hệ sinh vật sống dưới nước (chủ yếu là cá,
tôm và các loài thủy sản khác..) thả vào môi trường nuôi có sự tham gia trực tiếp của
con người và người nuôi được sở hữu đối tượng nuôi trong suốt quá trình nuôi. Tổ
chức, cá nhân nuôi trồng thủy sản sử dụng đất của mình, mặt sông, ao, hồ hoặc thuê
mướn của người khác để cải tạo lại theo mô hình công nghiệp, tự nhiên vả thả nuôi
con giống như: tôm, cua, cá, lươn.... công nghiệp hoặc nuôi tự nhiên và hoàn toàn sở
hữu về các sản phẩm nuôi đó.
Nuôi trồng thủy sản công nghiệp là mô hình có đầu tư thiết bị máy móc, quy
trình kỹ thuật bài bản, kỹ lưỡng và chặt chẽ, có sự giám sát hoặc tư vấn của các
chuyên gia, kỹ sư về thủy sản, con giống được nuôi dưới dạng công nghiệp có bón
thức ăn, thuốc bảo vệ đúng tiêu chuẩn nên sản phẩm tạo ra đảm bảo năng suất cao, ít
bị rủi ro do các vấn đề ô nhiễm, bệnh lý nhưng đòi hỏi nguồn vốn đầu tư cao, người
dân với nguồn vốn thấp không thực hiện được theo mô hình này được.
Nuôi trồng thủy sản tự nhiên là mô hình đơn giản không có đầu tư máy móc
thiết bị, chỉ cải tạo bằng cách sên, đào và con giống được nuôi dưới dạng tự nhiên
không cần bón thức ăn, việc xử lý nguồn nước cũng như kỹ thuật chưa đạt đúng tiêu
chuẩn, rủi ro cao do các vấn đề ô nhiễm, bệnh lý, nhưng không đòi hỏi nguồn vốn đầu
tư cao vì thế cho nên người dân với nguồn vốn thấp vẫn thực hiện được theo mô hình
này.
1.2. Đặc điểm:
Hoạt động nuôi trồng thủy sản này ở Cà Mau có đặc điểm là nuôi, trồng các
loại thủy sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn, các loại nuôi trồng chủ yếu hiện nay là:
Tôm sú, tôm càng xanh, tôm thẻ, tôm đất, cá biển (cá song, cá hồng, cá cam, cá vược,
cá bóp, cá chẽm, cá măng…), cá nước nước ngọt (cá tra, cá ba sa, cá chép, cá mè, cá rô
phi, trê phi, trắm cỏ, cá trôi, bóng tượng, tai tượng, sặc, cá bổi, cá lóc, cá rô…) các
hình thức nuôi chủ yếu là:
- Nuôi tôm sú theo phương pháp công nghiệp, bán công nghiệp, quảng canh,
quảnh canh cải tiến.
5. 5
- Nuôi cá biển trong lồng bè trên mặt nước biển, sông, đầm phá, ven biển, sông
cụt, chủ yếu là cá chẽm, cá mú, cá tra, cá ba sa, cá bống tượng, cá trôi,cá chép, cá mè,
ba ba, lươn, ếch…
- Nuôi tôm càng xanh
- Nuôi nhuyễn thể: Ngao, nghêu, sò huyết, ốc..
- Nuôi thủy sản: ao, hồ, đìa, đầm..
- Nuôi thủy sản trên ruộng trũng, ruộng lúa
- Trồng rong biển: rong câu chỉ vàng, rong mơ, rong kỳ lân, rong cước, rong sụn
* Chủ thể nuôi: tổ chức (DN, HTX, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân)
2. Phân loại nuôi trồng thủy sản: có 09 loại
- Nuôi trồng thủy sản quy mô nhỏ (Aquaculture, backyard) là loại hình nuôi
trồng theo sở thích, sản phẩm tự tiêu thụ hay để bán, sử dụng nguồn lực tự có, là “sân
sau” với nguồn nước và năng lượng tự có.
- Nuôi trồng thủy sản nước lợ (Aquaculture, brackishwater) là hình thức nuôi
các đối tượng thủy sản trên vùng nước lợ.
- Nuôi trồng thủy sản bằng nguồn giống khác thác tự nhiên (Aquaculture,
capture-based) là hình thức thu gom “giống” ở ngoài tự nhiên từ các giai đoạn con non
đến con trưởng thành, sau đó nuôi tiếp đến cỡ thương phẩm với việc sử dụng các kỹ
thuật nuôi.
- Nuôi trồng thủy sản thương mại (Aquaculture, commercial) là những cơ sở
nuôi trồng thủy sản với mục đích thu được lợi nhuận tối đa. Nuôi thương mại được
người sản xuất thực hiện ở cả quy mô lớn và nhỏ, tham gia tích cực vào thị trường tiêu
thụ sản phẩm, đầu tư kinh doanh (bao gồm cả tài chính và lao động) và tham gia vào
bán các sản phẩm của họ ngoài trang trại.
- Nuôi trồng thủy sản quảng canh (Aquaculture, extensive). Hệ thống sản xuất
này được đặc trưng bởi: mức độ kiểm soát thấp (về môi trường, dinh dưỡng, địch hại,
cạnh tranh, tác nhân gây bệnh); chi phí sản xuất thấp, công nghệ thấp, và hiệu quả sản
xuất thấp (năng suất không quá 500 kg/ha/năm); phụ thuộc nhiều vào khí hậu và chất
lượng nước địa phương; sử dụng thủy vực tự nhiên (ví dụ đầm phá, vịnh, vũng) và
thường không xác định rõ các đối tượng nuôi.
- Nuôi trồng thủy sản cao sản (Aquaculture, hyper-intensive) là hình thức nuôi
thâm canh, có năng suất cao, đạt trên 200 tấn/ha/năm, sử dụng hoàn toàn thức ăn công
6. 6
nghiệp có đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu của loài, thả giống ương từ các trại sản
xuất giống, không sử dụng phân bón, kiểm soát hoàn toàn địch hại và trộm cắp, có chế
độ kiểm tra và điều phối cao, thường xuyên cung cấp nước tự chảy hay bơm, hoặc
nuôi trong lồng, sử dụng máy sục khí và thay nước hoàn toàn, tăng cường kiểm soát
chất lượng nước cấp trong hệ thống ao, lồng, bể và mương xây nước chảy.
- Nuôi trồng thủy sản kết hợp (integrated) là hệ thống nuôi trồng thủy sản chung
nguồn nước, thức ăn, quản lý... với các hoạt động khác, thường là với nông nghiệp,
nông-công nghiệp, cơ sở hạ tầng khác như nước thải, nhà máy điện...
- Nuôi trồng trên biển (marine water) là hình thức nuôi từ khi bắt đầu thả giống
đến khi thu hoạch sản phẩm đều được thực hiện ở trên biển; ở giai đoạn sớm trong
vòng đời của các loài nuôi này có thể ở nước ngọt hoặc nước mặn.
- Nuôi quảng canh cải tiến: nuôi trong một diện tích rộng, có bổ sung thêm
giống, thức ăn, cải tạo dọn các bãi nhỏ, trông coi, bảo vệ thu hoạch. 1
2. Những thuận lợi và khó khăn trong nuôi trồng thủy sản tại Cà Mau
2.1. Thuận lợi:
Hiện nay, tỉnh Cà Mau đang chú trọng chỉ đạo phát triển mô hình nuôi tôm sinh
thái tạo ra sản phẩm sạch, chất lượng cao, đáp ứng đòi hỏi khắt khe của các thị trường
khó tính trên thế giới, đảm bảo hiệu quả và bền vững. Giá trị sản xuất trên đơn vị diện
tích nuôi trồng thủy sản sau khi chuyển đổi sản xuất, bình quân cao hơn từ 2,5 đến 3
lần so với trước. Đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện rõ rệt, hàng chục
ngàn hộ đã thoát nghèo, vươn lên khá giàu, xây dựng được nhà ở, mua sắm các
phương tiện đi lại, trang thiết bị nghe nhìn, thiết bị điện, điện thoại... từ nguồn thu
nhập nuôi trồng thủy sản. Bộ mặt nông thôn đã có nhiều thay đổi, kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội từng bước được đầu tư, phát triển, các điều kiện về đi lại, ăn, ở, học hành,
sinh hoạt văn hóa, khám chữa bệnh... của nhân dân ngày càng được đảm bảo và không
ngừng nâng lên.
Về chế biến xuất khẩu thủy sản: do sự chuyển mạnh trong nuôi trồng thủy sản,
tạo ra nguồn nguyên liệu hàng hóa lớn cung ứng cho ngành chế biến xuất khẩu, kích
thích ngành công nghiệp chế biến thủy sản phát triển nhanh, nhảy vọt cả về công nghệ,
công suất, sản lượng và trình độ quản lý, nâng cao hơn sức cạnh tranh trong xu thế hội
1
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
7. 7
nhập kinh tế quốc tế. Những năm qua, các doanh nghiệp trong tỉnh đã đầu tư gần 1.000
tỷ đồng cho đổi mới công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu, kết hợp đầu tư mở rộng
quy mô sản xuất theo chiều sâu, hiện đại hoá sản xuất, nhất là đẩy mạnh đầu tư các
thiết bị công nghệ hiện đại, tăng nhanh năng lực chế biến sản phẩm giá trị gia tăng.
Hiện nay, tỉnh Cà Mau đã vươn lên dẫn đầu cả nước về chế biến xuất khẩu và
kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Toàn tỉnh có 26 xí nghiệp, tổng công suất chế biến theo
thiết kế 126.000 tấn/năm. Nhìn chung, các nhà máy chế biến thủy sản đã đạt trình độ
công nghệ và trình độ quản lý ngang tầm với các nước trong khu vực và tiếp cận được
trình độ công nghệ tiên tiến, có khả năng cạnh tranh và hội nhập với thị trường thế
giới, đã có 17 nhà máy được cấp Code xuất khẩu hàng vào châu Âu, tỷ lệ hàng giá trị
gia tăng ngày càng cao, đạt 43,4% (cả nước đạt khoảng 40%). Sản lượng chế biến mỗi
năm đạt 75.000 tấn, trong đó có 60.000 tấn sản phẩm thủy sản xuất khẩu và 15.000 tấn
tiêu thụ trong nước.
2.2. Khó khăn:
Trong nuôi trồng thủy sản, việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất có lúc, có nơi diễn ra
ồ ạt, tự phát, làm suy giảm môi trường sinh thái, tăng độ rũi ro trong sản xuất, mặt
khác, một số yếu tố quan trọng phục vụ sản xuất như thủy lợi, giống, kỹ thuật…chưa
đáp ứng kịp yêu cầu, vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, nhất
là đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi. Theo nhu cầu, Cà Mau cần khoảng 4.000 tỷ đồng
để đầu tư thủy lợi, nhưng chưa có nguồn vốn đầu tư; thời gian qua ngân sách tỉnh chỉ
có khả năng đầu tư khoảng 50 tỷ đồng/năm để thực hiện những công trình bức xúc,
còn lại chủ yếu là nhân dân tự đầu tư làm thủy nông nội đồng, nên hệ thống thủy lợi
chưa đáp ứng yêu cầu.
Ngành công nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh Cà Mau mặc dù đã được đầu tư
tương đối hiện đại so với cả nước, nhưng so với trình độ chung của thế giới thì vẫn còn
hạn chế. Tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp và chưa có nhiều mặt hàng tinh
chế. Đây là hạn chế chung của tỉnh và của ngành thủy sản cả nước, cần sớm được khắc
phục trong thời gian tới.
Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do trình độ dân trí thấp, tập quán sản
xuất lạc hậu, ứng dụng khoa học - công nghệ chưa nhiều, kết cấu hạ tầng yếu kém và
thiếu vốn đầu tư, bên cạnh đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo còn hạn chế, lúng túng. Nếu
những khó khăn, hạn chế trên đây được tháo gỡ, nhất là về vốn đầu tư cho kết cấu hạ
8. 8
tầng thủy lợi phục vụ thủy sản và giao thông, vận tải, lưu thông hàng hoá, chắc chắn
kinh tế thủy sản của Cà Mau sẽ phát triển mạnh hơn, hiệu quả và bền vững hơn. 2
CHƯƠNG II. PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MÔI
TRƯỜNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU
2. Yếu tố từ phèn, nhiễm mặn, nước thải nuôi tôm; chất bùn thải; hệ thống
xử lý nước thải; khai thác thủy sản; chất thải rắn, chất thải y tế; nước thải sinh
hoạt, chất thải từ sản xuất nông nghiệp; đa dạng sinh học bị suy thoái vào môi
trường đất và nước; vai trò và trách nhiệm quản lý nhà nước của các ngành, các
cấp và chính quyền địa phương, doanh nghiệp, người dân
2.1. Yếu tố từ phèn, nhiễm mặn, nước thải nuôi tôm:
Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh, đem lại nhiều lợi ích cho kinh tế - xã hội,
tuy nhiên, quá trình phát triển đã bộc lộ những vấn đề bất cập cần sớm được giải
quyết, những tác động môi trường từ nuôi trồng thủy sản môi trường đất, môi trường
nước và các hệ sinh thái trong phát triển nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái,
ô nhiễm môi trường, tỉnh Cà Mau là vùng tập trung nhiều các loại đất phèn tiềm tàng
(pyrite FeS2) và phèn hoạt động (jarosite (K/Na.Fe3/Al3 (SO4)2(OH)6).
Khi bị đào đắp ao nuôi thủy sản, đào kinh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao
nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho tầng phèn tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy
hóa sẽ diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường
nước, gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh tôm, cá trong nuôi trồng, các nguồn thải ra
sông rạch đã tác động làm cho môi trường nước bị biến đổi.
Chất lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt, nuôi tôm ven
biển đặc biệt là trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho thấy dấu hiệu ô nhiễm hữu
cơ (BOD, COD, nitơ, phốt pho cao hơn tiêu chuẩn cho phép), có sự xuất hiện các
thành phần độc hại như H2S, NH3+, và chỉ số vi sinh Coliforms, đã cho thấy nguồn
nước thải này cần phải được xử lý triệt để trước lúc thải ra sông rạch, số liệu quan trắc
môi trường nước trên sông rạch khu vực tỉnh Cà Mau cũng đã cảnh báo nguy cơ ô
nhiễm môi trường nước sông rạch là rất lớn.
Cà Mau có diện tích đất phèn 279.928 ha (chiếm 52,86%), đất mặn 212.877 ha
(chiếm 40,2%) diện tích tự nhiên là các loại đất có vấn đề lan truyền phèn mặn trong
quá trình canh tác sử dụng đất (tập trung ở các huyện Thới Bình, U Minh, Đầm Dơi,
2 w.w.w.cantholib.org.vn:82/E.Book.aspx?p
9. 9
Trần văn Thời, Năm Căn, Ngọc Hiển…). Khi tác động vào các loại đất phèn tiền tàng
Pyrite (FeS2) và đất phèn hoạt động Jarosite (K/Na.Fe3/Al3 (SO4)2.(OH)6) ở quy mô
lớn sẽ diễn ra quá trình ôxy hóa mạnh làm giảm nhanh độ pH môi trường đất và nước
gây tác hại nhạy cảm đối với tôm nuôi và các hệ sinh thái nông nghiệp. Quá trình đào
đắp ao nuôi tôm, kênh rạch thủy lợi, sên vét nạo vét bùn thải tôm nuôi vào đầu và cuối
vụ nuôi tôm… gây ra các vấn đề làm hàm lượng sắt (Fe), sulfua (H2S) tăng lên, hàm
lượng ôxy trong nước thấp, độ đục rất cao khi thải bùn ra sông rạch không qua xử lý
(có nơi đến 800-1.000mg/l), gây bồi lắng bùn thải tại các vùng giáp nước (V=O), đầm
trũng và các cửa sông thông ra biển.
Kết quả “Điều tra, khảo sát đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường nuôi trồng
thủy sản và đề xuất biện pháp xử lý” cho thấy: Đối với các dòng sông chính trong tỉnh
đang có xu hướng bị ô nhiễm bởi các thành phần các chất hữu cơ qua các thông số
BOD5, COD, DO, N-NO2, N-NH4
+, P-PO4
3-, tổng Coliforms,… đặc biệt là đoạn sông
rạch chảy qua các khu vực tập trung đông dân cư và các nhà máy chế biến thủy sản
(TP. Cà Mau, thị trấn Năm Căn, Sông Đốc…). Xu hướng nhiễm mặn hầu hết các sông
rạch ở Cà Mau, vào các tháng mùa khô chuyển sang mùa mưa có hàm lượng BOD5,
COD, sắt tổng rất cao và pH thấp (TP. Cà Mau, U Minh, Thới Bình, Trần Văn
Thời…). Các khu vực trên địa bàn tỉnh có có hàm lượng ôxy trong nước mặt thấp hoặc
rất thấp (so với QCVN 38:2011/BTNMT) như sông Gành Hào, ngã ba Chùa Bà, ngã
ba Hòa Trung, kênh xáng Phụng Hiệp, sông Tắc Thủ, kênh xáng Vồ Dơi, kênh So Đũa
và kênh Giữa… các điểm sông rạch có hàm lượng tổng dầu, mỡ khoáng cao tập trung
tại khu vực như ngã ba chùa Bà, kênh xáng Phụng Hiệp, sông Tắc Thủ, sông Gành
Hào, sông ông Đốc, kênh xáng Vồ Dơi... là nơi tập trung nhiều tàu thuyền neo đậu,
chuyên chở vật tư, hoạt động sản xuất công nghiệp, dịch vụ cung ứng xăng dầu, ảnh
hưởng đến chất lượng nước…
Nước thải nuôi tôm chứa các thành phần độc hại và dịch bệnh có thể gây ô
nhiễm môi trường khi thải ra sông rạch, nước thải nuôi tôm công nghiệp có thành phần
các chất hữu cơ cao (BOD5 12-35mg/l, COD 20-50mg/l), các chất dinh dưỡng
(phốtpho, nitơ), chất rắn lơ lửng (12-70mg/l), amoniac (0,5-1mg/l), coliform (2,5.102 -
3.104 MNP/100ml)… cần phải được xử lý triệt để trước lúc thải ra nguồn tiếp nhận.
2.2. Yếu tố từ chất bùn thải:
10. 10
Bùn thải nuôi tôm bao gồm: Bùn phù sa lắng đọng, phân của các loài tôm cá,
thức ăn dư thừa thối rữa, các chế phẩm hóa học, thuốc kháng sinh tồn dư, các loại
khoáng chất dùng trong canh tác (Diatomit, Dolomit…) lắng đọng, các khí độc H2S,
NH3, CH4, Mecaptan… Bùn thải ao nuôi tôm công nghiệp có chứa khoảng 29,5%, Si
27.842 mg/kg, Ca 13.256 mg/kg, K 5.642 mg/kg, Fe 11.210 mg/kg, H2S 8,3mg/kg, N-
NH3 36,1mg/kg, N-NO3 0,3mg/kg, N-NO2 0,1mg/kg, PO41,8mg/kg… hóa chất, vôi và
các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có
trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần chứa H2S, NH3... là sản
phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng
đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo
vét ao nuôi, đặc biệt, với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi
thâm canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi
trường càng cao cần phải được xử lý an toàn. Kết quả điều tra đánh giá ao nuôi tôm ở
Cà Mau cho thấy: Nuôi tôm công nghiệp mặc dù đã được xử lý nước trước vụ nuôi,
nhưng độ dày lớp bùn đáy ao là 0,074 m/vụ nuôi, nuôi tôm quảng canh cải tiến là
0,118 m/vụ nuôi và ao nuôi tôm quảng canh là 0,164 m/vụ nuôi… Lượng bùn thải ra
trong nuôi tôm hàng năm khoảng 12 - 15 triệu m3/năm, lượng đất được sên vét từ hệ
thống kênh khoảng 7-8 triệu m3 Đây là nguồn ô nhiễm lớn, chứa các mầm bệnh có thể
gây ra dịch bệnh tôm nuôi ở tỉnh Cà Mau trong thời gian qua.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy: Chỉ có 17% trọng lượng khô của thức ăn
cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi
trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Đối với các ao
nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% nitrogen và 22% là các
chất hữu cơ khác, các loại chất thải chứa nitơ và phốtpho ở hàm lượng cao gây nên
hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc trong môi trường nuôi trồng
thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá
bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm trũng ngập nước... cùng với lượng phù sa
lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi
trường nước.
Vấn đề dịch bệnh và tôm chết trong ở Cà Mau thời gian qua, xảy ra còn rất phổ
biến, năm 2012 có đến 63.385 ha nuôi tôm bị dịch bệnh, có năm lên đến 45-50% diện
tích nuôi tôm, năm 2015 dịch bệnh diễn ra ở nuôi công nghiệp là 906 ha và nuôi quảng
11. 11
canh cải tiến là 12.356 ha nuôi tôm bị nhiễm bệnh… gây tổn thất lớn về kinh tế và môi
trường.3
Môi trường nước ở vùng mặn hóa ven biển hàm lượng sắt (phèn hóa) trong
nước do quá trình phèn hóa mạnh mẽ, N-NH3, Coliforms... gây ảnh hưởng đến nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt độ đục môi trường cao do nước phù sa và quá trình đào đắp
sên vét ao nuôi tôm phát sinh không được xử lý thải ra môi trường. Quá trình chuyển
dịch trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn ở vùng mặn hóa ven biển
làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển, tác động làm suy giảm rừng ngập
mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá
bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng ngọt hóa đã gây nên các tác động đến
chất lượng môi trường nước ở đây.
Mã tài liệu : 600475
Tải đầy đủ luận văn theo 2 cách :
- Link tải dưới bình luận .
- Nhắn tin zalo 0932091562
3Tạp Chí Môi Trường “Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong nuôi trồng thủy
sản ở Cà Mau”- 2015, Phạm Đình Đôn - Phó Cục trưởng Cục Môi trường Miền Nam.