SlideShare a Scribd company logo
1 of 72
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH HÒA
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH HÒA
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG
Hà Nội, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ
ràng và chính xác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thanh Hòa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI .........................................7
1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm ..................................................................7
1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người ...........................................................................................................................8
1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người11
1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm của con người .........................................................................................16
Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG
GIAI ĐOẠN 2014 - 2018........................................................................................21
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương...21
2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo
các đặc điểm nhân thân .............................................................................................23
2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội
xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...............................................26
Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA
CON NGƯỜI...........................................................................................................40
3.1. Quan điểm phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên
địa bản tỉnh Bình Dương...........................................................................................41
3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh
Bình Dương từ góc độ nhân thân người phạm tội ....................................................43
KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT : An ninh trật tự
BLHS : Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
TAND : Tòa án nhân dân
TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
UBND : Ủy ban nhân dân
VKSND : Viện kiểm sát nhân dân
XPNP : Xâm phạm nhân phẩm
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.3. Tỷ trọng giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.4. Cơ cấu của tinh hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 xét theo đơn vị hành chính Cấp huyện xác định trên cơ sở kết
hợp yếu tố dân cư và diện tích
Hình 2.5. Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.6. Tỷ trọng của diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh
Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018
Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo tội danh
Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo độ tuổi, giới tính
Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo trình độ học vấn
Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo nghề nghiệp
Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo hoàn cảnh gia đình
Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương
giai đoạn 2014 – 2018 theo nơi cư trú, hộ thường trú
Phiếu 2.13. : Phiếu điều tra xã hội học “Đánh giá vai trò của giáo dục
trong gia đình, nhà trường và bạn bè trong việc giáo dục người chưa thành niên”
Bảng 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (300 phiếu điều
tra)
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỉnh Bình Dương thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ. Bình Dương được tái lập
từ ngày 01/01/1997 từ việc tách tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và Bình
Phước Từ giữa những năm 90, với chính sách “Trải chiếu mời gọi đầu tư, trải thảm đỏ
thu hút nhân tài”, Bình Dương đã trỗi dậy với chủ trương đổi mới, được cụ thể hóa
bằng những chính sách thông thoáng, mở đường cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa của địa phương. Kinh tế - xã hội của Bình Dương bước đầu đạt những thành
tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ -
nông nghiệp, bộ mặt đô thị hóa đã được hình thành rõ nét, đã biến vùng đất thuần
nông, khô cằn, kém hiệu quả trở thành những khu, cụm công nghiệp trọng điểm của cả
nước. Đến nay, toàn tỉnh có 32 khu công nghiệp và 14 cụm công nghiệp, với tổng diện
tích hơn 14.800 ha. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt trái của nền kinh
tế thị trường cùng hàng loạt các vấn đề phát sinh như: Tình trạng nhập cư, cư trú trái
phép gia tăng, diễn biến phức tạp; một bộ phận nhân dân có đời sống kinh tế còn khó
khăn, không việc làm hay việc làm không ổn định; sự phân hóa giàu nghèo, sự xâm
nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng,… đang làm
cho tình hình TTATXH hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm
nói chung và tội phạm XPNP nói riêng. Thực tế cho thấy, trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, tình hình tội XPNP như hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội dâm ô với
người dưới 16 tuổi, tội làm nhục người khác... đang có diễn biến hết sức phức tạp, đặc
biệt gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội lẫn tính chất nguy hiểm.
Theo báo cáo kết quả giải quyết án của TAND tỉnh Bình Dương, trong 05 năm
từ 2014 – 2018 đã xét xử 9.602 vụ án với 18.813 bị cáo; trong đó đã xét xử các tội
XPNP là 157 vụ với 168 bị cáo. Cụ thể, năm 2014 giải quyết 1906 vụ với 3473 bị cáo,
trong đó đã xét xử các tội XPNP là 25 vụ với 29 bị cáo; năm 2015 giải quyết 1918 vụ
với 3608 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 31 vụ với 37 bị cáo; năm 2016
giải quyết 1945 vụ với 3920 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 33 vụ với 38
bị cáo; năm 2017 giải quyết 1933 vụ với 3810 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP
là 32 vụ với 36 bị cáo; năm 2018 giải quyết 1947 vụ với 4007 bị cáo, trong đó đã xét
xử các tội XPNP là 36 vụ với 42 bị cáo.
2
Mặc dù nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta cùng với các cấp, các ngành đã có
nhiều chủ trương, biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói
riêng nhưng tội phạm XPNP vẫn không ngừng gia tăng và có diễn biến phức tạp thể
hiện sự suy đồi về lối sống, sự xuống cấp về các giá trị đạo đức. Một hậu quả cũng
phải kể đến đó là chi phí của Nhà nước cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án, là những thiệt hại không thể đo đếm hết được. Do đó, đấu tranh phòng
và chống loại tội phạm XPNP luôn là nhiệm vụ quan trọng, vừa có tính cấp bách vừa
có tính chiến lược lâu dài, là vấn đề mang tính xã hội cao, là sự nghiệp của quần
chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.
Do đó, để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPNP cần nhận
thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP
nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể xây
dựng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPNP nói riêng và tình hình tội
phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách
chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội.
Trên phương diện thực tiễn, các CQTHTT tại tỉnh Bình Dương từ lâu đã chú
trọng sử dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong quá trình giải quyết các
vụ án XPNP, định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, cũng như
đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội XPNP. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
XPNP đòi hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP ở mức độ khái quát
hơn là mức độ nhóm và mức độ tình hình tội phạm. Nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận
về nhân thân người phạm tội XPNP, cũng như phục vụ công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân
thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Về lý luận nhân thân người phạm tội có những công trình nghiên cứu sau:
- Tội phạm học Việt Nam một sô vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả
Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009;
3
- Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự
Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005;
- Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53;
* Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những công trình tác giả nghiên
cứu, phân tích có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định
gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như:
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công (2013), Đại
học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội;
* Về kinh nghiệm và giải pháp có các công trình nghiên cứu trong việc định tội
và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như:
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định
hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23;
- Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt
hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát, số
5/2005, tr. 34-36;
* Đánh giá tình hình nghiên cứu:
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được các kết quả chính
sau đây:
- Các công trình ở những mức độ khác nhau đã làm rõ những vấn đề lý luận về
nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt nhân
thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội…
- Các công trình cũng đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm làm rõ thực trạng
nhân thân người phạm tội, thực trạng các yếu tố tác động đến nhân thân người phạm
tội nói chung hoặc phạm một tội, một nhóm tội trên một địa bàn nhất định, như cướp
tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước,
tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương ...
4
- Các công trình cũng đã nêu được các biện pháp phòng ngừa gắn với một số
loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý,
tội hiếp dâm...và trên những địa bàn cụ thể như Vĩnh Long, Bình Phước, Thành phố
Hồ Chí Minh...
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên
địa bàn tỉnh Bình Dương, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự hình thành
các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, luận văn hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ để
tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình
Dương trong giai đoạn hiện nay từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản
sau:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP;
Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội
XPNP và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPNP của
con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018;
Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP từ
góc độ nhân thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân
người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Để nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả
dựa trên các số liệu thống kê và kết quả nghiên cứu 100 bản án xét xử sơ thẩm của
TAND các cấp tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 được thu thập một cách ngẫu
nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học nhằm đánh giá vai trò của
giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè đối với người chưa thành niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
5
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP
dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018.
- Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPNP quy định tại
chương XIVcủa BLHS, gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16
tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người
từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều
146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán
người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người
khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH; các tri
thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự;
thực tiễn phòng chống các tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ
thể:
Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã
hội học bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tình hiểu quan điểm nhận thức của
người chưa thành niên đối với phương pháp, nội dung giáo dục giới tính trong gia
đình và nhà trường.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, làm
giàu thêm hệ thống lý luận tội phạm học nói chung và lý luận phòng, chống tội
XPNP nói riêng, đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập
của các cơ sở đào tạo luật.
6
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng
vào thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội XPNP nói riêng
trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm của con người
Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 -2018
Chương 3: Nhân thân người phạm tội và những vấn đề đặt ra đối với phòng
ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI
1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm
Để xây dựng định nghĩa về tội xâm phạm nhân phẩm, trước kết cần làm rõ
khái niệm nhân phẩm. Khái niệm “nhân phẩm” trong các tội xâm phạm nhân phẩm
chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Song qua nghiên cứu một số
tài liệu về mặt ngôn ngữ thì có một số định nghĩa nhân phẩm, cụ thể như sau:
Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê, nhân phẩm được định
nghĩa như sau: “Nhân phẩm là phẩm chất và giá trị của con người” [9, tr.487]. Theo
định nghĩa này thì nhân phẩm chính là các phẩm chất, giá trị của một con người tạo
nên giá trị của con người đó. Giá trị đó được cộng đồng xã hội công nhận và tôn kính.
Còn trong sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 10 của Bộ giáo dục
và đào tạo có đưa ra định nghĩa nhân phẩm như sau: “Nhân phẩm là toàn bộ phẩm
chất mà mỗi con người có được, nói cách khác nhân phẩm là giá trị làm người của
mỗi người” [2, tr.18].
Như vậy, định nghĩa này về cơ bản cũng tương đồng với định nghĩa nêu
trên khi xác định nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất làm nên giá trị của con người.
Hay trong bài giảng Môn Đạo đức người lái xe thì nhân phẩm là giá trị đạo
đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được
nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, đòi hỏi mỗi
người phải thường xuyên nỗ lực, cố gắng rèn luyện bản thân. Nhân phẩm (còn gọi là
phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt
được, là giá trị làm người của mỗi con người [16, tr.4]. Định nghĩa này cũng đề cao
phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con người. Giá trị này chắc chắn phải được xã hội
thừa nhận.
Qua các định nghĩa về nhân phẩm nêu trên, có thể rút ra được định nghĩa
nhân phẩm: Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của mỗi người làm nên giá trị
của con người đó. Những phẩm chất này phù hợp với những giá trị đạo đức đã được
xã hội thừa nhận.
Tội phạm theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 “Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có
8
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Từ định nghĩa về nhân phẩm và định nghĩa về tội phạm nêu trên, có thể
định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm của con người như sau: Tội xâm phạm nhân
phẩm của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong chương
XIV của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng các giá trị đạo đức của con người.
Trong chương XIV của BLHS, nhà làm luật không liệt kê riêng các tội xâm
phạm nhân phẩm mà có sự gộp chung 14 tội danh (từ Điều 141 đến Điều 156) thành
nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Trong nhóm tội này, phần lớn các tội phạm
đều xâm hại đồng thời nhân phẩm, danh dự của con người. Căn cứ vào quy định trong
chương XIV, có thể xác định được các tội XPNP trong BLHS bao gồm các tội danh
sau: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng
dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao
cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi
(Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới
16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua
bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống
(Điều 156).
1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm
của con người
1.2.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con
người
Mác viết: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một
tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu đang
chảy, một người lính mà họ cần phải trở thành chiến sĩ bảo vệ đất nước…một thành
viên của tập thể thực hiện các chức năng xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn tại
9
của họ là thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là công dân của nhà nước
đó” [24, tr.49]. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên
cứu nhân thân con người đang sống trong xã hội: Nhân thân của những người đã thực
hiện hành vi phạm tội, là chủ thể của tội phạm.
Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người phạm tội
cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm đối với những người có
phẩm chất tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo đức, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật,
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Nhân thân của những người phạm các tội hoặc
các nhóm tội khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau. Ví dụ nhân thân của
những người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thường có đặc điểm
nhân thân nổi trội là động cơ vụ lợi, mong muốn có tiền bất chính; nhân thân của
những người xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người có đặc điểm nhân thân nổi
trội là sự coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, coi thường giá trị đạo đức,
pháp luật; đối với những người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm của con người,
đặc điểm nhân thân nổi trội nhất của những người này là sự coi thường nhân phẩm của
người khác, coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều đặc
điểm nhân thân khác mà luận văn sẽ làm sáng tỏ trong các nội dung nghiên cứu.
Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội và các khái niệm có liên quan
đã phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm như sau:
Nhân thân người phạm tội XPNP là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các
điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP
được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện hành.
1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân
phẩm
Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu.
Tuy nhiên, với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu
khác nhau nên góc độ tiếp cận với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành
khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên
nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân, điều kiện của nó
10
để đề ra các biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nhân thân người phạm tội được
nghiên cứu một cách khá sâu sắc, toàn diện và mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn. Như vậy, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP có
ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP góp phần
phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận của chính ngành Tội phạm học. Bằng những
nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người
phạm tội XPNP nói riêng cùng những số liệu về người phạm tội XPNP cụ thể góp
phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm, giải thích được
những thay đổi trong thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm [39, tr.127]
và dự đoán xu hướng của nó trong tương lai. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội
XPNP trước hết cần làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP,
như khái niệm, ý nghĩa, phân loại nhân thân người phạm tội XPNP. Những lý luận này
sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận của Tội phạm học về nhân thân người phạm
tội.
Thứ hai, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP, cụ thể đề tài nghiên cứu
nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018 sẽ
cung cấp những thông tin quan trọng về các đặc điểm của nhân thân người phạm tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những thông tin, như đặc điểm trình độ học vấn,
nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, thói quen, sở thích … của người phạm tội sẽ là
những thông tin hữu ích cho các ngành khác, như giáo dục học, đạo đức học, kinh tế
học … tham khảo trong phát triển các nội dung khoa học phục vụ các chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, phát triển con người …
Thứ ba, Do đó, các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa trong
việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPNP chẳng hạn như các tội về
XPNP của con người đều được nhà làm luật xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm
hình thức nên dấu hiệu định tội của nhóm tội này trong BLHS đều liên quan đến dấu
hiệu hành vi khách quan của tội phạm hay đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy
định là yếu tố định khung một số tội XPNP (điểm i khoản 2 Điều 141, điểm g khoản 2
Điều 142, điểm g khoản 2 Điều 143, điểm e khoản 2 Điều 144, điểm e khoản 2 Điều
146, điểm g khoản 2 Điều 147, điểm e khoản 3 Điều 150, điểm g khoản 3 Điều 151).
11
Thứ tư, dấu hiệu pháp lý về tội phạm và chủ thể của tội phạm XPNP được
quy định thống nhất, song mỗi một vụ phạm tội luôn luôn mang tính cá biệt của hoàn
cảnh và đối tượng thực hiện tội phạm. XPNP giúp cho việc sàng lọc đối tượng, phát
hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp ngăn
chặn cần thiết cũng như những biện pháp tác động tâm lý, cảm hóa đối tượng trong
hỏi cung, đối chất, khám xét thu giữ vật chứng,…
Thứ năm, khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người
phạm tội XPNP và những phương pháp phân loại người để nghiên cứu những hình
thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển hệ thống trại
giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại các trại giam, cơ sở
giáo dục đó…Việc thi hành hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với
từng loại người phạm tội sẽ không đạt hiệu quả nếu không có sự phân loại hợp lý dựa
vào đặc điểm nhân thân của họ. Chẳng hạn như: Xếp phạm nhân vào trại nào, buồng
nào, họ phải làm những công việc gì trong quá trình cải tạo, chế độ học tập, sinh hoạt
áp dụng với từng loại người, hoặc những trường hợp cải tạo không giam giữ, quản
chế, bắt buộc chữa bệnh…cần phải có cơ chế quản lý giám sát, kết hợp sự giáo dục
như thế nào…
1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của
con người
Các tội XPNP được chia ra làm 2 nhóm: Nhóm người XPNP thực hiện bằng
hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục (từ Điều 141 đến Điều 147) và nhóm người
XPNP thực hiện thông qua hành vi khác (Điều 150, Điều 151, Điều 155, Điều 156).
Trong đó, nhân thân người phạm tội XPNP theo từng nhóm trên thì đều có những đặc
điểm, dấu hiệu chung với nhân thân người phạm tội . Ngoài ra, nó cũng còn có những
đặc điểm, dấu hiệu riêng đặc thù. Từ những đặc điểm chung và riêng trên, tác giả chia
làm ba nhóm phân tích như sau:
- Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu học;
- Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý;
- Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự.
1.3.1. Nhóm dấu hiệu xã hội – nhân khẩu
12
Những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP
cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung, bao gồm: Giới tính, tuổi,
trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã
hội…Những dấu hiệu này tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập
hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội – nhân khẩu thu được qua thống kê hình sự sẽ
cho chúng ta cơ sở để rút ra những kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân
người phạm tội. Mặt khác, nếu kết hợp những dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội
thì những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu sẽ giúp cho chúng ta hiểu trọn vẹn về nhân
thân người phạm tội và có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện
pháp giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm.[39, tr.144]
1.3.1.1 Giới tính
Trong thực tế của cuộc đấu tranh chống tội phạm XPNP ở nước ta, đối với
nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục, thì tỷ lệ nam
giới phạm tội chiếm tỷ lệ cao vì nam giới có khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi
thấp hơn nữ giới nên khả năng phạm tội cao hơn. Và ngược lại đối với nhóm người
XPNP thực hiện thông qua hành vi khác thì tỷ lệ nữ giới phạm tội lại chiếm tỷ lệ cao
hơn và có xu hướng tăng lên, chủ yếu là trong các vụ án về tội làm nhục người khác
bởi vì nữ giới có tính hay ghen tuông do đó khi xảy ra mâu thuẫn trong tình cảm
thường sử dụng bạo lực để “dằn mặt” nạn nhân làm cho tình hình ANTT thêm phức
tạp.
1.3.1.2. Lứa tuổi
Ở mỗi độ tuổi khác nhau, con người có những suy nghĩ, nhận thức, cách
hành xử các mối quan hệ khác nhau…Và ở người phạm tội XPNP cũng vậy, họ cũng
có những khác biệt nhất định về nhận thức hành vi phạm tội, cách tiếp cận nạn nhân,
cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách dụ dỗ nạn nhân sau khi việc phạm tội đã
hoàn thành hay cách làm nhục nạn nhân, vu khống nạn nhân… Nghiên cứu nhân thân
người phạm tội XPNP từ khía cạnh về độ tuổi có thể giúp chúng ta nhìn nhận đúng
đắn về tính chất, mức độ, đặc điểm của từng tội phạm. Ở đặc điểm này, có thể chia độ
tuổi của những người phạm tội XPNP theo 03 nhóm với những đặc điểm khác nhau
như:
13
- Nhóm dưới 18 tuổi: Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình
phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái
cảm xúc không cân bằng thì sẽ không kiềm chế được cảm xúc của bản thân là yếu tố
gây nên các hành vi lệch chuẩn đạo đức, hành vi phạm tội. Đặc biệt ở nhóm tuổi này
có sự phát triển như “vũ bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ.
Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm
tội.
- Nhóm từ 18 đến 30 tuổi: Đây là nhóm tuổi có sự ổn định hơn về mặt tâm,
sinh lí so với nhóm dưới 18 tuổi. Ở nhóm tuổi này, con người có khao khát về tình
yêu, nhu cầu sinh lí cũng phát triển nên thường dẫn đến những ham muốn tình dục. Vì
vậy nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục đa phần
nằm trong nhóm từ 18 đến 30 tuổi. Ngoài ra, những người từ 18 đến 30 tuổi đang
thuộc nhóm tuổi lao động trẻ của xã hội. Tuy nhiên, nếu một người trong nhóm tuổi
này mà không học tập hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định thì sẽ cảm thấy bất an, hụt
hẫng, bi quan tự ti hay bất mãn. Trạng thái tâm lí này có thể dẫn người ta đến trầm uất,
nghiện ngập, rơi vào các tệ nạn xã hội và nhanh chóng dẫn đến con đường phạm tội.
- Nhóm từ trên 30 tuổi trở lên: Ở độ tuổi này, con người có sự chín chắn
trong tư duy nhận thức của mình. Thêm vào đó, nhóm người từ 30 tuổi trở lên đa phần
họ đều đã kết hôn và có công việc cho nên họ có sự ổn định cao về tâm lý, về nhận
thức đời sống hay pháp luật. Do đó, nhóm tuổi từ 30 trở lên phạm vào các tội XPNP
chiếm tỉ lệ thấp so với hai nhóm tuổi trên.
1.3.1.3. Trình độ học vấn
Đặc điểm về trình độ học vấn có thể chia thành 04 nhóm như sau: nhóm
không biết chữ; nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở; nhóm có
trình độ học vấn ở mức trung học phổ thông; nhóm có trình độ học vấn trung cấp, cao
đẳng, đại học trở lên.
1.3.1.4. Nghề nghiệp, địa vị xã hội
Đối với người phạm tội XPNP cũng vậy, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau
thì khả năng “nhiễm tội” cũng khác nhau. Đặc điểm nhân thân người phạm tội từ khía
cạnh nghề nghiệp, có thể chia thành 03 nhóm là: người không có nghề nghiệp, người
có nghề nghiệp không ổn định và người có nghề nghiệp ổn định.
14
1.3.1.5. Hoàn cảnh gia đình
Gia đình là tế bào của xã hội. Hoàn cảnh gia đình có thể xét đến như: điều
kiện sống về mặt tinh thần, tình trạng hôn nhân, gia đình không hoàn thiện, gia đình
khuyết thiếu,… hoặc vẫn đang độc thân. Các hoàn cảnh gia đình nêu trên sẽ được
nghiên cứu với mục đích đánh giá sự tác động của môi trường gia đình đến quá trình
hình thành nhân cách lệch chuẩn của người phạm tội XPNP. Trong phần hoàn cảnh gia
đình, có thể nghiên cứu theo 2 phương diện: một là bản thân người phạm tội (có vợ và
không có vợ), hai là cha mẹ, người nuôi dưỡng (thuận lợi và không thuận lợi).
1.3.1.6. Nơi cư trú
Nơi cư trú, nơi sinh sống (làng, xã, khu phố,…) được xem là một xã hội thu
nhỏ, có tác động khá trực tiếp đến lối sống của công dân. Hoàn cảnh kinh tế cũng như
điều kiện phát triển chung của nơi cư trú có những tác động mạnh mẽ đến ý thức và
nhân cách của con người nơi đây. Có nghĩa, tại nơi cư trú, điều kiện sống (về kinh tế
và tinh thần) tốt sẽ tác động tích cực đến quá trình hình thành nhân cách đúng đắn của
mọi người nơi đây; ngược lại, nếu điều kiện sống không tốt, có nhiều tệ nạn xã hội,
thường xuyên xảy ra bạo lực, đánh nhau hay… sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình
hình thành nhân cách của con người.
Với đặc điểm về nơi cư trú, người phạm tội XPNP được chi thành 2 căn cứ:
Thứ nhất là có nơi cư trú ổn định và có nơi cư trú không ổn định và thứ hai là hộ khẩu
trong tỉnh và ngoại tỉnh.
Tổng hợp nhiều dấu hiệu xã hội - nhân khẩu trong nhân thân người phạm
tội XPNP sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc về người phạm tội, từ đó có các
biện pháp phòng ngừa hữu hiệu.
1.3.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức, tâm lý
Tổng hợp những thông tin về các đặc điểm xã hội – nhân khẩu đã cho
chúng ta một cái nhìn khá bao quát về nhân thân người phạm tội XPNP. Tuy nhiên đó
chỉ là những dấu hiệu bên ngoài, nó chưa cắt nghĩa được lý do tại sao người đó lại
phạm tội XPNP. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta còn phải đi sâu nghiên cứu mặt
bên trong của nhân thân người phạm tội được thể hiện ở các dấu hiệu đạo đức tâm lý.
Nhóm đặc điểm này bao gồm: các dấu hiệu thuộc về tinh thần, về ý thức, quan điểm
15
cá nhân về giá trị đạo đức, về pháp luật, về khí chất, tính cách, quan điểm cá nhân về
cái đẹp – cái xấu,…[39, tr.154]
1.3.2.1. Quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức
Trong nhiều trường hợp, quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức
của người phạm tội không phù hợp với quan điểm, thái độ nhận thức về giá trị đạo
đức của xã hội dẫn đến những người này có những hành xử không đúng với giá trị đạo
đức được toàn xã hội tôn trọng. Hầu hết những người phạm tội XPNP thường có đạo
đức bị suy thoái, không tôn trọng giá trị nhân phẩm của con người. Trong nhóm người
XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục thì người phạm tội xem
nạn nhân như đồ vật , “thú vui tiêu khiển” để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình hay
trong nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác, họ có thể xem con người như
một món hàng hóa để trao đổi, mua bán,…
1.3.2.2. Quan điểm, thái độ, nhận thức về pháp luật
Pháp luật hình sự ngoài nhiệm vụ mang tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa
tội phạm còn mang tính trừng trị người phạm tội trong BLHS. Ngoài ra, một số người
phạm tội có sự hiểu biết nhất định về pháp luật hình sự nhưng tự tin cho rằng hành vi
của mình sẽ không bị phát hiện và xử lý nên vẫn cố tình thực hiện.
1.3.2.3. Nhu cầu, sở thích, thói quen
Đây là các yếu tố mang tính chất quyết định đối với động cơ phạm tội
XPNP, yếu tố này tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ, mục đích và
thái độ thực hiện hành vi phạm tội XPNP.
Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do
tình dục thì nhìn chung các đối tượng này có nhu cầu, sở thích lệch lạc so với xã hội,
họ có thói quen không lành mạnh và có suy nghĩ về việc thỏa mãn nhu cầu khác lạ.
Nói cách khác, họ là nhóm đối tượng thường: sử dụng ma túy, rượu chè, cờ bạc, xem
phim sex, phim khiêu dâm, bạo lực, thích khám phá một cách bất hợp pháp về thân
thể của người khác,… Quan trọng hơn, nhóm đối tượng này có ý thức mong muốn
thực hiện mọi biện pháp để thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở
thích tình dục của bản thân.
Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì các đối tượng
này thường có nhu cầu, sở thích vật chất không chính đáng, coi trọng vật chất, có thái
16
độ lười lao động, tư tưởng làm ít hưởng nhiều, dùng tiền để đáp ứng nhu cầu, sở thích
không chính đáng hay có thói quen dùng bạo lực trong hành động để giải quyết các
mâu thuẫn trong cuộc sống,…
1.3.2.4. Động cơ, mục đích phạm tội
Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì có động cơ vụ
lợi và mục đích là kiếm tiền như các tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi.
Còn tội làm nhục người khác và tội vu khống thì thường có động cơ, mục đích là trả
thù nạn nhân. Xác định động cơ, mục đích phạm tội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm hình sự.
1.3.3. Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự
Vì vậy, nghiên cứu các đặc pháp lý hình sự của tội XPNP không chỉ giúp nhận
thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội XPNP mà còn giúp hiểu
rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm cũng như có cơ sở trong việc đề ra các giải pháp
phòng ngừa hữu hiệu các tội XPNP. Trong phần này, có thể chia thành 3 nhóm phân
tích: người phạm tội có tiền sự; người phạm tội có tiền án; người phạm tội chưa có
tiền án – tiền sự.
1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm
phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân của một con người không được tự nhiên sinh ra mà hình thành, phát
triển trải qua một quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc môi
trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về ý thức của con người. Trong quá trình
tương tác đó cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống (chứa đựng yếu tố thuận
lợi và yếu tố không thuận lợi) nhưng tiếp thu và chịu sự tác động đó như thế nào là do
từng cá nhân; yếu tố thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân tốt, yếu tố không
thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân xấu.[39, tr.117] Chính những đặc điểm
nhân thân xấu này kết hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và sự thiếu bản lĩnh trước
mọi cám dỗ tiêu cực trong xã hội dễ làm phát sinh hành vi phạm tội.
1.4.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
1.4.1.1. Môi trường gia đình
Đối với các trường hợp gia đình khuyết thiếu như không có cha, không có mẹ,
hoặc không có cả cha và mẹ, cha mẹ ly hôn, hoặc cha mẹ kết hôn hoặc chung sống
17
như vợ chồng với người khác, thường thiếu sự quan tâm, dạy bảo con cái về vấn đề
giới tính, đạo đức, nhân cách dẫn đến con em mình đi vào con đường phạm tội. Trong
đó có nhiều gia đình vì những chia sẻ, giáo dục về giới tính, giáo dục đạo đức cho các
em không được cha mẹ quan tâm, để ý đến do bản thân cha mẹ, người lớn trong gia
đình cũng mù mờ về giáo dục giới tính, nhận thức hạn chế nên không có sự chỉ bảo
cần thiết, nhiều trường hợp trẻ xâm phạm tình dục người khác hoặc bị bạn bè đánh
đập,…cho nên chậm hoặc không tố cáo tội phạm với cơ quan chức năng, vô tình che
đậy, tiếp tay cho tội phạm. Mặt khác, gia đình khuyết thiếu nhiều khi cũng rơi vào
hoàn cảnh khó khăn. Nếu không được giáo dục đầy đủ, trẻ sẽ dễ hình thành sự ham
muốn vật chất, coi trọng đồng tiền, khát khao có tiền bằng mọi giá, thiếu đi tình
thương giữa người với ngửoi... Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng,
khống chế thực hiện những hành vi phạm tội như mua bán người, mua bán người dưới
16 tuổi xem nạn nhân như hàng hóa để mua bán, trao đổi lấy tiền, bóc lột lao động,
tình dục hoặc lợi ích vật chất khác.
1.4.1.2. Môi trường giáo dục
Những nhân tố không lành mạnh trong môi trường giáo dục hiện nay như quá
tập trung vào sách vở mà thiếu kiến thức về giới tính và đạo đức nhân cách dẫn đến
nhiều học sinh không nhận thức hoặc thiếu hiểu biết về vấn đề tình dục an toàn hay sử
dụng bạo lực, làm nhục bạn học của mình. Hiện nay, tình trạng yêu nhau của học sinh
diễn ra khá phổ biến, các em yêu nhau từ nhiều độ tuổi khác nhau nhưng do chưa có
sự trang bị đầy đủ về kiến thức giới tính nên dẫn đến nhiều em xâm phạm tình dục lẫn
nhau khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong nhiều vụ án trên thực tế học sinh yêu nhau và quan
hệ tình dục lẫn nhau nhưng khi bị phát hiện các em vẫn không phân biệt được hành vi
xâm phạm tình dục của mình là nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS hay
những vụ án liên quan tới tội làm nhục người khác, vu khống người khác và các em
chỉ cho rằng đó là chuyện bình thường, “dằn mặt” đối phương. Mặc khác, việc thiếu
sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình; gia đình không quan tâm, ỷ lại, giao phó việc
quản lý giáo dục cho nhà trường còn nhà trường chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền đạt
kiến thức mà không quan tâm đến học sinh dẫn đến nhiều học sinh xâm phạm tình
dục, bạo lực học đường và hơn nữa là các tội mua bán người mà các em cũng thành
viên trong nhóm đồng phạm.
18
Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống; bài
học sách vở còn khô khan, chưa có nhiều những chương trình giáo dục đạo đức, nhân
cách qua đó khơi gợi tình yêu thương cộng đồng với nhau. Không được giáo dục tốt,
trẻ dễ hình thành đặc điểm nhân thân xấu như coi thường đạo đức, pháp luật, coi
thường thân thể, nhân phẩm của người khác… và khi gặp những tình huống thuận lợi,
trẻ sẽ lựa chọn cách thức xử sự trái đạo đức, trái pháp luật.
1.4.1.3. Môi trường bạn bè
Đặc biệt là bạn bè đồng trang lứa thường là những người gần gũi, thường
xuyên tâm sự, có những đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi giống nhau, vì vậy, có ảnh
hưởng vô cùng lớn đến các quan điểm, quan niệm, nhận thức lối sống, thậm chí đến
thói quen, cách cư xử của trẻ. Nếu kết bạn với bạn bè tốt, trẻ sẽ dễ hình thành các đặc
điểm nhân thân tích cực như chăm chỉ học tập, biết quan tâm, lo lắng, chia sẻ với
người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng sống… Nhưng khi chơi với những người bạn
xấu, trẻ rất dễ nhiễm những thói hư, tật xấu của bạn bè như lười học, uống rượu, hút
thuốc lá, hay thậm chí là nghiện ma túy, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi, sử
dụng bạo lực... dần dần họ sẽ sa vào con đường phạm tội XPNP.
1.4.1.4. Môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội
Ngoài ra, quá trình hội nhập ngoài việc đem lại cho nhân dân ta đời sống văn
hóa phong phú, nhiều giá trị truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực
văn hóa, đạo đức mới được hình thành thì cũng xuất hiện tình trạng phổ biến, tiếp thu
thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa không phù hợp từ nước ngoài (băng đĩa, phim
ảnh khiêu dâm, sex, sách ảnh đồi trụy, phim bạo lực, không lành mạnh…); tình trạng
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có chiều hướng gia
tăng; các giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn, dần hình thành nên ở họ những đặc
điểm nhân thân tiêu cực như: thích bạo lực, có dục vọng thấp hèn, lệch lạc,… Đây là
một trong những nguyên nhân làm hình thành nên chủ thể của tội XPNP.
1.4.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội xâm nhân phẩm
1.4.2.1. Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu
Nếu con người có những sở thích lành mạnh thì hình thành ở người đó nhân
cách đúng đắn. Ngược lại, con người có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ hình
thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như sống ích kỷ, hưởng thụ, sống buông thả,
19
coi thường chuẩn mực đạo đức… Chẳng hạn, đối với người phạm tội XPNP thì sở
thích về tình dục, nhu cầu thiếu thốn vật chất hay thích thể hiện bản thân là đặc trưng
điển hình cho tội phạm XPNP. huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được
hành vi của mình và lựa chọn cách xử sự không đúng đắn, kể cả xâm phạm đến XPNP
người khác một cách phi đạo đức như mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi…
1.4.2.2. Hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát hành vi
Người phạm tội XPNP thường là người có trình độ học vấn thấp, quan niệm sai
về các giá trị cuộc sống, không hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít pháp luật nên thường có
thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật. và trình độ học vấn thấp nên khả năng kiểm soát
và hạn chế hành vi đối với người phạm tội XPNP ở mức độ thấp, nhiều trường hợp
người phạm tội xâm phạm tình dục, hay mua bán người ngay chính cả người thân
trong gia đình.
Kết luận Chương 1
Chương 1 của luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhân
thân người phạm tội XPNP của con người, cụ thể:
- Thứ nhất, về phần khái niệm, nhân thân người phạm tội XPNP là tổng
hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc
điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người
đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện
hành.
- Thứ hai, về mặt ý nghĩa, nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP tạo
cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm XPNP; giúp cho
việc định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác; tạo cơ sở cho việc xây
dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội và ý nghĩa quan trọng hơn cả là đưa
ra các biện pháphiệu quả phòng ngừa tội phạm XPNP.
- Thứ ba, về đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPNP, Chương 1 đã
làm rõ các đặc điểm đặc trưng về nhân thân ảnh hưởng tới hành vi phạm tội của người
phạm tội XPNP bao gồm: nhóm đặc điểm xã hội - nhân khẩu học; nhóm đặc điểm về
mặt đạo đức - tâm lý; nhóm đặc điểm pháp lý hình sự.
- Ngoài ra, trong chương này còn phân tích những yếu tố tác động đến sự
hình thành nhân thân người phạm tội XPNP từ những yếu tố khách quan như: Môi
20
trường gia đình, môi trường giáo dục, môi trường bạn bè, môi trường văn hóa, tư
tưởng, đạo đức. Các yếu tố chủ quan tiêu cực như: Sai lệch sở thích; nhu cầu và cách
thức thỏa mãn nhu cầu; hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát
hành vi.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, kết luận ở Chương 1 sẽ là tiền đề về lý
luận để tiếp tục nghiên cứu thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người
trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 ở Chương 2 của luận văn.
21
Chương 2
THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH
DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2014 - 2018
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình
Dương
2.1.1. Mức độ của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình
Dương
Mức độ của tình hình tội XPNP từ thực tiễn tỉnh Bình Dương trong giai đoạn từ
năm 2014 đến 2018 được nhận thức thông qua các số liệu phản ánh tổng số các tội
XPNP đã xảy ra và số lượng người thực hiện hành vi phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh
trong thời gian nêu trên. - Theo số liệu thống kê trong Bảng 2.1 cho thấy, trong thời
gian từ năm 2014 đến 2018, trên địa bàn tỉnh đã xét xử tổng cộng 157 vụ án với 182 bị
cáo về các tội XPNP, trung bình 31,4 vụ/năm và 36,4 bị cáo/năm. Trong đó, xảy ra
nhiều nhất là năm 2018 (36 vụ, 42 bị cáo), kế đến là năm 2016 (33 vụ, 38 bị cáo), các
năm còn lại gồm: 2014 (25 vụ, 29 bị cáo), 2015 (31 vụ, 37 bị cáo), 2017 (32 vụ, 36 bị
cáo).
- Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thống kê các bị cáo đã bị Tòa án xét xử về các
tội XPNP và số liệu thống kê dân số (gồm những người có đăng ký hộ khẩu thường
trú và đăng ký tạm trú) trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy trong thời gian từ năm
2014 - 2018 trung bình 100.000 người dân ở tỉnh Bình Dương có 2,03 người phạm tội
XPNP, so với số lượng người phạm tội khác thì số lượng người phạm tội XPNP ít hơn
(2,03/209,97).
- Ngoài ra, theo số liệu của Bảng 2.3 về tỷ trọng của tình hình tội phạm nói
chung và tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương thì trong 05 năm từ năm
2014 - 2018, số vụ án XPNP chiếm tỷ trọng thấp so với tình hình tội phạm nói chung
trên địa bàn tỉnh, trung bình chiếm 1,63% số vụ án và 0,97% số bị cáo. Đây là con số
tuy nhỏ nhưng lại tăng dần theo năm, cụ thể: Năm 2014, số vụ án XPNP chiếm tỷ
trọng 1,31%, số bị cáo 0,83% so với tình hình tội phạm nói chung ; Năm 2015 lại
tăng tỷ trọng lên 1.61% số vụ án và 1,03% số bị cáo so với tình hình tội phạm nói
chung; Năm 2016 thì tăng tỷ trọng 1,69% số vụ án và 0,97% số bị cáo so với tình hình
22
tội phạm nói chung. Riêng năm 2017, thì tỷ trọng có giảm ít 1,66% số vụ án và 0,94
số bị cáo so với tình hình tội phạm nói chung. Nhưng đến năm 2018, thì lại tăng tỷ
trọng đột biến 1,85% số vụ án và 1,04% số bị cáo so với tình hình tội phạm nói chung.
Như vậy, có thể thấy tuy số vụ án và số bị cáo của các tội XPNP chiếm tỷ trọng không
lớn trong tình hình tội phạm nói chung của tỉnh Bình Dương nhưng tỷ trọng này lại
tăng đều theo từng năm, thể hiện sự nguy hiểm, ngày càng phức tạp của nhóm tội
phạm này trên địa bàn tỉnh.
- Trong Bảng 2.4, đề cập đến 09 huyện, thị, thành phố, Theo Bảng 2.4 thể
hiện, cột dọc cuối cùng bên phải là số dân trên 1 bị cáo. Con số này càng nhỏ thì mức
độ phạm tội XPNP ở địa bàn đó càng cao. Theo đó, trong giai đoạn 2014 đến 2018, thị
xã Dĩ An có mức độ phạm tội XPNP cao nhất, cứ 6.443 người dân thì có một người bị
xét xử về các loại tội XPNP. Thị xã Tân Uyên có mức độ phạm tội XPNP thấp nhất,
cứ 17.838 người dân thì có 01 người bị xét xử về các loại tội XPNP. Từ sự phân tích
trên cho ta thấy các loại tội XPNP xảy ra ở khắp các địa bàn của tỉnh Bình Dương
nhưng tập trung cao là ở các địa bàn dân cư đông đúc, có nhiều dân nhập cư, nhiều
khu công nghiệp, khu chế xuất như thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An và thị xã Bến Cát.
2.1.2. Diễn biến của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm tại tỉnh Bình Dương
Diễn biến của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương là sự phản ánh
xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định tương đối của tình hình tội XPNP của tỉnh trong
thời gian từ năm 2014 đến 2018.
- Qua biểu đồ tại Hình 2.5 cho thấy, Điều đáng chú ý là năm 2016 và năm 2018
số vụ án và số bị cáo tăng nhiều so với năm 2014. Điều đó chứng tỏ tình hình tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương có xu hướng tăng cả về số vụ lẫn số bị cáo trong
thời gian tới.
- Còn theo số liệu tại Bảng 2.6, năm 2015 so với năm 2014, tình hình tội
XPNP tăng 3,83% số vụ án, 4,39% số bị cáo. Năm 2016 so với năm 2015, tình hình
tội XPNP tăng 1,27% số vụ án, 0,56% số bị cáo. Năm 2017 so với năm 2016, tình
hình tội XPNP giảm 0,64% số vụ án, 1,1% số bị cáo. Năm 2018 so với năm 2017, tình
hình tội XPNP tăng 2,54% số vụ án, 3,3% số bị cáo. Qua số liệu trên cho thấy, tình
hình tội XPNP có diễn biến theo chiều hướng tăng. Tuy nhiên, chỉ có năm 2017, tình
hình tội phạm XPNP có tỷ lệ giảm, năm 2014 và năm 2016 tỷ lệ tội phạm XPNP có tỷ
23
lệ tăng thấp còn các năm 2015 và 2018 thì tình hình tội phạm XPNP có tỷ lệ tăng cao.
Điều đó chứng tỏ, tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương có xu hướng tăng
và diễn biến phức tạp.
2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm theo tội danh
Cơ cấu của từng loại tội XPNP trong mối quan hệ với các tội XPNP tại tỉnh
Bình Dương, gồm các tội: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
(Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi
(Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội
sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người
(Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều
155), tội vu khống (Điều 156). Đối với tội hiếp dâm, từ năm 2014 đến năm 2018 có
tổng cộng 46 vụ, chiếm số lượng cao nhất trong nhóm tội XPNP, có tính chất rất nguy
hiểm.
Qua số liệu trong Bảng 2.7 cho thấy, trong cơ cấu các loại tội XPNP thì tội hiếp
dâm chiếm tỉ lệ cao nhất (29,29%), kế đến là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
(12,74%), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ
13 đến dưới 16 tuổi (11,46%), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (10,19%), tội làm
nhục người khác và tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (9,55%), tội
cưỡng dâm (8,28%), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (5,73%);
tội vu khống chiếm tỉ lệ thấp (3,18%) còn các tội mua bán người, tội mua bán người
dưới 16 tuổi không xảy ra. Điều này thể hiện các loại tội XPXP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương xảy ra có chiều hướng ngày càng tăng, đặc biệt là các tội hiếp dâm, tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi. Vì vậy, có thể khẳng định rằng để đấu tranh có hiệu quả với
tình hình tội XPNP ở tỉnh Bình Dương cần tập trung trước hết vào tội tội hiếp dâm, kế
đến là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi
2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình
Dương theo các đặc điểm nhân thân
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về độ tuổi, giới tính
Số liệu trong Bảng 2.8 cho thấy, phần lớn các đối tượng phạm tội XPNP đa số
ở độ tuổi đã thành niên, trong đó độ tuổi từ 18 đến 30 là 80 người, chiếm tỷ lệ cao
24
nhất 71,43%, kế đến là độ tuổi từ 30 trở lên là 21 người, chiếm 18,75%. Người phạm
tội XPNP có độ tuổi dưới 18 là 11 người, chiếm tỷ lệ ít nhất 9,82%. Trong tổng số
112 bị cáo phạm tội XPNP, có 104 bị cáo là nam chiếm tỷ lệ 92,86% và chỉ có 8 bị cáo
là nữ chiếm tỷ lệ 7,14%. Như vậy, các đối tượng phạm tội XPNP thường là nam ở độ
tuổi từ 18 trở lên, giới tính người phạm tội trong nhóm người XPNP thực hiện bằng
hành vi xâm hại tình dục mang tính cá biệt là nam giới, không có nữ giới và ngược lại
nhóm người XPNP thực hiện bằng hành khác thì nữ giới chiếm đa số.
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về trình độ học vấn
Qua Bảng 2.9 thể hiện: Trong số 112 bị cáo phạm tội XPNP thì chỉ có 04 bị cáo
có trình độ trung cấp trở lên (chiếm 3,57%); 25 bị cáo có trình độ trung học phổ thông
(chiếm 22,32%) và 72 bị cáo có trình độ tiểu học, trung học cơ sở (chiếm 64,29%), 11
bị cáo không biết chữ (chiếm 9,82%). .
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về nghề nghiệp
Số liệu trong Bảng 2.10 cho thấy, phần lớn các bị cáo không có nghề nghiệp ổn
định 73/112 bị cáo chiếm 65,18%, chủ yếu là làm thuê (bảo vệ, thợ hồ, thợ sơn …) với
mức thu nhập thấp. Số bị cáo không nghề nghiệp cũng chiếm tỉ lệ tương đối cao
32/112 bị cáo chiếm 28,57%. Số bị cáo có nghề nghiệp ổn định chiếm tỉ lệ rất ít
07/112 bị cáo chiếm 6,25%. Như vậy, đại đa số người phạm tội XPNP không có nghề
nghiệp ổn định (làm thuê, làm rẫy, cạo cao su theo mùa,..).
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình
Gia đình vốn là một xã hội thu nhỏ nên có ảnh hưởng đến việc hình thành nên
nhân cách lệch lạc của các tội phạm XPNP. Theo thống kê 100 vụ án với 112 bị cáo
phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến 2018 tại Bảng 2.11, ta
thấy.
+ Xét đặc điểm tình trạng hôn nhân của bản thân người phạm tội: Số người
phạm tội đã có vợ có 38 người chiếm 33,93% và số bị cáo không có vợ là 74 người
chiếm 66,07% (chưa có vợ hoặc đã ly hôn hoặc vợ chết).
+ Xét đặc điểm hoàn cảnh gia đình của các bị cáo cho thấy: Số người phạm tội
sống trong gia đình thuận lợi chỉ có 25 bị cáo có hoàn cảnh gia đình thuận lợi (chiếm
22,32%) và 87 người có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi (77,68%). Số người phạm
tội không có hoàn cảnh gia đình thuận lợi gấp 3,9 lần số người phạm tội có hoàn cảnh
25
gia đình thuận lợi. Trong đó, có 04 bị cáo mồ côi cả cha lẫn mẹ (chiếm 4,8%), 07 bị
cáo mồ côi cha (chiếm 8,04%), 03 bị cáo mồ côi mẹ (chiếm 3,45%), 05 bị cáo có hoàn
cảnh cha mẹ ly hôn (chiếm 5,75%) và 68 bị cáo có hoàn cảnh gia đình tiêu cực (gia
đình khuyết thiếu, đông con, thường xuyên cãi vã, vi phạm pháp luật,…) chiếm tỷ lệ
78,16%. Với kết quả thống kê, nhận thấy: các bị cáo không có vợ hoặc có hoàn cảnh
gia đình không thuận lợi có xu hướng phạm tội XPNP nhiều hơn các bị cáo có vợ
hoặc có hoàn cảnh gia đình thuận lợi.
- Cơ tình hình tội phạm theo đặc điểm về nơi cư trú, hộ khẩu thường trú
Bình Dương có 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện (với 41 phường, 2 thị trấn và
50 xã): Thành Phố Thủ Dầu Một, Thị Xã Bến Cát, Thị Xã Dĩ An, Thị Xã Thuận An,
Thị Xã Tân Uyên, Huyện Bắc Tân Uyên, Huyện Bàu Bàng, Huyện Dầu Tiếng, Huyện
Phú Giáo. Đặc biệt, Bình Dương hiện là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về thu
hút vốn FDI đầu tư vào các khu công nghiệp. Sự xuất hiện càng nhiều các nhà đầu tư
ngoại khiến Bình Dương ngày càng có nhiều khu công nghiệp có quy mô rất lớn tạo
sự thu hút dân ở các vùng trên cả nước về làm việc và sinh sống. Do đó, số lượng
người lao động ngoại tỉnh, nhập cư chiếm đa số.
Trong Bảng 2.12 đã thể hiện, số lượng người phạm tội là dân nhập cư chiếm tỉ
lệ rất lớn (82/112 người chiếm 73,21%) và trong số 82 người phạm tội này thì có tới
73 người có nơi cư trú không ổn định (chiếm 65,18%). Số lượng người phạm tội có hộ
khẩu thường trú tại Bình Dương thấp (30/112 người chiếm 26,79%) và còn lại là có hộ
khẩu ngoại tỉnh. Như vây, đa phần nhân thân người phạm tội XPNP tại tỉnh Bình
Dương có nơi cư trú không ổn định và hộ khẩu ngoại tỉnh.
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về động cơ, mục đích phạm tội
Theo thống kê 112 bị cáo phạm tội XPNP cho thấy, chỉ có 04 vụ/ 06 bị cáo
(chiếm 3,97%) có động cơ, mục đích là trả thù người có mâu thuẫn với bị cáo từ
trước, 96 vụ/145 bị cáo (chiếm 96,03%) xuất phát từ động cơ, mục đích là thỏa mãn
nhu cầu tình dục.Tác giả nhận thấy động cơ, mục đích của các bị cáo trong nhóm tội
XPNP là nhằm trả thù nạn nhân và thỏa mãn nhu cầu tình dục cá nhân một cách lệch
chuẩn nên đã không làm chủ được bản thân dẫn đến hành vi phạm tội.
- Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về tiền án, tiền sự
26
Nghiên cứu 112 bị cáo phạm tội XPNP, cho thấy: Người phạm tội có tiền sự 07
người chiếm 6,25%; người phạm tội có tiền án 25 người chiếm 22,32%, trong đó đã
được xóa án tích 09 người, tái phạm 11 người, tái phạm nguy hiểm 05 người; người
phạm tội chưa có tiền án, tiền sự 80 người chiếm 71,43%. Như vậy, số người phạm tội
XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương chưa có tiền án, tiền sự chiếm số lượng lớn.
- Các đặc điểm nhân thân đặc trưng của những người phạm tội xâm phạm
nhân phẩm tại tỉnh Bình Dương
Từ những kết quả nghiên cứu cơ cấu tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương theo các đặc điểm nhân thân người phạm tội; có thể rút ra những đặc điểm
nhân thân đặc trưng của những người phạm các tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình
Dương như sau:
+ Phần lớn những người phạm tội XPNP là nam giới: Có đến 104 người phạm
tội là nam giới, chiếm tỷ lệ 92,86%.
+ Độ tuổi của người phạm tội XPNP phổ biến trong độ tuổi từ 18 đến 30 với 80
người, chiếm tỷ lệ cao nhất 71,43%.
+ Trình độ học vấn của người phạm tội XPNP phần lớn là trình độ tiểu học,
trung học cơ sở với 72 tuổi chiếm tỉ lệ 64,29%.
+ Người phạm tội XPNP có nghề nghiệp không ổn định chiếm tỉ lệ lớn 73
người, chiếm 65,18%.
+ Đa phần người phạm tội là dân nhập cư 82 người, chiếm tỉ lệ và trong số 82
người phạm tội này thì có tới 73 người có nơi cư trú không ổn định (chiếm 65,18%).
+ Số lượng lớn người phạm tội XPNP thì sống trong gia đình có hoàn cảnh
không thuận lợi là 87 người, chiếm tỉ lệ 77,68% và phần lớn không có vợ là 74 người,
chiếm 66,07%
Ngoài ra, động cơ, mục đích phổ biến của người phạm tội XPNP ở tỉnh Bình
Dương đa phần là thỏa mãn nhu cầu tình dục 96 vụ/145 bị cáo, chiếm 96,03% và số
người phạm tội XPNP chưa có tiền án, tiền sự lại chiếm đa số với 80 người, chiếm
71,43%.
2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người
phạm tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương
2.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
27
2.3.1.1. Tác động của môi trường gia đình
- Nghiên cứu cơ cấu nhân thân người phạm tội theo đặc điểm về hoàn cảnh gia
đình đối với 112 bị cáo phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014
đến 2018, cho thấy môi trường gia đình có tác động đáng kể đến sự hình thành các đặc
điểm nhân thân người phạm tội, trong đó có một số đặc điểm hoàn cảnh gia đình đặc
thù sau đây:
+ Hoàn cảnh gia đình không thuận lợi
Số lượng bị cáo sống trong gia đình không thuận lợi (mất cha, mẹ hoặc cả hai,
hay sống trong gia đình đông con hay cãi vã,..) chiếm tỉ lệ khá cao: Có đến 87 người
(chiếm tỷ lệ 77,68%) sinh sống trong các gia đình có hoàn cảnh không thuận lợi. Điển
hình như vụ án sau: Trịnh Văn Thân (sinh năm 1992) có cha, mẹ ly hôn và sau đó cả
hai người đều đã mất khi Thân còn nhỏ. Khoảng đầu tháng 02 năm 2018, Trịnh Văn
Thân quen biết và có tình cảm yêu đương với Võ Thị Mỹ Tiên( sinh năm 2004). Đến
khoảng giữa tháng 02/2018, Thân đưa Tiên về sống chung như vợ chồng tại phòng trọ
do Thân thuê ở khu nhà trọ số 7A/39 khu phố Bình Đức 2, phường Bình Hòa, thị xã
Thuận An, tỉnh Bình Dương. Trong thời gian từ giữa tháng 02/2018 đến ngày
30/3/2018, Thân và Tiên đã rất nhiều lần (khoảng hơn 20 lần) giao cấu với nhau tại
phòng trọ, tại các nhà nghỉ và các quán cà phê trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình
Dương. Lần giao cấu sau cùng là lúc khoảng 15 giờ 00 phút ngày 30/3/2018 tại chòi lá
của quán cà phê “Thanh Hằng” ở phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình
Dương. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 31/3/2018, Thân chở Tiên về nhà bà Lê Thị Chi
(dì của Tiên). Thấy Tiên có biểu hiện lạ, bà Chi hỏi và Tiên đã kể hết việc mình với
Thân chung sống với nhau như vợ chồng và đã quan hệ tình dục với nhau nhiều lần,
nên bà Chi đã đến Công an phường Lái Thiêu, thị xã Thuận An, Bình Dương trình
báo.
+ Gia đình chưa chú trọng giáo dục con cái
* Có 210 người, chiếm 70% số người được hỏi trả lời bố mẹ ít quan tâm đến
con, ít có thời gian dành cho con; chỉ có 53 người, chiếm 17,67% trả lời bố mẹ rất
quan tâm đến con, thường xuyên dành thời gian cho con và 37 người, chiếm 12,33%
số người chọn bố mẹ phải lo làm ăn, không có thời gian quan tâm con. Như vậy, vấn
28
đề bố mẹ ít quan tâm đến con, ít có thời gian dành cho con chiếm tỉ lệ cao, nhất là
trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay.
Điển hình như vụ án “Hiếp dâm” sau: Bế Hoàng Thế Phương, sinh năm 1991.
Bế Hoàng Thế Phương và Nguyễn Thị Ngọc Oanh là bạn từ năm 2015. Khoảng 18 giờ
00 phút ngày 15/8/2017, Phương điện thoại cho Oanh rủ Oanh đi chơi thì Oanh kêu bị
cáo Phương đến quán Những Người Bạn ở phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương chở Nguyễn Thị Ngọc Yến (em ruột của Oanh), sinh ngày
29/6/2000, ngụ tại xã Lộc Thuận, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước về phòng trọ tại
phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một giúp Oanh thì Phương đồng ý. Phương
đến quán Những Người Bạn đón Yến. Khi Phương điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha,
loại Sirius, biển số 61U2 – 3272 chở Yến đi được khoảng 05 phút thì Phương nảy sinh
ý định quan hệ tình dục với Yến nên Phương điều khiển xe chạy đến phường Phú Tân,
thành phố Thủ Dầu Một. Yến hỏi Phương “tại sao đi đường này” thì Phương nói “đi
đường này cũng được” nên Yến không nói gì. Khi đến khu đất trống trong khu công
nghiệp Sóng Thần 3 thuộc phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương là khu vực vắng người qua lại, không có đèn đường, Phương dừng xe lại rồi
kêu Yến chờ để Phương đi vệ sinh. Sau khi đi vệ sinh xong, Phương đến chỗ Yến
đang đứng, ôm Yến từ phía sau rồi quật ngã Yến xuống đất và dùng tay giật mạnh áo
sơ mi của Yến làm đứt 04 cúc áo. Yến kêu cứu và dùng chân đạp Phương ngã ra sau
rồi đứng dậy bỏ chạy; Phương đuổi theo Yến và xô Yến ngã xuống đất lần nữa; Yến
dùng tay đánh vào mặt Phương thì bị Phương đánh lại Yến. Khi Yến đứng dậy bỏ
chạy thì Phương đuổi theo nắm tay kéo Yến lại, dùng tay kéo váy của Yến lên và kéo
quần lót của Yến xuống đến đầu gối rồi Phương cởi quần của Phương ra và dùng ngón
trỏ tay trái đưa vào âm đạo của Yến, Yến không đồng ý nên gạt tay ra. Lúc này,
Phương cầm dương vật đưa vào âm đạo của Yến và thực hiện hành vi quan hệ tình
dục. Khi thực hiện hành vi xong, Phương mặc quần lại và đưa áo khoác của Phương
cho Yến mặc rồi chở Yến về phòng trọ của Yến. Khi về đến phòng trọ, Yến kể cho
Oanh biết sự việc. Cùng ngày 15/8/2017, Yến và Oanh đến Công an phường Chánh
Nghĩa trình báo sự việc.
Qua tìm hiểu hồ sơ vụ án trên, bị cáo Phương từ nhỏ đã sống với cô ruột của
mình do bố mẹ Phương đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, mỗi năm về nhà 2 lần. Vì
29
vậy, bản thân bị cáo từ nhỏ đã thiếu đi sự giáo dục, dạy dỗ về đạo đức, về giới tính từ
bố mẹ dẫn đến bản thân bị cáo hành động theo bản năng để đạt được dục vọng sai trái
của mình, bất chấp phản ứng không đồng tình của nạn nhân cũng như hậu quả mà
hành vi của mình có thể gây ra (có thể làm nạn nhân có thai) để thực hiện hành vi giao
cấu với người bị hại, xâm phạm đến nhân phẩm của nạn nhân, trái với đạo đức và
pháp luật.
* Đối với câu hỏi “khi con mắc lỗi, bố mẹ xử sự thế nào” thì có 157 người,
chiếm 52,33% lựa chọn đáp án bố mẹ chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi
thôi; 55 người, chiếm 18,33% chọn bố mẹ thường xuyên bênh vực, bao che lỗi cho
con; 42 người, chiếm 14% chọn bố mẹ mắng chửi thậm tệ, đánh con và sử dụng hình
phạt và chỉ có19 người, chiếm 9% chọn bố mẹ tìm hiểu kỹ nguyên nhân con mắc lỗi
rồi phân tích để con hiểu và tự đề ra hướng khắc phục lỗi lầm. Bố mẹ giải quyết vấn
đề khi thấy con mắc lỗi bằng cách chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi thôi
chiếm tỉ lệ cao trong khảo sát thể hiện sự thiếu quan tâm sâu sắc đến con mình và có
thể dễ gây tổn thương tâm lý cho con, tạo khoảng cách tình cảm giữa con và bố mẹ.
Điển hình là trường hợp sau: Lê Ngọc Linh sinh năm 2001, học sinh trường
THPT Nguyễn Trãi, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương. Vào giữa tháng 12 năm
2018, giữa Linh và Đặng Thị Oanh (bạn học cùng lớp) có xảy ra mâu thuẫn khi Oanh
bình luận khiếm nhã một bức ảnh của Linh trên Facebook và Linh cho rằng mình bị
Oanh xúc phạm nên đã chửi nhau với Oanh trên mạng Facebook, đồng thời gỡ bình
luận của Oanh và hủy kết bạn. Vào ngày 05/1/2018, khi Oanh đang trên đường đi học
về thì Linh cùng Mai Thị Thúy và Nguyễn Trang Thu chặn đường lại nói chuyện. Linh
nói lại chuyện cũ và hai bên xảy ra lời qua tiếng lại. Hơn 30 phút sau, Oanh bị Linh và
nhóm bạn kéo vào quán karaoke Thiên Đường nằm cách trường 500m. Trong phòng
karaoke, Linh và nhóm bạn đã bật nhạc thật to, đóng cửa, tắt điện rồi thi nhau đánh
đập, xé áo, đấm đá vào mặt, người của Oanh. Khi Oanh van xin, nhóm bạn của Linh
vẫn không dừng lại mà tiếp tục đánh đập và dùng lưỡi dao lam cắt tóc, nhổ tóc sau
gáy. Thêm vào đó, nhóm bạn của Linh còn quay phim, chụp ảnh. Gần 1h đồng hồ sau,
Linh bắt Oanh mặc áo trùm người, trùm mặt rồi đẩy ra ngoài và không quên buông lời
đe dọa nếu nói với nhà trường, gia đình sẽ bị đánh tiếp. Trước sự việc trên, gia đình
Oanh đã làm đơn tố cáo lên cơ quan công an.
30
Khi phân tích hồ sơ vụ án trên, tác giả nhận thấy có tình tiết, bố mẹ của Linh
biết được việc Linh và Oanh “chửi nhau” trên mạng Facebook với những lời khiếm
nhã. Bố mẹ Linh đã mắng chửi bị cáo cho hả giận nhưng lại không có sự giáo dục,
uốn nắn con mình. Và chính điều này đã đẩy sự việc lên cao trào dẫn đến bị cáo Linh
tức giận khi bị bạn bình luận xấu về mình mà còn bị bố mẹ la mắng thậm tệ, không có
sự chia sẻ. Cho nên, bị cáo đã lựa chọn cách giải quyết bằng việc đánh đập, làm nhục
bạn với thái độ coi thường pháp luật.
Qua đó, ta thấy vai trò của môi trường gia đình có tác động rất lớn. Trẻ em
sinh ra, tâm hồn như một tờ giấy trắng nếu không được sự quan tâm, giáo dục đúng
đắn của bố mẹ thì sẽ dễ sa ngã vào con đường tội phạm, đặc biệt là các tội XPNP liên
quan đến phẩm chất đạo đức của con người.
2.3.1.2. Tác động của môi trường giáo dục
Nghiên cứu tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 –
2018 và kết quả điều tra xã hội học, cho thấy tác động của môi trường giáo dục có
những đặc thù sau:
- Chương trình học tập quá nặng, dẫn đến nhiều học sinh chán học, bỏ học. Nền
giáo dục Việt Nam trải qua 3 lần cải cách nhưng chương trình vẫn còn mang tính hàn
lâm, chưa gắn nhiều với thực tiễn đời sống. Do đó thường tạo ra áp lực học tập cho
các em học sinh vì phải chạy đua với kiểm tra, thi cử.
Điển hình như vụ án “Làm nhục người khác” do Phạm Thị Tuyết cùng đồng
bọn thực hiện: Tuyết (sinh năm 2004) sống trong gia đình khá giả, nhưng ham chơi,
thường xuyên trốn học. Ngày 20/3/2018, Tuyết cùng nhóm bạn là Lê Xuân Lan, Phan
Minh Nhựt đến quán trà sữa Hot and Cold ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương chơi thì gặp Mai Ái Liên. Tuyết nhớ lại lúc trước Liên từng nhắn tin dụ dỗ
người yêu cũng lớp của mình nên đã rủ nhóm bạn “dằn mặt Liên”. Liên bị Tuyết đẩy
ngã xuống sàn, Liên cắn vào tay Tuyết khiến Tuyết ức giận nắm tóc, đánh nhiều cái
vào đầu và xé rách áo sơ mi, áo ngực của Liên. Lúc này, Lê Xuân Lan đứng cạnh đó
nói với Tuyết đừng đánh Liên mà lột quần áo để Liên “xấu hổ mai mốt khỏi dụ trai”.
Sau đó, Lan khống chế, còn Tuyết thì lột quần của Liên xuống tới mắt cá chân mới
dừng lại, Minh Nhựt dùng điện thoại quay, chụp hình Liên trong tình trạng không mặc
31
quần áo. Đoạn clip này sau đó được phát tán lên mạng gây xôn xao dư luận. Công an
TP Thủ Dầu Một vào cuộc, bắt khẩn cấp Tuyết cùng đồng bọn.
Nghiên cứu hồ sơ vụ án trên thì kể từ khi vào học lớp 6, chương trình học cấp
2 có nhiều thay đổi, tăng nặng nội dung lý thuyết lên, giáo viên thiếu quan tâm nên bị
cáo Tuyết vốn là học sinh yếu và nay lại học chương trình mới nên không theo kịp
kiến thức với các bạn trong lớp.Từ đó, bị cáo hình thành tâm lý chán nản, xem thường
việc dạy học của thầy, cô giáo, thường xuyên trốn học, rủ rê bạn bè ăn chơi,… Bản
thân bị cáo Tuyết khi thực hiện hành vi phạm tội chỉ mới 14 tuổi (đang học lớp 9).
Đây là độ tuổi dậy thì, trẻ hay có những tính cách bốc đồng, thích thể hiện kèm theo
đó là sự thiếu hiểu biết pháp luật và đặc biệt là sự thờ ơ không quan tâm của giáo viên
tạo điều kiện cho đối tượng Tuyết thường xuyên trốn học, sa vào con đường phạm tội.
- Nhà trường chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình trong giáo dục học
sinh. Nghiên cứu hồ sơ vụ án sau, ta sẽ thấy rõ vấn đề: Chiều ngày 20/4/2018, đối
tượng Nguyễn Lê Phong(sinh năm 2002) trốn học để đi chơi tại quán internet gần nhà
mình, trong cặp Phong thường có 1 con dao Thái lan nhỏ. Qua phân tích vụ án trên,
bản thân bị cáo Phong cũng đã từng bị giáo viên chủ nhiệm bắt gặp đọc truyện đồi
trụy trong giờ học nhưng giáo viên chỉ la mắng, phạt Phong dọn vệ sinh lớp trong 1
tuần mà không hề thông báo cho phụ huynh của bị cáo cũng như phối hợp với phụ
huynh dạy dỗ, giáo dục em đúng đắn về giới tính dẫn đến bị cáo ngày càng lười học,sa
đà vào các trò chơi game đồi trụy và cuối cùng dẫn đến hành vi phạm tội trên. Hành vi
này của Phong không chỉ xâm phạm đến nhân phẩm của nạn nhân mà còn đánh lên
hồi chuông cảnh báo với việc giáo dục yếu kém từ phía nhà trường.
- Ngoài ra, qua cuộc khảo sát đánh giá vai trò giáo dục của nhà trường mà tác
giả đã thực hiện, kết quả cho thấy có tới 217 người được hỏi (chiếm 72,33%) trả lời
chưa hài lòng lắm đối với phương pháp giáo dục của nhà trường. Còn đối với câu hỏi
“Anh/Chị cảm thấy đâu là bất cập, hạn chế trong nhà trường ảnh hưởng đến sự phát
triển nhân cách lệch lạc ở học sinh” có tới 92 số người được hỏi (chiếm 30,67%) trả
lời do công tác quản lý lỏng lẻo, nội dung học tập nặng nề, phương pháp dạy học
không phù hợp và 87 người (chiểm 29%) lựa chọn đáp án nhà trường chưa chú trọng
giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống.
32
Điển hình như vụ án do Nguyễn Hữu Nhật (19 tuổi; ngụ tại Thành phố Thủ
Dầu Một) thực hiện. Từ cuối tháng 11 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018, Nguyễn Hữu
Nhật và em Lê Mỹ Phượng (sinh năm 2013) quen biết nhau qua mạng xã hội
Facebook. Trong thời gian quen nhau, Nhật đã 3 lần rủ em Phượng đi nhậu rồi đưa
vào nhà nghỉ để quan hệ tình dục .Nhận thấy tâm lý bất thường của em Phượng, bà
Nguyễn Thị Lý (mẹ của Phượng) gặng hỏi và biết được vụ việc trên nên đã làm đơn tố
cáo đến Công an Thành phố Thủ Dầu Một.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án trên, bị cáo Nhật khi thực hiện hành vi đang học
lớp 12, do bị lưu ban 1 năm vì học quá yếu. Bản thân bị cáo khi bước vào lớp 10 thì
học hành yếu kém, nhận thấy đa phần thầy cô trong lớp dạy qua loa trong tiết học và
bắt phải đi học thêm tại nhà riêng. Thêm vào đó, nhà trường lại không có sự quản lý,
giáo dục phù hợp đối với bị cáo nên dẫn đến tâm lý bị cáo chán nản, thường xuyên
trốn học để đi chơi game, ăn nhậu và thực hiện hành vi phạm tội trên.
Như vậy, phương pháp giáo dục của nhà trường không những cần phải đổi mới,
cải cách nhiều hơn nữa để tạo sự hứng thú, hăng say trong học tập mà còn phải nhằm
hướng đến xây dựng nhân cách, đạo đức tốt cho học sinh cũng như có sự kết nối giữa
nhà trường và phụ huynh nhằm tạo ra những thế hệ trẻ tài đức, góp phần vào sự hưng
thịnh của đất nước.
2.3.1.3. Tác động của môi trường bạn bè
Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương,
tác giả nhận thấy môi trường bạn bè có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành
nhân cách của trẻ. Điển hình là vụ án Lâm Văn Chung cùng đồng phạm thực hiện
hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi xảy ra tại xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh
Bình Dương. Lâm Văn Chung (sinh ngày 15/4/1996), Nguyễn Hồng Nam (sinh năm
1998), Phạm Văn Phí (sinh năm 1992), cùng trú tại xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo,
tỉnh Bình Dương là người làm công ở lò gạch tại địa phương cư trú. Trong thời gian
làm việc tại đây, Chung, Nam, Phí quen biết với Nguyễn Thị Trang (sinh ngày
20/3/2003). Vào khoảng tháng 6/2018, Nhi được nghỉ hè nên vào làm thêm tại xưởng
gach cùng với mẹ. Vào ngày 11/6/2018, công nhân ở xưởng gạch được nghỉ do hết
hàng nên Chung, Nam, Phí , Trang và một số người khác rủ nhau đi chơi. Cả nhóm đã
đi chơi ở nhiều nơi, sau đó đến quán Dê Thanh ăn nhậu. Trong lúc uống bia, Chung
33
gọi Nam, Phí ra nói chuyện riêng về việc lát nữa khi đi về sẽ cho mọi người đi trước,
Chung sẽ chở Trang đi sau và sẽ cùng Nam, Phí giao cấu với Trang thì cả nhóm đồng
ý. Trên đường đi về, Chung, Nam, Phí kiếm cớ đi mua đồ cho mọi người đi trước. Sau
khi mọi người đi trước được một đoạn xa, Chung đi ra và nói với Trang cho Chung,
Nam, Phí giao cấu thì Trang không đồng ý. Lúc này, Chung nắm tay Trang kéo vào
vườn điều, Trang la lên kêu cứu thì Nam, Phí tới nắm tay, bịt miệng của Trang lại và
cùng Chung kéo Trang vào trong vườn điều cách đường lớn khoảng 40 mét. Tại đây,
Chung, Nam, Phí thay nhau giữ tay, chân của Trang và thực hiện hành vi giao cấu.
2.3.1.4. Tác động của môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội
Nghiên cứu môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội của Bình Dương hiện còn nổi
lên những bất cập, hạn chế sau đây:
- Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm
Theo bảng thống kê về nghề nghiệp của người phạm tội XPNP tại Bảng phụ lục
số 9 cho thấy có đến 65,18% không có nghề nghiệp ổn định và 28,57% số người
phạm tội không có nghề nghiệp. Như vậy, cùng với việc thất học, trình độ học vấn
thấp, không có việc làm, thất nghiệp là những nguyên nhân đáng kể làm phát sinh
hành vi phạm tội,khi con người “nhàn cư vi bất thiện” và với những hạn chế trong môi
trường kinh tế hiện nay đã phần nào thúc đẩy tình hình tội phạm trở nên phức tạp và
có chiều hướng ngày càng tăng cao.
Điển hình là vụ án Trần Văn Quang (sinh năm 1967, trú tại xã An Linh, huyện
Phú Giáo, tỉnh Bình Dương).Năm 2014, Hoàng sống chung như vợ chồng với chị Lê
Thị Chung và con riêng của chị Chung là Lê Phương Thùy (sinh năm 2001) tại nhà
của Chung. Vào khoảng đầu tháng 3/2018, Quang mua 1 chiếc điện thoại di động hiệu
Samsung A7 rồi Quang thường xuyên tải phim có nội dung khiêu dâm về máy để xem.
Vào lúc 11 giờ 30 phút khoảng giữa tháng 4/2018, sau khi nhậu say cùng với các
người bạn trong xóm xong, khi về nhà chỉ có Quang và Thùy ở nhà. Quang đã nảy
sinh ý định giao cấu với Thùy. Quang kêu cháu Thùy vào phòng ngủ để mang chăn
mền đi phơi vì Quang làm đổ nước. Cháu Thùy tin thật nên đi vào phòng. Lúc này,
Quang nhanh chóng kéo Thùy lên giường, đóng cửa phòng lại và thực hiện hành vi
giao cấu.
- Tác động của phim ảnh khiêu dâm
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người
Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người

More Related Content

What's hot

What's hot (17)

Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đPhòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm về ma túy tại Đà Nẵng, 9đ
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAYTình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
Tình hình tội trộm cắp tài sản do người dưới 18 tuổi thực hiện, HAY
 
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAYLuận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận án: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAYPhòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
Phòng ngừa tình hình tội phạm tại huyện Gia Lâm, Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền GiangLuận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
Luận văn: Nguyên nhân điều kiện của tội giết người tỉnh Tiền Giang
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội tại quận Thủ Đức, TPHCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội tại quận Thủ Đức, TPHCMLuận văn: Nhân thân người phạm tội tại quận Thủ Đức, TPHCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội tại quận Thủ Đức, TPHCM
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOTLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại tp HCM, HOT
 
Luận án: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội trên địa bàn...
Luận án: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội trên địa bàn...Luận án: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội trên địa bàn...
Luận án: Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm về trật tự xã hội trên địa bàn...
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCMLuận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu tại TPHCM
 
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đLuận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
Luận văn: Tình hình tội giết người tại TPHCM (2011 - 2015), 9đ
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TP Đà NẵngLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TP Đà Nẵng
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TP Đà Nẵng
 
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Bình Định, 9đ - Gửi miễn...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Bình Định, 9đ - Gửi miễn...Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Bình Định, 9đ - Gửi miễn...
Hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội tại Bình Định, 9đ - Gửi miễn...
 
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định của pháp l...
 

Similar to Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người

Similar to Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người (20)

Luận văn: Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục, HOTLuận văn: Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục, HOT
Luận văn: Nhân thân người phạm các tội xâm phạm tình dục, HOT
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túyLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú NhuậnLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại quận Phú Nhuận
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội về ma túy tại TPHCM, HAY
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAYLuận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
Luận văn: Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu, HAY
 
Luận văn: Điều tra các vụ án về ma túy tại TP Thủ Dầu Một, 9đ
Luận văn: Điều tra các vụ án về ma túy tại TP Thủ Dầu Một, 9đLuận văn: Điều tra các vụ án về ma túy tại TP Thủ Dầu Một, 9đ
Luận văn: Điều tra các vụ án về ma túy tại TP Thủ Dầu Một, 9đ
 
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đNhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu tỉnh Kiên Giang, 9đ
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội giết người tỉnh Đồng Nai, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội giết người tỉnh Đồng Nai, HAYLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội giết người tỉnh Đồng Nai, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội giết người tỉnh Đồng Nai, HAY
 
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu GiangLuận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
Luận văn: Điều kiện của tình hình tội trộm cắp tài sản tỉnh Hậu Giang
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sảnLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCMLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại tp HCM
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đLuận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
Luận văn: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản, HAY, 9đ
 
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAYNhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản tại quận Tân Phú, HAY
 
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đĐiều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
Điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu tỉnh Đồng Nai, 9đ
 
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữuLuận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu
Luận văn: Nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu
 
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội cướp giật tài sản Quận 1, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình PhướcLuận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
Luận văn: Nhân thân người phạm tội giết người tỉnh Bình Phước
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng BìnhLuận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản tỉnh Quảng Bình
 
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Huế, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Huế, HAYLuận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Huế, HAY
Luận văn: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại Huế, HAY
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877 (20)

Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Bệnh Viện Chỉnh Hình Và Phục Hồi...
 
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
Hoàn Thiện Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Sự Nghiệp Thuộc Sở Xây...
 
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
Hoàn Thiện Công Tác Hạch Toán Kế Toán Tại Các Đơn Vị Dự Toán Cấp...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Sở Giáo Dục Và Đào Tạo ...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
Hoàn Thiện Tổ Chức Kế Toán Quản Trị Tại Công Ty Tnhh Thương Mại Đầu Tư Và Phá...
 
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y TếHoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
Hoàn Thiện Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Đơn Vị Thuộc Trung Tâm Y Tế
 
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
Tiểu Luận Thực Trạng Đời Sống Văn Hóa Của Công Nhân Khu Công Nghiệp - Hay T...
 
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
Tiểu Luận Quản Lý Hoạt Động Nhà Văn Hóa - Đỉnh Của Chóp!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa - Hay Bá Cháy!
 
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước Về Thiết Chế Văn Hóa - Hay Quên Lối Ra!.
 
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
Tiểu Luận Quản Lý Di Tích Kiến Trúc Nghệ Thuật Chùa Tứ Kỳ - Hay Bá Đạo!
 
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
Tiểu Luận Quản Lý Các Dịch Vụ Văn Hóa Tại Khu Du Lịch - Hay Xĩu Ngang!
 
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
Tiểu Luận Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Quản Lý Các Điểm Di Tích Lịch Sử Văn H...
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Lễ Hội Tịch - Xuất Sắc Nhất!
 
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
Tiểu Luận Công Tác Quản Lý Di Tích Và Phát Triển Du Lịch - Hay Nhứ...
 
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
Tiểu Luận Bảo Vệ Và Phát Huy Di Sản Văn Hóa Dân Tộc - Hay Chảy Ke!
 
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện TafQuy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
Quy Trình Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Cổ Phần Truyền Thông Và Sự Kiện Taf
 
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng CáoThực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
Thực Trạng Hoạt Động Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Quảng Cáo
 
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
Một Số Kiến Nghị Để Nâng Cao Hiệu Quảng Đối Với Dịch Vụ Quảng Cáo Và Tổ Chức ...
 
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu TưHoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
Hoàn Thiện Quy Trình Dịch Vụ Tổ Chức Sự Kiện Của Công Ty Đầu Tư
 

Recently uploaded

Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
K61PHMTHQUNHCHI
 

Recently uploaded (20)

Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường ô nhiễm hữu cơ trong nước thải ...
 
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
Báo cáo bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bà...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro môi trường từ ô nhiễm hữu cơ nước thải các...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Kế toán tiền mặt tại Công ty trách nhiệm hữu hạn ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 1-20) ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
Báo cáo tốt nghiệp Phát triển sản phẩm thẻ tại Ngân hàng thương mại cổ phần K...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá rủi ro quá trình xử lí nước cấp tại Chi nhánh Cấp...
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT TOÁN 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯỜNG...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Xây dựng mô hình ...
 
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
Bài tập lớn môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Trình bày về triế...
 
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
Báo cáo tốt nghiệp Đánh giá công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại...
 
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
Báo cáo thực tập tốt nghiệp Phân tích hiệu quả hoạt động huy động và cho vay ...
 
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
Báo cáo tốt nghiệp Hoàn thiện an toàn lao động điện công ty trách nhiệm hữu h...
 
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docxtiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
tiểu luận THỰC HÀNH QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH 1.docx
 
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
TỔNG HỢP HƠN 100 ĐỀ THI THỬ TỐT NGHIỆP THPT VẬT LÝ 2024 - TỪ CÁC TRƯỜNG, TRƯ...
 
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
40 ĐỀ LUYỆN THI ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI NĂM 2024 (ĐỀ 21-30)...
 
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa họcLogic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
Logic học và phương pháp nghiên cứu khoa học
 
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
Bài tập nhóm môn Văn hóa kinh doanh và tinh thần khởi nghiệp Triết lý kinh do...
 
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
Báo cáo tốt nghiệp Kế toán tiền gửi ngân hàng tại công ty TNHH Một Thành Viên...
 
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdfNghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
Nghe Tay Trai Hai Ra Tien - Chris Guillebeau (1).pdf
 

Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH HÒA NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM Hà Nội, 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THANH HÒA NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số: 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG Hà Nội, 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Nguyễn Thanh Hòa
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI .........................................7 1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm ..................................................................7 1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người ...........................................................................................................................8 1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người11 1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người .........................................................................................16 Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2014 - 2018........................................................................................21 2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương...21 2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo các đặc điểm nhân thân .............................................................................................23 2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương ...............................................26 Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI...........................................................................................................40 3.1. Quan điểm phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bản tỉnh Bình Dương...........................................................................................41 3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ góc độ nhân thân người phạm tội ....................................................43 KẾT LUẬN ..............................................................................................................50 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANTT : An ninh trật tự BLHS : Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng TAND : Tòa án nhân dân TTATXH : Trật tự an toàn xã hội UBND : Ủy ban nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XPNP : Xâm phạm nhân phẩm
  • 6. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1. Tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.2. Cơ số tội phạm nói chung và tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.3. Tỷ trọng giữa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.4. Cơ cấu của tinh hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 xét theo đơn vị hành chính Cấp huyện xác định trên cơ sở kết hợp yếu tố dân cư và diện tích Hình 2.5. Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.6. Tỷ trọng của diễn biến tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 Bảng 2.7. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo tội danh Bảng 2.8. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo độ tuổi, giới tính Bảng 2.9. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo trình độ học vấn Bảng 2.10. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo nghề nghiệp Bảng 2.11. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo hoàn cảnh gia đình Bảng 2.12. Cơ cấu của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 theo nơi cư trú, hộ thường trú Phiếu 2.13. : Phiếu điều tra xã hội học “Đánh giá vai trò của giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè trong việc giáo dục người chưa thành niên” Bảng 2.14. Bảng tổng hợp kết quả điều tra xã hội học (300 phiếu điều tra)
  • 7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tỉnh Bình Dương thuộc khu vực miền Đông Nam Bộ. Bình Dương được tái lập từ ngày 01/01/1997 từ việc tách tỉnh Sông Bé thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước Từ giữa những năm 90, với chính sách “Trải chiếu mời gọi đầu tư, trải thảm đỏ thu hút nhân tài”, Bình Dương đã trỗi dậy với chủ trương đổi mới, được cụ thể hóa bằng những chính sách thông thoáng, mở đường cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương. Kinh tế - xã hội của Bình Dương bước đầu đạt những thành tựu đáng kể, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, bộ mặt đô thị hóa đã được hình thành rõ nét, đã biến vùng đất thuần nông, khô cằn, kém hiệu quả trở thành những khu, cụm công nghiệp trọng điểm của cả nước. Đến nay, toàn tỉnh có 32 khu công nghiệp và 14 cụm công nghiệp, với tổng diện tích hơn 14.800 ha. Tuy nhiên, với sự phát triển kinh tế - xã hội, mặt trái của nền kinh tế thị trường cùng hàng loạt các vấn đề phát sinh như: Tình trạng nhập cư, cư trú trái phép gia tăng, diễn biến phức tạp; một bộ phận nhân dân có đời sống kinh tế còn khó khăn, không việc làm hay việc làm không ổn định; sự phân hóa giàu nghèo, sự xâm nhập văn hóa độc hại, lối sống thực dụng, các tệ nạn xã hội ngày càng tăng,… đang làm cho tình hình TTATXH hết sức phức tạp, là điều kiện thuận lợi làm phát sinh tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói riêng. Thực tế cho thấy, trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tình hình tội XPNP như hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội dâm ô với người dưới 16 tuổi, tội làm nhục người khác... đang có diễn biến hết sức phức tạp, đặc biệt gia tăng cả về số vụ, số người phạm tội lẫn tính chất nguy hiểm. Theo báo cáo kết quả giải quyết án của TAND tỉnh Bình Dương, trong 05 năm từ 2014 – 2018 đã xét xử 9.602 vụ án với 18.813 bị cáo; trong đó đã xét xử các tội XPNP là 157 vụ với 168 bị cáo. Cụ thể, năm 2014 giải quyết 1906 vụ với 3473 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 25 vụ với 29 bị cáo; năm 2015 giải quyết 1918 vụ với 3608 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 31 vụ với 37 bị cáo; năm 2016 giải quyết 1945 vụ với 3920 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 33 vụ với 38 bị cáo; năm 2017 giải quyết 1933 vụ với 3810 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 32 vụ với 36 bị cáo; năm 2018 giải quyết 1947 vụ với 4007 bị cáo, trong đó đã xét xử các tội XPNP là 36 vụ với 42 bị cáo.
  • 8. 2 Mặc dù nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta cùng với các cấp, các ngành đã có nhiều chủ trương, biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm XPNP nói riêng nhưng tội phạm XPNP vẫn không ngừng gia tăng và có diễn biến phức tạp thể hiện sự suy đồi về lối sống, sự xuống cấp về các giá trị đạo đức. Một hậu quả cũng phải kể đến đó là chi phí của Nhà nước cho quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, là những thiệt hại không thể đo đếm hết được. Do đó, đấu tranh phòng và chống loại tội phạm XPNP luôn là nhiệm vụ quan trọng, vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài, là vấn đề mang tính xã hội cao, là sự nghiệp của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do đó, để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPNP cần nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPNP nói riêng và tình hình tội phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội. Trên phương diện thực tiễn, các CQTHTT tại tỉnh Bình Dương từ lâu đã chú trọng sử dụng các đặc điểm nhân thân người phạm tội trong quá trình giải quyết các vụ án XPNP, định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính xác, cũng như đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội XPNP. Tuy nhiên, việc nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ cá nhân. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội XPNP đòi hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP ở mức độ khái quát hơn là mức độ nhóm và mức độ tình hình tội phạm. Nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP, cũng như phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài * Về lý luận nhân thân người phạm tội có những công trình nghiên cứu sau: - Tội phạm học Việt Nam một sô vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009;
  • 9. 3 - Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005; - Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53; * Về thực tiễn nhân thân người phạm tội có những công trình tác giả nghiên cứu, phân tích có hệ thống về nhân thân người phạm tội trên một địa bàn nhất định gắn với một loại tội phạm cụ thể, tiêu biểu như: - Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công (2013), Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh; - Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội; * Về kinh nghiệm và giải pháp có các công trình nghiên cứu trong việc định tội và quyết định hình phạt hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự như: - Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23; - Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2005, tr. 34-36; * Đánh giá tình hình nghiên cứu: Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đạt được các kết quả chính sau đây: - Các công trình ở những mức độ khác nhau đã làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người phạm tội, phân biệt nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội… - Các công trình cũng đã tập trung đi sâu phân tích đặc điểm làm rõ thực trạng nhân thân người phạm tội, thực trạng các yếu tố tác động đến nhân thân người phạm tội nói chung hoặc phạm một tội, một nhóm tội trên một địa bàn nhất định, như cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long, tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn tỉnh Bình Phước, tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương ...
  • 10. 4 - Các công trình cũng đã nêu được các biện pháp phòng ngừa gắn với một số loại tội phạm cụ thể, như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, các tội phạm về ma tuý, tội hiếp dâm...và trên những địa bàn cụ thể như Vĩnh Long, Bình Phước, Thành phố Hồ Chí Minh... 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, luận văn hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ để tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong giai đoạn hiện nay từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP; Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018; Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPNP từ góc độ nhân thân người phạm tội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả dựa trên các số liệu thống kê và kết quả nghiên cứu 100 bản án xét xử sơ thẩm của TAND các cấp tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 được thu thập một cách ngẫu nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học nhằm đánh giá vai trò của giáo dục trong gia đình, nhà trường và bạn bè đối với người chưa thành niên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu
  • 11. 5 - Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Bình Dương. - Phạm vi về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2018. - Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPNP quy định tại chương XIVcủa BLHS, gồm: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH; các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự; thực tiễn phòng chống các tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể: Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tình hiểu quan điểm nhận thức của người chưa thành niên đối với phương pháp, nội dung giáo dục giới tính trong gia đình và nhà trường. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn - Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, làm giàu thêm hệ thống lý luận tội phạm học nói chung và lý luận phòng, chống tội XPNP nói riêng, đồng thời dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật.
  • 12. 6 - Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng vào thực tiễn công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội XPNP nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Dương trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được cấu trúc thành ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Chương 2: Thực tiễn nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 -2018 Chương 3: Nhân thân người phạm tội và những vấn đề đặt ra đối với phòng ngừa tình hình tội xâm phạm nhân phẩm của con người
  • 13. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI 1.1. Định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm Để xây dựng định nghĩa về tội xâm phạm nhân phẩm, trước kết cần làm rõ khái niệm nhân phẩm. Khái niệm “nhân phẩm” trong các tội xâm phạm nhân phẩm chưa được định nghĩa trong bất kỳ văn bản pháp luật nào. Song qua nghiên cứu một số tài liệu về mặt ngôn ngữ thì có một số định nghĩa nhân phẩm, cụ thể như sau: Trong cuốn từ điển Tiếng Việt của GS. Hoàng Phê, nhân phẩm được định nghĩa như sau: “Nhân phẩm là phẩm chất và giá trị của con người” [9, tr.487]. Theo định nghĩa này thì nhân phẩm chính là các phẩm chất, giá trị của một con người tạo nên giá trị của con người đó. Giá trị đó được cộng đồng xã hội công nhận và tôn kính. Còn trong sách giáo khoa môn Giáo dục công dân lớp 10 của Bộ giáo dục và đào tạo có đưa ra định nghĩa nhân phẩm như sau: “Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất mà mỗi con người có được, nói cách khác nhân phẩm là giá trị làm người của mỗi người” [2, tr.18]. Như vậy, định nghĩa này về cơ bản cũng tương đồng với định nghĩa nêu trên khi xác định nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất làm nên giá trị của con người. Hay trong bài giảng Môn Đạo đức người lái xe thì nhân phẩm là giá trị đạo đức cao đẹp của mỗi người, là điều mà ai cũng quan tâm và chăm lo giữ gìn. Giữ được nhân phẩm ở mọi nơi, mọi lúc trong mọi hoàn cảnh là một điều khó khăn, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên nỗ lực, cố gắng rèn luyện bản thân. Nhân phẩm (còn gọi là phẩm giá) của con người là toàn bộ những giá trị đạo đức cao đẹp mà người đó đã đạt được, là giá trị làm người của mỗi con người [16, tr.4]. Định nghĩa này cũng đề cao phẩm giá, giá trị làm người của mỗi con người. Giá trị này chắc chắn phải được xã hội thừa nhận. Qua các định nghĩa về nhân phẩm nêu trên, có thể rút ra được định nghĩa nhân phẩm: Nhân phẩm là toàn bộ phẩm chất tốt đẹp của mỗi người làm nên giá trị của con người đó. Những phẩm chất này phù hợp với những giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận. Tội phạm theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có
  • 14. 8 năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”. Từ định nghĩa về nhân phẩm và định nghĩa về tội phạm nêu trên, có thể định nghĩa tội xâm phạm nhân phẩm của con người như sau: Tội xâm phạm nhân phẩm của con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong chương XIV của Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm đến quyền được tôn trọng các giá trị đạo đức của con người. Trong chương XIV của BLHS, nhà làm luật không liệt kê riêng các tội xâm phạm nhân phẩm mà có sự gộp chung 14 tội danh (từ Điều 141 đến Điều 156) thành nhóm tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm. Trong nhóm tội này, phần lớn các tội phạm đều xâm hại đồng thời nhân phẩm, danh dự của con người. Căn cứ vào quy định trong chương XIV, có thể xác định được các tội XPNP trong BLHS bao gồm các tội danh sau: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156). 1.2. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người 1.2.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Mác viết: “Nhà nước cần phải thấy rằng kẻ vi phạm đó là một con người, một tế bào sống của xã hội, ở con người đó cũng có quả tim đang đập và dòng máu đang chảy, một người lính mà họ cần phải trở thành chiến sĩ bảo vệ đất nước…một thành viên của tập thể thực hiện các chức năng xã hội, một người chủ gia đình mà sự tồn tại
  • 15. 9 của họ là thiêng liêng và cuối cùng điều quan trọng nhất họ là công dân của nhà nước đó” [24, tr.49]. Như vậy, nghiên cứu nhân thân người phạm tội cũng chính là nghiên cứu nhân thân con người đang sống trong xã hội: Nhân thân của những người đã thực hiện hành vi phạm tội, là chủ thể của tội phạm. Việc nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng này trong nhân thân người phạm tội cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa sớm đối với những người có phẩm chất tiêu cực, có biểu hiện vi phạm đạo đức, vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội. Nhân thân của những người phạm các tội hoặc các nhóm tội khác nhau cũng có những đặc trưng khác nhau. Ví dụ nhân thân của những người phạm các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt thường có đặc điểm nhân thân nổi trội là động cơ vụ lợi, mong muốn có tiền bất chính; nhân thân của những người xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người có đặc điểm nhân thân nổi trội là sự coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác, coi thường giá trị đạo đức, pháp luật; đối với những người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm của con người, đặc điểm nhân thân nổi trội nhất của những người này là sự coi thường nhân phẩm của người khác, coi thường các giá trị đạo đức, pháp luật. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều đặc điểm nhân thân khác mà luận văn sẽ làm sáng tỏ trong các nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở khái niệm nhân thân người phạm tội và các khái niệm có liên quan đã phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm như sau: Nhân thân người phạm tội XPNP là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện hành. 1.2.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm Nhân thân người phạm tội là đối tượng được nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, với những mục đích khác nhau và bằng những phương pháp nghiên cứu khác nhau nên góc độ tiếp cận với vấn đề nhân thân người phạm tội của mỗi ngành khoa học cũng không giống nhau. Tội phạm học với tư cách là một khoa học chuyên nghiên cứu về tội phạm và người phạm tội cùng những nguyên nhân, điều kiện của nó
  • 16. 10 để đề ra các biện pháp phòng ngừa, cho nên vấn đề nhân thân người phạm tội được nghiên cứu một cách khá sâu sắc, toàn diện và mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Như vậy, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa như sau: Thứ nhất, việc nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPNP góp phần phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận của chính ngành Tội phạm học. Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân người phạm tội XPNP nói riêng cùng những số liệu về người phạm tội XPNP cụ thể góp phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình tội phạm, giải thích được những thay đổi trong thực trạng, cơ cấu, động thái của tình hình tội phạm [39, tr.127] và dự đoán xu hướng của nó trong tương lai. Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trước hết cần làm rõ một số vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP, như khái niệm, ý nghĩa, phân loại nhân thân người phạm tội XPNP. Những lý luận này sẽ góp phần làm phong phú thêm lý luận của Tội phạm học về nhân thân người phạm tội. Thứ hai, Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP, cụ thể đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014-2018 sẽ cung cấp những thông tin quan trọng về các đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Những thông tin, như đặc điểm trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, thói quen, sở thích … của người phạm tội sẽ là những thông tin hữu ích cho các ngành khác, như giáo dục học, đạo đức học, kinh tế học … tham khảo trong phát triển các nội dung khoa học phục vụ các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, phát triển con người … Thứ ba, Do đó, các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPNP có ý nghĩa trong việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPNP chẳng hạn như các tội về XPNP của con người đều được nhà làm luật xây dựng dưới dạng cấu thành tội phạm hình thức nên dấu hiệu định tội của nhóm tội này trong BLHS đều liên quan đến dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm hay đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy định là yếu tố định khung một số tội XPNP (điểm i khoản 2 Điều 141, điểm g khoản 2 Điều 142, điểm g khoản 2 Điều 143, điểm e khoản 2 Điều 144, điểm e khoản 2 Điều 146, điểm g khoản 2 Điều 147, điểm e khoản 3 Điều 150, điểm g khoản 3 Điều 151).
  • 17. 11 Thứ tư, dấu hiệu pháp lý về tội phạm và chủ thể của tội phạm XPNP được quy định thống nhất, song mỗi một vụ phạm tội luôn luôn mang tính cá biệt của hoàn cảnh và đối tượng thực hiện tội phạm. XPNP giúp cho việc sàng lọc đối tượng, phát hiện nhanh chóng, chính xác tội phạm và người phạm tội, áp dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết cũng như những biện pháp tác động tâm lý, cảm hóa đối tượng trong hỏi cung, đối chất, khám xét thu giữ vật chứng,… Thứ năm, khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người phạm tội XPNP và những phương pháp phân loại người để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục người phạm tội, lập dự án phát triển hệ thống trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại các trại giam, cơ sở giáo dục đó…Việc thi hành hình phạt hoặc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với từng loại người phạm tội sẽ không đạt hiệu quả nếu không có sự phân loại hợp lý dựa vào đặc điểm nhân thân của họ. Chẳng hạn như: Xếp phạm nhân vào trại nào, buồng nào, họ phải làm những công việc gì trong quá trình cải tạo, chế độ học tập, sinh hoạt áp dụng với từng loại người, hoặc những trường hợp cải tạo không giam giữ, quản chế, bắt buộc chữa bệnh…cần phải có cơ chế quản lý giám sát, kết hợp sự giáo dục như thế nào… 1.3. Đặc điểm của nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Các tội XPNP được chia ra làm 2 nhóm: Nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục (từ Điều 141 đến Điều 147) và nhóm người XPNP thực hiện thông qua hành vi khác (Điều 150, Điều 151, Điều 155, Điều 156). Trong đó, nhân thân người phạm tội XPNP theo từng nhóm trên thì đều có những đặc điểm, dấu hiệu chung với nhân thân người phạm tội . Ngoài ra, nó cũng còn có những đặc điểm, dấu hiệu riêng đặc thù. Từ những đặc điểm chung và riêng trên, tác giả chia làm ba nhóm phân tích như sau: - Nhóm đặc điểm xã hội – nhân khẩu học; - Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý; - Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự. 1.3.1. Nhóm dấu hiệu xã hội – nhân khẩu
  • 18. 12 Những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP cũng giống như trong nhân thân của con người nói chung, bao gồm: Giới tính, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội, hoàn cảnh gia đình, quan hệ xã hội…Những dấu hiệu này tồn tại trong nhân thân của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập hợp những thông tin về dấu hiệu xã hội – nhân khẩu thu được qua thống kê hình sự sẽ cho chúng ta cơ sở để rút ra những kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Mặt khác, nếu kết hợp những dấu hiệu riêng biệt của người phạm tội thì những dấu hiệu xã hội – nhân khẩu sẽ giúp cho chúng ta hiểu trọn vẹn về nhân thân người phạm tội và có ý nghĩa quan trọng trong việc đề ra và thực hiện các biện pháp giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa tội phạm.[39, tr.144] 1.3.1.1 Giới tính Trong thực tế của cuộc đấu tranh chống tội phạm XPNP ở nước ta, đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục, thì tỷ lệ nam giới phạm tội chiếm tỷ lệ cao vì nam giới có khả năng kiềm chế, kiểm soát hành vi thấp hơn nữ giới nên khả năng phạm tội cao hơn. Và ngược lại đối với nhóm người XPNP thực hiện thông qua hành vi khác thì tỷ lệ nữ giới phạm tội lại chiếm tỷ lệ cao hơn và có xu hướng tăng lên, chủ yếu là trong các vụ án về tội làm nhục người khác bởi vì nữ giới có tính hay ghen tuông do đó khi xảy ra mâu thuẫn trong tình cảm thường sử dụng bạo lực để “dằn mặt” nạn nhân làm cho tình hình ANTT thêm phức tạp. 1.3.1.2. Lứa tuổi Ở mỗi độ tuổi khác nhau, con người có những suy nghĩ, nhận thức, cách hành xử các mối quan hệ khác nhau…Và ở người phạm tội XPNP cũng vậy, họ cũng có những khác biệt nhất định về nhận thức hành vi phạm tội, cách tiếp cận nạn nhân, cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách dụ dỗ nạn nhân sau khi việc phạm tội đã hoàn thành hay cách làm nhục nạn nhân, vu khống nạn nhân… Nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP từ khía cạnh về độ tuổi có thể giúp chúng ta nhìn nhận đúng đắn về tính chất, mức độ, đặc điểm của từng tội phạm. Ở đặc điểm này, có thể chia độ tuổi của những người phạm tội XPNP theo 03 nhóm với những đặc điểm khác nhau như:
  • 19. 13 - Nhóm dưới 18 tuổi: Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc không cân bằng thì sẽ không kiềm chế được cảm xúc của bản thân là yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn đạo đức, hành vi phạm tội. Đặc biệt ở nhóm tuổi này có sự phát triển như “vũ bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội. - Nhóm từ 18 đến 30 tuổi: Đây là nhóm tuổi có sự ổn định hơn về mặt tâm, sinh lí so với nhóm dưới 18 tuổi. Ở nhóm tuổi này, con người có khao khát về tình yêu, nhu cầu sinh lí cũng phát triển nên thường dẫn đến những ham muốn tình dục. Vì vậy nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại quyền tự do tình dục đa phần nằm trong nhóm từ 18 đến 30 tuổi. Ngoài ra, những người từ 18 đến 30 tuổi đang thuộc nhóm tuổi lao động trẻ của xã hội. Tuy nhiên, nếu một người trong nhóm tuổi này mà không học tập hoặc chưa có nghề nghiệp ổn định thì sẽ cảm thấy bất an, hụt hẫng, bi quan tự ti hay bất mãn. Trạng thái tâm lí này có thể dẫn người ta đến trầm uất, nghiện ngập, rơi vào các tệ nạn xã hội và nhanh chóng dẫn đến con đường phạm tội. - Nhóm từ trên 30 tuổi trở lên: Ở độ tuổi này, con người có sự chín chắn trong tư duy nhận thức của mình. Thêm vào đó, nhóm người từ 30 tuổi trở lên đa phần họ đều đã kết hôn và có công việc cho nên họ có sự ổn định cao về tâm lý, về nhận thức đời sống hay pháp luật. Do đó, nhóm tuổi từ 30 trở lên phạm vào các tội XPNP chiếm tỉ lệ thấp so với hai nhóm tuổi trên. 1.3.1.3. Trình độ học vấn Đặc điểm về trình độ học vấn có thể chia thành 04 nhóm như sau: nhóm không biết chữ; nhóm có trình độ học vấn từ tiểu học đến trung học cơ sở; nhóm có trình độ học vấn ở mức trung học phổ thông; nhóm có trình độ học vấn trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. 1.3.1.4. Nghề nghiệp, địa vị xã hội Đối với người phạm tội XPNP cũng vậy, nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau thì khả năng “nhiễm tội” cũng khác nhau. Đặc điểm nhân thân người phạm tội từ khía cạnh nghề nghiệp, có thể chia thành 03 nhóm là: người không có nghề nghiệp, người có nghề nghiệp không ổn định và người có nghề nghiệp ổn định.
  • 20. 14 1.3.1.5. Hoàn cảnh gia đình Gia đình là tế bào của xã hội. Hoàn cảnh gia đình có thể xét đến như: điều kiện sống về mặt tinh thần, tình trạng hôn nhân, gia đình không hoàn thiện, gia đình khuyết thiếu,… hoặc vẫn đang độc thân. Các hoàn cảnh gia đình nêu trên sẽ được nghiên cứu với mục đích đánh giá sự tác động của môi trường gia đình đến quá trình hình thành nhân cách lệch chuẩn của người phạm tội XPNP. Trong phần hoàn cảnh gia đình, có thể nghiên cứu theo 2 phương diện: một là bản thân người phạm tội (có vợ và không có vợ), hai là cha mẹ, người nuôi dưỡng (thuận lợi và không thuận lợi). 1.3.1.6. Nơi cư trú Nơi cư trú, nơi sinh sống (làng, xã, khu phố,…) được xem là một xã hội thu nhỏ, có tác động khá trực tiếp đến lối sống của công dân. Hoàn cảnh kinh tế cũng như điều kiện phát triển chung của nơi cư trú có những tác động mạnh mẽ đến ý thức và nhân cách của con người nơi đây. Có nghĩa, tại nơi cư trú, điều kiện sống (về kinh tế và tinh thần) tốt sẽ tác động tích cực đến quá trình hình thành nhân cách đúng đắn của mọi người nơi đây; ngược lại, nếu điều kiện sống không tốt, có nhiều tệ nạn xã hội, thường xuyên xảy ra bạo lực, đánh nhau hay… sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hình thành nhân cách của con người. Với đặc điểm về nơi cư trú, người phạm tội XPNP được chi thành 2 căn cứ: Thứ nhất là có nơi cư trú ổn định và có nơi cư trú không ổn định và thứ hai là hộ khẩu trong tỉnh và ngoại tỉnh. Tổng hợp nhiều dấu hiệu xã hội - nhân khẩu trong nhân thân người phạm tội XPNP sẽ giúp chúng ta có những hiểu biết sâu sắc về người phạm tội, từ đó có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu. 1.3.2. Nhóm dấu hiệu đạo đức, tâm lý Tổng hợp những thông tin về các đặc điểm xã hội – nhân khẩu đã cho chúng ta một cái nhìn khá bao quát về nhân thân người phạm tội XPNP. Tuy nhiên đó chỉ là những dấu hiệu bên ngoài, nó chưa cắt nghĩa được lý do tại sao người đó lại phạm tội XPNP. Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta còn phải đi sâu nghiên cứu mặt bên trong của nhân thân người phạm tội được thể hiện ở các dấu hiệu đạo đức tâm lý. Nhóm đặc điểm này bao gồm: các dấu hiệu thuộc về tinh thần, về ý thức, quan điểm
  • 21. 15 cá nhân về giá trị đạo đức, về pháp luật, về khí chất, tính cách, quan điểm cá nhân về cái đẹp – cái xấu,…[39, tr.154] 1.3.2.1. Quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức Trong nhiều trường hợp, quan điểm, thái độ, nhận thức về giá trị đạo đức của người phạm tội không phù hợp với quan điểm, thái độ nhận thức về giá trị đạo đức của xã hội dẫn đến những người này có những hành xử không đúng với giá trị đạo đức được toàn xã hội tôn trọng. Hầu hết những người phạm tội XPNP thường có đạo đức bị suy thoái, không tôn trọng giá trị nhân phẩm của con người. Trong nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục thì người phạm tội xem nạn nhân như đồ vật , “thú vui tiêu khiển” để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình hay trong nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác, họ có thể xem con người như một món hàng hóa để trao đổi, mua bán,… 1.3.2.2. Quan điểm, thái độ, nhận thức về pháp luật Pháp luật hình sự ngoài nhiệm vụ mang tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm còn mang tính trừng trị người phạm tội trong BLHS. Ngoài ra, một số người phạm tội có sự hiểu biết nhất định về pháp luật hình sự nhưng tự tin cho rằng hành vi của mình sẽ không bị phát hiện và xử lý nên vẫn cố tình thực hiện. 1.3.2.3. Nhu cầu, sở thích, thói quen Đây là các yếu tố mang tính chất quyết định đối với động cơ phạm tội XPNP, yếu tố này tác động trực tiếp đến quá trình hình thành động cơ, mục đích và thái độ thực hiện hành vi phạm tội XPNP. Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm phạm quyền tự do tình dục thì nhìn chung các đối tượng này có nhu cầu, sở thích lệch lạc so với xã hội, họ có thói quen không lành mạnh và có suy nghĩ về việc thỏa mãn nhu cầu khác lạ. Nói cách khác, họ là nhóm đối tượng thường: sử dụng ma túy, rượu chè, cờ bạc, xem phim sex, phim khiêu dâm, bạo lực, thích khám phá một cách bất hợp pháp về thân thể của người khác,… Quan trọng hơn, nhóm đối tượng này có ý thức mong muốn thực hiện mọi biện pháp để thực hiện hành vi phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu, sở thích tình dục của bản thân. Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì các đối tượng này thường có nhu cầu, sở thích vật chất không chính đáng, coi trọng vật chất, có thái
  • 22. 16 độ lười lao động, tư tưởng làm ít hưởng nhiều, dùng tiền để đáp ứng nhu cầu, sở thích không chính đáng hay có thói quen dùng bạo lực trong hành động để giải quyết các mâu thuẫn trong cuộc sống,… 1.3.2.4. Động cơ, mục đích phạm tội Đối với nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi khác thì có động cơ vụ lợi và mục đích là kiếm tiền như các tội mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi. Còn tội làm nhục người khác và tội vu khống thì thường có động cơ, mục đích là trả thù nạn nhân. Xác định động cơ, mục đích phạm tội có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định trách nhiệm hình sự. 1.3.3. Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự Vì vậy, nghiên cứu các đặc pháp lý hình sự của tội XPNP không chỉ giúp nhận thức đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội XPNP mà còn giúp hiểu rõ nguyên nhân phát sinh tội phạm cũng như có cơ sở trong việc đề ra các giải pháp phòng ngừa hữu hiệu các tội XPNP. Trong phần này, có thể chia thành 3 nhóm phân tích: người phạm tội có tiền sự; người phạm tội có tiền án; người phạm tội chưa có tiền án – tiền sự. 1.4. Những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm của con người Nhân thân của một con người không được tự nhiên sinh ra mà hình thành, phát triển trải qua một quá trình tương tác lâu dài giữa các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống với các yếu tố chủ quan thuộc về ý thức của con người. Trong quá trình tương tác đó cá nhân chịu sự tác động của môi trường sống (chứa đựng yếu tố thuận lợi và yếu tố không thuận lợi) nhưng tiếp thu và chịu sự tác động đó như thế nào là do từng cá nhân; yếu tố thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân tốt, yếu tố không thuận lợi sẽ tác động hình thành nhân thân xấu.[39, tr.117] Chính những đặc điểm nhân thân xấu này kết hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể và sự thiếu bản lĩnh trước mọi cám dỗ tiêu cực trong xã hội dễ làm phát sinh hành vi phạm tội. 1.4.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống 1.4.1.1. Môi trường gia đình Đối với các trường hợp gia đình khuyết thiếu như không có cha, không có mẹ, hoặc không có cả cha và mẹ, cha mẹ ly hôn, hoặc cha mẹ kết hôn hoặc chung sống
  • 23. 17 như vợ chồng với người khác, thường thiếu sự quan tâm, dạy bảo con cái về vấn đề giới tính, đạo đức, nhân cách dẫn đến con em mình đi vào con đường phạm tội. Trong đó có nhiều gia đình vì những chia sẻ, giáo dục về giới tính, giáo dục đạo đức cho các em không được cha mẹ quan tâm, để ý đến do bản thân cha mẹ, người lớn trong gia đình cũng mù mờ về giáo dục giới tính, nhận thức hạn chế nên không có sự chỉ bảo cần thiết, nhiều trường hợp trẻ xâm phạm tình dục người khác hoặc bị bạn bè đánh đập,…cho nên chậm hoặc không tố cáo tội phạm với cơ quan chức năng, vô tình che đậy, tiếp tay cho tội phạm. Mặt khác, gia đình khuyết thiếu nhiều khi cũng rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Nếu không được giáo dục đầy đủ, trẻ sẽ dễ hình thành sự ham muốn vật chất, coi trọng đồng tiền, khát khao có tiền bằng mọi giá, thiếu đi tình thương giữa người với ngửoi... Trong hoàn cảnh đó trẻ dễ bị kẻ xấu lôi kéo, lợi dụng, khống chế thực hiện những hành vi phạm tội như mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi xem nạn nhân như hàng hóa để mua bán, trao đổi lấy tiền, bóc lột lao động, tình dục hoặc lợi ích vật chất khác. 1.4.1.2. Môi trường giáo dục Những nhân tố không lành mạnh trong môi trường giáo dục hiện nay như quá tập trung vào sách vở mà thiếu kiến thức về giới tính và đạo đức nhân cách dẫn đến nhiều học sinh không nhận thức hoặc thiếu hiểu biết về vấn đề tình dục an toàn hay sử dụng bạo lực, làm nhục bạn học của mình. Hiện nay, tình trạng yêu nhau của học sinh diễn ra khá phổ biến, các em yêu nhau từ nhiều độ tuổi khác nhau nhưng do chưa có sự trang bị đầy đủ về kiến thức giới tính nên dẫn đến nhiều em xâm phạm tình dục lẫn nhau khi tuổi đời còn rất trẻ. Trong nhiều vụ án trên thực tế học sinh yêu nhau và quan hệ tình dục lẫn nhau nhưng khi bị phát hiện các em vẫn không phân biệt được hành vi xâm phạm tình dục của mình là nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS hay những vụ án liên quan tới tội làm nhục người khác, vu khống người khác và các em chỉ cho rằng đó là chuyện bình thường, “dằn mặt” đối phương. Mặc khác, việc thiếu sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình; gia đình không quan tâm, ỷ lại, giao phó việc quản lý giáo dục cho nhà trường còn nhà trường chỉ thực hiện nhiệm vụ truyền đạt kiến thức mà không quan tâm đến học sinh dẫn đến nhiều học sinh xâm phạm tình dục, bạo lực học đường và hơn nữa là các tội mua bán người mà các em cũng thành viên trong nhóm đồng phạm.
  • 24. 18 Nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống; bài học sách vở còn khô khan, chưa có nhiều những chương trình giáo dục đạo đức, nhân cách qua đó khơi gợi tình yêu thương cộng đồng với nhau. Không được giáo dục tốt, trẻ dễ hình thành đặc điểm nhân thân xấu như coi thường đạo đức, pháp luật, coi thường thân thể, nhân phẩm của người khác… và khi gặp những tình huống thuận lợi, trẻ sẽ lựa chọn cách thức xử sự trái đạo đức, trái pháp luật. 1.4.1.3. Môi trường bạn bè Đặc biệt là bạn bè đồng trang lứa thường là những người gần gũi, thường xuyên tâm sự, có những đặc điểm về tâm sinh lí lứa tuổi giống nhau, vì vậy, có ảnh hưởng vô cùng lớn đến các quan điểm, quan niệm, nhận thức lối sống, thậm chí đến thói quen, cách cư xử của trẻ. Nếu kết bạn với bạn bè tốt, trẻ sẽ dễ hình thành các đặc điểm nhân thân tích cực như chăm chỉ học tập, biết quan tâm, lo lắng, chia sẻ với người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng sống… Nhưng khi chơi với những người bạn xấu, trẻ rất dễ nhiễm những thói hư, tật xấu của bạn bè như lười học, uống rượu, hút thuốc lá, hay thậm chí là nghiện ma túy, nghiện rượu, quan hệ tình dục bừa bãi, sử dụng bạo lực... dần dần họ sẽ sa vào con đường phạm tội XPNP. 1.4.1.4. Môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội Ngoài ra, quá trình hội nhập ngoài việc đem lại cho nhân dân ta đời sống văn hóa phong phú, nhiều giá trị truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành thì cũng xuất hiện tình trạng phổ biến, tiếp thu thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa không phù hợp từ nước ngoài (băng đĩa, phim ảnh khiêu dâm, sex, sách ảnh đồi trụy, phim bạo lực, không lành mạnh…); tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có chiều hướng gia tăng; các giá trị đạo đức truyền thống bị xói mòn, dần hình thành nên ở họ những đặc điểm nhân thân tiêu cực như: thích bạo lực, có dục vọng thấp hèn, lệch lạc,… Đây là một trong những nguyên nhân làm hình thành nên chủ thể của tội XPNP. 1.4.2. Các yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội xâm nhân phẩm 1.4.2.1. Sai lệch về sở thích, nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu Nếu con người có những sở thích lành mạnh thì hình thành ở người đó nhân cách đúng đắn. Ngược lại, con người có sở thích không lành mạnh, tiêu cực sẽ hình thành ở cá nhân đó nhân cách lệch lạc như sống ích kỷ, hưởng thụ, sống buông thả,
  • 25. 19 coi thường chuẩn mực đạo đức… Chẳng hạn, đối với người phạm tội XPNP thì sở thích về tình dục, nhu cầu thiếu thốn vật chất hay thích thể hiện bản thân là đặc trưng điển hình cho tội phạm XPNP. huống cụ thể họ sẽ không kiềm chế, kiểm soát được hành vi của mình và lựa chọn cách xử sự không đúng đắn, kể cả xâm phạm đến XPNP người khác một cách phi đạo đức như mua bán người, mua bán người dưới 16 tuổi… 1.4.2.2. Hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát hành vi Người phạm tội XPNP thường là người có trình độ học vấn thấp, quan niệm sai về các giá trị cuộc sống, không hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít pháp luật nên thường có thái độ thờ ơ, coi thường pháp luật. và trình độ học vấn thấp nên khả năng kiểm soát và hạn chế hành vi đối với người phạm tội XPNP ở mức độ thấp, nhiều trường hợp người phạm tội xâm phạm tình dục, hay mua bán người ngay chính cả người thân trong gia đình. Kết luận Chương 1 Chương 1 của luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPNP của con người, cụ thể: - Thứ nhất, về phần khái niệm, nhân thân người phạm tội XPNP là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội XPNP được quy định tại chương XIVcủa BLHS hiện hành. - Thứ hai, về mặt ý nghĩa, nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP tạo cơ sở cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của các tội phạm XPNP; giúp cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt chính xác; tạo cơ sở cho việc xây dựng biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội và ý nghĩa quan trọng hơn cả là đưa ra các biện pháphiệu quả phòng ngừa tội phạm XPNP. - Thứ ba, về đặc điểm của nhân thân người phạm tội XPNP, Chương 1 đã làm rõ các đặc điểm đặc trưng về nhân thân ảnh hưởng tới hành vi phạm tội của người phạm tội XPNP bao gồm: nhóm đặc điểm xã hội - nhân khẩu học; nhóm đặc điểm về mặt đạo đức - tâm lý; nhóm đặc điểm pháp lý hình sự. - Ngoài ra, trong chương này còn phân tích những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPNP từ những yếu tố khách quan như: Môi
  • 26. 20 trường gia đình, môi trường giáo dục, môi trường bạn bè, môi trường văn hóa, tư tưởng, đạo đức. Các yếu tố chủ quan tiêu cực như: Sai lệch sở thích; nhu cầu và cách thức thỏa mãn nhu cầu; hạn chế về ý thức pháp luật cá nhân và khả năng kiểm soát hành vi. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, kết luận ở Chương 1 sẽ là tiền đề về lý luận để tiếp tục nghiên cứu thực tiễn nhân thân người phạm tội XPNP của con người trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 ở Chương 2 của luận văn.
  • 27. 21 Chương 2 THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH DƯƠNG GIAI ĐOẠN 2014 - 2018 2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương 2.1.1. Mức độ của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương Mức độ của tình hình tội XPNP từ thực tiễn tỉnh Bình Dương trong giai đoạn từ năm 2014 đến 2018 được nhận thức thông qua các số liệu phản ánh tổng số các tội XPNP đã xảy ra và số lượng người thực hiện hành vi phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh trong thời gian nêu trên. - Theo số liệu thống kê trong Bảng 2.1 cho thấy, trong thời gian từ năm 2014 đến 2018, trên địa bàn tỉnh đã xét xử tổng cộng 157 vụ án với 182 bị cáo về các tội XPNP, trung bình 31,4 vụ/năm và 36,4 bị cáo/năm. Trong đó, xảy ra nhiều nhất là năm 2018 (36 vụ, 42 bị cáo), kế đến là năm 2016 (33 vụ, 38 bị cáo), các năm còn lại gồm: 2014 (25 vụ, 29 bị cáo), 2015 (31 vụ, 37 bị cáo), 2017 (32 vụ, 36 bị cáo). - Trên cơ sở nghiên cứu số liệu thống kê các bị cáo đã bị Tòa án xét xử về các tội XPNP và số liệu thống kê dân số (gồm những người có đăng ký hộ khẩu thường trú và đăng ký tạm trú) trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy trong thời gian từ năm 2014 - 2018 trung bình 100.000 người dân ở tỉnh Bình Dương có 2,03 người phạm tội XPNP, so với số lượng người phạm tội khác thì số lượng người phạm tội XPNP ít hơn (2,03/209,97). - Ngoài ra, theo số liệu của Bảng 2.3 về tỷ trọng của tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương thì trong 05 năm từ năm 2014 - 2018, số vụ án XPNP chiếm tỷ trọng thấp so với tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn tỉnh, trung bình chiếm 1,63% số vụ án và 0,97% số bị cáo. Đây là con số tuy nhỏ nhưng lại tăng dần theo năm, cụ thể: Năm 2014, số vụ án XPNP chiếm tỷ trọng 1,31%, số bị cáo 0,83% so với tình hình tội phạm nói chung ; Năm 2015 lại tăng tỷ trọng lên 1.61% số vụ án và 1,03% số bị cáo so với tình hình tội phạm nói chung; Năm 2016 thì tăng tỷ trọng 1,69% số vụ án và 0,97% số bị cáo so với tình hình
  • 28. 22 tội phạm nói chung. Riêng năm 2017, thì tỷ trọng có giảm ít 1,66% số vụ án và 0,94 số bị cáo so với tình hình tội phạm nói chung. Nhưng đến năm 2018, thì lại tăng tỷ trọng đột biến 1,85% số vụ án và 1,04% số bị cáo so với tình hình tội phạm nói chung. Như vậy, có thể thấy tuy số vụ án và số bị cáo của các tội XPNP chiếm tỷ trọng không lớn trong tình hình tội phạm nói chung của tỉnh Bình Dương nhưng tỷ trọng này lại tăng đều theo từng năm, thể hiện sự nguy hiểm, ngày càng phức tạp của nhóm tội phạm này trên địa bàn tỉnh. - Trong Bảng 2.4, đề cập đến 09 huyện, thị, thành phố, Theo Bảng 2.4 thể hiện, cột dọc cuối cùng bên phải là số dân trên 1 bị cáo. Con số này càng nhỏ thì mức độ phạm tội XPNP ở địa bàn đó càng cao. Theo đó, trong giai đoạn 2014 đến 2018, thị xã Dĩ An có mức độ phạm tội XPNP cao nhất, cứ 6.443 người dân thì có một người bị xét xử về các loại tội XPNP. Thị xã Tân Uyên có mức độ phạm tội XPNP thấp nhất, cứ 17.838 người dân thì có 01 người bị xét xử về các loại tội XPNP. Từ sự phân tích trên cho ta thấy các loại tội XPNP xảy ra ở khắp các địa bàn của tỉnh Bình Dương nhưng tập trung cao là ở các địa bàn dân cư đông đúc, có nhiều dân nhập cư, nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất như thị xã Dĩ An, thị xã Thuận An và thị xã Bến Cát. 2.1.2. Diễn biến của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm tại tỉnh Bình Dương Diễn biến của tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm hoặc ổn định tương đối của tình hình tội XPNP của tỉnh trong thời gian từ năm 2014 đến 2018. - Qua biểu đồ tại Hình 2.5 cho thấy, Điều đáng chú ý là năm 2016 và năm 2018 số vụ án và số bị cáo tăng nhiều so với năm 2014. Điều đó chứng tỏ tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương có xu hướng tăng cả về số vụ lẫn số bị cáo trong thời gian tới. - Còn theo số liệu tại Bảng 2.6, năm 2015 so với năm 2014, tình hình tội XPNP tăng 3,83% số vụ án, 4,39% số bị cáo. Năm 2016 so với năm 2015, tình hình tội XPNP tăng 1,27% số vụ án, 0,56% số bị cáo. Năm 2017 so với năm 2016, tình hình tội XPNP giảm 0,64% số vụ án, 1,1% số bị cáo. Năm 2018 so với năm 2017, tình hình tội XPNP tăng 2,54% số vụ án, 3,3% số bị cáo. Qua số liệu trên cho thấy, tình hình tội XPNP có diễn biến theo chiều hướng tăng. Tuy nhiên, chỉ có năm 2017, tình hình tội phạm XPNP có tỷ lệ giảm, năm 2014 và năm 2016 tỷ lệ tội phạm XPNP có tỷ
  • 29. 23 lệ tăng thấp còn các năm 2015 và 2018 thì tình hình tội phạm XPNP có tỷ lệ tăng cao. Điều đó chứng tỏ, tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp. 2.1.3. Cơ cấu của tình hình tội xâm phạm nhân phẩm theo tội danh Cơ cấu của từng loại tội XPNP trong mối quan hệ với các tội XPNP tại tỉnh Bình Dương, gồm các tội: Tội hiếp dâm (Điều 141), tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142), tội cưỡng dâm (Điều 143), tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 145), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147), tội mua bán người (Điều 150), tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 151), tội làm nhục người khác (Điều 155), tội vu khống (Điều 156). Đối với tội hiếp dâm, từ năm 2014 đến năm 2018 có tổng cộng 46 vụ, chiếm số lượng cao nhất trong nhóm tội XPNP, có tính chất rất nguy hiểm. Qua số liệu trong Bảng 2.7 cho thấy, trong cơ cấu các loại tội XPNP thì tội hiếp dâm chiếm tỉ lệ cao nhất (29,29%), kế đến là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (12,74%), tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (11,46%), tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (10,19%), tội làm nhục người khác và tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (9,55%), tội cưỡng dâm (8,28%), tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (5,73%); tội vu khống chiếm tỉ lệ thấp (3,18%) còn các tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi không xảy ra. Điều này thể hiện các loại tội XPXP trên địa bàn tỉnh Bình Dương xảy ra có chiều hướng ngày càng tăng, đặc biệt là các tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Vì vậy, có thể khẳng định rằng để đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội XPNP ở tỉnh Bình Dương cần tập trung trước hết vào tội tội hiếp dâm, kế đến là tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi 2.2. Cơ cấu tình hinh tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo các đặc điểm nhân thân - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về độ tuổi, giới tính Số liệu trong Bảng 2.8 cho thấy, phần lớn các đối tượng phạm tội XPNP đa số ở độ tuổi đã thành niên, trong đó độ tuổi từ 18 đến 30 là 80 người, chiếm tỷ lệ cao
  • 30. 24 nhất 71,43%, kế đến là độ tuổi từ 30 trở lên là 21 người, chiếm 18,75%. Người phạm tội XPNP có độ tuổi dưới 18 là 11 người, chiếm tỷ lệ ít nhất 9,82%. Trong tổng số 112 bị cáo phạm tội XPNP, có 104 bị cáo là nam chiếm tỷ lệ 92,86% và chỉ có 8 bị cáo là nữ chiếm tỷ lệ 7,14%. Như vậy, các đối tượng phạm tội XPNP thường là nam ở độ tuổi từ 18 trở lên, giới tính người phạm tội trong nhóm người XPNP thực hiện bằng hành vi xâm hại tình dục mang tính cá biệt là nam giới, không có nữ giới và ngược lại nhóm người XPNP thực hiện bằng hành khác thì nữ giới chiếm đa số. - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về trình độ học vấn Qua Bảng 2.9 thể hiện: Trong số 112 bị cáo phạm tội XPNP thì chỉ có 04 bị cáo có trình độ trung cấp trở lên (chiếm 3,57%); 25 bị cáo có trình độ trung học phổ thông (chiếm 22,32%) và 72 bị cáo có trình độ tiểu học, trung học cơ sở (chiếm 64,29%), 11 bị cáo không biết chữ (chiếm 9,82%). . - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về nghề nghiệp Số liệu trong Bảng 2.10 cho thấy, phần lớn các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định 73/112 bị cáo chiếm 65,18%, chủ yếu là làm thuê (bảo vệ, thợ hồ, thợ sơn …) với mức thu nhập thấp. Số bị cáo không nghề nghiệp cũng chiếm tỉ lệ tương đối cao 32/112 bị cáo chiếm 28,57%. Số bị cáo có nghề nghiệp ổn định chiếm tỉ lệ rất ít 07/112 bị cáo chiếm 6,25%. Như vậy, đại đa số người phạm tội XPNP không có nghề nghiệp ổn định (làm thuê, làm rẫy, cạo cao su theo mùa,..). - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình Gia đình vốn là một xã hội thu nhỏ nên có ảnh hưởng đến việc hình thành nên nhân cách lệch lạc của các tội phạm XPNP. Theo thống kê 100 vụ án với 112 bị cáo phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến 2018 tại Bảng 2.11, ta thấy. + Xét đặc điểm tình trạng hôn nhân của bản thân người phạm tội: Số người phạm tội đã có vợ có 38 người chiếm 33,93% và số bị cáo không có vợ là 74 người chiếm 66,07% (chưa có vợ hoặc đã ly hôn hoặc vợ chết). + Xét đặc điểm hoàn cảnh gia đình của các bị cáo cho thấy: Số người phạm tội sống trong gia đình thuận lợi chỉ có 25 bị cáo có hoàn cảnh gia đình thuận lợi (chiếm 22,32%) và 87 người có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi (77,68%). Số người phạm tội không có hoàn cảnh gia đình thuận lợi gấp 3,9 lần số người phạm tội có hoàn cảnh
  • 31. 25 gia đình thuận lợi. Trong đó, có 04 bị cáo mồ côi cả cha lẫn mẹ (chiếm 4,8%), 07 bị cáo mồ côi cha (chiếm 8,04%), 03 bị cáo mồ côi mẹ (chiếm 3,45%), 05 bị cáo có hoàn cảnh cha mẹ ly hôn (chiếm 5,75%) và 68 bị cáo có hoàn cảnh gia đình tiêu cực (gia đình khuyết thiếu, đông con, thường xuyên cãi vã, vi phạm pháp luật,…) chiếm tỷ lệ 78,16%. Với kết quả thống kê, nhận thấy: các bị cáo không có vợ hoặc có hoàn cảnh gia đình không thuận lợi có xu hướng phạm tội XPNP nhiều hơn các bị cáo có vợ hoặc có hoàn cảnh gia đình thuận lợi. - Cơ tình hình tội phạm theo đặc điểm về nơi cư trú, hộ khẩu thường trú Bình Dương có 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện (với 41 phường, 2 thị trấn và 50 xã): Thành Phố Thủ Dầu Một, Thị Xã Bến Cát, Thị Xã Dĩ An, Thị Xã Thuận An, Thị Xã Tân Uyên, Huyện Bắc Tân Uyên, Huyện Bàu Bàng, Huyện Dầu Tiếng, Huyện Phú Giáo. Đặc biệt, Bình Dương hiện là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI đầu tư vào các khu công nghiệp. Sự xuất hiện càng nhiều các nhà đầu tư ngoại khiến Bình Dương ngày càng có nhiều khu công nghiệp có quy mô rất lớn tạo sự thu hút dân ở các vùng trên cả nước về làm việc và sinh sống. Do đó, số lượng người lao động ngoại tỉnh, nhập cư chiếm đa số. Trong Bảng 2.12 đã thể hiện, số lượng người phạm tội là dân nhập cư chiếm tỉ lệ rất lớn (82/112 người chiếm 73,21%) và trong số 82 người phạm tội này thì có tới 73 người có nơi cư trú không ổn định (chiếm 65,18%). Số lượng người phạm tội có hộ khẩu thường trú tại Bình Dương thấp (30/112 người chiếm 26,79%) và còn lại là có hộ khẩu ngoại tỉnh. Như vây, đa phần nhân thân người phạm tội XPNP tại tỉnh Bình Dương có nơi cư trú không ổn định và hộ khẩu ngoại tỉnh. - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về động cơ, mục đích phạm tội Theo thống kê 112 bị cáo phạm tội XPNP cho thấy, chỉ có 04 vụ/ 06 bị cáo (chiếm 3,97%) có động cơ, mục đích là trả thù người có mâu thuẫn với bị cáo từ trước, 96 vụ/145 bị cáo (chiếm 96,03%) xuất phát từ động cơ, mục đích là thỏa mãn nhu cầu tình dục.Tác giả nhận thấy động cơ, mục đích của các bị cáo trong nhóm tội XPNP là nhằm trả thù nạn nhân và thỏa mãn nhu cầu tình dục cá nhân một cách lệch chuẩn nên đã không làm chủ được bản thân dẫn đến hành vi phạm tội. - Cơ cấu tình hình tội phạm theo đặc điểm về tiền án, tiền sự
  • 32. 26 Nghiên cứu 112 bị cáo phạm tội XPNP, cho thấy: Người phạm tội có tiền sự 07 người chiếm 6,25%; người phạm tội có tiền án 25 người chiếm 22,32%, trong đó đã được xóa án tích 09 người, tái phạm 11 người, tái phạm nguy hiểm 05 người; người phạm tội chưa có tiền án, tiền sự 80 người chiếm 71,43%. Như vậy, số người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương chưa có tiền án, tiền sự chiếm số lượng lớn. - Các đặc điểm nhân thân đặc trưng của những người phạm tội xâm phạm nhân phẩm tại tỉnh Bình Dương Từ những kết quả nghiên cứu cơ cấu tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương theo các đặc điểm nhân thân người phạm tội; có thể rút ra những đặc điểm nhân thân đặc trưng của những người phạm các tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương như sau: + Phần lớn những người phạm tội XPNP là nam giới: Có đến 104 người phạm tội là nam giới, chiếm tỷ lệ 92,86%. + Độ tuổi của người phạm tội XPNP phổ biến trong độ tuổi từ 18 đến 30 với 80 người, chiếm tỷ lệ cao nhất 71,43%. + Trình độ học vấn của người phạm tội XPNP phần lớn là trình độ tiểu học, trung học cơ sở với 72 tuổi chiếm tỉ lệ 64,29%. + Người phạm tội XPNP có nghề nghiệp không ổn định chiếm tỉ lệ lớn 73 người, chiếm 65,18%. + Đa phần người phạm tội là dân nhập cư 82 người, chiếm tỉ lệ và trong số 82 người phạm tội này thì có tới 73 người có nơi cư trú không ổn định (chiếm 65,18%). + Số lượng lớn người phạm tội XPNP thì sống trong gia đình có hoàn cảnh không thuận lợi là 87 người, chiếm tỉ lệ 77,68% và phần lớn không có vợ là 74 người, chiếm 66,07% Ngoài ra, động cơ, mục đích phổ biến của người phạm tội XPNP ở tỉnh Bình Dương đa phần là thỏa mãn nhu cầu tình dục 96 vụ/145 bị cáo, chiếm 96,03% và số người phạm tội XPNP chưa có tiền án, tiền sự lại chiếm đa số với 80 người, chiếm 71,43%. 2.3. Thực tiễn những yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội xâm phạm nhân phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương 2.3.1. Các yếu tố khách quan thuộc môi trường sống
  • 33. 27 2.3.1.1. Tác động của môi trường gia đình - Nghiên cứu cơ cấu nhân thân người phạm tội theo đặc điểm về hoàn cảnh gia đình đối với 112 bị cáo phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ năm 2014 đến 2018, cho thấy môi trường gia đình có tác động đáng kể đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội, trong đó có một số đặc điểm hoàn cảnh gia đình đặc thù sau đây: + Hoàn cảnh gia đình không thuận lợi Số lượng bị cáo sống trong gia đình không thuận lợi (mất cha, mẹ hoặc cả hai, hay sống trong gia đình đông con hay cãi vã,..) chiếm tỉ lệ khá cao: Có đến 87 người (chiếm tỷ lệ 77,68%) sinh sống trong các gia đình có hoàn cảnh không thuận lợi. Điển hình như vụ án sau: Trịnh Văn Thân (sinh năm 1992) có cha, mẹ ly hôn và sau đó cả hai người đều đã mất khi Thân còn nhỏ. Khoảng đầu tháng 02 năm 2018, Trịnh Văn Thân quen biết và có tình cảm yêu đương với Võ Thị Mỹ Tiên( sinh năm 2004). Đến khoảng giữa tháng 02/2018, Thân đưa Tiên về sống chung như vợ chồng tại phòng trọ do Thân thuê ở khu nhà trọ số 7A/39 khu phố Bình Đức 2, phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Trong thời gian từ giữa tháng 02/2018 đến ngày 30/3/2018, Thân và Tiên đã rất nhiều lần (khoảng hơn 20 lần) giao cấu với nhau tại phòng trọ, tại các nhà nghỉ và các quán cà phê trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Lần giao cấu sau cùng là lúc khoảng 15 giờ 00 phút ngày 30/3/2018 tại chòi lá của quán cà phê “Thanh Hằng” ở phường Bình Hòa, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 31/3/2018, Thân chở Tiên về nhà bà Lê Thị Chi (dì của Tiên). Thấy Tiên có biểu hiện lạ, bà Chi hỏi và Tiên đã kể hết việc mình với Thân chung sống với nhau như vợ chồng và đã quan hệ tình dục với nhau nhiều lần, nên bà Chi đã đến Công an phường Lái Thiêu, thị xã Thuận An, Bình Dương trình báo. + Gia đình chưa chú trọng giáo dục con cái * Có 210 người, chiếm 70% số người được hỏi trả lời bố mẹ ít quan tâm đến con, ít có thời gian dành cho con; chỉ có 53 người, chiếm 17,67% trả lời bố mẹ rất quan tâm đến con, thường xuyên dành thời gian cho con và 37 người, chiếm 12,33% số người chọn bố mẹ phải lo làm ăn, không có thời gian quan tâm con. Như vậy, vấn
  • 34. 28 đề bố mẹ ít quan tâm đến con, ít có thời gian dành cho con chiếm tỉ lệ cao, nhất là trong thời buổi công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày nay. Điển hình như vụ án “Hiếp dâm” sau: Bế Hoàng Thế Phương, sinh năm 1991. Bế Hoàng Thế Phương và Nguyễn Thị Ngọc Oanh là bạn từ năm 2015. Khoảng 18 giờ 00 phút ngày 15/8/2017, Phương điện thoại cho Oanh rủ Oanh đi chơi thì Oanh kêu bị cáo Phương đến quán Những Người Bạn ở phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương chở Nguyễn Thị Ngọc Yến (em ruột của Oanh), sinh ngày 29/6/2000, ngụ tại xã Lộc Thuận, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước về phòng trọ tại phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một giúp Oanh thì Phương đồng ý. Phương đến quán Những Người Bạn đón Yến. Khi Phương điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 61U2 – 3272 chở Yến đi được khoảng 05 phút thì Phương nảy sinh ý định quan hệ tình dục với Yến nên Phương điều khiển xe chạy đến phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một. Yến hỏi Phương “tại sao đi đường này” thì Phương nói “đi đường này cũng được” nên Yến không nói gì. Khi đến khu đất trống trong khu công nghiệp Sóng Thần 3 thuộc phường Phú Tân, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương là khu vực vắng người qua lại, không có đèn đường, Phương dừng xe lại rồi kêu Yến chờ để Phương đi vệ sinh. Sau khi đi vệ sinh xong, Phương đến chỗ Yến đang đứng, ôm Yến từ phía sau rồi quật ngã Yến xuống đất và dùng tay giật mạnh áo sơ mi của Yến làm đứt 04 cúc áo. Yến kêu cứu và dùng chân đạp Phương ngã ra sau rồi đứng dậy bỏ chạy; Phương đuổi theo Yến và xô Yến ngã xuống đất lần nữa; Yến dùng tay đánh vào mặt Phương thì bị Phương đánh lại Yến. Khi Yến đứng dậy bỏ chạy thì Phương đuổi theo nắm tay kéo Yến lại, dùng tay kéo váy của Yến lên và kéo quần lót của Yến xuống đến đầu gối rồi Phương cởi quần của Phương ra và dùng ngón trỏ tay trái đưa vào âm đạo của Yến, Yến không đồng ý nên gạt tay ra. Lúc này, Phương cầm dương vật đưa vào âm đạo của Yến và thực hiện hành vi quan hệ tình dục. Khi thực hiện hành vi xong, Phương mặc quần lại và đưa áo khoác của Phương cho Yến mặc rồi chở Yến về phòng trọ của Yến. Khi về đến phòng trọ, Yến kể cho Oanh biết sự việc. Cùng ngày 15/8/2017, Yến và Oanh đến Công an phường Chánh Nghĩa trình báo sự việc. Qua tìm hiểu hồ sơ vụ án trên, bị cáo Phương từ nhỏ đã sống với cô ruột của mình do bố mẹ Phương đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan, mỗi năm về nhà 2 lần. Vì
  • 35. 29 vậy, bản thân bị cáo từ nhỏ đã thiếu đi sự giáo dục, dạy dỗ về đạo đức, về giới tính từ bố mẹ dẫn đến bản thân bị cáo hành động theo bản năng để đạt được dục vọng sai trái của mình, bất chấp phản ứng không đồng tình của nạn nhân cũng như hậu quả mà hành vi của mình có thể gây ra (có thể làm nạn nhân có thai) để thực hiện hành vi giao cấu với người bị hại, xâm phạm đến nhân phẩm của nạn nhân, trái với đạo đức và pháp luật. * Đối với câu hỏi “khi con mắc lỗi, bố mẹ xử sự thế nào” thì có 157 người, chiếm 52,33% lựa chọn đáp án bố mẹ chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi thôi; 55 người, chiếm 18,33% chọn bố mẹ thường xuyên bênh vực, bao che lỗi cho con; 42 người, chiếm 14% chọn bố mẹ mắng chửi thậm tệ, đánh con và sử dụng hình phạt và chỉ có19 người, chiếm 9% chọn bố mẹ tìm hiểu kỹ nguyên nhân con mắc lỗi rồi phân tích để con hiểu và tự đề ra hướng khắc phục lỗi lầm. Bố mẹ giải quyết vấn đề khi thấy con mắc lỗi bằng cách chỉ hỏi han sơ qua, mắng chửi cho hả giận rồi thôi chiếm tỉ lệ cao trong khảo sát thể hiện sự thiếu quan tâm sâu sắc đến con mình và có thể dễ gây tổn thương tâm lý cho con, tạo khoảng cách tình cảm giữa con và bố mẹ. Điển hình là trường hợp sau: Lê Ngọc Linh sinh năm 2001, học sinh trường THPT Nguyễn Trãi, huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương. Vào giữa tháng 12 năm 2018, giữa Linh và Đặng Thị Oanh (bạn học cùng lớp) có xảy ra mâu thuẫn khi Oanh bình luận khiếm nhã một bức ảnh của Linh trên Facebook và Linh cho rằng mình bị Oanh xúc phạm nên đã chửi nhau với Oanh trên mạng Facebook, đồng thời gỡ bình luận của Oanh và hủy kết bạn. Vào ngày 05/1/2018, khi Oanh đang trên đường đi học về thì Linh cùng Mai Thị Thúy và Nguyễn Trang Thu chặn đường lại nói chuyện. Linh nói lại chuyện cũ và hai bên xảy ra lời qua tiếng lại. Hơn 30 phút sau, Oanh bị Linh và nhóm bạn kéo vào quán karaoke Thiên Đường nằm cách trường 500m. Trong phòng karaoke, Linh và nhóm bạn đã bật nhạc thật to, đóng cửa, tắt điện rồi thi nhau đánh đập, xé áo, đấm đá vào mặt, người của Oanh. Khi Oanh van xin, nhóm bạn của Linh vẫn không dừng lại mà tiếp tục đánh đập và dùng lưỡi dao lam cắt tóc, nhổ tóc sau gáy. Thêm vào đó, nhóm bạn của Linh còn quay phim, chụp ảnh. Gần 1h đồng hồ sau, Linh bắt Oanh mặc áo trùm người, trùm mặt rồi đẩy ra ngoài và không quên buông lời đe dọa nếu nói với nhà trường, gia đình sẽ bị đánh tiếp. Trước sự việc trên, gia đình Oanh đã làm đơn tố cáo lên cơ quan công an.
  • 36. 30 Khi phân tích hồ sơ vụ án trên, tác giả nhận thấy có tình tiết, bố mẹ của Linh biết được việc Linh và Oanh “chửi nhau” trên mạng Facebook với những lời khiếm nhã. Bố mẹ Linh đã mắng chửi bị cáo cho hả giận nhưng lại không có sự giáo dục, uốn nắn con mình. Và chính điều này đã đẩy sự việc lên cao trào dẫn đến bị cáo Linh tức giận khi bị bạn bình luận xấu về mình mà còn bị bố mẹ la mắng thậm tệ, không có sự chia sẻ. Cho nên, bị cáo đã lựa chọn cách giải quyết bằng việc đánh đập, làm nhục bạn với thái độ coi thường pháp luật. Qua đó, ta thấy vai trò của môi trường gia đình có tác động rất lớn. Trẻ em sinh ra, tâm hồn như một tờ giấy trắng nếu không được sự quan tâm, giáo dục đúng đắn của bố mẹ thì sẽ dễ sa ngã vào con đường tội phạm, đặc biệt là các tội XPNP liên quan đến phẩm chất đạo đức của con người. 2.3.1.2. Tác động của môi trường giáo dục Nghiên cứu tình hình tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương giai đoạn 2014 – 2018 và kết quả điều tra xã hội học, cho thấy tác động của môi trường giáo dục có những đặc thù sau: - Chương trình học tập quá nặng, dẫn đến nhiều học sinh chán học, bỏ học. Nền giáo dục Việt Nam trải qua 3 lần cải cách nhưng chương trình vẫn còn mang tính hàn lâm, chưa gắn nhiều với thực tiễn đời sống. Do đó thường tạo ra áp lực học tập cho các em học sinh vì phải chạy đua với kiểm tra, thi cử. Điển hình như vụ án “Làm nhục người khác” do Phạm Thị Tuyết cùng đồng bọn thực hiện: Tuyết (sinh năm 2004) sống trong gia đình khá giả, nhưng ham chơi, thường xuyên trốn học. Ngày 20/3/2018, Tuyết cùng nhóm bạn là Lê Xuân Lan, Phan Minh Nhựt đến quán trà sữa Hot and Cold ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương chơi thì gặp Mai Ái Liên. Tuyết nhớ lại lúc trước Liên từng nhắn tin dụ dỗ người yêu cũng lớp của mình nên đã rủ nhóm bạn “dằn mặt Liên”. Liên bị Tuyết đẩy ngã xuống sàn, Liên cắn vào tay Tuyết khiến Tuyết ức giận nắm tóc, đánh nhiều cái vào đầu và xé rách áo sơ mi, áo ngực của Liên. Lúc này, Lê Xuân Lan đứng cạnh đó nói với Tuyết đừng đánh Liên mà lột quần áo để Liên “xấu hổ mai mốt khỏi dụ trai”. Sau đó, Lan khống chế, còn Tuyết thì lột quần của Liên xuống tới mắt cá chân mới dừng lại, Minh Nhựt dùng điện thoại quay, chụp hình Liên trong tình trạng không mặc
  • 37. 31 quần áo. Đoạn clip này sau đó được phát tán lên mạng gây xôn xao dư luận. Công an TP Thủ Dầu Một vào cuộc, bắt khẩn cấp Tuyết cùng đồng bọn. Nghiên cứu hồ sơ vụ án trên thì kể từ khi vào học lớp 6, chương trình học cấp 2 có nhiều thay đổi, tăng nặng nội dung lý thuyết lên, giáo viên thiếu quan tâm nên bị cáo Tuyết vốn là học sinh yếu và nay lại học chương trình mới nên không theo kịp kiến thức với các bạn trong lớp.Từ đó, bị cáo hình thành tâm lý chán nản, xem thường việc dạy học của thầy, cô giáo, thường xuyên trốn học, rủ rê bạn bè ăn chơi,… Bản thân bị cáo Tuyết khi thực hiện hành vi phạm tội chỉ mới 14 tuổi (đang học lớp 9). Đây là độ tuổi dậy thì, trẻ hay có những tính cách bốc đồng, thích thể hiện kèm theo đó là sự thiếu hiểu biết pháp luật và đặc biệt là sự thờ ơ không quan tâm của giáo viên tạo điều kiện cho đối tượng Tuyết thường xuyên trốn học, sa vào con đường phạm tội. - Nhà trường chưa có sự phối hợp chặt chẽ với gia đình trong giáo dục học sinh. Nghiên cứu hồ sơ vụ án sau, ta sẽ thấy rõ vấn đề: Chiều ngày 20/4/2018, đối tượng Nguyễn Lê Phong(sinh năm 2002) trốn học để đi chơi tại quán internet gần nhà mình, trong cặp Phong thường có 1 con dao Thái lan nhỏ. Qua phân tích vụ án trên, bản thân bị cáo Phong cũng đã từng bị giáo viên chủ nhiệm bắt gặp đọc truyện đồi trụy trong giờ học nhưng giáo viên chỉ la mắng, phạt Phong dọn vệ sinh lớp trong 1 tuần mà không hề thông báo cho phụ huynh của bị cáo cũng như phối hợp với phụ huynh dạy dỗ, giáo dục em đúng đắn về giới tính dẫn đến bị cáo ngày càng lười học,sa đà vào các trò chơi game đồi trụy và cuối cùng dẫn đến hành vi phạm tội trên. Hành vi này của Phong không chỉ xâm phạm đến nhân phẩm của nạn nhân mà còn đánh lên hồi chuông cảnh báo với việc giáo dục yếu kém từ phía nhà trường. - Ngoài ra, qua cuộc khảo sát đánh giá vai trò giáo dục của nhà trường mà tác giả đã thực hiện, kết quả cho thấy có tới 217 người được hỏi (chiếm 72,33%) trả lời chưa hài lòng lắm đối với phương pháp giáo dục của nhà trường. Còn đối với câu hỏi “Anh/Chị cảm thấy đâu là bất cập, hạn chế trong nhà trường ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách lệch lạc ở học sinh” có tới 92 số người được hỏi (chiếm 30,67%) trả lời do công tác quản lý lỏng lẻo, nội dung học tập nặng nề, phương pháp dạy học không phù hợp và 87 người (chiểm 29%) lựa chọn đáp án nhà trường chưa chú trọng giáo dục đạo đức, pháp luật và kỹ năng sống.
  • 38. 32 Điển hình như vụ án do Nguyễn Hữu Nhật (19 tuổi; ngụ tại Thành phố Thủ Dầu Một) thực hiện. Từ cuối tháng 11 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018, Nguyễn Hữu Nhật và em Lê Mỹ Phượng (sinh năm 2013) quen biết nhau qua mạng xã hội Facebook. Trong thời gian quen nhau, Nhật đã 3 lần rủ em Phượng đi nhậu rồi đưa vào nhà nghỉ để quan hệ tình dục .Nhận thấy tâm lý bất thường của em Phượng, bà Nguyễn Thị Lý (mẹ của Phượng) gặng hỏi và biết được vụ việc trên nên đã làm đơn tố cáo đến Công an Thành phố Thủ Dầu Một. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án trên, bị cáo Nhật khi thực hiện hành vi đang học lớp 12, do bị lưu ban 1 năm vì học quá yếu. Bản thân bị cáo khi bước vào lớp 10 thì học hành yếu kém, nhận thấy đa phần thầy cô trong lớp dạy qua loa trong tiết học và bắt phải đi học thêm tại nhà riêng. Thêm vào đó, nhà trường lại không có sự quản lý, giáo dục phù hợp đối với bị cáo nên dẫn đến tâm lý bị cáo chán nản, thường xuyên trốn học để đi chơi game, ăn nhậu và thực hiện hành vi phạm tội trên. Như vậy, phương pháp giáo dục của nhà trường không những cần phải đổi mới, cải cách nhiều hơn nữa để tạo sự hứng thú, hăng say trong học tập mà còn phải nhằm hướng đến xây dựng nhân cách, đạo đức tốt cho học sinh cũng như có sự kết nối giữa nhà trường và phụ huynh nhằm tạo ra những thế hệ trẻ tài đức, góp phần vào sự hưng thịnh của đất nước. 2.3.1.3. Tác động của môi trường bạn bè Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPNP trên địa bàn tỉnh Bình Dương, tác giả nhận thấy môi trường bạn bè có ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành nhân cách của trẻ. Điển hình là vụ án Lâm Văn Chung cùng đồng phạm thực hiện hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi xảy ra tại xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Lâm Văn Chung (sinh ngày 15/4/1996), Nguyễn Hồng Nam (sinh năm 1998), Phạm Văn Phí (sinh năm 1992), cùng trú tại xã Phước Hòa, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương là người làm công ở lò gạch tại địa phương cư trú. Trong thời gian làm việc tại đây, Chung, Nam, Phí quen biết với Nguyễn Thị Trang (sinh ngày 20/3/2003). Vào khoảng tháng 6/2018, Nhi được nghỉ hè nên vào làm thêm tại xưởng gach cùng với mẹ. Vào ngày 11/6/2018, công nhân ở xưởng gạch được nghỉ do hết hàng nên Chung, Nam, Phí , Trang và một số người khác rủ nhau đi chơi. Cả nhóm đã đi chơi ở nhiều nơi, sau đó đến quán Dê Thanh ăn nhậu. Trong lúc uống bia, Chung
  • 39. 33 gọi Nam, Phí ra nói chuyện riêng về việc lát nữa khi đi về sẽ cho mọi người đi trước, Chung sẽ chở Trang đi sau và sẽ cùng Nam, Phí giao cấu với Trang thì cả nhóm đồng ý. Trên đường đi về, Chung, Nam, Phí kiếm cớ đi mua đồ cho mọi người đi trước. Sau khi mọi người đi trước được một đoạn xa, Chung đi ra và nói với Trang cho Chung, Nam, Phí giao cấu thì Trang không đồng ý. Lúc này, Chung nắm tay Trang kéo vào vườn điều, Trang la lên kêu cứu thì Nam, Phí tới nắm tay, bịt miệng của Trang lại và cùng Chung kéo Trang vào trong vườn điều cách đường lớn khoảng 40 mét. Tại đây, Chung, Nam, Phí thay nhau giữ tay, chân của Trang và thực hiện hành vi giao cấu. 2.3.1.4. Tác động của môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội Nghiên cứu môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội của Bình Dương hiện còn nổi lên những bất cập, hạn chế sau đây: - Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm Theo bảng thống kê về nghề nghiệp của người phạm tội XPNP tại Bảng phụ lục số 9 cho thấy có đến 65,18% không có nghề nghiệp ổn định và 28,57% số người phạm tội không có nghề nghiệp. Như vậy, cùng với việc thất học, trình độ học vấn thấp, không có việc làm, thất nghiệp là những nguyên nhân đáng kể làm phát sinh hành vi phạm tội,khi con người “nhàn cư vi bất thiện” và với những hạn chế trong môi trường kinh tế hiện nay đã phần nào thúc đẩy tình hình tội phạm trở nên phức tạp và có chiều hướng ngày càng tăng cao. Điển hình là vụ án Trần Văn Quang (sinh năm 1967, trú tại xã An Linh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương).Năm 2014, Hoàng sống chung như vợ chồng với chị Lê Thị Chung và con riêng của chị Chung là Lê Phương Thùy (sinh năm 2001) tại nhà của Chung. Vào khoảng đầu tháng 3/2018, Quang mua 1 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung A7 rồi Quang thường xuyên tải phim có nội dung khiêu dâm về máy để xem. Vào lúc 11 giờ 30 phút khoảng giữa tháng 4/2018, sau khi nhậu say cùng với các người bạn trong xóm xong, khi về nhà chỉ có Quang và Thùy ở nhà. Quang đã nảy sinh ý định giao cấu với Thùy. Quang kêu cháu Thùy vào phòng ngủ để mang chăn mền đi phơi vì Quang làm đổ nước. Cháu Thùy tin thật nên đi vào phòng. Lúc này, Quang nhanh chóng kéo Thùy lên giường, đóng cửa phòng lại và thực hiện hành vi giao cấu. - Tác động của phim ảnh khiêu dâm