SlideShare a Scribd company logo
1 of 108
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH SÁNG
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN ĐÌNH SÁNG
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dũng
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn §×nh S¸ng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
9
1.1. Chất thải nguy hại và quy định của pháp luật về quản lý chất
thải nguy hại
9
1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại 9
1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại 11
1.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ
luật hình sự Việt Nam
16
1.2.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến
nay về các tội phạm môi trường nói chung và tội vi phạm quy
định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng
16
1.2.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ
luật hình sự Việt Nam hiện hành
21
1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý chất
thải nguy hại và phân biệt tội này với một số tội phạm gây ô
nhiễm môi trường khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam
34
1.3. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia về tội vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
38
1.3.1. Kinh nghiệm của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) 39
1.3.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức 41
5
1.3.3. Kinh nghiệm của Liên bang Nga 44
1.3.4. Kinh nghiệm của Cộng hòa Singapore 45
Chương 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM VÀ TÌNH HÌNH XỬ LÝ VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY
HẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
48
2.1. Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, xã hội của Hà Nội có
liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường
48
2.1.1. Một số đặc điểm về diện tích, dân số 48
2.1.2. Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, xã hội của Hà Nội có
liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và chất thải nguy hại
49
2.2. Thực trạng vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
trên địa bàn thành phố Hà Nội
52
2.3. Thực tiễn xử lý hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải
nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội
56
2.3.1. Thực tiễn xử lý vi phạm hành chính 56
2.3.2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hành vi vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội và
những vướng mắc, bất cập
63
Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY
ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ CÁC
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ ĐỐI
VỚI TỘI PHẠM NÀY
69
3.1. Sự cần thiết và định hướng hoàn thiện các quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về quản lý chất
thải nguy hại
69
3.1.1. Sự cần thiết 69
3.1.2. Những định hướng hoàn thiện 70
3.2. Một số định hướng hoàn thiện Bộ luật hình sự về tội vi phạm
quy định về quản lý chất thải nguy hại
77
6
3.2.1. Về khái niệm tội phạm 77
3.2.2. Về dấu hiệu cấu thành tội phạm 81
3.2.3. Về chủ thể của tội phạm 82
3.2.4. Về các hình phạt áp dụng 84
3.3. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có liên
quan đến hoạt động xử lý tội vi phạm quy định về quản lý
chất thải nguy hại
86
3.3.1. Về các biện pháp ngăn chặn 86
3.3.2. Về yêu cầu đối với Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến
hành tố tụng
87
3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
88
3.4.1. Kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực áp dụng pháp luật của
các cơ quan quản lý môi trường và cơ quan tư pháp
88
3.4.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức của cộng
đồng trong việc thực hiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại
89
3.4.3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý chất thải nguy hại 90
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
7
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS : Bộ luật hình sự
BVMT : Bảo vệ môi trường
CCN : Cụm công nghiệp
CTNH : Chất thải nguy hại
KCN : Khu công nghiệp
PLHS : Pháp luật hình sự
QLCTNH : Quản lý chất thải nguy hại
TNHS : Trách nhiệm hình sự
8
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
nói chung
58
2.2 Tình hình xử phạt hành chính trong lĩnh vực QLCTNH 61
9
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường sống đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia. Phát triển kinh
tế, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân gắn với bảo vệ
môi trường (BVMT) sống trong lành, không bị ô nhiễm là bài toán đặt ra cho
mọi quốc gia, nhất là các quốc gia đang trong giai đoạn đẩy nhanh quá trình
phát triển, trong đó có Việt Nam. Thực tế cho thấy, sự ô nhiễm, suy thoái và
những sự cố môi trường diễn ra ở mức độ ngày càng nguy hiểm, đang đặt con
người đối mặt với những thảm họa thiên nhiên tàn khốc như sự nóng dần lên
của vỏ trái đất, thảm họa sóng thần, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt ,
hạn hán v .v... Vì vậy, vấn đề BVMT đã trở nên vô cùng cấp thiết được các
quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, Việt Nam là một
trong năm quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự nóng lên
của vỏ trái đất và sự biến đổi khí hậu. Do vậy, vấn đề BVMT ở nước ta cần được
đặc biệt quan tâm và được hành động một cách quyết liệt và cấp thiết hơn.
Những thảm họa thiên nhiên gần đây diễn ra ngày càng liên tục với
mức tàn phá ngày càng cao. Để xảy ra những thảm họa này thì có rất nhiều
nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu từ sự tác động của
con người vào tự nhiên như: phá rừng, khí thải gây hiệu ứng nhà kính và hành
vi thải các chất thải ô nhiễm ra môi trường. Trong số các chất thải ra môi
trường có các chất thải nguy hại (CTNH). CTNH là một trong những dạng
chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nhất, theo khoản 2 Điều 3
Quy chế quản lý chất thải nguy hại (QLCTNH) do Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành thì "chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có
một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ
ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc tương tác với
các chất khác gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe con người" [10].
10
Ở Việt Nam, như đã khẳng định ở trên, với đặc thù là một quốc gia
đang phát triển với tốc độ công nghiệp hóa cao, vấn đề BVMT chưa thực sự
được quan tâm nên các vi phạm quy định về QLCTNH ngày càng gia tăng với
tính chất ngày một nghiêm trọng. Tuy nhiên khung pháp lý để quản lý và xử
phạt các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về QLCTNH chưa thực sự
hoàn thiện. Bên cạnh đó, sự yếu kém trong khâu triển khai thực hiện làm cho
tình hình ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm do CTNH gây nên ngày
càng nghiêm trọng.
Thành phố Hà Nội là thủ đô và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội của cả nước, với tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh. Số lượng
các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) ở Hà Nội nằm trong
tốp dẫn đầu cả nước. Chính vì vậy, thực trạng vi phạm quy định về quản lý
môi trường nói chung trong đó có vi phạm pháp luật về QLCTNH ở Hà Nội
đang diễn biến ngày càng phức tạp. Theo số liệu của Phòng Cảnh sát điều tra
tội phạm về môi trường Công an thành phố Hà Nội (PC 49) thì hàng năm số
vụ vi phạm quy định về QLCTNH bị xử phạt bình quân khoảng 50-60 vụ trên
năm, với tính chất và mức độ nghiêm trọng.
Trong khung pháp lý về QLCTNH và xử lý vi phạm quy định về
QLCTNH thì pháp luật hình sự luôn giữ một vai trò quan trọng. Các quy định
về tội phạm môi trường nói chung và quy định về tội vi phạm quy định về
QLCTNH nói riêng luôn là những quy định mang tính chất nghiêm khắc nhất
để răn đe, trừng trị và giáo dục đối với những đối tượng có hành vi vi phạm
quy định về QLCTNH.
Trước tình hình vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là vi phạm
quy định về QLCTNH diễn ra ngày càng nghiêm trọng, Nhà nước ta đang
dùng nhiều biện pháp để phòng ngừa và xử lý hành vi vi phạm. Trong số các
biện pháp xử lý, ngoài biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo quy định
của Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành, Quốc hội nước Cộng hòa xã
11
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6
năm 2009 đã sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, cụ thể là
quy định bổ sung nhiều tội phạm về môi trường. Điều này thể hiện thái độ
cương quyết của Nhà nước nhằm ngăn chặn loại hành vi vi phạm này.
Trong số những tội phạm về môi trường được quy định bổ sung có
"tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại". Theo đó, "Người nào vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác,...". Đây là công cụ pháp lý quan
trọng nhằm răn đe và phòng ngừa hành vi vi phạm quy định về QLCTNH.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý đối với các hành vi vi phạm quy
định về QLCTNH chưa thật sự đạt hiệu quả. Theo thống kê của các cơ quan
chức năng, trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 2010 - 2014, vì những nguyên
nhân khác nhau mà các cơ quan chức năng chưa khởi tố được một vụ vi phạm
quy định về QLCTNH nào, mặc dù tình trạng vi phạm luôn có dấu hiệu gia
tăng. Việc phát hiện, xử lý nhiều vụ việc vi phạm quy định về QLCTNH chỉ
dừng lại ở mức độ xử lý hành chính. Nguyên nhân của tình trạng này có thể
xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, nhưng theo
quan điểm của chúng tôi, một trong những nguyên nhân quan trọng là sự chưa
hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống pháp luật, trong đó có luật xử lý vi phạm
hành chính và các quy định của BLHS về QLCTNH.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS về
tội vi phạm quy định về QLCTNH và nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội
phạm này đang là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, đặc biệt trên địa bàn
thành phố Hà Nội.
Cũng cần nói thêm, để hoàn thiện các quy định của BLHS, cần phải
được nghiên cứu trong một thể thống nhất với các quy định của cả hệ thống
pháp luật về QLCTNH, của luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực gây
ô nhiễm môi trường và QLCTNH cũng như các quy định của BLHS. Đó là lý
12
do giải thích vì sao mặc dù đây là một luận văn chuyên ngành luật hình sự và
tố tụng hình sự nhưng tác giả đề cập đến hệ thống pháp luật nói chung về loại
hành vi này.
Từ những sự phân tích trên, tác giả chọn đề tài "Tội vi phạm quy định
về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở
nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn tốt
nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm môi trường nói chung đã có
một số bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: Bài viết "Lực
lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác
bảo vệ môi trường" của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Công an
(6/2007); Bài viết "Công tác phòng, chống tội phạm về môi trường trong thời
kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng
Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cấp Nhà nước "Những vi
phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phòng, chống" do Thiếu
tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân
(2006) làm chủ nhiệm; Đề tài Khoa học "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường" do TS.
Phạm Văn Lợi, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003)
làm chủ nhiệm,
Ngoài ra, vấn đề các tội phạm về môi trường còn phần nào được đề
cập trong các giáo trình luật hình sự của các trường đại học luật như: Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam, (Tập II), của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, 2009; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Học viện
Tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận khoa
13
học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 2002 v.v...
Tuy nhiên, có thể do mới được quy định hoặc do nhiều nguyên nhân
khác nhau mà tội vi phạm quy định về QLCTNH vẫn chưa được các nhà
nghiên cứu nghiên cứu một cách chuyên sâu và tính cho tới thời điểm hiện tại
chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ viết về đề tài này, đặc
biệt là nghiên cứu trên một địa bàn rộng về diện tích cũng như lớn về quy mô
dân số và đa dạng về các loại hình KCN, CCN như ở thành phố Hà Nội. Như
vậy, một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" mang tính khách quan và cấp thiết.
Mặc dù là một đề tài nghiên cứu trên một địa bàn nhất định là thủ đô
Hà Nội, nhưng với sự đa dạng về loại hình KCN (lớn, vừa và nhỏ), với quy mô
lớn về mặt dân số nên đề tài cũng góp phần làm cơ sở chung cho việc nắm bắt
đặc điểm tình hình vi phạm của loại hành vi này tại các loại hình KCN khác
nhau trên một số địa phương trong cả nước, góp phần đấu tranh phòng chống
loại tội phạm này nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc thực hiện nghiên cứu đề tài "Tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" mục đích của luận văn nhằm làm rõ
những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về QLCTNH như khái niệm,
đặc điểm của CTNH và QLCTNH đặc biệt là khái niệm, các dấu hiệu pháp lý
của tội vi phạm quy định về QLCTNH; Qua nghiên cứu về thực tiễn áp dụng
việc xử lý đối với tội phạm vi phạm quy định về QLCTNH, luận văn chỉ ra
những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng để làm cơ sở cho việc đề
xuất các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện về các quy định trong BLHS để
14
đảm bảo vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với tội phạm này,
qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
này trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đảm bảo đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập
trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Dựa trên những quan điểm, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
hình sự về tội vi phạm quy định về QLCTNH, luận văn tổng hợp, phân tích và
làm rõ một số khía cạnh về tội vi phạm quy định về QLCTNH như: Khái
niệm của tội vi phạm quy định về QLCTNH; phân biệt hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực QLCTNH với hành vi phạm tội vi phạm quy định về
QLCTNH và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác về môi trường,
nghiên cứu quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH tại một số quốc gia
khác nhằm phân tích, đánh giá để học hỏi kinh nghiệm lập pháp;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội vi phạm quy định về QLCTNH
trong BLHS hiện hành của Việt Nam từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm
quy định về QLCTNH trên địa bàn thành phố Hà Nội để làm cơ sở chỉ ra
những tồn tại, hạn chế qua việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân cơ
bản của nó;
- Tổng hợp lại toàn bộ kết quả quá trình nghiên cứu và đề xuất những
nội dung hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam để có cơ sở xử lý
TNHS đối với các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung mà luận văn xác định bao gồm: khái
niệm, cơ sở lý luận và phân biệt với một số tội phạm về môi trường khác; quy
định về tội vi phạm quy định về QLCTNH trong luật hình sự Việt Nam và ở
một số nước trên thế giới; thực trạng vi phạm quy định về QLCTNH và tình
15
hình xử lý vi phạm các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn
thành phố Hà Nội; những hạn chế, bất cập trong BLHS và đề xuất những nội
dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các quy định hiện hành về
CTNH và QLCTNH đặc biệt là quy định về tội vi phạm về QLCTNH trong
BLHS Việt Nam năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Về phạm vi
lãnh thổ, đề tài nghiên cứu tình hình xử lý hành vi vi phạm quy định về
QLCTNH trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 5 năm từ 2010 - 2014.
3.4. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm quy định về QLCTNH
và thực trạng vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Qua đó đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt
Nam hiện hành về tội này.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu… nhằm phân tích các
tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu mà đề
tài đặt ra.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Tính cho tới thời điểm hiện tại, đây là công trình nghiên cứu khoa học
đầu tiên ở cấp độ của một luận văn thạc sĩ luật học về tội vi phạm quy định về
QLCTNH theo quy định của BLHS Việt Nam, đặc biệt đề tài nghiên cứu trên
một địa phương nhất định là Hà Nội nên kết quả nghiên cứu của luận văn có ý
nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Điểm mới của luận văn gồm:
16
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về
QLCTNH được quy định trong luật hình sự Việt Nam;
- Chỉ ra được những vướ ng mắc, bất cập của các quy định hiện hành
liên quan đến tội vi phạm quy định về QLCTNH trong việc áp dụng trên địa
bàn thành phố Hà Nội;
- Tổng hợp chi tiết những nguyên nhân chính gây khó khăn trong việc
áp dụng quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH trên thực tế của
BLHS Việt Nam hiện hành;
- Đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt
Nam hiện hành về tội này.
- Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những
người nghiên cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến
lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có quan tâm.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vi phạm quy định về quản lý
chất thải nguy hại.
Chương 2: Thực trạng vi phạm và tình hình xử lý vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Một số định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại và các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội phạm này.
17
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1.1. CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN
LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại
Có thể nói rằng, vấn đề BVMT chậm được quan tâm hơn một số lĩnh
vực khác, bởi lẽ phải đến năm 1993 chúng ta mới lần đầu tiên ban hành Luật
BVMT. Tuy nhiên, trước tình hình môi trường bị phá hoại ngày một nghiêm
trọng, vấn đề BVMT trở thành vấn đề nóng nên Đảng và Nhà nước ta đã có
những cải cách rất mạnh mẽ trong lĩnh vực pháp luật về BVMT. Trong số
những lĩnh vực được cải cách mạnh mẽ đó thì những sửa đổi, bổ sung về CTNH
và QLCTNH là một trong những minh chứng rõ nét. Cụ thể, khi ban hành Luật
BVMT 1993, các nhà làm luật mới chỉ nhắc đến chất thải một cách chung chung:
"2- Chất thải là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất
hoặc trong các hoạt động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc các
dạng khác" [45]. Tuy nhiên, khái niệm cụ thể về CTNH vẫn chưa được quy
định cụ thể trong luật, trong giai đoạn này, khái niệm CTNH mới chỉ được
nghiên cứu dưới góc độ của khoa học về BVMT. Điều này có nhược điểm làm
giảm hiệu quả nhất định trong quá trình tăng cường pháp luật trong QLCTNH.
Sau một giai đoạn dài từ khi ban hành Luật BVMT năm 1993, phải
đến năm 1999 thì chúng ta mới có quy định cụ thể về khái niệm CTNH và
khái niệm này được quy định cụ thể tại Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg về
ban hành quy chế QLCTNH.
Xét về khoa học, quá trình hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con
người luôn làm phát sinh ra các loại chất thải. Hiểu một cách đơn giản, chất
thải là những chất không sử dụng được nữa, do con người thải bỏ ra trong
18
hoạt động của mình. Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật BVMT Việt
Nam 2005 thì "Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác" [49]. Từ khái
niệm trên, ta có thể hiểu về chất thải một cách cụ thể như sau:
i) Chất thải tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể như: rắn, lỏng, khí…
Những yếu tố phi vật chất không được coi là chất thải.
ii) Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ. Như vậy, vật chất đó có phải là
chất thải hay không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của chủ sở hữu.
Tuy nhiên, phải loại trừ trường hợp do đặc thù trong hoạt động của mình, chủ
sở hữu phải thải bỏ vật chất và hoạt động thải bỏ này mang tính chất bị động
đối với chủ sở hữu cũng như đối với đối tượng khác. Một vật chất sẽ tồn tại
dưới dạng chất thải từ khi chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp thải ra
cho đến khi nó được đưa vào sử dụng ở một chu trình sản xuất hoặc chu trình
sử dụng khác.
iii) Vật chất này được sản sinh ra từ các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ, sinh hoạt, hoặc các hoạt động khác của con người như: Hoạt
động du lịch, khoa học…[40, tr. 45].
Nếu căn cứ vào mức độ độc hại của chất thải, có thể phân loại chất
thải thành CTNH và chất thải thông thường. Cả hai loại này đều mang những
đặc điểm chung của chất thải. Tuy nhiên, xét về khả năng gây hại trực tiếp
hoặc gián tiếp cho môi trường và con người thì CTNH được coi là có mức độ
độc hại cao hơn hẳn so với chất thải thông thường.
Với sự phát triển của tư duy pháp lý trong thời kỳ mới, cộng thêm sự
thay đổi về nhận thức trong vấn đề BVMT, đến năm 1999, với những thành
tựu phát triển công nghiệp và sự tác động của nó đến môi trường, đòi hỏi phải
kiểm soát nghiêm ngặt về CTNH. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg, để đặt ra Quy chế QLCTNH, trong đó quy
định cụ thể về CTNH tại khoản 2 Điều 3:
19
Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp
chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ
nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy
hại khác) hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại đến môi
trường và sức khỏe con người [10].
Đến năm 2005, định nghĩa này đã được sửa đổi và hoàn thiện hơn với
cách diễn đạt rất ngắn gọn và súc tích tại khoản 11 Điều 3 Luật BVMT 2005.
Theo đó, CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ
ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác [49].
Do tình hình thực tiễn có nhiều thay đổi và một số hạn chế của Luật
BVMT năm 2005 mà Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua ngày
23/6/2014 ban hành Luật BVMT năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015,
luật này quy định: CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây
nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại
khác [54].
Như vậy, khái niệm này cấp độ về sự lây nhiễm và ăn mòn đã được
điều chỉnh tăng, cụ thể: từ mức độ "dễ lây nhiễm" chuyển sang "lây nhiễm";
từ mức độ "dễ ăn mòn" chuyển sang "gây ăn mòn". Hơn nữa, danh mục CTNH
cũng được cập nhật bổ sung kịp thời. Điều này cho thấy, việc BVMT đã trở
lên cấp bách hơn bao giờ hết.
1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại
Đồng thời với việc xác định CTNH, vấn đề QLCTNH cũng được đặt
ra và được cải cách quyết liệt. Năm 1999, vấn đề QLCTNH đã được Nhà
nước rất quan tâm, cụ thể là vào ngày 16/07/1999, Thủ tướng Chính phủ đã
ban hành Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg về ban hành Quy chế QLCTNH
(sau đây gọi là Quy chế QLCTNH), đây được coi là văn bản pháp luật đầu
tiên của Nhà nước ta về QLCTNH. Theo khoản 3 Điều 3 Quy chế QLCTNH
thì: "Quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động kiểm soát chất thải nguy hại
20
trong suốt quá trình từ phát sinh đến thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ,
xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại" [10]. Với quy định này, vấn đề phòng
ngừa, giảm thiểu tác hại của CTNH chưa được đặt ra, đây cũng là thiếu sót
chính trong Quy chế QLCTNH.
Sau một thời gian thực hiện, Quy chế QLCTNH đã bộc lộ những khiếm
khuyết nhất định, làm cho công tác QLCTNH không đạt hiệu quả như mong
muốn. Đến năm 2006, các khiếm khuyết này đã được khắc phục bằng các quy
định trong Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 của Bộ Tài nguyên
và môi trường về hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng
ký, cấp phép hành nghề, mã số QLCTNH (gọi tắt là Thông tư số 12/2006/TT-
BTNMT). Tại mục 2.1, Thông tư 12/2006/TT-BTNMT quy định: QLCTNH
gồm các hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân loại, thu
gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý (kể cả tái chế, thu hồi), tiêu hủy CTNH [1].
Sau 5 năm thực hiện theo Thông tư 12/2006/TT-BTNMT, các quy
định về QLCTNH tiếp tục bộc lộ những bất cập cần phải khắc phục để hoàn
thiện hơn cơ chế QLCTNH trong tình hình mới. Trước yêu cầu đó, ngày
14/4/2011, Bộ Tài nguyên môi trường đã ban hành Thông tư số 12/2011/TT-
BTNMT quy định về QLCTNH (gọi tắt là Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT).
Trong Thông tư 12/2011/TT-BTNMT thì khái niệm QLCTNH được quy định
tại khoản 1 Điều 3 của Thông tư này như sau: QLCTNH là các hoạt động liên
quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân định, phân loại, tái sử dụng trực
tiếp, lưu giữ tạm thời, vận chuyển và xử lý CTNH [4].
Sau một thời gian thực hiện, Thông tư 12/2011/TT-BTNMT cũng đã bộc
lộ một số khiếm khuyết nhất định, dẫn đến công tác QLCTNH chưa đạt hiệu
quả như mong muốn. Mặt khác, Thông tư này được ban hành dựa trên cơ sở
Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã hết hiệu lực. Để tăng cường công tác
quản lý nhà nước về chất thải nguy hại và hoàn thiện quy định về vấn đề này
phù hợp với Luật bảo vệ môi trường mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định
21
số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu (gọi tắt là
Nghị định số 38/2015/NĐ-CP) và Bộ Tài nguyên môi trường ban hành Thông
tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về quản lý chất thải nguy hại (gọi
tắt là Thông tư 36/2015/TT-BTNMT) thay thế Thông tư số 12/2011/TT-
BTNMT. Theo đó, quản lý chất thải nguy hại được pháp luật về môi trường
điều chỉnh với tư cách là một bộ phận nằm trong hệ thống quản lý chất thải và
phế liệu nói chung. Theo Điều 1 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì: "Nghị
định này quy định về: Quản lý chất thải bao gồm chất thải nguy hại, chất thải
rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường, sản phẩm thải lỏng,
nước thải, khí thải công nghiệp và các chất thải đặc thù khác; bảo vệ môi
trường trong nhập khẩu phế liệu" [14]. Như vậy, vấn đề quản lý chất thải
nguy hại được điều chỉnh một cách tổng thể trong văn bản về quản lý chất
thải, phế liệu nói chung. Điều này nhằm phù hợp với thực tế là chất thải nguy
hại chỉ là một dạng chất thải có tính nguy hiểm cao hơn so với các chất thải
thông thường khác.
Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014 thì khái niệm quản lý chất
thải được quy định như sau: "Quản lý chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm
thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý
chất thải" [54]. Quản lý chất thải nguy hại với tư cách là một bộ phận nằm
trong hệ thống quản lý chất thải và phế liệu nói chung, cho nên khái niệm
quản lý chất thải nguy hại được hiểu như sau: "Quản lý chất thải nguy hại là
quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển,
tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nguy hại".
Như vậy, khái niệm QLCTNH lần đầu tiên được quy định tại Quy chế
QLCTNH, sau đó khái niệm này đã quy định tại Khoản 15 Điều 3 Luật bảo vệ
môi trường 2015. Theo quy định hiện tại, khái niệm QLCTNH được diễn đạt
một cách khái quát, rõ ràng, có nội hàm rộng hơn và đầy đủ hơn so với quy
định tại khoản 3 Điều 3 của Quy chế QLCTNH cũng như so với quy định tại
22
mục 2.1 của Thông tư 12/2006/TT-BTNMT và khoản 1 Điều 3 Thông tư
12/2011/TT-BTNMT. Các nhà làm luật đã không coi quản lý chất thải nguy
hại là các hoạt động riêng lẻ liên quan đến chất thải nguy hại nữa mà coi nó là
một quá trình từ phòng ngừa cho đến giảm thiểu và cho đến khâu cuối cùng là
xử lý chất thải nguy hại. Các nhà làm luật đã liệt kê hàng loạt các khâu của
việc QLCTNH theo một quá trình chặt chẽ hơn, bao gồm các khâu phòng
ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái
chế và xử lý CTNH. Như vậy, trách nhiệm quản lý chất thải của cơ quan nhà
nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc QLCTNH không chỉ có từ
khi chất thải đó phát sinh, mà các chủ thể trên còn có trách nhiệm trong việc
phòng ngừa, giảm thiểu và giám sát bằng việc áp dụng mọi biện pháp kĩ thuật
hiện đại, công nghệ tiên tiến… nhằm hạn chế lượng CTNH phát sinh trên
thực tế hoặc chủ động kịp thời ứng phó khi có các sự cố môi trường xảy ra.
Đồng thời không chỉ liên quan đến công tác QLCTNH trực tiếp mà còn ở
dạng thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTNH. Như vậy,
phạm vi quy định về QLCTNH rộng hơn rất nhiều so với các quy định trước
kia, đòi hỏi trách nhiệm của các chủ thể QLCTNH là lớn hơn trong việc
QLCTNH.
Theo quy định trên, quản lý CTNH có những đặc điểm sau:
Một là, trách nhiệm quản lý chất thải thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm
quyền QLCTNH và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các cơ quan nhà nước có
trách nhiệm QLCTNH trong phạm vi chức năng luật định. Các tổ chức, cá nhân
có trách nhiệm QLCTNH là những chủ thể có những hoạt động liên quan trực
tiếp đến CTNH như: chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái
chế, xử lý, tiêu hủy.
Hai là, nội dung quản lý CTNH là các hoạt động mà các cơ quan quản
lý nhà nước về BVMT và các tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện.
Cụ thể là: các cơ quan nhà nước có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện hệ
23
thống pháp luật về QLCTNH, thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời
những sai phạm… các tổ chức, cá nhân có liên quan phải tiến hành những
hoạt động phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển,
tái sử dụng, tái chế và xử lý CTNH.
Quy trình quản lý CTNH được thực hiện theo 5 giai đoạn. Đó là:
Giai đoạn 1: Quản lý nguồn phát sinh CTNH. Đây là việc tiến hành
các biện pháp để QLCTNH ngay tại chính nguồn phát sinh ra chất thải đó.
Kiểm soát CTNH tại nguồn là một công việc khá phức tạp. Cách thông
thường nhất được nhiều quốc gia sử dụng để giải quyết những vấn đề trên là
tiến hành thủ tục đăng ký cấp giấy phép đối với các chủ nguồn thải CTNH,
đặc biệt là trong ngành công nghiệp.
Giai đoạn 2: Phân lập, thu gom và vận chuyển CTNH. Giai đoạn này
được thực hiện bằng việc phân loại, thu gom toàn bộ CTNH tại tất cả các
nguồn phát sinh ra chúng. Sau khi tiến hành việc thu gom, chất thải sẽ được
vận chuyển đến khu xử lý và thải bỏ hoặc đến trạm trung chuyển hay đến nơi
lưu giữ tạm thời.
Giai đoạn 3: Xử lý trung gian. Giai đoạn này được tiến hành bởi những
phương pháp xử lý khác nhau như: xử lý cơ học, xử lý hóa học, sinh học và
nhiệt… nhằm làm giảm khối lượng CTNH, giảm thiểu hoặc loại bỏ độc tính
để phù hợp hơn với khâu thải bỏ cuối cùng.
Giai đoạn 4: Chuyên chở CTNH đi xử lý tiếp. CTNH sau khi xử lý
trung gian sẽ được vận chuyển bằng những phương tiện chuyên dụng đến nơi
xử lý cuối cùng của quy trình.
Giai đoạn 5: Thải bỏ chất thải. Những phần chất thải khi không còn
được tái chế và tái sử dụng sẽ được thải bỏ bằng những cách thức khác nhau
như: chôn lấp hoặc thiêu đốt [55, tr. 79].
Việc quản lý CTNH có thể được thực hiện bằng nhiều công cụ như:
kinh tế, pháp lý, kĩ thuật… trong đó công cụ pháp lý được coi là phương tiện
24
hiệu quả hàng đầu trong công tác QLCTNH, thông qua việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật và hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường.
1.2. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945
đến nay về các tội phạm môi trƣờng nói chung và tội vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại nói riêng
Có thể chia lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
(PLHS) Việt Nam về tội vi phạm quy định về QLCTNH thành ba giai đoạn,
bao gồm: giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất -
BLHS 1985; giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - BLHS 1985 đến khi
đến khi BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; giai đoạn từ khi BLHS
1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đến nay.
1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ
nhất - Bộ luật hình sự năm 1985
Trong giai đoạn trước khi có BLHS năm 1985, do những nguyên nhân
cả chủ quan lẫn khách quan như hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta
khi vừa trải qua một thời gian dài của chiến tranh giành độc lập, điều kiện
kinh tế xã hội còn khó khăn v.v… nên những quy định của pháp luật về
BVMT khỏi sự ô nhiễm chưa được quan tâm, chú trọng nhiều. Từ những năm
1960, vấn đề BVMT đã được Nhà nước ta quan tâm thông qua các chủ
trương, chính sách như: Chỉ thị số 07/TTg ngày 16/01/1964 về việc thu tiền
bán khoán lâm sản và chi tiền nuôi rừng; Pháp lệnh quy định bảo vệ rừng
ngày 11/9/1972... Đến những năm 1980 vấn đề BVMT nói chung được đạo
luật cao nhất của Nhà nước là Hiến pháp 1980 quy định tại Điều 36: "Các cơ
quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân
đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống" [42]. Đánh giá một
25
cách khái quát, PLHS nước ta giai đoạn 1945 đến trước năm 1985 có thể thấy
mặc dù chưa đầy đủ, nhưng ở mức độ nhất định đã có những quy định khá cụ
thể và chặt chẽ trong việc BVMT ở một số lĩnh vực nhất định. Tuy nhiên, do
những hạn chế khách quan của điều kiện kinh tế, xã hội nên môi trường với
tính chất và tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật
và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại
chưa thực sự được nhận thức một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành cũng như
yêu cầu của việc BVMT. Do vậy, trong lĩnh vực lập pháp, các quy định về
BVMT nói chung và pháp luật hình sự nói riêng chưa được nhận thức một
cách đầy đủ và khái quát thành một khách thể nhóm với tư cách là đối tượng
được bảo vệ đầy đủ của pháp luật hình sự. Trong giai đoạn này, tội vi phạm
quy định về QLCTNH chưa được quy định.
1.2.1.2. Giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình
sự 1985 đến khi Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009
Trong thời gian từ năm 1985 đến năm 1999, thời kỳ này nền kinh tế
của đất nước đang hồi phục, quá trình đô thị hóa, sự sử dụng rộng rãi các loại
hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật; nạn phá rừng tràn lan đã làm mất cân bằng
sinh thái trầm trọng... đã làm vấn đề BVMT trở thành thách thức lớn của xã
hội [29, tr. 51]. Đứng trước những yêu cầu về BVMT khỏi sự ô nhiễm, Nhà
nước ta đã quy định trong BLHS năm 1985 một số hành vi xâm hại đến các
yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm và cá nhân vi
phạm sẽ bị truy cứu TNHS. Đây là lần đầu tiên vấn đề BVMT được ghi nhận
trong BLHS, tuy nhiên vấn đề này chưa được quy định trong một chương riêng
biệt trong BLHS mà nó được ghi nhận tại 4 điều luật trong các chương VIII
"các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính" và
chương VII "các tội phạm về kinh tế" đó là: Điều 180 - Tội vi phạm các quy
định về quản lý và bảo vệ đất đai, Điều 181 - Tội vi phạm các quy định về
quản lý bảo vệ rừng, Điều 195 - Tội vi phạm các quy định về BVMT gây hậu
26
quả nghiêm trọng, Điều 216 - Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích
lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên,
việc quy định này còn rất sơ sài, không được hệ thống hóa, tập trung với tính
chất là một chương riêng biệt đối với các tội phạm về môi trường, đồng thời,
có thể các nhà làm luật lúc này chủ yếu là nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế
của các nguồn tài nguyên này mà chưa chú ý đến khía cạnh sinh thái của
chúng. Có thể dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường
được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là
những tội phạm về môi trường.
Hiến pháp 1992 ra đời trong hoàn cảnh vấn đề BVMT ngày càng được
dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Nếu như, Hiến pháp 1980 quy định
việc BVMT chỉ dừng lại ở mức độ "nghĩa vụ" đối với mọi công dân, các cơ
quan, đơn vị, thì đến bản Hiến pháp năm 1992, đã thể hiện một mức độ quyết
liệt hơn, nghiêm khắc hơn, cụ thể: "Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt
tài nguyên và hủy hoại môi trường" [44, Điều 29].
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 trong lĩnh vực BVMT,
Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hóa việc BVMT
như: Luật Đất đai năm 1993, Luật BVMT năm 1993; Nghị định số 26/CP ngày
26/4/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về BVMT v.v...
Do BLHS năm 1985 được xây dựng và ban hành trước thời kỳ đổi
mới, trong khi tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ta có những bước phát
triển và tiến bộ vượt bậc, xã hội phát sinh thêm nhiều quan hệ xã hội, các
hành vi vi phạm pháp luật môi trường diễn ra rất nhiều hình thức khác nhau
như không thực hiện các quy định về đánh giá tác động môi trường, vi phạm
các quy định về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vi phạm các quy
định về xuất khẩu công nghệ, thiết bị, chất thải, hóa chất độc hại....các hành vi
mới này không được quy định trong BLHS năm 1985 mà chỉ được quy định
và bị xử lý theo các Nghị hướng dẫn của Chính phủ nên không đủ sức ngăn
27
chặn các hành vi gây hại cho môi trường. Đây chính là những hạn chế đã
được các nhà làm luật phát hiện, đánh giá, phân tích và bổ sung các loại tội
phạm mới về BVMT trong lần pháp điển hóa lần thứ hai - BLHS năm 1999.
Theo cách quy định của BLHS năm 1999, các nhà làm luật đã rất coi
trọng vấn đề này và lần đầu tiên các tội phạm về môi trường được ghi nhận tại
một chương riêng - Chương XVII của BLHS năm 1999, với 10 điều luật quy
định khá cụ thể và chi tiết các hành vi xâm hại đến môi trường, cụ thể: Tội
gây ô nhiễm không khí (Điều 182); Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183);
Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184); Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị,
phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn BVMT (Điều 185); Tội làm
lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186); Tội làm lây lan dịch bệnh
nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187); Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản
(Điều 188); Tội hủy hoại rừng (Điều 189); Tội vi phạm các quy định về bảo
vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190). Trong giai đoạn này, hành vi vi
phạm quy định về QLCTNH chưa được quy định trong BLHS mà hành vi vi
phạm quy định về QLCTNH chỉ được quy định tại văn bản của Thủ tướng
Chính phủ ở cấp độ Quyết định.
1.2.1.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 cho đến nay
Trải qua gần mười năm thi hành, một số quy định của BLHS năm
1999 về tội phạm môi trường nói chung, các loại tội phạm gây ô nhiễm môi
trường nói riêng đã phát sinh một số hạn chế, vướng mắc và bất cập, chưa đáp
ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình
mới, nhất là việc tăng cường hội nhập quốc tế và quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, việc sửa đổi bổ sung một số quy
định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về môi trường là một việc làm
cần thiết. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong giai đoạn này trở nên một vấn đề
rất nghiêm trọng tại Việt Nam, hàng loạt các vụ sai phạm về QLCTNH như
28
vụ công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải không qua quy trình xử lý, Vụ chôn
lấp trái phép CTNH của công ty Nicotex Thanh Thái... đã dấy lên hồi chuông
cảnh tỉnh về vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Đặc biệt theo cảnh báo
của các tổ chức quốc tế trong Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu thì Việt
Nam là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc
biến đổi khí hậu.
Trước tình hình đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 là tiếp tục hoàn thiện, bổ
sung các tội phạm về môi trường trong BLHS để đấu tranh, phòng, chống có
hiệu quả đối với các hành vi vi phạm này.
Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định
11 tội danh ta ̣i chương XVII: Các tội phạm về môi trường, cụ thể:
+ Điều 182 Tội gây ô nhiễm môi trường.
+ Điều 182a Tội vi phạm các quy định về QLCTNH.
+ Điều 182b Tội vi phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường.
+ Điều 185 Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam.
+ Điều 186 Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho con người.
+ Điều 187 Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật.
+ Điều 188 Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản.
+ Điều 189 Tội hủy hoại rừng.
+ Điều 190 Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh
mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ.
+ Điều 191 Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên.
+ Điều 191a Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại [51].
Bộ luật hình sự năm 1999, sử a đổi, bổ sung năm 2009 đã bổ sung một
số tội mới do thực tế đòi hỏi cần phải được quy đi ̣nh , trong đó có tội vi phạm
quy định về QLCTNH. Đây là lần đầu tiên, hành vi vi phạm quy định về
QLCTNH được quy định trong BLHS.
29
Ở lần sửa đổi này, với việc quy định thành một danh mới thể hiện sự tiến
bộ về mặt kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc
trong việc xử lý các hành vi vi phạm về QLCTNH. Mặt khác, cũng cho thấy sự
phù hợp giữa Luật BVMT năm 2005 với BLHS. Đặc biệt, chủ thể của tội phạm
này là người có trách nhiệm trong việc QLCTNH, với quy định của điều luật
này góp phần tăng cường hơn nữa trách nhiệm của họ trong phạm vi nhiệm vụ
của mình. Công tác quản lý là một khâu mang tính chất tiền đề mà nếu thực
hiện tốt hoạt động này mới có thể hạn chế, ngăn chặn những hành vi vi phạm
pháp luật môi trường nói chung và trong lĩnh vực QLCTNH nói riêng.
1.2.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ
luật hình sự Việt Nam hiện hành
Khoản 1 Điều 182a quy định: "1. Người nào vi phạm quy định về
quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu
quả nghiêm trọng khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182
của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm" [51].
Với cấu thành cơ bản nêu trên và theo quy định về trách nhiệm của cơ
quan nhà nước, tổ chức cá nhân trong hoạt động QLCTNH và danh mục
CTNH được quy định trong luật chuyên ngành, thì các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội này được quy định như sau.
1.2.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất kì tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một
hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ bằng cách gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó [7, tr. 69].
Khách thể của tội phạm được khoa học luật hình sự thừa nhận chung gồm có
khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Theo quan niệm chung, khách thể của tội phạm là hệ thống các quan
hệ xã hội bị tội phạm xâm hại như:
30
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh
vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [46, khoản 1, Điều 8].
Đối với các tội phạm về môi trường nói chung, khách thể loại của
các tội phạm về môi trường là tổng thể những quan hệ xã hội được hình
thành trong việc BVMT, về giữ gìn môi trường trong sạch, giữ gìn các điều
kiện thiên nhiên thuận lợi đối với con người và các động vật sống khác, sử
dụng hợp lý những tài nguyên thiên nhiên của nó và đảm bảo an toàn cho
môi trường dân cư. Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội
phạm về môi trường không giới hạn trong một lĩnh vực nào, như trong hoạt
động kinh tế chẳng hạn. Hậu quả của những hành vi xâm hại về môi trường
không chỉ đối với hoạt động kinh tế mà đối với toàn bộ cuộc sống trên trái
đất. Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này, khách thể trực
tiếp của từng tội phạm là những quan hệ cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý
những bộ phận cấu thành của môi trường cũng như bảo đảm an toàn môi
trường cho dân cư.
Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan
hệ xã hội về QLCTNH được quy định trong các văn bản pháp luật về BVMT
và các văn bản khác. Các quan hệ xã hội này trực tiếp ảnh hưởng tới các yếu
tố môi trường như đưa vào môi trường các chất thải nguy hại, không bảo
quản, xử lý CTNH theo quy trình được pháp luật quy định.
Các tội phạm về môi trường xâm hại đến sự bền vững và ổn định của
môi trường, xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý
và BVMT, gây ra những hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho
môi trường sinh thái cũng như tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người.
31
Khách thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan hệ xã
hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH.
Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm không thể không tìm hiểu đối
tượng tác động của tội phạm vì mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất
định thông qua việc tác động đến một đối tượng cụ thể. Các bộ phận cấu
thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe
dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự gọi là đối tượng tác
động của tội phạm [7, tr. 72]. Đối tượng bị tội phạm tác động theo tội danh
này là các quy định về QLCTNH. Theo khoản 15 Điều 3 Luật bảo vệ môi
trường năm 2014 và Điều 1 Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì Quản lý chất thải
nguy hại là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom,
vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nguy hại.
1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là những
biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ
đoạn, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội [7, tr. 98].
Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp tất cả những biểu hiện của
tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Tuy nhiên, không
phải mọi trường hợp phạm tội, các biểu hiện này đều hiện diện trên thực tế.
Do đó, các biểu hiện khách quan của tội phạm không phải lúc nào cũng được
thể hiện trong cấu thành tội phạm mang tính bắt buộc. Có biểu hiện được thể
hiện trong cấu thành tội phạm cơ bản của tất cả các tội phạm (hành vi nguy
hiểm cho xã hội), có biểu hiện chỉ được phản ánh trong cấu thành tội phạm
của một số tội phạm cụ thể hoặc trong cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm
nhẹ (hậu quả nguy hiểm cho xã hội), có biểu hiện đôi lúc được thể hiện như
một tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ... Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải
thấy rằng, mặt khách quan của tội phạm là một yếu tố của cấu thành tội phạm.
32
Không có mặt khách quan thì không có tội phạm xảy ra dù có thể các mặt khác
của tội phạm đã hội đủ. Căn cứ vào lý luận về mặt khách quan của tội phạm
và phân tích tội vi phạm quy định về QLCTNH được quy định tại Điều 182a
BLHS thì về mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu sau:
a) Dấu hiệu thứ nhất về mặt khách quan của tội vi phạm quy định về
QLCTNH là hành vi nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra.
Theo đó, người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH phải có hành
vi vi phạm các quy định về QLCTNH được quy định trong các văn bản pháp
luật chuyên ngành.
Các hành vi vi phạm này được xác định theo luật chuyên ngành, chúng
được quy định chung tại các điều từ Điều 90 đến Điều 94 của Luật BVMT
năm 2014 hay tại Điều 7, Điều 8 và Điều 12 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP.
Cụ thể hơn nữa là các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH bị pháp luật
nghiêm cấm được quy định tại các điều từ Điều 21 đến Điều 24 Nghị định số
179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính
trong lĩnh vực BVMT, cụ thể như sau:
- Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của chủ nguồn thải
CTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm:
+ Không đóng gói, bảo quản CTNH theo chủng loại trong các bao bì
chuyên dụng hoặc thiết bị lưu chứa tạm thời CTNH không đáp ứng yêu cầu
kỹ thuật theo quy định;
+ Không bố trí hoặc bố trí khu vực lưu giữ tạm thời CTNH không đáp
ứng yêu cầu kỹ thuật theo quy định;
+ Không thu gom triệt để CTNH vào khu vực lưu giữ tạm thời theo
quy định; để CTNH ngoài trời mà CTNH đó có thể tràn, đổ, phát tán ra ngoài
môi trường.
+ Để lẫn CTNH khác loại với nhau hoặc để lẫn CTNH với chất thải khác.
+ Hành vi chuyển giao, cho, bán CTNH cho tổ chức, cá nhân không
có Giấy phép QLCTNH.
33
+ Làm rò rỉ, tràn đổ CTNH hoặc để xảy ra sự cố tràn đổ CTNH ra môi
trường đất, nước ngầm, nước mặt;
+ Tự xử lý CTNH khi không có công trình xử lý phù hợp và không
được cơ quan có thẩm quyền cho phép;
+ Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT.
+ Chuyển giao, cho, bán không đúng quy định, chôn lấp, đổ, thải CTNH
thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) theo quy định
tại Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy gây ô nhiễm
môi trường hoặc chôn lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường.
- Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của chủ hành nghề
QLCTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm:
+ Chuyển giao, cho, bán CTNH cho tổ chức, cá nhân không có đủ điều
kiện về quản lý, xử lý, tiêu hủy CTNH hoặc không có giấy phép QLCTNH.
+ Không lưu giữ CTNH trước và sau khi xử lý trong thiết bị chuyên
dụng phù hợp với loại hình CTNH;
+ Thiết bị chuyên dụng phục vụ lưu giữ CTNH, khu vực lưu giữ tạm
thời CTNH hoặc thiết bị xử lý CTNH không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật theo
quy định.
+ Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT.
+ Chôn lấp, đổ, thải CTNH thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ
khó phân hủy (POP) theo quy định tại Công ước Stockholm về các chất ô
nhiễm hữu cơ khó phân hủy ra môi trường không đúng quy định hoặc chôn
lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường.
- Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của Chủ tái sử dụng
CTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm:
+ Tái sử dụng trực tiếp CTNH không theo đúng mục đích ban đầu của
phương tiện, thiết bị, sản phẩm, vật liệu, hóa chất là nguồn gốc phát sinh
CTNH này hoặc sử dụng cho mục đích khác hoặc chuyển giao lại cho một tổ
chức, cá nhân khác mà không được phép tái sử dụng trực tiếp.
34
+ Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT.
+ Chôn lấp, đổ, thải CTNH thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ
khó phân hủy (POP) theo quy định tại Công ước Stockholm về các chất ô
nhiễm hữu cơ khó phân hủy ra môi trường không đúng quy định hoặc chôn
lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường [13].
b) Dấu hiệu thứ hai của mặt khách quan của tội phạm là hậu quả do
hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm gây ra
Về lý luận khoa học luật hình sự, tội vi phạm quy định về QLCTNH
có cấu thành vật chất. Cụ thể, đối với tội phạm này hành vi vi phạm các quy
định về QLCTNH chỉ cấu thành tội phạm khi gây hậu quả thuộc một trong
các trường hợp sau:
- Gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trước đây, theo quy định tại
Điều 92 Luật BVMT năm 2005 thì môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng là khi
hàm lượng của một hoặc nhiều hóa chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về
chất lượng môi trường từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của một chất hoặc
nhiều chất gây ô nhiễm môi trường khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng
môi trường từ 5 lần trở lên. Hiện tại, Luật BVMT năm 2014 không quy định
vấn đề này.
Mặc dù trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có
Thông tư số 04/2012/TT-BTNMT ngày 08/5/2012 quy định tiêu chí xác định
cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, Thông tư này hướng dẫn áp dụng
xác định tiêu chí cơ sở kinh doanh "gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng"
mang tính hình thức, có nghĩa là xác định cơ sở kinh doanh có đủ dấu hiệu xả
thải, chôn lấp… vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép gấp một số lần nhất định
thì cơ sở kinh doanh đó bị coi là "gây ô nhiễm nghiêm trọng" như quy định tại
các điều 5, 6, 7, 8, 9 của Thông tư này. Điều này không tạo ra được nhận thức
thống nhất chung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng [5]. Vì trong BLHS đã
quy định cụ thể để truy cứu TNHS về tội này phải bắt buộc gây hậu quả là ô
35
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đây là vấn đề rất phức tạp chưa được các cơ
quan tiến hành tố tụng hướng dẫn cụ thể.
- Gây hậu quả nghiêm trọng khác. Đây cũng là một vấn đề rất phức
tạp và chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Một số nhà
nghiên cứu có quan điểm cho rằng "gây hậu quả nghiêm trọng khác" có thể là
trường hợp làm chết một người; gây tổn hại sức khỏe một người mà tỷ lệ tổn
hại sức được xác định từ 31% trở lên... [31, tr. 409]. Đây là quan điểm chưa
chính xác, quan điểm này có thể được căn cứ theo Nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong đó có hướng
dẫn các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng",
"gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 BLHS. Tuy nhiên,
việc áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết nêu trên vào trường hợp "Gây hậu quả
nghiêm trọng khác" trong tội vi phạm quy định về QLCTNH là không chính
xác vì hậu quả của hành vi vi phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm môi
trường hoàn toàn khác xa so với hậu quả của việc vi phạm quy định về điều
khiển giao thông đường bộ. Như vậy, trong thời gian tới, việc các nhà làm
luật nghiên cứu, quy định chi tiết nội dung "Gây hậu quả nghiêm trọng khác"
là việc làm cần thiết để cụ thể hóa hơn nữa TNHS đối với những hành vi vi
phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm môi trường.
c) Hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH nêu trên gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác sẽ bị xử lý hình
sự về tội này khi không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của BLHS.
Theo quy định của Điều 182 BLHS thì các trường hợp sau được coi là
hành vi khách quan của tội gây ô nhiễm môi trường [31, tr. 404-406].
- Hành vi thải các chất gây ô nhiễm môi trường vào không khí, vào
nguồn nước, vào đất... khói bụi của các công trường, nhà máy; các chất độc
hại là các chất hóa học gây hại cho môi trường sinh ra trong quá trình sản xuất
36
hoặc vận hành máy móc như loại khí SO2, CO2, NO2... làm ô nhiễm không
khí hoặc thải vào nguồn nước các chất thải như hóa chất độc hại, nước thải
chưa được xử lý của các nhà máy, phế liệu, chất phóng xạ... hoặc thải vào đất
các loại rác, chất thải phóng xạ, thuốc trừ sâu, hóa chất độc hại... vượt quá
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng.
- Hành vi phát tán bức xạ (bức xạ điện từ và bức xạ ion) được vận
hành trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu có nguồn bức xạ có
hại; phát tán phóng xạ có thể được phát tán ra khi sử dụng, vận hành các lò
phản ứng hạt nhân, cơ sở nghiên cứu hạt nhân... vượt quá quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng.
Vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải là vượt quá tiêu
chuẩn cho phép được quy định trong quy chuẩn quốc gia về môi trường. Các
quy chuẩn này bao gồm: QCVN 07: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về ngưỡng CTNH; QCVN 19: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về khí thải công nghiệp đối với bụi và chất vô cơ; QCVN 24: 2009/BTNMT- Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp; QCVN 05: 2009/BTNMT-
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh; QCVN 06:
2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia một số chất độc hại trong không
khí xung quanh; QCVN 14: 2008/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
nước thải sinh hoạt; QCVN 07: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật...
Hành vi thải vào môi trường các chất thải hoặc phát tán bức xạ, phóng
xạ nói trên bị xử lý hình sự khi vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất
thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc khi làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm
trọng hoặc khi gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Có thể nói việc quy định trong Điều 182a, hành vi vi phạm các quy
định về QLCTNH nêu trên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây
hậu quả nghiêm trọng khác sẽ bị xử lý hình sự về tội này khi không thuộc
37
trường hợp quy định tại Điều 182 của BLHS là quy định không hợp lý và có
thể nói là thừa vì hai tội này có đối tượng tác động khác nhau, trong khi đối
tượng tác động của tội gây ô nhiễm môi trường là sự bền vững và ổn định của
những thành tố cơ bản của môi trường như không khí, đất và nguồn nước thì
đối tượng tác động của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quy định về
QLCTNH. Mặc dù cùng quy định về hậu quả đều là gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng nhưng chủ thể thực hiện hành vi của hai tội này hoàn toàn khác
nhau, chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là những người có trách
nhiệm theo pháp luật về quản lý chất thải nguy hại như chủ nguồn thải
CTNH, chủ hành nghề QLCTNH, chủ tái sử dụng CTNH. Đối với chủ thể của
tội gây ô nhiễm môi trường là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt độ
tuổi theo luật định. Vì vậy theo tác giả cần loại bỏ quy định "không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật hình sự" để thuận tiện trong
việc áp dụng trên thực tiễn.
1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm
Theo quy định của BLHS Việt Nam tại Điều 8 "Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý" và tại Điều 2 "Chỉ
người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự", chúng ta có thể thấy pháp luật nước ta quy định chủ thể của
tội phạm chỉ có thể là cá nhân, con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội
được quy định trong BLHS.
Tội phạm theo BLHS Việt Nam phải có tính chất lỗi, do vậy chỉ
những người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có
thể là chủ thể của tội phạm, phải là người có năng lực TNHS (là người khi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức và điều khiển được hành vi
của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và
đạt độ tuổi luật định).
38
Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt vì ngoài các các yếu tố bắt
buộc đối với các chủ thể của tội phạm thông thường thì họ phải là những
người có trách nhiệm trực tiếp trong việc QLCTNH hoặc là người chịu trách
nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát các công việc đó [31, tr. 409].
Tuy nhiên, đối với tội phạm này, về mặt lý luận khoa học luật hình sự
việc xác định chủ thể đang có hai luồng quan điểm khác biệt. Quan điểm
không ủng hộ việc truy cứu TNHS của pháp nhân cho rằng: Pháp nhân là một
thực thể pháp lý, không có nhận thức, ý chí...; Pháp nhân hoạt động thông qua
người đại diện (một thể nhân cụ thể), tức là không thể trực tiếp thực hiện
được hành vi phạm tội. Do vậy, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân là
không đủ cơ sở lý luận. Hơn nữa, có những hình phạt trong BLHS không thể
áp dụng đối với pháp nhân [8, tr. 650-655].
Quan điểm khác cho rằng việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân là
hoàn toàn đảm bảo cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tiễn cho thấy, có nhiều
quốc gia quy định và truy cứu TNHS đối với pháp nhân từ rất sớm trong lịch
sử. Biểu hiện cụ thể nhất là các nước theo truyền thống án lệ như Vương quốc
Anh đã pháp điển hóa vấn đề TNHS của pháp nhân từ thế kỷ XIX. Sau đó là
các nước như Mỹ, Úc... hiện tại các nước Châu Á như Nhật, Trung Quốc...
thừa nhận; về cơ sở lý luận, pháp nhân là một chủ thể độc lập. Mặc dù phải
hoạt động thông qua con người cụ thể, nhưng hành động của người đại diện là
nhân danh pháp nhân, theo nội quy quy chế của pháp nhân và đặc biệt là vì lợi
ích của pháp nhân. Do vậy, pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với hành vi
do người đại điện thực hiện. Hiện thực hóa vấn đề này cũng không triệt tiêu
nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, bởi lẽ nhận thức truyền thống cần thay đổi để
đảm bảo tính công bằng, tránh biến những người hành động nhân danh và vì
lợi ích của pháp nhân phải gánh chịu TNHS thay pháp nhân [57, tr. 228-237].
Cơ sở thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, những chủ thể hành nghề QLCTNH
theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT hoặc chủ nguồn thải, chủ xử
39
lý chất thải nguy hại theo quy định tại Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì khó có
thể là cá nhân. Cụ thể, về điều kiện cơ sở pháp lý, chủ thể thực hiện hoạt động
QLCTNH phải có đăng ký ngành, nghề kinh doanh phù hợp trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ
tương đương. Thực tế cho thấy điều kiện này thường chỉ có pháp nhân mới có
thể đáp ứng. Do vậy, về mặt lý luận cũng như thực tiễn việc điều tra, truy tố,
xét xử tội vi phạm quy định về QLCTNH tội có nhiều vướng mắc. Bởi lẽ,
BLHS Việt Nam chưa có quy định về truy cứu TNHS đối với pháp nhân.
Khiếm khuyết này dẫn đến những người hành động nhân danh pháp nhân, cho
dù không phải là chủ sở hữu pháp nhân phải chịu TNHS, mà đáng lý và công
bằng là pháp nhân cũng phải chịu TNHS.
1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì vậy,
PLHS Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu
TNHS chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không
kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý của người thực hiện hành vi ra
sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan,
giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của người thực hiện hành vi. Mặt
chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi (là thái độ tâm lý bên
trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi
đó), động cơ phạm tội (là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi
phạm tội) và mục đích phạm tội (là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn
đạt được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh
hướng ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội). Mỗi yếu tố có
ý nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội [7, tr. 45].
Đối với tội vi phạm quy định về QLCTNH, lỗi của người phạm tội là
lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của
40
mình là nguy hiểm cho xã hội, họ thấy được trước hậu quả của hành vi đó có
thể gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, kinh tế v.v... nhưng vẫn thực hiện tội phạm. Có trường hợp,
người phạm tội mong muốn những hậu quả trên sẽ xảy ra (đối với trường hợp
là lỗi cố ý trực tiếp). Bên cạnh đó, cũng có trường hợp, người phạm tội tuy
không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (đối với
trường hợp là lỗi cố ý gián tiếp) khi thực hiện những hành vi vi phạm quy
định về QLCTNH.
Động cơ và mục đích của tội vi phạm quy định về QLCTNH rất đa
dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
1.2.2.5. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội vi phạm quy
định về quản lý chất thải nguy hại
a) Hình phạt chính
Theo quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa
án quyết định.
Điều 182a BLHS quy định ba loại hình phạt chính: phạt tiền từ 50 triệu
đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm, tù có thời hạn
từ 6 tháng đến 10 năm.
Cụ thể như sau:
- Khung 1: quy định hình phạt tiền từ 50 triệu đến 500 triệu đồng; phạt
cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm áp
dụng đối với người phạm tội không có những tình tiết tăng nặng quy định tại
khoản 2 Điều này.
- Khung 2: Quy định hình phạt từ 2 năm đến 7 năm đối với:
+ Phạm tội có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên phạm tội,
có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công vai trò trách nhiệm của từng người
trong quá trình phạm tội [46, Điều 20].
41
+ Gây hậu quả rất nghiêm trọng: Như trên đã nêu, đây là một vấn đề
chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Một số nhà nghiên
cứu có quan điểm cho rằng "gây hậu quả rất nghiêm trọng" có thể là làm chết
từ 2 người trở lên; gây tổn hại cho sức khỏe của 3 người trở lên với tỷ lệ thương
tật của mỗi người từ 31% trở lên; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu
đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng [31, tr. 410]. Như đã phân tích ở mục 1.2.2.2 - đây
là quan điểm chưa chính xác.
+ Tái phạm nguy hiểm: là phạm tội trong trường hợp người phạm tội
trước đây đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi
cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH
hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này [46, Điều 49].
- Khung 3: Quy định hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm đối với người
phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề "gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng" như trên đã nêu cũng chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
b) Hình phạt bổ sung
Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc
nhất được quy định trong Luật hình sự, do Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên
kèm theo hình phạt chính trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với
chính người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tước bỏ hoặc hạn chế
những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm cải tạo, giáo dục
người phạm tội, củng cố, hỗ trợ, tăng cường tác dụng của hình phạt chính,
phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng.
Theo Điều 182a BLHS năm 1999 thì hình phạt bổ sung có thể áp dụng
đối với người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH là bị phạt tiền khi không
áp dụng là hình phạt chính từ 10 triệu đồng đến 150 triệu đồng, cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu về luật hình sự, đối với
một số tội mang tính chất kinh tế, chức vụ, môi trường... thì hình phạt bổ sung
42
có tác dụng rất cao trong đấu tranh phòng chống đặc biệt là phòng ngừa việc
thực hiện tội phạm, nhất là tái phạm. Ví dụ như hình phạt cấm đảm nhiệm
chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm có
tác dụng ngăn ngừa việc người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH có
khả năng tái phạm thực hiện hành vi phạm tội này.
1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại
với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại
và phân biệt tội này với một số tội phạm gây ô nhiễm môi trƣờng khác
trong Bộ luật hình sự Việt Nam
1.2.3.1. Phân biệt với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
quản lý chất thải nguy hại
Một đặc điểm của hệ thống PLHS Việt Nam là có sự giao thoa giữa
luật hành chính với luật hình sự. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
QLCTNH hiện nay được quy định trong Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày
14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 179/2013/NĐ-CP). Việc phân biệt hành vi phạm
tội này với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH thể hiện qua
các phương diện sau:
- Về chủ thể vi phạm: Đối với chủ thể của tội vi phạm quy định về
QLCTNH thì chủ thể vi phạm là những người có trách nhiệm trực tiếp trong
việc QLCTNH hoặc là người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát các
công việc đó. Đối với chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH
thì họ là cá nhân, tổ chức trong nước và cá nhân, tổ chức nước ngoài (Điều 2,
Nghị định số 179/2013/NĐ-CP)
- Về hành vi vi phạm: Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
QLCTNH rộng hơn so với hành vi vi phạm QLCTNH trong luật hình sự,
chúng bao gồm các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH có thể gây ô
nhiễm môi trường như: các hành vi chôn, lấp, đổ CTNH không đúng quy định
43
về BVMT... và các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH mang tính chất thủ
tục hành chính như: không lập báo cáo QLCTNH định kỳ theo quy định,
không sao gửi sổ đăng ký chủ nguồn thải... Trong khi đó, hành vi vi phạm quy
định về QLCTNH trong luật hình sự chỉ bao gồm các hành vi vi phạm quy
định về QLCTNH có thể gây ô nhiễm môi trường.
- Về hậu quả của hành vi vi phạm: Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực QLCTNH chưa gây hậu quả hoặc gây hậu quả là ô nhiễm môi trường. Trong
khi đó, hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật hình sự về QLCTNH là phải gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Về hậu quả của các hành vi phạm quy định về QLCTNH hiện nay
đang có một số ý kiến cho rằng, theo cách quy định của Nghị định số
179/2013/NĐ-CP thì một số hành vi vi phạm như chôn, lấp, đổ CTNH không
đúng quy định với số lượng lớn như quy định tại các điểm e, g, h khoản 9,
khoản 10 Điều 21, các điểm e, g, h khoản 8, khoản 9 Điều 22, các điểm e, g, h
khoản 7, khoản 8 Điều 23, các điểm e, g, h khoản 3, khoản 4 Điều 24 của
Nghị định này thực chất đã vi phạm PLHS. Hành vi này chỉ vi phạm hành
chính trong trường hợp các cơ quan chức năng bắt quả tang người vi phạm
đang thực hiện hành vi. Trong trường hợp không bắt được quả tang người
thực hiện các hành vi đó thì hậu quả gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
chắc chắn đã xảy ra, cho nên hành vi đó là vi phạm PLHS. Theo tác giả, trong
thời gian tới các nhà làm luật cần quy định các hành vi vi phạm quy định về
QLCTNH một cách khoa học, rõ ràng hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong
việc phân biệt giữa vi phạm hành chính với vi phạm PLHS ở lĩnh vực này.
- Về thẩm quyền xử phạt: Đối với hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực QLCTNH thì có nhiều cơ quan và cá nhân có thẩm quyền xử phạt
như: Cảnh sát biển, Công an cấp tỉnh, Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi
trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh thanh tra Sở Tài nguyên và
Môi trường, Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường theo quy định tại
44
các điểm đ, n, o, r, s, t khoản 1 Điều 54 Nghị định này. Đối với hành vi vi
phạm quy định về QLCTNH trong pháp luật hình sự thì thẩm quyền xử phạt
chỉ do Tòa án quyết định.
1.2.3.2. Phân biệt với tội gây ô nhiễm môi trường
Việc phân biệt giữa các tội gây ô nhiễm môi trường với nhau là điều hết
sức cần thiết không chỉ nhằm phân định rạch ròi giữa các tội phạm nói chung mà
còn nhằm xác định đúng tội danh, truy cứu TNHS và quyết định hình phạt nói
riêng. Bởi lẽ, theo dấu hiệu của mặt khách quan của tội vi phạm quy định về
QLCTNH thì một trong những trường hợp loại trừ của tội phạm này là "nếu
không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật này". Như vậy, việc
phân biệt này sẽ góp phần làm rõ hai tội phạm này trong quá trình điều tra, truy
tố, xét xử.
Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về QLCTNH với tội gây ô
nhiễm môi trường thể hiện trên các phương diện sau:
- Về khách thể: Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về
QLCTNH là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH. Khách
thể trực tiếp của tội gây ô nhiễm môi trường xâm hại đến sự bền vững và ổn
định của những thành tố cơ bản của môi trường như không khí, đất và nguồn
nước làm thay đổi môi trường, vi phạm tiêu chuẩn về môi trường.
- Về hành vi vi phạm: Hành vi của tội vi phạm quy định về QLCTNH
là các hành vi phạm các quy định về QLCTNH. Hành vi vi phạm của tội gây
ô nhiễm môi trường quy định hai nhóm hành vi, đó là nhóm hành vi thải vào
không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường và nhóm hành vi
phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở
mức độ nghiêm trọng.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vi phạm quy định về
QLCTNH là chủ thể đặc biệt, họ là những người có trách nhiệm QLCTNH
theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT như chủ nguồn thải CTNH,
45
chủ hành nghề QLCTNH, chủ vận chuyển CTNH, chủ xử lý CTNH, chủ tái
sử dụng CTNH hoặc chủ nguồn thải CTNH, chủ xử lý CTNH theo Nghị định
38/2015/NĐ-CP. Họ là những người có trách nhiệm trực tiếp QLCTNH hoặc
là những người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát công việc đó.
Chủ thể của tội gây ô nhiễm môi trường là chủ thể thường có năng lực TNHS
và đạt độ tuổi luật định.
Theo cách quy định của hai tội danh trên thì việc phân biệt giữa hai tội
danh thông qua hành vi phạm tội là rất khó khăn vì chúng rất giống nhau và
hậu quả của chúng đều gây ô nhiễm môi trường. Cũng theo cách quy định này
thì đối với một trường hợp vi phạm quy định về QLCTNH cụ thể như chôn,
lấp, đổ CTNH gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì sẽ xảy ra hai trường
hợp: Trường hợp hành vi vi phạm do những người có trách nhiệm trực tiếp
QLCTNH hoặc là những người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát
công việc đó thực hiện thì người này chịu TNHS về tội vi phạm quy định về
QLCTNH. Trong trường hợp hành vi vi phạm do những người khác thực hiện
thì người này chịu TNHS về tội gây ô nhiễm môi trường.
1.2.3.3. Phân biệt với tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cốmôi trường
Ngoài điểm giống nhau như hậu quả của hành vi phạm tội là đều bắt
buộc phải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì hai tội danh này có một
số điểm khác biệt sau:
- Về khách thể: Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về
QLCTNH là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH. Khách
thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường xâm
hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong việc phòng ngừa sự cố môi trường
hoặc ứng phó với sự cố môi trường.
- Về hành vi vi phạm: Hành vi của tội vi phạm quy định về QLCTNH
là các hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH. Hành vi vi phạm của tội vi
phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường quy định hai nhóm hành vi,
46
đó là nhóm hành vi vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường và
nhóm hành vi vi phạm quy định liên quan đến ứng phó sự cố môi trường.
- Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH
là chủ thể đặc biệt, họ là những người có trách nhiệm QLCTNH theo quy định
tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT như chủ nguồn thải CTNH, chủ hành nghề
QLCTNH, chủ vận chuyển CTNH, chủ xử lý CTNH, chủ tái sử dụng CTNH
hoặc chủ nguồn thải CTNH, chủ xử lý CTNH theo Nghị định 38/2015/NĐ-CP.
Họ là những người có trách nhiệm trực tiếp QLCTNH hoặc là những người
chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát công việc đó. Chủ thể của tội vi
phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường là chủ thể thường, là bất kỳ
người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định.
- Lỗi: Tội vi phạm quy định về QLCTNH, người thực hiện tội phạm
với lỗi cố ý thường là cố ý gián tiếp. Đối với tội vi phạm quy định về phòng
ngừa sự cố môi trường thì người thực hiện tội phạm với lỗi vô ý.
Theo cách quy định của hai tội danh này thì đối với một trường hợp vi
phạm quy định về QLCTNH cụ thể như không thực hiện đúng kế hoạch phòng
ngừa và ứng phó sự cố trong bộ hồ sơ đăng ký kèm theo giấy phép QLCTNH
theo quy định tại các điểm d khoản 1 Điều 22, điểm d khoản 1 Điều 23 của
Nghị định số 179/2013/NĐ-CP mà gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì
chủ thể thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu TNHS theo tội vi phạm quy định về
QLCTNH hay theo tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường?
Theo tác giả, trong thời gian tới các nhà làm luật cần quy định các hành vi vi
phạm quy định về QLCTNH một cách khoa học, rõ ràng hơn nhằm tạo điều kiện
thuận lợi trong việc phân biệt giữa các tội gây ô nhiễm môi trường với nhau.
1.3. KINH NGHIỆM LẬP PHÁP HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
Hành vi vi phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm mỗi trường đã
được BLHS Việt Nam đặt ra từ năm 2009. Tuy nhiên, kinh nghiệm lập pháp
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY
Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Khóa luận tốt nghiệp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Khóa luận tốt nghiệp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khíKhóa luận tốt nghiệp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
Khóa luận tốt nghiệp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí
 
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tộiLuận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
Luận văn: Các nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội
 
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAYLuận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
Luận văn: Tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt NamLuận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Những loại người đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam
 
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
99 đề tài báo cáo thực tập ngành luật, luật dân sự, kinh tế, hình sự, quốc tế..
 
Luận văn: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong kinh doanh, 9đ
Luận văn: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong kinh doanh, 9đLuận văn: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong kinh doanh, 9đ
Luận văn: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong kinh doanh, 9đ
 
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sựLuận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
Luận văn: Các tội hiếp dâm theo quy định của Bộ luật hình sự
 
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nayLuận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay
 
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOTTội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo Luật hình sự, HOT
 
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đTội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trườngLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường
 
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOTLuận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
 
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOTLuận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
Luận văn: Cơ chế pháp lý về bảo hộ công dân ở Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOTLuận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
Luận văn: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình, HOT
 
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAYLuận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
Luận văn: Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển, HAY
 
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOTĐề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
Đề tài: Bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam, HOT
 
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
Top 456+ Đề Tài Báo Cáo Tốt Nghiệp Ngành Luật Hình Sự Và Tố Tụng Hình Sự - Ha...
 

Similar to Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY

Similar to Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY (20)

Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt NamLuận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Luận án: Xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
 
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trê...
 
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOTLuận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Các tội phạm về môi trường theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đLuận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải y tế tại Hà Nội, HOT, 9đ
 
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trườngLuận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
Luận án: Pháp luật về trách nhiệm pháp lý về bảo vệ môi trường
 
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trườngPháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Pháp luật về trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
 
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh BìnhVi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông tỉnh Ninh Bình
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
Luận văn: Xử phạt vi phạm vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường từ thự...
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc GiangLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính về môi trường tại Bắc Giang
 
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.pdfPháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.pdf
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam.pdf
 
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam: Luậ...
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam: Luậ...Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam: Luậ...
Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại trong khu công nghiệp ở Việt Nam: Luậ...
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải rắn tại TP Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải rắn tại TP Đà Nẵng, 9đLuận văn: Pháp luật về quản lý chất thải rắn tại TP Đà Nẵng, 9đ
Luận văn: Pháp luật về quản lý chất thải rắn tại TP Đà Nẵng, 9đ
 
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAYLuận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
Luận án: Kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam, HAY
 
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
Khoá Luận Pháp Luật Về Đánh Giá Tác Động Môi Trường – Lý Luận Và Thực Tiễn.
 
Xử Phạt Vi Phạm Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Môi Trường Từ Thực Tiễn Các...
Xử Phạt Vi Phạm Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Môi Trường Từ Thực Tiễn Các...Xử Phạt Vi Phạm Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Môi Trường Từ Thực Tiễn Các...
Xử Phạt Vi Phạm Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Môi Trường Từ Thực Tiễn Các...
 
Chuyên Đề Tốt Nghiệp Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
Chuyên Đề Tốt Nghiệp  Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank Chuyên Đề Tốt Nghiệp  Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
Chuyên Đề Tốt Nghiệp Cho Vay Kinh Doanh Bất Động Sản Tại Ngân Hàng HDBank
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt NamLuận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
Luận văn: Thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường đô thị ở Việt Nam
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
CÁC TỘI PHẠM VỀ THAM NHŨNG THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhhkinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
kinh tế chính trị mác lênin chương hai và hàng hoá và sxxhh
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 

Luận văn: Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐÌNH SÁNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN ĐÌNH SÁNG TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Dũng HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn §×nh S¸ng
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI 9 1.1. Chất thải nguy hại và quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại 9 1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại 9 1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại 11 1.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ luật hình sự Việt Nam 16 1.2.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay về các tội phạm môi trường nói chung và tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng 16 1.2.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành 21 1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại và phân biệt tội này với một số tội phạm gây ô nhiễm môi trường khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam 34 1.3. Kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số quốc gia về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 38 1.3.1. Kinh nghiệm của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc) 39 1.3.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa Liên bang Đức 41
  • 5. 5 1.3.3. Kinh nghiệm của Liên bang Nga 44 1.3.4. Kinh nghiệm của Cộng hòa Singapore 45 Chương 2: THỰC TRẠNG VI PHẠM VÀ TÌNH HÌNH XỬ LÝ VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 48 2.1. Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, xã hội của Hà Nội có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường 48 2.1.1. Một số đặc điểm về diện tích, dân số 48 2.1.2. Một số đặc điểm về tình hình kinh tế, xã hội của Hà Nội có liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và chất thải nguy hại 49 2.2. Thực trạng vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội 52 2.3. Thực tiễn xử lý hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội 56 2.3.1. Thực tiễn xử lý vi phạm hành chính 56 2.3.2. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hành vi vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội và những vướng mắc, bất cập 63 Chương 3: MỘT SỐ ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI PHẠM NÀY 69 3.1. Sự cần thiết và định hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 69 3.1.1. Sự cần thiết 69 3.1.2. Những định hướng hoàn thiện 70 3.2. Một số định hướng hoàn thiện Bộ luật hình sự về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 77
  • 6. 6 3.2.1. Về khái niệm tội phạm 77 3.2.2. Về dấu hiệu cấu thành tội phạm 81 3.2.3. Về chủ thể của tội phạm 82 3.2.4. Về các hình phạt áp dụng 84 3.3. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có liên quan đến hoạt động xử lý tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 86 3.3.1. Về các biện pháp ngăn chặn 86 3.3.2. Về yêu cầu đối với Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng 87 3.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại 88 3.4.1. Kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực áp dụng pháp luật của các cơ quan quản lý môi trường và cơ quan tư pháp 88 3.4.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức của cộng đồng trong việc thực hiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại 89 3.4.3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý chất thải nguy hại 90 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 96
  • 7. 7 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BVMT : Bảo vệ môi trường CCN : Cụm công nghiệp CTNH : Chất thải nguy hại KCN : Khu công nghiệp PLHS : Pháp luật hình sự QLCTNH : Quản lý chất thải nguy hại TNHS : Trách nhiệm hình sự
  • 8. 8 DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT nói chung 58 2.2 Tình hình xử phạt hành chính trong lĩnh vực QLCTNH 61
  • 9. 9 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Môi trường sống đang là vấn đề nóng của mọi quốc gia. Phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống cho người dân gắn với bảo vệ môi trường (BVMT) sống trong lành, không bị ô nhiễm là bài toán đặt ra cho mọi quốc gia, nhất là các quốc gia đang trong giai đoạn đẩy nhanh quá trình phát triển, trong đó có Việt Nam. Thực tế cho thấy, sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn ra ở mức độ ngày càng nguy hiểm, đang đặt con người đối mặt với những thảm họa thiên nhiên tàn khốc như sự nóng dần lên của vỏ trái đất, thảm họa sóng thần, lỗ hổng tầng ôzôn, tình trạng ngập lụt , hạn hán v .v... Vì vậy, vấn đề BVMT đã trở nên vô cùng cấp thiết được các quốc gia và cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, Việt Nam là một trong năm quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của sự nóng lên của vỏ trái đất và sự biến đổi khí hậu. Do vậy, vấn đề BVMT ở nước ta cần được đặc biệt quan tâm và được hành động một cách quyết liệt và cấp thiết hơn. Những thảm họa thiên nhiên gần đây diễn ra ngày càng liên tục với mức tàn phá ngày càng cao. Để xảy ra những thảm họa này thì có rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân chủ yếu từ sự tác động của con người vào tự nhiên như: phá rừng, khí thải gây hiệu ứng nhà kính và hành vi thải các chất thải ô nhiễm ra môi trường. Trong số các chất thải ra môi trường có các chất thải nguy hại (CTNH). CTNH là một trong những dạng chất thải có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nhất, theo khoản 2 Điều 3 Quy chế quản lý chất thải nguy hại (QLCTNH) do Thủ tướng Chính phủ đã ban hành thì "chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe con người" [10].
  • 10. 10 Ở Việt Nam, như đã khẳng định ở trên, với đặc thù là một quốc gia đang phát triển với tốc độ công nghiệp hóa cao, vấn đề BVMT chưa thực sự được quan tâm nên các vi phạm quy định về QLCTNH ngày càng gia tăng với tính chất ngày một nghiêm trọng. Tuy nhiên khung pháp lý để quản lý và xử phạt các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về QLCTNH chưa thực sự hoàn thiện. Bên cạnh đó, sự yếu kém trong khâu triển khai thực hiện làm cho tình hình ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm do CTNH gây nên ngày càng nghiêm trọng. Thành phố Hà Nội là thủ đô và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước, với tốc độ đô thị hóa và công nghiệp hóa nhanh. Số lượng các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) ở Hà Nội nằm trong tốp dẫn đầu cả nước. Chính vì vậy, thực trạng vi phạm quy định về quản lý môi trường nói chung trong đó có vi phạm pháp luật về QLCTNH ở Hà Nội đang diễn biến ngày càng phức tạp. Theo số liệu của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về môi trường Công an thành phố Hà Nội (PC 49) thì hàng năm số vụ vi phạm quy định về QLCTNH bị xử phạt bình quân khoảng 50-60 vụ trên năm, với tính chất và mức độ nghiêm trọng. Trong khung pháp lý về QLCTNH và xử lý vi phạm quy định về QLCTNH thì pháp luật hình sự luôn giữ một vai trò quan trọng. Các quy định về tội phạm môi trường nói chung và quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH nói riêng luôn là những quy định mang tính chất nghiêm khắc nhất để răn đe, trừng trị và giáo dục đối với những đối tượng có hành vi vi phạm quy định về QLCTNH. Trước tình hình vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là vi phạm quy định về QLCTNH diễn ra ngày càng nghiêm trọng, Nhà nước ta đang dùng nhiều biện pháp để phòng ngừa và xử lý hành vi vi phạm. Trong số các biện pháp xử lý, ngoài biện pháp xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành, Quốc hội nước Cộng hòa xã
  • 11. 11 hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2009 đã sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, cụ thể là quy định bổ sung nhiều tội phạm về môi trường. Điều này thể hiện thái độ cương quyết của Nhà nước nhằm ngăn chặn loại hành vi vi phạm này. Trong số những tội phạm về môi trường được quy định bổ sung có "tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại". Theo đó, "Người nào vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác,...". Đây là công cụ pháp lý quan trọng nhằm răn đe và phòng ngừa hành vi vi phạm quy định về QLCTNH. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH chưa thật sự đạt hiệu quả. Theo thống kê của các cơ quan chức năng, trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 2010 - 2014, vì những nguyên nhân khác nhau mà các cơ quan chức năng chưa khởi tố được một vụ vi phạm quy định về QLCTNH nào, mặc dù tình trạng vi phạm luôn có dấu hiệu gia tăng. Việc phát hiện, xử lý nhiều vụ việc vi phạm quy định về QLCTNH chỉ dừng lại ở mức độ xử lý hành chính. Nguyên nhân của tình trạng này có thể xuất phát từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau, nhưng theo quan điểm của chúng tôi, một trong những nguyên nhân quan trọng là sự chưa hoàn thiện và đồng bộ của hệ thống pháp luật, trong đó có luật xử lý vi phạm hành chính và các quy định của BLHS về QLCTNH. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định của BLHS về tội vi phạm quy định về QLCTNH và nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội phạm này đang là vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay, đặc biệt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Cũng cần nói thêm, để hoàn thiện các quy định của BLHS, cần phải được nghiên cứu trong một thể thống nhất với các quy định của cả hệ thống pháp luật về QLCTNH, của luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường và QLCTNH cũng như các quy định của BLHS. Đó là lý
  • 12. 12 do giải thích vì sao mặc dù đây là một luận văn chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự nhưng tác giả đề cập đến hệ thống pháp luật nói chung về loại hành vi này. Từ những sự phân tích trên, tác giả chọn đề tài "Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay, việc nghiên cứu về tội phạm môi trường nói chung đã có một số bài viết và đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học, như: Bài viết "Lực lượng Công an nhân dân nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường" của Trung tướng Đặng Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Công an (6/2007); Bài viết "Công tác phòng, chống tội phạm về môi trường trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế" của TS. Đại tá, Nguyễn Xuân Lý, Cục trưởng Cục Cảnh sát môi trường (7/2007); Đề tài khoa học cấp Nhà nước "Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và giải pháp phòng, chống" do Thiếu tướng, GS.TS. Nguyễn Duy Hùng, Giám đốc Học viện Cảnh sát nhân dân (2006) làm chủ nhiệm; Đề tài Khoa học "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về môi trường" do TS. Phạm Văn Lợi, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2003) làm chủ nhiệm, Ngoài ra, vấn đề các tội phạm về môi trường còn phần nào được đề cập trong các giáo trình luật hình sự của các trường đại học luật như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, (Tập II), của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, của Học viện Tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2011; Tác giả Đinh Văn Quế, Bình luận khoa
  • 13. 13 học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), Tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002 v.v... Tuy nhiên, có thể do mới được quy định hoặc do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tội vi phạm quy định về QLCTNH vẫn chưa được các nhà nghiên cứu nghiên cứu một cách chuyên sâu và tính cho tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ viết về đề tài này, đặc biệt là nghiên cứu trên một địa bàn rộng về diện tích cũng như lớn về quy mô dân số và đa dạng về các loại hình KCN, CCN như ở thành phố Hà Nội. Như vậy, một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" mang tính khách quan và cấp thiết. Mặc dù là một đề tài nghiên cứu trên một địa bàn nhất định là thủ đô Hà Nội, nhưng với sự đa dạng về loại hình KCN (lớn, vừa và nhỏ), với quy mô lớn về mặt dân số nên đề tài cũng góp phần làm cơ sở chung cho việc nắm bắt đặc điểm tình hình vi phạm của loại hành vi này tại các loại hình KCN khác nhau trên một số địa phương trong cả nước, góp phần đấu tranh phòng chống loại tội phạm này nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc thực hiện nghiên cứu đề tài "Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" mục đích của luận văn nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về QLCTNH như khái niệm, đặc điểm của CTNH và QLCTNH đặc biệt là khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về QLCTNH; Qua nghiên cứu về thực tiễn áp dụng việc xử lý đối với tội phạm vi phạm quy định về QLCTNH, luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của chúng để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện về các quy định trong BLHS để
  • 14. 14 đảm bảo vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với tội phạm này, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đảm bảo đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn tập trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Dựa trên những quan điểm, kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học hình sự về tội vi phạm quy định về QLCTNH, luận văn tổng hợp, phân tích và làm rõ một số khía cạnh về tội vi phạm quy định về QLCTNH như: Khái niệm của tội vi phạm quy định về QLCTNH; phân biệt hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH với hành vi phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH và phân biệt tội phạm này với một số tội phạm khác về môi trường, nghiên cứu quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH tại một số quốc gia khác nhằm phân tích, đánh giá để học hỏi kinh nghiệm lập pháp; - Nghiên cứu các quy định cụ thể về tội vi phạm quy định về QLCTNH trong BLHS hiện hành của Việt Nam từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá; - Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn thành phố Hà Nội để làm cơ sở chỉ ra những tồn tại, hạn chế qua việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân cơ bản của nó; - Tổng hợp lại toàn bộ kết quả quá trình nghiên cứu và đề xuất những nội dung hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam để có cơ sở xử lý TNHS đối với các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu về nội dung mà luận văn xác định bao gồm: khái niệm, cơ sở lý luận và phân biệt với một số tội phạm về môi trường khác; quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH trong luật hình sự Việt Nam và ở một số nước trên thế giới; thực trạng vi phạm quy định về QLCTNH và tình
  • 15. 15 hình xử lý vi phạm các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn thành phố Hà Nội; những hạn chế, bất cập trong BLHS và đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội này. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các quy định hiện hành về CTNH và QLCTNH đặc biệt là quy định về tội vi phạm về QLCTNH trong BLHS Việt Nam năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Về phạm vi lãnh thổ, đề tài nghiên cứu tình hình xử lý hành vi vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 5 năm từ 2010 - 2014. 3.4. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội vi phạm quy định về QLCTNH và thực trạng vi phạm quy định về QLCTNH trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội này. 4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu Việc thực hiện đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh, phòng chống tội phạm. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu… nhằm phân tích các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên cứu mà đề tài đặt ra. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Tính cho tới thời điểm hiện tại, đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên ở cấp độ của một luận văn thạc sĩ luật học về tội vi phạm quy định về QLCTNH theo quy định của BLHS Việt Nam, đặc biệt đề tài nghiên cứu trên một địa phương nhất định là Hà Nội nên kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Điểm mới của luận văn gồm:
  • 16. 16 - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về QLCTNH được quy định trong luật hình sự Việt Nam; - Chỉ ra được những vướ ng mắc, bất cập của các quy định hiện hành liên quan đến tội vi phạm quy định về QLCTNH trong việc áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội; - Tổng hợp chi tiết những nguyên nhân chính gây khó khăn trong việc áp dụng quy định về tội vi phạm quy định về QLCTNH trên thực tế của BLHS Việt Nam hiện hành; - Đề xuất những nội dung cơ bản hoàn thiện quy định của BLHS Việt Nam hiện hành về tội này. - Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập, những người làm công tác thực tiễn liên quan đến lĩnh vực này cũng như các độc giả khác có quan tâm. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại. Chương 2: Thực trạng vi phạm và tình hình xử lý vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3: Một số định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xử lý đối với tội phạm này.
  • 17. 17 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI 1.1. CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI 1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại Có thể nói rằng, vấn đề BVMT chậm được quan tâm hơn một số lĩnh vực khác, bởi lẽ phải đến năm 1993 chúng ta mới lần đầu tiên ban hành Luật BVMT. Tuy nhiên, trước tình hình môi trường bị phá hoại ngày một nghiêm trọng, vấn đề BVMT trở thành vấn đề nóng nên Đảng và Nhà nước ta đã có những cải cách rất mạnh mẽ trong lĩnh vực pháp luật về BVMT. Trong số những lĩnh vực được cải cách mạnh mẽ đó thì những sửa đổi, bổ sung về CTNH và QLCTNH là một trong những minh chứng rõ nét. Cụ thể, khi ban hành Luật BVMT 1993, các nhà làm luật mới chỉ nhắc đến chất thải một cách chung chung: "2- Chất thải là chất được loại ra trong sinh hoạt, trong quá trình sản xuất hoặc trong các hoạt động khác. Chất thải có thể ở dạng rắn, khí, lỏng hoặc các dạng khác" [45]. Tuy nhiên, khái niệm cụ thể về CTNH vẫn chưa được quy định cụ thể trong luật, trong giai đoạn này, khái niệm CTNH mới chỉ được nghiên cứu dưới góc độ của khoa học về BVMT. Điều này có nhược điểm làm giảm hiệu quả nhất định trong quá trình tăng cường pháp luật trong QLCTNH. Sau một giai đoạn dài từ khi ban hành Luật BVMT năm 1993, phải đến năm 1999 thì chúng ta mới có quy định cụ thể về khái niệm CTNH và khái niệm này được quy định cụ thể tại Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg về ban hành quy chế QLCTNH. Xét về khoa học, quá trình hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người luôn làm phát sinh ra các loại chất thải. Hiểu một cách đơn giản, chất thải là những chất không sử dụng được nữa, do con người thải bỏ ra trong
  • 18. 18 hoạt động của mình. Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật BVMT Việt Nam 2005 thì "Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc các hoạt động khác" [49]. Từ khái niệm trên, ta có thể hiểu về chất thải một cách cụ thể như sau: i) Chất thải tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể như: rắn, lỏng, khí… Những yếu tố phi vật chất không được coi là chất thải. ii) Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ. Như vậy, vật chất đó có phải là chất thải hay không phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của chủ sở hữu. Tuy nhiên, phải loại trừ trường hợp do đặc thù trong hoạt động của mình, chủ sở hữu phải thải bỏ vật chất và hoạt động thải bỏ này mang tính chất bị động đối với chủ sở hữu cũng như đối với đối tượng khác. Một vật chất sẽ tồn tại dưới dạng chất thải từ khi chủ sở hữu hoặc người sử dụng hợp pháp thải ra cho đến khi nó được đưa vào sử dụng ở một chu trình sản xuất hoặc chu trình sử dụng khác. iii) Vật chất này được sản sinh ra từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt, hoặc các hoạt động khác của con người như: Hoạt động du lịch, khoa học…[40, tr. 45]. Nếu căn cứ vào mức độ độc hại của chất thải, có thể phân loại chất thải thành CTNH và chất thải thông thường. Cả hai loại này đều mang những đặc điểm chung của chất thải. Tuy nhiên, xét về khả năng gây hại trực tiếp hoặc gián tiếp cho môi trường và con người thì CTNH được coi là có mức độ độc hại cao hơn hẳn so với chất thải thông thường. Với sự phát triển của tư duy pháp lý trong thời kỳ mới, cộng thêm sự thay đổi về nhận thức trong vấn đề BVMT, đến năm 1999, với những thành tựu phát triển công nghiệp và sự tác động của nó đến môi trường, đòi hỏi phải kiểm soát nghiêm ngặt về CTNH. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg, để đặt ra Quy chế QLCTNH, trong đó quy định cụ thể về CTNH tại khoản 2 Điều 3:
  • 19. 19 Chất thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác) hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại đến môi trường và sức khỏe con người [10]. Đến năm 2005, định nghĩa này đã được sửa đổi và hoàn thiện hơn với cách diễn đạt rất ngắn gọn và súc tích tại khoản 11 Điều 3 Luật BVMT 2005. Theo đó, CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác [49]. Do tình hình thực tiễn có nhiều thay đổi và một số hạn chế của Luật BVMT năm 2005 mà Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 7 đã thông qua ngày 23/6/2014 ban hành Luật BVMT năm 2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, luật này quy định: CTNH là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, lây nhiễm, dễ cháy, dễ nổ, gây ăn mòn, gây ngộ độc hoặc có đặc tính nguy hại khác [54]. Như vậy, khái niệm này cấp độ về sự lây nhiễm và ăn mòn đã được điều chỉnh tăng, cụ thể: từ mức độ "dễ lây nhiễm" chuyển sang "lây nhiễm"; từ mức độ "dễ ăn mòn" chuyển sang "gây ăn mòn". Hơn nữa, danh mục CTNH cũng được cập nhật bổ sung kịp thời. Điều này cho thấy, việc BVMT đã trở lên cấp bách hơn bao giờ hết. 1.1.2. Quy định của pháp luật về quản lý chất thải nguy hại Đồng thời với việc xác định CTNH, vấn đề QLCTNH cũng được đặt ra và được cải cách quyết liệt. Năm 1999, vấn đề QLCTNH đã được Nhà nước rất quan tâm, cụ thể là vào ngày 16/07/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 155/1999/QĐ-TTg về ban hành Quy chế QLCTNH (sau đây gọi là Quy chế QLCTNH), đây được coi là văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta về QLCTNH. Theo khoản 3 Điều 3 Quy chế QLCTNH thì: "Quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động kiểm soát chất thải nguy hại
  • 20. 20 trong suốt quá trình từ phát sinh đến thu gom, vận chuyển, quá cảnh, lưu giữ, xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại" [10]. Với quy định này, vấn đề phòng ngừa, giảm thiểu tác hại của CTNH chưa được đặt ra, đây cũng là thiếu sót chính trong Quy chế QLCTNH. Sau một thời gian thực hiện, Quy chế QLCTNH đã bộc lộ những khiếm khuyết nhất định, làm cho công tác QLCTNH không đạt hiệu quả như mong muốn. Đến năm 2006, các khiếm khuyết này đã được khắc phục bằng các quy định trong Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ngày 26/12/2006 của Bộ Tài nguyên và môi trường về hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành nghề, mã số QLCTNH (gọi tắt là Thông tư số 12/2006/TT- BTNMT). Tại mục 2.1, Thông tư 12/2006/TT-BTNMT quy định: QLCTNH gồm các hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân loại, thu gom, vận chuyển, lưu giữ, xử lý (kể cả tái chế, thu hồi), tiêu hủy CTNH [1]. Sau 5 năm thực hiện theo Thông tư 12/2006/TT-BTNMT, các quy định về QLCTNH tiếp tục bộc lộ những bất cập cần phải khắc phục để hoàn thiện hơn cơ chế QLCTNH trong tình hình mới. Trước yêu cầu đó, ngày 14/4/2011, Bộ Tài nguyên môi trường đã ban hành Thông tư số 12/2011/TT- BTNMT quy định về QLCTNH (gọi tắt là Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT). Trong Thông tư 12/2011/TT-BTNMT thì khái niệm QLCTNH được quy định tại khoản 1 Điều 3 của Thông tư này như sau: QLCTNH là các hoạt động liên quan đến việc phòng ngừa, giảm thiểu, phân định, phân loại, tái sử dụng trực tiếp, lưu giữ tạm thời, vận chuyển và xử lý CTNH [4]. Sau một thời gian thực hiện, Thông tư 12/2011/TT-BTNMT cũng đã bộc lộ một số khiếm khuyết nhất định, dẫn đến công tác QLCTNH chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Mặt khác, Thông tư này được ban hành dựa trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường năm 2005 đã hết hiệu lực. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về chất thải nguy hại và hoàn thiện quy định về vấn đề này phù hợp với Luật bảo vệ môi trường mới, Chính phủ đã ban hành Nghị định
  • 21. 21 số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 về quản lý chất thải và phế liệu (gọi tắt là Nghị định số 38/2015/NĐ-CP) và Bộ Tài nguyên môi trường ban hành Thông tư số 36/2015/TT-BTNMT ngày 30/6/2015 về quản lý chất thải nguy hại (gọi tắt là Thông tư 36/2015/TT-BTNMT) thay thế Thông tư số 12/2011/TT- BTNMT. Theo đó, quản lý chất thải nguy hại được pháp luật về môi trường điều chỉnh với tư cách là một bộ phận nằm trong hệ thống quản lý chất thải và phế liệu nói chung. Theo Điều 1 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì: "Nghị định này quy định về: Quản lý chất thải bao gồm chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường, sản phẩm thải lỏng, nước thải, khí thải công nghiệp và các chất thải đặc thù khác; bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu" [14]. Như vậy, vấn đề quản lý chất thải nguy hại được điều chỉnh một cách tổng thể trong văn bản về quản lý chất thải, phế liệu nói chung. Điều này nhằm phù hợp với thực tế là chất thải nguy hại chỉ là một dạng chất thải có tính nguy hiểm cao hơn so với các chất thải thông thường khác. Theo Luật bảo vệ môi trường năm 2014 thì khái niệm quản lý chất thải được quy định như sau: "Quản lý chất thải là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải" [54]. Quản lý chất thải nguy hại với tư cách là một bộ phận nằm trong hệ thống quản lý chất thải và phế liệu nói chung, cho nên khái niệm quản lý chất thải nguy hại được hiểu như sau: "Quản lý chất thải nguy hại là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nguy hại". Như vậy, khái niệm QLCTNH lần đầu tiên được quy định tại Quy chế QLCTNH, sau đó khái niệm này đã quy định tại Khoản 15 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2015. Theo quy định hiện tại, khái niệm QLCTNH được diễn đạt một cách khái quát, rõ ràng, có nội hàm rộng hơn và đầy đủ hơn so với quy định tại khoản 3 Điều 3 của Quy chế QLCTNH cũng như so với quy định tại
  • 22. 22 mục 2.1 của Thông tư 12/2006/TT-BTNMT và khoản 1 Điều 3 Thông tư 12/2011/TT-BTNMT. Các nhà làm luật đã không coi quản lý chất thải nguy hại là các hoạt động riêng lẻ liên quan đến chất thải nguy hại nữa mà coi nó là một quá trình từ phòng ngừa cho đến giảm thiểu và cho đến khâu cuối cùng là xử lý chất thải nguy hại. Các nhà làm luật đã liệt kê hàng loạt các khâu của việc QLCTNH theo một quá trình chặt chẽ hơn, bao gồm các khâu phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTNH. Như vậy, trách nhiệm quản lý chất thải của cơ quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc QLCTNH không chỉ có từ khi chất thải đó phát sinh, mà các chủ thể trên còn có trách nhiệm trong việc phòng ngừa, giảm thiểu và giám sát bằng việc áp dụng mọi biện pháp kĩ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến… nhằm hạn chế lượng CTNH phát sinh trên thực tế hoặc chủ động kịp thời ứng phó khi có các sự cố môi trường xảy ra. Đồng thời không chỉ liên quan đến công tác QLCTNH trực tiếp mà còn ở dạng thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTNH. Như vậy, phạm vi quy định về QLCTNH rộng hơn rất nhiều so với các quy định trước kia, đòi hỏi trách nhiệm của các chủ thể QLCTNH là lớn hơn trong việc QLCTNH. Theo quy định trên, quản lý CTNH có những đặc điểm sau: Một là, trách nhiệm quản lý chất thải thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền QLCTNH và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm QLCTNH trong phạm vi chức năng luật định. Các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm QLCTNH là những chủ thể có những hoạt động liên quan trực tiếp đến CTNH như: chủ nguồn thải, chủ thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy. Hai là, nội dung quản lý CTNH là các hoạt động mà các cơ quan quản lý nhà nước về BVMT và các tổ chức, cá nhân có liên quan phải thực hiện. Cụ thể là: các cơ quan nhà nước có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện hệ
  • 23. 23 thống pháp luật về QLCTNH, thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời những sai phạm… các tổ chức, cá nhân có liên quan phải tiến hành những hoạt động phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý CTNH. Quy trình quản lý CTNH được thực hiện theo 5 giai đoạn. Đó là: Giai đoạn 1: Quản lý nguồn phát sinh CTNH. Đây là việc tiến hành các biện pháp để QLCTNH ngay tại chính nguồn phát sinh ra chất thải đó. Kiểm soát CTNH tại nguồn là một công việc khá phức tạp. Cách thông thường nhất được nhiều quốc gia sử dụng để giải quyết những vấn đề trên là tiến hành thủ tục đăng ký cấp giấy phép đối với các chủ nguồn thải CTNH, đặc biệt là trong ngành công nghiệp. Giai đoạn 2: Phân lập, thu gom và vận chuyển CTNH. Giai đoạn này được thực hiện bằng việc phân loại, thu gom toàn bộ CTNH tại tất cả các nguồn phát sinh ra chúng. Sau khi tiến hành việc thu gom, chất thải sẽ được vận chuyển đến khu xử lý và thải bỏ hoặc đến trạm trung chuyển hay đến nơi lưu giữ tạm thời. Giai đoạn 3: Xử lý trung gian. Giai đoạn này được tiến hành bởi những phương pháp xử lý khác nhau như: xử lý cơ học, xử lý hóa học, sinh học và nhiệt… nhằm làm giảm khối lượng CTNH, giảm thiểu hoặc loại bỏ độc tính để phù hợp hơn với khâu thải bỏ cuối cùng. Giai đoạn 4: Chuyên chở CTNH đi xử lý tiếp. CTNH sau khi xử lý trung gian sẽ được vận chuyển bằng những phương tiện chuyên dụng đến nơi xử lý cuối cùng của quy trình. Giai đoạn 5: Thải bỏ chất thải. Những phần chất thải khi không còn được tái chế và tái sử dụng sẽ được thải bỏ bằng những cách thức khác nhau như: chôn lấp hoặc thiêu đốt [55, tr. 79]. Việc quản lý CTNH có thể được thực hiện bằng nhiều công cụ như: kinh tế, pháp lý, kĩ thuật… trong đó công cụ pháp lý được coi là phương tiện
  • 24. 24 hiệu quả hàng đầu trong công tác QLCTNH, thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường. 1.2. TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay về các tội phạm môi trƣờng nói chung và tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại nói riêng Có thể chia lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam về tội vi phạm quy định về QLCTNH thành ba giai đoạn, bao gồm: giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - BLHS 1985; giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - BLHS 1985 đến khi đến khi BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009; giai đoạn từ khi BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đến nay. 1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự năm 1985 Trong giai đoạn trước khi có BLHS năm 1985, do những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan như hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta khi vừa trải qua một thời gian dài của chiến tranh giành độc lập, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn v.v… nên những quy định của pháp luật về BVMT khỏi sự ô nhiễm chưa được quan tâm, chú trọng nhiều. Từ những năm 1960, vấn đề BVMT đã được Nhà nước ta quan tâm thông qua các chủ trương, chính sách như: Chỉ thị số 07/TTg ngày 16/01/1964 về việc thu tiền bán khoán lâm sản và chi tiền nuôi rừng; Pháp lệnh quy định bảo vệ rừng ngày 11/9/1972... Đến những năm 1980 vấn đề BVMT nói chung được đạo luật cao nhất của Nhà nước là Hiến pháp 1980 quy định tại Điều 36: "Các cơ quan nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống" [42]. Đánh giá một
  • 25. 25 cách khái quát, PLHS nước ta giai đoạn 1945 đến trước năm 1985 có thể thấy mặc dù chưa đầy đủ, nhưng ở mức độ nhất định đã có những quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong việc BVMT ở một số lĩnh vực nhất định. Tuy nhiên, do những hạn chế khách quan của điều kiện kinh tế, xã hội nên môi trường với tính chất và tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, dân tộc và nhân loại chưa thực sự được nhận thức một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành cũng như yêu cầu của việc BVMT. Do vậy, trong lĩnh vực lập pháp, các quy định về BVMT nói chung và pháp luật hình sự nói riêng chưa được nhận thức một cách đầy đủ và khái quát thành một khách thể nhóm với tư cách là đối tượng được bảo vệ đầy đủ của pháp luật hình sự. Trong giai đoạn này, tội vi phạm quy định về QLCTNH chưa được quy định. 1.2.1.2. Giai đoạn từ khi pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự 1985 đến khi Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 Trong thời gian từ năm 1985 đến năm 1999, thời kỳ này nền kinh tế của đất nước đang hồi phục, quá trình đô thị hóa, sự sử dụng rộng rãi các loại hóa chất, thuốc bảo vệ thực vật; nạn phá rừng tràn lan đã làm mất cân bằng sinh thái trầm trọng... đã làm vấn đề BVMT trở thành thách thức lớn của xã hội [29, tr. 51]. Đứng trước những yêu cầu về BVMT khỏi sự ô nhiễm, Nhà nước ta đã quy định trong BLHS năm 1985 một số hành vi xâm hại đến các yếu tố của môi trường gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm và cá nhân vi phạm sẽ bị truy cứu TNHS. Đây là lần đầu tiên vấn đề BVMT được ghi nhận trong BLHS, tuy nhiên vấn đề này chưa được quy định trong một chương riêng biệt trong BLHS mà nó được ghi nhận tại 4 điều luật trong các chương VIII "các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính" và chương VII "các tội phạm về kinh tế" đó là: Điều 180 - Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai, Điều 181 - Tội vi phạm các quy định về quản lý bảo vệ rừng, Điều 195 - Tội vi phạm các quy định về BVMT gây hậu
  • 26. 26 quả nghiêm trọng, Điều 216 - Tội vi phạm về bảo vệ và sử dụng các di tích lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc quy định này còn rất sơ sài, không được hệ thống hóa, tập trung với tính chất là một chương riêng biệt đối với các tội phạm về môi trường, đồng thời, có thể các nhà làm luật lúc này chủ yếu là nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của các nguồn tài nguyên này mà chưa chú ý đến khía cạnh sinh thái của chúng. Có thể dễ dàng nhận thấy qua việc một số tội phạm về môi trường được gộp lại với những tội phạm khác và được hiểu không phải với tư cách là những tội phạm về môi trường. Hiến pháp 1992 ra đời trong hoàn cảnh vấn đề BVMT ngày càng được dư luận trong nước và quốc tế quan tâm. Nếu như, Hiến pháp 1980 quy định việc BVMT chỉ dừng lại ở mức độ "nghĩa vụ" đối với mọi công dân, các cơ quan, đơn vị, thì đến bản Hiến pháp năm 1992, đã thể hiện một mức độ quyết liệt hơn, nghiêm khắc hơn, cụ thể: "Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường" [44, Điều 29]. Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 1992 trong lĩnh vực BVMT, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hóa việc BVMT như: Luật Đất đai năm 1993, Luật BVMT năm 1993; Nghị định số 26/CP ngày 26/4/1996 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về BVMT v.v... Do BLHS năm 1985 được xây dựng và ban hành trước thời kỳ đổi mới, trong khi tình hình kinh tế - xã hội của đất nước ta có những bước phát triển và tiến bộ vượt bậc, xã hội phát sinh thêm nhiều quan hệ xã hội, các hành vi vi phạm pháp luật môi trường diễn ra rất nhiều hình thức khác nhau như không thực hiện các quy định về đánh giá tác động môi trường, vi phạm các quy định về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vi phạm các quy định về xuất khẩu công nghệ, thiết bị, chất thải, hóa chất độc hại....các hành vi mới này không được quy định trong BLHS năm 1985 mà chỉ được quy định và bị xử lý theo các Nghị hướng dẫn của Chính phủ nên không đủ sức ngăn
  • 27. 27 chặn các hành vi gây hại cho môi trường. Đây chính là những hạn chế đã được các nhà làm luật phát hiện, đánh giá, phân tích và bổ sung các loại tội phạm mới về BVMT trong lần pháp điển hóa lần thứ hai - BLHS năm 1999. Theo cách quy định của BLHS năm 1999, các nhà làm luật đã rất coi trọng vấn đề này và lần đầu tiên các tội phạm về môi trường được ghi nhận tại một chương riêng - Chương XVII của BLHS năm 1999, với 10 điều luật quy định khá cụ thể và chi tiết các hành vi xâm hại đến môi trường, cụ thể: Tội gây ô nhiễm không khí (Điều 182); Tội gây ô nhiễm nguồn nước (Điều 183); Tội gây ô nhiễm đất (Điều 184); Tội nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị, phế thải hoặc các chất không bảo đảm tiêu chuẩn BVMT (Điều 185); Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người (Điều 186); Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật (Điều 187); Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản (Điều 188); Tội hủy hoại rừng (Điều 189); Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190). Trong giai đoạn này, hành vi vi phạm quy định về QLCTNH chưa được quy định trong BLHS mà hành vi vi phạm quy định về QLCTNH chỉ được quy định tại văn bản của Thủ tướng Chính phủ ở cấp độ Quyết định. 1.2.1.3. Giai đoạn từ sau khi sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 cho đến nay Trải qua gần mười năm thi hành, một số quy định của BLHS năm 1999 về tội phạm môi trường nói chung, các loại tội phạm gây ô nhiễm môi trường nói riêng đã phát sinh một số hạn chế, vướng mắc và bất cập, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới, nhất là việc tăng cường hội nhập quốc tế và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, việc sửa đổi bổ sung một số quy định của BLHS năm 1999 đối với các tội phạm về môi trường là một việc làm cần thiết. Vấn đề ô nhiễm môi trường trong giai đoạn này trở nên một vấn đề rất nghiêm trọng tại Việt Nam, hàng loạt các vụ sai phạm về QLCTNH như
  • 28. 28 vụ công ty Vedan xả thải ra sông Thị Vải không qua quy trình xử lý, Vụ chôn lấp trái phép CTNH của công ty Nicotex Thanh Thái... đã dấy lên hồi chuông cảnh tỉnh về vấn đề ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Đặc biệt theo cảnh báo của các tổ chức quốc tế trong Hội nghị quốc tế về biến đổi khí hậu thì Việt Nam là một trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc biến đổi khí hậu. Trước tình hình đó, một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác nghiên cứu sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1999 là tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các tội phạm về môi trường trong BLHS để đấu tranh, phòng, chống có hiệu quả đối với các hành vi vi phạm này. Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định 11 tội danh ta ̣i chương XVII: Các tội phạm về môi trường, cụ thể: + Điều 182 Tội gây ô nhiễm môi trường. + Điều 182a Tội vi phạm các quy định về QLCTNH. + Điều 182b Tội vi phạm các quy định về phòng ngừa sự cố môi trường. + Điều 185 Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam. + Điều 186 Tội lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho con người. + Điều 187 Tội làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho động vật, thực vật. + Điều 188 Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản. + Điều 189 Tội hủy hoại rừng. + Điều 190 Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. + Điều 191 Tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên. + Điều 191a Tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại [51]. Bộ luật hình sự năm 1999, sử a đổi, bổ sung năm 2009 đã bổ sung một số tội mới do thực tế đòi hỏi cần phải được quy đi ̣nh , trong đó có tội vi phạm quy định về QLCTNH. Đây là lần đầu tiên, hành vi vi phạm quy định về QLCTNH được quy định trong BLHS.
  • 29. 29 Ở lần sửa đổi này, với việc quy định thành một danh mới thể hiện sự tiến bộ về mặt kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật, tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xử lý các hành vi vi phạm về QLCTNH. Mặt khác, cũng cho thấy sự phù hợp giữa Luật BVMT năm 2005 với BLHS. Đặc biệt, chủ thể của tội phạm này là người có trách nhiệm trong việc QLCTNH, với quy định của điều luật này góp phần tăng cường hơn nữa trách nhiệm của họ trong phạm vi nhiệm vụ của mình. Công tác quản lý là một khâu mang tính chất tiền đề mà nếu thực hiện tốt hoạt động này mới có thể hạn chế, ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật môi trường nói chung và trong lĩnh vực QLCTNH nói riêng. 1.2.2. Tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành Khoản 1 Điều 182a quy định: "1. Người nào vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm" [51]. Với cấu thành cơ bản nêu trên và theo quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức cá nhân trong hoạt động QLCTNH và danh mục CTNH được quy định trong luật chuyên ngành, thì các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội này được quy định như sau. 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại. Bất kì tội phạm nào cũng đều xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội nhất định được luật hình sự bảo vệ bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội đó [7, tr. 69]. Khách thể của tội phạm được khoa học luật hình sự thừa nhận chung gồm có khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp. Theo quan niệm chung, khách thể của tội phạm là hệ thống các quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại như:
  • 30. 30 Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [46, khoản 1, Điều 8]. Đối với các tội phạm về môi trường nói chung, khách thể loại của các tội phạm về môi trường là tổng thể những quan hệ xã hội được hình thành trong việc BVMT, về giữ gìn môi trường trong sạch, giữ gìn các điều kiện thiên nhiên thuận lợi đối với con người và các động vật sống khác, sử dụng hợp lý những tài nguyên thiên nhiên của nó và đảm bảo an toàn cho môi trường dân cư. Nội dung của các quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm về môi trường không giới hạn trong một lĩnh vực nào, như trong hoạt động kinh tế chẳng hạn. Hậu quả của những hành vi xâm hại về môi trường không chỉ đối với hoạt động kinh tế mà đối với toàn bộ cuộc sống trên trái đất. Trên cơ sở phân tích khách thể của loại tội phạm này, khách thể trực tiếp của từng tội phạm là những quan hệ cụ thể về bảo vệ và sử dụng hợp lý những bộ phận cấu thành của môi trường cũng như bảo đảm an toàn môi trường cho dân cư. Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan hệ xã hội về QLCTNH được quy định trong các văn bản pháp luật về BVMT và các văn bản khác. Các quan hệ xã hội này trực tiếp ảnh hưởng tới các yếu tố môi trường như đưa vào môi trường các chất thải nguy hại, không bảo quản, xử lý CTNH theo quy trình được pháp luật quy định. Các tội phạm về môi trường xâm hại đến sự bền vững và ổn định của môi trường, xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực quản lý và BVMT, gây ra những hậu quả nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho môi trường sinh thái cũng như tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người.
  • 31. 31 Khách thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH. Khi nghiên cứu khách thể của tội phạm không thể không tìm hiểu đối tượng tác động của tội phạm vì mỗi tội phạm đều xâm hại tới khách thể nhất định thông qua việc tác động đến một đối tượng cụ thể. Các bộ phận cấu thành nên khách thể bị hành vi phạm tội tác động nhằm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể bảo vệ của luật hình sự gọi là đối tượng tác động của tội phạm [7, tr. 72]. Đối tượng bị tội phạm tác động theo tội danh này là các quy định về QLCTNH. Theo khoản 15 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014 và Điều 1 Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì Quản lý chất thải nguy hại là quá trình phòng ngừa, giảm thiểu, giám sát, phân loại, thu gom, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nguy hại. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm Theo khoa học luật hình sự, mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm hành vi, hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội [7, tr. 98]. Mặt khách quan của tội phạm là tổng hợp tất cả những biểu hiện của tội phạm diễn ra và tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp phạm tội, các biểu hiện này đều hiện diện trên thực tế. Do đó, các biểu hiện khách quan của tội phạm không phải lúc nào cũng được thể hiện trong cấu thành tội phạm mang tính bắt buộc. Có biểu hiện được thể hiện trong cấu thành tội phạm cơ bản của tất cả các tội phạm (hành vi nguy hiểm cho xã hội), có biểu hiện chỉ được phản ánh trong cấu thành tội phạm của một số tội phạm cụ thể hoặc trong cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm nhẹ (hậu quả nguy hiểm cho xã hội), có biểu hiện đôi lúc được thể hiện như một tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ... Dù thế nào đi nữa, chúng ta cũng phải thấy rằng, mặt khách quan của tội phạm là một yếu tố của cấu thành tội phạm.
  • 32. 32 Không có mặt khách quan thì không có tội phạm xảy ra dù có thể các mặt khác của tội phạm đã hội đủ. Căn cứ vào lý luận về mặt khách quan của tội phạm và phân tích tội vi phạm quy định về QLCTNH được quy định tại Điều 182a BLHS thì về mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu sau: a) Dấu hiệu thứ nhất về mặt khách quan của tội vi phạm quy định về QLCTNH là hành vi nguy hiểm cho xã hội do tội phạm gây ra. Theo đó, người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH phải có hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Các hành vi vi phạm này được xác định theo luật chuyên ngành, chúng được quy định chung tại các điều từ Điều 90 đến Điều 94 của Luật BVMT năm 2014 hay tại Điều 7, Điều 8 và Điều 12 của Nghị định 38/2015/NĐ-CP. Cụ thể hơn nữa là các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH bị pháp luật nghiêm cấm được quy định tại các điều từ Điều 21 đến Điều 24 Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT, cụ thể như sau: - Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của chủ nguồn thải CTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm: + Không đóng gói, bảo quản CTNH theo chủng loại trong các bao bì chuyên dụng hoặc thiết bị lưu chứa tạm thời CTNH không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật theo quy định; + Không bố trí hoặc bố trí khu vực lưu giữ tạm thời CTNH không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật theo quy định; + Không thu gom triệt để CTNH vào khu vực lưu giữ tạm thời theo quy định; để CTNH ngoài trời mà CTNH đó có thể tràn, đổ, phát tán ra ngoài môi trường. + Để lẫn CTNH khác loại với nhau hoặc để lẫn CTNH với chất thải khác. + Hành vi chuyển giao, cho, bán CTNH cho tổ chức, cá nhân không có Giấy phép QLCTNH.
  • 33. 33 + Làm rò rỉ, tràn đổ CTNH hoặc để xảy ra sự cố tràn đổ CTNH ra môi trường đất, nước ngầm, nước mặt; + Tự xử lý CTNH khi không có công trình xử lý phù hợp và không được cơ quan có thẩm quyền cho phép; + Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT. + Chuyển giao, cho, bán không đúng quy định, chôn lấp, đổ, thải CTNH thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) theo quy định tại Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy gây ô nhiễm môi trường hoặc chôn lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường. - Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của chủ hành nghề QLCTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm: + Chuyển giao, cho, bán CTNH cho tổ chức, cá nhân không có đủ điều kiện về quản lý, xử lý, tiêu hủy CTNH hoặc không có giấy phép QLCTNH. + Không lưu giữ CTNH trước và sau khi xử lý trong thiết bị chuyên dụng phù hợp với loại hình CTNH; + Thiết bị chuyên dụng phục vụ lưu giữ CTNH, khu vực lưu giữ tạm thời CTNH hoặc thiết bị xử lý CTNH không đáp ứng yêu cầu kỹ thuật theo quy định. + Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT. + Chôn lấp, đổ, thải CTNH thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) theo quy định tại Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy ra môi trường không đúng quy định hoặc chôn lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường. - Các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của Chủ tái sử dụng CTNH có thể gây ô nhiễm môi trường gồm: + Tái sử dụng trực tiếp CTNH không theo đúng mục đích ban đầu của phương tiện, thiết bị, sản phẩm, vật liệu, hóa chất là nguồn gốc phát sinh CTNH này hoặc sử dụng cho mục đích khác hoặc chuyển giao lại cho một tổ chức, cá nhân khác mà không được phép tái sử dụng trực tiếp.
  • 34. 34 + Chôn lấp, đổ, thải CTNH không đúng quy định về BVMT. + Chôn lấp, đổ, thải CTNH thuộc Danh mục các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) theo quy định tại Công ước Stockholm về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy ra môi trường không đúng quy định hoặc chôn lấp, đổ, thải chất thải phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường [13]. b) Dấu hiệu thứ hai của mặt khách quan của tội phạm là hậu quả do hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm gây ra Về lý luận khoa học luật hình sự, tội vi phạm quy định về QLCTNH có cấu thành vật chất. Cụ thể, đối với tội phạm này hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH chỉ cấu thành tội phạm khi gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp sau: - Gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Trước đây, theo quy định tại Điều 92 Luật BVMT năm 2005 thì môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng là khi hàm lượng của một hoặc nhiều hóa chất, kim loại nặng vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 3 lần trở lên hoặc hàm lượng của một chất hoặc nhiều chất gây ô nhiễm môi trường khác vượt quá tiêu chuẩn về chất lượng môi trường từ 5 lần trở lên. Hiện tại, Luật BVMT năm 2014 không quy định vấn đề này. Mặc dù trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có Thông tư số 04/2012/TT-BTNMT ngày 08/5/2012 quy định tiêu chí xác định cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, Thông tư này hướng dẫn áp dụng xác định tiêu chí cơ sở kinh doanh "gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng" mang tính hình thức, có nghĩa là xác định cơ sở kinh doanh có đủ dấu hiệu xả thải, chôn lấp… vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép gấp một số lần nhất định thì cơ sở kinh doanh đó bị coi là "gây ô nhiễm nghiêm trọng" như quy định tại các điều 5, 6, 7, 8, 9 của Thông tư này. Điều này không tạo ra được nhận thức thống nhất chung giữa các cơ quan tiến hành tố tụng [5]. Vì trong BLHS đã quy định cụ thể để truy cứu TNHS về tội này phải bắt buộc gây hậu quả là ô
  • 35. 35 nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đây là vấn đề rất phức tạp chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng hướng dẫn cụ thể. - Gây hậu quả nghiêm trọng khác. Đây cũng là một vấn đề rất phức tạp và chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Một số nhà nghiên cứu có quan điểm cho rằng "gây hậu quả nghiêm trọng khác" có thể là trường hợp làm chết một người; gây tổn hại sức khỏe một người mà tỷ lệ tổn hại sức được xác định từ 31% trở lên... [31, tr. 409]. Đây là quan điểm chưa chính xác, quan điểm này có thể được căn cứ theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS trong đó có hướng dẫn các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 BLHS. Tuy nhiên, việc áp dụng hướng dẫn tại Nghị quyết nêu trên vào trường hợp "Gây hậu quả nghiêm trọng khác" trong tội vi phạm quy định về QLCTNH là không chính xác vì hậu quả của hành vi vi phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm môi trường hoàn toàn khác xa so với hậu quả của việc vi phạm quy định về điều khiển giao thông đường bộ. Như vậy, trong thời gian tới, việc các nhà làm luật nghiên cứu, quy định chi tiết nội dung "Gây hậu quả nghiêm trọng khác" là việc làm cần thiết để cụ thể hóa hơn nữa TNHS đối với những hành vi vi phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm môi trường. c) Hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH nêu trên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác sẽ bị xử lý hình sự về tội này khi không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của BLHS. Theo quy định của Điều 182 BLHS thì các trường hợp sau được coi là hành vi khách quan của tội gây ô nhiễm môi trường [31, tr. 404-406]. - Hành vi thải các chất gây ô nhiễm môi trường vào không khí, vào nguồn nước, vào đất... khói bụi của các công trường, nhà máy; các chất độc hại là các chất hóa học gây hại cho môi trường sinh ra trong quá trình sản xuất
  • 36. 36 hoặc vận hành máy móc như loại khí SO2, CO2, NO2... làm ô nhiễm không khí hoặc thải vào nguồn nước các chất thải như hóa chất độc hại, nước thải chưa được xử lý của các nhà máy, phế liệu, chất phóng xạ... hoặc thải vào đất các loại rác, chất thải phóng xạ, thuốc trừ sâu, hóa chất độc hại... vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng. - Hành vi phát tán bức xạ (bức xạ điện từ và bức xạ ion) được vận hành trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị, vật liệu có nguồn bức xạ có hại; phát tán phóng xạ có thể được phát tán ra khi sử dụng, vận hành các lò phản ứng hạt nhân, cơ sở nghiên cứu hạt nhân... vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng. Vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải là vượt quá tiêu chuẩn cho phép được quy định trong quy chuẩn quốc gia về môi trường. Các quy chuẩn này bao gồm: QCVN 07: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về ngưỡng CTNH; QCVN 19: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp đối với bụi và chất vô cơ; QCVN 24: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp; QCVN 05: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng không khí xung quanh; QCVN 06: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia một số chất độc hại trong không khí xung quanh; QCVN 14: 2008/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải sinh hoạt; QCVN 07: 2009/BTNMT- Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dư lượng hóa chất bảo vệ thực vật... Hành vi thải vào môi trường các chất thải hoặc phát tán bức xạ, phóng xạ nói trên bị xử lý hình sự khi vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng hoặc khi làm môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hoặc khi gây hậu quả nghiêm trọng khác. Có thể nói việc quy định trong Điều 182a, hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH nêu trên gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác sẽ bị xử lý hình sự về tội này khi không thuộc
  • 37. 37 trường hợp quy định tại Điều 182 của BLHS là quy định không hợp lý và có thể nói là thừa vì hai tội này có đối tượng tác động khác nhau, trong khi đối tượng tác động của tội gây ô nhiễm môi trường là sự bền vững và ổn định của những thành tố cơ bản của môi trường như không khí, đất và nguồn nước thì đối tượng tác động của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quy định về QLCTNH. Mặc dù cùng quy định về hậu quả đều là gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhưng chủ thể thực hiện hành vi của hai tội này hoàn toàn khác nhau, chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là những người có trách nhiệm theo pháp luật về quản lý chất thải nguy hại như chủ nguồn thải CTNH, chủ hành nghề QLCTNH, chủ tái sử dụng CTNH. Đối với chủ thể của tội gây ô nhiễm môi trường là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định. Vì vậy theo tác giả cần loại bỏ quy định "không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật hình sự" để thuận tiện trong việc áp dụng trên thực tiễn. 1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm Theo quy định của BLHS Việt Nam tại Điều 8 "Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý" và tại Điều 2 "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", chúng ta có thể thấy pháp luật nước ta quy định chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá nhân, con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS. Tội phạm theo BLHS Việt Nam phải có tính chất lỗi, do vậy chỉ những người có lỗi trong khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là chủ thể của tội phạm, phải là người có năng lực TNHS (là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức và điều khiển được hành vi của mình, nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó và đạt độ tuổi luật định).
  • 38. 38 Chủ thể của tội này là chủ thể đặc biệt vì ngoài các các yếu tố bắt buộc đối với các chủ thể của tội phạm thông thường thì họ phải là những người có trách nhiệm trực tiếp trong việc QLCTNH hoặc là người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát các công việc đó [31, tr. 409]. Tuy nhiên, đối với tội phạm này, về mặt lý luận khoa học luật hình sự việc xác định chủ thể đang có hai luồng quan điểm khác biệt. Quan điểm không ủng hộ việc truy cứu TNHS của pháp nhân cho rằng: Pháp nhân là một thực thể pháp lý, không có nhận thức, ý chí...; Pháp nhân hoạt động thông qua người đại diện (một thể nhân cụ thể), tức là không thể trực tiếp thực hiện được hành vi phạm tội. Do vậy, việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân là không đủ cơ sở lý luận. Hơn nữa, có những hình phạt trong BLHS không thể áp dụng đối với pháp nhân [8, tr. 650-655]. Quan điểm khác cho rằng việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân là hoàn toàn đảm bảo cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tiễn cho thấy, có nhiều quốc gia quy định và truy cứu TNHS đối với pháp nhân từ rất sớm trong lịch sử. Biểu hiện cụ thể nhất là các nước theo truyền thống án lệ như Vương quốc Anh đã pháp điển hóa vấn đề TNHS của pháp nhân từ thế kỷ XIX. Sau đó là các nước như Mỹ, Úc... hiện tại các nước Châu Á như Nhật, Trung Quốc... thừa nhận; về cơ sở lý luận, pháp nhân là một chủ thể độc lập. Mặc dù phải hoạt động thông qua con người cụ thể, nhưng hành động của người đại diện là nhân danh pháp nhân, theo nội quy quy chế của pháp nhân và đặc biệt là vì lợi ích của pháp nhân. Do vậy, pháp nhân phải chịu trách nhiệm đối với hành vi do người đại điện thực hiện. Hiện thực hóa vấn đề này cũng không triệt tiêu nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, bởi lẽ nhận thức truyền thống cần thay đổi để đảm bảo tính công bằng, tránh biến những người hành động nhân danh và vì lợi ích của pháp nhân phải gánh chịu TNHS thay pháp nhân [57, tr. 228-237]. Cơ sở thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, những chủ thể hành nghề QLCTNH theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT hoặc chủ nguồn thải, chủ xử
  • 39. 39 lý chất thải nguy hại theo quy định tại Nghị định 38/2015/NĐ-CP thì khó có thể là cá nhân. Cụ thể, về điều kiện cơ sở pháp lý, chủ thể thực hiện hoạt động QLCTNH phải có đăng ký ngành, nghề kinh doanh phù hợp trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy tờ tương đương. Thực tế cho thấy điều kiện này thường chỉ có pháp nhân mới có thể đáp ứng. Do vậy, về mặt lý luận cũng như thực tiễn việc điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về QLCTNH tội có nhiều vướng mắc. Bởi lẽ, BLHS Việt Nam chưa có quy định về truy cứu TNHS đối với pháp nhân. Khiếm khuyết này dẫn đến những người hành động nhân danh pháp nhân, cho dù không phải là chủ sở hữu pháp nhân phải chịu TNHS, mà đáng lý và công bằng là pháp nhân cũng phải chịu TNHS. 1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm Tội phạm là sự thống nhất giữa hai mặt khách quan và chủ quan. Vì vậy, PLHS Việt Nam không chấp nhận việc quy tội khách quan, nghĩa là truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào những biểu hiện của hành vi nguy hiểm cho xã hội không kể hành vi đó bắt nguồn từ đâu, diễn biến tâm lý của người thực hiện hành vi ra sao. Hoạt động định tội phải là sự kết hợp giữa mặt khách quan và chủ quan, giữa hành vi biểu hiện và thái độ bên trong của người thực hiện hành vi. Mặt chủ quan của tội phạm biểu hiện thông qua ba yếu tố: lỗi (là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó), động cơ phạm tội (là động lực thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội) và mục đích phạm tội (là kết quả cuối cùng mà người phạm tội muốn đạt được khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xác định khuynh hướng ý chí và khuynh hướng hành động của người phạm tội). Mỗi yếu tố có ý nghĩa khác nhau trong việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội [7, tr. 45]. Đối với tội vi phạm quy định về QLCTNH, lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý. Người phạm tội biết hành vi vi phạm quy định về QLCTNH của
  • 40. 40 mình là nguy hiểm cho xã hội, họ thấy được trước hậu quả của hành vi đó có thể gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, kinh tế v.v... nhưng vẫn thực hiện tội phạm. Có trường hợp, người phạm tội mong muốn những hậu quả trên sẽ xảy ra (đối với trường hợp là lỗi cố ý trực tiếp). Bên cạnh đó, cũng có trường hợp, người phạm tội tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (đối với trường hợp là lỗi cố ý gián tiếp) khi thực hiện những hành vi vi phạm quy định về QLCTNH. Động cơ và mục đích của tội vi phạm quy định về QLCTNH rất đa dạng nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. 1.2.2.5. Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại a) Hình phạt chính Theo quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999, hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định. Điều 182a BLHS quy định ba loại hình phạt chính: phạt tiền từ 50 triệu đồng đến 500 triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm, tù có thời hạn từ 6 tháng đến 10 năm. Cụ thể như sau: - Khung 1: quy định hình phạt tiền từ 50 triệu đến 500 triệu đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm áp dụng đối với người phạm tội không có những tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 2 Điều này. - Khung 2: Quy định hình phạt từ 2 năm đến 7 năm đối với: + Phạm tội có tổ chức: là trường hợp có từ hai người trở lên phạm tội, có sự cấu kết chặt chẽ, có sự phân công vai trò trách nhiệm của từng người trong quá trình phạm tội [46, Điều 20].
  • 41. 41 + Gây hậu quả rất nghiêm trọng: Như trên đã nêu, đây là một vấn đề chưa được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể. Một số nhà nghiên cứu có quan điểm cho rằng "gây hậu quả rất nghiêm trọng" có thể là làm chết từ 2 người trở lên; gây tổn hại cho sức khỏe của 3 người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới 1,5 tỷ đồng [31, tr. 410]. Như đã phân tích ở mục 1.2.2.2 - đây là quan điểm chưa chính xác. + Tái phạm nguy hiểm: là phạm tội trong trường hợp người phạm tội trước đây đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội này [46, Điều 49]. - Khung 3: Quy định hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm đối với người phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" như trên đã nêu cũng chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền. b) Hình phạt bổ sung Hình phạt bổ sung là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất được quy định trong Luật hình sự, do Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên kèm theo hình phạt chính trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật đối với chính người đã có lỗi trong việc thực hiện tội phạm, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của người bị kết án nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội, củng cố, hỗ trợ, tăng cường tác dụng của hình phạt chính, phòng ngừa chung và phòng ngừa riêng. Theo Điều 182a BLHS năm 1999 thì hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH là bị phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính từ 10 triệu đồng đến 150 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm. Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu về luật hình sự, đối với một số tội mang tính chất kinh tế, chức vụ, môi trường... thì hình phạt bổ sung
  • 42. 42 có tác dụng rất cao trong đấu tranh phòng chống đặc biệt là phòng ngừa việc thực hiện tội phạm, nhất là tái phạm. Ví dụ như hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm có tác dụng ngăn ngừa việc người phạm tội vi phạm quy định về QLCTNH có khả năng tái phạm thực hiện hành vi phạm tội này. 1.2.3. Phân biệt tội vi phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại và phân biệt tội này với một số tội phạm gây ô nhiễm môi trƣờng khác trong Bộ luật hình sự Việt Nam 1.2.3.1. Phân biệt với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại Một đặc điểm của hệ thống PLHS Việt Nam là có sự giao thoa giữa luật hành chính với luật hình sự. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH hiện nay được quy định trong Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BVMT (sau đây gọi tắt là Nghị định số 179/2013/NĐ-CP). Việc phân biệt hành vi phạm tội này với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH thể hiện qua các phương diện sau: - Về chủ thể vi phạm: Đối với chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH thì chủ thể vi phạm là những người có trách nhiệm trực tiếp trong việc QLCTNH hoặc là người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát các công việc đó. Đối với chủ thể vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH thì họ là cá nhân, tổ chức trong nước và cá nhân, tổ chức nước ngoài (Điều 2, Nghị định số 179/2013/NĐ-CP) - Về hành vi vi phạm: Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH rộng hơn so với hành vi vi phạm QLCTNH trong luật hình sự, chúng bao gồm các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH có thể gây ô nhiễm môi trường như: các hành vi chôn, lấp, đổ CTNH không đúng quy định
  • 43. 43 về BVMT... và các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH mang tính chất thủ tục hành chính như: không lập báo cáo QLCTNH định kỳ theo quy định, không sao gửi sổ đăng ký chủ nguồn thải... Trong khi đó, hành vi vi phạm quy định về QLCTNH trong luật hình sự chỉ bao gồm các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH có thể gây ô nhiễm môi trường. - Về hậu quả của hành vi vi phạm: Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH chưa gây hậu quả hoặc gây hậu quả là ô nhiễm môi trường. Trong khi đó, hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật hình sự về QLCTNH là phải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác. Về hậu quả của các hành vi phạm quy định về QLCTNH hiện nay đang có một số ý kiến cho rằng, theo cách quy định của Nghị định số 179/2013/NĐ-CP thì một số hành vi vi phạm như chôn, lấp, đổ CTNH không đúng quy định với số lượng lớn như quy định tại các điểm e, g, h khoản 9, khoản 10 Điều 21, các điểm e, g, h khoản 8, khoản 9 Điều 22, các điểm e, g, h khoản 7, khoản 8 Điều 23, các điểm e, g, h khoản 3, khoản 4 Điều 24 của Nghị định này thực chất đã vi phạm PLHS. Hành vi này chỉ vi phạm hành chính trong trường hợp các cơ quan chức năng bắt quả tang người vi phạm đang thực hiện hành vi. Trong trường hợp không bắt được quả tang người thực hiện các hành vi đó thì hậu quả gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng chắc chắn đã xảy ra, cho nên hành vi đó là vi phạm PLHS. Theo tác giả, trong thời gian tới các nhà làm luật cần quy định các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH một cách khoa học, rõ ràng hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc phân biệt giữa vi phạm hành chính với vi phạm PLHS ở lĩnh vực này. - Về thẩm quyền xử phạt: Đối với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực QLCTNH thì có nhiều cơ quan và cá nhân có thẩm quyền xử phạt như: Cảnh sát biển, Công an cấp tỉnh, Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chánh thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường, Chánh thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường theo quy định tại
  • 44. 44 các điểm đ, n, o, r, s, t khoản 1 Điều 54 Nghị định này. Đối với hành vi vi phạm quy định về QLCTNH trong pháp luật hình sự thì thẩm quyền xử phạt chỉ do Tòa án quyết định. 1.2.3.2. Phân biệt với tội gây ô nhiễm môi trường Việc phân biệt giữa các tội gây ô nhiễm môi trường với nhau là điều hết sức cần thiết không chỉ nhằm phân định rạch ròi giữa các tội phạm nói chung mà còn nhằm xác định đúng tội danh, truy cứu TNHS và quyết định hình phạt nói riêng. Bởi lẽ, theo dấu hiệu của mặt khách quan của tội vi phạm quy định về QLCTNH thì một trong những trường hợp loại trừ của tội phạm này là "nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 182 của Bộ luật này". Như vậy, việc phân biệt này sẽ góp phần làm rõ hai tội phạm này trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về QLCTNH với tội gây ô nhiễm môi trường thể hiện trên các phương diện sau: - Về khách thể: Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH. Khách thể trực tiếp của tội gây ô nhiễm môi trường xâm hại đến sự bền vững và ổn định của những thành tố cơ bản của môi trường như không khí, đất và nguồn nước làm thay đổi môi trường, vi phạm tiêu chuẩn về môi trường. - Về hành vi vi phạm: Hành vi của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các hành vi phạm các quy định về QLCTNH. Hành vi vi phạm của tội gây ô nhiễm môi trường quy định hai nhóm hành vi, đó là nhóm hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất các chất gây ô nhiễm môi trường và nhóm hành vi phát tán bức xạ, phóng xạ vượt quá quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất thải ở mức độ nghiêm trọng. - Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là chủ thể đặc biệt, họ là những người có trách nhiệm QLCTNH theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT như chủ nguồn thải CTNH,
  • 45. 45 chủ hành nghề QLCTNH, chủ vận chuyển CTNH, chủ xử lý CTNH, chủ tái sử dụng CTNH hoặc chủ nguồn thải CTNH, chủ xử lý CTNH theo Nghị định 38/2015/NĐ-CP. Họ là những người có trách nhiệm trực tiếp QLCTNH hoặc là những người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát công việc đó. Chủ thể của tội gây ô nhiễm môi trường là chủ thể thường có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Theo cách quy định của hai tội danh trên thì việc phân biệt giữa hai tội danh thông qua hành vi phạm tội là rất khó khăn vì chúng rất giống nhau và hậu quả của chúng đều gây ô nhiễm môi trường. Cũng theo cách quy định này thì đối với một trường hợp vi phạm quy định về QLCTNH cụ thể như chôn, lấp, đổ CTNH gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì sẽ xảy ra hai trường hợp: Trường hợp hành vi vi phạm do những người có trách nhiệm trực tiếp QLCTNH hoặc là những người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát công việc đó thực hiện thì người này chịu TNHS về tội vi phạm quy định về QLCTNH. Trong trường hợp hành vi vi phạm do những người khác thực hiện thì người này chịu TNHS về tội gây ô nhiễm môi trường. 1.2.3.3. Phân biệt với tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cốmôi trường Ngoài điểm giống nhau như hậu quả của hành vi phạm tội là đều bắt buộc phải gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì hai tội danh này có một số điểm khác biệt sau: - Về khách thể: Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực QLCTNH. Khách thể trực tiếp của tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường xâm hại đến các quan hệ xã hội phát sinh trong việc phòng ngừa sự cố môi trường hoặc ứng phó với sự cố môi trường. - Về hành vi vi phạm: Hành vi của tội vi phạm quy định về QLCTNH là các hành vi vi phạm các quy định về QLCTNH. Hành vi vi phạm của tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường quy định hai nhóm hành vi,
  • 46. 46 đó là nhóm hành vi vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường và nhóm hành vi vi phạm quy định liên quan đến ứng phó sự cố môi trường. - Chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội vi phạm quy định về QLCTNH là chủ thể đặc biệt, họ là những người có trách nhiệm QLCTNH theo quy định tại Thông tư 12/2011/TT-BTNMT như chủ nguồn thải CTNH, chủ hành nghề QLCTNH, chủ vận chuyển CTNH, chủ xử lý CTNH, chủ tái sử dụng CTNH hoặc chủ nguồn thải CTNH, chủ xử lý CTNH theo Nghị định 38/2015/NĐ-CP. Họ là những người có trách nhiệm trực tiếp QLCTNH hoặc là những người chịu trách nhiệm tổ chức, kiểm tra, giám sát công việc đó. Chủ thể của tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường là chủ thể thường, là bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. - Lỗi: Tội vi phạm quy định về QLCTNH, người thực hiện tội phạm với lỗi cố ý thường là cố ý gián tiếp. Đối với tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường thì người thực hiện tội phạm với lỗi vô ý. Theo cách quy định của hai tội danh này thì đối với một trường hợp vi phạm quy định về QLCTNH cụ thể như không thực hiện đúng kế hoạch phòng ngừa và ứng phó sự cố trong bộ hồ sơ đăng ký kèm theo giấy phép QLCTNH theo quy định tại các điểm d khoản 1 Điều 22, điểm d khoản 1 Điều 23 của Nghị định số 179/2013/NĐ-CP mà gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ bị truy cứu TNHS theo tội vi phạm quy định về QLCTNH hay theo tội vi phạm quy định về phòng ngừa sự cố môi trường? Theo tác giả, trong thời gian tới các nhà làm luật cần quy định các hành vi vi phạm quy định về QLCTNH một cách khoa học, rõ ràng hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong việc phân biệt giữa các tội gây ô nhiễm môi trường với nhau. 1.3. KINH NGHIỆM LẬP PHÁP HÌNH SỰ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Hành vi vi phạm quy định về QLCTNH gây ô nhiễm mỗi trường đã được BLHS Việt Nam đặt ra từ năm 2009. Tuy nhiên, kinh nghiệm lập pháp