SlideShare a Scribd company logo
1 of 77
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGUYỄN QUỲNH NGA
GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ
Mã số: 834 04 12
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH MINH TÂM
HÀ NỘI, 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ
chức định giá công nghệ tại Việt Nam” này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn khoa học
TS.Trịnh Minh Tâm. Các tư liệu sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn nguồn
gốc rõ ràng, không sao chép của người khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./.
Hà Nội, tháng 8 năm 2018
Học viên
Nguyễn Quỳnh Nga
ii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC TỔ CHỨC
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ.................................................................................. 9
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9
1.2. Thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ tại một số nước trên thế giới 27
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG
NGHỆ TẠI VIỆT NAM.................................................................................... 38
2.1. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong thị trường KH&CN Việt
Nam ..................................................................................................................... 38
2.2. Thực trạng về hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam46
CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC
TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM .............................. 51
3.1. Phân tích những nét tương đồng và khác biệt trong chính sách của Việt
Nam và một số nước về phát triển các tổ chức định giá công nghệ ................... 51
3.2. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công
nghệ tại Việt Nam ............................................................................................... 57
KẾT LUẬN........................................................................................................ 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 68
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 72
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Tên viết tắt Tên tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt
KH&CN Science and Technology Khoa học và công nghệ
CGCN Technology Transfer Chuyển giao công nghệ
KT-XH Socio- economic Kinh tế - xã hội
SHTT Intellectual Property Sở hữu trí tuệ
ĐGCN Technology Valuation Định giá công nghệ
KQNC Research Results Kết quả nghiên cứu
TSTT IP Asset Tài sản trí tuệ
SXKD Business and Production Sản xuất kinh doanh
NSNN State budget Ngân sách Nhà nước
VBPL Legal documents Văn bản pháp lý
R&D Research and development Nghiên cứu và phát triển
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Những bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai
với cầu về công nghệ của các doanh nghiệp...................................................42
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tỷ lệ phần trăm về mức độ chia sẻ thông tin.................................47
Hình 2.2: Tỷ lệ phần trăm nhân lực trong các tổ chức trung gian .................48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò là thước đo sức cạnh tranh và khả năng phát triển của nền
kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng trong tương lai, công nghệ trở
thành một trong những dòng tài sản vô hình được trao đổi, thương mại hóa
trên thị trường công nghệ. Yếu tố đầu vào cơ bản cho việc trao đổi, thương
mại hóa này chính là việc biết được giá trị của công nghệ - kết quả của quá
trình định giá công nghệ.
Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ đã được ban hành,
trong đó có một vấn đề đang nổi cộm là trong quá trình chuyển giao công
nghệ hoặc cổ phần hóa, liên doanh, … đối với các doanh nghiệp thì tài sản
công nghệ sẽ được định giá như thế nào? Những gì thị trường cần là giá trị
của công nghệ như là một sản phẩm được giao dịch trên thị trường, và điều
này đòi hỏi một giá trị công bằng và khách quan mà không chịu ảnh hưởng
bởi các công ty cụ thể sở hữu nó. Bởi vậy, sự xuất hiện của các tổ chức định
giá công nghệ là một xu thế tất yếu trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Tại Việt Nam, công tác định giá công nghệ đã được Bộ Khoa học và
Công nghệ quan tâm và chỉ đạo nhiều năm nay. Tuy nhiên, hiện nay hoạt
động định giá công nghệ còn sơ khai, đơn lẻ và chưa hình thành được mạng
lưới cho hoạt động này, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen thuê tư
vấn định giá công nghệ trong các khâu của quy trình chuyển giao công nghệ,
đa phần chỉ là mua máy móc thiết bị, đội ngũ thực hiện hoạt động định giá
công nghệ chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp,…
Chính vì vậy, việc xem xét một cách bài bản về các tổ chức định giá
công nghệ sẽ mang lại lợi ích lớn cho việc ban hành các chính sách nhằm
quản lý, hỗ trợ việc hình thành, hoạt động cũng như thúc đẩy sự phát triển của
2
các tổ chức này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp, giúp cho các doanh
nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới công nghệ, phát triển thị
trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp phần đẩy nhanh quá trình cổ
phần hóa doanh nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Nƣớc ngoài
Thị trường KH&CN cũng chứa đựng các thành tố cơ bản như các loại
thị trường khác, bao gồm: sản phẩm và dịch vụ KH&CN; chủ thể tham gia thị
trường như người cung (người bán), người cầu (người mua) sản phẩm và dịch
vụ KH&CN và đặc biệt cũng có các tổ chức trung gian tư vấn, cung cấp các
dịch vụ (bao gồm định giá công nghệ).
Tại Hàn Quốc, hoạt động định giá công nghệ cũng đã trở nên mạnh
mẽ với sự ra đời của Luật Xúc tiến chuyển giao công nghệ vào năm 2000.
Đạo luật này đã khuyến khích các trường đại học và các viện nghiên cứu công
thành lập các Văn phòng cấp phép công nghệ (TLO) cùng với các tổ chức
tương ứng của họ, đồng thời tập trung vào việc xúc tiến chuyển giao và
thương mại hoá kết quả nghiên cứu. Bởi vậy, Hàn Quốc đã xuất hiện nhiều tổ
chức dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ như: Trung tâm đổi mới công
nghệ vùng, công viên công nghệ, các doanh nghiệp nhân rộng kết quả nghiên
cứu, các trung tâm chuyển giao công nghệ thuộc các trường đại học… Tiêu
biểu phải kể đến là Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc (Korea
Technology Transefer Center – KTTC) – một tổ chức xúc tiến chuyển giao
công nghệ hàng đầu tại Hàn Quốc. KTTC có nhiệm vụ kết nối thương mại và
công nghệ với việc thúc đẩy cạnh tranh trong các lĩnh vực chuyển giao công
nghệ, đánh giá, định giá và đầu tư. Các dịch vụ của KTTC bao gồm:
- Dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ: Để tìm kiếm đối tác, KTTC
xem xét các công nghệ sẽ bán, ước tính giá trị thương mại (định giá), khả
năng tồn tại của thị trường, các xu hướng công nghiệp và xác định tiềm năng,
3
đối tác chuyển giao quyền sử dụng. KTTC hỗ trợ việc chào bán công nghệ
thông qua việc tạo ra sự khác biệt với hệ thống đại diện pháp lý có chuyên
môn cao, giỏi trong đàm phán và thỏa thuận trên nhiều lĩnh vực công nghệ
khác nhau.
- Dịch vụ đánh giá công nghệ: KTTC nghiên cứu tính khả thi của công
nghệ trong giai đoạn đầu thông qua phân tích về kinh tế, kỹ thuật, tiếp thị,
thực hiện kinh doanh và đánh giá công nghệ.
- Dịch vụ hợp nhất và mua lại: KTTC thúc đẩy việc hợp nhất và mua lại
công nghệ có sức hấp dẫn của công ty, phòng thí nghiệm, các kết quả nghiên
cứu được đầu tư mạo hiểm… để tìm đối tác tốt nhất cho việc ký kết hợp đồng.
Cung cấp các chiến lược cơ cấu lại doanh nghiệp (bao gồm việc mua, bán,
tách và sát nhập doanh nghiệp); cung cấp thông tin liên quan đến chuyển dịch
cơ cấu sở hữu; các dịch vụ pháp lý, thuế, kế toán hoặc các dịch vụ trọn gói.
Tại Trung Quốc, Luật thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của
Trung Quốc được ban hành năm 1996. Luật này quy định chi tiết quyền và
nghĩa vụ của Chính phủ, chủ sở hữu kết quả KH&CN, doanh nghiệp, các tổ
chức trung gian tham gia kinh doanh, môi giới và các tổ chức đầu tư tài chính
trong kết nối với việc thương mại hoá công nghệ. Điều 18 Luật này quy định:
“Cơ quan môi giới làm dịch vụ đại lý hoặc trung gian cho hai bên trong giao
dịch công nghệ phải xin phép kinh doanh theo quy định liên quan của Nhà
nước; cán bộ quản lý nghiệp vụ trong cơ quan này phải xin giấy chứng nhận
tư cách hành nghề theo quy định liên quan của Nhà nước”. Điều 11 của Điều
lệ Quản lý thị trường công nghệ Bắc Kinh quy định: “Cơ quan trung gian
công nghệ và người kinh doanh công nghệ dùng thông tin công nghệ để phục
vụ theo yêu cầu của hai bên đương sự phải đề nghị Văn phòng Quản lý thị
trường công nghệ thành phố Bắc Kinh thẩm định tư cách nghề nghiệp; Văn
phòng này tiến hành thẩm định và cấp giấy chứng nhận tư cách, đồng thời đề
nghị Bộ, ngành quản lý hành chính công thương nghiệp cho đăng ký”. Có thể
4
nhận thấy một đặc điểm chung ở Trung Quốc là nhà nước quản lý hoạt động
tư vấn (định giá công nghệ) khá chặt chẽ. Các cá nhân, tổ chức hoạt động, tư
vấn chuyển giao công nghệ thường phải được cấp giấy phép. Và đồng thời,
Trung Quốc cũng có những chính sách khuyến khích phát triển hoạt động tư
vấn công nghệ (định giá công nghệ) như: Nghị quyết của Trung ương Đảng
cộng sản và Chính phủ Trung Quốc về tăng cường sáng tạo công nghệ, phát
triển KH&CN cao, thực thi ngành nghề hóa vào tháng 8/1999 khẳng định
“Đối với thu nhập từ tư vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ trong chuyển giao
công nghệ, triển khai công nghệ được miễn thuế doanh nghiệp”.
2.2. Trong nƣớc
Thị trường KH&CN là một bộ phận của nền kinh tế thị trường có vai
trò to lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Do đó, phát triển thị
trường KH&CN là một trong những nội dung trọng tâm của chiến lược phát
triển KH&CN ở Việt Nam từ nay đến năm 2020.
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban chấp hành TW
Đảng khoá XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp Phát triển thị
trường KH&CN là “Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa
học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công
nghệ. Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng liên thông với hệ thống các trung tâm ứng
dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn
giao dịch công nghệ khu vực và thế giới”.
Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính
phủ: “Nhà nước đầu tư xây dựng một số trung tâm dịch vụ khoa học và công
nghệ, chuyển giao công nghệ làm nòng cốt cho hệ thống tổ chức dịch vụ môi
5
giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định giá, thẩm định, giám định công
nghệ”.
Cũng giống như các loại thị trường khác, khi thị trường KH&CN mới
hình thành và còn ở mức sơ khai thì hoạt động mua bán, trao đổi sản phẩm
KH&CN thường trực tiếp diễn ra giữa cung (người bán) và cầu (người
mua). Lúc này vai trò của các tổ chức trung gian như các tổ chức định giá
sản phẩm công nghệ còn rất mờ nhạt. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng
phát triển, thị trường ngày càng mở rộng thì mối quan hệ giữa các chủ thể
tham gia thị trường sẽ ngày càng phức tạp hơn. Người cung sản phẩm
KHCN cần có một cách nhanh nhất các thông tin cần thiết về nhu cầu thị
trường, bảo đảm giao dịch mua – bán phù hợp với luật lệ và khi cần có thể
giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ đối với sản phẩm KH&CN. Ngược
lại, người có nhu cầu đối với sản phẩm KHCN không thể biết hết được
thông tin về các loại hình sản phẩm KHCN hết sức phong phú đang có mặt
trên thị trường nên cần sự giúp đỡ chọn lựa để mua sản phẩm KHCN phù
hợp với giá rẻ nhất. Tới lúc này, các tổ chức trung gian như các tổ chức
định giá sản phẩm công nghệ mới thực sự phát triển nhanh chóng. Nói cách
khác, thị trường nói chung và thị trường KHCN nói riêng càng phát triển
thì càng cần đến hoạt động tư vấn và dịch vụ KHCN.
Về chính sách quản lý và phát triển hoạt động định giá trong thời gian
qua, hiện có ít các quy định riêng cho các hoạt động này. Chủ yếu vẫn là các
quy định chung điều chỉnh những hoạt động mà định giá công nghệ là một
loại hình trong đó. Trong Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 được
ban hành ngày 19/6/2017, tại Chương IV, mục 3, Điều 45 có quy định chi tiết
về các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ (bao gồm môi giới, tư vấn
chuyển giao công nghệ; đánh giá, thẩm định giá, giám định công nghệ; xúc
tiến chuyển giao công nghệ) và hướng dẫn thi hành các quy định chung về
dịch vụ chuyển giao công nghệ. Trong Bộ luật dân sự, quy định tại Mục 7 là
6
về hoạt động dịch vụ nói chung. Trong Thông tư 06/2014/TT-BTC của Bộ tài
chính ban hành ngày 07/01/2014 quy định rõ về tiêu chuẩn thẩm định giá số
13. Các quy định tại Nghị định số 87/2002/NĐ-CP về cung cấp các dịch vụ tư
vấn là chung cho nhiều hoạt động tư vấn – trừ tư vấn pháp luật. Các quy định
về tư vấn pháp luật chuyển giao công nghệ trong Luật Dân sự được quy định
chung cho các hoạt động hành nghề luật sư. Chính vì vậy, rất cần có những
quy định cụ thể hơn, trực tiếp hơn vào các đặc thù của loại hình hoạt động
này. Về hoạt động định giá công nghệ, Bộ KH&CN đã có Thông tư số
31/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 hướng dẫn nội dung và phương thức
hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ. Thông tư đã quy định hành
lang pháp lý hướng dẫn cho hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ.
Tuy nhiên, Thông tư chưa cụ thể hoá các điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức
định giá cũng như chuyên gia định giá công nghệ vì đây phải được coi là một
nghiệp vụ và hoạt động có điều kiện cần được quản lý và cấp phép hoạt động
theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Hơn nữa, so với kinh nghiệm
của nhiều nước, bên cạnh các quy định đã có, chúng ta còn thiếu vắng một số
chính sách quan trọng, đặc biệt là những biện pháp hỗ trợ của nhà nước nhằm
thúc đẩy hoạt động của tổ chức định giá công nghệ.
Về tình hình nghiên cứu phát triển mạng lưới hoạt động tư vấn: Ở Việt
Nam đã có một số công trình nghiên cứu và chính sách như:
- Đề tài cấp cơ sở: “Nghiên cứu một số loại hình tổ chức chuyển giao
công nghệ trong viện nghiên cứu và phát triển và trường đại học” - Viện
Chiến lược và Chính sách KH&CN - Bộ KH&CN (năm 2006), Chủ nhiệm đề
tài: Nguyễn Lan Anh.
- Đề án: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động định giá
công nghệ, đề xuất nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động định giá
công nghệ tại Việt Nam” - Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ -
Bộ KH&CN (năm 2010), Chủ nhiệm đề án: Ngô Thị Vân.
7
- Đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ
chế chính sách về quản lý, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức
định giá, đánh giá công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ” – Viện Đánh
giá khoa học và Định giá công nghệ - Bộ KH&CN (năm 2014), Chủ nhiệm đề
tài: Trịnh Minh Tâm.
Tuy nhiên, các đề tài, đề án trên chỉ nghiên cứu ở một số khía cạnh nhất
định mà chưa nghiên cứu toàn diện và đề xuất được những giải pháp và khung
pháp lý nhằm hỗ trợ phát triển cho hệ thống các tổ chức này. Do vậy, cần có
những nghiên cứu xây dựng giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá
công nghệ để từ đó rút ra kiến nghị về một số mô hình và giải pháp đối với việc
quản lý, hỗ trợ phát triển hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Tìm hiểu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung
quản lý của nhà nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá
công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng áp dụng: Các tổ chức định giá công nghệ. Các cơ quan quản
lý nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà quản lý chính sách.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, tìm hiểu việc định giá công nghệ của
một số nước và ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp kế thừa, phương pháp điều tra thu thập, phân tích
thông tin, dữ liệu, lấy ý kiến chuyên gia trong quá trình đề xuất việc xây dựng giải
pháp về quản lý, hỗ trợ phát triển các tổ chức định giá công nghệ ở Việt Nam.
- Tiếp cận các tài liệu, văn bản trong nước và quốc tế kết hợp với nghiên
cứu thực tế.
8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Định giá công nghệ là lĩnh vực mới, do vậy cần tăng cường nghiên
cứu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung quản lý nhà
nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ
nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam. Chính vì vậy, luận
văn “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt
Nam” là vấn đề cấp thiết phục vụ cho công tác quản lý công nghệ của các cơ
quan Nhà nước và kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo đối với
các ngành quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp,
giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới
công nghệ, phát triển thị trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp
phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận
văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ.
Chƣơng 2: Thực trạng về các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công
nghệ tại Việt Nam.
9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở lý luận về chuyển giao công nghệ
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 28, công nghệ là sự tạo ra,
sự biến đổi, việc sử dụng kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ
năng nghề nghiệp, hệ thống, phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn
đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một
chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ,
gồm máy móc, những sự sắp xếp hay những quy trình. Công nghệ có ảnh
hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người vào môi
trường tự nhiên của mình. Thuật ngữ công nghệ có thể được dùng theo nghĩa
chung hay cho những lĩnh vực cụ thể. Như vậy, công nghệ ở đây có phạm vi
rộng nên chưa thực sự làm rõ được bản chất của khái niệm công nghệ.
Để nhấn mạnh tri thức, kiến thức là một trong các hình thức biểu hiện
của công nghệ, Trần Ngọc Ca (1998) đã nghiên cứu và tập hợp các quan niệm
về công nghệ của một số học giả trên thế giới, cụ thể:
- Công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được vào việc sản xuất
ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới.
- Công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành
hàng hóa.
- Công nghệ là tập hợp các kiến thức về một quy trình và/hoặc các kỹ
thuật chế biến cần thiết để sản xuất ra vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công
nghiệp hoàn chỉnh.
10
- Công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức được áp dụng để nâng
cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho những sản phẩm và dịch vụ đang có và
tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới.
- Công nghệ là kiến thức không sờ mó được và không phân chia được
và có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ.
- Công nghệ là sự áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử
dụng những nghiên cứu và cách xử lý một cách có hệ thống và có phương
pháp.
Để nhấn mạnh công nghệ như một hệ thống và có ứng dụng rộng rãi
trong đời sống xã hội, Đặng Nguyên và Thu Hà (2002) đã tập hợp các khái
niệm về công nghệ và đưa ra 8P công nghệ:
- Công nghệ là một hệ thống mà xã hội phải hy sinh những nhu cầu và
mong muốn của mình.
- Công nghệ bao gồm một phạm vi rộng lớn các hoạt động và các
chức năng trong doanh nghiệp được ủy thác sản xuất các sản phẩm mới và
hoàn thiện cùng những quá trình, vật liệu và các bí quyết đối với công ty.
- Công nghệ dựa trên những kiến thức lý thuyết, thực tế và kỹ năng để
tạo ra các sản phẩm và các dịch vụ cũng như những hệ thống phân phối và sản
xuất.
- Công nghệ là một hệ thống chuyển đổi các bí quyết độc quyền thành
sự thương mại hóa sản phẩm. Điều này bao gồm cả những hoạt động sản xuất,
chất lượng được đảm bảo, con người, quá trình thông tin, hợp thành một thể
thống nhất dưới dạng những dự án.
- 8P công nghệ bao gồm: Công nghệ là các sản phẩm (P1- Product);
Công nghệ là quá trình (P2- Process); Công nghệ là sự sở hữu các bí quyết
(P3- Proprietary); Công nghệ là sự triển khai (P4- Processing); Công nghệ là
sự đảm bảo (P5- Promise); Công nghệ là con người (P6- People); Công nghệ
là một dự án (P7- Project); Công nghệ mở đường cho lợi nhuận (P8- Profit).
11
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo,
quan niệm về công nghệ cũng được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế có uy tín.
Mỗi một tổ chức lại có cách tiếp cận khác nhau, dựa trên mục tiêu sử dụng
khác nhau.
- Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO),
công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các
kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp.
- Theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP,
1989), công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến
vật liệu và thông tin; công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương
pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ.
- Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD, 1972), công nghệ là đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy
nó được mua và bán trên thị trường như một hàng hóa được thể hiện ở một
trong các dạng sau: tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian,
được mua và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định định đầu
tư; nhân lực và thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực có
trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng thiết bị và kỹ thuật và
làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin; thông tin, dù đó
là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị trường
hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền.
- Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 1996), công
nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà bản thân chúng được định
nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng
dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt
một kết quả định trước trong một hoàn cảnh nhất định.
- Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 1985), công nghệ là phương pháp
chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: thông tin và
12
phương pháp; phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc
chuyển hóa; sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao.
- Theo cách tiếp cận của một số nhà quản lý công nghiệp Nhật Bản,
công nghệ bao gồm năm yếu tố, đó là quản lý, tiền vốn, thị trường, máy móc,
nguyên vật liệu.
Tại Việt Nam, một số tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu và giảng
dạy thời gian qua, quan niệm về công nghệ thường đề cập tới các yếu tố cấu
thành công nghệ, dựa trên quan điểm của Sharif (1986) và Ramanathan
(1995). Theo đó một công nghệ gồm 4 thành phần: (i) Phần kỹ thuật: công
nghệ hàm chứa trong các dạng vật thể như máy móc, thiết bị, phương tiện và
cấu trúc hạ tầng; (ii) Phần con người: công nghệ hàm chứa trong các kỹ năng
công nghệ của con người, nó bao gồm kiến thức, kinh nghiệm do học hỏi và
tích lũy được trong quá trình sử dụng công nghệ; (iii) Phần thông tin: công
nghệ hàm chứa trong các dạng dữ liệu đã được tư liệu hóa để sử dụng trong
các hoạt động của công nghệ; (iv) Phần tổ chức: công nghệ hàm chứa trong
khung thể chế để xây dựng lên cấu trúc tổ chức như quy định về quyền hạn,
trách nhiệm, sự phối hợp của các cá nhân trong hoạt động công nghệ.
Dựa trên các quan điểm về công nghệ ở trên, có bốn khía cạnh cần
được bao quát trong định nghĩa về công nghệ (Trường Đại học Kinh tế Quốc
dân, 2010):
- Công nghệ là “máy biến đổi”, đề cập tới khả năng làm ra sản phẩm,
dịch vụ đáp ứng và thỏa mãn được yêu cầu kinh tế, xã hội, đây là khác biệt
giữa khoa học và công nghệ; công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công
nghệ muốn xuất hiện thì phải hiệu quả hơn công nghệ cũ, còn khoa học là
những phát minh, khám phá mang tính bền vững, khía cạnh này đã nhấn
mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn
đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp
dụng công nghệ;
13
- Công nghệ là “công cụ”, đề cập tới công nghệ là sản phẩm của con
người, cho nên con người có thể làm chủ được nó;
- Công nghệ là “kiến thức”, đề cập tới công nghệ không nhất thiết phải
nhìn thấy được và nhấn mạnh rằng các công nghệ giống nhau thì chưa chắc đã
cho kết quả như nhau, vì thế muốn sử dụng công nghệ có hiệu quả thì nhất
thiết con người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập nhật
thông tin;
- Công nghệ là “hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”, đề cập tới
công nghệ dù là kiến thức những vẫn được mua, bán, trao đổi trên thị trường
và tuân theo quy luật thị trường.
Việc thống nhất khái niệm về công nghệ là cần thiết, bởi vì không thể
thực hiện được các hoạt động liên quan tới công nghệ nếu chưa hiểu được
chúng là gì. Luật Khoa học và công nghệ (2000, sửa đổi 2013) và Luật
Chuyển giao công nghệ (2017) của Việt Nam có giải thích “Công nghệ là giải
pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. Đây là hành lang
pháp lý quan trọng cho các hoạt động về công nghệ ở Việt Nam. Ngoài ra,
một số thuật ngữ gắn với công nghệ cũng được Luật Chuyển giao công nghệ
giải thích: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng
và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ
mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Công nghệ mới là
công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam. Công nghệ tiên tiến là công
nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn trình độ công nghệ cùng loại
hiện có”.
Việc phân loại công nghệ mang tính tương đối do tính đa dạng của
công nghệ, tùy theo mục đích sử dụng công nghệ có thể được phân loại như
sau:
14
Thứ nhất, theo trình độ công nghệ sản xuất:
Trình độ công nghệ sản xuất là mức đạt được của công nghệ sản xuất
và được đánh giá theo bốn mức 16: tiên tiến, trung bình tiên tiến, trung bình
và lạc hậu. Trình độ công nghệ tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,65
trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ bằng hoặc trên 75 điểm.
Trình độ công nghệ trung bình tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,5
trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 60 điểm đến dưới 75
điểm. Trình độ công nghệ trung bình: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,3 trở
lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 35 điểm đến dưới 60 điểm.
Trình độ công nghệ lạc hậu: có hệ số đóng góp công nghệ nhỏ hơn 0,3 hoặc
tổng số điểm các thành phần công nghệ nhỏ hơn 35 điểm.
Về nguyên tắc đánh giá, công nghệ sản xuất được chia thành bốn
nhóm cơ bản: nhóm thiết bị công nghệ thể hiện trong máy móc, công cụ,
phương tiện viết tắt là T (Technoware); nhóm nhân lực thể hiện trong năng
lực tiếp thu kỹ thuật công nghệ phục vụ sản xuất viết tắt là H (Humanware);
nhóm thông tin thể hiện trong các tài liệu, dữ liệu thông tin viết tắt là I
(Infoware); nhóm tổ chức, quản lý thể hiện trong công tác tổ chức, quản lý
viết tắt là O (Orgaware). Sử dụng thang điểm chung (100 điểm) để đưa về
cùng một mặt bằng đánh giá, sau đó căn cứ vào tổng số điểm đạt được của các
tiêu chí để phân loại trình độ công nghệ.
Thứ hai, theo hệ thống ngành kinh tế:
Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam gồm 5 cấp 9: Ngành cấp 1
gồm 21 ngành được mã hóa theo bảng chữ cái lần lượt từ A đến U; ngành cấp
2 gồm 88 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng hai số theo từng ngành cấp 1
tương ứng; ngành cấp 3 gồm 242 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng ba số
theo từng ngành cấp 2 tương ứng; ngành cấp 4 gồm 437 ngành, mỗi ngành
được mã hóa bằng bốn số theo từng ngành cấp 3 tương ứng; ngành cấp 5 gồm
15
642 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng năm số theo từng ngành cấp 4
tương ứng.
Tùy theo ngành kinh tế ta lại có các loại công nghệ tương ứng. Ví dụ
theo nhóm ngành kinh tế cấp 1 thì có công nghệ nông nghiệp, lâm nghiệp,
thủy sản, khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ sản xuất và
phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí,...
Thứ ba, theo sản phẩm tạo ra: mỗi một loại sản phẩm tạo ra lại tương
ứng với một loại công nghệ. Ví dụ: công nghệ xi măng, công nghệ thông tin,
công nghệ ô tô, công nghệ bán dẫn.
Thứ tư, theo quan điểm môi trường: có các loại công nghệ như công
nghệ ô nhiễm, công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường, công
nghệ không chất thải, công nghệ sạch và công nghệ sạch hơn,...
Thứ năm, theo đặc thù công nghệ: có công nghệ phần cứng và công
nghệ phần mềm.
Thứ sáu, theo đầu ra công nghệ: có công nghệ sản phẩm và công nghệ
quá trình.
Ngoài ra, có thể phân chia công nghệ thành: công nghệ khuyến khích
chuyển giao, công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao.
Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc) thì
chuyển giao công nghệ được hiểu là quá trình truyền bá công nghệ từ nước
này qua nước khác ngoài nước sản sinh ra nó hay nói cách khác đó là quá
trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới. Quá trình này bao gồm những
công việc sau đây:
- Chuyển giao những phương pháp nguyên tắc, nguyên lý của công
nghệ đó.
- Chuyển giao những bí quyết và thông tin có liên quan.
- Chuyển giao máy móc trang thiết bị.
16
- Chuyển giao những hiểu biết thông qua đào tạo đội ngũ công nhân
lành nghề nắm vững về công nghệ được chuyển giao.
- Truyền bá về thị trường nhất là thị trường xuất khẩu.
Còn việc chuyển và nhận công nghệ giữa các đơn vị các khu vực kinh
tế và địa lý trong một quốc gia thì được gọi là hỗ trợ công nghệ, giúp đỡ công
nghệ hay phát triển công nghệ sở tại.
Chuyển giao công nghệ (CGCN) là chuyển giao quyền sở hữu hoặc
quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN
sang bên nhận công nghệ. Còn hoạt động CGCN bao gồm CGCN và dịch vụ
CGCN.
Dịch vụ CGCN bao gồm:
- Môi giới chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ bên có công
nghệ, bên cần công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng CGCN.
- Tư vấn chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ các bên trong
việc lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng CGCN.
- Đánh giá công nghệ: là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả
kinh tế và tác động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ.
- Định giá công nghệ: là hoạt động xác định giá công nghệ.
- Giám định công nghệ: là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu
của công nghệ đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được
quy định trong hợp đồng CGCN.
- Xúc tiến CGCN: là hoạt động thúc đẩy, tạo và tìm kiếm cơ hội
chuyển giao công nghệ, cung ứng dịch vụ quảng cáo, trưng bày, giới thiệu
công nghệ, tổ chức chợ, hội chợ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch
công nghệ.
Nhu cầu trao đổi, mua bán công nghệ đã hình thành nên thị trường
công nghệ rất sôi động kéo theo đó là sự xuất hiện của các tổ chức hoạt động
chuyển giao công nghệ với những dịch vụ CGCN góp phần đưa công nghệ từ
17
bên bán và bên mua được thuận lợi và dễ dàng hơn. Những tổ chức này được
gọi chung là tổ chức môi giới công nghệ hay tổ chức trung gian CGCN. Và
trên thế giới đã có rất nhiều tổ chức môi giới công nghệ phát triển và cũng
khẳng định được tên tuổi của mình, đồng thời góp phần làm đa dạng hóa thị
trường công nghệ thế giới.
Nội dung hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ
gồm 17: (1) Tìm kiếm đối tác cung cấp công nghệ và xem xét, đánh giá khả
năng thương mại hoá công nghệ. (2) Xem xét năng lực tiếp nhận công nghệ
của tổ chức, cá nhân có nhu cầu tư vấn chuyển giao công nghệ. (3) Tìm kiếm,
xem xét và lựa chọn công nghệ được chuyển giao phù hợp với các quy định
của pháp luật và các cơ chế chính sách ưu tiên, thúc đẩy, khuyến khích hoạt
động chuyển giao công nghệ. (4) Xem xét tính phù hợp của sản phẩm do công
nghệ tạo ra trên cơ sở: Đánh giá các khả năng, yếu tố về thị trường; Các tiêu
chuẩn, chất lượng của sản phẩm; Hiệu quả kinh tế - xã hội và phát triển bền
vững. (5) Hỗ trợ việc lập, soạn thảo dự án đầu tư công nghệ và thiết bị, phân
tích, tính toán quy mô sản xuất, giá thành công nghệ, cung cấp, lắp đặt thiết
bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu và các chi phí liên quan. (6) Thay mặt các bên
chuyển giao công nghệ chuẩn bị hồ sơ và đăng ký Hợp đồng chuyển giao
công nghệ. (7) Giám sát, đánh giá quá trình đàm phán, soạn thảo, phương
thức, ký kết và hỗ trợ thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. (8) Các nội
dung tư vấn khác về hoạt động chuyển giao công nghệ.
1.1.2. Cơ sở lý luận về định giá công nghệ và tổ chức định giá công nghệ
1.1.2.1. Khái niệm về định giá công nghệ
Khi nghiên cứu về định giá công nghệ trên thế giới, các học giả đã đưa
ra nhiều khái niệm khác nhau về định giá công nghệ. Theo O. Spasic (2013),
chuyên gia của WIPO: “Định giá công nghệ là quá trình xác định và đo lường
lợi nhuận tài chính và những rủi ro của công nghệ trong một hoàn cảnh cụ
thể” 3. Theo quan điểm này, rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng cần
18
xem xét trong định giá, đặc biệt trong giai đoạn hình thành công nghệ nhân tố
thời gian và kinh phí đầu tư là nhân tố quyết định, cụ thể: Về thời gian, cần
bao nhiêu thời gian để đưa công nghệ ra thị trường (thương mại hóa)? Đôi khi
công nghệ đột phá lại là “quá sớm” đối với thị trường. Về kinh phí, chúng ta
cần đầu tư thêm bao nhiêu nữa?. Như vậy, nếu một công nghệ càng cần nhiều
thời gian và tiền bạc để đưa ra thị trường (thương mại hóa) thì càng ít giá trị.
Theo một nghiên cứu của Yiche Grace Chen, Đại học Yuan –Ze y, Đài
Loan – Trung Quốc thì: “Định giá công nghệ là việc định giá đặc tính kỹ
thuật được đánh giá bởi những người mua hoặc những người bán hàng cho
giá trị đích thực của nó.” 8 Nhiệm vụ của định giá công nghệ là xác định lợi
ích kinh tế tối đa của công nghệ qua việc sử dụng các thông tin hiệu quả cũng
như sử dụng các phương pháp định giá phù hợp.
Tóm lại, có thể hiểu định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của
công nghệ.
Về vị trí, vai trò của Tổ chức định giá công nghệ: Tổ chức định giá
công nghệ là tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ có thực hiện hoạt động
dịch vụ định giá công nghệ. Như vậy, có thể thấy được vai trò rất quan trọng
của Tổ chức định giá công nghệ, với vai trò như một tổ chức trung gian trong
thị trường khoa học và công nghệ. Các tổ chức này góp phần thúc đẩy và đưa
công nghệ từ bên bán đến bên mua được thuận lợi hơn.
1.1.2.2. Nội dung và phương pháp định giá công nghệ của các tổ chức định
giá công nghệ
Nội dung hoạt động của các tổ chức định giá gồm 18: Khi định giá
công nghệ, cần xem xét công nghệ theo các nội dung cơ bản sau: (1) Đặc tính
cơ bản của công nghệ. (2) Tính ưu việt của công nghệ khi sử dụng. (3) Những
vấn đề liên quan khác khi sử dụng công nghệ: Phạm vi chuyển giao công
nghệ, tính hợp lý khi sử dụng nguyên vật liệu có sẵn trong nước, tại địa
phương khi áp dụng công nghệ. (4) Khi định giá các công nghệ trong từng
19
ngành hoặc nhóm ngành cụ thể có thể xem xét thêm các nội dung khác phù
hợp với đặc thù của ngành hoặc nhóm ngành đó.
Về phương pháp định giá công nghệ, việc định giá công nghệ dựa trên
03 cách tiếp cận chủ yếu được áp dụng là: tiếp cận chi phí; tiếp cận thị trường
và tiếp cận thu nhập.
Phương pháp thị trường:
Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp thị trường như sau:
- Xác định mức giá giao dịch, giá niêm yết hoặc giá chào bán của ít nhất
03 công nghệ so sánh đã được giao dịch thành công hoặc đang được mua, bán
trên thị trường vào thời điểm định giá trên cơ sở các thông tin, dữ liệu trong
hồ sơ định giá.
- Lựa chọn đơn vị so sánh chuẩn và xây dựng bảng phân tích, so sánh đối
với mỗi đơn vị so sánh chuẩn.
- Phân tích, xác định các yếu tố khác biệt giữa công nghệ so sánh và
công nghệ cần định giá bằng kỹ thuật phân tích định lượng (xác định mức
điều chỉnh là giá trị tuyệt đối hoặc tỷ lệ phần trăm) hoặc kỹ thuật phân tích
định tính (xác định kết quả điều chỉnh là dãy số lớn hơn – có dấu điều chỉnh
là âm hoặc nhỏ hơn – có dấu điều chỉnh là dương).
- Điều chỉnh mức giá của các công nghệ so sánh căn cứ vào mức độ
chênh lệch của các yếu tố so sánh định lượng hoặc các yếu tố so sánh định
tính bằng kỹ thuật lập bảng. (Việc điều chỉnh mức giá của các công nghệ so
sánh căn cứ vào mức độ chênh lệch của các yếu tố so sánh định tính được
thực hiện theo nguyên tắc sau: những yếu tố thuộc công nghệ so sánh kém
hơn với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh tăng mức giá tính theo đơn vị
chuẩn của công nghệ so sánh (cộng); những yếu tố thuộc công nghệ so sánh
vượt trội hơn so với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh giảm mức giá tính
theo đơn vị chuẩn của công nghệ so sánh (trừ); những yếu tố thuộc công nghệ
so sánh giống với công nghệ cần định giá thì giữ nguyên mức giá của công
20
nghệ so sánh (không điều chỉnh) và theo phương thức sau: Điều chỉnh theo số
tuyệt đối đối với chênh lệch các yếu tố so sánh định lượng: những yếu tố nào
liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân – kết quả thì nhân với nhau;
những yếu tố nào cùng ảnh hưởng đến giá trị công nghệ thì cộng với nhau,
hoặc điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm đối với chênh lệch các yếu tố so sánh
định tính: những yếu tố nào liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân –
kết quả thì nhân với nhau; những yếu tố liên quan đến công nghệ có quan hệ
tương tác thì cộng với nhau).
- Xác định giá trị thị trường của công nghệ trên cơ sở các mức giá chỉ
dẫn: Giá trị thị trường của công nghệ được xác định bằng bình quân các mức
giá điều chỉnh của các công nghệ so sánh.
Phương pháp chi phí
Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp chi phí như sau:
Xác định chi phí tái tạo (CRN) hoặc chi phí thay thế (COR):
Chi phí tái tạo được xác định bằng tổng chi phí trực tiếp, chi phí gián
tiếp và các chi phí khác. Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc xác định
các chi phí nói trên gồm có:
- Các khoản chi phí trực tiếp:
+) Chi phí cho đơn đăng ký công nghệ như chi phí nộp đơn, thẩm định,
cấp bằng độc quyền, kể cả chi phí dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật sư, đại
diện;
+) Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền công nghệ;
+) Chi phí bảo vệ quyền đối với công nghệ;
+) Các chi phí trực tiếp khác liên quan đến công nghệ.
- Các khoản chi phí gián tiếp:
+) Chi phí nghiên cứu và triển khai, kể cả chi phí cho nhân lực, nguyên
vật liệu đầu vào, thiết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá trình thử nghiệm, thông
tin, dữ liệu, năng lượng;
21
+) Chi phí sản xuất, tiếp thị, bao gồm chi phí phát triển máy móc, công cụ
sản xuất, chi phí sản xuất ban đầu, chi phí phát triển sản xuất, chi phí đào tạo
nhân lực, chi phí công bố;
+) Chi phí quản trị công nghệ;
+) Các chi phí gián tiếp khác.
- Các khoản chi khác:
+) Lợi nhuận;
+) Các khoản thuế, phí phải nộp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ theo
quy định của pháp luật
Xác định mức hao mòn của công nghệ:
Mức hao mòn của công nghệ vào thời điểm định giá bằng tổng mức hao
mòn tự nhiên, mức hao mòn chức năng (nếu có) và mức hao mòn kinh tế (nếu
có), trong đó:
- Mức hao mòn tự nhiên (PD) vào thời điểm định giá được xác định căn
cứ vào tuổi đời hiệu quả và tuổi đời kinh tế của công nghệ theo công
thức sau:
- Mức hao mòn chức năng (FO) được xác định căn cứ vào chi phí để
khắc phục sự lỗi thời công nghệ, như chi phí nghiên cứu đổi mới, cải
tiến công nghệ; hoặc chi phí li-xăng chéo; hoặc mức giảm giá nhằm
kích cầu đối với sáng chế…
- Mức hao mòn kinh tế (EO) được xác định căn cứ vào mức giảm giá
công nghệ do chịu sự tác động trực tiếp của tình hình thị trường (lạm
phát, quy định hạn chế của Chính phủ, khả năng thanh toán của xã
hội…).
Công thức xác định giá trị của công nghệ:
V = CRN – (PD+FO+EO), hoặc
22
V = COR – (PD+FO+EO)
Trong đó:
V là giá trị của công nghệ
CRN là chi phí tái tạo
COR là chi phí thay thế
PD là mức hao mòn tự nhiên
FO là mức hao mòn chức năng
EO là mức hao mòn kinh tế.
Phương pháp thu nhập
Trước hết, cần xác định các điều kiện của quá trình định giá, bao gồm:
- Một công nghệ có giá trị vì có khả năng tạo ra thu nhập cho chủ sở hữu
công nghệ. Chính vì vậy, giá trị của công nghệ và thu nhập từ công
nghệ có mối quan hệ trực tiếp: nếu những yếu tố khác không đổi, thu
nhập từ công nghệ càng cao thì giá trị của công nghệ càng lớn;
- Giá trị thị trường của một công nghệ bằng với giá trị hiện tại (giá trị tại
thời điểm định giá) của các khoản thu nhập ròng trong tương lai do
công nghệ tạo ra;
- Các điều kiện, giả thiết khác căn cứ vào những thông tin, dữ liệu được
cung cấp trong Hồ sơ định giá.
Áp dụng kỹ thuật dòng tiền chiết khấu để tính toán giá trị của công nghệ như
sau:
- Xác định doanh thu (Ri) trực tiếp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ
trong mỗi giai đoạn (tính theo năm).
Doanh thu trực tiếp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ trong mỗi giai
đoạn được xác định là lượng doanh thu chỉ có được nhờ sự có mặt của công
nghệ trong sản phẩm tiêu thụ. Trong trường hợp công nghệ là yếu tố duy nhất
quyết định doanh thu của sản phẩm thì Ri chính là toàn bộ doanh thu của sản
phẩm. Trong trường hợp công nghệ chỉ là một trong các yếu tố quyết định
23
doanh thu của sản phẩm, thì phải tiến hành bóc tách lượng doanh thu từ công
nghệ khỏi tổng doanh thu từ tất cả các yếu tố đó. Các yếu tố khác quyết định
doanh thu của sản phẩm nói trên bao gồm các tài sản vô hình như nhãn hiệu,
kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, tên thương mại, uy tín, danh tiếng
của doanh nghiệp… Lượng doanh thu trực tiếp Ri từ công nghệ trong trường
hợp này được xác định như sau:
Doanh thu trực tiếp từ công nghệ theo từng giai đoạn được xác định
bằng mức chênh lệch doanh thu của sản phẩm trước khi có mặt và sau khi có
mặt công nghệ trong sản phẩm, chẳng hạn để tính toán doanh thu trực tiếp từ
công nghệ của một doanh nghiệp, nếu công nghệ là sự đổi mới (cải tiến) sản
phẩm cũ thì mức chênh lệch nói trên bằng hiệu số giữa doanh thu của sản
phẩm mới (mang công nghệ) và doanh thu của sản phẩm cũ của doanh nghiệp
đó, hoặc hiệu số giữa doanh thu của sản phẩm chứa công nghệ mới và doanh
thu của sản phẩm cùng loại (của doanh nghiệp khác) chứa đựng công nghệ lỗi
thời hơn so với công nghệ. Doanh thu trực tiếp từ công nghệ cũng có thể được
xác định bằng mức phí li-xăng đối với công nghệ hoặc đối với công nghệ so
sánh tương đương.
Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc ước tính doanh thu trực
tiếp từ công nghệ gồm:
+) Doanh thu ước tính hàng năm của sản phẩm là công nghệ; hoặc đơn
giá và số lượng sản phẩm ước tính được tiêu thụ hàng năm (trong trường hợp
công nghệ là yếu tố duy nhất quyết định doanh thu của sản phẩm);
+) Doanh thu ước tính hàng năm của sản phẩm chứa công nghệ và
doanh thu ước tính cùng kỳ của sản phẩm không chứa công nghệ (trong
trường hợp công nghệ chỉ là một trong các yếu tố quyết định doanh thu của
sản phẩm);
24
+) Mức phí li-xăng hàng năm theo hợp đồng chuyển giao quyền sử
dụng công nghệ được định giá; hoặc mức phí li-xăng đối với công nghệ so
sánh tương đương trên thị trường.
Các thông tin, dữ liệu đầu vào nói trên có thể được thu thập từ các nguồn sau:
+) Báo cáo tài chính của doanh nghiệp (bao gồm số liệu ước tính doanh
thu hàng năm của doanh nghiệp);
+) Số liệu điều tra khảo sát thị trường, bao gồm số liệu về công nghệ so
sánh tương đương;
+) Dự báo doanh thu của chuyên gia kinh tế;
+) Báo cáo, quyết định … của cơ quan có thẩm quyền.
- Xác định chi phí (Ci) cho việc xây dựng, phát triển, sử dụng và khai
thác công nghệ trong mỗi giai đoạn (tính theo năm).
Chi phí cho việc xây dựng, phát triển, sử dụng và khai thác công nghệ
trong mỗi giai đoạn được ước tính bằng tổng chi phí trực tiếp và chi phí gián
tiếp, trong đó chi phí trực tiếp gồm có các khoản chi phí cố định cho công
nghệ không phụ thuộc vào việc công nghệ có được sử dụng, khai thác hay
không, chi phí gián tiếp gồm có các khoản chi phí biến đổi tỷ lệ với mức độ
sử dụng, khai thác công nghệ.
Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc xác định chi phí cho công
nghệ gồm:
+) Các khoản chi phí trực tiếp được ước tính hàng năm:
 Chi phí cho đơn đăng ký công nghệ (kể cả chi phí nộp đơn, thẩm định,
cấp bằng độc quyền, dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật sư, đại diện);
 Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền công nghệ;
 Chi phí bảo vệ quyền đối với công nghệ, kể cả chi phí giám định…
25
 Các chi phí trực tiếp khác như: chi phí quảng cáo, chào hàng, chi phí cơ
hội tính theo lãi suất vốn đầu tư, chi phí tiền vay ngân hàng theo mức
lãi suất cho vay trung bình của ngân hàng…
+) Các khoản chi phí gián tiếp được ước tính hàng năm:
 Chi phí nghiên cứu và phát triển (kể cả chi phí cho nhân lực, nguồn
cung cấp đầu vào, thiết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá trình thử nghiệm,
thông tin, dữ liệu và năng lượng);
 Chi phí sản xuất, tiếp thị (kể các chi phí mua sắm máy móc, công cụ
sản xuất, chi phí sản xuất ban đầu, chi phí phát triển sản xuất, chi phí
đào tạo nhân lực);
 Chi phí mua công nghệ theo li-xăng chéo…
Các thông tin, dữ liệu đầu vào nói trên có thể được thu thập từ các nguồn sau:
+) Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm số liệu ước tính chi phí trực
tiếp và gián tiếp hàng năm của doanh nghiệp;
+) Số liệu điều tra, khảo sát thị trường bao gồm số liệu về công nghệ so sánh
tương đương;
+) Dự báo chi phí của chuyên gia kinh tế;
+) Báo cáo, quyết định… của cơ quan có thẩm quyền.
- Xác định thu nhập ròng (dòng tiền) từ tổng doanh thu và tổng chi phí
theo công thức sau:
CFi=Ri-Ci
Trong đó:
CFi là thu nhập ròng giai đoạn (năm) thứ i
Ri là doanh thu từ công nghệ giai đoạn (năm) thứ i
Ci là chi phí đầu tư cho công nghệ giai đoạn (năm) thứ i
- Xác định tỷ suất chiết khấu (r) theo một trong các cách sau:
26
Cách 1: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng tổng các yếu tố cấu thành
sau: tỷ suất phi rủi ro (là tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không
rủi ro, được tính bằng lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn từ 10
năm trở nên ở thời điểm gần nhất với thời điểm định giá) + tỷ giá hối đoái+ tỷ
lệ lạm phát (trượt giá) kỳ vọng dài hạn (hoặc ngắn hạn);
Cách 2: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng bình quân gia quyền của các
lãi suất từ các nguồn huy động vốn khác nhau đầu tư vào công nghệ (ví dụ:
Lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư + lãi suất cho vay của ngân hàng + tỷ suất thu
hồi vốn); hoặc bằng chi phí vốn/tổng vốn đầu tư cho công nghệ;
Cách 3: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng bình quân các tỷ suất chiết
khấu của các công nghệ so sánh tương đương trên thị trường.
- Xác định tuổi đời kinh tế của công nghệ (n):
Tuổi đời kinh tế của công nghệ được xác định bằng số năm kỳ vọng mà công
nghệ có khả năng tạo ra thu nhập ròng cho chủ sở hữu công nghệ. Các thông
tin, dữ liệu phục vụ việc xác định tuổi đời kinh tế của công nghệ gồm:
+) Thời hạn bảo hộ công nghệ do pháp luật quy định (hoặc thời hạn hiệu lực
của bằng độc quyền công nghệ);
+) Thời hạn thỏa thuận (hợp đồng) li-xăng công nghệ;
+) Số liệu thống kê, điều tra, khảo sát bao gồm số liệu về công nghệ so sánh
tương đương;
+) Dự báo của chính chủ sở hữu công nghệ.
- Xác định giá trị hiện tại của công nghệ (PV) theo công thức sau:
Trong đó:
PV là giá trị hiện tại của công nghệ
CFt là thu nhập ròng năm thứ t từ công nghệ
27
n là tuổi đời (số năm) kinh tế của công nghệ
r là tỷ suất chiết khấu
1.2. Thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ tại một số nƣớc trên
thế giới
1.2.1. Tại Trung Quốc
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, để đáp ứng các yêu cầu của cải
cách, mở cửa với thế giới bên ngoài và thúc đẩy sự phát triển của khoa học,
công nghệ, kinh tế, văn hoá, xã hội, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Trung Quốc
đã được ban hành, tạo môi trường pháp lý vững chắc cho xúc tiến định giá
công nghệ. Trong đó, Luật Thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của
Trung Quốc được ban hành vào năm 1996. Luật này quy định chi tiết quyền
và nghĩa vụ của Chính phủ, chủ sở hữu kết quả KH&CN, doanh nghiệp, cơ
quan trung gian tham gia kinh doanh môi giới và các tổ chức đầu tư tài chính
trong kết nối với việc thương mại hoá công nghệ. Song song với các cơ chế,
chính sách hỗ trợ thúc đẩy hoạt động định giá công nghệ đã được hình thành
như: Hội chợ công nghệ, chợ công nghệ, sở giao dịch cổ phiếu công nghệ,
vườn ươm công nghệ, công viên khoa học công nghệ của các trường đại học,
vườn ươm doanh nghiệp, trung tâm xúc tiến sức sản xuất, trung tâm chuyển
giao công nghệ… Đây là những tổ chức tích hợp các nguồn lực KH&CN,
cung cấp và tham gia vào việc phát triển và phổ biến các thành tựu KH&CN
trong nước và thế giới; thúc đẩy và ươm tạo thành tựu KH&CN có tiềm năng
thị trường; tận dụng lợi thế của các trường đại học, đồng thời kết hợp với
doanh nghiệp cùng tham gia vào định giá công nghệ quốc tế và đồng hoá tối
ưu các công nghệ được giới thiệu, phát triển và đổi mới; cung cấp cho doanh
nghiệp những thông tin về nguồn lực và công nghệ.
Trong các mô hình xúc tiến định giá công nghệ xuất sắc của Trung
Quốc phải kể đến mô hình các sàn giao dịch công nghệ, tiêu biểu là mô hình
28
sàn giao dịch Thượng Hải (STTE) – mô hình được đánh giá là thành công
nhất ở Châu Á trong những năm qua. STTE là sàn giao dịch công nghệ đầu
tiên và lớn nhất của Trung Quốc, được chính quyền thành phố Thượng Hải và
Bộ KH&CN Trung Quốc thành lập vào năm 1993. Đây là đơn vị công ích,
phi lợi nhuận của nhà nước, hoạt động theo mô hình tương tự như một đơn vị
sự nghiệp có thu ở Việt Nam. STTE có chức năng cung cấp thông tin về công
nghệ. Các hoạt động tư vấn, định giá của STTE được thực hiện ở góc độ:
Nghiên cứu thị trường; liên kết các đối tác, dịch vụ đầu tư tài chính; theo đuổi
các mục đích đầu tư. Các hoạt động trên được thực hiện bởi một đội ngũ nhân
viên chuyên nghiệp, có trình độ cao, các nhà môi giới công nghệ chuyên
nghiệp và các chuyên gia.
Một số kết quả nổi bật mà STTE đã cung cấp cho các khách hàng trong
và ngoài nước thời gian qua phải kể đến là: hệ thống định vị tàu thuyền tự
động cho KTTC; công nghệ viễn thông cho Công ty GISsoft của Hàn Quốc;
hệ thống chẩn đoán trong ống nghiệm cho TAKES của Phần Lan; công nghệ
bể chứa xoay tròn, công nghệ bạc nano…
Tại Trung Quốc, cá nhân, tổ chức hoạt động định giá công nghệ thường
phải được cấp giấy phép. Điều 18 của Luật Thúc đẩy chuyển hoá thành tựu
KH&CN của Trung Quốc quy định: Cơ quan định giá công nghệ khi hoạt
động phải xin giấy phép kinh doanh theo quy định liên quan của Nhà nước;
cán bộ quản lý nghiệp vụ trong cơ quan này phải xin giấy chứng nhận tư cách
hành nghề theo quy định liên quan của Nhà nước.
Ngoài ra, tại Trung Quốc còn có những quy định cụ thể về năng lực,
phẩm chất mà các cá nhân, tổ chức định giá công nghệ cần đáp ứng như: Tiêu
chuẩn cán bộ làm công tác định giá công nghệ là phải tốt nghiệp đại học trở
lên và được đào tạo nghề theo ba cấp. Các chức danh này sau khi tốt nghiệp
được cấp chứng chỉ hành nghề định giá công nghệ.
29
Một trong những điểm nổi bật của quản lý hoạt động định giá công
nghệ ở các nước là nhấn mạnh đến hợp đồng định giá công nghệ. Chính phủ
Trung Quốc quy định rõ tiến hành giao dịch công nghệ bắt buộc phải hợp
đồng dưới hình thức văn bản (không thể thoả thuận bằng lời). Lý do được nêu
ra trong: “Hướng dẫn một số chính sách cụ thể đối với thị trường công nghệ”
của Uỷ ban KH&KT nhà nước là:
- Giao dịch ở đây liên quan đến quyền lợi công nghệ và lợi ích kinh tế
của người đương sự, không ít giao dịch công nghệ có liên quan đến nhiều vấn
đề phức tạp như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phân chia quyền lợi chuyển
giao công nghệ, trách nhiệm rủi ro trong nghiên cứu và triển khai, giữ bí mật
thông tin công nghệ, trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm về quyền lợi
trong công nghệ…
- Liên quan đến các chính sách ưu đãi của Nhà nước trên các mặt tài
chính, tín dụng, thuế, khen thưởng…
- Công nghệ là hàng hóa mang hình thái tri thức vô hình, hợp đồng công
nghệ có nhiều khoản mục, thời hạn thực hiện tương đối lâu dài, cách tính về
giá cả, thù lao cũng không giống với hợp đồng thông thường.
1.2.2. Tại Hàn Quốc
Trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã tập trung khai thác các kết
quả nghiên cứu mà chủ yếu tập trung vào các hoạt động định giá công nghệ.
Các chính sách chính về định giá công nghệ từ nhà nước vào tư nhân chỉ thực
sự bắt đầu vào những năm 1990 vì khi đó chính sách khoa học và công nghệ
của Hàn Quốc thực sự tập trung vào phát triển công nghệ (Ví dụ như chương
trình Nghiên cứu và phát triển đặc biệt, một trong những chương trình nghiên
cứu phát triển cấp quốc gia, đã đầu tư hết 4,7 tỷ USD cho khoảng 19 000 dự
án trong khoảng thời gian từ năm 1982-2000. Tuy thế, chỉ có 4,8% dự án
được sử dụng và chỉ có 1% ngân sách Nghiên cứu phát triển được hoàn trả lại
cho nhà nước). Đầu những năm 1990, nhận thấy tầm quan trọng của việc
30
triển khai các kết quả nghiên cứu nhà nước, chính phủ Hàn Quốc bắt đầu
thực hiện những nỗ lực to lớn để tăng tốc quá trình thương mại hóa công
nghệ được phát triển trong các cơ sở nghiên cứu quốc gia bao gồm các viện
nghiên cứu và các trường đại học. Một chuỗi các chính sách tiền đề cho
chuyển giao công nghệ đã cải thiện được cơ sở hạ tầng về chuyển giao và
thương mại hóa công nghệ.
Trong những năm gần đây, phát triển và khai thác khoa học và công
nghệ được xem như là động lực chính cho sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc.
Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1993-1997 đã làm nổi bật vai trò của chính
phủ trong việc thúc đẩy hỗ trợ hoạt động định giá công nghệ từ các Viện
nghiên cứu nhà nước vào các doanh nghiệp công nghiệp, nhờ đó nâng cao
được tính cạnh tranh kinh tế và công nghệ của Hàn Quốc. Kể từ cuộc khủng
hoảng tài chính Hàn Quốc năm 1997, khi việc định giá công nghệ bắt đầu, rất
nhiều công nghệ thương mại được phát triển bởi các viện nghiên cứu được
xem như là giải pháp chính cho việc vực dậy sự phát triển của nền kinh tế.
Chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (được sửa đổi tháng 1
năm 1995) đã đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm ươm tạo công nghệ mà
trong đó các viện nghiên cứu nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ
thông qua việc cung cấp các nguồn đầu tư mạo hiểm, chuyên gia quản lý, bí
quyết công nghệ. Một trong những đặc trưng chính của chương trình này là
đẩy mạnh việc mở rộng và phổ biến công nghệ. Để cho chương trình này phù
hợp với các chính sách trong kế hoạch 5 năm và chương trình hành động năm
1997, chính phủ đã thay đổi một số chính sách nhằm đẩy mạnh hợp tác và
liên kết giữa các viện trường và công nghiệp.
Trước khi xây dựng nền tảng thể chế và pháp luật ở quy mô quốc gia để
đẩy mạnh định giá công nghệ và thương mại hóa công nghệ từ nhà nước vào
tư nhân, mỗi viện nghiên cứu nhà nước phải tự tiến hành các hoạt động định
giá công nghệ độc lập. Tuy nhiên, một vài viện nghiên cứu đã cho hoạt động
31
các văn phòng ứng dụng công nghệ và một số văn phòng vẫn chưa hoạt động
do hạn chế về nhân lực và không đủ ngân sách. Sau khi ban hành chương
trình hành động năm 2000, sự phát triển của mạng lưới vùng và quốc gia đối
với định giá công nghệ bắt đầu trở nên thực sự rõ nét. Trung tâm chuyển giao
công nghệ Hàn Quốc KTTC có vai trò như là trung tâm định giá công nghệ
quy mô quốc gia và các viện nghiên cứu nhà nước tạo thành liên kết vùng cho
các văn phòng ứng dụng công nghệ cấp vùng và mạng lưới đẩy mạnh công
nghệ trong công nghiệp trong các trường đại học (UNITEF) để nâng cao năng
lực cho chính các viện nghiên cứu nhà nước về định giá công nghệ. Các viện
nghiên cứu của chính phủ đóng vai trò dẫn đầu trong liên kết văn phòng vùng
mà nhiệm vụ chính của các viện bao gồm nhận dạng các công nghệ tiềm năng
và cung cấp chúng cho các nhà công nghiệp. Mặt khác các giáo sư kỹ thuật
phụ trách mạng lưới UNITEF trong các hoạt động chính của mình sẽ cung
cấp các tư vấn hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để hiện thực hóa mục tiêu của chương trình hành động năm 2000,
Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc (KTTC) được thành lập tháng 4
năm 2000 như là một chính thể hợp pháp đặc biệt với kinh phí được cấp bởi
cả nhà nước và tư nhân. KTTC có nhiều nhiệm vụ cần thực hiện như: xây
dựng mạng lưới hỗ trợ trong và ngoài nước về định giá và thương mại hóa
công nghệ, nâng cao tính cạnh tranh trong toàn bộ ngành công nghiệp bằng
cách khởi động thị trường công nghệ. Mạng lưới hỗ trợ bao gồm mạng lưới
trong nước, các cơ quan định giá công nghệ, viện nghiên cứu công, các viện
nghiên cứu của Chính phủ, các trường đại học, các công ty, cá nhân và cả
mạng liên kết vùng (các văn phòng ứng dụng công nghệ với mạng lưới ngoài
nước mở rộng khắp châu Á, Thái Bình Dương, Mỹ và Châu Âu). KTTC
đóng vai trò môi giới chuyển giao công nghệ giữa người mua và người bán,
định giá công nghệ chuyển giao, đầu tư kinh phí cho việc thương mại hóa
bao gồm cả việc ươm tạo doanh nghiệp công nghệ (TBI) và Nghiên cứu phát
32
triển & kinh doanh (R&BD) và tích lũy cơ sở dữ liệu liên quan đến công
nghệ (Ngân hàng dữ liệu công nghệ quốc gia, dữ liệu về công ty, dữ liệu về
các chuyên gia…). Tất cả các kết quả R&D công đều được lưu lại Ngân hàng
dữ liệu quốc gia theo yêu cầu của chương trình hành động 2000.
KTTC đang thực hiện 4 chặng của chương trình thương mại hóa công
nghệ. Các chặng này lần lượt theo thứ tự: cung cấp công nghệ để thương mại
hóa, kiểm tra công nghệ để thương mại hóa, thử nghiệm thương mại hóa
công nghệ và đầu tư công nghệ để thương mại hóa. Chiến lược của KTTC và
phương pháp tiếp cận bao gồm: KTTC sử dụng một loạt các phương pháp
chuyển giao công nghệ và thương mại hóa khác nhau, từ cấp phép, mua hàng
bằng cổ phiếu, trao đổi học thuật và cơ sở dữ liệu nghiên cứu. Chiến lược
toàn cầu hóa công nghệ của KTTC là tận dụng mọi cơ hội để cải thiện cơ sở
hạ tầng công nghệ của Hàn Quốc và cạnh tranh toàn cầu.
Dịch vụ của KTTC :
Chuyển giao công nghệ: Tìm kiếm đối tác, KTTC xem xét những công
nghệ để bán và ước tính khả năng thương mại, xác định xu hướng thị trường
cho ngành công nghiệp và xác định cấp phép hoặc các đối tác có tiềm năng.
KTTC cung cấp hỗ trợ các giải đáp về những vấn đề trong hệ thống pháp luật
cũng như sự khó khăn trong việc đàm pháp, thỏa thuận hạn chế nguy cơ đổ
vỡ giao dịch công nghệ.
Dịch vụ định giá công nghệ: KTTC nghiên cứu tính khả thi về công
nghệ ở giai đoạn đầu thông qua thị trường, phân tích kỹ thuật và kinh tế, thực
hiện kinh doanh và định giá công nghệ.
Dịch vụ sáp nhập & mua lại: KTTC thúc đẩy sát nhập của các công ty
có liên quan dựa trên các yếu tố công nghệ, các dự án phòng thí nghiệm …để
tìm kiếm những đối tác thích hợp cho ký kết hợp đồng một cách dễ dàng.
Định giá công ty được chú trọng nhất trong các yếu tố phi tài chính của công
ty chẳng hạn như khả năng cạnh tranh công nghệ. Chỉ số cạnh tranh công
33
nghệ bao gồm khả năng của Giám đốc điều hành và Giám đốc công nghệ,
một phần đầu tư R&D của công ty, mức độ nguồn nhân lực công nghệ liên
quan đến chất lượng của tài sản trí tuệ và mức độ của các cơ sở nghiên cứu.
Tổ chức sức mạnh công nghệ trong công nghiệp các trường đại
học (UNITEF), như là một sự hợp tác phi lợi nhuận, được tổ chức bởi 570
giáo sư kỹ thuật từ khắp các trường đại học trên cả nước vào tháng 9 năm
1996 để xây dựng chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong
bộ phận nghiên cứu ở các trường đại học. UNITEF trở thành mô hình đầu
tiên về sự hợp tác giữa các trường đại học và khối công nghiệp và là hệ
thống Brain Pool System hình thành một cách tự nguyện đầu tiên.
UNITEF đang chủ yếu thực hiện chương trình giúp đỡ các doanh nghiệp
nhỏ và vừa giải quyết các vấn đề kỹ thuật vướng mắc. UNITEF cũng
thực hiện chương trình hỗ trợ định giá công nghệ từ nhà nước sang tư
nhân (UPTTS) được tài trợ bởi Bộ Năng lượng, Công nghiệp và Thương
mại (MOCIE) và chương trình hỗ trợ định giá công nghệ (TES). Chương
trình hỗ trợ định giá công nghệ TES thúc đẩy hợp tác và trao đổi giữa các
trường đại học và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình cũng cố gắng
để thiết lập sự tin tưởng giữa hai bên bằng việc giúp đỡ hết mình trong công
nghệ, nhân lực và thông tin cho việc nâng cao năng lực trong các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Để đạt được mục đích này, chương trình cung cấp và tư
vấn miễn phí về kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời
gian đầu và chỉ đòi hỏi chi phí khi công việc thành công. Có khoảng 2000
giáo sư từ 122 trường đại học tham gia vào chương trình này và họ được
phân ra thành 8 vùng trên cả nước. Chương trình hỗ trợ định giá công
nghệ từ nhà nước sang tư nhân (UPTTS), được bắt đầu vào năm 2000, tập
trung hỗ trợ các kết quả nghiên cứu xuất sắc từ các trường đại học bằng cách
tài trợ để tiếp tục phát triển kết quả nghiên cứu, nhờ đó mà các kết quả
nghiên cứu này có thể dễ dàng được thương mại hoá và chuyển giao cho
34
khu vực tư nhân. Chương trình này góp phần giảm thiểu rủi ro bằng công
nghệ có tiềm năng phát triển, xuất phát chủ yếu trong các doanh nghiệp tư
nhân với việc định giá các đặc tính thương mại trong mỗi nguyên mẫu từ
khi nghiên cứu cho đến thương mại hóa. Hơn nữa, chương trình hỗ trợ
định giá công nghệ (TES) hỗ trợ các nhiệm vụ định giá trên danh nghĩa là
tổ chức của chính phủ, tổ chức công và ngân hàng trong việc định giá các
dự án R&D, định giá công nghệ mới. Trong hầu hết các trường hợp,
chương trình đảm bảo sự công bằng và khách quan trong việc định giá; tên
người định giá được giữ kín. Cuối cùng, chương trình UNITEF dự kiến mở
rộng chương trình phát triển ra các trường đại học bên ngoài nước và các
doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tương lai.
1.2.3. Tại Cộng hòa Liên bang Đức
Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có nhiệm vụ chính là tìm
hiểu, phát triển khoa học và công nghệ có liên quan đến các mối quan hệ
trong hệ thống công nghệ như vấn đề về môi trường, kinh tế, xã hội, chính
trị... Đó là nghiên cứu về chính sách công nghệ, ảnh hưởng của công nghệ
đến hệ thống khoa học kỹ thuật, xã hội. Các nhiệm vụ này có liên quan
mật thiết đến nhau giữa các nhân tố: (1) giải quyết vấn đề trước khi đưa ra
hoạch định, chính sách mới, tri thức mới về công nghệ, (2) làm rõ tác động
đến kinh tế, xã hội, (3) phát triển những lợi thế hay ngăn ngừa rủi ro có thể
mang lại từ công nghệ (Quá trình dự báo công nghệ) và (4) phương pháp
khoa học và thông tin liên quan đến công nghệ. Các nhiệm vụ này có tác
động và điều chỉnh lẫn nhau trong suốt quá trình triển khai. Vì thế, các tổ
chức định giá công nghệ của Đức phải xem xét một cách tổng thể các mục
trong công tác định giá để có thể đưa ra được những tư vấn có lợi nhất đối
với cơ quan quản lý, nhà hoạch định chính sách. Khi các nhà hoạch định
chính sách đưa ra các chính sách mới thì các tổ chức định giá công nghệ
của Đức tiếp tục đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách và điều tiết các
35
mục tiêu còn lại. Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có tổng số 359 tổ
chức, trong đó 309 tổ chức hoạt động, 1667 dự án (cơ sở dữ liệu của ITAS
năm 1997). Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có thể kể đến như:
Viện công nghệ Karlsruhe (KIT), Viện định giá công nghệ và phân tích
hệ thống (ITAS), viện định giá công nghệ và nghiên cứu tương lai
(IZI)…
Ví dụ: Viện định giá công nghệ và phân tích hệ thống (ITAS) là tổ
chức lớn nhất và lâu đời trong lĩnh vực khoa học của Đức đối với định giá
công nghệ (TA) và phân tích hệ thống trong lý thuyết và thực hành. Mục
tiêu chủ yếu là nghiên cứu, tư vấn về chính sách công nghệ. ITAS được
phép tư vấn về chính sách dựa trên các nghiên cứu của mình cho các Quốc
Hội, Bộ, ngành, cơ quan… Ngoài ra, ITAS điều tra phát triển khoa học và
công nghệ và tập trung vào định giá tác động, miền ảnh hưởng có thể là có
lợi hoặc có hại đối với một công nghệ mới được tạo ra. ITAS phân tích và
định giá về sự phát triển kỹ thuật xã hội để cung cấp các lựa chọn, tạo lập
chính sách cho người ra quyết định. Nghiên cứu bao gồm các vấn đề kinh
tế, xã hội, chính trị, thể chế, văn hóa, sinh thái,…Vì thế, đội ngũ nghiên
cứu của ITAS bao gồm rất nhiều các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực
khác nhau. Với nguồn nhân lực trên 100 nhân viên nghiên cứu khoa học
chủ yếu là các nhà khoa học tự nhiên và kỹ sư còn lại là các nhà khoa học
thuộc các lĩnh vực khác về xã hội, văn hóa…
Năm 1990, ITAS thành lập Văn phòng Thẩm định Công nghệ
tại Bundestag Đức (TAB) có chức năng: (1) Phân tích tiềm năng của
phát triển khoa học và kỹ thuật mới, định giá công nghệ, tìm hiểu các tác
động của công nghệ đến xã hội, kinh tế và môi trường có liên quan, các
điều kiện pháp lý, kinh tế và xã hội của phát triển khoa học và công nghệ
và thực hiện để điều tra, (2) phân tích tác động tiềm năng toàn diện của
công nghệ hướng tới tương lai, (3) trên cơ sở đó để phát triển những hành
36
động thiết thực là tư vấn cho nhà hoạch định chính sách. Cùng với Nhóm
định giá công nghệ châu Âu (ETag) ITAS cũng được phối hợp một mạng
lưới châu Âu để tư vấn cho định giá tùy chọn khoa học công nghệ (STOA),
các tổ chức định giá công nghệ của Nghị viện châu Âu từ năm 2005.
Đặc trưng nghiên cứu của ITAS:
- Phù hợp cho các vấn đề nghiên cứu và thực hành: Với nghiên cứu
của mình, ITAS cần thiết phải tham khảo ý kiến về những tác động của
khoa học và công nghệ. Các kiến thức được phát triển trên nền của các
vấn đề xã hội, lý thuyết, và các quyết định sắp tới về công nghệ.
- Liên quan đến tương lai và sự phản ánh: Theo nguyên tắc cơ bản,
luôn luôn có những tiềm năng trong một cái mới. Vì thế, việc nghiên cứu,
dự báo tương lại cho mỗi một đối tượng nghiên cứu là điều rất cần thiết.
- Tính tiêu chuẩn và tính bền vững: ITAS tiếp cận vấn đề định giá
công nghệ theo phương pháp khoa học. Tiêu chuẩn về đạo đức, nguyên tắc
chung, phát triển bền vững các tiểu chuẩn như là một sự định hướng chung
trong công tác định giá.
- Cơ quan liên ngành: Phạm vi nhiệm vụ của ITAS yêu cầu một số
các cơ quan liên ngành, công dân.
37
Tiểu kết chƣơng 1
Trong Chương 1, luận văn đã hệ thống hóa khái niệm về công nghệ, cơ
sở lý luận về chuyển giao công nghệ, cơ sở lý luận về định giá công nghệ và
các tổ chức định giá công nghệ.
Tại Chương 1, luận văn cũng đã đi sâu tổng quan về tình hình thực tiễn
các tổ chức định giá công nghệ của các nước như Trung Quốc, tại Hàn Quốc
và tại Cộng hòa Liên bang Đức. Hệ thống khái niệm và cơ sở lý luận và thực
tiễn về các tổ chức định giá công nghệ được trình bày tại Chương 1 là nền
tảng lý thuyết để đánh giá, phân tích thực trạng về các tổ chức định giá công
nghệ tại Chương 2. Trên cơ sở đó để rút ra những phân tích, so sánh những
điểm tương đồng và khác biệt giữa các tổ chức này ở Việt Nam so với các
nước trên thế giới sẽ được trình bày tại các Chương tiếp theo.
38
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VỀ CÁC TỔ CHỨC
ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong thị trƣờng KH&CN
Việt Nam
2.1.1. Các chính sách, quy định của Nhà nước về hoạt động định giá công nghệ
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở nước ta, hiên nay đang có một số
chính sách liên quan đến hoạt động tư vấn định giá công nghệ, cụ thể là:
- Luật Chuyển giao công nghệ (Luật số 07/2017/QH 14 được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3
thông qua ngày 19/6/2017) quy định tại các Điều 43, Điều 45, Điều 48.
Nghị định số 76/NĐ-CP, ngày 15/5/2018, hướng dẫn chi tiết một số điều
của Luật Chuyển giao công nghệ.
- Luật Khoa học và Công nghệ (Luật số 29/2013/QH13 được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thông
qua ngày 18 tháng 6 năm 2013).
- Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH 11 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua
ngày 14/6/2005) quy định tại các Điều 150 đến Điều 154.
- Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11 được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 25/12/2001) quy định tại Điều 57.
- Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP
ngày 11/3/2018 hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Về quan điểm chung, các văn bản quy phạm pháp luật đó thể hiện
một số quan điểm và quy định sau:
39
- Nhà nước cam kết khuyến khích phát triển hoạt động tư vấn định
giá công nghệ.
- Về tổ chức, cá nhân kinh doanh tư vấn định giá công nghệ; Điều
kiện hoạt động (Điều 47, Điều 48 Luật chuyển giao công nghệ); Quyền
của tổ chức, cá nhân kinh doanh tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ
(Điều 46 của Luật chuyển giao công nghệ; Nghĩa vụ của các tổ chức, cá
nhân kinh doanh tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ (Điều 47 của
Luật chuyển giao công nghệ và Điều 81 của Luật Thương mại). Thông tư
số 31/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 về việc hướng dẫn nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức đánh giá, định giá công nghệ;
Thông tư số 08/2013/TT-BKHCN ngày 08/3/2013 về việc hướng dẫn nội
dung và phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công
nghệ.
- Nghĩa vụ người sử dụng môi giới, tư vấn nói chung (Điều 85 của
Luật Thương mại).
- Về khuyến khích dành riêng cho một số đối tượng đặc thù: Đối với
Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị
định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa).
2.1.2. Thực trạng về nhu cầu định giá công nghệ trong thị trường KH&CN
Việt Nam
Qua điều tra, khảo sát có thể thấy được thực tế rằng hoạt động định
giá công nghệ có nhu cầu khá lớn trong xã hội, tuy vậy dịch vụ này chưa
đáp ứng được nhu cầu, do vậy, hoạt động định giá công nghệ cần triển khai
mạnh mẽ hơn. Thực tế hoạt động của các tổ chức này còn rất sơ khai, số
lượng các đơn vị hoạt động mang tính chuyên nghiệp rất hiếm. Mặt khác,
các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm, chưa có thói quen thuê tư vấn
định giá công nghệ trong các khâu của quy trình CGCN, phần lớn chỉ tập
40
trung vào việc mua máy móc, thiết bị… Cùng với đó là nguồn cung công
nghệ chưa dồi dào, cung và cầu chưa gặp nhau. Chính vì những lý do trên đã
khiến hoạt động định giá công nghệ rất yếu, chỉ có khoảng 42% các tổ chức
có hoạt động định giá công nghệ có doanh thu từ hoạt động này và doanh
thu lại rất nhỏ, không bù đắp đủ chi phí khiến cho các tổ chức này phải
cung cấp thêm các dịch vụ khác để duy trì hoạt động (tư vấn công nghệ,
định giá nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp...).
Một vấn đề quan trọng làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của dịch
vụ này đó là hoạt động mua bán, giao dịch công nghệ thường xảy ra một
cách trực tiếp, không qua trung gian định giá công nghệ. Các tổ chức trung
gian, môi giới cần phát huy vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thông tin,
kết nối các bên cung cầu, hỗ trợ các hoạt động giao dịch công nghệ. Bên
cạnh sự hoạt động chính thức dưới sự quản lý của Nhà nước, hoạt động
mua bán giao dịch công nghệ còn hoạt động không chính thức, thiếu sự
kiểm soát của Nhà nước, sự kết nối, chia sẻ thông tin còn yếu và thiếu các
nhà tư vấn định giá công nghệ trình độ cao cũng làm giảm sức hút, lòng
tin của doanh nghiệp đối với hoạt động này.
Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong các viện nghiên cứu, trường
đại học
Các viện nghiên cứu và các trường đại học ở Việt Nam có quy
mô lực lượng R&D gần như nhau. Phần lớn các viện nghiên cứu và
triển khai quan trọng là các viện thuộc nhà nước. Viện lớn nhất là Viện Hàn
lâm KH&CN Việt Nam với 34 đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học (27
đơn vị do Thủ tướng Chính phủ thành lập và 07 đơn vị do Chủ tịch Viện
thành lập). Tính đến tháng 12/2013, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam có tổng số trên 4000 cán bộ, viên chức, trong đó có 2649 cán bộ
trong chỉ tiêu biên chế được giao; 44 GS, 161 PGS, 35 TSKH, 706 TS, 781
ThS và 794 cán bộ, viên chức có trình độ đại học. Hiện nay, Việt Nam có
41
khoảng 1.500 viện và trung tâm nghiên cứu trong tất cả các ngành kinh tế
với khoảng 2,6 triệu người tham gia nghiên cứu khoa học. Trong số đó, có
gần 60.000 người làm việc trực tiếp trong các viện nghiên cứu , các trường
đại học và các doanh nghiệp. Ngoài hai viện nghiên cứu lớn, còn có các tổ
chức khoa học trực thuộc các bộ và các tỉnh/thành phố. Những tổ chức
nghiên cứu này cũng nhận được nguồn vốn của Nhà nước thông qua các
bộ/các tỉnh của mình để tiến hành nghiên cứu và xử lý các vấn đề khoa học
công nghệ và chính sách trong các lĩnh vực liên quan tới các bộ chủ
quản/các tỉnh.
Các viện nghiên cứu và triển khai của nhà nước hoạt động tách biệt với
các chủ thể đổi mới khác. Các viện này ít có sự giao lưu, gắn kết và không
chia sẻ những vấn đề cần học hỏi và nghiên cứu với nhau và đặc biệt ít có
mối liên kết với các doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp không trực
thuộc cùng một cơ quan chủ quản. Chính vì vậy, hiện nay có sự bất cập
giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai với nhu cầu về công
nghệ của các doanh nghiệp. Nhu cầu về định giá công nghệ của các tổ chức
này về tiềm năng thì rất lớn nhưng thực tế triển khai hiện nay còn hạn chế.
Các doanh nghiệp không kỳ vọng nhiều lắm vào khả năng đổi mới công
nghệ của các viện nghiên cứu và triển khai. Theo số liệu điều tra 123 doanh
nghiệp năm 2003 cho thấy 84% ý tưởng đổi mới nảy sinh từ các hoạt động
của bản thân doanh nghiệp và khách hàng, chỉ có 10% là từ các viện nghiên
cứu và triển khai. Khoảng 60% doanh nghiệp không có liên hệ với các viện
nghiên cứu và triển khai 10.
42
Bảng 2. 1: Những bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển
khai với cầu về công nghệ của các doanh nghiệp
Các hoạt động khoa học và
công nghệ
Đánh giá của
doanh
nghiệp
Đánh giá của
viện nghiên
cứu
Khác biệt
R&D công nghiệp 6 1 -5
Thiết kế kỹ thuật và sản xuất
thiết bị
10 6 -4
Sản xuất công nghiệp thử
nghiệm
5 11 6
Thích ứng các thiết bị hiện có 11 8 -3
Điều chỉnh lại thiết kế sản
phẩm
8 7 -1
Cung cấp các dịch vụ phân tích,
thử nghiệm sản phẩm mẫu
1 4 3
Cung cấp các dịch vụ lắp đặt và
vận hành đối với thiết bị mới
2 10 8
Cung cấp các dịch vụ máy móc
và thiết bị công nghệ
3 9 6
Cung cấp đấu thầu mua sắm
thiết bị
9 3 -6
Cung cấp thông tin công nghệ 7 2 -5
Cung cấp dịch vụ đào tạo 4 5 1
Nguồn: Bạch Tân Sinh, Chuyển đổi hệ thống quốc gia về đối mới của Việt Nam:
Trường hợp học hỏi về chính sách và tổ chức tại Viện Nghiên cứu và triển khai
công nghệ, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN quốc gia (NISTPASS).
Mặc dù đào tạo vẫn chiếm ưu thế trong các hoạt động của các trường đại
học, nhưng công tác nghiên cứu cũng đã dần được đưa vào. Hiện tại,
khoảng 4% chi khoa học và công nghệ của nhà nước là từ các trường đại
học, chiếm gần 15,3% chi nghiên cứu triển khai của các trường đại học.
43
Nguồn chi nghiên cứu và triển khai còn lại là từ các hợp đồng với các tổ
chức; trong số 29,2% là từ các doanh nghiệp, 6,7% từ các tổ chức khác và
48,8% là từ các nguồn quốc tế (Trần Ngọc Ca và cộng sự, 2005).
Tuy nhiên, công tác nghiên cứu tại các trường đại học còn có nhiều
khiếm khuyết. Nhiều trường đại học còn xa mới đạt được tới trình độ của
các trung tâm nghiên cứu và triển khai ưu tú. Các trường đại học ở Việt
Nam còn thiếu quyền tự chủ. Mặc dù hoạt động của các trường đại học
đã mang tính độc lập hơn nhiều so với trước đây, nhưng họ vẫn thực hiện
theo chỉ đạo và điều hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mặc dù đã có biện
pháp nhằm xóa bỏ sự tách biệt giữa giảng dạy và nghiên cứu nhưng người
ta vẫn quan sát thấy tình trạng thiếu nghiên cứu và sự gắn kết yếu ớt giữa
nghiên cứu và giảng dạy. Cơ chế khuyến khích hiện tại không khuyến
khích các giáo viên các trường đại học áp dụng cách tiếp cận mang tính
tiên phong. Có ít cơ chế khuyến khích họ hợp tác với các tổ chức và công
ty khác. Sự hợp tác nếu có thường là ngắn hạn và chủ yếu dựa vào các mối
quan hệ cá nhân và phi chính thức. Trong hệ thống hiện có, các trường đại
học từ trước đến nay không coi các hoạt động định giá công nghệ là quan
trọng đối với sự tồn tại của mình, nếu có, thực tế là không hấp dẫn đối với
các doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các cơ sở và kiến thức kỹ thuật
thực hành của các trường đại học còn tụt hậu so với của các doanh nghiệp.
Viện nghiên cứu, trường đại học cũng chủ động trong tìm kiếm các
tổ chức cung cấp dịch vụ, tập trung vào tư vấn định giá công nghệ, xúc
tiến chuyển giao công nghệ. Về mục đích sử dụng dịch vụ: lựa chọn
phương thức định giá công nghệ, mua bán dây chuyền và thiết bị công
nghệ, tìm kiếm đối tác đầu tư phát triển công nghệ và lập kế hoạch kinh
doanh, ứng dụng công nghệ vào sản xuất.
Các viện nghiên cứu, trường đại học đề xuất hỗ trợ nhiều hơn cho hoạt
động này, các ý kiến tập trung vào các công việc: tăng cường cung cấp
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY
Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY

More Related Content

Similar to Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY

CommercializationGuide-Final
CommercializationGuide-FinalCommercializationGuide-Final
CommercializationGuide-Final
Thanh411529
 

Similar to Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY (20)

Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệThương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
 
Chính sách chuyển giao công nghệ vào việt nam
Chính sách chuyển giao công nghệ vào việt namChính sách chuyển giao công nghệ vào việt nam
Chính sách chuyển giao công nghệ vào việt nam
 
CommercializationGuide-Final
CommercializationGuide-FinalCommercializationGuide-Final
CommercializationGuide-Final
 
Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo luật chứng khoán ở việt nam hiện ...
Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo luật chứng khoán ở việt nam hiện ...Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo luật chứng khoán ở việt nam hiện ...
Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo luật chứng khoán ở việt nam hiện ...
 
Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam hiện nayDịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAYLuận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
Luận văn: Địa vị pháp lý của công ty chứng khoán theo Luật, HAY
 
Đề tài: Phát triển thị trường Khoa học Công nghệ tại TP.HCM, HOT
Đề tài: Phát triển thị trường Khoa học Công nghệ tại TP.HCM, HOTĐề tài: Phát triển thị trường Khoa học Công nghệ tại TP.HCM, HOT
Đề tài: Phát triển thị trường Khoa học Công nghệ tại TP.HCM, HOT
 
Luận văn: Chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ
Luận văn: Chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệLuận văn: Chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ
Luận văn: Chính sách phát triển thị trường khoa học và công nghệ
 
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt NamLuận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
 
Luận văn: Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo pháp luật Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo pháp luật Việt Nam, 9 ĐIỂMLuận văn: Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo pháp luật Việt Nam, 9 ĐIỂM
Luận văn: Đấu thầu mua sắm thiết bị y tế theo pháp luật Việt Nam, 9 ĐIỂM
 
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoánPháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
 
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoánPháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
 
Dldl14
Dldl14Dldl14
Dldl14
 
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
LUẬN VĂN Thực trạng áp dụng Pháp luật Việt Nam về Khuyến Mại - sdt/ ZALO 093 ...
 
Thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
Thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệpThúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
Thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp
 
Luận án: Nghiên cứu tác động của công nghệ thông tin đến các yếu tố cấu thành...
Luận án: Nghiên cứu tác động của công nghệ thông tin đến các yếu tố cấu thành...Luận án: Nghiên cứu tác động của công nghệ thông tin đến các yếu tố cấu thành...
Luận án: Nghiên cứu tác động của công nghệ thông tin đến các yếu tố cấu thành...
 
MAR03.Doc
MAR03.DocMAR03.Doc
MAR03.Doc
 
Luận án: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật, HAY
Luận án: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật, HAYLuận án: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật, HAY
Luận án: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt NamLuận văn: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Dịch vụ chuyển giao công nghệ theo pháp luật Việt Nam
 
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trờiThực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
Thực hiện pháp luật về quảng cáo ngoài trời
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
BookoTime
 

Recently uploaded (20)

20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
20 ĐỀ DỰ ĐOÁN - PHÁT TRIỂN ĐỀ MINH HỌA BGD KỲ THI TỐT NGHIỆP THPT NĂM 2024 MÔ...
 
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
22 ĐỀ THI THỬ TUYỂN SINH TIẾNG ANH VÀO 10 SỞ GD – ĐT THÁI BÌNH NĂM HỌC 2023-2...
 
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdfXem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
Xem sim phong thủy luận Hung - Cát số điện thoại chính xác nhất.pdf
 
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
Hướng dẫn viết tiểu luận cuối khóa lớp bồi dưỡng chức danh biên tập viên hạng 3
 
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnhC.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
C.pptx. Phát hiện biên ảnh trong xử lý ảnh
 
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
Tiểu luận tổng quan về Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh tế và đầu tư trong nền ki...
 
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình PhươngGiáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
Giáo trình nhập môn lập trình - Đặng Bình Phương
 
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ MỘT SỐ BÀI HÁT DÂN CA CÁC DÂN TỘC BẢN ĐỊA CHO HỌC...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vnGiới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
Giới Thiệu Về Kabala | Hành Trình Thấu Hiểu Bản Thân | Kabala.vn
 
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
TUYỂN TẬP ĐỀ THI GIỮA KÌ, CUỐI KÌ 2 MÔN VẬT LÍ LỚP 11 THEO HÌNH THỨC THI MỚI ...
 
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
60 CÂU HỎI ÔN TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ NĂM 2024.docx
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT HÓA HỌC 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TIẾNG ANH 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, ...
 
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hộiTrắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
Trắc nghiệm CHƯƠNG 5 môn Chủ nghĩa xã hội
 
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng TạoĐề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
Đề thi tin học HK2 lớp 3 Chân Trời Sáng Tạo
 
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 BIÊN SOẠN THEO ĐỊNH HƯỚNG ĐỀ BGD 2025 MÔN TOÁN 10 - CÁN...
 
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
PHIẾU KHẢO SÁT MỨC ĐỘ HÀI LÒNG VỀ CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ VẬN CHUYỂN HÀNG KHÁCH BẰ...
 
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa họcChương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
Chương 6: Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội khoa học
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ, HAY

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGUYỄN QUỲNH NGA GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM Ngành: Quản lý khoa học và công nghệ Mã số: 834 04 12 LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRỊNH MINH TÂM HÀ NỘI, 2018
  • 2. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đề tài luận văn: “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam” này là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn khoa học TS.Trịnh Minh Tâm. Các tư liệu sử dụng trong luận văn đều được trích dẫn nguồn gốc rõ ràng, không sao chép của người khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình./. Hà Nội, tháng 8 năm 2018 Học viên Nguyễn Quỳnh Nga
  • 3. ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ.................................................................................. 9 1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 9 1.2. Thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ tại một số nước trên thế giới 27 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM.................................................................................... 38 2.1. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong thị trường KH&CN Việt Nam ..................................................................................................................... 38 2.2. Thực trạng về hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam46 CHƢƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM .............................. 51 3.1. Phân tích những nét tương đồng và khác biệt trong chính sách của Việt Nam và một số nước về phát triển các tổ chức định giá công nghệ ................... 51 3.2. Đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam ............................................................................................... 57 KẾT LUẬN........................................................................................................ 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 68 PHỤ LỤC ........................................................................................................... 72
  • 4. iii DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Tên viết tắt Tên tiếng Anh Nghĩa tiếng Việt KH&CN Science and Technology Khoa học và công nghệ CGCN Technology Transfer Chuyển giao công nghệ KT-XH Socio- economic Kinh tế - xã hội SHTT Intellectual Property Sở hữu trí tuệ ĐGCN Technology Valuation Định giá công nghệ KQNC Research Results Kết quả nghiên cứu TSTT IP Asset Tài sản trí tuệ SXKD Business and Production Sản xuất kinh doanh NSNN State budget Ngân sách Nhà nước VBPL Legal documents Văn bản pháp lý R&D Research and development Nghiên cứu và phát triển
  • 5. iv DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Những bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai với cầu về công nghệ của các doanh nghiệp...................................................42 DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 2.1: Tỷ lệ phần trăm về mức độ chia sẻ thông tin.................................47 Hình 2.2: Tỷ lệ phần trăm nhân lực trong các tổ chức trung gian .................48
  • 6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với vai trò là thước đo sức cạnh tranh và khả năng phát triển của nền kinh tế nói chung, doanh nghiệp nói riêng trong tương lai, công nghệ trở thành một trong những dòng tài sản vô hình được trao đổi, thương mại hóa trên thị trường công nghệ. Yếu tố đầu vào cơ bản cho việc trao đổi, thương mại hóa này chính là việc biết được giá trị của công nghệ - kết quả của quá trình định giá công nghệ. Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ đã được ban hành, trong đó có một vấn đề đang nổi cộm là trong quá trình chuyển giao công nghệ hoặc cổ phần hóa, liên doanh, … đối với các doanh nghiệp thì tài sản công nghệ sẽ được định giá như thế nào? Những gì thị trường cần là giá trị của công nghệ như là một sản phẩm được giao dịch trên thị trường, và điều này đòi hỏi một giá trị công bằng và khách quan mà không chịu ảnh hưởng bởi các công ty cụ thể sở hữu nó. Bởi vậy, sự xuất hiện của các tổ chức định giá công nghệ là một xu thế tất yếu trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tại Việt Nam, công tác định giá công nghệ đã được Bộ Khoa học và Công nghệ quan tâm và chỉ đạo nhiều năm nay. Tuy nhiên, hiện nay hoạt động định giá công nghệ còn sơ khai, đơn lẻ và chưa hình thành được mạng lưới cho hoạt động này, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen thuê tư vấn định giá công nghệ trong các khâu của quy trình chuyển giao công nghệ, đa phần chỉ là mua máy móc thiết bị, đội ngũ thực hiện hoạt động định giá công nghệ chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp,… Chính vì vậy, việc xem xét một cách bài bản về các tổ chức định giá công nghệ sẽ mang lại lợi ích lớn cho việc ban hành các chính sách nhằm quản lý, hỗ trợ việc hình thành, hoạt động cũng như thúc đẩy sự phát triển của
  • 7. 2 các tổ chức này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới công nghệ, phát triển thị trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Nƣớc ngoài Thị trường KH&CN cũng chứa đựng các thành tố cơ bản như các loại thị trường khác, bao gồm: sản phẩm và dịch vụ KH&CN; chủ thể tham gia thị trường như người cung (người bán), người cầu (người mua) sản phẩm và dịch vụ KH&CN và đặc biệt cũng có các tổ chức trung gian tư vấn, cung cấp các dịch vụ (bao gồm định giá công nghệ). Tại Hàn Quốc, hoạt động định giá công nghệ cũng đã trở nên mạnh mẽ với sự ra đời của Luật Xúc tiến chuyển giao công nghệ vào năm 2000. Đạo luật này đã khuyến khích các trường đại học và các viện nghiên cứu công thành lập các Văn phòng cấp phép công nghệ (TLO) cùng với các tổ chức tương ứng của họ, đồng thời tập trung vào việc xúc tiến chuyển giao và thương mại hoá kết quả nghiên cứu. Bởi vậy, Hàn Quốc đã xuất hiện nhiều tổ chức dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ như: Trung tâm đổi mới công nghệ vùng, công viên công nghệ, các doanh nghiệp nhân rộng kết quả nghiên cứu, các trung tâm chuyển giao công nghệ thuộc các trường đại học… Tiêu biểu phải kể đến là Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc (Korea Technology Transefer Center – KTTC) – một tổ chức xúc tiến chuyển giao công nghệ hàng đầu tại Hàn Quốc. KTTC có nhiệm vụ kết nối thương mại và công nghệ với việc thúc đẩy cạnh tranh trong các lĩnh vực chuyển giao công nghệ, đánh giá, định giá và đầu tư. Các dịch vụ của KTTC bao gồm: - Dịch vụ xúc tiến chuyển giao công nghệ: Để tìm kiếm đối tác, KTTC xem xét các công nghệ sẽ bán, ước tính giá trị thương mại (định giá), khả năng tồn tại của thị trường, các xu hướng công nghiệp và xác định tiềm năng,
  • 8. 3 đối tác chuyển giao quyền sử dụng. KTTC hỗ trợ việc chào bán công nghệ thông qua việc tạo ra sự khác biệt với hệ thống đại diện pháp lý có chuyên môn cao, giỏi trong đàm phán và thỏa thuận trên nhiều lĩnh vực công nghệ khác nhau. - Dịch vụ đánh giá công nghệ: KTTC nghiên cứu tính khả thi của công nghệ trong giai đoạn đầu thông qua phân tích về kinh tế, kỹ thuật, tiếp thị, thực hiện kinh doanh và đánh giá công nghệ. - Dịch vụ hợp nhất và mua lại: KTTC thúc đẩy việc hợp nhất và mua lại công nghệ có sức hấp dẫn của công ty, phòng thí nghiệm, các kết quả nghiên cứu được đầu tư mạo hiểm… để tìm đối tác tốt nhất cho việc ký kết hợp đồng. Cung cấp các chiến lược cơ cấu lại doanh nghiệp (bao gồm việc mua, bán, tách và sát nhập doanh nghiệp); cung cấp thông tin liên quan đến chuyển dịch cơ cấu sở hữu; các dịch vụ pháp lý, thuế, kế toán hoặc các dịch vụ trọn gói. Tại Trung Quốc, Luật thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của Trung Quốc được ban hành năm 1996. Luật này quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của Chính phủ, chủ sở hữu kết quả KH&CN, doanh nghiệp, các tổ chức trung gian tham gia kinh doanh, môi giới và các tổ chức đầu tư tài chính trong kết nối với việc thương mại hoá công nghệ. Điều 18 Luật này quy định: “Cơ quan môi giới làm dịch vụ đại lý hoặc trung gian cho hai bên trong giao dịch công nghệ phải xin phép kinh doanh theo quy định liên quan của Nhà nước; cán bộ quản lý nghiệp vụ trong cơ quan này phải xin giấy chứng nhận tư cách hành nghề theo quy định liên quan của Nhà nước”. Điều 11 của Điều lệ Quản lý thị trường công nghệ Bắc Kinh quy định: “Cơ quan trung gian công nghệ và người kinh doanh công nghệ dùng thông tin công nghệ để phục vụ theo yêu cầu của hai bên đương sự phải đề nghị Văn phòng Quản lý thị trường công nghệ thành phố Bắc Kinh thẩm định tư cách nghề nghiệp; Văn phòng này tiến hành thẩm định và cấp giấy chứng nhận tư cách, đồng thời đề nghị Bộ, ngành quản lý hành chính công thương nghiệp cho đăng ký”. Có thể
  • 9. 4 nhận thấy một đặc điểm chung ở Trung Quốc là nhà nước quản lý hoạt động tư vấn (định giá công nghệ) khá chặt chẽ. Các cá nhân, tổ chức hoạt động, tư vấn chuyển giao công nghệ thường phải được cấp giấy phép. Và đồng thời, Trung Quốc cũng có những chính sách khuyến khích phát triển hoạt động tư vấn công nghệ (định giá công nghệ) như: Nghị quyết của Trung ương Đảng cộng sản và Chính phủ Trung Quốc về tăng cường sáng tạo công nghệ, phát triển KH&CN cao, thực thi ngành nghề hóa vào tháng 8/1999 khẳng định “Đối với thu nhập từ tư vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ trong chuyển giao công nghệ, triển khai công nghệ được miễn thuế doanh nghiệp”. 2.2. Trong nƣớc Thị trường KH&CN là một bộ phận của nền kinh tế thị trường có vai trò to lớn cho việc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Do đó, phát triển thị trường KH&CN là một trong những nội dung trọng tâm của chiến lược phát triển KH&CN ở Việt Nam từ nay đến năm 2020. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 của Ban chấp hành TW Đảng khoá XI về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Một trong những nhiệm vụ và giải pháp Phát triển thị trường KH&CN là “Phát triển mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật khoa học và công nghệ, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ. Đầu tư xây dựng các sàn giao dịch công nghệ quốc gia tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới”. Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ: “Nhà nước đầu tư xây dựng một số trung tâm dịch vụ khoa học và công nghệ, chuyển giao công nghệ làm nòng cốt cho hệ thống tổ chức dịch vụ môi
  • 10. 5 giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định giá, thẩm định, giám định công nghệ”. Cũng giống như các loại thị trường khác, khi thị trường KH&CN mới hình thành và còn ở mức sơ khai thì hoạt động mua bán, trao đổi sản phẩm KH&CN thường trực tiếp diễn ra giữa cung (người bán) và cầu (người mua). Lúc này vai trò của các tổ chức trung gian như các tổ chức định giá sản phẩm công nghệ còn rất mờ nhạt. Tuy nhiên, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, thị trường ngày càng mở rộng thì mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia thị trường sẽ ngày càng phức tạp hơn. Người cung sản phẩm KHCN cần có một cách nhanh nhất các thông tin cần thiết về nhu cầu thị trường, bảo đảm giao dịch mua – bán phù hợp với luật lệ và khi cần có thể giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ đối với sản phẩm KH&CN. Ngược lại, người có nhu cầu đối với sản phẩm KHCN không thể biết hết được thông tin về các loại hình sản phẩm KHCN hết sức phong phú đang có mặt trên thị trường nên cần sự giúp đỡ chọn lựa để mua sản phẩm KHCN phù hợp với giá rẻ nhất. Tới lúc này, các tổ chức trung gian như các tổ chức định giá sản phẩm công nghệ mới thực sự phát triển nhanh chóng. Nói cách khác, thị trường nói chung và thị trường KHCN nói riêng càng phát triển thì càng cần đến hoạt động tư vấn và dịch vụ KHCN. Về chính sách quản lý và phát triển hoạt động định giá trong thời gian qua, hiện có ít các quy định riêng cho các hoạt động này. Chủ yếu vẫn là các quy định chung điều chỉnh những hoạt động mà định giá công nghệ là một loại hình trong đó. Trong Luật chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 được ban hành ngày 19/6/2017, tại Chương IV, mục 3, Điều 45 có quy định chi tiết về các loại hình dịch vụ chuyển giao công nghệ (bao gồm môi giới, tư vấn chuyển giao công nghệ; đánh giá, thẩm định giá, giám định công nghệ; xúc tiến chuyển giao công nghệ) và hướng dẫn thi hành các quy định chung về dịch vụ chuyển giao công nghệ. Trong Bộ luật dân sự, quy định tại Mục 7 là
  • 11. 6 về hoạt động dịch vụ nói chung. Trong Thông tư 06/2014/TT-BTC của Bộ tài chính ban hành ngày 07/01/2014 quy định rõ về tiêu chuẩn thẩm định giá số 13. Các quy định tại Nghị định số 87/2002/NĐ-CP về cung cấp các dịch vụ tư vấn là chung cho nhiều hoạt động tư vấn – trừ tư vấn pháp luật. Các quy định về tư vấn pháp luật chuyển giao công nghệ trong Luật Dân sự được quy định chung cho các hoạt động hành nghề luật sư. Chính vì vậy, rất cần có những quy định cụ thể hơn, trực tiếp hơn vào các đặc thù của loại hình hoạt động này. Về hoạt động định giá công nghệ, Bộ KH&CN đã có Thông tư số 31/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 hướng dẫn nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ. Thông tư đã quy định hành lang pháp lý hướng dẫn cho hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ. Tuy nhiên, Thông tư chưa cụ thể hoá các điều kiện và tiêu chuẩn của tổ chức định giá cũng như chuyên gia định giá công nghệ vì đây phải được coi là một nghiệp vụ và hoạt động có điều kiện cần được quản lý và cấp phép hoạt động theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Hơn nữa, so với kinh nghiệm của nhiều nước, bên cạnh các quy định đã có, chúng ta còn thiếu vắng một số chính sách quan trọng, đặc biệt là những biện pháp hỗ trợ của nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động của tổ chức định giá công nghệ. Về tình hình nghiên cứu phát triển mạng lưới hoạt động tư vấn: Ở Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu và chính sách như: - Đề tài cấp cơ sở: “Nghiên cứu một số loại hình tổ chức chuyển giao công nghệ trong viện nghiên cứu và phát triển và trường đại học” - Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN - Bộ KH&CN (năm 2006), Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Lan Anh. - Đề án: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động định giá công nghệ, đề xuất nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động định giá công nghệ tại Việt Nam” - Vụ Đánh giá Thẩm định và Giám định công nghệ - Bộ KH&CN (năm 2010), Chủ nhiệm đề án: Ngô Thị Vân.
  • 12. 7 - Đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ chế chính sách về quản lý, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá, đánh giá công nghệ, môi giới chuyển giao công nghệ” – Viện Đánh giá khoa học và Định giá công nghệ - Bộ KH&CN (năm 2014), Chủ nhiệm đề tài: Trịnh Minh Tâm. Tuy nhiên, các đề tài, đề án trên chỉ nghiên cứu ở một số khía cạnh nhất định mà chưa nghiên cứu toàn diện và đề xuất được những giải pháp và khung pháp lý nhằm hỗ trợ phát triển cho hệ thống các tổ chức này. Do vậy, cần có những nghiên cứu xây dựng giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ để từ đó rút ra kiến nghị về một số mô hình và giải pháp đối với việc quản lý, hỗ trợ phát triển hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: Tìm hiểu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung quản lý của nhà nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng áp dụng: Các tổ chức định giá công nghệ. Các cơ quan quản lý nhà nước, các doanh nghiệp, các nhà quản lý chính sách. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, tìm hiểu việc định giá công nghệ của một số nước và ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp kế thừa, phương pháp điều tra thu thập, phân tích thông tin, dữ liệu, lấy ý kiến chuyên gia trong quá trình đề xuất việc xây dựng giải pháp về quản lý, hỗ trợ phát triển các tổ chức định giá công nghệ ở Việt Nam. - Tiếp cận các tài liệu, văn bản trong nước và quốc tế kết hợp với nghiên cứu thực tế.
  • 13. 8 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Định giá công nghệ là lĩnh vực mới, do vậy cần tăng cường nghiên cứu hoạt động định giá công nghệ; đề xuất giải pháp về nội dung quản lý nhà nước, hỗ trợ hình thành và hoạt động của các tổ chức định giá công nghệ nhằm thúc đẩy phát triển các tổ chức này tại Việt Nam. Chính vì vậy, luận văn “Giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam” là vấn đề cấp thiết phục vụ cho công tác quản lý công nghệ của các cơ quan Nhà nước và kết quả của luận văn có thể là tài liệu tham khảo đối với các ngành quan tâm đến vấn đề này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong quá trình đổi mới công nghệ, phát triển thị trường công nghệ và tạo điều kiện thuận lợi góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ. Chƣơng 2: Thực trạng về các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam. Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp thúc đẩy phát triển các tổ chức định giá công nghệ tại Việt Nam.
  • 14. 9 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Cơ sở lý luận về chuyển giao công nghệ Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia 28, công nghệ là sự tạo ra, sự biến đổi, việc sử dụng kiến thức về các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống, phương pháp tổ chức, nhằm giải quyết một vấn đề, cải tiến một giải pháp đã tồn tại, đạt một mục đích, hay thực hiện một chức năng cụ thể. Công nghệ cũng có thể chỉ là một tập hợp những công cụ, gồm máy móc, những sự sắp xếp hay những quy trình. Công nghệ có ảnh hưởng đáng kể lên khả năng kiểm soát và thích nghi của con người vào môi trường tự nhiên của mình. Thuật ngữ công nghệ có thể được dùng theo nghĩa chung hay cho những lĩnh vực cụ thể. Như vậy, công nghệ ở đây có phạm vi rộng nên chưa thực sự làm rõ được bản chất của khái niệm công nghệ. Để nhấn mạnh tri thức, kiến thức là một trong các hình thức biểu hiện của công nghệ, Trần Ngọc Ca (1998) đã nghiên cứu và tập hợp các quan niệm về công nghệ của một số học giả trên thế giới, cụ thể: - Công nghệ là dạng kiến thức có thể áp dụng được vào việc sản xuất ra các sản phẩm và sáng tạo ra các sản phẩm mới. - Công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực được chuyển thành hàng hóa. - Công nghệ là tập hợp các kiến thức về một quy trình và/hoặc các kỹ thuật chế biến cần thiết để sản xuất ra vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh.
  • 15. 10 - Công nghệ là nguồn lực bao gồm kiến thức được áp dụng để nâng cao hiệu quả sản xuất và tiếp thị cho những sản phẩm và dịch vụ đang có và tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới. - Công nghệ là kiến thức không sờ mó được và không phân chia được và có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ. - Công nghệ là sự áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng những nghiên cứu và cách xử lý một cách có hệ thống và có phương pháp. Để nhấn mạnh công nghệ như một hệ thống và có ứng dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, Đặng Nguyên và Thu Hà (2002) đã tập hợp các khái niệm về công nghệ và đưa ra 8P công nghệ: - Công nghệ là một hệ thống mà xã hội phải hy sinh những nhu cầu và mong muốn của mình. - Công nghệ bao gồm một phạm vi rộng lớn các hoạt động và các chức năng trong doanh nghiệp được ủy thác sản xuất các sản phẩm mới và hoàn thiện cùng những quá trình, vật liệu và các bí quyết đối với công ty. - Công nghệ dựa trên những kiến thức lý thuyết, thực tế và kỹ năng để tạo ra các sản phẩm và các dịch vụ cũng như những hệ thống phân phối và sản xuất. - Công nghệ là một hệ thống chuyển đổi các bí quyết độc quyền thành sự thương mại hóa sản phẩm. Điều này bao gồm cả những hoạt động sản xuất, chất lượng được đảm bảo, con người, quá trình thông tin, hợp thành một thể thống nhất dưới dạng những dự án. - 8P công nghệ bao gồm: Công nghệ là các sản phẩm (P1- Product); Công nghệ là quá trình (P2- Process); Công nghệ là sự sở hữu các bí quyết (P3- Proprietary); Công nghệ là sự triển khai (P4- Processing); Công nghệ là sự đảm bảo (P5- Promise); Công nghệ là con người (P6- People); Công nghệ là một dự án (P7- Project); Công nghệ mở đường cho lợi nhuận (P8- Profit).
  • 16. 11 Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, quan niệm về công nghệ cũng được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế có uy tín. Mỗi một tổ chức lại có cách tiếp cận khác nhau, dựa trên mục tiêu sử dụng khác nhau. - Theo Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hợp Quốc (UNIDO), công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và có phương pháp. - Theo Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP, 1989), công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến vật liệu và thông tin; công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ. - Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD, 1972), công nghệ là đầu vào cần thiết cho sản xuất và như vậy nó được mua và bán trên thị trường như một hàng hóa được thể hiện ở một trong các dạng sau: tư liệu sản xuất và đôi khi là các sản phẩm trung gian, được mua và bán trên thị trường, đặc biệt là gắn với các quyết định định đầu tư; nhân lực và thông thường là nhân lực có trình độ và đôi khi là nhân lực có trình độ cao và chuyên sâu, với khả năng sử dụng đúng thiết bị và kỹ thuật và làm chủ được bộ máy giải quyết vấn đề và sản xuất thông tin; thông tin, dù đó là thông tin kỹ thuật hay thông tin thương mại, được đưa ra trên thị trường hay được giữ bí mật như một phần của hoạt động độc quyền. - Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD, 1996), công nghệ được hiểu là một tập hợp các kỹ thuật, mà bản thân chúng được định nghĩa là một tập hợp các hành động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt một kết quả định trước trong một hoàn cảnh nhất định. - Theo Ngân hàng Thế giới (WB, 1985), công nghệ là phương pháp chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: thông tin và
  • 17. 12 phương pháp; phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hóa; sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao. - Theo cách tiếp cận của một số nhà quản lý công nghiệp Nhật Bản, công nghệ bao gồm năm yếu tố, đó là quản lý, tiền vốn, thị trường, máy móc, nguyên vật liệu. Tại Việt Nam, một số tài liệu được sử dụng trong nghiên cứu và giảng dạy thời gian qua, quan niệm về công nghệ thường đề cập tới các yếu tố cấu thành công nghệ, dựa trên quan điểm của Sharif (1986) và Ramanathan (1995). Theo đó một công nghệ gồm 4 thành phần: (i) Phần kỹ thuật: công nghệ hàm chứa trong các dạng vật thể như máy móc, thiết bị, phương tiện và cấu trúc hạ tầng; (ii) Phần con người: công nghệ hàm chứa trong các kỹ năng công nghệ của con người, nó bao gồm kiến thức, kinh nghiệm do học hỏi và tích lũy được trong quá trình sử dụng công nghệ; (iii) Phần thông tin: công nghệ hàm chứa trong các dạng dữ liệu đã được tư liệu hóa để sử dụng trong các hoạt động của công nghệ; (iv) Phần tổ chức: công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây dựng lên cấu trúc tổ chức như quy định về quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp của các cá nhân trong hoạt động công nghệ. Dựa trên các quan điểm về công nghệ ở trên, có bốn khía cạnh cần được bao quát trong định nghĩa về công nghệ (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, 2010): - Công nghệ là “máy biến đổi”, đề cập tới khả năng làm ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng và thỏa mãn được yêu cầu kinh tế, xã hội, đây là khác biệt giữa khoa học và công nghệ; công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công nghệ muốn xuất hiện thì phải hiệu quả hơn công nghệ cũ, còn khoa học là những phát minh, khám phá mang tính bền vững, khía cạnh này đã nhấn mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ trong việc giải quyết các vấn đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ;
  • 18. 13 - Công nghệ là “công cụ”, đề cập tới công nghệ là sản phẩm của con người, cho nên con người có thể làm chủ được nó; - Công nghệ là “kiến thức”, đề cập tới công nghệ không nhất thiết phải nhìn thấy được và nhấn mạnh rằng các công nghệ giống nhau thì chưa chắc đã cho kết quả như nhau, vì thế muốn sử dụng công nghệ có hiệu quả thì nhất thiết con người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập nhật thông tin; - Công nghệ là “hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”, đề cập tới công nghệ dù là kiến thức những vẫn được mua, bán, trao đổi trên thị trường và tuân theo quy luật thị trường. Việc thống nhất khái niệm về công nghệ là cần thiết, bởi vì không thể thực hiện được các hoạt động liên quan tới công nghệ nếu chưa hiểu được chúng là gì. Luật Khoa học và công nghệ (2000, sửa đổi 2013) và Luật Chuyển giao công nghệ (2017) của Việt Nam có giải thích “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. Đây là hành lang pháp lý quan trọng cho các hoạt động về công nghệ ở Việt Nam. Ngoài ra, một số thuật ngữ gắn với công nghệ cũng được Luật Chuyển giao công nghệ giải thích: “Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và giá trị gia tăng cao; có khả năng hình thành các ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hoá ngành sản xuất, dịch vụ hiện có. Công nghệ mới là công nghệ lần đầu tiên được tạo ra tại Việt Nam. Công nghệ tiên tiến là công nghệ hàng đầu, có trình độ công nghệ cao hơn trình độ công nghệ cùng loại hiện có”. Việc phân loại công nghệ mang tính tương đối do tính đa dạng của công nghệ, tùy theo mục đích sử dụng công nghệ có thể được phân loại như sau:
  • 19. 14 Thứ nhất, theo trình độ công nghệ sản xuất: Trình độ công nghệ sản xuất là mức đạt được của công nghệ sản xuất và được đánh giá theo bốn mức 16: tiên tiến, trung bình tiên tiến, trung bình và lạc hậu. Trình độ công nghệ tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,65 trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ bằng hoặc trên 75 điểm. Trình độ công nghệ trung bình tiên tiến: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,5 trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 60 điểm đến dưới 75 điểm. Trình độ công nghệ trung bình: có hệ số đóng góp công nghệ từ 0,3 trở lên và tổng số điểm các thành phần công nghệ từ 35 điểm đến dưới 60 điểm. Trình độ công nghệ lạc hậu: có hệ số đóng góp công nghệ nhỏ hơn 0,3 hoặc tổng số điểm các thành phần công nghệ nhỏ hơn 35 điểm. Về nguyên tắc đánh giá, công nghệ sản xuất được chia thành bốn nhóm cơ bản: nhóm thiết bị công nghệ thể hiện trong máy móc, công cụ, phương tiện viết tắt là T (Technoware); nhóm nhân lực thể hiện trong năng lực tiếp thu kỹ thuật công nghệ phục vụ sản xuất viết tắt là H (Humanware); nhóm thông tin thể hiện trong các tài liệu, dữ liệu thông tin viết tắt là I (Infoware); nhóm tổ chức, quản lý thể hiện trong công tác tổ chức, quản lý viết tắt là O (Orgaware). Sử dụng thang điểm chung (100 điểm) để đưa về cùng một mặt bằng đánh giá, sau đó căn cứ vào tổng số điểm đạt được của các tiêu chí để phân loại trình độ công nghệ. Thứ hai, theo hệ thống ngành kinh tế: Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam gồm 5 cấp 9: Ngành cấp 1 gồm 21 ngành được mã hóa theo bảng chữ cái lần lượt từ A đến U; ngành cấp 2 gồm 88 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng hai số theo từng ngành cấp 1 tương ứng; ngành cấp 3 gồm 242 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng ba số theo từng ngành cấp 2 tương ứng; ngành cấp 4 gồm 437 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng bốn số theo từng ngành cấp 3 tương ứng; ngành cấp 5 gồm
  • 20. 15 642 ngành, mỗi ngành được mã hóa bằng năm số theo từng ngành cấp 4 tương ứng. Tùy theo ngành kinh tế ta lại có các loại công nghệ tương ứng. Ví dụ theo nhóm ngành kinh tế cấp 1 thì có công nghệ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, khai khoáng, công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghệ sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, điều hòa không khí,... Thứ ba, theo sản phẩm tạo ra: mỗi một loại sản phẩm tạo ra lại tương ứng với một loại công nghệ. Ví dụ: công nghệ xi măng, công nghệ thông tin, công nghệ ô tô, công nghệ bán dẫn. Thứ tư, theo quan điểm môi trường: có các loại công nghệ như công nghệ ô nhiễm, công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường, công nghệ không chất thải, công nghệ sạch và công nghệ sạch hơn,... Thứ năm, theo đặc thù công nghệ: có công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm. Thứ sáu, theo đầu ra công nghệ: có công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình. Ngoài ra, có thể phân chia công nghệ thành: công nghệ khuyến khích chuyển giao, công nghệ hạn chế chuyển giao và công nghệ cấm chuyển giao. Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc) thì chuyển giao công nghệ được hiểu là quá trình truyền bá công nghệ từ nước này qua nước khác ngoài nước sản sinh ra nó hay nói cách khác đó là quá trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới. Quá trình này bao gồm những công việc sau đây: - Chuyển giao những phương pháp nguyên tắc, nguyên lý của công nghệ đó. - Chuyển giao những bí quyết và thông tin có liên quan. - Chuyển giao máy móc trang thiết bị.
  • 21. 16 - Chuyển giao những hiểu biết thông qua đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề nắm vững về công nghệ được chuyển giao. - Truyền bá về thị trường nhất là thị trường xuất khẩu. Còn việc chuyển và nhận công nghệ giữa các đơn vị các khu vực kinh tế và địa lý trong một quốc gia thì được gọi là hỗ trợ công nghệ, giúp đỡ công nghệ hay phát triển công nghệ sở tại. Chuyển giao công nghệ (CGCN) là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN sang bên nhận công nghệ. Còn hoạt động CGCN bao gồm CGCN và dịch vụ CGCN. Dịch vụ CGCN bao gồm: - Môi giới chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ bên có công nghệ, bên cần công nghệ trong việc tìm kiếm đối tác ký kết hợp đồng CGCN. - Tư vấn chuyển giao công nghệ: là hoạt động hỗ trợ các bên trong việc lựa chọn công nghệ, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng CGCN. - Đánh giá công nghệ: là hoạt động xác định trình độ, giá trị, hiệu quả kinh tế và tác động kinh tế - xã hội, môi trường của công nghệ. - Định giá công nghệ: là hoạt động xác định giá công nghệ. - Giám định công nghệ: là hoạt động kiểm tra, xác định các chỉ tiêu của công nghệ đã được chuyển giao so với các chỉ tiêu của công nghệ được quy định trong hợp đồng CGCN. - Xúc tiến CGCN: là hoạt động thúc đẩy, tạo và tìm kiếm cơ hội chuyển giao công nghệ, cung ứng dịch vụ quảng cáo, trưng bày, giới thiệu công nghệ, tổ chức chợ, hội chợ, triển lãm công nghệ, trung tâm giao dịch công nghệ. Nhu cầu trao đổi, mua bán công nghệ đã hình thành nên thị trường công nghệ rất sôi động kéo theo đó là sự xuất hiện của các tổ chức hoạt động chuyển giao công nghệ với những dịch vụ CGCN góp phần đưa công nghệ từ
  • 22. 17 bên bán và bên mua được thuận lợi và dễ dàng hơn. Những tổ chức này được gọi chung là tổ chức môi giới công nghệ hay tổ chức trung gian CGCN. Và trên thế giới đã có rất nhiều tổ chức môi giới công nghệ phát triển và cũng khẳng định được tên tuổi của mình, đồng thời góp phần làm đa dạng hóa thị trường công nghệ thế giới. Nội dung hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ gồm 17: (1) Tìm kiếm đối tác cung cấp công nghệ và xem xét, đánh giá khả năng thương mại hoá công nghệ. (2) Xem xét năng lực tiếp nhận công nghệ của tổ chức, cá nhân có nhu cầu tư vấn chuyển giao công nghệ. (3) Tìm kiếm, xem xét và lựa chọn công nghệ được chuyển giao phù hợp với các quy định của pháp luật và các cơ chế chính sách ưu tiên, thúc đẩy, khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ. (4) Xem xét tính phù hợp của sản phẩm do công nghệ tạo ra trên cơ sở: Đánh giá các khả năng, yếu tố về thị trường; Các tiêu chuẩn, chất lượng của sản phẩm; Hiệu quả kinh tế - xã hội và phát triển bền vững. (5) Hỗ trợ việc lập, soạn thảo dự án đầu tư công nghệ và thiết bị, phân tích, tính toán quy mô sản xuất, giá thành công nghệ, cung cấp, lắp đặt thiết bị, nhà xưởng, nguyên vật liệu và các chi phí liên quan. (6) Thay mặt các bên chuyển giao công nghệ chuẩn bị hồ sơ và đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ. (7) Giám sát, đánh giá quá trình đàm phán, soạn thảo, phương thức, ký kết và hỗ trợ thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ. (8) Các nội dung tư vấn khác về hoạt động chuyển giao công nghệ. 1.1.2. Cơ sở lý luận về định giá công nghệ và tổ chức định giá công nghệ 1.1.2.1. Khái niệm về định giá công nghệ Khi nghiên cứu về định giá công nghệ trên thế giới, các học giả đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về định giá công nghệ. Theo O. Spasic (2013), chuyên gia của WIPO: “Định giá công nghệ là quá trình xác định và đo lường lợi nhuận tài chính và những rủi ro của công nghệ trong một hoàn cảnh cụ thể” 3. Theo quan điểm này, rủi ro là một trong những yếu tố quan trọng cần
  • 23. 18 xem xét trong định giá, đặc biệt trong giai đoạn hình thành công nghệ nhân tố thời gian và kinh phí đầu tư là nhân tố quyết định, cụ thể: Về thời gian, cần bao nhiêu thời gian để đưa công nghệ ra thị trường (thương mại hóa)? Đôi khi công nghệ đột phá lại là “quá sớm” đối với thị trường. Về kinh phí, chúng ta cần đầu tư thêm bao nhiêu nữa?. Như vậy, nếu một công nghệ càng cần nhiều thời gian và tiền bạc để đưa ra thị trường (thương mại hóa) thì càng ít giá trị. Theo một nghiên cứu của Yiche Grace Chen, Đại học Yuan –Ze y, Đài Loan – Trung Quốc thì: “Định giá công nghệ là việc định giá đặc tính kỹ thuật được đánh giá bởi những người mua hoặc những người bán hàng cho giá trị đích thực của nó.” 8 Nhiệm vụ của định giá công nghệ là xác định lợi ích kinh tế tối đa của công nghệ qua việc sử dụng các thông tin hiệu quả cũng như sử dụng các phương pháp định giá phù hợp. Tóm lại, có thể hiểu định giá công nghệ là hoạt động xác định giá của công nghệ. Về vị trí, vai trò của Tổ chức định giá công nghệ: Tổ chức định giá công nghệ là tổ chức dịch vụ chuyển giao công nghệ có thực hiện hoạt động dịch vụ định giá công nghệ. Như vậy, có thể thấy được vai trò rất quan trọng của Tổ chức định giá công nghệ, với vai trò như một tổ chức trung gian trong thị trường khoa học và công nghệ. Các tổ chức này góp phần thúc đẩy và đưa công nghệ từ bên bán đến bên mua được thuận lợi hơn. 1.1.2.2. Nội dung và phương pháp định giá công nghệ của các tổ chức định giá công nghệ Nội dung hoạt động của các tổ chức định giá gồm 18: Khi định giá công nghệ, cần xem xét công nghệ theo các nội dung cơ bản sau: (1) Đặc tính cơ bản của công nghệ. (2) Tính ưu việt của công nghệ khi sử dụng. (3) Những vấn đề liên quan khác khi sử dụng công nghệ: Phạm vi chuyển giao công nghệ, tính hợp lý khi sử dụng nguyên vật liệu có sẵn trong nước, tại địa phương khi áp dụng công nghệ. (4) Khi định giá các công nghệ trong từng
  • 24. 19 ngành hoặc nhóm ngành cụ thể có thể xem xét thêm các nội dung khác phù hợp với đặc thù của ngành hoặc nhóm ngành đó. Về phương pháp định giá công nghệ, việc định giá công nghệ dựa trên 03 cách tiếp cận chủ yếu được áp dụng là: tiếp cận chi phí; tiếp cận thị trường và tiếp cận thu nhập. Phương pháp thị trường: Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp thị trường như sau: - Xác định mức giá giao dịch, giá niêm yết hoặc giá chào bán của ít nhất 03 công nghệ so sánh đã được giao dịch thành công hoặc đang được mua, bán trên thị trường vào thời điểm định giá trên cơ sở các thông tin, dữ liệu trong hồ sơ định giá. - Lựa chọn đơn vị so sánh chuẩn và xây dựng bảng phân tích, so sánh đối với mỗi đơn vị so sánh chuẩn. - Phân tích, xác định các yếu tố khác biệt giữa công nghệ so sánh và công nghệ cần định giá bằng kỹ thuật phân tích định lượng (xác định mức điều chỉnh là giá trị tuyệt đối hoặc tỷ lệ phần trăm) hoặc kỹ thuật phân tích định tính (xác định kết quả điều chỉnh là dãy số lớn hơn – có dấu điều chỉnh là âm hoặc nhỏ hơn – có dấu điều chỉnh là dương). - Điều chỉnh mức giá của các công nghệ so sánh căn cứ vào mức độ chênh lệch của các yếu tố so sánh định lượng hoặc các yếu tố so sánh định tính bằng kỹ thuật lập bảng. (Việc điều chỉnh mức giá của các công nghệ so sánh căn cứ vào mức độ chênh lệch của các yếu tố so sánh định tính được thực hiện theo nguyên tắc sau: những yếu tố thuộc công nghệ so sánh kém hơn với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh tăng mức giá tính theo đơn vị chuẩn của công nghệ so sánh (cộng); những yếu tố thuộc công nghệ so sánh vượt trội hơn so với công nghệ cần định giá thì điều chỉnh giảm mức giá tính theo đơn vị chuẩn của công nghệ so sánh (trừ); những yếu tố thuộc công nghệ so sánh giống với công nghệ cần định giá thì giữ nguyên mức giá của công
  • 25. 20 nghệ so sánh (không điều chỉnh) và theo phương thức sau: Điều chỉnh theo số tuyệt đối đối với chênh lệch các yếu tố so sánh định lượng: những yếu tố nào liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân – kết quả thì nhân với nhau; những yếu tố nào cùng ảnh hưởng đến giá trị công nghệ thì cộng với nhau, hoặc điều chỉnh theo tỷ lệ phần trăm đối với chênh lệch các yếu tố so sánh định tính: những yếu tố nào liên quan đến giao dịch có quan hệ nguyên nhân – kết quả thì nhân với nhau; những yếu tố liên quan đến công nghệ có quan hệ tương tác thì cộng với nhau). - Xác định giá trị thị trường của công nghệ trên cơ sở các mức giá chỉ dẫn: Giá trị thị trường của công nghệ được xác định bằng bình quân các mức giá điều chỉnh của các công nghệ so sánh. Phương pháp chi phí Kỹ thuật định giá công nghệ theo phương pháp chi phí như sau: Xác định chi phí tái tạo (CRN) hoặc chi phí thay thế (COR): Chi phí tái tạo được xác định bằng tổng chi phí trực tiếp, chi phí gián tiếp và các chi phí khác. Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc xác định các chi phí nói trên gồm có: - Các khoản chi phí trực tiếp: +) Chi phí cho đơn đăng ký công nghệ như chi phí nộp đơn, thẩm định, cấp bằng độc quyền, kể cả chi phí dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật sư, đại diện; +) Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền công nghệ; +) Chi phí bảo vệ quyền đối với công nghệ; +) Các chi phí trực tiếp khác liên quan đến công nghệ. - Các khoản chi phí gián tiếp: +) Chi phí nghiên cứu và triển khai, kể cả chi phí cho nhân lực, nguyên vật liệu đầu vào, thiết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá trình thử nghiệm, thông tin, dữ liệu, năng lượng;
  • 26. 21 +) Chi phí sản xuất, tiếp thị, bao gồm chi phí phát triển máy móc, công cụ sản xuất, chi phí sản xuất ban đầu, chi phí phát triển sản xuất, chi phí đào tạo nhân lực, chi phí công bố; +) Chi phí quản trị công nghệ; +) Các chi phí gián tiếp khác. - Các khoản chi khác: +) Lợi nhuận; +) Các khoản thuế, phí phải nộp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ theo quy định của pháp luật Xác định mức hao mòn của công nghệ: Mức hao mòn của công nghệ vào thời điểm định giá bằng tổng mức hao mòn tự nhiên, mức hao mòn chức năng (nếu có) và mức hao mòn kinh tế (nếu có), trong đó: - Mức hao mòn tự nhiên (PD) vào thời điểm định giá được xác định căn cứ vào tuổi đời hiệu quả và tuổi đời kinh tế của công nghệ theo công thức sau: - Mức hao mòn chức năng (FO) được xác định căn cứ vào chi phí để khắc phục sự lỗi thời công nghệ, như chi phí nghiên cứu đổi mới, cải tiến công nghệ; hoặc chi phí li-xăng chéo; hoặc mức giảm giá nhằm kích cầu đối với sáng chế… - Mức hao mòn kinh tế (EO) được xác định căn cứ vào mức giảm giá công nghệ do chịu sự tác động trực tiếp của tình hình thị trường (lạm phát, quy định hạn chế của Chính phủ, khả năng thanh toán của xã hội…). Công thức xác định giá trị của công nghệ: V = CRN – (PD+FO+EO), hoặc
  • 27. 22 V = COR – (PD+FO+EO) Trong đó: V là giá trị của công nghệ CRN là chi phí tái tạo COR là chi phí thay thế PD là mức hao mòn tự nhiên FO là mức hao mòn chức năng EO là mức hao mòn kinh tế. Phương pháp thu nhập Trước hết, cần xác định các điều kiện của quá trình định giá, bao gồm: - Một công nghệ có giá trị vì có khả năng tạo ra thu nhập cho chủ sở hữu công nghệ. Chính vì vậy, giá trị của công nghệ và thu nhập từ công nghệ có mối quan hệ trực tiếp: nếu những yếu tố khác không đổi, thu nhập từ công nghệ càng cao thì giá trị của công nghệ càng lớn; - Giá trị thị trường của một công nghệ bằng với giá trị hiện tại (giá trị tại thời điểm định giá) của các khoản thu nhập ròng trong tương lai do công nghệ tạo ra; - Các điều kiện, giả thiết khác căn cứ vào những thông tin, dữ liệu được cung cấp trong Hồ sơ định giá. Áp dụng kỹ thuật dòng tiền chiết khấu để tính toán giá trị của công nghệ như sau: - Xác định doanh thu (Ri) trực tiếp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ trong mỗi giai đoạn (tính theo năm). Doanh thu trực tiếp từ việc sử dụng, khai thác công nghệ trong mỗi giai đoạn được xác định là lượng doanh thu chỉ có được nhờ sự có mặt của công nghệ trong sản phẩm tiêu thụ. Trong trường hợp công nghệ là yếu tố duy nhất quyết định doanh thu của sản phẩm thì Ri chính là toàn bộ doanh thu của sản phẩm. Trong trường hợp công nghệ chỉ là một trong các yếu tố quyết định
  • 28. 23 doanh thu của sản phẩm, thì phải tiến hành bóc tách lượng doanh thu từ công nghệ khỏi tổng doanh thu từ tất cả các yếu tố đó. Các yếu tố khác quyết định doanh thu của sản phẩm nói trên bao gồm các tài sản vô hình như nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, tên thương mại, uy tín, danh tiếng của doanh nghiệp… Lượng doanh thu trực tiếp Ri từ công nghệ trong trường hợp này được xác định như sau: Doanh thu trực tiếp từ công nghệ theo từng giai đoạn được xác định bằng mức chênh lệch doanh thu của sản phẩm trước khi có mặt và sau khi có mặt công nghệ trong sản phẩm, chẳng hạn để tính toán doanh thu trực tiếp từ công nghệ của một doanh nghiệp, nếu công nghệ là sự đổi mới (cải tiến) sản phẩm cũ thì mức chênh lệch nói trên bằng hiệu số giữa doanh thu của sản phẩm mới (mang công nghệ) và doanh thu của sản phẩm cũ của doanh nghiệp đó, hoặc hiệu số giữa doanh thu của sản phẩm chứa công nghệ mới và doanh thu của sản phẩm cùng loại (của doanh nghiệp khác) chứa đựng công nghệ lỗi thời hơn so với công nghệ. Doanh thu trực tiếp từ công nghệ cũng có thể được xác định bằng mức phí li-xăng đối với công nghệ hoặc đối với công nghệ so sánh tương đương. Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc ước tính doanh thu trực tiếp từ công nghệ gồm: +) Doanh thu ước tính hàng năm của sản phẩm là công nghệ; hoặc đơn giá và số lượng sản phẩm ước tính được tiêu thụ hàng năm (trong trường hợp công nghệ là yếu tố duy nhất quyết định doanh thu của sản phẩm); +) Doanh thu ước tính hàng năm của sản phẩm chứa công nghệ và doanh thu ước tính cùng kỳ của sản phẩm không chứa công nghệ (trong trường hợp công nghệ chỉ là một trong các yếu tố quyết định doanh thu của sản phẩm);
  • 29. 24 +) Mức phí li-xăng hàng năm theo hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng công nghệ được định giá; hoặc mức phí li-xăng đối với công nghệ so sánh tương đương trên thị trường. Các thông tin, dữ liệu đầu vào nói trên có thể được thu thập từ các nguồn sau: +) Báo cáo tài chính của doanh nghiệp (bao gồm số liệu ước tính doanh thu hàng năm của doanh nghiệp); +) Số liệu điều tra khảo sát thị trường, bao gồm số liệu về công nghệ so sánh tương đương; +) Dự báo doanh thu của chuyên gia kinh tế; +) Báo cáo, quyết định … của cơ quan có thẩm quyền. - Xác định chi phí (Ci) cho việc xây dựng, phát triển, sử dụng và khai thác công nghệ trong mỗi giai đoạn (tính theo năm). Chi phí cho việc xây dựng, phát triển, sử dụng và khai thác công nghệ trong mỗi giai đoạn được ước tính bằng tổng chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, trong đó chi phí trực tiếp gồm có các khoản chi phí cố định cho công nghệ không phụ thuộc vào việc công nghệ có được sử dụng, khai thác hay không, chi phí gián tiếp gồm có các khoản chi phí biến đổi tỷ lệ với mức độ sử dụng, khai thác công nghệ. Các thông tin, dữ liệu đầu vào phục vụ việc xác định chi phí cho công nghệ gồm: +) Các khoản chi phí trực tiếp được ước tính hàng năm:  Chi phí cho đơn đăng ký công nghệ (kể cả chi phí nộp đơn, thẩm định, cấp bằng độc quyền, dịch thuật tài liệu, chi phí thuê luật sư, đại diện);  Chi phí duy trì hiệu lực bằng độc quyền công nghệ;  Chi phí bảo vệ quyền đối với công nghệ, kể cả chi phí giám định…
  • 30. 25  Các chi phí trực tiếp khác như: chi phí quảng cáo, chào hàng, chi phí cơ hội tính theo lãi suất vốn đầu tư, chi phí tiền vay ngân hàng theo mức lãi suất cho vay trung bình của ngân hàng… +) Các khoản chi phí gián tiếp được ước tính hàng năm:  Chi phí nghiên cứu và phát triển (kể cả chi phí cho nhân lực, nguồn cung cấp đầu vào, thiết bị kiểm tra và thí nghiệm, quá trình thử nghiệm, thông tin, dữ liệu và năng lượng);  Chi phí sản xuất, tiếp thị (kể các chi phí mua sắm máy móc, công cụ sản xuất, chi phí sản xuất ban đầu, chi phí phát triển sản xuất, chi phí đào tạo nhân lực);  Chi phí mua công nghệ theo li-xăng chéo… Các thông tin, dữ liệu đầu vào nói trên có thể được thu thập từ các nguồn sau: +) Báo cáo tài chính của doanh nghiệp, bao gồm số liệu ước tính chi phí trực tiếp và gián tiếp hàng năm của doanh nghiệp; +) Số liệu điều tra, khảo sát thị trường bao gồm số liệu về công nghệ so sánh tương đương; +) Dự báo chi phí của chuyên gia kinh tế; +) Báo cáo, quyết định… của cơ quan có thẩm quyền. - Xác định thu nhập ròng (dòng tiền) từ tổng doanh thu và tổng chi phí theo công thức sau: CFi=Ri-Ci Trong đó: CFi là thu nhập ròng giai đoạn (năm) thứ i Ri là doanh thu từ công nghệ giai đoạn (năm) thứ i Ci là chi phí đầu tư cho công nghệ giai đoạn (năm) thứ i - Xác định tỷ suất chiết khấu (r) theo một trong các cách sau:
  • 31. 26 Cách 1: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng tổng các yếu tố cấu thành sau: tỷ suất phi rủi ro (là tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro, được tính bằng lãi suất trả trước của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn từ 10 năm trở nên ở thời điểm gần nhất với thời điểm định giá) + tỷ giá hối đoái+ tỷ lệ lạm phát (trượt giá) kỳ vọng dài hạn (hoặc ngắn hạn); Cách 2: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng bình quân gia quyền của các lãi suất từ các nguồn huy động vốn khác nhau đầu tư vào công nghệ (ví dụ: Lãi suất kỳ vọng của nhà đầu tư + lãi suất cho vay của ngân hàng + tỷ suất thu hồi vốn); hoặc bằng chi phí vốn/tổng vốn đầu tư cho công nghệ; Cách 3: tỷ suất chiết khấu được xác định bằng bình quân các tỷ suất chiết khấu của các công nghệ so sánh tương đương trên thị trường. - Xác định tuổi đời kinh tế của công nghệ (n): Tuổi đời kinh tế của công nghệ được xác định bằng số năm kỳ vọng mà công nghệ có khả năng tạo ra thu nhập ròng cho chủ sở hữu công nghệ. Các thông tin, dữ liệu phục vụ việc xác định tuổi đời kinh tế của công nghệ gồm: +) Thời hạn bảo hộ công nghệ do pháp luật quy định (hoặc thời hạn hiệu lực của bằng độc quyền công nghệ); +) Thời hạn thỏa thuận (hợp đồng) li-xăng công nghệ; +) Số liệu thống kê, điều tra, khảo sát bao gồm số liệu về công nghệ so sánh tương đương; +) Dự báo của chính chủ sở hữu công nghệ. - Xác định giá trị hiện tại của công nghệ (PV) theo công thức sau: Trong đó: PV là giá trị hiện tại của công nghệ CFt là thu nhập ròng năm thứ t từ công nghệ
  • 32. 27 n là tuổi đời (số năm) kinh tế của công nghệ r là tỷ suất chiết khấu 1.2. Thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ tại một số nƣớc trên thế giới 1.2.1. Tại Trung Quốc Từ những năm 80 của thế kỷ trước, để đáp ứng các yêu cầu của cải cách, mở cửa với thế giới bên ngoài và thúc đẩy sự phát triển của khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá, xã hội, một loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của Trung Quốc đã được ban hành, tạo môi trường pháp lý vững chắc cho xúc tiến định giá công nghệ. Trong đó, Luật Thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của Trung Quốc được ban hành vào năm 1996. Luật này quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của Chính phủ, chủ sở hữu kết quả KH&CN, doanh nghiệp, cơ quan trung gian tham gia kinh doanh môi giới và các tổ chức đầu tư tài chính trong kết nối với việc thương mại hoá công nghệ. Song song với các cơ chế, chính sách hỗ trợ thúc đẩy hoạt động định giá công nghệ đã được hình thành như: Hội chợ công nghệ, chợ công nghệ, sở giao dịch cổ phiếu công nghệ, vườn ươm công nghệ, công viên khoa học công nghệ của các trường đại học, vườn ươm doanh nghiệp, trung tâm xúc tiến sức sản xuất, trung tâm chuyển giao công nghệ… Đây là những tổ chức tích hợp các nguồn lực KH&CN, cung cấp và tham gia vào việc phát triển và phổ biến các thành tựu KH&CN trong nước và thế giới; thúc đẩy và ươm tạo thành tựu KH&CN có tiềm năng thị trường; tận dụng lợi thế của các trường đại học, đồng thời kết hợp với doanh nghiệp cùng tham gia vào định giá công nghệ quốc tế và đồng hoá tối ưu các công nghệ được giới thiệu, phát triển và đổi mới; cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin về nguồn lực và công nghệ. Trong các mô hình xúc tiến định giá công nghệ xuất sắc của Trung Quốc phải kể đến mô hình các sàn giao dịch công nghệ, tiêu biểu là mô hình
  • 33. 28 sàn giao dịch Thượng Hải (STTE) – mô hình được đánh giá là thành công nhất ở Châu Á trong những năm qua. STTE là sàn giao dịch công nghệ đầu tiên và lớn nhất của Trung Quốc, được chính quyền thành phố Thượng Hải và Bộ KH&CN Trung Quốc thành lập vào năm 1993. Đây là đơn vị công ích, phi lợi nhuận của nhà nước, hoạt động theo mô hình tương tự như một đơn vị sự nghiệp có thu ở Việt Nam. STTE có chức năng cung cấp thông tin về công nghệ. Các hoạt động tư vấn, định giá của STTE được thực hiện ở góc độ: Nghiên cứu thị trường; liên kết các đối tác, dịch vụ đầu tư tài chính; theo đuổi các mục đích đầu tư. Các hoạt động trên được thực hiện bởi một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có trình độ cao, các nhà môi giới công nghệ chuyên nghiệp và các chuyên gia. Một số kết quả nổi bật mà STTE đã cung cấp cho các khách hàng trong và ngoài nước thời gian qua phải kể đến là: hệ thống định vị tàu thuyền tự động cho KTTC; công nghệ viễn thông cho Công ty GISsoft của Hàn Quốc; hệ thống chẩn đoán trong ống nghiệm cho TAKES của Phần Lan; công nghệ bể chứa xoay tròn, công nghệ bạc nano… Tại Trung Quốc, cá nhân, tổ chức hoạt động định giá công nghệ thường phải được cấp giấy phép. Điều 18 của Luật Thúc đẩy chuyển hoá thành tựu KH&CN của Trung Quốc quy định: Cơ quan định giá công nghệ khi hoạt động phải xin giấy phép kinh doanh theo quy định liên quan của Nhà nước; cán bộ quản lý nghiệp vụ trong cơ quan này phải xin giấy chứng nhận tư cách hành nghề theo quy định liên quan của Nhà nước. Ngoài ra, tại Trung Quốc còn có những quy định cụ thể về năng lực, phẩm chất mà các cá nhân, tổ chức định giá công nghệ cần đáp ứng như: Tiêu chuẩn cán bộ làm công tác định giá công nghệ là phải tốt nghiệp đại học trở lên và được đào tạo nghề theo ba cấp. Các chức danh này sau khi tốt nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề định giá công nghệ.
  • 34. 29 Một trong những điểm nổi bật của quản lý hoạt động định giá công nghệ ở các nước là nhấn mạnh đến hợp đồng định giá công nghệ. Chính phủ Trung Quốc quy định rõ tiến hành giao dịch công nghệ bắt buộc phải hợp đồng dưới hình thức văn bản (không thể thoả thuận bằng lời). Lý do được nêu ra trong: “Hướng dẫn một số chính sách cụ thể đối với thị trường công nghệ” của Uỷ ban KH&KT nhà nước là: - Giao dịch ở đây liên quan đến quyền lợi công nghệ và lợi ích kinh tế của người đương sự, không ít giao dịch công nghệ có liên quan đến nhiều vấn đề phức tạp như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, phân chia quyền lợi chuyển giao công nghệ, trách nhiệm rủi ro trong nghiên cứu và triển khai, giữ bí mật thông tin công nghệ, trách nhiệm đối với hành vi xâm phạm về quyền lợi trong công nghệ… - Liên quan đến các chính sách ưu đãi của Nhà nước trên các mặt tài chính, tín dụng, thuế, khen thưởng… - Công nghệ là hàng hóa mang hình thái tri thức vô hình, hợp đồng công nghệ có nhiều khoản mục, thời hạn thực hiện tương đối lâu dài, cách tính về giá cả, thù lao cũng không giống với hợp đồng thông thường. 1.2.2. Tại Hàn Quốc Trong những năm gần đây, Hàn Quốc đã tập trung khai thác các kết quả nghiên cứu mà chủ yếu tập trung vào các hoạt động định giá công nghệ. Các chính sách chính về định giá công nghệ từ nhà nước vào tư nhân chỉ thực sự bắt đầu vào những năm 1990 vì khi đó chính sách khoa học và công nghệ của Hàn Quốc thực sự tập trung vào phát triển công nghệ (Ví dụ như chương trình Nghiên cứu và phát triển đặc biệt, một trong những chương trình nghiên cứu phát triển cấp quốc gia, đã đầu tư hết 4,7 tỷ USD cho khoảng 19 000 dự án trong khoảng thời gian từ năm 1982-2000. Tuy thế, chỉ có 4,8% dự án được sử dụng và chỉ có 1% ngân sách Nghiên cứu phát triển được hoàn trả lại cho nhà nước). Đầu những năm 1990, nhận thấy tầm quan trọng của việc
  • 35. 30 triển khai các kết quả nghiên cứu nhà nước, chính phủ Hàn Quốc bắt đầu thực hiện những nỗ lực to lớn để tăng tốc quá trình thương mại hóa công nghệ được phát triển trong các cơ sở nghiên cứu quốc gia bao gồm các viện nghiên cứu và các trường đại học. Một chuỗi các chính sách tiền đề cho chuyển giao công nghệ đã cải thiện được cơ sở hạ tầng về chuyển giao và thương mại hóa công nghệ. Trong những năm gần đây, phát triển và khai thác khoa học và công nghệ được xem như là động lực chính cho sự phát triển kinh tế ở Hàn Quốc. Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 1993-1997 đã làm nổi bật vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy hỗ trợ hoạt động định giá công nghệ từ các Viện nghiên cứu nhà nước vào các doanh nghiệp công nghiệp, nhờ đó nâng cao được tính cạnh tranh kinh tế và công nghệ của Hàn Quốc. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính Hàn Quốc năm 1997, khi việc định giá công nghệ bắt đầu, rất nhiều công nghệ thương mại được phát triển bởi các viện nghiên cứu được xem như là giải pháp chính cho việc vực dậy sự phát triển của nền kinh tế. Chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (được sửa đổi tháng 1 năm 1995) đã đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm ươm tạo công nghệ mà trong đó các viện nghiên cứu nhà nước giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc cung cấp các nguồn đầu tư mạo hiểm, chuyên gia quản lý, bí quyết công nghệ. Một trong những đặc trưng chính của chương trình này là đẩy mạnh việc mở rộng và phổ biến công nghệ. Để cho chương trình này phù hợp với các chính sách trong kế hoạch 5 năm và chương trình hành động năm 1997, chính phủ đã thay đổi một số chính sách nhằm đẩy mạnh hợp tác và liên kết giữa các viện trường và công nghiệp. Trước khi xây dựng nền tảng thể chế và pháp luật ở quy mô quốc gia để đẩy mạnh định giá công nghệ và thương mại hóa công nghệ từ nhà nước vào tư nhân, mỗi viện nghiên cứu nhà nước phải tự tiến hành các hoạt động định giá công nghệ độc lập. Tuy nhiên, một vài viện nghiên cứu đã cho hoạt động
  • 36. 31 các văn phòng ứng dụng công nghệ và một số văn phòng vẫn chưa hoạt động do hạn chế về nhân lực và không đủ ngân sách. Sau khi ban hành chương trình hành động năm 2000, sự phát triển của mạng lưới vùng và quốc gia đối với định giá công nghệ bắt đầu trở nên thực sự rõ nét. Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc KTTC có vai trò như là trung tâm định giá công nghệ quy mô quốc gia và các viện nghiên cứu nhà nước tạo thành liên kết vùng cho các văn phòng ứng dụng công nghệ cấp vùng và mạng lưới đẩy mạnh công nghệ trong công nghiệp trong các trường đại học (UNITEF) để nâng cao năng lực cho chính các viện nghiên cứu nhà nước về định giá công nghệ. Các viện nghiên cứu của chính phủ đóng vai trò dẫn đầu trong liên kết văn phòng vùng mà nhiệm vụ chính của các viện bao gồm nhận dạng các công nghệ tiềm năng và cung cấp chúng cho các nhà công nghiệp. Mặt khác các giáo sư kỹ thuật phụ trách mạng lưới UNITEF trong các hoạt động chính của mình sẽ cung cấp các tư vấn hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để hiện thực hóa mục tiêu của chương trình hành động năm 2000, Trung tâm chuyển giao công nghệ Hàn Quốc (KTTC) được thành lập tháng 4 năm 2000 như là một chính thể hợp pháp đặc biệt với kinh phí được cấp bởi cả nhà nước và tư nhân. KTTC có nhiều nhiệm vụ cần thực hiện như: xây dựng mạng lưới hỗ trợ trong và ngoài nước về định giá và thương mại hóa công nghệ, nâng cao tính cạnh tranh trong toàn bộ ngành công nghiệp bằng cách khởi động thị trường công nghệ. Mạng lưới hỗ trợ bao gồm mạng lưới trong nước, các cơ quan định giá công nghệ, viện nghiên cứu công, các viện nghiên cứu của Chính phủ, các trường đại học, các công ty, cá nhân và cả mạng liên kết vùng (các văn phòng ứng dụng công nghệ với mạng lưới ngoài nước mở rộng khắp châu Á, Thái Bình Dương, Mỹ và Châu Âu). KTTC đóng vai trò môi giới chuyển giao công nghệ giữa người mua và người bán, định giá công nghệ chuyển giao, đầu tư kinh phí cho việc thương mại hóa bao gồm cả việc ươm tạo doanh nghiệp công nghệ (TBI) và Nghiên cứu phát
  • 37. 32 triển & kinh doanh (R&BD) và tích lũy cơ sở dữ liệu liên quan đến công nghệ (Ngân hàng dữ liệu công nghệ quốc gia, dữ liệu về công ty, dữ liệu về các chuyên gia…). Tất cả các kết quả R&D công đều được lưu lại Ngân hàng dữ liệu quốc gia theo yêu cầu của chương trình hành động 2000. KTTC đang thực hiện 4 chặng của chương trình thương mại hóa công nghệ. Các chặng này lần lượt theo thứ tự: cung cấp công nghệ để thương mại hóa, kiểm tra công nghệ để thương mại hóa, thử nghiệm thương mại hóa công nghệ và đầu tư công nghệ để thương mại hóa. Chiến lược của KTTC và phương pháp tiếp cận bao gồm: KTTC sử dụng một loạt các phương pháp chuyển giao công nghệ và thương mại hóa khác nhau, từ cấp phép, mua hàng bằng cổ phiếu, trao đổi học thuật và cơ sở dữ liệu nghiên cứu. Chiến lược toàn cầu hóa công nghệ của KTTC là tận dụng mọi cơ hội để cải thiện cơ sở hạ tầng công nghệ của Hàn Quốc và cạnh tranh toàn cầu. Dịch vụ của KTTC : Chuyển giao công nghệ: Tìm kiếm đối tác, KTTC xem xét những công nghệ để bán và ước tính khả năng thương mại, xác định xu hướng thị trường cho ngành công nghiệp và xác định cấp phép hoặc các đối tác có tiềm năng. KTTC cung cấp hỗ trợ các giải đáp về những vấn đề trong hệ thống pháp luật cũng như sự khó khăn trong việc đàm pháp, thỏa thuận hạn chế nguy cơ đổ vỡ giao dịch công nghệ. Dịch vụ định giá công nghệ: KTTC nghiên cứu tính khả thi về công nghệ ở giai đoạn đầu thông qua thị trường, phân tích kỹ thuật và kinh tế, thực hiện kinh doanh và định giá công nghệ. Dịch vụ sáp nhập & mua lại: KTTC thúc đẩy sát nhập của các công ty có liên quan dựa trên các yếu tố công nghệ, các dự án phòng thí nghiệm …để tìm kiếm những đối tác thích hợp cho ký kết hợp đồng một cách dễ dàng. Định giá công ty được chú trọng nhất trong các yếu tố phi tài chính của công ty chẳng hạn như khả năng cạnh tranh công nghệ. Chỉ số cạnh tranh công
  • 38. 33 nghệ bao gồm khả năng của Giám đốc điều hành và Giám đốc công nghệ, một phần đầu tư R&D của công ty, mức độ nguồn nhân lực công nghệ liên quan đến chất lượng của tài sản trí tuệ và mức độ của các cơ sở nghiên cứu. Tổ chức sức mạnh công nghệ trong công nghiệp các trường đại học (UNITEF), như là một sự hợp tác phi lợi nhuận, được tổ chức bởi 570 giáo sư kỹ thuật từ khắp các trường đại học trên cả nước vào tháng 9 năm 1996 để xây dựng chương trình hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bộ phận nghiên cứu ở các trường đại học. UNITEF trở thành mô hình đầu tiên về sự hợp tác giữa các trường đại học và khối công nghiệp và là hệ thống Brain Pool System hình thành một cách tự nguyện đầu tiên. UNITEF đang chủ yếu thực hiện chương trình giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa giải quyết các vấn đề kỹ thuật vướng mắc. UNITEF cũng thực hiện chương trình hỗ trợ định giá công nghệ từ nhà nước sang tư nhân (UPTTS) được tài trợ bởi Bộ Năng lượng, Công nghiệp và Thương mại (MOCIE) và chương trình hỗ trợ định giá công nghệ (TES). Chương trình hỗ trợ định giá công nghệ TES thúc đẩy hợp tác và trao đổi giữa các trường đại học và các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương trình cũng cố gắng để thiết lập sự tin tưởng giữa hai bên bằng việc giúp đỡ hết mình trong công nghệ, nhân lực và thông tin cho việc nâng cao năng lực trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để đạt được mục đích này, chương trình cung cấp và tư vấn miễn phí về kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian đầu và chỉ đòi hỏi chi phí khi công việc thành công. Có khoảng 2000 giáo sư từ 122 trường đại học tham gia vào chương trình này và họ được phân ra thành 8 vùng trên cả nước. Chương trình hỗ trợ định giá công nghệ từ nhà nước sang tư nhân (UPTTS), được bắt đầu vào năm 2000, tập trung hỗ trợ các kết quả nghiên cứu xuất sắc từ các trường đại học bằng cách tài trợ để tiếp tục phát triển kết quả nghiên cứu, nhờ đó mà các kết quả nghiên cứu này có thể dễ dàng được thương mại hoá và chuyển giao cho
  • 39. 34 khu vực tư nhân. Chương trình này góp phần giảm thiểu rủi ro bằng công nghệ có tiềm năng phát triển, xuất phát chủ yếu trong các doanh nghiệp tư nhân với việc định giá các đặc tính thương mại trong mỗi nguyên mẫu từ khi nghiên cứu cho đến thương mại hóa. Hơn nữa, chương trình hỗ trợ định giá công nghệ (TES) hỗ trợ các nhiệm vụ định giá trên danh nghĩa là tổ chức của chính phủ, tổ chức công và ngân hàng trong việc định giá các dự án R&D, định giá công nghệ mới. Trong hầu hết các trường hợp, chương trình đảm bảo sự công bằng và khách quan trong việc định giá; tên người định giá được giữ kín. Cuối cùng, chương trình UNITEF dự kiến mở rộng chương trình phát triển ra các trường đại học bên ngoài nước và các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tương lai. 1.2.3. Tại Cộng hòa Liên bang Đức Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có nhiệm vụ chính là tìm hiểu, phát triển khoa học và công nghệ có liên quan đến các mối quan hệ trong hệ thống công nghệ như vấn đề về môi trường, kinh tế, xã hội, chính trị... Đó là nghiên cứu về chính sách công nghệ, ảnh hưởng của công nghệ đến hệ thống khoa học kỹ thuật, xã hội. Các nhiệm vụ này có liên quan mật thiết đến nhau giữa các nhân tố: (1) giải quyết vấn đề trước khi đưa ra hoạch định, chính sách mới, tri thức mới về công nghệ, (2) làm rõ tác động đến kinh tế, xã hội, (3) phát triển những lợi thế hay ngăn ngừa rủi ro có thể mang lại từ công nghệ (Quá trình dự báo công nghệ) và (4) phương pháp khoa học và thông tin liên quan đến công nghệ. Các nhiệm vụ này có tác động và điều chỉnh lẫn nhau trong suốt quá trình triển khai. Vì thế, các tổ chức định giá công nghệ của Đức phải xem xét một cách tổng thể các mục trong công tác định giá để có thể đưa ra được những tư vấn có lợi nhất đối với cơ quan quản lý, nhà hoạch định chính sách. Khi các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chính sách mới thì các tổ chức định giá công nghệ của Đức tiếp tục đánh giá hiệu quả, tác động của chính sách và điều tiết các
  • 40. 35 mục tiêu còn lại. Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có tổng số 359 tổ chức, trong đó 309 tổ chức hoạt động, 1667 dự án (cơ sở dữ liệu của ITAS năm 1997). Các tổ chức định giá công nghệ của Đức có thể kể đến như: Viện công nghệ Karlsruhe (KIT), Viện định giá công nghệ và phân tích hệ thống (ITAS), viện định giá công nghệ và nghiên cứu tương lai (IZI)… Ví dụ: Viện định giá công nghệ và phân tích hệ thống (ITAS) là tổ chức lớn nhất và lâu đời trong lĩnh vực khoa học của Đức đối với định giá công nghệ (TA) và phân tích hệ thống trong lý thuyết và thực hành. Mục tiêu chủ yếu là nghiên cứu, tư vấn về chính sách công nghệ. ITAS được phép tư vấn về chính sách dựa trên các nghiên cứu của mình cho các Quốc Hội, Bộ, ngành, cơ quan… Ngoài ra, ITAS điều tra phát triển khoa học và công nghệ và tập trung vào định giá tác động, miền ảnh hưởng có thể là có lợi hoặc có hại đối với một công nghệ mới được tạo ra. ITAS phân tích và định giá về sự phát triển kỹ thuật xã hội để cung cấp các lựa chọn, tạo lập chính sách cho người ra quyết định. Nghiên cứu bao gồm các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, thể chế, văn hóa, sinh thái,…Vì thế, đội ngũ nghiên cứu của ITAS bao gồm rất nhiều các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Với nguồn nhân lực trên 100 nhân viên nghiên cứu khoa học chủ yếu là các nhà khoa học tự nhiên và kỹ sư còn lại là các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác về xã hội, văn hóa… Năm 1990, ITAS thành lập Văn phòng Thẩm định Công nghệ tại Bundestag Đức (TAB) có chức năng: (1) Phân tích tiềm năng của phát triển khoa học và kỹ thuật mới, định giá công nghệ, tìm hiểu các tác động của công nghệ đến xã hội, kinh tế và môi trường có liên quan, các điều kiện pháp lý, kinh tế và xã hội của phát triển khoa học và công nghệ và thực hiện để điều tra, (2) phân tích tác động tiềm năng toàn diện của công nghệ hướng tới tương lai, (3) trên cơ sở đó để phát triển những hành
  • 41. 36 động thiết thực là tư vấn cho nhà hoạch định chính sách. Cùng với Nhóm định giá công nghệ châu Âu (ETag) ITAS cũng được phối hợp một mạng lưới châu Âu để tư vấn cho định giá tùy chọn khoa học công nghệ (STOA), các tổ chức định giá công nghệ của Nghị viện châu Âu từ năm 2005. Đặc trưng nghiên cứu của ITAS: - Phù hợp cho các vấn đề nghiên cứu và thực hành: Với nghiên cứu của mình, ITAS cần thiết phải tham khảo ý kiến về những tác động của khoa học và công nghệ. Các kiến thức được phát triển trên nền của các vấn đề xã hội, lý thuyết, và các quyết định sắp tới về công nghệ. - Liên quan đến tương lai và sự phản ánh: Theo nguyên tắc cơ bản, luôn luôn có những tiềm năng trong một cái mới. Vì thế, việc nghiên cứu, dự báo tương lại cho mỗi một đối tượng nghiên cứu là điều rất cần thiết. - Tính tiêu chuẩn và tính bền vững: ITAS tiếp cận vấn đề định giá công nghệ theo phương pháp khoa học. Tiêu chuẩn về đạo đức, nguyên tắc chung, phát triển bền vững các tiểu chuẩn như là một sự định hướng chung trong công tác định giá. - Cơ quan liên ngành: Phạm vi nhiệm vụ của ITAS yêu cầu một số các cơ quan liên ngành, công dân.
  • 42. 37 Tiểu kết chƣơng 1 Trong Chương 1, luận văn đã hệ thống hóa khái niệm về công nghệ, cơ sở lý luận về chuyển giao công nghệ, cơ sở lý luận về định giá công nghệ và các tổ chức định giá công nghệ. Tại Chương 1, luận văn cũng đã đi sâu tổng quan về tình hình thực tiễn các tổ chức định giá công nghệ của các nước như Trung Quốc, tại Hàn Quốc và tại Cộng hòa Liên bang Đức. Hệ thống khái niệm và cơ sở lý luận và thực tiễn về các tổ chức định giá công nghệ được trình bày tại Chương 1 là nền tảng lý thuyết để đánh giá, phân tích thực trạng về các tổ chức định giá công nghệ tại Chương 2. Trên cơ sở đó để rút ra những phân tích, so sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa các tổ chức này ở Việt Nam so với các nước trên thế giới sẽ được trình bày tại các Chương tiếp theo.
  • 43. 38 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG VỀ CÁC TỔ CHỨC ĐỊNH GIÁ CÔNG NGHỆ TẠI VIỆT NAM 2.1. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong thị trƣờng KH&CN Việt Nam 2.1.1. Các chính sách, quy định của Nhà nước về hoạt động định giá công nghệ Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở nước ta, hiên nay đang có một số chính sách liên quan đến hoạt động tư vấn định giá công nghệ, cụ thể là: - Luật Chuyển giao công nghệ (Luật số 07/2017/QH 14 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19/6/2017) quy định tại các Điều 43, Điều 45, Điều 48. Nghị định số 76/NĐ-CP, ngày 15/5/2018, hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ. - Luật Khoa học và Công nghệ (Luật số 29/2013/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2013). - Luật Thương mại (Luật số 36/2005/QH 11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005) quy định tại các Điều 150 đến Điều 154. - Luật Sở hữu trí tuệ (Luật số 50/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/12/2001) quy định tại Điều 57. - Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Về quan điểm chung, các văn bản quy phạm pháp luật đó thể hiện một số quan điểm và quy định sau:
  • 44. 39 - Nhà nước cam kết khuyến khích phát triển hoạt động tư vấn định giá công nghệ. - Về tổ chức, cá nhân kinh doanh tư vấn định giá công nghệ; Điều kiện hoạt động (Điều 47, Điều 48 Luật chuyển giao công nghệ); Quyền của tổ chức, cá nhân kinh doanh tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ (Điều 46 của Luật chuyển giao công nghệ; Nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân kinh doanh tư vấn, môi giới chuyển giao công nghệ (Điều 47 của Luật chuyển giao công nghệ và Điều 81 của Luật Thương mại). Thông tư số 31/2011/TT-BKHCN ngày 15/11/2011 về việc hướng dẫn nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức đánh giá, định giá công nghệ; Thông tư số 08/2013/TT-BKHCN ngày 08/3/2013 về việc hướng dẫn nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ. - Nghĩa vụ người sử dụng môi giới, tư vấn nói chung (Điều 85 của Luật Thương mại). - Về khuyến khích dành riêng cho một số đối tượng đặc thù: Đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 hướng dẫn Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa). 2.1.2. Thực trạng về nhu cầu định giá công nghệ trong thị trường KH&CN Việt Nam Qua điều tra, khảo sát có thể thấy được thực tế rằng hoạt động định giá công nghệ có nhu cầu khá lớn trong xã hội, tuy vậy dịch vụ này chưa đáp ứng được nhu cầu, do vậy, hoạt động định giá công nghệ cần triển khai mạnh mẽ hơn. Thực tế hoạt động của các tổ chức này còn rất sơ khai, số lượng các đơn vị hoạt động mang tính chuyên nghiệp rất hiếm. Mặt khác, các doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm, chưa có thói quen thuê tư vấn định giá công nghệ trong các khâu của quy trình CGCN, phần lớn chỉ tập
  • 45. 40 trung vào việc mua máy móc, thiết bị… Cùng với đó là nguồn cung công nghệ chưa dồi dào, cung và cầu chưa gặp nhau. Chính vì những lý do trên đã khiến hoạt động định giá công nghệ rất yếu, chỉ có khoảng 42% các tổ chức có hoạt động định giá công nghệ có doanh thu từ hoạt động này và doanh thu lại rất nhỏ, không bù đắp đủ chi phí khiến cho các tổ chức này phải cung cấp thêm các dịch vụ khác để duy trì hoạt động (tư vấn công nghệ, định giá nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp...). Một vấn đề quan trọng làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của dịch vụ này đó là hoạt động mua bán, giao dịch công nghệ thường xảy ra một cách trực tiếp, không qua trung gian định giá công nghệ. Các tổ chức trung gian, môi giới cần phát huy vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thông tin, kết nối các bên cung cầu, hỗ trợ các hoạt động giao dịch công nghệ. Bên cạnh sự hoạt động chính thức dưới sự quản lý của Nhà nước, hoạt động mua bán giao dịch công nghệ còn hoạt động không chính thức, thiếu sự kiểm soát của Nhà nước, sự kết nối, chia sẻ thông tin còn yếu và thiếu các nhà tư vấn định giá công nghệ trình độ cao cũng làm giảm sức hút, lòng tin của doanh nghiệp đối với hoạt động này. Thực trạng hoạt động định giá công nghệ trong các viện nghiên cứu, trường đại học Các viện nghiên cứu và các trường đại học ở Việt Nam có quy mô lực lượng R&D gần như nhau. Phần lớn các viện nghiên cứu và triển khai quan trọng là các viện thuộc nhà nước. Viện lớn nhất là Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam với 34 đơn vị sự nghiệp nghiên cứu khoa học (27 đơn vị do Thủ tướng Chính phủ thành lập và 07 đơn vị do Chủ tịch Viện thành lập). Tính đến tháng 12/2013, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam có tổng số trên 4000 cán bộ, viên chức, trong đó có 2649 cán bộ trong chỉ tiêu biên chế được giao; 44 GS, 161 PGS, 35 TSKH, 706 TS, 781 ThS và 794 cán bộ, viên chức có trình độ đại học. Hiện nay, Việt Nam có
  • 46. 41 khoảng 1.500 viện và trung tâm nghiên cứu trong tất cả các ngành kinh tế với khoảng 2,6 triệu người tham gia nghiên cứu khoa học. Trong số đó, có gần 60.000 người làm việc trực tiếp trong các viện nghiên cứu , các trường đại học và các doanh nghiệp. Ngoài hai viện nghiên cứu lớn, còn có các tổ chức khoa học trực thuộc các bộ và các tỉnh/thành phố. Những tổ chức nghiên cứu này cũng nhận được nguồn vốn của Nhà nước thông qua các bộ/các tỉnh của mình để tiến hành nghiên cứu và xử lý các vấn đề khoa học công nghệ và chính sách trong các lĩnh vực liên quan tới các bộ chủ quản/các tỉnh. Các viện nghiên cứu và triển khai của nhà nước hoạt động tách biệt với các chủ thể đổi mới khác. Các viện này ít có sự giao lưu, gắn kết và không chia sẻ những vấn đề cần học hỏi và nghiên cứu với nhau và đặc biệt ít có mối liên kết với các doanh nghiệp nhất là với các doanh nghiệp không trực thuộc cùng một cơ quan chủ quản. Chính vì vậy, hiện nay có sự bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai với nhu cầu về công nghệ của các doanh nghiệp. Nhu cầu về định giá công nghệ của các tổ chức này về tiềm năng thì rất lớn nhưng thực tế triển khai hiện nay còn hạn chế. Các doanh nghiệp không kỳ vọng nhiều lắm vào khả năng đổi mới công nghệ của các viện nghiên cứu và triển khai. Theo số liệu điều tra 123 doanh nghiệp năm 2003 cho thấy 84% ý tưởng đổi mới nảy sinh từ các hoạt động của bản thân doanh nghiệp và khách hàng, chỉ có 10% là từ các viện nghiên cứu và triển khai. Khoảng 60% doanh nghiệp không có liên hệ với các viện nghiên cứu và triển khai 10.
  • 47. 42 Bảng 2. 1: Những bất cập giữa năng lực của các viện nghiên cứu và triển khai với cầu về công nghệ của các doanh nghiệp Các hoạt động khoa học và công nghệ Đánh giá của doanh nghiệp Đánh giá của viện nghiên cứu Khác biệt R&D công nghiệp 6 1 -5 Thiết kế kỹ thuật và sản xuất thiết bị 10 6 -4 Sản xuất công nghiệp thử nghiệm 5 11 6 Thích ứng các thiết bị hiện có 11 8 -3 Điều chỉnh lại thiết kế sản phẩm 8 7 -1 Cung cấp các dịch vụ phân tích, thử nghiệm sản phẩm mẫu 1 4 3 Cung cấp các dịch vụ lắp đặt và vận hành đối với thiết bị mới 2 10 8 Cung cấp các dịch vụ máy móc và thiết bị công nghệ 3 9 6 Cung cấp đấu thầu mua sắm thiết bị 9 3 -6 Cung cấp thông tin công nghệ 7 2 -5 Cung cấp dịch vụ đào tạo 4 5 1 Nguồn: Bạch Tân Sinh, Chuyển đổi hệ thống quốc gia về đối mới của Việt Nam: Trường hợp học hỏi về chính sách và tổ chức tại Viện Nghiên cứu và triển khai công nghệ, Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN quốc gia (NISTPASS). Mặc dù đào tạo vẫn chiếm ưu thế trong các hoạt động của các trường đại học, nhưng công tác nghiên cứu cũng đã dần được đưa vào. Hiện tại, khoảng 4% chi khoa học và công nghệ của nhà nước là từ các trường đại học, chiếm gần 15,3% chi nghiên cứu triển khai của các trường đại học.
  • 48. 43 Nguồn chi nghiên cứu và triển khai còn lại là từ các hợp đồng với các tổ chức; trong số 29,2% là từ các doanh nghiệp, 6,7% từ các tổ chức khác và 48,8% là từ các nguồn quốc tế (Trần Ngọc Ca và cộng sự, 2005). Tuy nhiên, công tác nghiên cứu tại các trường đại học còn có nhiều khiếm khuyết. Nhiều trường đại học còn xa mới đạt được tới trình độ của các trung tâm nghiên cứu và triển khai ưu tú. Các trường đại học ở Việt Nam còn thiếu quyền tự chủ. Mặc dù hoạt động của các trường đại học đã mang tính độc lập hơn nhiều so với trước đây, nhưng họ vẫn thực hiện theo chỉ đạo và điều hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Mặc dù đã có biện pháp nhằm xóa bỏ sự tách biệt giữa giảng dạy và nghiên cứu nhưng người ta vẫn quan sát thấy tình trạng thiếu nghiên cứu và sự gắn kết yếu ớt giữa nghiên cứu và giảng dạy. Cơ chế khuyến khích hiện tại không khuyến khích các giáo viên các trường đại học áp dụng cách tiếp cận mang tính tiên phong. Có ít cơ chế khuyến khích họ hợp tác với các tổ chức và công ty khác. Sự hợp tác nếu có thường là ngắn hạn và chủ yếu dựa vào các mối quan hệ cá nhân và phi chính thức. Trong hệ thống hiện có, các trường đại học từ trước đến nay không coi các hoạt động định giá công nghệ là quan trọng đối với sự tồn tại của mình, nếu có, thực tế là không hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các cơ sở và kiến thức kỹ thuật thực hành của các trường đại học còn tụt hậu so với của các doanh nghiệp. Viện nghiên cứu, trường đại học cũng chủ động trong tìm kiếm các tổ chức cung cấp dịch vụ, tập trung vào tư vấn định giá công nghệ, xúc tiến chuyển giao công nghệ. Về mục đích sử dụng dịch vụ: lựa chọn phương thức định giá công nghệ, mua bán dây chuyền và thiết bị công nghệ, tìm kiếm đối tác đầu tư phát triển công nghệ và lập kế hoạch kinh doanh, ứng dụng công nghệ vào sản xuất. Các viện nghiên cứu, trường đại học đề xuất hỗ trợ nhiều hơn cho hoạt động này, các ý kiến tập trung vào các công việc: tăng cường cung cấp