SlideShare a Scribd company logo
1 of 38
1
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com
Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo
Khoá Luận, Luận Văn
ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
2
NỘI DUNG
1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô
tộitrong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay
1.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng
hình sự là nhằm tôn trọng và bảo đảm quyền con người và quyền công dân ở
Việt Nam
Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ
một cách tối ưu nhất. Quyền con người là những giá trị tự nhiên mà con người
được hưởng, phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất
định, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bao gồm các quyền về kinh tế, dân sự,
chính trị...Bên cạnh đó, quyền con người là một giá trị thiêng liêng và luôn được
pháp luật bảo vệ, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh
vực tố tụng hình sự.
Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng
ưu tiên bảo hộ của pháp luật tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ
quyền con người, quyền công dân là phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ
phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này sẽ được thực hiện hiệu quả nếu chúng
ta thừa nhận và tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc
“kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế và
nguyên tắc này được coi là “phẩm giá của văn minh nhân loại”.
Ở phạm vi bao quát hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một nguyên tắc
phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và
phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành
vi. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng khi sử dụng pháp luật để điều chỉnh các
hành vi xã hội, điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Nguyên tắc suy đoán
3
về tính hợp pháp của hành vi có nghĩa là, hành vi của cá nhân luôn được coi là hợp
pháp khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa chứng minh được hành vi đó
là bất hợp pháp.
Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm,
nguyên tắc suy đoán vô tội với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt
động tố tụng hình sự. Nguyên tắc này loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong
quá trình điều tra, truy tố, xét xử và người tiến hành tố tụng cần hiểu thấu đáo câu
thành ngữ “đo ni đóng giầy” trong mọi hoạt động tác nghiệp của mình. Dù chứng
cứ của vụ án thu thập được có thể vừa là chứng cứ buộc tội, vừa là chứng cứ có ý
nghĩa gỡ tội, niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng vụ án đó thế nào
đi nữa, thì đều phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ án một
cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc này thể hiện thái độ trân trọng
tới số phận con người, hạn chế sai lầm tư pháp làm oan, sai người không có tội.Bởi
vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, quyền con người luôn phải được bảo
đảm, đặc biệt là bảo đảm quyền của người bị buộc tội được thực hiện theo luật
định. Quyền con người trong tố tụng hình sự có thể hiểu là quyền pháp lý của cá
nhân, công dân hay nói quyền của người bị buộc tội là người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo do đang ở vào tình thế bất lợi vì có hành vi vi phạm pháp luật
hình sự hoặc đang bị tình nghi phạm tội, nên thông qua pháp luật, Nhà nước trao
cho họ những quyền pháp lý nhất định được quy định trong Hiến pháp và luật để
giúp họ có công cụ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, tránh các nguy cơ xâm phạm không đúng pháp luật từ phía các cơ
quan hoặc cá nhân đang thực thi pháp luật.
Cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình
sự là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với những nội dung đã được cụ thể hóa từ
các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, trong đó, quy
định về nguyên tắc suy đoán vô tội theo Điều 13 Hiến pháp năm 2013 đã được quy
4
định cụ thể hơn tại khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Nguyên tắc suy đoán vô tội chính là sự thừa nhận chính thức của xã hội,
thông qua các quy tắc pháp lý, về việc một người bị tình nghi phạm tội được coi là
ngoại phạm, chừng nào các bằng chứng rành rành chống lại người này chưa được
cơ quan có thẩm quyền lôi ra ánh sáng. Nguyên tắc này không phải từ trên trời rơi
xuống mà là thành quả của nền văn minh, là kết quả đạt được sau những cuộc đấu
tranh nhọc nhằn đòi công lý cho những người bị kết tội nhầm, bị xử oan. Người bị
tình nghi chưa chắc là tội phạm, bởi nếu áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô
tội, người bị tình nghi không cần phải dốc sức chứng minh rằng mình vô tội, thậm
chí có quyền im lặng. Chính những người được xã hội giao chức năng phát hiện,
nhận dạng tội phạm, đặc biệt là cơ quan điều tra, cơ quan công tố phải nỗ lực làm
cho công luận, Tòa án tin vào những cáo buộc của mình bằng cách trưng ra những
chứng cứ buộc tội thuyết phục mà họ thu thập được. Việc thiết lập nguyên tắc suy
đoán vô tội có tác dụng kép: Thứ nhất, đó là lời cảnh báo thường xuyên đối với
những người được xã hội giao chức năng gìn giữ, bảo đảm trật tự xã hội kèm theo
quyền sử dụng công lực để thực hiện chức năng ấy. Họ phải thực hiện phận sự một
cách mẫn cán, cẩn trọng, chặt chẽ và có trách nhiệm. Họ phải hiểu rằng nhiệm vụ
của họ không chỉ để vạch mặt, chỉ tên tội phạm một cách chính xác, mà còn tránh
gây tai họa cho người hiền lương. Thứ hai, nó mở lối ra cho những vụ án đi vào
ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết cách, cơ quan có thẩm quyền không trả lời được câu
hỏi: Ai thực sự là tác giả của hành vi được gọi là tội phạm?
5
Có thể trong phần lớn các trường hợp, những người bị cơ quan chức năng
đặt vào diện tình nghi cao rốt cuộc là người phạm tội đích thực. Nhưng không thể
từ đó đánh đồng tất cả người bị tình nghi với tội phạm. Sự quy kết sớm và nghiệt
ngã dễ tạo định kiến đối với người trong cuộc, đồng thời, tạo điều kiện bộc phát
tâm lý chủ quan, dẫn đến thái độ làm việc tùy tiện, tắc trách của người có thẩm
quyền. Những người có trách nhiệm bảo đảm thực thi luật pháp phải nhận thức
được tầm quan trọng của công việc, đặc biệt là tác động trực tiếp của nó đối với
cuộc sống, sự nghiệp, danh dự, nhân phẩm và cả tính mạng của con người. Từ nhận
thức đó, người ta dễ dàng nhận ra yêu cầu số một đối với công việc của những
người này, đó là phải tôn trọng sự thật khách quan. Phải bắt cho đúng người, quy
cho đúng tội.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động điều tra, truy tố và xét xử thời gian qua đã thể
hiện tình trạng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã phạm tội, dù tội trạng của
họ chưa được chứng minh. Đây là khuynh hướng “suy đoán có tội” và là một trong
những nguyên nhân gây ra án oan sai.Với một người bị cho là phạm tội và bị kết án
tử hình, nếu đã thi hành án xong mà sau đó mới chứng minh được họ vô tội, thì là
sai lầm rất lớn không thể khắc phục được, vì đó là tính mạng con người, cho nên
đặt ra yêu cầu quá trình tố tụng phải làm thận trọng, chặt chẽ hơn. Mỗi khi bắt một
người, chúng ta luôn phải có tâm lý là người đó chưa có tội.
Các vụ án oan sai được phát hiện trong thời gian qua cho thấy một điểm
chung là, người tiến hành tố tụng trong vụ án đó đã hiểu chưa thật đúng về nguyên
tắc suy đoán vô tội, điều này được thể hiện qua lập luận theo kiểu “nếu không
chứng minh được sự vô tội của mình có nghĩa là có tội”; “nếu không chỉ ra được
người nào khác đã phạm tội thì chính bị can, bị cáo là người thực hiện hành vi
phạm tội đó” và như vậy, đã chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên có trách nhiệm
buộc tội sang bên người bị buộc tội. Ngay cả khi người bị buộc tội nhận tội, thì
nguyên tắc này vẫn có hiệu lực đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
6
Có thể nói, nếu việc bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội
sẽ có lợi rất nhiều cho các bị can, bị cáo, thể hiện rõ hơn việc bảo đảm quyền con
người và quyền công dân.Điều này đặt ra yêu cầu, các quy định của pháp luật hình
sự và pháp luật tố tụng hình sự phải liên tục được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời,
phải hình thành cơ chế và các điều kiện bảo đảm để nguyên tắc này được thực hiện
hiệu quả trong suốt quá trình tiến hành tố tụng.Bên cạnh đó, nguyên tắc suy đoán
vô tội cũng sẽ giúp nâng cao nghiệp vụ của cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố
tụng. Khi quyết định bắt một người, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh
được người đó là tội phạm, nên luôn luôn phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng, kể cả
khi ra quyết định khởi tố cũng phải cân nhắc kỹ càng vì đó là số phận con người.
1.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng
hình sự là nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm chứng minh tội phạm của
các cơ quan và những người tiến hành tố tụng
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra, truy
tố, xét xử và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội được quyền không buộc phải đưa ra lời
khai chống lại chính mình hoặc không buộc phải nhận mình có tội. Một người luôn
vô tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng của Nhà nước không chỉ ra được những
bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được rằng họ đã phạm tội. Đảm bảo
thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ tạo ra sự công bằng giữa một bên là bộ máy
công quyền được hậu thuẫn bởi quyền lực nhà nước và một bên yếu thế là người bị
tình nghi, bị can, bị cáo, từ đó sẽ tránh được oan, sai trong hoạt động tố tụng,
không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng
cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can,
bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ
được sự nghi ngờ, thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
7
giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một
người là người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi
họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh
được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ thỏa mãn dấu
hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn, thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn… Mục
đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của
pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tọi phạm và người phạm tội.
Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai
khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã
áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp
này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội
phạm còn hơn làm oan người vô tội”.
Trong thực tiễn, ngoại trừ trường hợp phạm pháp quả tang, các vụ vi phạm
pháp luật chỉ bị phanh phui sau khi đã xảy ra. Nói khác đi, có nhiều vụ phạm pháp
mà sự thật về nó không bộc lộ một cách hiển nhiên, cần được dựng lại. Chính
những người giữ các vị trí tương ứng với các giai đoạn trong quá trình tố tụng, chứ
không phải ai khác, chịu trách nhiệm trong việc khôi phục toàn bộ bức tranh diễn
biến thật của câu chuyện. Có được bức tranh hoàn hảo, không chỉ người có thẩm
quyền mà toàn xã hội sẽ có điều kiện thẩm định, đánh giá bản chất của sự việc một
cách đúng đắn, trên cơ sở đó có kết luận chính xác về việc một người có tội hay
không có tội.Song có những câu chuyện không thể được dựng lại do dấu vết, manh
mối cơ bản không còn đầy đủ. Nghĩa là, có những vụ vi phạm pháp luật bị bỏ lọt,
tạm thời hoặc vĩnh viễn, bất chấp các nỗ lực của con người.
Xã hội phải chấp nhận thực tế đó, suy cho cùng, cả việc phát hiện, cũng như
việc bỏ sót các vụ vi phạm pháp luật, đều là những điều bình thường. Lý do là hệ
thống quản lý, tư pháp, cũng như những người trong hệ thống đó, không phải là
thần thánh, không hoàn hảo tuyệt đối về nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Đối với
8
người giữ trọng trách trong hệ thống, việc cần làm mỗi khi xảy ra trục trặc là phải
rà soát lại quy trình, xem chỗ nào, người nào là nguyên nhân. Sau đó, họ phải có
biện pháp chấn chỉnh, tránh để tái diễn những chuyện tương tự.
Điều quan trọng là khi cơ quan tố tụng không thu thập được chứng cứ buộc
tội thì nghi can phải được chính thức suy đoán là vô tội. Đối với xã hội, đó phải
được coi là sự vô tội hoàn hảo, chắc chắn, không nghi ngờ, không tì vết. Nó cho
phép người thụ hưởng tiếp tục sống, làm việc, giao tiếp trong những điều kiện bình
thường. Có thể với nguyên tắc suy đoán vô tội, nhà chức trách, xã hội buộc phải
chứng kiến kẻ bị cho là thủ ác nhởn nhơ trước mắt mình mà không làm được gì.
Tuy nhiên, nếu sự thất bại trong việc buộc tội một người có thể khiến một gia đình
phải chịu mất mát không thể bù đắp, thì việc kết tội oan cho một người có thể làm
tan nát cả hai gia đình, chưa kể những hệ lụy xã hội tiêu cực kéo theo. Thực tế này
được chứng minh qua một số trường hợp oan, sai đã để lại hậu quả khá nghiêm
trọng, có vụ đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận (như vụ 7 thanh niên
ở Sóc Trăng bị bắt giam oan; vụ 5 Công an ở Tuy Hòa, Phú Yên dùng nhục hình
dẫn đến chết người)…
Thực tế cũng cho thấy, trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của một bộ
phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức
thường xuyên, trong đó, có nguyên nhân đáng chú ý là có biểu hiện đem “nguyên
tắc suy đoán có tội” thay cho “nguyên tắc suy đoán vô tội”, từ đó có thái độ đối xử
với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội. Có trường hợp còn bảo thủ,
định kiến trong giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho bị can, bị
cáo. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn có những sai phạm chủ yếu dẫn đến oan,
sai, bỏ lọt tội phạm. Nhiều trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam còn chưa chính xác,
sau đó phải chuyển xử lý hành chính; tình trạng tạm giam bị can về tội ít nghiêm
trọng còn nhiều, có biểu hiện lạm dụng. Xảy ra một số vụ dùng nhục hình, có
trường hợp dẫn đến chết người gây bức xúc dư luận. Việc truy tố, xét xử còn có
9
những trường hợp sai tội danh, sai khung hình phạt; có nơi Tòa án áp dụng hình
phạt quá nặng đối với người lao động, nhất thời phạm tội thuộc trường hợp ít
nghiêm trọng; ngược lại, có những trường hợp lại tuyên hình phạt quá nhẹ, cho bị
cáo hưởng án treo không đúng pháp luật, nhất là tội về kinh tế, chức vụ, tham
nhũng… Chính bởi vậy, trong mọi trường hợp, dù ở hoàn cảnh nào, thì các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về trách nhiệm
chứng minh tội phạm trong suốt quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cụ thể:
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm là thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không bắt buộc phải chứng minh
là mình vô tội. Bởi vì không thể buộc người đang được coi là vô tội chứng minh
mình vô tội. Do đó, bị cáo có quyền im lặng, không khai báo về hành vi phạm tội
của mình. Tòa án không thể coi việc bị cáo không khai báo làm căn cứ để tăng
nặng trách nhiệm hình sự khi buộc tội và quyết định hình phạt đối với bị cáo.
- Mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi
cho bị cáo. Nếu có nghi ngờ về lỗi của bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về
chứng cứ thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải có căn cứ xác định
bị cáo vô tội. Hay nói cách khác, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập
được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ
yếu quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án không kết
tội bị cáo.
- Bản án của Tòa án không được dựa trên giả định, phải có căn cứ, xác định,
hợp lý, hợp pháp. Bản án kết tội phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, chứng minh được là bị cáo có tội. Lời nhận tội của bị can, bị cáo
chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án (khoản 2
Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015); không được dùng lời nhận tội của bị
can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội (khoản 3 Điều 98 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015); không được dùng làm chứng những tình tiết do người làm
10
chứng, người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ hơn vì sao biết được tình tiết
đó (khoản 2 Điều 91, Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Trong nội dung
bản án phải phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ
buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng (Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015).
1.3. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội nhằm thực hiện mục
tiêu “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”
“Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn
trọng các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi
một người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp
luật quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội
bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện,
lộng quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sựViệt Nam đã quy định
rõ các hoạt động tố tụng hình sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sựđã có quy định về nguyên tắc xác định sự
thật của vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan
tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội”. Thực chất, quy định trên không chỉ thuộc nội dung nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án, mà còn thuộc về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Bởi vì, cùng với việc khẳng định một người không thể bị coi là có tội khi chưa có
bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thì cũng có nghĩa thừa nhận người
bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định
một người là người phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy cứu, áp dụng trách nhiệm
11
hình sự đối với người đó, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị
luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện
tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực
hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh
được người đó đã thực hiện hành vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ
quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình và quá trình đó diễn ra ở cả
giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm
chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mà còn
thuộc về Tòa án.
Mặc dù Tòa án thực hiện chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo
mô hình tố tụng tranh tụng, trong đó, bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những
vấn đề liên quan để chứng minh hay bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó
Tòa án không tham gia vào việc thẩm vấn cùng với bên buộc tội hay bên gỡ tội mà
đứng trung gian như người trọng tài phân xử…, thì ở Việt Nam, mô hình tố tụng là
mô hình thẩm vấn, tại phiên tòa, Tòa án tham gia vào việc thẩm vấn bị cáo và
những người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để
chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội
gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Trên cơ sở đó mới ra phán quyết, kết
tội, quyết định hình phạt đối với họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự của
Việt Nam, Tòa án cũng có tham gia vào việc chứng minh tội phạm.
Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có
quyền, nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có
nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh
mình không phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ
về thời gian xảy ra vụ việc mình không ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm
12
tội hoặc đưa ra chứng cứ chứng minh có người khác, chứ không phải mình, đã thực
hiện tội phạm… Song, vì lý do nào đó, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo cũng có thể
từ chối chứng minh sự vô tội của mình thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
không thể coi họ là người phạm tội.
Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể, nhưng đã
mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi
lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị
cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Hình sự
và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 48 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai báo thì
lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều
tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn
khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành
khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Trường
hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội khai báo gian dối theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Hình sự.
Mặc dù với những quy định trên, có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng hình sự
nước ta đã thừa nhận quyền im lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, song
một trong những bảo đảm để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là các
quy định của pháp luật tố tụng càng đơn giản, dễ hiểu và được thông tin đến người
dân đầy đủ bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu để tránh sự lạm dụng của những người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng Bộ luật Tố tụng hình sự
cũng cần được bổ sung quy định cụ thể về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị
can, bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc
giải thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can về quyền im lặng của họ.
13
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng
cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can,
bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ
được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một
người là người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi
họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh
được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ thỏa mãn dấu
hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn…
Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng chỉ rõ, khi chưa có bản án kết tội có hiệu
lực pháp luật của Toà án thì bị can, bị cáo không bị coi là có tội. Điều đó cho thấy
tầm quan trọng của bản án đối với quá trình tố tụng hình sự cùng ý nghĩa to lớn của
nó đối với việc đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội. Bản án hình sự là hình thức
pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chỉ do Toà án
ban hành trong đó tuyên bố một người phạm tội hoặc không phạm tội. Bộ luật Tố
tụng hình sự đã đưa ra khuôn mẫu chung của bản án hình sự sơ thẩm về hình thức
và nội dung. Theo đó, bản án hình sự chỉ có hai loại: (i) Bản án hình sự tuyên bị
cáo có tội và (ii) Bản án hình sự tuyên bị cáo không phạm tội. Bản án tuyên bị cáo
phạm tội phải chỉ rõ bị cáo phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự.
Nếu bị cáo vô tội thì dứt khoát trongbản án phải khôi phục danh dự, nhân phẩm và
các quyền lợi khác cho họ. Vì vậy, trong quyết định của bản án không thể tuyên
mập mờ như: “Bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội…” hoặc “không
đủ căn cứ để kết tội bị cáo về tội hoặc hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu
thành tội phạm…”. Tuyên án như vậy là rất khó xác định bị cáo có tội hay không
có tội, oan hay không oan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền suy đoán vô tội
cũng như các quyền lợi khác của bị cáo.
14
Nguyên tắc suy đoán vô tội còn đòi hỏi bản án phải công minh biểu hiện ở
việc hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được tuyên trong bản án
phải phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội nhân thân của người có tội, còn
không có tội phải được tuyên là vô tội và phải được minh oan. Vì bản án không
được dựa trên những chứng cứ giả định nên Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cụ
thể là bản án (kết tội) phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những
chứng cứ có tội và chứng cứ vô tội (bản án tuyên bị cáo vô tội). Đây chính là tính
có căn cứ của bản án hình sự, tức là, mọi quyết định của Toà án trong bản án phải
dựa trên hệ thống chứng cứ được thu thập một cách khách quan, đầy đủ, hợp pháp
và toàn diện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự và phải được đưa ra xem
xét, đánh giá công khai, dân chủ, bình đẳng tại phiên toà. Sẽ không có một bản án
chính xác, giải quyết triệt để, toàn diện các vấn đề của vụ án hình sự nếu chỉ dựa
vào suy luận chủ quan, định kiến của hội đồng xét xử và các cơ quan tiến hành tố
tụng. Những căn cứ để tuyên bị cáo không phạm tội cần được hiểu rộng hơn,
không chỉ là có đủ chứng cứ và đủ căn cứ pháp lý tuyên bị cáo không phạm tội mà
còn là cả những trường hợp không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có tội, có nghi ngờ
về chứng cứ cũng như pháp luật để chứng minh bị cáo có tội. Điều này phù hợp với
nguyên tắc suy đoán vô tội khi trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến
hành tố tụng và mọi nghi ngờ về chứng cứ và pháp luật phải giải quyết có lợi cho
bị can, bị cáo.
1.4. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng
hình sự là bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của
người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, là nền tảng cho công lý và sự phát triển
của một xã hội phồn thịnh
Công lý là kết tinh của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân loại để
thực hiện lý tưởng công bằng, là giá trị nền tảng, cốt lõi trong việc tổ chức một xã
hội trật tự, ổn định và hợp tác. Trong một xã hội văn minh, công lý chính là “đại
15
lượng công bằng” để dàn xếp những mâu thuẫn, xung đột không thể tránh khỏi xảy
ra giữa các thành viên xã hội trên cơ sở nguyên tắc “trao cho mọi người những gì
họ xứng đáng, trao cho mỗi người cái họ đáng hưởng”, hay đó là nghĩa vụ “hoàn
lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng”. Vì vậy, hầu hết các tư
tưởng, học thuyết về công lý đều khẳng định chức năng to lớn của công lý là một
“giá trị chung", là điểm “quy chiếu chung” của toàn xã hội trong việc phòng ngừa
và giải quyết xung đột, duy trì sự hài hòa, ổn định, gắn kết và đồng thuận xã hội.
Công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong những mục tiêu cơ
bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị). Cụ thể, Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã nêu rõ việc: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân,
phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là
hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Cùng với đó, trong
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
đề ra những biện pháp nhằm đảm bảo cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư
pháp để từ đó xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa vững chắc trong
hoạt động bảo vệ công lý và quyền con người cho nhân dân. Cụ thể, về mục đích
và lộ trình thực hiện, Văn kiện xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến
lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm
quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt
động của các cơ quan tư pháp”.
Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án thực hiện
16
nhiệm vụ thiêng liêng là “bảo vệ công lý”. Đây là những quy định hoàn toàn phù
hợp với chủ trương hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân và mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh
“thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người” trong
Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta thời gian tới.
Để thực hiện mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp, đòi hỏi chúng ta phải
hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có hệ thống pháp luật tố tụng hình sự cho
phù hợp. Những tư tưởng, nguyên tắc pháp luật đã được cộng đồng quốc tế thừa
nhận như là giá trị to lớn của văn minh nhân loại phải được ghi nhận trong pháp
luật tố tụng hình sự nước ta.Chính vì vậy,việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội là đòi hỏi tất yếu của luật tố tụng hình sự trong Nhà
nước pháp quyền.
Hoạt động tố tụng hình sự được xác định bao gồm hai nhiệm vụ chủ yếu là:
(i) Bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và (ii) Bảo vệ cá nhân
người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền. Việc
bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đưa lại sự cân bằng
trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra, truy
tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước và một bên yếu thế
hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị
buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong
việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận
thức trong tố tụng hình sự: “Một người luôn vô tội khi Nhà nước không chỉ ra được
những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội”.
Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên
tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị
truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành
vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán
17
vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc
chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của
mình để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ
luật Tố tụng hình sự, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình
sự.
2. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp
luật tố tụng hình sự ở Việt Nam
2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật và hướng dẫn thi hành hiệu quả
các quy định về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố
tụng hình sự
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định chính thức tại khoản 1 Điều 13
Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi
được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật”. Trên cơ sở các quy định mang tính hiến định, Điều 13 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc này như sau: “Người bị buộc tội
được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi
không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục
do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội”. Tuy nhiên, nguyên tắc này rất cần sự
hướng dẫn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một cách thống
nhất và hiệu quả, đảm bảo tính công bằng của pháp luật tố tụng hình sự.
Suy đoán được hiểu là sự công nhận một vấn đề nào đó là đúng cho đến khi
chứng minh được điều ngược lại. Trong pháp luật, là suy đoán pháp lý nên suy
đoán vô tội là một quan điểm pháp lý coi một người không phải là người phạm tội
khi người đó chưa bị Tòa án kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Suy đoán vô
tội thể hiện quan điểm của Nhà nước tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người,
18
tôn trọng tính “bản thiện”, loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình tố
tụng.Nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tố tụng hình sự nói chung, nguyên
tắc suy đoán vô tội nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tôn trọng và bảo vệ
quyền con người theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, để đảm bảo thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự cần tiếp tục hoàn thiện
hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nói chung, các quy định về bảo đảm quyền được
suy đoán vô tội nói riêng. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được sửa
đổi bổ sung rất cơ bản, đồng bộ, có căn cứ khoa học và về cơ bản đã khắc phục
được những bất cập, vướng mắc trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô
tội, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:
Một là, về một số nguyên tắc tố tụng hình sự
- Cần sửa đổi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử (Điều 26) theo hướng quy
định cụ thể việc xét xử vụ án hình sự được tiến hành trên cơ sở tranh tụng giữa bên
buộc tội và bên bào chữa để bảo đảm chức năng buộc tội do các chủ thể của bên
buộc tội thực hiện; chức năng bào chữa do các chủ thể của bên bào chữa thực hiện
và Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử. Đặc biệt là, cần quy định rõ sự bình
đẳng của bên buộc tội và bên bào chữa trong việc đưa ra chứng cứ và tranh luận
trước Hội đồng xét xử và Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả
tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa.
- Sửa đổi bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 về “Xác định sự thật của vụ án” theo hướng xác định rõ trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các chủ thể có quyền buộc tội, để từ đó sửa đổi Điều 13
“Suy đoán vô tội” theo hướng: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến
khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án
kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm
19
thuộc về các chủ thể có thẩm quyền buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh là mình vô tội.Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn
cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có
tội”.
Hai là, sửa đổi các quy định về chủ thể tham gia tố tụng hình sự
Các quy định về chủ thể tham gia tố tụng hình sự (tại Chương III, IV và V
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) cần hoàn thiện theo hướng quy định rõ
nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể bên buộc tội (Thủ trưởng/Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra; Viện trưởng/Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên; người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện và người
bảo vệ quyền lợi của họ) và các chủ thể bên bào chữa (người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa; bị đơn dân sự, người đại diện và người bảo vệ
quyền lợi của họ). Đặc biệt là quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng nhóm chủ
thể nêu trên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền năng được pháp luật quy
định khi tham gia các giai đoạn tố tụng hình sự.
Ba là, về rút yêu cầu khởi tố của bị hại
Sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
theo hướng xác định rõ thời hạn có thể thực hiện quyền này là “cho đến khi Hội
đồng xét xử nghị án” (bao gồm cả xét xử phúc thẩm) với nội dung như sau: “2.
Trong mọi trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước khi Hội đồng
xét xử nghị án ... thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định
họ rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của mình do bị ép buộc, cưỡng bức”.
Bốn là, thống nhất sử dụng thuật ngữ "lấy lời khai" trong Bộ luật Tố tụng
hình sự
Hỏi cung và lấy lời khai là các hoạt động tố tụng hình sự tuy khác nhau về
đối tượng tác động nhưng có cùng bản chất. Chúng tôi cho rằng việc sử dụng hai
20
thuật ngữ “hỏi cung” và “lấy lời khai” trong Bộ luật Tố tụng hình sự thể hiện định
kiến về sự có tội của bị can và vô hình chung nguyên tắc suy đoán vô tội đã bị vi
phạm nghiêm trọng từ chính các nhà lập pháp. Vì vậy, các quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự cần sửa đổi bổ sung theo hướng sử dụng thống nhất thuật ngữ “lấy lời
khai” đối với tất cả đối tượng (bao gồm cả bị can).
Năm là, sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến suy đoán vô tội ở
Phần thứ 4 của Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:
- Quy định về giới hạn xét xử (Điều 298) cần bổ sung khoản 3 như sau:
Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát
truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị
cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ
tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó
nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và phải tuân thủ các quy định khác
của Bộ luật này".
- Quy định về trình tự phát biểu trong tranh tụng (Điều 320) cần sửa đổi bổ
sung như sau: Kiểm sát viên trình bày luận tội; bị hại, nguyên đơn dân sự và người
đại diện của họ trình bày ý kiến; người bào chữa trình bày lời bào chữa, bị cáo,
người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa (nếu không có người
bào chữa thì bị cáo tự bào chữa); bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của
họ trình bày ý kiến. Trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại
hoặc người đại diện của họ trình bày buộc tội trước khi Kiểm sát viên luận tội"; Bổ
sung khoản 4 với nội dung sau: “Bị cáo và người bào chữa có quyền phát biểu sau
cùng”.
- Quy định về nghị án, cần sửa đổi khoản 7, Điều 326 theo hướng: "7.
Trường hợp phát hiện bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử kiến nghị Viện kiểm sát
khởi tố vụ án".
21
- Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc mới. Để bảo đảm sự
nhận thức và thực hiện thống nhất nguyên tắc suy đoán vô tội, các cơ quan có thẩm
quyền cần có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể những trường hợp nào được xác
định là trường hợp không đủ và không thể làm tỏ được căn cứ buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục pháp luật quy định để tạo cơ sở cho việc tuyên bố người bị buộc tội
không phạm tội.
Sáu là, để tránh oan sai và tạo điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội, pháp luật tố tụng hình sự cũng cần quan tâm hoàn thiện thêm một số
vấn đề sau đây:
- Quy định rõ ràng, cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam,
trong đó việc tạm giữ, tạm giam chỉ có thể áp dụng đối với người có căn cứ rõ ràng
cho rằng có thể tiếp tục phạm tội, trốn tránh hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử;
không lấy tính chất nghiêm trọng của tội phạm được khởi tố làm căn cứ duy nhất
để tạm giữ, tạm giam; thu hẹp thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam;
- Nghiên cứu quan điểm chỉ giao cho Tòa án quyết định các biện pháp tước
tự do của con người, bao gồm cả các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam;
- Bổ sung quy định cụ thể về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can, bị
cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc giải
thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can về quyền im lặng của họ.
- Nghiên cứu hủy bỏ các thẩm quyền tố tụng trái với chức năng tố tụng của
các cơ quan tiến hành tố tụng như bỏ thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát; bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án cuả Tòa án; bỏ quy định
về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án; bỏ quyền điều tra của Tòa án trong giải
quyết vụ án hình sự…;
- Hoàn thiện quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Nên chăng,
mọi khiếu nại của người tham gia tố tụng nên giao cho Tòa án giải quyết để bảo
22
đảm tính chế ước, khách quan và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người
của Tòa án…
2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Con người là nhân tố quyết định sự thành bại của công việc. Để hoạt động
áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt chất
lượng, hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền con người nói chung,
nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng thì việc nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất
đạo đức và năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng. Từ đó cần phải quan tâm đến một số vấn đề sau:
- Nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức của chủ thể tiến hành tố
tụng, theo đó cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn quán triệt chủ
trương, đường lối của Đảng và vận dụng chủ trương, đường lối đó vào công tác
điều tra, truy tố, xét xử để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phục vụ có hiệu quả
nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện ý thức
chính trị tức là đòi hỏi những cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn
luôn nắm vững các chủ trương nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cũng như các chủ trương, nghị quyết liên quan đến công
tác của mình, từ đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình làm cho nhân
dân tin tưởng đồng tình, giúp người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật được đúng
đắn.
- Nâng cao năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng, nhất là trong
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội,
bởi vì trong tố tụng hình sự, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội mà còn ảnh
hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bào chữa của người bị
buộc tội.
23
2.3. Quán triệt và thống nhất nhận thức trong toàn thể đội ngũ cán bộ,
những người tiến hành và tham gia tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố,
xét xử về việc luôn bảo đảm đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc dù có tiến bộ đến đâu cũng không có ý nghĩa nếu không được
thực thi trong xã hội. Để áp dụng đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô tội trong các
giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, thì yêu cầu trước tiên đối với cán bộ, những
người tiến hành và tham gia tố tụng là phải quán triệt, nhận thức sâu sắc những nội
dung của nguyên tắc này.
Để xây dựng nhận thức thống nhất của cán bộ, những người tiến hành và
tham gia tố tụng về nguyên tắc suy đoán vô tội, có thể áp dụng một số biện pháp
sau: (i) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung,
nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự nói riêng; (ii) Liên tục
đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục các
biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội như: Xu hướng cơ quan điều tra thực
hiện điều tra theo “suy đoán có tội” hay “buộc tội một chiều”;Viện kiểm sát chỉ căn
cứ kết luận điều tra của cơ quan điều tra để hình thành cáo trạng mà thiếu sự khách
quan, áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội để thực hiện việc truy tố; Tòa án khi xét
xử chỉ dựa trên kết luận điều tra và cáo trạng sẵn có, thiếu sự thẩm định và đánh
giá chứng cứ tại phiên tòa, xem xét các tình tiết liên quan đến vụ án một cách phiến
diện, chỉ tập trung vào khía cạnh buộc tội; luôn thể hiện tính “đoàn kết” và “thống
nhất cao” giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong mọi vụ án…
2.4. Tăng cường các thiết chế khác bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc
biệt quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự tại Việt Nam. Nguyên tắc suy đoán
vô tội còn là yếu tố căn bản trong việc bảo vệ quyền con người. Khi một công dân
trở thành nghi can, bị tạm giam, tạm giữ, rõ ràng họ đã bị hạn chế một phần sự tự
24
do, nên khó khăn để tự bảo vệ sinh mệnh pháp lý cũng như sinh mệnh vật chất của
họ. Bởi vậy, cần tăng cường nhận thức để bảo đảm áp dụng hiệu quả nguyên tắc
suy đoán vô tội trong hoạt động tố tụng. Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ là tiền đề
bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình. Bảo
đảm tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc suy đoán vô tội ở các giai đoạn khác nhau
của tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử là một trong những điều kiện cho
việc phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chúng ta cũng nên nhất trí rằng việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc minh oan cho người vô tội
cũng quan trọng và có ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người có tội.
Trong quá trình tiến hành tố tụng, chúng ta phải luôn nhận thức rằng,người
bị bắt, người bị tạm giữ, bị can chưa phải là người có tội thì mới đảm bảo được tính
khách quan của điều tra viên, kiểm sát viên trong việc thu thập chứng cứ và làm
sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu coi người bị bắt giữ với tư cách là người bị tình
nghi, người bị khởi tố với tư cách là bị can đã là người có tội thì dễ dẫn đến hậu
quả là điều tra viên, kiểm sát viên chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm của người bị bắt giữ và bị can chứ không quan tâm đến việc
làm sáng tỏ các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ. Nếu hội đồng xét xử coi bị
cáo là người có tội trước khi mở phiên tòa xét xử thì sẽ không đảm bảo được sự
khách quan trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá ý kiến tranh luận của các bên
buộc tội và bên bào chữa đưa ra. Việc coi một người là có tội khi chưa có bản án
kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có nghĩa là đồng nhất các khái niệm
người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án đều là người có tội và đồng nhất
biện pháp ngăn chặn với biện pháp hình phạt sẽ dẫn đến sự vô hiệu hóa của việc
phân định thẩm quyền tố tụng giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án.
Có thể khẳng định rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những
nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật cả về lý thuyết lẫn
25
thực tiễn. Đặt trong bối cảnh Việt Nam, toàn dân cùng phấn đấu vì mục tiêu xây
dựng một Nhà nước pháp quyền, dân chủ thì các biện pháp để bảo vệ quyền con
người cần được quan tâm một cách thích đáng, trong đó có việc đề cao nguyên tắc
suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Để bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc
suy đoán vô tội trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng, cần quan tâm thực
hiện tốt các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh quy định về trách nhiệm chứng minh tội
phạm trong tố tụng hình sự
Trong giai đoạn điều tra, truy tố, cơ quan có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội
của người bị tạm giữ, bị can là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, thể hiện tại nghĩa
vụ cơ quan điều tra trong thời hạn 24 giờ kể từ sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì phải ra quyết định tạm giữ
hoặc trả tự do cho người bị bắt. Như vậy, khi không có căn cứ ra quyết định tạm
giữ thì cơ quan điều tra phải trả tự do cho người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “Nếu xét thấy việc tạm giữ không có
căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm
giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”…;
“Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho
người bị tạm giữ…”. Như vậy, việc trả tự do cho người bị tạm giữ có thể được thực
hiện từ rất sớm, ngay trước khi ra quyết định tạm giữ hoặc khi đã có quyết định
này. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ khi xác định được ngay việc bắt khẩn cấp
hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ mà không cần phải đợi đến khi hết
thời hạn tạm giữ. Tuy nhiên, trong thực tế, không đơn giản là cứ bắt người rồi sau
đó thấy không có căn cứ thì thả tự do, vì như vậy, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín,
hình ảnh, công việc của người bị bắt. Cho nên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần
phải vượt qua rào cản tâm lý này, quán triệt việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô
tội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị bắt.
26
Pháp luật tố tụng hình sự cũng đã luôn khẳng định rằng, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để bảo đảm
người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô
tội, thì những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là điều tra viên phải bắt đầu quá
trình tố tụng của mình từ suy nghĩ đối tượng này không có tội, khi thực hiện điều
tra phải chú ý đến những tình tiết ngoại phạm cho nghi can để bảo đảm được suy
đoán vô tội, nghiêm cấm chuyện có ấn tượng ngay từ đầu đây là tội phạm và cố
gắng thu thập bằng chứng, củng cố hồ sơ để chứng minh rằng họ phạm tội. Suy
đoán vô tội phải quan tâm đến các yếu tố nào giúp khẳng định người ta vô tội và
không được củng cố hồ sơ theo định hướng có sẵn.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô
tội. Bởi vì không thể buộc người đang được coi là vô tội chứng minh mình vô tội.
Do đó, bị cáo có quyền im lặng, không khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án không thể coi việc bị cáo không khai báo
làm căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự khi buộc tội và quyết định hình phạt
đối với bị cáo.
Trong các giai đoạn của quá trình tiến hành tố tụng hình sự, mọi nghi ngờ
phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị cáo. Trong giai
đoạn điều tra, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng cần chú trọng hơn nữa việc áp
dụng nguyên tắc giải quyết có lợi cho người bị buộc lỗi trong trường hợp quy định
của luật không rõ. Các cơ quan khi thực hiện chức năng của mình, đối với mỗi vụ
án sẽ có niềm tin nội tâm đối với các vụ án. Nhưng niềm tin đó phải dựa trên các
cơ sở bằng chứng cụ thể, không được ép cung, dùng nhục hình... Nếu như không
có bằng chứng xác đáng thì mặc dù có tin rằng đó là tội phạm, thì cũng phải ra
quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án.
Trong giai đoạn xét xử, nếu có nghi ngờ về lỗi của bị cáo mà không thể bổ
sung gì hơn được về chứng cứ, thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi
27
phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Cụ thể, trong giai đoạn xét xử mà không thể
thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội
dung chủ yếu quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án
không kết tội bị cáo.
Bản án của Tòa án không được dựa trên giả định, phải có căn cứ, xác định,
hợp lý, hợp pháp. Bản án kết tội phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, chứng minh được là bị cáo có tội. Lời nhận tội của bị can, bị cáo
chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án; không
được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội; không
được dùng làm chứng những tình tiết do người làm chứng, người bị hại trình bày,
nếu họ không thể nói rõ hơn vì sao biết được tình tiết đó.
Thứ hai, bảo đảm quyền suy đoán vô tội của bị can, bị cáo trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử và tố tụng tại phiên tòa
Hạn chế tối đa việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo,
bởi vì, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội nên các biện pháp cưỡng chế tố tụng
hình sự như tạm giam chỉ được áp dụng trong trường hợp thực sự cần thiết, tương
xứng giữa mức độ nghiêm khắc của biện pháp cưỡng chế và mục đích của biện
pháp này. Tòa án phải cân nhắc thận trọng khi tạm giam hoặc tiếp tục tạm giam bị
can. Chỉ tạm giam bị can trong giai đoạn xét xử khi không áp dụng biện pháp ngăn
chặn hoặc không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn nào khác mà vẫn đạt được mục
đích mong muốn. Đồng thời, cần tăng cường xem xét trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng nếu áp dụng biện pháp ngăn chặn không hợp pháp, hợp lý xâm hại
đến quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội.
Tòa án có trách nhiệm xét xử nhanh chóng, kịp thời, bị can, bị cáo bị đặt vào
trình trạng pháp lý bất lợi, phải chịu các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự và
luôn bị đe dọa áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng nhất là hình phạt, trong
khi theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì họ được coi là người vô tội. Do đó, thời hạn
28
xét xử dài sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người liên quan trong vụ án. Vì
vậy, xét xử nhanh chóng, kịp thời là một yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội.Tòa án được nghiên cứu hồ sơ, giải quyết vụ án trong thời hạn do pháp
luật tố tụng quy định nhưng đồng thời Tòa án cũng có trách nhiệm phải đẩy nhanh
tiến độ giải quyết, rút ngắn tối đa thời gian tố tụng tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi
của các bên đương sự. Đặc biệt, Tòa án không được kéo dài thời gian tố tụng để
“cố gắng” chứng minh được tội phạm.
Bị cáo được xuất hiện tại phiên tòa với trang phục phù hợp, không bị coi là
người phạm tội, hình ảnh bị cáo tại phiên tòa là ấn tượng ban đầu, có tác động đến
tư tưởng hoặc có thể tạo ra định kiến về nhân thân bị cáo đối với những người tiến
hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án. Do đó, được suy đoán vô tội yêu cầu bị
cáo phải có trang phục như người không phạm tội. Đồng thời, việc xưng hô tại
phiên tòa cũng phải thể hiện rõ sự tôn trọng sự suy đoán vô tội của bị cáo. Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng không được sử
dụng những cách xưng hô có tính chất ám chỉ, miệt thị, đay nghiến hoặc biểu hiện
thái độ bực tức, khó chịu đối với bị cáo.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, căn cứ kết quả tranh tụng để
Tòa án ra bản án kết tội hoặc tuyên bố vô tội. Bởi vì, theo nguyên tắc suy đoán vô
tội, thì bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng được tạo các điều
kiện để chứng minh mình không phạm tội. Vì vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội yêu
cầu Tòa án luôn phải đảm bảo quyền bào chữa và quyền được tranh luận dân chủ
với bên buộc tội của bị cáo tại phiên tòa.“Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho
mọi công dân đều bình đẳng truớc pháp luật… việc phán quyết của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền, lợi ích hợp pháp”. “Các cơ
quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố
29
tụng như tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại
phiên tòa.” Đó là những định hướng cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08 của Bộ
Chính trị.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật trong tố
tụng hình sự
Những năm gần đây các hoạt động tố tụng hình sự, nhất là việc bắt, tạm giữ,
tạm giam là những vấn đề thu hút được sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi vậy, để việc áp dụng pháp
luật trong tố tụng hình sự đảm bảo đúng các nguyên tắc tố tụng, trong đó có
nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải tăng cường sự giám sát của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Cụ thể như:
- Tăng cường hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc
tuân thủ các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân
dân có quyền trực tiếp kiểm sát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ đó đòi hỏi
Viện kiểm sát cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, phải có kế
hoạch cụ thể để thường kỳ và bất thường áp dụng quyền kiểm sát để đảm bảo cho
hoạt động tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, đảm bảo quyền được suy đoán vô
tội và tránh xảy ra các trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự.
- Đẩy mạnh hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội,
Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông
qua việc nghe báo cáo, thẩm tra và cho ý kiến về báo cáo công tác tại các kỳ họp
Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân
thông qua chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó cần chú trọng hoạt động chất vấn
của các đại biểu dân cử.
30
- Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với việc giám sát quá trình tố
tụng, nhất là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam của
các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời có cơ chế khuyến khích nhân dân, các cơ
quan báo chí, truyền hình tích cực, chủ động nắm bắt thông tin vi phạm pháp luật
trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng để kiến nghị xử lý, bảo
đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và phối hợp
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
- Đối với quản lý, chỉ đạo, điều hành: Thực tiễn cho thấy việc quản lý, chỉ
đạo, điều hành có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy hiệu quả áp dụng pháp
luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Yêu cầu đặt ra đối với
công tác này là phải nắm chắc tình hình hoạt động của từng bộ phận công tác của
đơn vị mình và cấp dưới để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; kịp thời tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh những thiếu sót trong việc áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự, trong đó một số chỉ tiêu phải thực hiện chế độ thông tin, báo
cáo đầy đủ để có các biện pháp xử lý kịp thời như: số lượng tin báo, tố giác tội
phạm (hàng giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm) và kết quả xử lý; số người bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, những trường hợp bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam không có căn
cứ, quá hạn; các bị cáo do Toà án cùng cấp và cấp dưới tuyên không phạm tội; hình
phạt bằng hoặc thấp hơn thời hạn tạm giam, tuyên phạt tù cho hưởng án treo, cải
tạo không giam giữ; các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo có bị tạm giữ, tạm giam
kêu oan ngay từ đầu, các đương sự khiếu nại nhiều lần về việc giải quyết vụ án có
việc tạm giữ, tạm giam không khách quan.
Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng
hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải bảo đảm chế độ tập trung
thống nhất trong từng ngành; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải chịu sự
lãnh đạo trực tiếp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát
31
nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp mình và Thủ trưởng cơ quan cấp trên.
Thực hiện tốt những vấn đề này chính là tăng cường chế độ trách nhiệm và phát
huy tính chủ động, sáng tạo của từng ngành, từng cấp trong việc áp dụng pháp luật
trong tố tụng hình sự. Việc hướng dẫn, chỉ đạo cũng như trả lời thỉnh thị đường lối
giải quyết vụ án phải được nâng cao về chất lượng, bảo đảm chính xác, kịp thời,
tránh việc hướng dẫn không rõ ràng, gây khó khăn cho cấp dưới khi thực hiện. Đặc
biệt là cần tăng cường hơn nữa công tác hướng dẫn nghiệp vụ đối với cấp dưới
bằng nhiều hình thức như: Tổ chức sơ kết, tổng kết, tập huấn chuyên đề áp dụng
pháp luật biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Đối với những sai sót phổ biến, điển
hình cần ra thông báo rút kinh nghiệm chung cho tất cả các huyện.
Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ những người tiến
hành tố tụng hình sự, vấn đề quan trọng là hàng năm Bộ Công an, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao cần xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ
để hướng dẫn dấu hiệu của từng loại tội phạm, đường lối giải quyết đối với từng
loại án như: án kinh tế, án trị an xã hội, án ma tuý... các chuyên đề rút kinh nghiệm
trong công tác nghiệp vụ như: chống lọt tội, chống hình sự hoá các quan hệ dân sự,
hành chính, kinh tế. Một trong những biện pháp quan trọng của công tác lãnh đạo,
chỉ đạo của các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần thực hiện tốt là việc thường
xuyên kiểm tra cấp mình và cấp dưới trong việc tiến hành các công tác nghiệp vụ.
Thông qua kiểm tra để phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ để kịp thời chấh chỉnh, khắc phục những sai phạm và phải ra thông báo
rút kinh nghiệm chung.
Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật của các cơ quan và người
tiến hành tố tụng. Trong thời gian vừa qua Đảng và nhà nước ta đã quan tâm, chú
trọng đến giải pháp này nên đã ban hành được nhiều văn bản pháp luật, quy định
khá chi tiết về chế tài xử phạt. Cụ thể các văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm
2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự, Luật Trách nhiệm bồi thường
32
nhà nước.. Các văn bản này quy định về trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự
của các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với
hành vi vi phạm của mình trong hoạt động áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự.
Để pháp luật tố tụng hình sự được chấp hành nghiêm chỉnh, đòi hỏi phải nâng cao
trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng các hình thức quán
triệt rõ ràng, đầy đủ các trách nhiệm của họ cũng như các chế tài mà họ có thể bị áp
dụng. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật thì phải xử lý
nghiêm minh, không được bao che, xử lý qua loa đại khái, có như vậy mới có tác
dụng giáo dục, dăn đe và bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh.
- Về phối hợp trong hoạt động tố tụng hình sự: Thực tiễn trong hoạt động tố
tụng hình sự cho thấy, nơi nào xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các
bộ phận, đơn vị nghiệp vụ trong ngành với nhau và giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng thì nơi đó có điều kiện thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Mối
quan hệ phối hợp ở đây được xác định bao gồm mối quan hệ trong công tác lãnh
đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp. Quan hệ
phối hợp tốt có tác dụng hỗ trợ tích cực, giúp cho việc thống nhất quan điểm trong
việc thực hiện các trình tự, thủ tục tố tụng. Bởi vậy, để áp dụng đúng pháp luật tố
tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng cần ban hành các quy chế phối hợp
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau trong từng hoạt động tố tụng để tăng
cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong việc kịp thời xử lý, giải quyết
các vụ án hình sự đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Đặc biệt là, các cơ
quan Tòa án, Kiểm sát và Cơ quan điều tra thường xuyên trao đổi, cung cấp, thông
báo cho nhau những thông tin, văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ có liên
quan đến việc thực hiện các trình tự tố tụng; phối hợp kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo
cấp dưới về nghiệp vụ nhằm phát hiện uốn nắn kịp thời những vi phạm và khắc
33
phục những vi phạm, tội phạm xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết vụ án hình sự.
Thứ năm, tăng cường sự tham gia của người bào chữa kể từ khi tạm giữ
người để tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự
Mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra chân lý khách quan của vụ án, vì vậy
để xác định được sự thật của vụ án đòi hỏi phải có sự cọ xát, tranh luận giữa hai
bên buộc tội và gỡ tội trong quá trình giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự
hiện hành quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa. Vì vậy, người bào chữa được tham gia bào chữa trong vụ án
hình sự từ khi có việc tạm giữ người của Cơ quan điều tra, người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo hoặc người bào chữa của họ có thể tham gia hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử. Trong quá trình tham gia tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người
bào chữa được quyền tìm và đưa ra chứng cứ đối lập với các chứng cứ mà cơ quan
tiến hành tố tụng thu thập được. Các tài liệu do bên buộc tội và bên bào chữa đưa
ra phải được xem xét, đánh giá trên cơ sở khách quan, tính liên quan và tính hợp
pháp, nghĩa là các tài liệu, đồ vật đó phải là chứng cứ mới được sử dụng. Chứng cứ
do bên gỡ tội đưa ra phải được xem xét, đánh giá cùng với chứng cứ buộc tội.
Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ chú ý đến những chứng cứ buộc
tội, đề cao khía cạnh không để lọt tội phạm hơn khía cạnh không làm oan người vô
tội, vì vậy dễ dẫn đến tình trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm
giam một cách thiếu căn cứ, thậm chí sai đối tượng dẫn đến không đảm bảo quyền
suy đoán vô tội của họ. Thực tiễn cho thấy người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào
chữa thường có trạng thái tâm lý hoang mang, lo sợ, mặc cảm hoặc do chưa đủ
kiến thức pháp lý để tự bào chữa cho mình nên Cơ quan điều tra trong một số
trường hợp đã tùy tiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn dẫn đến vi phạm pháp luật
như bắt, tạm giữ, tạm giam oan sai, những trường hợp không cần bắt, tạm giữ, tạm
giam lại bắt tạm giữ, tạm giam; có những trường hợp cần bắt, tạm giữ, tạm giam lại
34
không bắt, tạm giữ, tạm giam; tính thời hạn tạm giữ sai; bắt, tạm giữ, tạm giam
không đúng trình tự thủ tục. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô
tội thì phải tăng cường sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án hình sự kể
từ khi có việc bắt, tạm giữ, tạm giam người, nhằm đảm bảo việc tuân thủ đúng các
trình tự, thủ tục pháp luật quy định của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tố tụng hình sự
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về tố tụng
hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán
vô tội. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật không chỉ
được được thể hiện qua việc giải thích các quyền của người bị buộc tội trong tố
tụng hình sự mà còn thể hiện qua việc tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy
định để đảm bảo đúng các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Chính
vì vậy, trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chủ động, linh hoạt
trong việc lựa chọn, giải thích các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ
người bị buộc tội hiểu, nhận thức đúng các quyền của mình mà trong nhiều trường
hợp ngay chính những người liên quan (người bào chữa, người làm chứng...) cũng
nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng mắc, khó
khăn trong quá trình tố tụng để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội (ví
dụ như: tạo điều kiện cho người bào chữa được tham gia bào chữa từ giai đoạn
khởi tố bị can..). Tuy nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về tố tụng hình sự, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải nghiên
cứu, đánh giá cụ thể từng trường hợp để tiến hành các trình tự, thủ tục tố tụng phù
hợp được pháp luật cho phép, nhất là việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
người bị buộc tội trong từng giai đoạn tố tụng hình sự.
35
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016.
2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền
con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân
quyền Australia, Hà Nội, tháng 3/2010.
3. Phạm Thị Hoài Bắc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và những kiến
nghị sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", http://noichinh.vn, ngày
06/4/2014.
4. Bộ Công an (2012), Báo cáo số 553/BC-BCA-V19 ngày 07/10/2012 về
tổng kết 8 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
5. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế
về quyền con người, Học viện tư pháp và Viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa
học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội An, tháng 12/2014.
6. Nguyễn Ngọc Chí (2015), "Nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm tranh
tụng trong xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi): Bước tiến vượt bậc về
quyền con người", http://baobaovephapluat.vn, ngày 02/6/2015.
7. Nguyễn Văn Chiến (2014), "Vai trò của đội ngũ luật sư trong việc hiện
thực hóa nguyên tắc tranh tụng và bảo vệ quyền con người", Kỷ yếu Hội thảo: Bảo
vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Hội An.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
36
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
11. Bùi Tiến Đạt (2015), "Vì sao "suy đoán có tội" phổ biến?",
http://vietnamnet.vn, ngày 20/06/2015
12. TS. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện hệ
thống pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân phù
hợp với Hiến pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà Nội,
2017
13. TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong
các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và viện FES
Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình
sự”, Hội an, tháng 12/2014.
14. Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, tháng 3/2010, tr. 20-30.
15. GS. TSKH. Đào Trí Úc, Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong sách “Những nội dung
mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, H. 2016,
trang 54 - 85.
16.Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 và
việc triển khai thi hành trong ngành Kiểm sát Hải Phòng, Nguyễn Thị Liên – Viện
trưởng Viện Kiểm sát huyện Cát Hải
17. ThS. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Sự thể hiện của
nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam
18. TS. Phạm Mạnh Hùng – Hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp
vụ kiểm sát, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Hình sự Việt Nam
37
19.Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định của nguyên tắc này trong
Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, Trương Thị Thanh Nhàn – Viện Kiểm sát nhân
dân huyện An Dương, đăng trên trang web:
20. Mai Thanh Hiếu (2004), "Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội
trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luật học, (01), tr.14-18.
21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng
hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13
22. Lê Kiên (2015), "Quyền im lặng và suy đoán vô tội", http://tuoitre.vn,
ngày 18/6/2015
23. Nguyễn Lê (2015), "Giám sát oan sai: Có những điều không ngờ?",
http://vneconomy.vn, ngày 10/4/2015
24. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn về nhân quyền.
25. Liên hợp quốc (1966), Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế.
26. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị.
27. Liên hợp quốc (1985), Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ
nhục con người.
28. Liên hợp quốc (1993), Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động.
29. Nguyễn Hoàng Linh (2014), "Gian nan "suy đoán vô tội",
http://baoxaydung.com.vn, ngày 02/10/2014.
30. Nguyễn Thái Phúc (2006), "Nguyên tắc suy đoán vô tội", Nhà nước và
pháp luật, (11), tr.36-39
31. Đinh Văn Quế (2012), "Có cần ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội?",
http://toaan.gov.vn. 14
32. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
33. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
34. Minh Thảo (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm
2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp
với tinh thần của Hiến pháp mới", http://www.moj.gov.vn.
38
35. Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân - Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (IUCCR 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
36. Phạm Duy Trường (2012), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và việc quy định
nguyên tắc này trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam",
http://vienkiemsathaiphong.gov.vn.
37. Đào Trí Úc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định
quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật,
(11), tr.24-27.
38. Viện Khoa học kiểm sát (2002), "Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 của
Nga", Phụ trương Thông tin Khoa học pháp lý.
39. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa
Pháp", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
40. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản",
Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
41. Viện Khoa học Kiểm sát (2007), "Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang
Đức", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý.
42. Viện Khoa học pháp lý (1999), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin
khoa học pháp lý, (Số chuyên đề).
43. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách
khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội.
44. Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi
xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.
45. Trịnh Tiến Việt (2013), "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính
thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự",
http://tuphaphinhsu.wordpress.com, ngày 25/4/2013.

More Related Content

What's hot

Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...
Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...
Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...Doan Tran Ngocvu
 

What's hot (20)

Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt NamLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOTLuận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
Luận văn: Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, HOT
 
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOTLuận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
Luận văn: Sự độc lập của thẩm phán, HAY, HOT
 
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOTBiện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
Biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm trong tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sựLuận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
Luận văn: Áp dụng pháp luật trong giải quyết các vụ án dân sự
 
Luận văn: Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, HAY, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, HAY, 9đLuận văn: Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, HAY, 9đ
Luận văn: Giáo dục pháp luật từ thực tiễn tỉnh Cà Mau, HAY, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng luật Tố tụng hình sự, HAY
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành ánLuận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
Luận văn: Quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án
 
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAYLuận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
Luận văn: Chế độ thi hành án phạt tù ở Việt Nam hiện nay, HAY
 
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAYLuận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
Luận văn: Thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, HAY
 
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAYTrả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
Trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, HAY
 
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOTĐề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
Đề tài: Đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chínhLuận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
Luận văn: Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính
 
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sựLuận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn tạm giữ trong luật tố tụng hình sự
 
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luậtLuận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
Luận văn: Ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài theo pháp luật
 
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
Luận văn: Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự theo Luật thi hành án dân ...
 
Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...
Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...
Môn TRẮC NGHIỆM XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH - Tài liệu ôn thi cấp Chứng chỉ Nghi...
 

Similar to Khóa Luận Tốt Nghiệp Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự

Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su phan chung
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su   phan chungBinh luan khoa hoc bo luat hinh su   phan chung
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su phan chungHung Nguyen
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 

Similar to Khóa Luận Tốt Nghiệp Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự (20)

Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
 
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
Cơ Sở Lý Luận Chức Năng Bào Chữa Của Luật Sư Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Á...
 
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình SựLuận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
Luận Văn Viện Kiểm Sát Khởi Tố Vụ Án Hình Sự Theo Luật Tố Tụng Hình Sự
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
Luận án: Bảo đảm quyền con người của bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hì...
 
Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự...
Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự...Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự...
Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự...
 
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
 
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
Cơ Sở Lý Luận Chứng Minh Trong Điều Tra Vụ Án Mua Bán Trái Phép Chất Ma Tú...
 
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết ngườiLuận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
Luận án: Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người
 
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAMTHỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
 
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOTToà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
Toà án với vai trò bảo vệ quyền con người xét xử vụ án, HOT
 
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sựLuận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
Luận văn: Bảo vệ quyền con người thông qua xét xử vụ án hình sự
 
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
Cơ sở lý luận về kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của vi...
 
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khácquyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
quyền công tố trong điều tra các tội xâm phạm sức khỏe của người khác
 
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su phan chung
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su   phan chungBinh luan khoa hoc bo luat hinh su   phan chung
Binh luan khoa hoc bo luat hinh su phan chung
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
 
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
Cơ Sở Lý Luận Luận Văn Địa Vị Pháp Lý Của Người Bị Buộc Tội Theo Pháp Luậ...
 
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAYLuận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
Luận án: Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, HAY
 
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tộiTiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
Tiểu luận pháp luật đại cương các giai đoạn phạm tội
 
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
Thực tiễn thi hành thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội!
 
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạmLuận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
Luận văn: Kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
 

More from Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com

Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và IndonesiaLuận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và IndonesiaHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng KhoánLuận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng KhoánHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel IIILuận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel IIIHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty BonjourLuận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty BonjourHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao NhậnLuận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao NhậnHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú NhuậnLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú NhuậnHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh NhânLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh NhânHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông NghiệpLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông NghiệpHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân HàngLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân HàngHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lờiLuận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lờiHỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com
 

More from Hỗ Trợ Viết Đề Tài luanvanpanda.com (20)

Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
Luận Văn Nghiên Cứu Về Mối Quan Hệ Giữa Chất Lượng Phần Mềm Kế Toán Với Hoạt ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và IndonesiaLuận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
Luận Văn Nghiên Cứu Vấn Đề Nợ Xấu Các Ngân Hàng Việt Nam, Thái Lan Và Indonesia
 
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
Luận Văn Nghiên Cứu Vai Trò Hòa Giải Xung Đột Của Phong Cách Lãnh Đạo Chuyển ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng KhoánLuận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
Luận Văn Nghiên Cứu Mối Quan Hệ Giữa Tỷ Giá Hối Đoái Và Giá Chứng Khoán
 
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel IIILuận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
Luận Văn Nghiên Cứu Hệ Số An Toàn Vốn Và Khả Năng Áp Dụng Basel III
 
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng ChaiLuận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
Luận Văn Nghiên Cứu Hành Vi Lựa Chọn Thương Hiệu Tiêu Đóng Chai
 
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
Luận Văn Nghiên Cứu Các Nhân tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ví điện tử MOCA ...
 
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
Luận Văn Nghiên Cứu Ảnh Hưởng Của Hội Đồng Quản Trị Đến Cấu Trúc Vốn Tại Các ...
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty BonjourLuận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
Luận Văn Nâng Cao Sự Hài Lòng Của Người Lao Động Tại Công Ty Bonjour
 
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao NhậnLuận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
Luận Văn Nâng Cao Sự Gắn Kết Của Nhân Viên Tại Công Ty Cổ Phần Giao Nhận
 
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
Luận Văn Nâng Cao Quy Trình Thủ Tục Hải Quan Đối Với Hàng Hóa Nhập Khẩu Thươn...
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà MauLuận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạnh Tranh Cụm Ngành Tôm Tỉnh Cà Mau
 
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
Luận Văn Nâng Cao Năng Lực Cạn Tranh Của Hệ Thống Trung Tâm Thương Mại Sense ...
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú NhuậnLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công  Hức Quận Phú Nhuận
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Cán Bộ, Công Hức Quận Phú Nhuận
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh NhânLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Nhằm Gia Tăng Sự Hài Lòng Của Bệnh Nhân
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông NghiệpLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Ngân Hàng Điện Tử Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Khách Hàng Cá Nhân Tại Ngân Hàng Đầu Tư ...
 
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân HàngLuận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
Luận Văn Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Huy Động Vốn Tại Ngân Hàng
 
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lờiLuận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
Luận Văn Mốiquan Hệ giữa quản Trị vốn luân Chuyển Và Khả Năng Sinh lời
 
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
Luận Văn Mối Quan Hệ Giữa Việc Nắm Giữ Tiền Mặt Và Kỳ Hạn Nợ Trong Trường Hợp...
 

Recently uploaded

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (19)

Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Khóa Luận Tốt Nghiệp Suy Đoán Vô Tội Trong Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự

  • 1. 1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Tham khảo thêm tài liệu tại Luanvanpanda.com Dịch Vụ Hỗ Trợ Viết Thuê Tiểu Luận,Báo Cáo Khoá Luận, Luận Văn ZALO/TELEGRAM HỖ TRỢ 0932.091.562
  • 2. 2 NỘI DUNG 1. Yêu cầu tăng cường bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tộitrong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay 1.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là nhằm tôn trọng và bảo đảm quyền con người và quyền công dân ở Việt Nam Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Một nhà nước mà ở đó, quyền con người được tôn trọng và bảo vệ một cách tối ưu nhất. Quyền con người là những giá trị tự nhiên mà con người được hưởng, phù hợp với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định, được Nhà nước đảm bảo thực hiện bao gồm các quyền về kinh tế, dân sự, chính trị...Bên cạnh đó, quyền con người là một giá trị thiêng liêng và luôn được pháp luật bảo vệ, nó hiện hữu trong nhiều lĩnh vực của đời sống, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự. Con người và quyền con người là giá trị quan trọng và trở thành đối tượng ưu tiên bảo hộ của pháp luật tố tụng hình sự. Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân là phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này sẽ được thực hiện hiệu quả nếu chúng ta thừa nhận và tôn trọng nguyên tắc suy đoán vô tội. Suy đoán vô tội là nguyên tắc “kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế và nguyên tắc này được coi là “phẩm giá của văn minh nhân loại”. Ở phạm vi bao quát hơn, Nhà nước pháp quyền thừa nhận một nguyên tắc phổ quát của pháp luật khi nói về mối quan hệ giữa phạm vi đã được thể chế hóa và phạm vi không thể chế hóa. Đó là nguyên tắc suy đoán về tính hợp pháp của hành vi. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng khi sử dụng pháp luật để điều chỉnh các hành vi xã hội, điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân. Nguyên tắc suy đoán
  • 3. 3 về tính hợp pháp của hành vi có nghĩa là, hành vi của cá nhân luôn được coi là hợp pháp khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa chứng minh được hành vi đó là bất hợp pháp. Trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm, nguyên tắc suy đoán vô tội với vai trò là nền tảng và kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên tắc này loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và người tiến hành tố tụng cần hiểu thấu đáo câu thành ngữ “đo ni đóng giầy” trong mọi hoạt động tác nghiệp của mình. Dù chứng cứ của vụ án thu thập được có thể vừa là chứng cứ buộc tội, vừa là chứng cứ có ý nghĩa gỡ tội, niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng vụ án đó thế nào đi nữa, thì đều phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Nguyên tắc này thể hiện thái độ trân trọng tới số phận con người, hạn chế sai lầm tư pháp làm oan, sai người không có tội.Bởi vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, quyền con người luôn phải được bảo đảm, đặc biệt là bảo đảm quyền của người bị buộc tội được thực hiện theo luật định. Quyền con người trong tố tụng hình sự có thể hiểu là quyền pháp lý của cá nhân, công dân hay nói quyền của người bị buộc tội là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do đang ở vào tình thế bất lợi vì có hành vi vi phạm pháp luật hình sự hoặc đang bị tình nghi phạm tội, nên thông qua pháp luật, Nhà nước trao cho họ những quyền pháp lý nhất định được quy định trong Hiến pháp và luật để giúp họ có công cụ tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tránh các nguy cơ xâm phạm không đúng pháp luật từ phía các cơ quan hoặc cá nhân đang thực thi pháp luật. Cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với những nội dung đã được cụ thể hóa từ các quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, trong đó, quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội theo Điều 13 Hiến pháp năm 2013 đã được quy
  • 4. 4 định cụ thể hơn tại khoản 1 Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Nguyên tắc suy đoán vô tội chính là sự thừa nhận chính thức của xã hội, thông qua các quy tắc pháp lý, về việc một người bị tình nghi phạm tội được coi là ngoại phạm, chừng nào các bằng chứng rành rành chống lại người này chưa được cơ quan có thẩm quyền lôi ra ánh sáng. Nguyên tắc này không phải từ trên trời rơi xuống mà là thành quả của nền văn minh, là kết quả đạt được sau những cuộc đấu tranh nhọc nhằn đòi công lý cho những người bị kết tội nhầm, bị xử oan. Người bị tình nghi chưa chắc là tội phạm, bởi nếu áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội, người bị tình nghi không cần phải dốc sức chứng minh rằng mình vô tội, thậm chí có quyền im lặng. Chính những người được xã hội giao chức năng phát hiện, nhận dạng tội phạm, đặc biệt là cơ quan điều tra, cơ quan công tố phải nỗ lực làm cho công luận, Tòa án tin vào những cáo buộc của mình bằng cách trưng ra những chứng cứ buộc tội thuyết phục mà họ thu thập được. Việc thiết lập nguyên tắc suy đoán vô tội có tác dụng kép: Thứ nhất, đó là lời cảnh báo thường xuyên đối với những người được xã hội giao chức năng gìn giữ, bảo đảm trật tự xã hội kèm theo quyền sử dụng công lực để thực hiện chức năng ấy. Họ phải thực hiện phận sự một cách mẫn cán, cẩn trọng, chặt chẽ và có trách nhiệm. Họ phải hiểu rằng nhiệm vụ của họ không chỉ để vạch mặt, chỉ tên tội phạm một cách chính xác, mà còn tránh gây tai họa cho người hiền lương. Thứ hai, nó mở lối ra cho những vụ án đi vào ngõ cụt, khi mà dù đã làm hết cách, cơ quan có thẩm quyền không trả lời được câu hỏi: Ai thực sự là tác giả của hành vi được gọi là tội phạm?
  • 5. 5 Có thể trong phần lớn các trường hợp, những người bị cơ quan chức năng đặt vào diện tình nghi cao rốt cuộc là người phạm tội đích thực. Nhưng không thể từ đó đánh đồng tất cả người bị tình nghi với tội phạm. Sự quy kết sớm và nghiệt ngã dễ tạo định kiến đối với người trong cuộc, đồng thời, tạo điều kiện bộc phát tâm lý chủ quan, dẫn đến thái độ làm việc tùy tiện, tắc trách của người có thẩm quyền. Những người có trách nhiệm bảo đảm thực thi luật pháp phải nhận thức được tầm quan trọng của công việc, đặc biệt là tác động trực tiếp của nó đối với cuộc sống, sự nghiệp, danh dự, nhân phẩm và cả tính mạng của con người. Từ nhận thức đó, người ta dễ dàng nhận ra yêu cầu số một đối với công việc của những người này, đó là phải tôn trọng sự thật khách quan. Phải bắt cho đúng người, quy cho đúng tội. Thực tiễn cho thấy, hoạt động điều tra, truy tố và xét xử thời gian qua đã thể hiện tình trạng nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã phạm tội, dù tội trạng của họ chưa được chứng minh. Đây là khuynh hướng “suy đoán có tội” và là một trong những nguyên nhân gây ra án oan sai.Với một người bị cho là phạm tội và bị kết án tử hình, nếu đã thi hành án xong mà sau đó mới chứng minh được họ vô tội, thì là sai lầm rất lớn không thể khắc phục được, vì đó là tính mạng con người, cho nên đặt ra yêu cầu quá trình tố tụng phải làm thận trọng, chặt chẽ hơn. Mỗi khi bắt một người, chúng ta luôn phải có tâm lý là người đó chưa có tội. Các vụ án oan sai được phát hiện trong thời gian qua cho thấy một điểm chung là, người tiến hành tố tụng trong vụ án đó đã hiểu chưa thật đúng về nguyên tắc suy đoán vô tội, điều này được thể hiện qua lập luận theo kiểu “nếu không chứng minh được sự vô tội của mình có nghĩa là có tội”; “nếu không chỉ ra được người nào khác đã phạm tội thì chính bị can, bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội đó” và như vậy, đã chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên có trách nhiệm buộc tội sang bên người bị buộc tội. Ngay cả khi người bị buộc tội nhận tội, thì nguyên tắc này vẫn có hiệu lực đến khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
  • 6. 6 Có thể nói, nếu việc bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ có lợi rất nhiều cho các bị can, bị cáo, thể hiện rõ hơn việc bảo đảm quyền con người và quyền công dân.Điều này đặt ra yêu cầu, các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự phải liên tục được bổ sung, hoàn thiện, đồng thời, phải hình thành cơ chế và các điều kiện bảo đảm để nguyên tắc này được thực hiện hiệu quả trong suốt quá trình tiến hành tố tụng.Bên cạnh đó, nguyên tắc suy đoán vô tội cũng sẽ giúp nâng cao nghiệp vụ của cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng. Khi quyết định bắt một người, các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được người đó là tội phạm, nên luôn luôn phải thận trọng, cân nhắc kỹ lưỡng, kể cả khi ra quyết định khởi tố cũng phải cân nhắc kỹ càng vì đó là số phận con người. 1.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội được quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc không buộc phải nhận mình có tội. Một người luôn vô tội khi các cơ quan tiến hành tố tụng của Nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được rằng họ đã phạm tội. Đảm bảo thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ tạo ra sự công bằng giữa một bên là bộ máy công quyền được hậu thuẫn bởi quyền lực nhà nước và một bên yếu thế là người bị tình nghi, bị can, bị cáo, từ đó sẽ tránh được oan, sai trong hoạt động tố tụng, không bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ, thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được
  • 7. 7 giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn, thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn… Mục đích của tố tụng hình sự là tội phạm phải được phát hiện và xử lý theo quy định của pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tọi phạm và người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tế, có thể xảy ra tình huống các chứng cứ buộc tội yếu, cả hai khả năng oan và lọt cùng song song tồn tại mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp dụng tất cả các biện pháp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong trường hợp này, nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải thực hiện theo hướng “thà bỏ lọt tội phạm còn hơn làm oan người vô tội”. Trong thực tiễn, ngoại trừ trường hợp phạm pháp quả tang, các vụ vi phạm pháp luật chỉ bị phanh phui sau khi đã xảy ra. Nói khác đi, có nhiều vụ phạm pháp mà sự thật về nó không bộc lộ một cách hiển nhiên, cần được dựng lại. Chính những người giữ các vị trí tương ứng với các giai đoạn trong quá trình tố tụng, chứ không phải ai khác, chịu trách nhiệm trong việc khôi phục toàn bộ bức tranh diễn biến thật của câu chuyện. Có được bức tranh hoàn hảo, không chỉ người có thẩm quyền mà toàn xã hội sẽ có điều kiện thẩm định, đánh giá bản chất của sự việc một cách đúng đắn, trên cơ sở đó có kết luận chính xác về việc một người có tội hay không có tội.Song có những câu chuyện không thể được dựng lại do dấu vết, manh mối cơ bản không còn đầy đủ. Nghĩa là, có những vụ vi phạm pháp luật bị bỏ lọt, tạm thời hoặc vĩnh viễn, bất chấp các nỗ lực của con người. Xã hội phải chấp nhận thực tế đó, suy cho cùng, cả việc phát hiện, cũng như việc bỏ sót các vụ vi phạm pháp luật, đều là những điều bình thường. Lý do là hệ thống quản lý, tư pháp, cũng như những người trong hệ thống đó, không phải là thần thánh, không hoàn hảo tuyệt đối về nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức. Đối với
  • 8. 8 người giữ trọng trách trong hệ thống, việc cần làm mỗi khi xảy ra trục trặc là phải rà soát lại quy trình, xem chỗ nào, người nào là nguyên nhân. Sau đó, họ phải có biện pháp chấn chỉnh, tránh để tái diễn những chuyện tương tự. Điều quan trọng là khi cơ quan tố tụng không thu thập được chứng cứ buộc tội thì nghi can phải được chính thức suy đoán là vô tội. Đối với xã hội, đó phải được coi là sự vô tội hoàn hảo, chắc chắn, không nghi ngờ, không tì vết. Nó cho phép người thụ hưởng tiếp tục sống, làm việc, giao tiếp trong những điều kiện bình thường. Có thể với nguyên tắc suy đoán vô tội, nhà chức trách, xã hội buộc phải chứng kiến kẻ bị cho là thủ ác nhởn nhơ trước mắt mình mà không làm được gì. Tuy nhiên, nếu sự thất bại trong việc buộc tội một người có thể khiến một gia đình phải chịu mất mát không thể bù đắp, thì việc kết tội oan cho một người có thể làm tan nát cả hai gia đình, chưa kể những hệ lụy xã hội tiêu cực kéo theo. Thực tế này được chứng minh qua một số trường hợp oan, sai đã để lại hậu quả khá nghiêm trọng, có vụ đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận (như vụ 7 thanh niên ở Sóc Trăng bị bắt giam oan; vụ 5 Công an ở Tuy Hòa, Phú Yên dùng nhục hình dẫn đến chết người)… Thực tế cũng cho thấy, trình độ pháp luật và năng lực nghiệp vụ của một bộ phận cán bộ tư pháp còn hạn chế, chưa được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức thường xuyên, trong đó, có nguyên nhân đáng chú ý là có biểu hiện đem “nguyên tắc suy đoán có tội” thay cho “nguyên tắc suy đoán vô tội”, từ đó có thái độ đối xử với người bị bắt, bị can, bị cáo như là người có tội. Có trường hợp còn bảo thủ, định kiến trong giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng bất lợi cho bị can, bị cáo. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử còn có những sai phạm chủ yếu dẫn đến oan, sai, bỏ lọt tội phạm. Nhiều trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam còn chưa chính xác, sau đó phải chuyển xử lý hành chính; tình trạng tạm giam bị can về tội ít nghiêm trọng còn nhiều, có biểu hiện lạm dụng. Xảy ra một số vụ dùng nhục hình, có trường hợp dẫn đến chết người gây bức xúc dư luận. Việc truy tố, xét xử còn có
  • 9. 9 những trường hợp sai tội danh, sai khung hình phạt; có nơi Tòa án áp dụng hình phạt quá nặng đối với người lao động, nhất thời phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; ngược lại, có những trường hợp lại tuyên hình phạt quá nhẹ, cho bị cáo hưởng án treo không đúng pháp luật, nhất là tội về kinh tế, chức vụ, tham nhũng… Chính bởi vậy, trong mọi trường hợp, dù ở hoàn cảnh nào, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng phải thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong suốt quá trình tiến hành tố tụng hình sự, cụ thể: - Trách nhiệm chứng minh tội phạm là thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không bắt buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bởi vì không thể buộc người đang được coi là vô tội chứng minh mình vô tội. Do đó, bị cáo có quyền im lặng, không khai báo về hành vi phạm tội của mình. Tòa án không thể coi việc bị cáo không khai báo làm căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự khi buộc tội và quyết định hình phạt đối với bị cáo. - Mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị cáo. Nếu có nghi ngờ về lỗi của bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về chứng cứ thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Hay nói cách khác, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ yếu quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án không kết tội bị cáo. - Bản án của Tòa án không được dựa trên giả định, phải có căn cứ, xác định, hợp lý, hợp pháp. Bản án kết tội phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh được là bị cáo có tội. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án (khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015); không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội (khoản 3 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015); không được dùng làm chứng những tình tiết do người làm
  • 10. 10 chứng, người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ hơn vì sao biết được tình tiết đó (khoản 2 Điều 91, Điều 92 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Trong nội dung bản án phải phân tích lý do mà Hội đồng xét xử không chấp nhận những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng (Điều 260 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). 1.3. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội nhằm thực hiện mục tiêu “người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” “Suy đoán vô tội” là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sựViệt Nam đã quy định rõ các hoạt động tố tụng hình sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 10 Bộ luật Tố tụng hình sựđã có quy định về nguyên tắc xác định sự thật của vụ án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Thực chất, quy định trên không chỉ thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự thật của vụ án, mà còn thuộc về nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bởi vì, cùng với việc khẳng định một người không thể bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Để xác định một người là người phạm tội, trên cơ sở đó tiến hành truy cứu, áp dụng trách nhiệm
  • 11. 11 hình sự đối với người đó, các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) phải chứng minh được người đó là người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm. Nếu không chứng minh được một người đã thực hiện tội phạm thì không thể kết tội người đó. Trên thực tế, có thể một người đã thực hiện tội phạm. Về khách quan, họ là người phạm tội, nhưng nếu không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi được luật hình sự coi là tội phạm, thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người đó. Chứng minh tội phạm là một quá trình và quá trình đó diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mà còn thuộc về Tòa án. Mặc dù Tòa án thực hiện chức năng xét xử, nhưng khác với các nước theo mô hình tố tụng tranh tụng, trong đó, bên buộc tội và gỡ tội tranh tụng về những vấn đề liên quan để chứng minh hay bác bỏ tội phạm của phía bên kia, trong đó Tòa án không tham gia vào việc thẩm vấn cùng với bên buộc tội hay bên gỡ tội mà đứng trung gian như người trọng tài phân xử…, thì ở Việt Nam, mô hình tố tụng là mô hình thẩm vấn, tại phiên tòa, Tòa án tham gia vào việc thẩm vấn bị cáo và những người tham gia tố tụng, áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để chứng minh làm rõ bị cáo phạm tội hay không phạm tội; nếu phạm tội thì phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Trên cơ sở đó mới ra phán quyết, kết tội, quyết định hình phạt đối với họ. Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam, Tòa án cũng có tham gia vào việc chứng minh tội phạm. Người bị tình nghi (bị bắt giữ trước khi khởi tố bị can), bị can, bị cáo có quyền, nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Điều này có nghĩa, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo có quyền đưa ra các chứng cứ để chứng minh mình không phạm tội. Ví dụ, chứng minh mình vô tội bằng việc đưa ra chứng cứ về thời gian xảy ra vụ việc mình không ở đó và không thể thực hiện hành vi phạm
  • 12. 12 tội hoặc đưa ra chứng cứ chứng minh có người khác, chứ không phải mình, đã thực hiện tội phạm… Song, vì lý do nào đó, người bị bắt giữ, bị can, bị cáo cũng có thể từ chối chứng minh sự vô tội của mình thì các cơ quan tiến hành tố tụng cũng không thể coi họ là người phạm tội. Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự nước ta không quy định cụ thể, nhưng đã mặc nhiên thừa nhận quyền im lặng của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Bởi lẽ, theo các quy định của pháp luật hình sự, việc người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không khai nhận hành vi phạm tội của mình thì cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội từ chối khai báo theo quy định tại Điều 308 Bộ luật Hình sự và cũng không bị coi là có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp bị can, bị cáo thành khẩn khai báo thì lại được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thậm chí trong giai đoạn điều tra họ không khai báo hoặc khai báo gian dối nhưng tại phiên tòa lại thành khẩn khai báo thì họ vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Trường hợp bị cáo khai báo gian dối thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối theo quy định tại Điều 307 Bộ luật Hình sự. Mặc dù với những quy định trên, có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã thừa nhận quyền im lặng của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, song một trong những bảo đảm để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự là các quy định của pháp luật tố tụng càng đơn giản, dễ hiểu và được thông tin đến người dân đầy đủ bao nhiêu, càng tốt bấy nhiêu để tránh sự lạm dụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng Bộ luật Tố tụng hình sự cũng cần được bổ sung quy định cụ thể về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc giải thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can về quyền im lặng của họ.
  • 13. 13 Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích để áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho họ. Ví dụ, nghi ngờ một người là người phạm tội nhưng không chứng minh được họ phạm tội thì phải coi họ là người vô tội; nghi ngờ một người phạm tội nặng nhưng không chứng minh được họ phạm tội nặng mà chỉ có cơ sở xác định họ hành vi của họ thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm nhẹ hơn thì phải coi là họ phạm tội nhẹ hơn… Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng chỉ rõ, khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án thì bị can, bị cáo không bị coi là có tội. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của bản án đối với quá trình tố tụng hình sự cùng ý nghĩa to lớn của nó đối với việc đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội. Bản án hình sự là hình thức pháp lý của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự chỉ do Toà án ban hành trong đó tuyên bố một người phạm tội hoặc không phạm tội. Bộ luật Tố tụng hình sự đã đưa ra khuôn mẫu chung của bản án hình sự sơ thẩm về hình thức và nội dung. Theo đó, bản án hình sự chỉ có hai loại: (i) Bản án hình sự tuyên bị cáo có tội và (ii) Bản án hình sự tuyên bị cáo không phạm tội. Bản án tuyên bị cáo phạm tội phải chỉ rõ bị cáo phạm tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật Hình sự. Nếu bị cáo vô tội thì dứt khoát trongbản án phải khôi phục danh dự, nhân phẩm và các quyền lợi khác cho họ. Vì vậy, trong quyết định của bản án không thể tuyên mập mờ như: “Bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội…” hoặc “không đủ căn cứ để kết tội bị cáo về tội hoặc hành vi của bị cáo không đủ yếu tố cấu thành tội phạm…”. Tuyên án như vậy là rất khó xác định bị cáo có tội hay không có tội, oan hay không oan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền suy đoán vô tội cũng như các quyền lợi khác của bị cáo.
  • 14. 14 Nguyên tắc suy đoán vô tội còn đòi hỏi bản án phải công minh biểu hiện ở việc hình phạt hoặc biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự được tuyên trong bản án phải phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội nhân thân của người có tội, còn không có tội phải được tuyên là vô tội và phải được minh oan. Vì bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định nên Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định cụ thể là bản án (kết tội) phải trình bày việc phạm tội của bị cáo, phân tích những chứng cứ có tội và chứng cứ vô tội (bản án tuyên bị cáo vô tội). Đây chính là tính có căn cứ của bản án hình sự, tức là, mọi quyết định của Toà án trong bản án phải dựa trên hệ thống chứng cứ được thu thập một cách khách quan, đầy đủ, hợp pháp và toàn diện trong tất cả các giai đoạn của tố tụng hình sự và phải được đưa ra xem xét, đánh giá công khai, dân chủ, bình đẳng tại phiên toà. Sẽ không có một bản án chính xác, giải quyết triệt để, toàn diện các vấn đề của vụ án hình sự nếu chỉ dựa vào suy luận chủ quan, định kiến của hội đồng xét xử và các cơ quan tiến hành tố tụng. Những căn cứ để tuyên bị cáo không phạm tội cần được hiểu rộng hơn, không chỉ là có đủ chứng cứ và đủ căn cứ pháp lý tuyên bị cáo không phạm tội mà còn là cả những trường hợp không đủ căn cứ chứng minh bị cáo có tội, có nghi ngờ về chứng cứ cũng như pháp luật để chứng minh bị cáo có tội. Điều này phù hợp với nguyên tắc suy đoán vô tội khi trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng và mọi nghi ngờ về chứng cứ và pháp luật phải giải quyết có lợi cho bị can, bị cáo. 1.4. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự là bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, là nền tảng cho công lý và sự phát triển của một xã hội phồn thịnh Công lý là kết tinh của những nỗ lực, cố gắng không ngừng của nhân loại để thực hiện lý tưởng công bằng, là giá trị nền tảng, cốt lõi trong việc tổ chức một xã hội trật tự, ổn định và hợp tác. Trong một xã hội văn minh, công lý chính là “đại
  • 15. 15 lượng công bằng” để dàn xếp những mâu thuẫn, xung đột không thể tránh khỏi xảy ra giữa các thành viên xã hội trên cơ sở nguyên tắc “trao cho mọi người những gì họ xứng đáng, trao cho mỗi người cái họ đáng hưởng”, hay đó là nghĩa vụ “hoàn lại, trả lại cho mọi người cái mà họ có quyền được hưởng”. Vì vậy, hầu hết các tư tưởng, học thuyết về công lý đều khẳng định chức năng to lớn của công lý là một “giá trị chung", là điểm “quy chiếu chung” của toàn xã hội trong việc phòng ngừa và giải quyết xung đột, duy trì sự hài hòa, ổn định, gắn kết và đồng thuận xã hội. Công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị). Cụ thể, Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ việc: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Cùng với đó, trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những biện pháp nhằm đảm bảo cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp để từ đó xây dựng cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa vững chắc trong hoạt động bảo vệ công lý và quyền con người cho nhân dân. Cụ thể, về mục đích và lộ trình thực hiện, Văn kiện xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Phân định rành mạch thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp”. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là Tòa án thực hiện
  • 16. 16 nhiệm vụ thiêng liêng là “bảo vệ công lý”. Đây là những quy định hoàn toàn phù hợp với chủ trương hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mục tiêu xây dựng một nền tư pháp vững mạnh “thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người” trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta thời gian tới. Để thực hiện mục tiêu của Chiến lược cải cách tư pháp, đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có hệ thống pháp luật tố tụng hình sự cho phù hợp. Những tư tưởng, nguyên tắc pháp luật đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận như là giá trị to lớn của văn minh nhân loại phải được ghi nhận trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta.Chính vì vậy,việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội là đòi hỏi tất yếu của luật tố tụng hình sự trong Nhà nước pháp quyền. Hoạt động tố tụng hình sự được xác định bao gồm hai nhiệm vụ chủ yếu là: (i) Bảo vệ xã hội chống lại hành vi xâm hại từ phía tội phạm và (ii) Bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía công quyền. Việc bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ đưa lại sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước và một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Như vậy, không chỉ là quyền của người bị buộc tội, nghĩa vụ của bên buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự: “Một người luôn vô tội khi Nhà nước không chỉ ra được những bằng chứng chống lại điều này và chứng minh được họ có tội”. Có thể nhận định rằng, suy đoán vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ chính sách nhân đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ quan tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đoán theo hướng ngược lại. Ngoài ra, nguyên tắc suy đoán
  • 17. 17 vô tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm: Họ không thể làm sai mà vẫn áp đặt ý chí chủ quan của mình để kết tội nghi can. Hơn nữa, nguyên tắc này đảm bảo tính pháp chế trong Bộ luật Tố tụng hình sự, là nhân tố phát triển tính đúng đắn của lĩnh vực tố tụng hình sự. 2. Giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam 2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật và hướng dẫn thi hành hiệu quả các quy định về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định chính thức tại khoản 1 Điều 13 Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Trên cơ sở các quy định mang tính hiến định, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc này như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Tuy nhiên, nguyên tắc này rất cần sự hướng dẫn để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một cách thống nhất và hiệu quả, đảm bảo tính công bằng của pháp luật tố tụng hình sự. Suy đoán được hiểu là sự công nhận một vấn đề nào đó là đúng cho đến khi chứng minh được điều ngược lại. Trong pháp luật, là suy đoán pháp lý nên suy đoán vô tội là một quan điểm pháp lý coi một người không phải là người phạm tội khi người đó chưa bị Tòa án kết tội bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Suy đoán vô tội thể hiện quan điểm của Nhà nước tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người,
  • 18. 18 tôn trọng tính “bản thiện”, loại trừ định kiến, kết tội một chiều trong quá trình tố tụng.Nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc tố tụng hình sự nói chung, nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng có vai trò quan trọng trong việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nói chung, các quy định về bảo đảm quyền được suy đoán vô tội nói riêng. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung rất cơ bản, đồng bộ, có căn cứ khoa học và về cơ bản đã khắc phục được những bất cập, vướng mắc trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, chúng tôi cho rằng cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: Một là, về một số nguyên tắc tố tụng hình sự - Cần sửa đổi nguyên tắc tranh tụng trong xét xử (Điều 26) theo hướng quy định cụ thể việc xét xử vụ án hình sự được tiến hành trên cơ sở tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa để bảo đảm chức năng buộc tội do các chủ thể của bên buộc tội thực hiện; chức năng bào chữa do các chủ thể của bên bào chữa thực hiện và Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử. Đặc biệt là, cần quy định rõ sự bình đẳng của bên buộc tội và bên bào chữa trong việc đưa ra chứng cứ và tranh luận trước Hội đồng xét xử và Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa. - Sửa đổi bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 15 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về “Xác định sự thật của vụ án” theo hướng xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các chủ thể có quyền buộc tội, để từ đó sửa đổi Điều 13 “Suy đoán vô tội” theo hướng: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trách nhiệm chứng minh tội phạm
  • 19. 19 thuộc về các chủ thể có thẩm quyền buộc tội. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Hai là, sửa đổi các quy định về chủ thể tham gia tố tụng hình sự Các quy định về chủ thể tham gia tố tụng hình sự (tại Chương III, IV và V của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) cần hoàn thiện theo hướng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể bên buộc tội (Thủ trưởng/Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, cán bộ điều tra; Viện trưởng/Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của họ) và các chủ thể bên bào chữa (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bào chữa; bị đơn dân sự, người đại diện và người bảo vệ quyền lợi của họ). Đặc biệt là quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng nhóm chủ thể nêu trên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền năng được pháp luật quy định khi tham gia các giai đoạn tố tụng hình sự. Ba là, về rút yêu cầu khởi tố của bị hại Sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng xác định rõ thời hạn có thể thực hiện quyền này là “cho đến khi Hội đồng xét xử nghị án” (bao gồm cả xét xử phúc thẩm) với nội dung như sau: “2. Trong mọi trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước khi Hội đồng xét xử nghị án ... thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định họ rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của mình do bị ép buộc, cưỡng bức”. Bốn là, thống nhất sử dụng thuật ngữ "lấy lời khai" trong Bộ luật Tố tụng hình sự Hỏi cung và lấy lời khai là các hoạt động tố tụng hình sự tuy khác nhau về đối tượng tác động nhưng có cùng bản chất. Chúng tôi cho rằng việc sử dụng hai
  • 20. 20 thuật ngữ “hỏi cung” và “lấy lời khai” trong Bộ luật Tố tụng hình sự thể hiện định kiến về sự có tội của bị can và vô hình chung nguyên tắc suy đoán vô tội đã bị vi phạm nghiêm trọng từ chính các nhà lập pháp. Vì vậy, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự cần sửa đổi bổ sung theo hướng sử dụng thống nhất thuật ngữ “lấy lời khai” đối với tất cả đối tượng (bao gồm cả bị can). Năm là, sửa đổi bổ sung một số quy định liên quan đến suy đoán vô tội ở Phần thứ 4 của Bộ luật Tố tụng hình sự như sau: - Quy định về giới hạn xét xử (Điều 298) cần bổ sung khoản 3 như sau: Trường hợp xét thấy cần xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó nhưng phải bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và phải tuân thủ các quy định khác của Bộ luật này". - Quy định về trình tự phát biểu trong tranh tụng (Điều 320) cần sửa đổi bổ sung như sau: Kiểm sát viên trình bày luận tội; bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ trình bày ý kiến; người bào chữa trình bày lời bào chữa, bị cáo, người đại diện của bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào chữa (nếu không có người bào chữa thì bị cáo tự bào chữa); bị hại, nguyên đơn dân sự và người đại diện của họ trình bày ý kiến. Trường hợp vụ án khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người đại diện của họ trình bày buộc tội trước khi Kiểm sát viên luận tội"; Bổ sung khoản 4 với nội dung sau: “Bị cáo và người bào chữa có quyền phát biểu sau cùng”. - Quy định về nghị án, cần sửa đổi khoản 7, Điều 326 theo hướng: "7. Trường hợp phát hiện bỏ lọt tội phạm thì Hội đồng xét xử kiến nghị Viện kiểm sát khởi tố vụ án".
  • 21. 21 - Có thể nói, nguyên tắc suy đoán vô tội là nguyên tắc mới. Để bảo đảm sự nhận thức và thực hiện thống nhất nguyên tắc suy đoán vô tội, các cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn, giải thích cụ thể những trường hợp nào được xác định là trường hợp không đủ và không thể làm tỏ được căn cứ buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định để tạo cơ sở cho việc tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội. Sáu là, để tránh oan sai và tạo điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội, pháp luật tố tụng hình sự cũng cần quan tâm hoàn thiện thêm một số vấn đề sau đây: - Quy định rõ ràng, cụ thể căn cứ áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam, trong đó việc tạm giữ, tạm giam chỉ có thể áp dụng đối với người có căn cứ rõ ràng cho rằng có thể tiếp tục phạm tội, trốn tránh hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử; không lấy tính chất nghiêm trọng của tội phạm được khởi tố làm căn cứ duy nhất để tạm giữ, tạm giam; thu hẹp thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam; - Nghiên cứu quan điểm chỉ giao cho Tòa án quyết định các biện pháp tước tự do của con người, bao gồm cả các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam; - Bổ sung quy định cụ thể về quyền im lặng của người bị bắt giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ của người có thẩm quyền bắt giữ, khởi tố bị can trong việc giải thích cho người bị bắt giữ, bị khởi tố bị can về quyền im lặng của họ. - Nghiên cứu hủy bỏ các thẩm quyền tố tụng trái với chức năng tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng như bỏ thẩm quyền miễn trách nhiệm hình sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; bỏ thẩm quyền khởi tố vụ án cuả Tòa án; bỏ quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án; bỏ quyền điều tra của Tòa án trong giải quyết vụ án hình sự…; - Hoàn thiện quy định về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Nên chăng, mọi khiếu nại của người tham gia tố tụng nên giao cho Tòa án giải quyết để bảo
  • 22. 22 đảm tính chế ước, khách quan và nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người của Tòa án… 2.2. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng Con người là nhân tố quyết định sự thành bại của công việc. Để hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đạt chất lượng, hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền con người nói chung, nguyên tắc suy đoán vô tội nói riêng thì việc nâng cao ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Từ đó cần phải quan tâm đến một số vấn đề sau: - Nâng cao trình độ chính trị, phẩm chất đạo đức của chủ thể tiến hành tố tụng, theo đó cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng và vận dụng chủ trương, đường lối đó vào công tác điều tra, truy tố, xét xử để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Rèn luyện ý thức chính trị tức là đòi hỏi những cán bộ của các cơ quan tiến hành tố tụng phải luôn luôn nắm vững các chủ trương nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như các chủ trương, nghị quyết liên quan đến công tác của mình, từ đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình làm cho nhân dân tin tưởng đồng tình, giúp người tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật được đúng đắn. - Nâng cao năng lực nghiệp vụ của chủ thể tiến hành tố tụng, nhất là trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội, bởi vì trong tố tụng hình sự, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền được suy đoán vô tội của người bị buộc tội mà còn ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bào chữa của người bị buộc tội.
  • 23. 23 2.3. Quán triệt và thống nhất nhận thức trong toàn thể đội ngũ cán bộ, những người tiến hành và tham gia tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử về việc luôn bảo đảm đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội Nguyên tắc dù có tiến bộ đến đâu cũng không có ý nghĩa nếu không được thực thi trong xã hội. Để áp dụng đúng đắn nguyên tắc suy đoán vô tội trong các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, thì yêu cầu trước tiên đối với cán bộ, những người tiến hành và tham gia tố tụng là phải quán triệt, nhận thức sâu sắc những nội dung của nguyên tắc này. Để xây dựng nhận thức thống nhất của cán bộ, những người tiến hành và tham gia tố tụng về nguyên tắc suy đoán vô tội, có thể áp dụng một số biện pháp sau: (i) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự nói riêng; (ii) Liên tục đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khắc phục các biểu hiện vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội như: Xu hướng cơ quan điều tra thực hiện điều tra theo “suy đoán có tội” hay “buộc tội một chiều”;Viện kiểm sát chỉ căn cứ kết luận điều tra của cơ quan điều tra để hình thành cáo trạng mà thiếu sự khách quan, áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội để thực hiện việc truy tố; Tòa án khi xét xử chỉ dựa trên kết luận điều tra và cáo trạng sẵn có, thiếu sự thẩm định và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, xem xét các tình tiết liên quan đến vụ án một cách phiến diện, chỉ tập trung vào khía cạnh buộc tội; luôn thể hiện tính “đoàn kết” và “thống nhất cao” giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong mọi vụ án… 2.4. Tăng cường các thiết chế khác bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản và đặc biệt quan trọng trong pháp luật tố tụng hình sự tại Việt Nam. Nguyên tắc suy đoán vô tội còn là yếu tố căn bản trong việc bảo vệ quyền con người. Khi một công dân trở thành nghi can, bị tạm giam, tạm giữ, rõ ràng họ đã bị hạn chế một phần sự tự
  • 24. 24 do, nên khó khăn để tự bảo vệ sinh mệnh pháp lý cũng như sinh mệnh vật chất của họ. Bởi vậy, cần tăng cường nhận thức để bảo đảm áp dụng hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội trong hoạt động tố tụng. Việc thực hiện nguyên tắc này sẽ là tiền đề bảo đảm cho những người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của mình. Bảo đảm tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc suy đoán vô tội ở các giai đoạn khác nhau của tố tụng hình sự như điều tra, truy tố, xét xử là một trong những điều kiện cho việc phát hiện nhanh chóng chính xác, xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chúng ta cũng nên nhất trí rằng việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc minh oan cho người vô tội cũng quan trọng và có ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người có tội. Trong quá trình tiến hành tố tụng, chúng ta phải luôn nhận thức rằng,người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can chưa phải là người có tội thì mới đảm bảo được tính khách quan của điều tra viên, kiểm sát viên trong việc thu thập chứng cứ và làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Nếu coi người bị bắt giữ với tư cách là người bị tình nghi, người bị khởi tố với tư cách là bị can đã là người có tội thì dễ dẫn đến hậu quả là điều tra viên, kiểm sát viên chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm của người bị bắt giữ và bị can chứ không quan tâm đến việc làm sáng tỏ các chứng cứ gỡ tội, các tình tiết giảm nhẹ. Nếu hội đồng xét xử coi bị cáo là người có tội trước khi mở phiên tòa xét xử thì sẽ không đảm bảo được sự khách quan trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá ý kiến tranh luận của các bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra. Việc coi một người là có tội khi chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án có nghĩa là đồng nhất các khái niệm người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án đều là người có tội và đồng nhất biện pháp ngăn chặn với biện pháp hình phạt sẽ dẫn đến sự vô hiệu hóa của việc phân định thẩm quyền tố tụng giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Có thể khẳng định rằng, nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc vô cùng quan trọng đối với việc áp dụng pháp luật cả về lý thuyết lẫn
  • 25. 25 thực tiễn. Đặt trong bối cảnh Việt Nam, toàn dân cùng phấn đấu vì mục tiêu xây dựng một Nhà nước pháp quyền, dân chủ thì các biện pháp để bảo vệ quyền con người cần được quan tâm một cách thích đáng, trong đó có việc đề cao nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Để bảo đảm thực hiện hiệu quả nguyên tắc suy đoán vô tội trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng, cần quan tâm thực hiện tốt các giải pháp sau đây: Thứ nhất, thực hiện nghiêm chỉnh quy định về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự Trong giai đoạn điều tra, truy tố, cơ quan có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của người bị tạm giữ, bị can là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, thể hiện tại nghĩa vụ cơ quan điều tra trong thời hạn 24 giờ kể từ sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Như vậy, khi không có căn cứ ra quyết định tạm giữ thì cơ quan điều tra phải trả tự do cho người vô tội. Bộ luật tố tụng hình sự có quy định: “Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ”…; “Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ…”. Như vậy, việc trả tự do cho người bị tạm giữ có thể được thực hiện từ rất sớm, ngay trước khi ra quyết định tạm giữ hoặc khi đã có quyết định này. Việc trả tự do cho người bị tạm giữ khi xác định được ngay việc bắt khẩn cấp hoặc bắt quả tang đối với họ là không có căn cứ mà không cần phải đợi đến khi hết thời hạn tạm giữ. Tuy nhiên, trong thực tế, không đơn giản là cứ bắt người rồi sau đó thấy không có căn cứ thì thả tự do, vì như vậy, đã làm ảnh hưởng lớn đến uy tín, hình ảnh, công việc của người bị bắt. Cho nên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải vượt qua rào cản tâm lý này, quán triệt việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người bị bắt.
  • 26. 26 Pháp luật tố tụng hình sự cũng đã luôn khẳng định rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Để bảo đảm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội, thì những người tiến hành tố tụng, đặc biệt là điều tra viên phải bắt đầu quá trình tố tụng của mình từ suy nghĩ đối tượng này không có tội, khi thực hiện điều tra phải chú ý đến những tình tiết ngoại phạm cho nghi can để bảo đảm được suy đoán vô tội, nghiêm cấm chuyện có ấn tượng ngay từ đầu đây là tội phạm và cố gắng thu thập bằng chứng, củng cố hồ sơ để chứng minh rằng họ phạm tội. Suy đoán vô tội phải quan tâm đến các yếu tố nào giúp khẳng định người ta vô tội và không được củng cố hồ sơ theo định hướng có sẵn. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Bởi vì không thể buộc người đang được coi là vô tội chứng minh mình vô tội. Do đó, bị cáo có quyền im lặng, không khai báo về hành vi phạm tội của mình. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án không thể coi việc bị cáo không khai báo làm căn cứ để tăng nặng trách nhiệm hình sự khi buộc tội và quyết định hình phạt đối với bị cáo. Trong các giai đoạn của quá trình tiến hành tố tụng hình sự, mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị cáo. Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cũng cần chú trọng hơn nữa việc áp dụng nguyên tắc giải quyết có lợi cho người bị buộc lỗi trong trường hợp quy định của luật không rõ. Các cơ quan khi thực hiện chức năng của mình, đối với mỗi vụ án sẽ có niềm tin nội tâm đối với các vụ án. Nhưng niềm tin đó phải dựa trên các cơ sở bằng chứng cụ thể, không được ép cung, dùng nhục hình... Nếu như không có bằng chứng xác đáng thì mặc dù có tin rằng đó là tội phạm, thì cũng phải ra quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án. Trong giai đoạn xét xử, nếu có nghi ngờ về lỗi của bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về chứng cứ, thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi
  • 27. 27 phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Cụ thể, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ yếu quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án không kết tội bị cáo. Bản án của Tòa án không được dựa trên giả định, phải có căn cứ, xác định, hợp lý, hợp pháp. Bản án kết tội phải là bản án có đủ các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh được là bị cáo có tội. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ được coi là chứng cứ nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội; không được dùng làm chứng những tình tiết do người làm chứng, người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ hơn vì sao biết được tình tiết đó. Thứ hai, bảo đảm quyền suy đoán vô tội của bị can, bị cáo trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tố tụng tại phiên tòa Hạn chế tối đa việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo, bởi vì, bị can, bị cáo được suy đoán vô tội nên các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự như tạm giam chỉ được áp dụng trong trường hợp thực sự cần thiết, tương xứng giữa mức độ nghiêm khắc của biện pháp cưỡng chế và mục đích của biện pháp này. Tòa án phải cân nhắc thận trọng khi tạm giam hoặc tiếp tục tạm giam bị can. Chỉ tạm giam bị can trong giai đoạn xét xử khi không áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn nào khác mà vẫn đạt được mục đích mong muốn. Đồng thời, cần tăng cường xem xét trách nhiệm của người tiến hành tố tụng nếu áp dụng biện pháp ngăn chặn không hợp pháp, hợp lý xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội. Tòa án có trách nhiệm xét xử nhanh chóng, kịp thời, bị can, bị cáo bị đặt vào trình trạng pháp lý bất lợi, phải chịu các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự và luôn bị đe dọa áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng nhất là hình phạt, trong khi theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì họ được coi là người vô tội. Do đó, thời hạn
  • 28. 28 xét xử dài sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người liên quan trong vụ án. Vì vậy, xét xử nhanh chóng, kịp thời là một yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội.Tòa án được nghiên cứu hồ sơ, giải quyết vụ án trong thời hạn do pháp luật tố tụng quy định nhưng đồng thời Tòa án cũng có trách nhiệm phải đẩy nhanh tiến độ giải quyết, rút ngắn tối đa thời gian tố tụng tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự. Đặc biệt, Tòa án không được kéo dài thời gian tố tụng để “cố gắng” chứng minh được tội phạm. Bị cáo được xuất hiện tại phiên tòa với trang phục phù hợp, không bị coi là người phạm tội, hình ảnh bị cáo tại phiên tòa là ấn tượng ban đầu, có tác động đến tư tưởng hoặc có thể tạo ra định kiến về nhân thân bị cáo đối với những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại Tòa án. Do đó, được suy đoán vô tội yêu cầu bị cáo phải có trang phục như người không phạm tội. Đồng thời, việc xưng hô tại phiên tòa cũng phải thể hiện rõ sự tôn trọng sự suy đoán vô tội của bị cáo. Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng không được sử dụng những cách xưng hô có tính chất ám chỉ, miệt thị, đay nghiến hoặc biểu hiện thái độ bực tức, khó chịu đối với bị cáo. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, căn cứ kết quả tranh tụng để Tòa án ra bản án kết tội hoặc tuyên bố vô tội. Bởi vì, theo nguyên tắc suy đoán vô tội, thì bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh mình vô tội, nhưng được tạo các điều kiện để chứng minh mình không phạm tội. Vì vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội yêu cầu Tòa án luôn phải đảm bảo quyền bào chữa và quyền được tranh luận dân chủ với bên buộc tội của bị cáo tại phiên tòa.“Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng truớc pháp luật… việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và những người có quyền, lợi ích hợp pháp”. “Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để Luật sư tham gia vào quá trình tố
  • 29. 29 tụng như tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa.” Đó là những định hướng cải cách tư pháp trong Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị. Thứ ba, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự Những năm gần đây các hoạt động tố tụng hình sự, nhất là việc bắt, tạm giữ, tạm giam là những vấn đề thu hút được sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân. Bởi vậy, để việc áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự đảm bảo đúng các nguyên tắc tố tụng, trong đó có nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi phải tăng cường sự giám sát của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và đông đảo quần chúng nhân dân của các cơ quan tiến hành tố tụng. Cụ thể như: - Tăng cường hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc tuân thủ các trình tự, thủ tục tố tụng hình sự. Theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có quyền trực tiếp kiểm sát toàn bộ quá trình tố tụng hình sự, từ đó đòi hỏi Viện kiểm sát cần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, phải có kế hoạch cụ thể để thường kỳ và bất thường áp dụng quyền kiểm sát để đảm bảo cho hoạt động tố tụng được thực hiện đúng pháp luật, đảm bảo quyền được suy đoán vô tội và tránh xảy ra các trường hợp oan, sai trong tố tụng hình sự. - Đẩy mạnh hoạt động giám sát của các cơ quan có thẩm quyền (Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân dân bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua việc nghe báo cáo, thẩm tra và cho ý kiến về báo cáo công tác tại các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân thông qua chất vấn và trả lời chất vấn, trong đó cần chú trọng hoạt động chất vấn của các đại biểu dân cử.
  • 30. 30 - Phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với việc giám sát quá trình tố tụng, nhất là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời có cơ chế khuyến khích nhân dân, các cơ quan báo chí, truyền hình tích cực, chủ động nắm bắt thông tin vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng để kiến nghị xử lý, bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm. Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành và phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng - Đối với quản lý, chỉ đạo, điều hành: Thực tiễn cho thấy việc quản lý, chỉ đạo, điều hành có ý nghĩa quan trọng đối với việc thúc đẩy hiệu quả áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng. Yêu cầu đặt ra đối với công tác này là phải nắm chắc tình hình hoạt động của từng bộ phận công tác của đơn vị mình và cấp dưới để lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh những thiếu sót trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, trong đó một số chỉ tiêu phải thực hiện chế độ thông tin, báo cáo đầy đủ để có các biện pháp xử lý kịp thời như: số lượng tin báo, tố giác tội phạm (hàng giờ, ngày, tuần, tháng, quý, năm) và kết quả xử lý; số người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, những trường hợp bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam không có căn cứ, quá hạn; các bị cáo do Toà án cùng cấp và cấp dưới tuyên không phạm tội; hình phạt bằng hoặc thấp hơn thời hạn tạm giam, tuyên phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ; các vụ án hình sự mà bị can, bị cáo có bị tạm giữ, tạm giam kêu oan ngay từ đầu, các đương sự khiếu nại nhiều lần về việc giải quyết vụ án có việc tạm giữ, tạm giam không khách quan. Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải bảo đảm chế độ tập trung thống nhất trong từng ngành; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát
  • 31. 31 nhân dân, Chánh án Tòa án nhân dân cấp mình và Thủ trưởng cơ quan cấp trên. Thực hiện tốt những vấn đề này chính là tăng cường chế độ trách nhiệm và phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng ngành, từng cấp trong việc áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự. Việc hướng dẫn, chỉ đạo cũng như trả lời thỉnh thị đường lối giải quyết vụ án phải được nâng cao về chất lượng, bảo đảm chính xác, kịp thời, tránh việc hướng dẫn không rõ ràng, gây khó khăn cho cấp dưới khi thực hiện. Đặc biệt là cần tăng cường hơn nữa công tác hướng dẫn nghiệp vụ đối với cấp dưới bằng nhiều hình thức như: Tổ chức sơ kết, tổng kết, tập huấn chuyên đề áp dụng pháp luật biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Đối với những sai sót phổ biến, điển hình cần ra thông báo rút kinh nghiệm chung cho tất cả các huyện. Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ những người tiến hành tố tụng hình sự, vấn đề quan trọng là hàng năm Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao cần xây dựng các chuyên đề nghiệp vụ để hướng dẫn dấu hiệu của từng loại tội phạm, đường lối giải quyết đối với từng loại án như: án kinh tế, án trị an xã hội, án ma tuý... các chuyên đề rút kinh nghiệm trong công tác nghiệp vụ như: chống lọt tội, chống hình sự hoá các quan hệ dân sự, hành chính, kinh tế. Một trong những biện pháp quan trọng của công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần thực hiện tốt là việc thường xuyên kiểm tra cấp mình và cấp dưới trong việc tiến hành các công tác nghiệp vụ. Thông qua kiểm tra để phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để kịp thời chấh chỉnh, khắc phục những sai phạm và phải ra thông báo rút kinh nghiệm chung. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật của các cơ quan và người tiến hành tố tụng. Trong thời gian vừa qua Đảng và nhà nước ta đã quan tâm, chú trọng đến giải pháp này nên đã ban hành được nhiều văn bản pháp luật, quy định khá chi tiết về chế tài xử phạt. Cụ thể các văn bản pháp luật như: Hiến pháp năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự, Luật Trách nhiệm bồi thường
  • 32. 32 nhà nước.. Các văn bản này quy định về trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với hành vi vi phạm của mình trong hoạt động áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự. Để pháp luật tố tụng hình sự được chấp hành nghiêm chỉnh, đòi hỏi phải nâng cao trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bằng các hình thức quán triệt rõ ràng, đầy đủ các trách nhiệm của họ cũng như các chế tài mà họ có thể bị áp dụng. Nếu cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình áp dụng pháp luật thì phải xử lý nghiêm minh, không được bao che, xử lý qua loa đại khái, có như vậy mới có tác dụng giáo dục, dăn đe và bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh. - Về phối hợp trong hoạt động tố tụng hình sự: Thực tiễn trong hoạt động tố tụng hình sự cho thấy, nơi nào xây dựng được mối quan hệ phối hợp tốt giữa các bộ phận, đơn vị nghiệp vụ trong ngành với nhau và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng thì nơi đó có điều kiện thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Mối quan hệ phối hợp ở đây được xác định bao gồm mối quan hệ trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp. Quan hệ phối hợp tốt có tác dụng hỗ trợ tích cực, giúp cho việc thống nhất quan điểm trong việc thực hiện các trình tự, thủ tục tố tụng. Bởi vậy, để áp dụng đúng pháp luật tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng cần ban hành các quy chế phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau trong từng hoạt động tố tụng để tăng cường trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong việc kịp thời xử lý, giải quyết các vụ án hình sự đúng pháp luật, không làm oan người vô tội. Đặc biệt là, các cơ quan Tòa án, Kiểm sát và Cơ quan điều tra thường xuyên trao đổi, cung cấp, thông báo cho nhau những thông tin, văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về nghiệp vụ có liên quan đến việc thực hiện các trình tự tố tụng; phối hợp kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo cấp dưới về nghiệp vụ nhằm phát hiện uốn nắn kịp thời những vi phạm và khắc
  • 33. 33 phục những vi phạm, tội phạm xảy ra trong quá trình áp dụng pháp luật trong việc giải quyết vụ án hình sự. Thứ năm, tăng cường sự tham gia của người bào chữa kể từ khi tạm giữ người để tiến hành các hoạt động tố tụng hình sự Mục đích của tố tụng hình sự là tìm ra chân lý khách quan của vụ án, vì vậy để xác định được sự thật của vụ án đòi hỏi phải có sự cọ xát, tranh luận giữa hai bên buộc tội và gỡ tội trong quá trình giải quyết vụ án. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Vì vậy, người bào chữa được tham gia bào chữa trong vụ án hình sự từ khi có việc tạm giữ người của Cơ quan điều tra, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người bào chữa của họ có thể tham gia hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Trong quá trình tham gia tố tụng, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa được quyền tìm và đưa ra chứng cứ đối lập với các chứng cứ mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập được. Các tài liệu do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra phải được xem xét, đánh giá trên cơ sở khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp, nghĩa là các tài liệu, đồ vật đó phải là chứng cứ mới được sử dụng. Chứng cứ do bên gỡ tội đưa ra phải được xem xét, đánh giá cùng với chứng cứ buộc tội. Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ chú ý đến những chứng cứ buộc tội, đề cao khía cạnh không để lọt tội phạm hơn khía cạnh không làm oan người vô tội, vì vậy dễ dẫn đến tình trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam một cách thiếu căn cứ, thậm chí sai đối tượng dẫn đến không đảm bảo quyền suy đoán vô tội của họ. Thực tiễn cho thấy người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tự bào chữa thường có trạng thái tâm lý hoang mang, lo sợ, mặc cảm hoặc do chưa đủ kiến thức pháp lý để tự bào chữa cho mình nên Cơ quan điều tra trong một số trường hợp đã tùy tiện áp dụng các biện pháp ngăn chặn dẫn đến vi phạm pháp luật như bắt, tạm giữ, tạm giam oan sai, những trường hợp không cần bắt, tạm giữ, tạm giam lại bắt tạm giữ, tạm giam; có những trường hợp cần bắt, tạm giữ, tạm giam lại
  • 34. 34 không bắt, tạm giữ, tạm giam; tính thời hạn tạm giữ sai; bắt, tạm giữ, tạm giam không đúng trình tự thủ tục. Vì vậy, để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội thì phải tăng cường sự tham gia của người bào chữa trong các vụ án hình sự kể từ khi có việc bắt, tạm giữ, tạm giam người, nhằm đảm bảo việc tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục pháp luật quy định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Thứ sáu, tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tố tụng hình sự Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội. Ý nghĩa của công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật không chỉ được được thể hiện qua việc giải thích các quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự mà còn thể hiện qua việc tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy định để đảm bảo đúng các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Chính vì vậy, trong quá trình tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chủ động, linh hoạt trong việc lựa chọn, giải thích các quy định pháp luật được áp dụng để không chỉ người bị buộc tội hiểu, nhận thức đúng các quyền của mình mà trong nhiều trường hợp ngay chính những người liên quan (người bào chữa, người làm chứng...) cũng nhận thức rõ trách nhiệm phối hợp để giải quyết phù hợp những vướng mắc, khó khăn trong quá trình tố tụng để đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội (ví dụ như: tạo điều kiện cho người bào chữa được tham gia bào chữa từ giai đoạn khởi tố bị can..). Tuy nhiên, để làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tố tụng hình sự, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể từng trường hợp để tiến hành các trình tự, thủ tục tố tụng phù hợp được pháp luật cho phép, nhất là việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người bị buộc tội trong từng giai đoạn tố tụng hình sự.
  • 35. 35 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2016. 2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, Hà Nội, tháng 3/2010. 3. Phạm Thị Hoài Bắc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và những kiến nghị sửa đổi bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003", http://noichinh.vn, ngày 06/4/2014. 4. Bộ Công an (2012), Báo cáo số 553/BC-BCA-V19 ngày 07/10/2012 về tổng kết 8 năm thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội. 5. Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và Viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội An, tháng 12/2014. 6. Nguyễn Ngọc Chí (2015), "Nguyên tắc suy đoán vô tội, bảo đảm tranh tụng trong xét xử trong Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi): Bước tiến vượt bậc về quyền con người", http://baobaovephapluat.vn, ngày 02/6/2015. 7. Nguyễn Văn Chiến (2014), "Vai trò của đội ngũ luật sư trong việc hiện thực hóa nguyên tắc tranh tụng và bảo vệ quyền con người", Kỷ yếu Hội thảo: Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự, Hội An. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
  • 36. 36 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 11. Bùi Tiến Đạt (2015), "Vì sao "suy đoán có tội" phổ biến?", http://vietnamnet.vn, ngày 20/06/2015 12. TS. Lê Hữu Thể (Chủ nhiệm), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng hình sự bảo đảm quyền con người, quyền công dân phù hợp với Hiến pháp, Đề tài khoa học cấp bộ, Viện nghiên cứu lập pháp, Hà Nội, 2017 13. TS. Lương Thị Mỹ Quỳnh, Bảo đảm quyền của người bị buộc tội trong các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người, Học viện tư pháp và viện FES Liên bang Đức, Hội thảo khoa học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự”, Hội an, tháng 12/2014. 14. Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Quyền con người trong tố tụng hình sự, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Ủy ban nhân quyền Australia, tháng 3/2010, tr. 20-30. 15. GS. TSKH. Đào Trí Úc, Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng hình sự 2015, trong sách “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, NXB Chính trị quốc gia, H. 2016, trang 54 - 85. 16.Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013 và việc triển khai thi hành trong ngành Kiểm sát Hải Phòng, Nguyễn Thị Liên – Viện trưởng Viện Kiểm sát huyện Cát Hải 17. ThS. Đinh Thế Hưng – Viện Nhà nước và Pháp luật, Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam 18. TS. Phạm Mạnh Hùng – Hiệu trưởng trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Hình sự Việt Nam
  • 37. 37 19.Nguyên tắc suy đoán vô tội và các quy định của nguyên tắc này trong Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2013, Trương Thị Thanh Nhàn – Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, đăng trên trang web: 20. Mai Thanh Hiếu (2004), "Phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam", Luật học, (01), tr.14-18. 21. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2001), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 13 22. Lê Kiên (2015), "Quyền im lặng và suy đoán vô tội", http://tuoitre.vn, ngày 18/6/2015 23. Nguyễn Lê (2015), "Giám sát oan sai: Có những điều không ngờ?", http://vneconomy.vn, ngày 10/4/2015 24. Liên hợp quốc (1948), Tuyên ngôn về nhân quyền. 25. Liên hợp quốc (1966), Bình luận chung số 13 Công ước quốc tế. 26. Liên hợp quốc (1966), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị. 27. Liên hợp quốc (1985), Công ước chống tra tấn, đối xử vô nhân đạo và hạ nhục con người. 28. Liên hợp quốc (1993), Tuyên ngôn Viên và chương trình hành động. 29. Nguyễn Hoàng Linh (2014), "Gian nan "suy đoán vô tội", http://baoxaydung.com.vn, ngày 02/10/2014. 30. Nguyễn Thái Phúc (2006), "Nguyên tắc suy đoán vô tội", Nhà nước và pháp luật, (11), tr.36-39 31. Đinh Văn Quế (2012), "Có cần ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội?", http://toaan.gov.vn. 14 32. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội. 33. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội. 34. Minh Thảo (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Hiến pháp năm 2013 và việc thể chế hóa nguyên tắc này trong Bộ luật tố tụng hình sự để phù hợp với tinh thần của Hiến pháp mới", http://www.moj.gov.vn.
  • 38. 38 35. Trung tâm Nghiên cứu về quyền con người và quyền công dân - Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (IUCCR 1966), Nxb Hồng Đức, Hà Nội. 36. Phạm Duy Trường (2012), "Nguyên tắc suy đoán vô tội và việc quy định nguyên tắc này trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam", http://vienkiemsathaiphong.gov.vn. 37. Đào Trí Úc (2014), "Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng đối với việc đổi mới tố tụng hình sự Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (11), tr.24-27. 38. Viện Khoa học kiểm sát (2002), "Bộ luật tố tụng hình sự năm 2001 của Nga", Phụ trương Thông tin Khoa học pháp lý. 39. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 40. Viện Khoa học Kiểm sát (2003), "Bộ luật tố tụng hình sự của Nhật Bản", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 41. Viện Khoa học Kiểm sát (2007), "Bộ luật tố tụng hình sự của Liên bang Đức", Phụ trương thông tin Khoa học pháp lý. 42. Viện Khoa học pháp lý (1999), "Tư pháp hình sự so sánh", Thông tin khoa học pháp lý, (Số chuyên đề). 43. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp, Hà Nội. 44. Nguyễn Quốc Việt (1995), Mấy vấn đề về nguyên tắc tố tụng hình sự khi xây dựng Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi, Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội. 45. Trịnh Tiến Việt (2013), "Bảo đảm nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự", http://tuphaphinhsu.wordpress.com, ngày 25/4/2013.