Luận Văn Việt xin chia sẻ đề tài luận văn: “Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp trong thẩm định tín dụng tại Ngân hàng TMCP Tiên Phong – Chi nhánh Đà Nẵng”
LUẬN VĂN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP - luanvanviet
1. BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
---------------
HOÀNG XUÂN THANH
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CỦA CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG THÀNH LINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2017
`
2. BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
---------------
HOÀNG XUÂN THANH
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
CỦA CÔNG TY TNHH XÂY DỰNG THÀNH LINH
Chuyên ngành: Kế toán
Mã số: 60.34.03.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. Nguyễn Hữu Ánh
HÀ NỘI - 2017
`
4. 4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học
thuật, tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân tôi, chưa được công bố trong bất kì một công trình nghiên cứu nào. Các
số liệu, nội dung được trình bày trong luận văn này là hoàn toàn hợp lệ và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Tác giả
Hoàng Xuân Thanh
`
5. 5
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn và kết thúc khóa học, với tình cảm chân
thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại học Công nghiệp đã
tạo điều kiện cho tôi có môi trường học tập tốt trong suốt thời gian tôi học tập,
nghiên cứu tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới PGS. TS. Nguyễn Hữu Ánh đã giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài
luận văn tốt nghiệp này.
Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn tới công ty TNHH Xây dựng
Thành Linh đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành công trình nghiên
cứu này.
Tác giả
Hoàng Xuân Thanh
`
7. 7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Ý Nghĩa
BCTC Báo cáo tài chính
BCKQKD Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
BCLCTT Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
BQ Bình quân
CCDV Cung cấp dịch vụ
Công ty TNHH Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn
DN Doanh nghiệp
DTT Doanh thu thuần
ĐTTC NH Đầu tư tài chính ngắn hạn
HĐKD Hoạt động kinh doanh
HTK Hàng tồn kho
GTGT Giá trị gia tăng
KPT Khoản phải thu
LN Lợi nhuận
LNST Lợi nhuận sau thuế
NH Ngắn hạn
NV Nguồn vốn
QLDN Quản lý doanh nghiệp
QĐ-BTC Quyết định của Bộ Tài Chính
SXKD Sản xuất kinh doanh
`
8. 8
ROA Return on Assests – Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản
ROE Return on Equity – Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu
ROI Return on Investment – Tỷ suất sinh lợi trên vốn đầu tư
ROS Return on Sales – Tỷ suất sinh lợi trên doanh thu
Tiền và TĐT Tiền và các khoản tương đương tiền
TT Thanh toán
TS Tài sản
TSCĐ Tài sản cố định
TSNH Tài sản ngắn hạn
TSDH Tài sản dài hạn
VQ Vòng quay
VCSH Vốn chủ sở hữu
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
2.1.2.3. Khả năng sinh lời...........................18
`
9. 1
MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cùng với tiến trình phát triển hệ thống kế toán Việt Nam, hệ thống báo
cáo tài chính cũng không ngừng được đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với
các chuẩn mực chung của kế toán quốc tế, thu hẹp sự khác nhau giữa kế toán
Việt Nam với các chuẩn mực chung của kế toán quốc tế. Tuy nhiên, do môi
trường kinh tế xã hội luôn luôn biến động nên hệ thống báo cáo tài chính
không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ và chuẩn mực
quốc tế đáp ứng nhu cầu thông tin của người sử dụng.
Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thương
trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quản lý tài chính là
một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực tiếp đến
sự sống còn đối với nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam. Việc phân tích báo cáo
tài chính doanh nghiệp là rất cần thiết bởi vì: Phân tích báo cáo tài chính giúp
những người quan tâm tới doanh nghiệp có thể đánh giá được thực tế doanh
nghiệp đó và đưa ra những quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
mình. Ví dụ như đối với nhà quản lý doanh nghiệp thì sẽ đưa ra được những
giải pháp để kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao năng lực và sức cạnh tranh
với các đối thủ; còn đối với nhà đầu tư thì đưa ra được quyết định có đầu tư
hay không và đầu tư thì mức bao nhiêu là hợp lý, hoặc các ngân hàng thì
quyết định có cho vay hay không…; hoặc phân tích tài chính doanh nghiệp có
thể giúp các cơ quan quản lý đưa ra được chính sách quản lý cho từng ngành,
từng vùng… Ngoài ra, phân tích tài chính cũng có thể giúp nhà quản lý doanh
nghiệp đưa ra được chiến lược về vốn, huy động vốn từ ngân hàng hay thu hút
các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp đó.
Công ty TNHH Xây dựng Thành Linh được Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh
10. 2
Lạng Sơn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên, mã số doanh nghiệp 4900208706, đăng ký lần
đầu ngày 06 tháng 06 năm 2001, đăng ký thay đổi lần thứ 4 ngày 19 tháng 05
năm 2015. Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực như xây dựng, giao thông
thủy lợi, thu gom rác thải… Năm 2014, cũng như nhiều doanh nghiệp khác,
công ty cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của khủng hoảng tài chính và lạm phát.
Trong giai đoạn khó khăn chung của nền kinh tế và khó khăn riêng đối với
ngành xây dựng thì việc giảm quy mô và tập trung vào lĩnh vực lợi thế của
công ty để khắc phục khó khăn là quyết định sáng suốt của lãnh đạo công ty.
Muốn có thêm vốn để phục vụ hoạt động kinh doanh, công ty cần huy
động từ nhiều nguồn (các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng…). Công ty TNHH
Xây dựng Thành Linh là một doanh nghiệp đã được niêm yết trên thị trường
chứng khoán, các thông tin của doanh nghiệp được công bố định kỳ trên thị
trường. Các cổ đông cũng như các nhà đầu tư tương lai, các nhà phân tích tài
chính, các chủ doanh nghiệp khi tìm kiếm cơ hội đầu tư cần phân tích các
thông tin từ báo cáo tài chính để giúp đưa ra các ước tính và kết luận hữu ích
cho việc đưa ra quyết định đầu tư cũng như phát triển hoạt động kinh doanh.
Xuất phát từ các yêu cầu đặt ra, cùng với sự định hướng của Giảng viên
hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hữu Ánh, tôi xin lựa chọn đề tài: “Phân tích
báo cáo tài chính của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh” làm đề tài
cho luận văn thạc sỹ của mình.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục đích chính của phân tích báo cáo tài chính là giúp các đối tượng sử
dụng thông tin đánh giá đúng sức mạnh tài chính, khả năng sinh lời và triển
vọng của doanh nghiệp từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn phù hợp với
mục tiêu mà họ quan tâm.
Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa và góp phần làm rõ những
vấn đề lý luận về phân tích hoạt động tài chính nói chung và phân tích báo
cáo tài chính nói riêng của các doanh nghiệp. Mục đích cơ bản của đề tài là
dựa trên những dữ liệu tài chính trong quá khứ và hiện tại của Công ty TNHH
11. 3
Xây dựng Thành Linh để tính toán và xác định các chỉ tiêu phản ánh thực
trạng và an ninh tài chính của doanh nghiệp. Dự đoán được chính xác các chỉ
tiêu tài chính trong tương lai cũng như rủi ro tài chính mà doanh nghiệp có
thể gặp phải; qua đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao tình hình
tài chính cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Từ mục tiêu cơ bản nói trên, các mục tiêu chính được xác định là:
- Hệ thống hóa lý thuyết về hoạt động tài chính doanh nghiệp và Phân
tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động kinh doanh
thông qua báo cáo tài chính của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh.
- Từ kết quả phân tích đạt được, hệ thống hóa những điểm mạnh, điểm
yếu về tình hình tài chính của công ty và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao năng lực tài chính của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh.
1.3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Các câu hỏi nghiên cứu cần đề cập trong luận văn có nội dung như sau:
- Cơ sở lý thuyết nào có thể sử dụng để phân tích BCTC nhằm đánh giá
tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty?
- Thực trạng tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của công ty
TNHH Xây dựng Thành Linh qua phân tích BCTC như thế nào?
- Giải pháp nào cần áp dụng để nâng cao năng lực tài chính của công ty
TNHH Xây dựng Thành Linh?
1.4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu lý thuyết và phân tích thực trạng
hệ thống báo cáo tài chính của công ty, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao năng lực tài chính và hiệu quả kinh doanh của công ty.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Nghiên cứu hệ thống báo cáo tài chính của công ty
TNHH Xây dựng Thành Linh.
+ Về thời gian: Sử dụng các số liệu liên quan đến báo cáo tài chính của
12. 4
công ty TNHH Xây dựng Thành Linh giai đoạn 2014 – 2016.
+ Về nội dung: Phân tích hệ thống chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính
gồm: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển
tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính.
1.5. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ
LIÊN QUAN
Trong thời đại ngày nay, phân tích báo cáo tài chính có vai trò rất quan
trọng đối với mọi nhà quản trị trong nền kinh tế thị trường. Đó là công cụ hữu
ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu tài
chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó phát hiện ra các nguyên nhân khách
quan, chủ quan giúp cho từng nhà quản trị lựa chọn và đưa ra quyết định phù
hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Do vậy, phân tích báo cáo tài chính là công
cụ đắc lực cho các nhà quản trị kinh doanh đạt kết quả và hiệu quả cao nhất.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, đề tài về nội dung này. Các
công trình nghiên cứu về phân tích báo cáo tài chính như:
- “Phân tích báo cáo tài chính của công ty cổ phần Đại Thiên Lộc” của
tác giả Trần Thị Thùy Linh (2013). Trong quá trình phân tích, luận văn đi sâu
tìm hiểu nguyên nhân biến động, phân tích ảnh hưởng bởi các nhân tố và chỉ
ra những điểm mạnh, điểm yếu nhằm đề ra các biện pháp khắc phục, nâng cao
hiệu quả hoạt động của công ty. Khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu cho ngành
thép, tác giả chia thành các nhóm chỉ tiêu và phân tích theo các nhóm chỉ tiêu
trên nên người đọc rất dễ theo dõi và đối chiếu giữa các chỉ tiêu của công ty
với các giá trị trung bình của ngành. Tuy nhiên, luận văn chưa gắn kết được
tình hình tài chính của công ty với sự biến động tình hình kinh tế xã hội trong
giai đoạn nghiên cứu.
- “Phân tích báo cáo tài chính nhằm tăng cường quản lý tài chính tại
bưu điện tỉnh Nghệ An” (2015) của tác giả Trần Thị Hoa, đã khái quát hóa
những vấn đề lý luận về phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp, kết quả
nghiên cứu có ý nghĩa đối với nhiều đối tượng liên quan. Xong, nội dung
phân tích chưa sâu, dàn trải, một số chỉ tiêu quan trọng như: cơ cấu từng
13. 5
khoản mục của tài sản, mức độ độc lâp tài chính của các công ty không được
luận văn đề cập, phân tích.
- “Phân tích báo cáo tài chính tại công ty Cổ phần xây dựng và chế biến
lương thực Vĩnh Hà” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền (2015). Đây là công
trình nghiên cứu về ngành thực phẩm và đã phân tích rất rõ cấu trúc tài chính,
hiệu quả sử dụng nguồn vốn và tài sản, khả năng thanh toán,… của công ty.
Tuy nhiên, công trình nghiên cứu của tác giả chưa có sự so sánh với các công
ty khác trong cùng ngành để đánh giá. Vì thế các đánh giá của tác giả chưa có
tính khách quan cao.
Kế thừa và phát huy những giá trị mà những công trình nghiên cứu
trước đã làm được, luận văn sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống hóa các lý luận về
báo cáo tài chính và phương pháp phân tích báo cáo tài chính, đồng thời sẽ
khắc phục những điểm mà công trình trước đây chưa đề cập đến. Cụ thể, luận
văn sẽ tiến phân tích những biến động trong hoạt động của công ty đứng trên
góc độ người bên ngoài đi phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các biện
pháp để khắc phục và tăng cường tình trạng tài chính và hiệu quả kinh doanh
của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh.
1.6. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Về mặt lý luận: Đề tài nghiên cứu sẽ góp phần hệ thống hóa cơ sở lý
luận về phân tích báo cáo tài chính trong doanh nghiệp từ đó là cơ sở cho việc
áp dụng phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở tình hình thực tế của công ty TNHH Xây
dựng Thành Linh, luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp để nâng cao
năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
1.7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được trình bày theo kết cấu 4
chương như sau :
Chương 1 : Phương pháp nghiên cứu
Chương 2 : Lý luận chung và tổng quan nội dung nghiên cứu về phân
tích báo cáo tài chính của Công ty TNHH Xây dựng Thành Linh
14. 6
Chương 3 : Phân tích báo cáo tài chính của Công ty TNHH Xây dựng
Thành Linh.
Chương 4 : Thảo luận kết quả nghiên cứu về phân tích báo cáo tài
chính,các giải pháp đề xuất tại Công ty TNHH Xây dựng Thành Linh
15. 1
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1. QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
Phương pháp tiếp cận:
Trong quá trình nghiên cứu các báo cáo tài chính của công ty TNHH Xây dựng
Thành Linh, luận văn đã sử dụng phương pháp thu thập các báo cáo tài chính của các
công ty hoạt động kinh doanh trong ngành xây dựng để đi sâu nghiên cứu tìm hiểu ý
nghĩa các chỉ tiêu tài chính, thông qua đó tổng hợp và khái quát tình hình hoạt động
kinh doanh của ngành xây dựng giai đoạn 2014-2016, và những mặt mạnh, mặt yếu
của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh để kiến nghị những giải pháp.
Cơ sở lý thuyết: Những chỉ tiêu tài chính để tính toán và phân tích về
cấu trúc tài chính, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, các chỉ tiêu về khả
năng sinh lời, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động…
1.2. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ XỬ LÍ DỮ LIỆU
Phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu:
Thông qua các cuốn Giáo trình, sách, tài liệu học tập, slides, bài giảng
thu thập: Tìm hiểu những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích báo cáo tài chính
doanh nghiệp như khái niệm, mục tiêu, ý nghĩa và phương pháp tính toán các
chỉ tiêu tài chính sử dụng để phân tích.
Thông qua website của công ty: Tìm hiểu được lịch sử hình thành và phát
triển, mục tiêu phát triển, cơ cấu tổ chức, thu thập các báo cáo tài chính thường
niên, định kỳ đã được kiểm toán của công ty TNHH Xây dựng Thành Linh.
Tham khảo các công trình nghiên cứu liên quan để kế thừa và phát huy
những giá trị mà các công trình nghiên cứu đi trước đã đạt được, khắc phục
những hạn chế, giúp cho luận văn được hoàn thiện hơn.
Phương pháp quan sát
Phương pháp quan sát là phương pháp ghi lại có kiểm soát các sự kiện
hoặc các hành vi ứng xử của con người. Phương pháp này thường dung kết
hợp với các phương pháp khác để kiểm tra độ chính xác của dữ liệu thu thập.
16. 2
Có thể chia ra là quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp, quan sát trực tiếp là
tiến hành quan sát khi sự kiện đang diễn ra, quan sát gián tiếp là tiến hành
quan sát kết quả hay tác động của hành vi, chứ không quan sát hành vi.
Trong bài nghiên cứu này tác giả tiến hành quan sát quy trình sản xuất
của Công ty TNHH Xây dựng Thành Linh.
Phương pháp phỏng vấn
−Người điều tra đến gặp trực tiếp đối tượng được điều tra để phỏng
vấn theo bảng câu hỏi đã soạn sẵn. Trình tự thực hiện phỏng vấn như sau:
−Xác định nội dung phỏng vấn, quy mô mẫu phỏng vấn
−Xác định đối tượng phỏng vấn
−Xây dựng lưới phỏng vấn
−Lập kế hoạch phỏng vấn (Thời gian, địa điểm, nội dung phỏng vấn)
−Thực hiện phỏng vấn (cách thức thực hiện, cách thu thập thông tin
phỏng vấn,..
Phương pháp thảo luận nhóm
−Xác định nội dung thảo luận nhóm
−Xác định đối tượng thảo luận nhóm
−Xây dựng lưới thảo luận nhóm
−Lập kế hoạch thảo luận nhóm (Thời gian, địa điểm, nội dung thảo
luận nhóm)
−Thực hiện thảo luận nhóm (cách thức thực hiện, cách thu thập thông
tin thảo luận nhóm,..)
−
−
−
1.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
17. 3
CHƯƠNG 2
LÝ LUẬN CHUNG VÀ TỔNG QUAN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU VỀ
PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TNHH XÂY
DỰNG THÀNH LINH
2.1. KHÁI NIỆM NĂNG LỰC TÀI CHÍNH VÀ ĐO LƯỜNG
NĂNG LỰC TÀI CHÍNH
2.1.1. Khái niệm năng lực tài chính
18. 4
Theo Từ điển tiếng Việt, “Năng lực” là khả năng đủ để làm một công
việc nào đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để
thực hiện một hoạt động nào đó.
Tài chính (như đã đề cập ở trên) là một phạm trù kinh tế, phản ánh các
quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá
trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền
kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.
Vậy, năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính
của bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp
lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và
khả năng sinh lời… đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến
hành bình thường.
2.1.2. Đo lường năng lực tài chính
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được đánh giá dựa trên các yếu tố
định lượng và các yếu tố định tính:
- Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm:
quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…
- Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng
các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý,
trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Để dễ dàng cho việc đánh giá, xem xét năng lực tài chính của một
doanh nghiệp, ta có thể phân chia thành các nhóm chỉ tiêu như sau:
- Khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sử dụng vốn.
- Khả năng sinh lời.
2.1.2.1. Khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất
kinh doanh
Quy mô, cơ cấu nguồn vốn
19. 5
a. Quy mô vốn
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có thể huy động, sử dụng
nhiều nguồn vốn khác nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình. Nhìn tổng
thể dựa trên tiêu chí về nguồn gốc của nguồn vốn, thì nguồn vốn của doanh
nghiệp bao gồm: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu là các nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp
và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc các cổ đông trong các công ty
cổ phần. Có ba nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà
đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh (lợi nhuận
chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Vốn chủ sở hữu bao gồm:
vốn kinh doanh (vốn góp và lợi nhuận chưa chia), chênh lệch đánh giá lại tài
sản, các quỹ của doanh nghiệp như: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen
thưởng phúc lợi... Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn gồm vốn đầu tư xây dựng cơ
bản và kinh phí sự nghiệp (kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp phát không
hoàn lại...)
Nợ phải trả gồm chủ yếu là vốn vay và một phần là vốn chiếm dụng
của bên thứ ba. Vốn vay có vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể đáp ứng các nhu cầu về vốn trong
ngắn hạn hoặc dài hạn, có thể huy động được số vốn lớn, tức thời. Tuy nhiên,
sử dụng vốn vay phải hết sức chú ý đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp, kế
hoạch sử dụng vốn phải đảm bảo hợp lý, đúng mục đích; quản lý tốt quỹ tiền
mặt, kỳ trả nợ và kỳ thu tiền, kế hoạch sản xuất kinh doanh phải được lập bám
sát thực tế... nếu không vốn vay sẽ trở thành một gánh nặng đối với doanh
nghiệp. Bên cạnh vốn vay, doanh nghiệp còn có nguồn vốn không thường
xuyên là vốn chiếm dụng của bên thứ ba như vốn chiếm dụng của nhà cung
cấp (tín dụng thương mại), lương cán bộ công nhân viên chậm thanh toán…
Để đánh giá đúng năng lực tài chính của doanh nghiệp thông qua chỉ
tiêu nguồn vốn thì vốn chủ sở hữu phải được xem xét nhiều nhất. Doanh
20. 6
nghiệp có VCSH lớn thì tạo được long tin đối với đối tác do khả năng chi
trả, thanh toán được đảm bảo. VCSH càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có
khả năng đối phó tốt với những nguy cơ luôn tiềm tàng trong điều kiện
kinh doanh ngày càng khó khăn như hiện nay. Một trong những chỉ tiêu
quan trọng nhằm đánh giá khả năng tài chính vững vàng, mức độ tài trợ của
VCSH cho hoạt động SXKD của doanh nghiệp là tỷ suất tự tài trợ tài sản
dài hạn:
Tỷ suất tự tài trợ TSDH =
Tỷ suất này lớn hơn 1 thể hiện khả năng tài chính vững vàng. Vốn chủ
sở hữu của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu cho mua sắm TSDH phục vụ
SXKD của doanh nghiệp, góp phần đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Ngược
lai, nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là một phần tài sản dài hạn được tài trợ bằng
nguồn vốn vay. Nếu vốn vay đó là vốn ngắn hạn thì DN đang kinh doanh
trong cơ cấu vốn mạo hiểm.
b. Cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn là thể hiện tỷ trọng của các nguồn vốn trong tổng giá
trị nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động, sử dụng vào hoạt động SXKD.
Trong điều kiên hiện nay, có nhiều kênh để doanh nghiệp có thể huy
động được lượng vốn cần thiết, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của
mình. Tuy nhiên, điều quan trọng là doanh nghiệp cần phối hợp huy động và
sử dụng các nguồn vốn để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý nhằm đưa lại lợi ích
tối đa cho doanh nghiệp.
Quyết định về cơ cấu nguồn vốn là vấn đề tài chính hết sức quan
trọng vì :
- Cơ cấu nguồn vốn là một trong các yếu tố quyết định đến chi phí sử
dụng vốn bình quân của doanh nghiệp.
Vốn chủ sở hữu
TSDH
21. 7
- Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu
hay thu nhập trên một cổ phần và rủi ro tài chính của một doanh nghiệp hay
công ty cổ phần.
Cũng chính vì vậy mà cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chí
phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn của doanh
nghiệp được huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả thì tình hình tài chính
của doanh nghiệp có căn cứ để đánh giá là tốt.
Khi xem xét cơ cấu nguồn vốn, người ta thường chú trọng đến mối
quan hệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh
nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu
chủ yếu sau:
Tỷ số nợ hoặc tỷ số vốn chủ sở hữu (tỷ suất tự tài trợ)
Tỷ số nợ được đo bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả và tổng nguồn vốn
hay tổng tài sản của doanh nghiệp:
Tỷ số nợ =
Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ
thường thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ
cao hơn. Ngược lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tăng
khả năng sinh lợi cho cổ đông. Tuy nhiên muốn biết tỷ số này cao hay thấp
cần phải so sánh với tỷ số nợ của bình quân ngành. Tỷ số nợ càng thấp thì
mức độ bảo vệ dành cho các chủ nợ càng cao trong trường hợp doanh nghiệp
rơi vào tình trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.
Rất khó để có thể đánh giá được mức độ vay nợ phù hợp với doanh
nghiệp hay tỷ số nợ như thế nào là tốt đối với một DN nói chung, vì tỷ số nợ
phụ thuộc rất nhiều yếu tố: loại hình doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp,
tính chất – lĩnh vực hoạt động, mục đích vay…Và cũng tùy vào từng thời kỳ
phát triển của doanh nghiệp mà có tỷ số nợ phù hợp khác nhau. Tuy nhiên
Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn
22. 8
thông thường tỷ số nợ trên 50% là chấp nhận được.
Nhìn tổng thể, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và vốn
chủ sở hữu. Do đó, có thể xem xét cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp qua tỷ
số vốn chủ sở hữu hay tỷ suất tự tài trợ:
Tỷ suất tự tài trợ =
= 1 - Tỷ số nợ
Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu
Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp còn được thể hiện qua tỷ số nợ
trên vốn chủ sở hữu :
Tỷ số nợ trên VCSH =
Thông thường, nếu tỷ số này lớn hơn 1, có nghĩa là tài sản của doanh
nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của
doanh nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu. Về nguyên tắc,
tỷ số này càng nhỏ, có nghĩa là nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng tài sản
hay tổng nguồn vốn thì doanh nghiệp ít gặp khó khăn hơn trong tài chính. Tỷ
số này càng lớn thì khả năng gặp khó khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của
doanh nghiệp càng lớn.
Trên thực tế, nếu nợ phải trả chiếm quá nhiều so với nguồn vốn chủ sở
hữu có nghĩa là doanh nghiệp đi vay mượn nhiều hơn số vốn hiện có, nên
doanh nghiệp có thể gặp rủi ro trong việc trả nợ, đặc biệt là càng gặp nhiều
khó khăn hơn khi lãi suất ngân hàng ngày một tăng cao.
Huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay, khi mà
những cơ hội kinh doanh chỉ đến trong chớp nhoáng, doanh nghiệp muốn
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
23. 9
thành công thì đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh nhạy nắm bắt thời cơ. Khi đã
nắm bắt được thời cơ đó thì vấn đề còn lại là liệu doanh nghiệp có huy động
được đủ vốn để biến thời cơ thành hiện thực hay không. Do đó, việc xây dựng
được một cơ cấu vốn hợp lý là hết sức quan trọng, nhưng việc huy động được
một lượng vốn đầy đủ, kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động SXKD được
diễn ra bình thường, liên tục mới là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh
doanh. Nhưng như thế nào là kịp thời thì không thể định lượng được, vì vậy,
đây là một chỉ tiêu mang tính định tính.
Ngoài việc đảm bảo nhu cầu vốn thường xuyên, doanh nghiệp phải
luôn chủ động, linh hoạt để tìm được nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng những nhu
cầu vốn bất thường phát sinh trong quá trình SXKD. Để làm được điều này,
thì uy tín của doanh nghiệp là rất quan trọng. Với những doanh nghiệp được
khách hàng, đối tác tin tưởng, việc này trở nên dễ dàng hơn, được ưu tiên hơn
những doanh nghiệp khác trong điều kiện nguồn vốn ngày càng trở nên khó
khăn, khan hiếm.
2.1.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn
Quy mô, cơ cấu và chất lượng của tài sản
a. Quy mô, cơ cấu của tài sản
Mỗi doanh nghiệp khác nhau thì có một quy mô, kết cấu tài sản khác
nhau, phù hợp với đặc điểm riêng của từng doanh nghiệp. Quy mô của tài sản
thể hiện sự lớn mạnh của doanh nghiệp, khả năng trang bị cho nhu cầu
SXKD, từ đó thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của
doanh nghiệp.
Cơ cấu tài sản phản ánh tỷ trọng từng loại tài sản trong tổng tài sản của
doanh nghiệp qua đó thể hiện vị trí, vai trò của từng loại tài sản trong doanh
nghiệp. Cũng qua đó phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật nói
chung và máy móc thiết bị nói riêng phục vụ cho hoạt động của doanh
24. 10
nghiệp. Một cơ cấu của tài sản hợp lý còn thể hiện năng lực quản lý, trình độ
tổ chức của các nhà quản trị doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản hợp lý giúp doanh
nghiệp tận dụng được hết năng lực hoạt động của tài sản, tiết kiệm chi phí sản
xuất, góp phần nâng cao hiêu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp qua quy mô, cơ cấu
của tài sản ta phải căn cứ vào hình thức pháp lý, lĩnh vực, ngành nghề kinh
doanh, đặc điểm kinh tế, kĩ thuật của ngành kinh doanh cũng như nhu cầu đầu
tư của doanh nghiệp trong từng thời kì phát triển.
b. Chất lượng của tài sản
Chất lượng tài sản phản ánh ở viêc tài sản của doanh nghiệp được
sử dụng như thế nào, có phát huy được hết khả năng hoạt động của nó
hay không. Đây là một chỉ tiêu nói lên tính bền vững về tài chính, năng
lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Cùng với việc đảm bảo đủ vốn
cho SXKD thì việc nâng cao chất lượng của tài sản trong doanh nghiệp
là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết đối với hoạt động SXKD
của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp gồm rất nhiều loại, tồn tại ở các dạng khác
nhau như: tiền và tương đương tiền, hàng tồn kho, các khoản phải thu, tài sản
cố định, các khoản đầu tư tài chính…Mỗi loại tài sản trong doanh nghiệp có
chất lượng là khi tài sản đó được trang bị ở một mức độ hợp lý đảm bảo hiệu
quả cho các hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như đối với tiền mặt, các lý
thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có một mức tiền
mặt thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh toán lãi vay,
các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một lượng để doanh
nghiệp kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Việc dự trữ quá nhiều sẽ
dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, chi phí cao. Còn việc dự trữ quá ít dễ dẫn
đến tình trạng mất khả năng thanh toán khi có các tình huống bất ngờ xảy ra
25. 11
trong kinh doanh. Đối với hàng tồn kho, thật khó để nói tồn kho bao nhiêu là
vừa vì tùy đặc điểm ngành nghề, tùy chiến lược kinh doanh mà mỗi doanh
nghiệp sẽ có những mức tồn kho riêng. Để biết mức tồn kho thế nào là hợp lý,
các doanh nghiệp cần: nắm bắt nhu cầu thị trường, hoạch định cung ứng, tính
toán lượng đặt hàng và xác định được thời điểm đặt hàng. Tóm lại, mức độ
hợp lý của từng loại tài sản phụ thuộc vào đặc trưng của từng doanh nghiệp và
đặc điểm của từng tài sản và muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu
quả thì doanh nghiệp phải làm sao khai thác được hết công suất, tính năng của
từng loại tài sản đó.
c. Tính thanh khoản và hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Tính thanh khoản
Tính thanh khoản hay khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng
lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các
khoản nợ cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho doanh nghiệp vay hoặc nợ.
Năng lực tài chính đó tồn tại dưới dạng tiền tệ (tiền mặt, tiền gửi …), các
khoản phải thu từ các cá nhân mắc nợ doanh nghiệp, các tài sản có thể chuyển
đổi nhanh thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán. Các khoản nợ
của doanh nghiệp có thể là các khoản vay ngân hàng, khoản nợ tiền hàng do
xuất phát từ quan hệ mua bán các yếu tố đầu vào hoặc sản phẩm hàng hóa
doanh nghiệp phải trả cho người bán hoặc người mua đặt trước, các khoản
thuế chưa nộp ngân hàng nhà nước, các khoản chưa trả lương.
Khả năng thanh toán được đo lường thông qua các tỷ số tài chính sau:
+ Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các
khoản nợ ngắn hạn bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt,
các khoản phải thu, hàng tồn kho…Hệ số này được tính theo công thức sau:
Tài sản NH
Nợ NH
26. 12
Hệ số khả năng TT nợ NH =
Hệ số này càng cao, khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng
Tỷ lệ này cho phép hình dung ra chu kì hoạt động của công ty xem có
hiệu quả không, hoặc khả năng biến sản phẩm thành tiền mặt có tốt không.
Tuy nhiên, nếu hàng tồn kho của doanh nghiệp thuộc loại khó bán thì doanh
nghiệp lại gặp khó khăn trong vấn đề trả nợ và hệ số này đã phản ánh không
chính xác khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Vì vậy cần quan tâm đến hệ
số khả năng thanh toán nhanh.
+ Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số thanh toán nhanh được sử dụng như một thước đo để đánh giá
khả năng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn bằng việc chuyển hóa tài
sản ngắn hạn thành tiền mà không cần phải bán đi hàng tồn kho:
HS khả năng TT nhanh =
Hệ số này nói lên tình trạng tài chính ngắn hạn của một doanh nghiệp
có lành mạnh không. Về nguyên tắc, hệ số này càng cao thì khả năng thanh
toán công nợ càng cao và ngược lại. Hệ số này bằng 1 hoặc lớn hơn, cho thấy
khả năng đáp ứng thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn cao. Doanh nghiệp
không gặp khó khăn nếu cần phải thanh toán ngay các khoản nợ ngắn hạn.
Trái lại, nếu hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn 1, doanh nghiệp sẽ không đủ khả
năng thanh toán ngay lập tức toàn bộ khoản nợ ngắn hạn hay nói chính xác
hơn, doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn nếu phải thanh toán ngay các khoản
nợ ngắn hạn. Phân tích sâu hơn, nếu hệ số thanh toán nhanh nhỏ hơn hệ số
thanh toán nợ ngắn hạn rất nhiều cho thấy, tài sản ngắn hạn phụ thuộc rất lớn
vào hàng tồn kho. Trong trường hợp này, tính thanh khoản của tài sản ngắn
hạn là tương đối thấp. Tất nhiên, với tỷ lệ nhỏ hơn 1, doanh nghiệp có thể
Tiền và TĐT + ĐTTC NH + các KPT
Nợ NH
27. 13
không đạt được tình hình tài chính tốt nhưng điều đó không có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ bị phá sản vì có nhiều cách để huy động thêm vốn cho việc trả nợ.
Ở một khía cạnh khác, nếu hệ số này quá cao thì vốn bằng tiền quá nhiều,
vòng quay vốn lưu động thấp, hiệu quả sử dụng vốn cũng không cao.
+ Hệ số khả năng thanh toán ngay
HS khả năng TT ngay =
Theo công thức này, hàng tồn kho ở đây là hàng hóa, thành phẩm, hàng
gửi bán, vật tư chưa thể bán nhanh, hoặc khấu trừ, đối lưu ngay được, nên
chưa thể chuyển thành tiền ngay được, các KPT cũng vậy. Và khả năng thanh
toán nhanh của doanh nghiệp cao hay thấp, tình hình tài chính được đánh giá
tốt hay xấu tùy thuộc vào lượng tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
lớn hay bé, nợ ngắn hạn nhỏ hay lớn.
+ Tỷ số khả năng trả lãi tiền vay
Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo
khả năng trả lãi như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có
thể đi đến gây sức ép lên công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty. Hệ số khả
năng thanh toán lãi vay được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi
vay phải trả trên lãi vay phải trả:
Tỷ số khả năng trả lãi tiền vay =
Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng
rất quan trọng. Rõ ràng, tỷ số khả năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả
năng thanh toán lãi của doanh nghiệp cho các chủ nợ của mình càng lớn. Khả
năng trả lãi vay của doanh nghiệp thấp cũng thể hiện khả năng sinh lợi của tài
sản thấp. Khả năng thanh toán lãi vay thấp cho thấy một tình trạng nguy hiểm,
LN trước thuế + Lãi vay phải trả
Lãi vay phải trả
Tiền và TĐT + ĐTTC NH
Nợ NH
28. 14
suy giảm trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm lãi trước thuế và lãi vay
xuống dưới mức nợ lãi mà công ty phải trả, do đó dẫn tới mất khả năng thanh
toán và vỡ nợ. Tuy nhiên rủi ro này được hạn chế bởi thực tế lãi trước thuế và
lãi vay không phải là nguồn duy nhất để thanh toán lãi. Các doanh nghiệp
cũng có thể tạo ra nguồn tiền mặt từ khấu hao và có thể sử dụng nguồn vốn đó
để trả nợ lãi. Những gì mà một doanh nghiệp cần phải đạt tới là tạo ra một độ
an toàn hợp lý, bảo đảm khả năng thanh toán cho các chủ nợ của mình.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi
doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ
phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ
trọng rất lớn ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh
nghiệp thương mại vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào
doanh nghiệp hoạt động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái
đầu tư giản đơn và tái đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao
cho doanh nghiệp trong hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà
nước đã quy định.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của DN, ta xem xét các chỉ
tiêu sau:
+ Vòng quay khoản phải thu và kì thu tiền trung bình
Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải
thu thành tiền mặt. Chỉ số này là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
VQ các KPT =
DTT về bán hàng và CCDV
Các KPT BQ
29. 15
Khoản tiền phải thu từ khách hàng là số tiền mà khách hàng hiện tại
vẫn còn chiếm dụng của doanh nghiệp. Chỉ đến khi khách hàng thanh toán
bằng tiền cho khoản phải thu này thì coi như lượng vốn mà doanh nghiệp bị
khách hàng chiếm dụng mới không còn nữa.
Nói chung, hệ số vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc
độ thu hồi nợ của doanh nghiệp càng nhanh, khả năng chuyển đổi các khoản
nợ phải thu sang tiền mặt cao, điều này giúp cho doanh nghiệp nâng cao
luồng tiền mặt, tạo ra sự chủ động trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong
sản xuất. Ngược lại, nếu hệ số này càng thấp thì số tiền của doanh nghiệp bị
chiếm dụng ngày càng nhiều, lượng tiền mặt sẽ ngày càng giảm, làm giảm sự
chủ động của doanh nghiệp trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản
xuất và có thể doanh nghiệp sẽ phải đi vay ngân hàng để tài trợ thêm cho
nguồn vốn lưu động này.
Một chỉ tiêu ngược với vòng quay các khoản phải thu là kỳ thu tiền
trung bình. Chỉ tiêu này được tính bằng cách lấy số ngày trong kỳ chia cho
vòng quay các khoản phải thu. Ngược lại với chỉ số vòng quay các khoản phải
thu, chỉ số kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ thì tốc độ thu hồi công nợ phải thu
của doanh nghiệp càng nhanh:
Kỳ thu tiền TB =
Trong mỗi ngành khác nhau thì chỉ số này cũng khác nhau và để đánh
giá hiệu quả quản lý của doanh nghiệp, cần so sánh kỳ thu tiền trung bình
với số ngày thanh toán cho các khoản công nợ phải thu mà doanh nghiệp đó
quy định.
+ Vòng quay hàng tồn kho và số ngày một vòng quay hàng tồn kho
Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn kho.
Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
Số ngày trong kỳ phân tích
VQ các KPT
30. 16
chuyển trong kỳ. Hệ số vòng quay hàng tồn kho được xác định bằng giá vốn
hàng bán chia cho bình quân hàng tồn kho:
VQ HTK =
Muốn biết số ngày của một VQ HTK có thể xác định bằng công thức:
Số ngày một VQ HTK =
Các hệ số này được sử dụng để đánh giá hiệu quả quản trị HTK của
doanh nghiệp. Hệ số vòng quay hàng tồn kho thường được so sánh qua các
năm để đánh giá năng lực quản trị hàng tồn kho là tốt hay xấu qua từng năm.
Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và
ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu
ý, hàng tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không phải
cứ mức tồn kho thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp
bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh
nghiệp sẽ ít rủi ro hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có
giá trị giảm qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là
lượng hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột
ngột thì rất có khả năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh
tranh giành thị phần. Hơn nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các
khâu sản xuất không đủ có thể khiến dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì
vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ lớn để đảm bảo mức độ sản
xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Để có thể đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, việc xem xét chỉ
Giá vốn hàng bán
HTK bình quân
Số ngày trong kỳ phân tích
VQ HTK
31. 17
tiêu hàng tồn kho cần được đánh giá bên cạnh các chỉ tiêu khác như lợi
nhuận, doanh thu, vòng quay của dòng tiền…, cũng như nên được đặt trong
điều kiện kinh tế vĩ mô, điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp.
d. Năng lực hoạt động của tài sản cố định và hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Năng lực hoạt động của tài sản cố định
Tài sản cố định là tất cả những tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn,
có thời gian sử dụng, luân chuyển, thu hồi trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ kinh
doanh (nếu chu kỳ kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 1 năm). Trên thực tế, khái
niệm TSCĐ bao gồm những tài sản đang sử dụng, chưa được sử dụng hoặc
không còn được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh do chúng đang
trong quá trình hoàn thành (máy móc thiết bị đã mua nhưng chưa hoặc đang
lắp đặt, nhà xưởng đang xây dựng chưa hoàn thành...) hoặc do chúng chưa hết
giá trị sử dụng nhưng không được sử dụng. Những tài sản thuê tài chính mà
doanh nghiệp sẽ sở hữu cũng thuộc về TSCĐ.
Tùy thuộc vào đặc điểm của từng doanh nghiệp mà tỷ trọng TSCĐ trng
tổng tài sản và kết cấu của chúng cũng khác nhau. Tuy nhiên, dù là loại hình
doanh nghiệp nào thì muốn đạt hiệu quả trong SXKD cũng cần phát huy hết
năng lực hoạt động của tài sản nói chung và của TSCĐ nói riêng. Để đánh giá
khả năng quản trị, tổ chức sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp ta phân tích chỉ
tiêu hiệu sử dụng TSCĐ:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Mức độ và xu hướng của hệ số này chịu ảnh hưởng của những nhân tố
đặc trưng cấu thành nên nó: vòng đời của một công ty hoặc chu kỳ sống của
một sản phẩm, mức độ hiện đại hay lạc hậu của công nghệ, phương pháp khấu
hao TSCĐ, thời điểm hình thành nên TSCĐ…Bởi vậy, khi phân tích cần phải
xem xét một cách thận trọng xu hướng diễn biến của hệ số này.
DTT về bán hàng và CCDV
TSCĐ bình quân
32. 18
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Hiệu suất sử dụng tổng TS =
Chỉ số này có xu hướng chỉ ra mức độ hiệu quả trong sử dụng tài sản
của doanh nghiệp. Nếu chỉ số tổng doanh thu tài sản cao, có thể cho rằng
doanh nghiệp đã sử dụng tài sản tạo ra doanh thu hiệu quả. Nếu chỉ số này
thấp, doanh nghiệp chưa khai thác hết công suất các tài sản hiện có, do đó,
cần tăng doanh số hoặc bán bớt tài sản. Một vấn đề thường gặp phải với chỉ
số này là việc tận dụng tối đa các tài sản cũ bởi giá trị kế toán của các tài sản
này luôn thấp hơn các tài sản mới và có cùng công năng sử dụng. Tuy vậy,
cần lưu ý tới vấn đề công nghệ ở đây. Ngoài ra, cũng có những doanh nghiệp
do đặc thù kinh doanh mà có mức độ đầu tư tương đối bé cho tài sản. Doanh
nghiệp thương mại thường có chỉ số tổng tài sản doanh thu nhỏ hơn khi so
sánh với doanh nghiệp sản xuất.
2.1.2.3. Khả năng sinh lời
Mọi hoạt động trong doanh nghiệp đều hướng đến một mục tiêu cuối
cùng là lợi nhuận. Vì vậy, để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp thì
không thể bỏ qua các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Các chỉ tiêu phản
ánh khả năng sinh lời gồm có:
a. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu:
Tỷ suất lợi nhuận DT = x 100%
Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu.
Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn
nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua lỗ.
Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế,
DT và thu nhập khác
Tổng TS bình quân
Lợi nhuận
Doanh thu
33. 19
khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này của công ty
với tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham gia
b. Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA)
Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu.
Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty.
Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA.
ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên
lượng đầu tư ít hơn.
ROA = x 100%
ROA sẽ cung cấp thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn
đầu tư (hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty khác nhau có sự khác
biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi
sử dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi
công ty qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.
c. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE):
ROE = x 100%
Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và
tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty
sử dụng hiệu quả VCSH, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa
VCSH với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình
huy động vốn, mở rộng quy mô.
2.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA PHÂN TÍCH BÁO CÁO
TÀI CHÍNH
2.2.1. Khái niệm phân tích báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là báo cáo tổng hợp và trình bày một cách tổng quát,
Lợi nhuận
Tổng TSBQ
Lợi nhuận
VCSH BQ
34. 20
toàn diện tình hình tài sản, nguồn vốn, công nợ, tình hình và kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ kế toán. Báo cáo tài
chính phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo
cáo tài chính của công ty.
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình thu thập thông tin, xem xét,
kiểm tra, đối chiếu, so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành và quá
khứ của công ty, giữa đơn vị và chỉ tiêu bình quân ngành. Để từ đó có thể xác
định được thực trạng tài chính và xu hướng tiềm năng kinh tế của công ty
nhằm xác lập một giải pháp kinh tế, điều hành, quản lý khai thác có hiệu quả,
để được lợi nhuận như mong muốn.
Trên thực tế, tất cả các công việc ra quyết định, phân tích tài chính hay
tất cả những việc tương tự đều nhằm hướng vào tương lai. Do đó, người ta sử
dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố gắng đưa ra
đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của công ty, dựa trên phân
tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt nhất
về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, Hệ thống báo cáo tài chính ban hành
theo quyết định số 48/2006/QĐ – BTC Ngày 14/09/2006 của Bộ trưởng Bộ
Tài Chính ban hành quy định chế độ kế toán tài chính định kỳ bắt buộc doanh
nghiệp phải lập và nộp, kèm theo các văn bản, thông tư,... Hệ thống báo cáo
tài chính doanh nghiệp bao gồm:
+ Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là một trong những báo
cáo tài chính tổng hợp phản ảnh tình hình tài sản, nguồn vốn và các quan hệ
tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm.
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Báo cáo kết quả kinh doanh
là một trong những báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tình hình doanh thu,
chi phí và kết quả của doanh nghiệp sau một kỳ hoạt động.
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ : Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài
35. 21
chính tổng hợp nhằm phản ánh dòng tiền lưu chuyển trong kỳ, để nhà quản trị
đưa ra các quyết định tài trợ cho kỳ tới.
+ Thuyết minh báo cáo tài chính: Thuyết minh báo cáo tài chính là một
trong những báo cáo tài chính tổng hợp nhằm giải trình và bổ sung thêm các
chỉ tiêu mà trên các báo cáo tài chính khác chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa
đầy đủ.
2.2.2. Ý nghĩa của phân tích báo cáo tài chính
Hoạt động tài chính có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất
kinh doanh. Do đó tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều có ảnh xấu
đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, phân tích báo cáo tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với bản
thân chủ doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài có liên quan đến tài chính
của doanh nghiệp.
Đối với nhà quản trị doanh nghiệp:
- Các hoạt động nghiên cứu tài chính trong doanh nghiệp được gọi là
phân tích tài chính nội bộ. Khác với phân tích tài chính bên ngoài do nhà phân
tích ngoài doanh nghiệp tiến hành. Do đó thông tin đầy đủ và hiểu rõ về
doanh nghiệp, các nhà phân tích tài chính trong doanh nghiệp có nhiều lợi thế
để có thể phân tích tài chính tốt nhất. Vì vậy nhà quản trị doanh nghiệp còn
phải quan tâm đến nhiều mục tiêu khác nhau như tạo công ăn việc làm cho
người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, hạ chi
phí thấp nhất và bảo vệ môi trường. Doanh nghiệp chỉ có thể đạt được mục
tiêu này khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi và thanh toán được nợ.
- Như vậy hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông
tin nhằm thực hiện cân bằng tài chính, nhằm đánh giá tình hình tài chính đã
qua để tiến hành cân đối tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
trả nợ, rủi ro tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó định hướng các quyết
định của ban giám đốc tài chính, quyết định đầu tư, tài trợ, phân tích lợi tức
36. 22
cổ phần.
Đối với các nhà đầu tư:
- Mối quan tâm của họ chủ yếu vào khả năng hoàn vốn, mức sinh lãi,
khả năng thanh toán vốn và sự rủi ro. Vì thế mà họ cần thông tin về điều kiện
tài chính, tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh và các tiềm năng của
doanh nghiệp. Các nhà đầu tư còn quan tâm đến việc điều hành hoạt động
công tác quản lý. Những điều đó tạo ra sự an toàn và hiệu quả cho các nhà
đầu tư. hưởng đến tài chính của doanh nghiệp.
Đối với các nhà cho vay và cung cấp hàng hóa cho Doanh nghiệp:
- Mối quan tâm của họ hướng đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Qua việc phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp, họ đặc biệt chú ý tới
số lượng tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền nhanh để từ đó có thể
so sánh được và biết được khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Đối với cơ quan nhà nước như cơ quan Thuế, Tài chính và người
làm thuê cho Doanh nghiệp:
- Qua phân tích báo cáo tài chính sẽ cho thấy thực trạng về tài chính
của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ tính toán chính xác mức thuế mà công ty
phải nộp, cơ quan Tài chính và cơ quan chủ quản sẽ có biện pháp quản lý hiệu
quả hơn. Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư... người lao động có nhu
cầu thông tin cơ bản giống họ bởi vì nó liên quan đến quyền lợi và trách
nhiệm, đến khách hàng hiện tại và tương lai của họ.
Từ những ý nghĩa trên, ta thấy phân tích báo cáo tài chính có vai trò
quan trọng đối với mọi nhà quản trị trong nền kinh tế thị trường có quan hệ
mật thiết với nhau. Đó là công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh
tế, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó
phát hiện ra các nguyên nhân khách quan, chủ quan giúp cho từng nhà quản
trị lực chọn và đưa ra quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Do
37. 23
vậy, phân tích báo cáo tài chính là công cụ đắc lực cho các nhà quản trị kinh
doanh đạt kết quả và hiệu quả cao nhất.
2.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Phương pháp phân tích là cách thức tiếp cận đối tượng phân tích đã
được thể hiện qua hệ thống chỉ tiêu phân tích, để biết được ý nghĩa và mối
quan hệ hữu cơ của các thông tin từ chỉ tiêu phân tích
Trong quá trình phân tích, chúng ta có rất nhiều phương pháp như phương
pháp so sánh, phương pháp cân đối, phương pháp loại trừ,... Các phương pháp
này được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với từng nội dung phân tích để
đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp dưới theo nhiều chiều hướng
khác nhau và sử dụng cho các mục đích đánh giá khác nhau.
2.3.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến và quan trọng
trong phân tích kinh doanh nói chung và báo cáo tài chính nói riêng. Khi thực
hiện so sánh thường đối chiếu các chỉ tiêu tài chính với nhau để biết được
mức biến động của các đối tượng đang nghiên cứu. Kết quả phương pháp so
sánh thường thể hiện số tuyệt đối, số tương đối và số trung bình.
Khi sử dụng phương pháp so sánh, các nhà phân tích cần chú ý một
số vấn đề sau đây:
+ Điều kiện so sánh được của chỉ tiêu: Chỉ tiêu nghiên cứu muốn so
sánh được phải đảm bảo thống nhất về nội dung kinh tế, thống nhất về
phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và đơn vị đo lường.
+ Gốc so sánh: Gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc về không gian
hay thời gian, tuỳ thuộc vào mục đích phân tích. Về không gian, có thể so
sánh đơn vị này với đơn vị khác, bộ phận này với bộ phận khác, khu vực này
với khu vực khác... Việc so sánh về không gian thường được sử dụng khi cần
xác định vị trí hiện tại của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh, so với số
bình quân ngành, bình quân khu vực... Cần lưu ý rằng, khi so sánh về mặt
38. 24
không gian, điểm gốc và điểm phân tích có thể đổi chỗ cho nhau mà không
ảnh hưởng đến kết luận phân tích. Về thời gian, gốc so sánh được lựa chọn là
các kỳ đã qua (kỳ trước, năm trước) hay kế hoạch, dự toán. Cụ thể:
- Khi xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích,
gốc so sánh được xác định là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc
hàng loạt kỳ trước (năm trước). Lúc này sẽ so sánh trị số chỉ tiêu giữa kỳ phân
tích với trị số chỉ tiêu ở các kỳ gốc khác nhau;
- Khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, gốc so
sánh là trị số kế hoạch của chỉ tiêu phân tích. Khi đó, tiến hành so sánh giữa
trị số thực tế với trị số kế hoạch của chỉ tiêu nghiên cứu.
Nội dung của phương pháp so sánh:
+ So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh
doanh trước nhằm xác định rõ xu hướng thay đổi, đánh giá tốc độ tăng trưởng
hay giảm đi của các hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
+ So sánh giữa số thực tế kỳ phân tích với số kỳ kế hoạch để xác định mức
phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch trong mọi mặt của hoạt động tài chính.
+ So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu tiên tiến của
ngành nhằm đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp tốt hay xấu, khả quan hay không khả quan.
Các kỹ thuật so sánh bao gồm:
+ So sánh bằng số tuyệt đối: là kết quả của phép trừ giữa trị số của kỳ
phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu hiện
khối lượng quy mô của các hiện tượng kinh tế.
+ So sánh bằng số tương đối: là kết quả của phép chia, giữa trị số
của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế, kết quả so sánh biểu
hiện kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức phổ biến của các hiện
tượng kinh tế.
+ So sánh bằng số bình quân: số bình quân là dạng đặc biệt của số
tuyệt đối, biểu hiện tính chất đăc trưng chung về mặt số lượng, nhằm phản
39. 25
ánh đặc điểm chung của một đơn vị, một bộ phận, hay một tổng thể chung có
cùng một tính chất.
Ứng dụng kỹ thuật cơ bản của phương pháp so sánh:
+ So sánh theo chiều ngang: Phương pháp đối chiếu, so sánh tình hình
biến động cả về số tuyệt đối và số tương đối trên từng chỉ tiêu, từng khoản mục
của từng báo cáo tài chính. Thực chất là phân tích sự biến động về quy mô.
+ So sánh theo chiều dọc: Phương pháp sử dụng các tỷ lệ, các hệ số
thể hiện mối tương quan giữa các chỉ tiêu trên từng báo cáo tài chính hoặc
giữa các báo cáo tài chính trong hệ thống báo cáo tài chính. Thực chất là phân
tích biến động về cơ cấu.
+ So sánh xác định xu hướng và tính chất liên hệ giữa các chỉ tiêu:
Các chỉ tiêu riêng biệt hay các chỉ tiêu tổng cộng trên báo cáo tài chính được
xem xét trong mối liên hệ với các chỉ tiêu phản ánh quy mô chung và chúng
có thể được xem xét trong nhiều kỳ để phản ánh rõ hơn xu hướng phát triển
của các hiện tượng, kinh tế - tài chính.
2.3.2. Phương pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ được áp dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố độc lập tới chỉ tiêu nghiên cứu. Khi xác định ảnh hưởng của một
nhân tố tới các chỉ tiêu phân tích thì sẽ giả định các nhân tố còn lại không
thay đổi. Phương pháp này bao gồm hai dạng: phương pháp thay thế liên hoàn
và phương pháp số chênh lệch.
2.3.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn
Phương pháp thay thế liên hoàn là phương pháp thay thế lần lượt từng
nhân tố từ giá trị gốc sang kỳ phân tích để xác định mức độ ảnh hưởng của
nhân tố đó đến chỉ tiêu nghiên cứu. Các nhân tố chưa được thay thế thì giữ
nguyên kỳ gốc. Có bao nhiêu nhân tố ảnh hưởng thì có bấy nhiêu nhân tố cần
phân tích. Sau đó, so sánh trị số của chỉ tiêu nghiên cứu vừa tính được với trị
40. 26
số của chỉ tiêu nghiên cứu trước khi thay thế nhân tố. Mức chênh lệch về trị
số của chi tiêu nghiên cứu trước và sau khi thay thế chính là ảnh hưởn cua
từng nhân tố tới tổng thể chỉ tiêu phân tích.
Điều kiện áp dụng phương pháp này là mối quan hệ các nhân tố đến chỉ
tiêu phân tích là trực tiếp, các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích số hoặc
thương số với các chỉ tiêu phân tích và các nhân tố phải được sắp xếp theo
trình tự từ nhân tố số lượng đến nhân tố chất lượng.
Khi phân tích theo phương pháp này thì không được thay đổi trình tự
sắp xếp của các nhân tố. Khi đánh giá sự thay đổi của một nhân tố thì giả định
nhân tố khác không thay đổi nhưng không được tách rời mối quan hệ của các
nhân tố.
Mô hình chung của phương pháp này được khái quát như sau:
Giả định chỉ tiêu Q cần phân tích; Q tuỳ thuộc vào 3 nhân tố ảnh
hưởng, theo thứ tự a, b và c; các nhân tố này có quan hệ tích số chỉ tiêu Q, từ
đó chỉ tiêu Q được xác định cụ thể như sau:
Q = a . b . c
Nếu quy ước kỳ kế hoạch được ký hiệu là số 0 (số không) còn kỳ thực
tế được ký hiệu bằng số 1 (số một) - Từ quy ước này, chỉ tiêu Q kỳ kế hoạch
và kỳ thực tế lần lượt được xác định như sau:
Q0 = a0 . b0 . c0 và Q1 = a1 . b1 . c1
- Số tuyệt đối: ∆Q = Q1 - Q0 , trong đó Q là số chênh lệch tuyệt đối của
chỉ tiêu phân tích giữa kỳ phân tích và kỳ gốc.
- Số tương đối: (Q1/Q0)*100
Các nhân tố ảnh hưởng:
∆Qa = a1 . b0 . c0 - a0 . b0 . c0
∆Qb = a1 . b1 . c0 – a1 . b0 . c0
∆Qc = a1 . b1 . c1 – a1 . b1 . c0
41. 27
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng:
∆Q = ∆Qa + ∆Qb + ∆Qc
Trên cơ sở đã phân tích mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, cần rút ra
những kết luận và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của chỉ tiêu phân tích.
2.3.2.2. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch là phương pháp dựa vào sự ảnh hưởng của
từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Phương pháp này được sử dụng khi các
nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích được biểu diễn dưới dạng tích, các
nhân tố được sắp xếp theo thứ tự nhân tố số lượng rồi đến nhân tố chất lượng.
Phương pháp này là phương pháp rút gọn của phương pháp thay thế
liên hoàn. Khi thực hiện phương pháp này, muốn phân tích sự ảnh hưởng của
một nhân tố ta lấy phần chênh lệch của nhân tố đó nhân với trị số các nhân tố
khác, nhân tố chưa thay đổi trị số giữ nguyên ở kỳ gốc,nhân tố đã thay đổi trị
số chuyển sang kỳ phân tích, cứ như thế cho tới hết.
2.3.3. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích
a.
b.
nhau.
inh doanh.
42. 28
c.
nghiệp.
2.4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
2.4.1. Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp
2.4.1.1. Phân tích cơ cấu tài sản
Khi sử dụng vốn vào hoạt động kinh doanh có nghĩa là doanh nghiệp
sẽ tiến hành đầu tư về cả chiều rộng và chiều sâu. Sử dụng vốn hợp lý thể
hiện ở chỗ số vốn mà doanh nghiệp đã huy động được đầu tư vào bộ phận tài
sản nào. Vì thế khi phân tích tình hình sử dụng vốn bao giờ người ta cũng
phải phân tích cơ cấu tài sản đầu tiên.
Phân tích cơ cấu tài sản doanh nghiệp được thực hiện bằng cách tính ra
và so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích và kỳ gốc về tỷ trọng của
từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản và được xác định theo công
thức sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận tài sản chiếm trong tổng tài sản = Giá trị
từng bộ phận tài sản× 100% /Tổng số tài sản
Để nắm được chính xác tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, nắm
được các nhân tố có ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến sự biến động về cơ
cấu tài sản của doanh nghiệp thì nhà phân tích còn phải kết hợp với việc phân
tích ngang tức là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc trên cả
phương diện về số tuyệt đối và số tương đối.
2.4.1.2. Phân tích cơ cấu nguồn vốn
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thì doanh
nghiệp sẽ tìm kiếm và huy động từ nhiều nguồn khác nhau, trong báo cáo tài
43. 29
chính thì được thể hiện ở 2 nguồn là: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Vốn chủ sở hữu là số vốn của các chủ sở hữu, được đóng góp ban đầu
hoặc bổ sung trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra còn có một số nguồn khác
như: chênh lệch tỷ giá hối đoái, chênh lệch đánh giá lại tài sản, lợi nhuận sau
thuế chưa phân phối, các quỹ của doanh nghiệp.
Nợ phải trả phản ánh số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Nợ phải trả bao gồm nhiều loại khác nhau. Qua
việc phân tích cơ cấu nguồn vốn sẽ cho biết được cơ cấu vốn huy động và
mức độ độc lập về tài chính cũng như xu hướng biến động của nguồn vốn huy
động của doanh nghiệp.
Khi phân tích cơ cấu vốn, các nhà phân tích sẽ tính ra và so sánh tình
hình biến động nguồn vốn giữa kỳ phân tích và kỳ gốc. Tỷ trọng của từng bộ
phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn được xác định như sau:
Tỷ trọng của từng bộ phận nguồn vốn chiếm trong tổng số nguồn vốn
= Giá trị của từng bộ phận nguồn vốn× 100%/Tổng số nguồn vốn
Để xác định được chính xác tình hình huy động vốn, nắm bắt được các
nhân tố ảnh hưởng, các nhà phân tích sẽ kết hợp cả việc phân tích ngang, tức
là so sánh sự biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về cả số tuyệt đối và số
tương đối trên tổng số nguồn vốn.
Qua việc phân tích cơ cấu nguồn vốn sẽ cho các nhà phân tích nắm
được trị số và sự biến động của các chỉ tiêu như: Hệ số tài trợ, hệ số nợ so với
vốn chủ sở hữu, Hệ số nợ so với tổng nguồn vốn và các chỉ tiêu này đều cho
thấy được mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp
2.4.1.3.Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn
Chính sách sử dụng vốn của doanh nghiệp không chỉ phản ánh nhu cầu
vốn cho hoạt động kinh doanh của doah nghiệp mà còn phải ánh hiệu quả sử
dụng vốn của doanh nghiệp. Vì vậy, cần thiết phải phân tích mối quan hệ giữa
44. 30
tài sản và nguồn hình thành tài sản để thấy được chính sách sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Để phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn, các nhà phân tích
sử dụng các chỉ tiêu sau:
- Hệ số nợ so với tài sản: là chỉ tiêu phản ánh mức độ tài trợ tài sản của
doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Trị số này càng cao chứng tỏ mức độ phụ thuộc
của doanh nghiệp vào chủ nợ càng lớn nghĩa là mức độ độc lập về tài chính của
doanh nghiệp càng thấp và càng ít có cơ hội để tiếp cận các cơ hội đầu tư.
Hệ số nợ so với tài sản=Nợ phải trả/Tổng tài sản
Khi chỉ tiêu này bằng 1 có nghĩa là toàn bộ nợ phải trả của doanh
nghiệp được đầu tư cho tài sản.
Khi chỉ tiêu này lớn hơn 1 có nghĩa là số nợ phải trả được doanh nghiệp
sử dụng vừa để bù lỗ vừa để tài trợ cho đầu tư tài sản. Chỉ tiêu này càng lớn
bao nhiêu càng chứng tỏ lỗ lũy kế của doanh nghiệp càng lớn bấy nhiêu.
Khi chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 có nghĩa có nghĩa là số nợ phải trả được
doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho tài sản càng giảm bấy nhiêu.
Khi ta biến đổi ta có công thức:
Hệ số nợ so với tài sản = 1 - Hệ số tài trợ.
Như vậy, có nghĩa là nếu doanh nghiệp muốn giảm hệ số nợ thì phải
tăng hệ số tài trợ.
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát: khác với mục đích sử dụng khi
đánh giá khái quát khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp. Trong
trường hợp này chỉ tiêu này có mục đích đánh giá chính sách sử dụng vốn của
doanh nghiệp.
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát=Tổng tài sản/ Tổng nợ phải trả
Khi chỉ tiêu này bằng 1 thì có nghĩa là toàn bộ tài sản của doanh nghiệp
được tài trợ bằng nợ phải trả,và điều này cũng có nghĩa là vốn chủ sở hữu của
doanh nghiệp bằng 0.
45. 31
Khi chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp sử dụng cả nợ
phải trả và vốn chủ sở hữu để tài trợ tài sản. Trị số này càng lớn thì có nghĩa
là mức độ tham gia tài trợ cho tài sản của doanh nghiệp từ nợ phải trả càng
giảm và ngược lại.
Khi chỉ tiêu này nhỏ hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp đang trong tình
trạng thua lỗ, số lỗ lũy kế lớn hơn toàn bộ vốn chủ sở hữu, dẫn đến vốn chủ
sở hữu bị âm.
- Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu: là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu
tư tài sản của doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu.
Hệ số tài sản so với vốn chủ sở hữu =Tổng tài sản/Vốn chủ sở hữu
Khi chỉ tiêu này lớn hơn 1 thì có nghĩa là doanh nghiệp sử dụng cả vốn
chủ sở hữu và nợ phải trả để tài trợ cho tài sản. Chỉ tiêu này càng lớn bao
nhiêu thì mức độ sử dụng nợ phải trả để tài trợ cho tài sản càng cao bấy nhiêu
và ngược lại.
Khi chỉ tiêu này nhỏ hơn 0 thì có nghĩa là nợ phải trả được doanh
nghiệp sử dụng vừa đủ đề bù lỗ và vừa để trang trải cho tài sản hoạt động.
Khi xem xét cơ cấu nguồn vốn sẽ cho nhà phân tích thấy được những
nét đặc trưng trong chính sách huy động và sử dụng vốn của doanh nghiệp
cũng như xác định tính hợp lý và an toàn trong việc huy động vốn của
doanh nghiệp.
2.4.2. Phân tích tình hình bảo đảm vốn cho hoạt động kinh doanh
Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh chính là
việc xem xét mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của
doanh nghiệp. Mối quan hệ này phản ánh cân bằng tài chính của doanh
nghiệp. Vì thế, phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh chính là phân tích cân bằng tài chính của doanh nghiệp.
Cân bằng tài chính của doanh nghiệp thường được xem xét dưới góc độ
luân chuyển vốn và góc đội ổn định nguồn tài trợ.
46. 32
2.4.2.1. Phân tích cân bằng tài chính dưới góc độ luân chuyển vốn
Xét theo quan điểm luân chuyển vốn, tài sản ban đầu (gồm tài sản ngắn
hạn ban đầu và tài sản dài hạn ban đầu) của doanh nghiệp được hình thành
trước hết bằng nguồn vốn chủ sở hữu; nghĩa là, doanh nghiệp sử dụng số vốn
chủ sở hữu của mình để tài trợ tài sản ban đầu phục vụ cho hoạt động kinh
doanh. Số tài sản ban đầu được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu này không bao
gồm số tài sản trong thanh toán (khoản bị chiếm dụng). Mối quan hệ này thể
hiện qua đẳng thức:
Vốn CSH = TSNH ban đầu + TSDH ban đầu
Cân đối này chỉ mang tính lý thuyết, nghĩa là với nguồn vốn chủ sở
hữu, doanh nghiệp đủ trang trải các loại tài sản ban đầu phục vụ cho các hoạt
động chủ yếu mà không phải đi vay hoặc chiếm dụng. Trong thực tế thường
xảy ra các trường hợp sau:
- Vế trái > Vế phải: Với số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp lớn hơn
số tài sản ban đầu. Do vậy, số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp dư thừa,
không sử dụng hết nên sẽ bị chiếm dụng.
- Vế trái < Vế phải: Với số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp nhỏ hơn
tài sản ban đầu. Do vậy, để có số tài sản ban đầu phục vụ cho các hoạt động
kinh doanh, doanh nghiệp phải đi vay hoặc chiếm dụng vốn từ bên ngoài.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, khi vốn chủ sở hữu không đáp
ứng đủ nhu cầu về vốn kinh doanh, doanh nghiệp được phép đi vay để bổ
sung vốn kinh doanh. Do vậy ta có quan hệ cân đối sau:
Vốn CSH + Vốn vay hợp pháp = TSNH ban đầu + TSDH ban đầu
Trên thực tế hầu như cân đối không xảy ra mà thường xảy ra
các trường hợp sau:
- Vế trái > Vế phải: Với số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp hiện
có của doanh nghiệp lớn hơn số tài sản ban đầu, tức là không sử dụng hết số
vốn hiện có. Do vậy, số vốn dư thừa của doanh nghiệp sẽ bị chiếm dụng.
47. 33
- Vế trái < Vế phải: Lượng tài sản ban đầu phục vụ cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp. Do
vậy, để có đủ tài sản phục vụ cho nhu cầu kinh doanh, doanh nghiệp buộc phải
đi chiếm dụng vốn trong thanh toán (chiến dụng hợp pháp và bất hợp pháp).
Mặt khác, do tính chất cân bằng của Bảng cân đối kế toán, tổng số tài
sản luôn luôn bằng tổng số nguồn vốn nên từ cân đối trên chúng ta có cân đối
sau đây:
Vốn CSH + Vốn vay hợp pháp + Nguồn vốn thanh toán = TSNH ban
đầu + TSDH ban đầu + Tài sản thanh toán
Trong đó Nguồn vốn thanh toán là toàn bộ số vốn mà doanh nghiệp đi
chiếm dụng của các đối tác trong thanh toán (kể cả chiếm dụng bất hợp pháp);
Tài sản thanh toán về thực chất là số tài sản của doanh nghiệp nhưng bị các
đối tác chiếm dụng, doanh nghiệp có trách nhiệm phải thu hồi.
Cân đối trên có thể biến đổi về cân đối như sau:
Vốn CSH + Vốn vay hợp pháp – Tài sản ban đầu (TSNH ban đầu và
TSDH ban đầu) = Tài sản thanh toán – Nguồn vốn thanh toán
Cân đối trên cho thấy: số vốn mà doanh nghiệp bị chiếm dụng (phần
chênh lệch giữa vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp pháp lớn hơn số tài sản ngắn
hạn và tài sản dài hạn tương ứng) đúng bằng số chênh lệch giữa số tài sản
phát sinh trong quá trình thanh toán (nợ phải thu ngắn hạn và dài hạn) với
nguồn vốn chiếm dụng trong thanh toán (nợ phải trả ngắn hạn và dài hạn) và
ngược lại; số vốn mà doanh nghiệp đi chiếm dụng (phần chênh lệch giữa số
tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn lớn hơn số vốn chủ sở hữu và vốn vay hợp
pháp) đúng bằng số chênh lệch giữa nguồn vốn chiến dụng trong thanh toán
(công nợ phải trả) với số tài sản phát sinh trong quá trình thanh toán (nợ phải
thu ngắn hạn và dài hạn). Cân đối trên đây thể hiện cân bằng tài chính hay cân
đối giữa tài sản và nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp.
2.4.2.2. Phân tích cân bằng tài chính dưới góc độ ổn định nguồn tài
48. 34
trợ
Xét theo góc độ ổn định về nguồn tài trợ tài sản, toàn bộ nguồn tài trợ
tài sản (nguồn vốn) của doanh nghiệp được chia thành nguồn tài trợ thường
xuyên và nguồn tài trợ tạm thời.
- Nguồn tài trợ thường xuyên: là nguồn vốn mà doanh nghiệp được sử
dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Nguồn tài trợ thường
xuyên bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn vay - nợ dài hạn, trung
hạn (trừ vay, nợ quá hạn).
- Nguồn tài trợ tạm thời: là nguồn vốn mà doanh nghiệp tạm thời sử
dụng vào hoạt động kinh doanh trong khoảng thời gian ngắn. Nguồn tài trợ
tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay - nợ
quá hạn kể cả các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, người mua,
của người lao động...
Dưới góc độ này, cân bằng tài chính được thể hiện qua đẳng thức:
TSNH + TSDH = Nguồn tài trợ thường xuyên + Nguồn tài trợ tạm thời
Các nguồn vốn bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh (nguồn tài
trợ tài sản) của doanh nghiệp được thể hiện khái quát qua bảng 2.1:
Bảng 2.1 : Các nguồn tài trợ tài sản của doanh nghiệp
50. 36
Biến đổi cân bằng tài chính ở trên ta được:
TSNH – Nguồn tài trợ tạm thời = Nguồn tài trợ thường xuyên – TSDH
Khi phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn, người phân tích
cũng cần chú trọng đến vốn hoạt động thuần (còn gọi là vốn ngắn hạn thường
xuyên) là số vốn mà doanh nghiệp không cần phải vay mượn hay đi chiếm dụng,
được sử dụng để duy trì những hoạt động bình thường, diễn ra thường xuyên tại
doanh nghiệp. Vốn hoạt động thuần có thể tính theo một trong hai cách sau:
Vốn hoạt động thuần = Tài sản ngắn hạn - Nợ ngắn hạn
Hoặc :
Vốn hoạt động thuần= Nguồn tài trợ thường xuyên - Tài sản dài hạn
Nếu vốn hoạt động thuần lớn hơn 0 thì đây là dấu hiệu tài chính bình
thường hay khả quan, thể hiện sự cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nguồn vốn
ngắn hạn hoặc cân đối giữa nguồn vốn dài hạn với tài sản dài hạn. Cân bằng
tài chính trong trường hợp này gọi là cân bằng tốt.
Ngược lại nhỏ hơn 0 sẽ thể hiện một sự mất cân đối giữa tài sản ngắn
hạn và nợ ngắn hạn và mất cân đối giữa nguồn tài trợ thường xuyên với tài
sản dài hạn. Điều này chỉ ra rằng doanh nghiệp dùng nguồn tài trợ tạm thời
cho cả tài sản dài hạn và nếu tình trạng này kéo dài thì có thể dẫn đến tình
trạng tài chính của doanh nghiệp có thể mất dần và đi đến bờ vực phá sản. Và
tất nhiên, cân bằng tài chính trong trường hợp này là cân bằng xấu.
Ngoài ra, khi phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động
kinh doanh, để có nhận xét các đáng và chính xác về tình hình đảm bảo vốn,
các nhà phân tích còn tính ra và so sánh các chỉ tiêu sau:
+ Hệ số tài trợ thường xuyên: Hệ số này cho biết, so với tổng nguồn
vốn của doanh nghiệp, nguồn tài trợ thường xuyên chiếm mấy phần. Trị số
này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về tài chính càng cao và ngược lại
+ Hệ số tài trợ tạm thời: Nguồn tài trợ tạm thời là nguồn vốn doanh nghiệp
sử dụng vào hoạt động kinh doanh trong một thời gian ngắn. Nguồn vốn này bao
51. 37
gồm : vay nợ ngắn hạn, vay nợ quá hạn và các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của
người bán, người mua, người lao động (mua hàng mà không có thanh toán, bán
hàng mà không giao hàng, thuê công nhân mà không trả lương...).
Tương tự như hệ số tài trợ thường xuyên, hệ số tài trợ tạm thời cho biết,
so với tổng nguồn tài trợ, nguồn tài trợ tạm thời chiếm mấy phần. Trị số của
chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ tính ổn định về mặt tài chính của doanh nghiệp
càng thấp và ngược lại.
+ Hệ số vốn chủ sở hữu so với nguồn tài trợ thưòng xuyên
Thông qua chỉ tiêu này, nhà phân tích thấy được trong tổng số nguồn
tài trợ thường xuyên, số vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu. Trị số của chỉ tiêu
này càng lớn thì tính tự chủ và độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp
càng cao và ngược lại.
+ Hệ số tài sản ngắn hạn so với nợ ngắn hạn
Với chỉ tiêu này người phân tích biết mức độ tài trợ tài sản ngắn hạn
bằng nợ ngắn hạn là cao hay thấp. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn hơn 1 thì
tính ổn định, bền vững về tài chính của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
2.4.3. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán
2.4.3.1. Phân tích tình hình công nợ
Tình hình công nợ của doanh nghiệp phản ánh rõ nét chất lượng hoạt
động tài chính của doanh nghiệp. Nếu hoạt động tốt, doanh nghiệp sẽ có ít
công nợ, ít bị chiếm dụng vốn và cũng ít đi chiếm dụng vốn. Ngược lại, nếu
hoạt động tài chính kém, doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với các khoản công
nợ kéo dài. Phân tích tình hình công nợ là việc xem xét tình hình thanh toán
các khoản phải thu, phải trả của doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được
chất lượng và hiệu quả hoạt động tài chính.
a. Phân tích tình hình công nợ phải thu
Các khoản phải thu của doanh nghiệp bao gồm: phải thu của khách hàng,
phải thu người bán, phải thu của người lao động, phải thu khác…Khi phân tích
52. 38
các khoản phải thu này, thường so sánh số cuối kỳ với số đầu kỳ hoặc qua nhiều
thời điểm để thấy quy mô và tốc độ biến động của từng khoản phải thu, cơ cấu
của các khoản phải thu… Các thông tin này là cơ sở để các nhà quản trị doanh
nghiệp đưa ra các quyết định phù hợp cho từng khoản phải thu của mình.
Trong các khoản phải thu, phải thu của khách hàng thường chiếm tỷ
trọng đáng kể, phải thu của khách hàng có ý nghĩa quan trọng đối với tình
hình tài sản của doanh nghiệp. Khi các khoản phải thu của khách hàng có khả
năng thu hồi thì chỉ tiêu giá trị tài sản thuộc Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa
cho quá trình phân tích. Khi chỉ tiêu phải thu của khách hàng không có khả
năng thu hồi thì độ tin cậy của tài sản trên Bảng cân đối kế toán thấp ảnh
hưởng đến quá trình phân tích. Do vậy phân tích tình hình phải thu của khách
hàng ta thường thông qua hệ thống sổ chi tiết công nợ của từng khách hàng và
các chỉ tiêu tài chính sau:
- Số vòng quay phải thu của khách hàng:
Số vòng quay phải thu của khách hàng = Tổng tiền hàng bán
chịu(doanh thu hoặc doanh thu thuần)/Số dư bình quân phải thu khách hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích các khoản phải thu quay được
bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi tiền
hàng kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này cao quá có
thể phương thức thanh toán tiền của doanh nghiệp quá chặt chẽ, khi đó sẽ ảnh
hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ.
Số dư bình quân phải thu khách hàng được tính như sau:
Số dư bình quân phải thu của khách hàng = Số dư phải thu khách hàng
đầu kỳ và cuối kỳ/ 2
- Thời gian của một vòng quay các khoản phải thu khách hàng
Thời gian của một vòng quay các khoản phải thu khách hàng = Thời
gian kỳ phân tích/ Số vòng quay phải thu khách hàng
Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ tốc độ thu hồi tiền càng nhanh, doanh
53. 39
nghiệp ít bị chiếm dụng vốn và ngược lại.
b. Phân tích tình hình công nợ phải trả
Các khoản phải trả bao gồm: phải trả người bán, phải trả người lao
động, các khoản phải nộp Nhà nước, phải trả tiền vay, phải trả khác…Khi
phân tích các khoản phải trả, ta thường so sánh số cưối kỳ với số đầu kỳ hoặc
so sánh qua nhiều thời điểm liên tiếp để có thể thấy quy mô và tốc độ tăng
giảm của từng khoản phải trả, cơ cấu của từng khoản phải trả. Các thông tin
từ kết quả phân tích chính là cơ sở để nhà quản trị đưa ra các quyết định phù
hợp với các khoản phải trả của mình
Trong các khoản phải trả, phải trả nhà cung cấp thường có ý nghĩa quan
trọng đối với khả năng thanh toán và uy tín của doanh nghiệp. Khi các khoản
phải trả người bán không có khả năng thanh toán, dấu hiệu rủi ro tài chính
xuất hiện, uy tín của doanh nghiệp giảm sút. Khi các khoản phải trả được
thanh toán đúng hạn, uy tín của doanh nghiệp tăng cao, góp phần xây dựng
thương hiệu của doanh nghiệp. Mặt khác, nó cũng thể hiện được tiềm lực của
doanh nghiệp. Do đó, phân tích các khoản phải trả người bán là nội dung quan
trọng trong việc phân tích tình hình công nợ của doanh nghiệp.Việc phân tích
này có thể được thực hiện thông qua các chỉ tiêu sau:
- Số vòng quay phải trả người bán
Số vòng quay phải trả người bán = Tổng số tiền hàng mua chịu (giá
vốn hàng bán) / Số dư bình quân các khoản phải trả người bán (2.33)
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích các khoản phải trả quay
được bao nhiêu vòng. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ doanh nghiệp thanh
toán tiền hàng kịp thời, ít chiếm dụng vốn, uy tín của doanh nghiệp tăng
cao. Ngược lại, chỉ tiêu này càng thấp chứng tỏ tốc độ thanh toán tiền hàng
càng chậm, doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn nhiều, ảnh hưởng tới uy tín
của doanh nghiệp.
- Số dư bình quân các khoản phải trả người bán được tính như sau:
54. 40
Số dư bình quân các khoản phải trả người bán = Số dư phải trả người
bán đầu kỳ và cuối kỳ / 2
Bên cạnh đó ta còn xác định thời gian của một vòng quay các khoản
phải trả người bán thông qua chỉ tiêu: thời gian một vòng quay phải trả
người bán:
Thời gian 1 vòng quay phải trả người bán = Thời gian kỳ phân tích /
Số vòng quay phải trả người bán
Chỉ tiêu này càng ngắn chứng tỏ khả năng thanh toán tiền hàng càng
nhanh, doanh nghiệp ít chiếm dụng vốn của các đối tác. Ngược lại, thời
gian của một vòng quay càng dài, chứng tỏ khả năng thanh toán chậm, số vốn
đi chiếm dụng nhiều ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.
c. Phân tích mối quan hệ công nợ phải thu và công nợ phải trả
Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tồn tại quan
hệ phải thu, phải trả là một tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường.
Quan hệ này phụ thuộc vào những nhân tố như đặc điểm hoạt động sản xuất
kinh doanh, cơ chế tài chính của doanh nghiệp, môi trường tài chính… Để
phân tích rõ bản chất công nợ phải thu và công nợ phải trả ta có thể sử dụng
các chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản phải trả (%):
Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản nợ phải trả =Các khoản
phải thu x 100% / Các khoản phải trả
Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với
các khoản đi chiếm dụng. Nếu tỷ lệ này lớn hơn 50% chứng tỏ doanh nghiệp
bị chiếm dụng vốn, còn nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 50% chứng tỏ doanh nghiệp đi
chiếm dụng vốn của doanh nghiệp khác.
- Tỷ suất nợ phải trả tổng quát (%):
Tỷ suất nợ phải trả tổng quát = Tổng số nợ phải trả x 100% / Tổng
nguồn vốn (Tổng tài sản)