SlideShare a Scribd company logo
1 of 85
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ GIAO LINH
TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC
CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ GIAO LINH
TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC
CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản
HÀ NỘI - 2015
3
Lêi cam ®oan
T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn
cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ
trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh
x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña
luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú
c«ng tr×nh nµo kh¸c.
T¸c gi¶ luËn v¨n
NguyÔn ThÞ Giao Linh
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN
SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của chứng khoán 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của các tội phạm về chứng khoán
và sự cần thiết quy định các tội phạm về chứng khoán trong
luật hình sự Việt Nam
11
1.2.1. Khái niệm tội phạm về chứng khoán 11
1.2.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm chứng khoán 16
1.3. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán theo Điều 181a Bộ luật Hình sự hiện hành
21
1.3.1. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi công bố thông tin sai
lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
21
1.3.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý công
bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán
26
1.3.3. Hình phạt của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu
sự thật trong hoạt động chứng khoán
35
1.3.4. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự về
tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán
37
1.4. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán trong luật hình sự một số nước
41
5
Chương 2: THỰC TIỄN XỬ LÝ VI PHẠM VÀ TỘI PHẠM CỐ Ý
CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ
THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VỀ TỘI PHẠM NÀY
46
2.1. Tình hình vi phạm và phạm tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán và xử lý
hình sự đối với tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng
46
2.1.1. Tình hình vi phạm trong trường hợp công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
46
2.1.2. Tình hình tội phạm và xử lý hình sự đối với tội cố ý công bố
thông tin sai lệch và che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán của các cơ quan tiến hành tố tụng
54
2.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự
về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán và nâng cao hiệu quả áp dụng
58
2.2.1. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định
của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội cố ý công bố thông tin
sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
58
2.2.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện
hành về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự
thật trong hoạt động chứng khoán
63
2.2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật Hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
65
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Trong những năm gần đây, chủ trương phát triển thị trường chứng
khoán đã góp phần làm cho nền kinh tế nước nhà có những chuyển biến tích
cực, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Bên cạnh mặt mạnh này, xuất
hiện ngày càng nhiều các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đầu tư và lưu thông
vốn, tác động tiêu cực đến trật tự quản lý kinh tế và nền kinh tế quốc dân.
Thị trường chứng khoán minh bạch là mục tiêu mà bất kỳ quốc gia
nào cũng hướng đến trong đó có Việt Nam. Nhưng tính minh bạch của thị
trường chứng khoán Việt Nam lại chưa được như kỳ vọng của các nhà quản
lý cũng như các nhà đầu tư. Đây cũng là lý do vì sao thị trường chứng khoán
trong những năm 2009-2011 gần như giậm chân tại chỗ, nhiều nhà đầu tư
trong nước cũng như nước ngoài muốn đầu tư vào thị trường mới phát triển
và nhiều tiềm năng như Việt Nam nhưng lại e ngại vấn đề minh bạch của thị
trường. Chính vì thế, hệ thống pháp luật có vai trò đảm bảo cho sự hoạt động
của thị trường chứng khoán, đảm bảo tính công bằng, công khai, minh bạch,
đúng sự thật của thị trường này.
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, công ty niêm yết không tuân thủ
luật công bố thông tin. Có thể thấy các quyết định xử phạt hành chính không
đủ mạnh để giáo dục, răn đe và ngăn chặn hành vi vi phạm trong lĩnh vực
này. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm không nhận thức được hậu quả
nghiêm trọng do mình gây ra nên họ tiếp tục vi phạm. Hàng loạt vụ việc liên
quan đến tình trạng công bố thông tin sai lệch, che giấu thông tin… của các
doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây,
đã khiến cho nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường chứng khoán. Trong khi đó,
chúng ta chưa có một công cụ pháp lý đủ mạnh để kịp thời trừng trị, răn đe
người có hành vi sai phạm.
7
Thấy được sự cần thiết phải có những chế tài nghiêm khắc hơn để xử
lý triệt để các hành vi vi phạm này, lần đầu tiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, đã bổ
sung quy định tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán trong ba tội danh trong lĩnh vực chứng khoán. Việc
ban hành này là hoàn toàn kịp thời, khá sát thực tiễn nhằm làm lành mạnh hóa
các giao dịch trong thị trường chứng khoán, từ đó, hạn chế có hiệu quả vi
phạm cũng như tội phạm xảy ra trong lĩnh vực này.
Tuy nhiên, đối chiếu Bộ luật Hình sự với các quy định hiện hành về
công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nhất định như quy định về định mức hậu quả
nghiêm trọng chưa phù hợp với điều kiện thực tế, những lĩnh vực buộc phải
minh bạch chưa được Bộ luật Hình sự hiện hành quy định chưa bao quát, còn
mang tính chất liệt kê, v.v…
Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài "Tội cố
ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán theo luật hình sự Việt Nam" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau,
đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề tính minh bạch trong
hoạt động chứng khoán, điển hình như:
- Dương Tuyết Miên (2010), Về các tội phạm chứng khoán trong luật
sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2;
- Nguyễn Thu Dung (2007), Pháp luật về công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán, Luận văn tốt nghiệp đại học;
- Nguyễn Thị Ánh Vân (2006), Chế độ công bố thông tin theo Luật
Chứng khoán năm 2006, Tạp chí Luật học, số 8;
8
- Phan Anh Tuấn (2011), Các tội phạm về chứng khoán trong luật
hình sự Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp
luật hình sự về các tội này, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4;
- Viên Thế Giang (2012), Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, Tạp
chí Tòa án nhân dân, số 1;
- Viên Thế Giang (2013), Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong
lĩnh vực chứng khoán ở VN hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3;
- Hoàng Thị Quỳnh (2009), Một số ý kiến về sửa đổi, bổ sung Bộ luật
Hình sự năm 1999 liên quan đến tội phạm chứng khoán, Tạp chí Tòa án nhân
dân, số 8;
- Đỗ Thúy Vân (2010), Cần hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định
tại Điều 181a, 181b, 181c Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, số 4;...
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các công trình khoa học
này về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán ở nước ta, cho thấy hầu hết đó là các công trình nghiên cứu
chưa chuyên sâu. Sự nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu
nhỏ lẻ trên tạp chí hoặc là đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
nói chung, trong đó tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán chỉ là một phần nhỏ, chưa được quan tâm đúng
mức. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng
chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo pháp luật hình sự
Việt Nam;
9
- Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt Nam quy định về tội
cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán, rút ra được những tồn tại, hạn chế các quy định đó và những nguyên
nhân của nó;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của luật hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung
vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về chứng khoán, tội phạm chứng
khoán, tội công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán;
- Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về tội cố ý
công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
theo Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng;
- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện
pháp luật quy định về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán, tác giả đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại tội này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực
tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan tới tội cố ý công bố
10
thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện,
có hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông
qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn
thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
nói riêng, nhất là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm
công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật
hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan
bảo vệ pháp luật,…
6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật
học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về tội cố ý công bố
thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo luật
hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về tội cố ý công bố
thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ
luật Hình sự;
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật
về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại
trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn
chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để
hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về loại tội cố
ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán này.
11
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý công bố thông tin sai lệch
hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn xử lý vi phạm và tội phạm cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán và một số giải
pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình
sự về tội phạm này.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH
HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG
KHOÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỨNG KHOÁN
Thuật ngữ chứng khoán được hiểu theo những nghĩa khác nhau tùy
theo mục đích khi điều chỉnh loại tài sản đặc biệt này.
Chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện tại Bỉ vào giữa thế kỷ XV, theo
đó, "các thỏa thuận được xác lập cho các giao dịch thực hiện ngay và các giao
dịch được thực hiện ngay và các giao dịch được thực hiện sau khoảng thời
gian nhất định" [41, tr. 7].
Black Law’s Dictionary lại cho rằng "chứng khoán là công cụ chứng
minh quyền sở hữu công ty, quyền chủ nợ với công ty hoặc chính phủ hoặc
các quyền khác của người nắm giữ" [52, tr. 1358].
Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm
2010 (sau đây gọi tắt là Luật Chứng khoán) quy định:
Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp
pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức
phát hành.
Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút
toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua,
quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ
số chứng khoán;
c) Hợp đồng góp vốn đầu tư;
d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quyđịnh [31, tr.26].
13
Chứng khoán thường mang các đặc điểm sau:
Tính sinh lời: người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng
khoán khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Tính
sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng khoán
và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Tính sinh lời còn xuất hiện khi người
nắm giữ chứng khoán giao dịch chứng khoán như loại tài sản được phép.
Tính thanh khoản là khả năng cho phép người sở hữu chứng khoán có
thể bán chứng khoán để nhận được khoản tiền nhất định. Tính thanh khoản
tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản chứng khoán sang
tiền thông qua giao dịch tại thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân
hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thỏa mãn nhu
cầu của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của
chứng khoán. Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào uy tín của
chủ thể phát hành, vào chuyển đổi và sự biến động của thị trường.
Tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ở bản chất của hoạt động đầu tư
vốn, đó là "lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai" thì
cả quãng thời gian đó chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro lớn hay không phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam
kết khác chính,… Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ
với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán.
Căn cứ vào quyền của người sở hữu chứng khoán đối với người phát
hành, chứng khoán vốn và chứng khoán nợ.
Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và quyền
liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khoán đối với đối tượng
phát hành ra nó. Đặc điểm của loại chứng khoán này có đặc điểm nhà đầu tư
không xác định được thời gian thu hồi vốn, mức thu nhập từ việc đầu tư
nhưng lại có cơ hội tham gia vào kiểm soát hoặc trực tiếp kinh doanh phần
vốn đã thu hút. Chứng khoán vốn có hai dạng cơ bản: cổ phiếu và chứng chỉ
14
quỹ đầu tư. Ngoài ra còn có chứng khoán phái sinh từ loại chứng khoán vốn
như chứng quyền.
Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành (Khoản 2
Điều 6 Luật Chứng khoán).
Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà
đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng (Khoản 4 Điều 6 Luật
Chứng khoán).
Chứng chỉ khoán nợ là loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn
định tương đối trong giao dịch trên thị trường là trái phiếu.
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (Khoản 3
Điều 6 Luật Chứng khoán).
Bên cạnh đó, cũng cần phải làm rõ khái niệm về thị trường chứng
khoán. Về khái niệm thị trường chứng khoán hiện nay cũng tồn tại nhiều quan
điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, thị trường chứng khoán và thị
trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị
trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn
biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng
khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch
vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà
thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị
trường tư bản. Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: Thị
trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng
nhất là một. Như vậy, theo quan điểm này, thị trường chứng khoán và thị
trường vốn là khác nhau, trong đó thị trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua
bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu
và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị
15
trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trường chứng khoán.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch
chứng khoán lại cho rằng "thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu",
hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy
động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi
thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và
trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, chúng tôi quan niệm đầy đủ
và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường chứng khoán hiện
nay đó là: thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao
đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá
hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và
tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có
sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng.
Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ
cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao
dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over The
Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn
(Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu
của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư
bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán
không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của
thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư
bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói,
bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa
cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông
tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình
thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
16
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG
KHOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG KHOÁN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.2.1. Khái niệm tội phạm về chứng khoán
Có thể nói, chứng khoán và thị trường chứng khoán đã xuất hiện, tồn
tại và phát triển ở Việt Nam như một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Bắt đầu từ năm 2000 và khởi sắc mạnh mẽ từ năm 2005 đến nay. Chủ
trương phát triển thị trường chứng khoán (kênh huy động vốn đầu tư và lưu
thông giữa các nguồn vốn đầu tư) đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta có
những chuyển biến tích cực nhất định, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát
triển. Bên cạnh mặt mạnh này, xuất hiện càng nhiều các vi phạm trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới
môi trường đầu tư và lưu thông vốn, tác động tiêu cực đến trật tự quản lý kinh
tế và nền kinh tế quốc dân. Trong báo cáo tổng kết công tác năm của Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế và chức vụ đều nhấn mạnh và khẳng định
từ năm 2005 đến nay vi phạm trên lĩnh vực chứng khoán có dấu hiệu gia tăng.
Hành vi vi phạm chủ yếu là các doanh nghiệp niêm yết tăng vốn nhưng không
báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, lừa đảo bán cổ phiếu trên thị trường
OTC, sử dụng vốn nhà nước, vốn của cổ đông để đầu tư chứng khoán nhưng
chưa được sự đồng ý của Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông, làm giả
chứng khoán... Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều doanh
nghiệp, công ty niêm yết không tuân thủ quy định của pháp luật về việc công
bố thông tin, thậm chí Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phạt không kịp, bỏ sót
hoặc vì lý do gì đó không phạt khiến doanh nghiệp kinh nhờn và nhà đầu tư
lãnh đủ... Hàng loạt vụ việc liên quan đến tình trạng công bố thông tin sai
lệch, thiếu, nhiễu thông tin… về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh của
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây, đã
khiến cho nhiều nhà đầu tư chán nản, rời bỏ thị trường, làm cho thị trường
chứng khoán trở nên ảm đạm.
17
Có thể nói sai phạm trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng phổ biến
và nghiêm trọng. Các giao dịch tại thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC)
diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để đối phó với thực trạng này Ngân
hàng Nhà nước đã ra Chỉ thị 03 ngày 28/5/2007 yêu cầu các ngân hàng
thương mại kiểm soát dư nợ đầu tư chứng khoán không quá 3% tổng dư nợ
của ngân hàng. Việc Ngân hàng Nhà nước ra chỉ thị trên cùng một số can
thiệp khác của Chính phủ, Ủy ban chứng khoán Nhà nước... đã làm thị trường
ổn định hơn song vi phạm không có biểu hiện giảm.
Trước tình hình chúng ta chưa có một công cụ pháp lý đủ mạnh để
ngăn chặn, kịp thời trừng trị, răn đe người có sai phạm đến mức phải xử lý
hình sự. Thông tư liên ti ̣ch số 46/2009, ngày 13/3/2009 giữa BộCông an và
Bộ Tài chính hướng dẫn phối hợp xử lý vi pha ̣m pháp luâ ̣t trong lĩnh vực
chứ ng khoán và thi ̣trường chứ ng khoán và việc sửa đổi Nghị định 36/NĐ-CP
về xử phạt hành chính trên lĩnh vực thị trường chứng khoán được ban hành đã
giúp công tác quản lý, giám sát, thanh tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
cũng được tăng cường hơn. Trước ngày Luật sửa đổi bổ sung có hiệu lực,
những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán
được giải quyết bằng các biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự bởi một số các tội phạm trong Bộ luật Hình sự nếu ở mức độ nguy
hiểm cho xã hội đến mức đáng kể như Tội lừa đảo, Tội làm giả con dấu, tài
liệu của cơ quan, tổ chức, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng…
Luật sửa đổi đã bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999
lần đầu tiên quy định ba điều luật (Điều 181a, 181b, 181c) trong lĩnh vực chứng
khoán đã góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực
quản lý, kinh doanh chứng khoán. Với ba tội phạm mới được ghi nhận trong
Luật sửa đổi bổ sung năm 2009 là cơ sở pháp lý hình sự để chúng ta điều tra,
truy tố, xét xử những người có hành vi phạm tội trong lĩnh vực này.
18
Như vậy, để bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chứng
khoán, việc quy định các hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán hay tội phạm chứng khoán được rất nhiều nước trên thế giới quan tâm
từ nhiều thập kỷ trước. Tuy nhiên, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
không được quy định thành nhóm tội riêng trong Bộ luật Hình sự của nhiều
quốc gia hay nói cách khác là được quy định thành một chương riêng trong
Bộ luật Hình sự, đạo luật duy nhất quy định về hành vi phạm tội cũng như chế
tài áp dụng đối với hành vi phạm tội đó, trong đó có Việt Nam.
Hiện nay, Bộ luật Hình sự chưa có định nghĩa trong luật về nhóm tội
phạm này, do đó định nghĩa về khái niệm khoa học về tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán chỉ được đề cập trong các sách báo pháp lý, công trình khoa học
của Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, mức độ đề cập và
làm rõ khái niệm về tội phạm chứng khoán còn rất hạn chế, các sách báo pháp lý
thường chỉ đề cập đến hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán,
cũng như hình thức xử phạt đối với các hành vi này mà chưa khát quát được
lên tầm lý luận, làm rõ bản chất của các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng như tội phạm trong các lĩnh
vực chuyên biệt khác đều là một bộ phận của tội phạm nói chung. Vì vậy, về
nguyên tắc, khái niệm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không những phải
thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm nói chung mà còn phải phản ánh những dấu
hiệu riêng thể hiện nét đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực chuyên biệt này.
Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ bao gồm các hành
vi trực tiếp vi phạm các quy định của pháp luật chứng khoán ở mức độ bị coi
là tội phạm. Theo nghĩa này, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể
được gọi là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt (chỉ xảy ra
trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán). Theo nghĩa rộng, tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm không chỉ tội phạm theo nghĩa
19
hẹp này mà còn cả các tội phạm khác xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, thị
trường chứng khoán. Các tội phạm khác này có thể được gọi chung là tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán không có tính riêng biệt (có thể xảy ra
trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng
khoán). Như vậy, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo nghĩa rộng bao
gồm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt và tội phạm trong
lĩnh vực chứng khoán không có tính riêng biệt. Do có các cách hiểu khác
nhau như vậy mà cũng có thể có những định nghĩa khác nhau về tội phạm
trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, chúng tôi
chỉ đề cập, làm rõ khái niệm tội phạm chứng khoán theo nghĩa hẹp.
Theo nghĩa hẹp, hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
là hành vi xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt
động chứng khoán qua việc vi phạm trực tiếp các quy định của pháp luật
chứng khoán về công bố thông tin chứng khoán, về vấn đề sử dụng thông tin
nội bộ trong lĩnh vực chứng khoán, về giá của chứng khoán, qua đó xâm
phạm chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho xã hội.
Thông thường, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp luật chứng khoán ở
mức độ nghiêm trọng được các quốc gia quy định là tội phạm ngay trong các
văn bản luật về chứng khoán hoặc trong Bộ luật Hình sự tại các điều luật
riêng biệt. Ở Việt Nam, trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa
đổi, bổ sung năm 2009, trong Bộ luật Hình sự hiện hành không có các điều
luật riêng về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán; còn trong các văn bản luật
về chứng khoán cũng không có quy định về tội phạm cụ thể mà chỉ quy định
chung là cho phép có thể truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm có
dấu hiệu tội phạm. Trong trường hợp này, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp
luật chứng khoán chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh
chung tương ứng đã được quy định trong Bộ luật Hình sự.
20
Tuy nhiên, năm 2009, với việc lần đầu tiên Bộ luật Hình sự hiện hành
đã có quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt với
ba tội danh: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán (Điều 181a), tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán
chứng khoán (Điều 181b) và Tội tháo túng giá chứng khoán (Điều 181c). Do
vậy, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam đã bao gồm một số
hành vi phạm tội đã được quy định trong các tội phạm nói trên trong Bộ luật
Hình sự và xảy ra trên thực tế trong lĩnh vực chứng khoán.
Từ các phân tích trên có thể định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán một cách chung nhất như sau: Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
hay tội phạm về chứng khoán là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại
những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định của
pháp luật chứng khoán, được quy định là tội phạm trong Bộ luật Hình sự
hoặc trong các luật liên quan đến chứng khoán, gây thiệt hại cho quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia chứng khoán, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
Các luật liên quan đến chứng khoán ở đây có thể là luật chứng khoán...
tùy theo quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam do
chúng ta chưa cho phép quy định tội phạm và hình phạt trong các luật chuyên
ngành nên tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được định nghĩa là:
Những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật chứng khoán, được quy
định là tội phạm trong Bộ luật Hình sự, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân tham gia chứng khoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến
chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Như vậy, đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình
sự chỉ là Bộ luật Hình sự như Việt Nam thì tội phạm trong lĩnh vực chứng
21
khoán dù thuộc nhóm nào - nhóm chỉ xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán hay
nhóm có thể xảy ra ở các lĩnh vực khác nhau đều chỉ được quy định trong Bộ
luật Hình sự. Đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình sự
không chỉ là Bộ luật Hình sự mà còn có thể là các luật khác thì tội phạm trong
lĩnh vực chứng khoán có thể được quy định trong Bộ luật Hình sự và trong
các luật khác. Các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt có
thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hoặc trong chính các luật riêng biệt
về chứng khoán. Trong các luật riêng biệt về chứng khoán, nhà làm luật có
thể quy định các hành vi vi phạm và các tội phạm, trong đó tội phạm là các
hành vi vi phạm luật chứng khoán ở mức độ nghiêm trọng và do vậy có tính
nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Bộ luật Hình sự cũng có thể quy định các
tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán tương đối thông thường và ổn định trên
cơ sở pháp điển hóa các hành vi phạm tội đã được quy định trong các luật
riêng biệt về chứng khoán.
1.2.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm chứng khoán
Xét về nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm nói
chung cũng như tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có các dấu hiệu (đặc
điểm) như đã được trình bày; xét về cấu trúc, tội phạm nói chung cũng như tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán có bốn yếu tố hợp thành. Đó là khách thể,
mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.
* Khách thể của tội phạm về chứng khoán. Quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, theo khoa học luật hình sự, được coi là
khách thể của tội phạm. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ
xã hội bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định, được
Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng pháp luật hình sự.
Tại Việt Nam chứng khoán và thị trường chứng khoán có vai trò rất
quan trọng thông qua một số khía cạnh sau: (i) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc
dân. Do có chứng khoán và thị trường chứng khoán nên việc đầu tư các nguồn
22
vốn tạm thời nhàn rỗi dễ dàng hơn. Từ việc nguồn vốn bị ứng đọng từ nhiều
nơi, không có khả năng sinh lời, cho đến khi có thị trường chứng khoán việc
đầu tư, tích lũy vốn sôi động và dồi dào hẳn lên. Thông qua đó nền kinh tế
tăng trưởng mạnh mẽ, công ăn việc làm được giải quyết, thất nghiệp giảm.
Bên cạnh, thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn
từ dân chúng, như một nam châm cực mạnh hút các nguồn vốn từ nước ngoài.
Ngoài ra còn giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách, có thêm
vốn xây dựng hạ tầng cơ sở. (ii) Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng
vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn. Khi doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui
mô sản xuất họ có thể phát hành chứng khoán, vào thị trường để huy động
vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát hành và lúc đó nguồn vốn của
doanh nghiệp tăng lên. Lúc này rủi ro đối với doanh nghiệp là rất nhỏ vì
những cổ đông của họ đã gánh đỡ thay. Một điều thuận lợi nữa, khi doanh
nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể dự trữ
chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được
chuyển nhượng thành tiền khi cần thiết thông qua thị trường chứng khoán.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, có nghĩa là
đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư. Như vậy các công ty chứng khoán sẽ
là tác nhân kích thích giúp doanh nghiệp tạo vốn nhanh chóng hơn. (iii) Chứng
khoán và thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán
tương lai. Thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phức tạp, liên quan
đến vận mệnh của nền kinh tế quốc dân. Sự hình thành thị giá chứng khoán
của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự hoạt động
của doanh nghiệp đó trong hiện tại và dự doán tương lai. Khi giá cổ phiếu của
một doanh nghiệp cao (hay thấp) biểu hiện trạng thái kinh tế tức là khả năng
mang lại cổ tức cao (hay thấp) cho các cổ đông của doanh nghiệp đó. Triển
vọng tương lai của các doanh nghiệp cũng được thể hiện một cách trực tiếp
trên thị giá cổ phiếu và cũng như sự biến động của nó. Ngoài ra, với phương
23
pháp chỉ số hóa thị giá của các loại chứng khoán chủ yếu trong nền kinh tế và
việc nghiên cứu phân tích một cách khoa học hệ thống chỉ số giá chứng khoán
trên thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với thị trường thế
giới, đã dự đoán được trước sự biến động kinh tế của một hoặc hàng loạt các
nước trên thế giới. Như vậy, chứng khoán, thị trường chứng khóa có vai trò,
tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế, nó cần phải được bảo vệ khỏi sự
xâm hại bằng những công cụ pháp lý trong đó có luật hình sự.
Với việc quy định Bộ luật Hình sự về ba tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán thì có thể hiểu rằng các quan hệ xã hội trong lĩnh vực chứng
khoán là nhóm quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và có thể trở
thành khách thể của tội phạm. Đó là quan hệ giữa các chủ thể - Nhà nước, các
tổ chức chứng khoán, người tham gia chứng khoán. Quan hệ này được hình
thành, duy trì và phát triển là nhằm mục đích tạo vốn cho nền kinh tế của Nhà
nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu
quả hơn, và tạo lợi nhuận trực tiếp cho người tham gia chứng và qua đó đảm
bảo cho sự ổn định của xã hội nói chung. Quan hệ xã hội trong lĩnh vực
chứng khoán chỉ có thể duy trì và phát triển để thực hiện chức năng xã hội tốt
đẹp đó khi các chủ thể thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Như
vậy, với tầm quan trọng của chứng khoán, thị trường chứng khoán đối với sự
ổn định xã hội và hơn nữa với nguy cơ dễ bị xâm phạm, các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực chứng khoán được xác định là nhóm quan hệ xã hội phải được
bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Hay nói cách khác, quan hệ chứng khoán được
coi là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự và trong trường hợp bị xâm
phạm ở mức độ đáng kể, quan hệ chứng khoán trở thành khách thể của tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán.
* Mặt khách quan của tội phạm về chứng khoán. Cũng như các tội
phạm khác, yếu tố mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán
gồm trước hết là hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và quan
24
hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, bên
cạnh đó còn có thể là thủ đoạn phạm tội, thời gian phạm tội...
Về hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội: Hành vi khách quan của
tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán được Bộ luật Hình sự quy định ở ba loại
hành vi sau:
- Hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên
quan đến chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán,
tổ chức thị trường, đăng ký, lưu kí, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán.
- Hành vi sử dụng thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ
đại chúng chưa được công bố để mua chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp
thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở
thông tin đó thu lợi bất chính.
- Hành vi thao túng giá chứng khoán, thể hiện ở việc thông đồng để
thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo hoặc giao
dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua
chứng khoán.
Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả của tội phạm trong lĩnh vực
chứng khoán trước hết là thiệt hại về vật chất cho tổ chức phát hành chứng khoán,
nhà đầu tư, người tham gia chứng khoán, ảnh hưởng đến vấn đề quản lý nhà
nước về quản lý thị trường chứng khoán, gây xáo động lớn trong nền kinh tế.
Trong các cấu thành tội phạm của tội phạm trong lĩnh vực chứng
khoán, hành vi khách quan đòi hỏi phải được mô tả và là dấu hiệu bắt buộc
của tất cả các cấu thành tội phạm cơ bản. Tuy nhiên, việc xác định biểu hiện
cụ thể của hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như việc quy định, mô tả dấu
hiệu này như thế nào trong cấu thành tội phạm hoàn toàn không giống nhau
giữa các quốc gia. Thông thường, hậu quả của các tội trong lĩnh vực chứng
khoán không được xác định là thiệt hại được tính ra bằng tiền mà hậu quả của
những hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán đó là gây lũng đoạn thị
25
trường giao dịch chứng khoán hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư
hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của doanh nghiệp bị thông tin sai sự thật... và
để cấu thành tội phạm thì thiệt hại này phải đạt mức độ nhất định. Ngoài ra,
thiệt hại ở mức độ cao hơn còn có thể được mô tả là dấu hiệu định khung tăng
nặng trong các cấu thành tội phạm.
* Chủ thể của tội phạm về chứng khoán. Chủ thể của tội phạm là cá
nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi theo luật hình sự quy định đã
thực hiện tội phạm về chứng khoán theo luật hình sự quy định.
Theo luật hình sự của các nước trên thế giới cũng như luật hình sự
Việt Nam, cá nhân có thể là chủ thể của tội phạm nếu có hành vi thỏa mãn các
dấu hiệu định tội của các tội phạm cụ thể. Đối với tội phạm nói chung hay tội
phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt cũng vậy, cá nhân khi là chủ thể của một
tội phạm có thể là chủ thể thường mà cũng có thể là chủ thể đặc biệt. Trong
đó, chủ thể thường chỉ đòi hỏi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi
luật định; còn chủ thể đặc biệt đòi hỏi phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác.
Trong lĩnh vực chứng khoán, chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực này chỉ
cần là chủ thể thường.
* Mặt chủ quan của tội phạm về chứng khoán. Mặt chủ quan của tội
phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng có các biểu hiện là lỗi, mục đích và
động cơ phạm tội. Trong đó, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các cấu
thành tội phạm.
Dấu hiệu lỗi ở tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ có thể là lỗi
cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp đối với tội công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu sai sự thật trong hoạt động chứng khoán hoặc đối
với tội thao túng giá chứng khoán, hoặc chỉ là lỗi cố ý trực tiếp đối với tội sử
dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán.
Mục đích phạm tội của các tội phạm chứng khoán không chỉ là mục
đích tư lợi mà còn nhằm mục đích gây lũng đoạn, rối loạn thị trường chứng
khoán, gây thiệt hại cho nhà đầu tư...
26
1.3. TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ
THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐIỀU 181A BỘ LUẬT
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH
1.3.1. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi công bố thông tin sai
lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
Bộ luật Hình sự được ban hành năm 1999 đã thể chế hóa một bước
chủ trương, chính sách hình sự và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta,
nhất là những vấn đề về tội phạm và hình phạt, các chính sách nhân đạo... Qua
8 năm thực hiện, Bộ luật Hình sự đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự hiện hành chưa cập nhật được những hành
vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử lý về mặt hình sự mới xuất hiện trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế,
nhất là trong một số lĩnh vực như: công nghệ thông tin, chứng khoán, tài
chính - kế toán, sở hữu trí tuệ v.v... Trong lĩnh vực chứng khoán, nhà làm luật
cho rằng đây là lĩnh vực chuyên môn phức tạp, do đó trước mắt chỉ quy định
trách nhiệm hình sự đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mang tính
phổ biến, ổn định, đồng thời phải quy định rõ hơn cấu thành cơ bản của tội
danh này để bảo đảm tính khả thi trong áp dụng pháp luật.
Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán vận hành một cách an toàn,
hiệu quả, công khai, công bằng, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể tham gia thị trường và duy trì được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị
trường, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển hơn nữa thì
mọi quan hệ phát sinh trên thị trường phải được pháp luật dự liệu hay nói
cách khác, cần có sự can thiệp của pháp luật vào hoạt động của thị trường,
nhất là các hành vi xâm hại đến quy tắc hoạt động của thị trường. Nhận rõ
27
được vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế của
đất nước, các nhà làm luật đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán nói chung và văn bản pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng, cũng như sửa đổi, bổ
sung các văn bản cũ cho phù hợp với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, các
quy định này, đến nay không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Thời gian
gần đây các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán phát sinh ngày càng
nhiều, quy mô lớn, hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao. Cũng chính
vì thế, hình thức xử phạt vi phạm hành chính không đủ mạnh để răn đe, giáo
dục người vi phạm nhận thức rõ hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra.
Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân
dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm.
Mặt khác, Bộ luật Hình sự được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh
nước ta chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nên kinh tế thị trường
chưa phát triển như bây giờ, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều
kiện gia nhập, do vậy, Bộ luật Hình sự chưa dự liệu được hết những hành vi
phạm tội mới phát sinh, và chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là các
tội phạm về chứng khoán mang tính xuyên quốc gia. Do đó, chưa tạo cơ sở
pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc xử lý triệt để các vi phạm này.
Việc quy định tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam
bao gồm các tội: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); Tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán (Điều 181b); Tội thao túng giá chứng khoán (Điều
181c) là cần thiết, có ý nghĩa lớn trong việc đáp ứng việc phòng chống, ngăn
chặn tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán đang ngày một gia tăng mà các
hình thức xử phạt khác không ngăn chặn được.
28
Trong hoạt động chứng khoán, thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với
tất cả các chủ thể tham gia thị trường. Thực tiễn cho thấy, không phải chủ thể
tham gia thị trường nào cũng có cơ hội tiếp cận được thông tin thị trường,
nhất là thông tin của tổ chức phát hành - chủ thể cung ứng hàng hóa chủ yếu
cho thị trường, do đó, trên thị trường thường xuyên xuất hiện tình trạng loan
truyền thông tin sai sự thật hoặc thông tin gây hiểu lầm hoặc che giấu thông
tin. Do đó, bất kỳ hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán trực tiếp hay gián tiếp đều gây hại cho nhà đầu
tư, thị trường, nhất là suy giảm lòng tin của công chúng đối với thị trường.
Việc hình sự hóa hành vi cô ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán được coi là bước tiến quan trọng trong việc
hoàn thiện khung pháp luật xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi này được thể hiện
qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, vai trò công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán.
Phân tích những rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán, thì rủi ro
thông tin được coi là rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn của mọi rủi ro trong đầu
tư chứng khoán, đó chính là rủi ro từ sự dại dột và những sai lần do thiếu hiểu
biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường nhạy bén,
chính xác của nhà đầu tư. Do đó, khả năng lắng nghe, phân tích các "chiêu
thức" và cả "nghệ thuật" tung tin tồn, gây nhiễu thông tin sẽ là lá chắn để nhà
đầu tư bảo vệ mình tránh được những cạm bẫy và gắn với thế giới thông tin
thị trường luôn mờ ảo trên thị trường chứng khoán. Để đảm bảo tính công
khai, minh bạch trên thị trường được thực hiện trên thực tế, nhà làm luật đã
quy định nghĩa vụ công bố thông tin đối với các chủ thể tham gia hoạt động
chứng khoán.
Thông qua hoạt động công bố thông tin, nhà đầu tư có được cái nhìn
tổng thể về tổ chức phát hành cũng như thị trường là cơ sở quan trọng cho
29
việc tạo lập, củng cố niềm tin của giới đầu tư và các bên có liên quan đến thị
trường vốn; công bố là căn cứ quan trọng nhất đánh giá tính công khai, minh
bạch của thị trường, trên cơ sở đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những
rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán.
Đối với cơ quan quản lý thị trường, công bố thông tin trong hoạt động
chứng khoán là căn cứ cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị
trường chứng khoán nhận định những phản ứng của thị trường đối với cơ chế,
chính sách, pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán
đối với hoạt động của thị trường, làm cơ sở cho các cơ quan này đánh giá tính
hợp lý hay không hợp lý của chủ thể tham gia thị trường, đồng thời cũng là cơ
sở để nhà nước ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và
thị trường chứng khoán.
Đối với nhà đầu tư chứng khoán công bố thông tin trong hoạt động
chứng khoán là cơ sở cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư; điều chỉnh danh
mục đầu tư chứng khoán giúp cho nhà đầu tư lựa chọn được lĩnh vực chứng
khoán có khả năng sinh lời cao.
Khi thông tin chứng khoán không được công bố đầu đủ, chính xác và
kịp thời theo quy định của pháp luật sẽ thành nguyên nhân bất ổn trên thị
trường. Do vậy, việc hình sự hóa hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc
che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán sẽ tạo hành lang pháp lý đầy đủ
cho việc xử lý với những chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng,
không đầy đủ nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, hậu quả của việc công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu
thông tin trong hoạt động chứng khoán.
Đối với thị trường chứng khoán, tính kịp thời của thông tin có ý nghĩa
quyết định đối với hoạt động của nhà đầu tư, tính chính xác của thông tin được
công bố giúp cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế đến mức
thấp nhất rủi ro do tình trạng thông tin không chính xác, không kịp thời mang
30
lại. Hệ quả của việc công bố thông tin sai lệch là nhà đầu tư không biết được
đâu là nguồn thông tin chính xác; không có cơ sở để phân tích thông tin, không
thể truy cứu được trác nhiệm của những người tung tin đồn thất thiệt; …
Thứ ba, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán.
Thực tiễn thực thi pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng
khoán ở Viện Nam trong thời gian qua cho thấy, mức độ tuân thủ pháp luật về
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam không cao, các
hành vi vi phạm pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
vẫn diễn ra ngày càng phổ biến.
Thời gian qua thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến hàng loạt
các vụ cổ đông lớn lợi dụng vị trí của mình đã "quên" không công bố thông
tin theo luật định và khi phát hiện xử lý thì mới "nhận khuyết điểm và cam kết
không tái phạm" như trường hợp thành viên Hội đồng quản trị Công ty nhựa
Đồng Nai, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại;…
Với sự biến động của thị trường, và lợi nhuận mang lại của việc che
giấu thông tin hoặc công bố thông tin sai lệch, nhiều trường hợp, nhà đầu tư
cố ý không công bố hoặc công bố sai lệch, "chấp nhận" bị xử phạt hành chính
vì mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này có mức cao nhất chỉ
là 70.000.000 đến 90.000.000 đồng nên hiệu quả đấu tranh với loại hành vi
này không cao.
Nhận thức được tính cần thiết, sự cấp bách phải hình sự hóa hành vi
cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng
khoán, Bộ Tài chính đã đề xuất với Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc bổ
sung thầm quyền khởi tố đối với hành vi này cùng với hai hành vi khác trong
lĩnh vực chứng khoán. Theo Bộ Tài chính nhận định ba hành vi được đề
xuất là ba hành vi nguy hiểm nhất trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán.
31
1.3.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội cố ý công
bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
1.3.2.1. Khái niệm tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu
sự thật trong hoạt động chứng khoán
Luật sửa đổi đã bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999
lần đầu tiên quy định tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a) đã góp phần làm lành mạnh hóa
các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh chứng khoán, là cơ sở
pháp lý hình sự để chúng ta điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội này.
Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán cũng như tội phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt khác
đều là một bộ phận của tội phạm nói chung. Vì vậy, về nguyên tắc, khái niệm
tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không những phải thoả mãn các dấu
hiệu của tội phạm nói chung mà còn phải phản ánh những dấu hiệu riêng thể
hiện nét đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực chuyên biệt này.
Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán bao gồm hai tội phạm riêng biệt, đó là tội cố ý công bố
thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán và tội che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán.
Công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán là việc đưa thông tin
về tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán tới các đối tượng sử dụng
thông tin theo các quy định về công bố thông tin hiện hành. Công bố thông tin
là hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ thị trường hàng hóa nào. Tuy
nhiên, do đối tượng phản ánh khác nhau nên hoạt động công bố thông tin trên
thị trường chứng khoán có những đặc trưng, khác với thị trường hàng hóa khác:
- Công bố thông tin phải theo một trình tự pháp lý nhất định: bao gồm
các bước như: tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, báo cáo và công bố thông
tin,… Việc công bố thông tin theo một trình tự nhất định đảm bảo cho thông
32
tin công bố là chính xác và kịp thời, đảm bảo tính công bằng trong việc tiếp
cận thông tin của các nhà đầu tư.
- Công bố thông tin phải do các chủ thể nhất định thực hiện: các chủ
thể này có nghĩa vụ công bố, có khả năng công bố và đồng thời là người chịu
trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, phi nội gián của thông tin được
công bố. Hoạt động của chủ thể này thường dẫn đến các hành vi vi phạm như:
thông tin bị rò rỉ, thông tin không chính thức, tin đồn không có căn cứ, giao
dịch nội gián liên quan đến người có trách nhiệm trong quá trình công bố
thông tin.
- Công bố thông tin được tiến hành liên tục, kịp thời: thị trường chứng
khoán là thị trường hoạt động liên tục về thời gian và không gian. Mỗi trạng
thái thị trường đều tồn tại trong một khoảng thời gian xác định, nếu thông tin
không được cập nhật nhanh chóng sẽ không phản ánh chính xác tình hình thị
trường, nhà đầu tư dễ bị thiệt hại do những quyết định sai lầm của mình.
- Công bố thông tin phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc hoạt động của
thị trường chứng khoán như: nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch;
nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thông tin phải
được công bố đầy đủ, chính xác, kịp thời và liên tục, đảm bảo công bằng đối
với các đối tượng tiếp nhận thông tin được công bố; nguyên tắc trách nhiệm
của chủ thể công bố thông tin;…
Bất kỳ hành vi công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán nào
trái với các quy tắc trên đều bị coi là vi phạm trong hoạt động chứng khoán.
Tùy thuộc mức độ vi phạm mà bị coi là vi phạm hành chính hay tội phạm.
Gian lận về thông tin trong chứng khoán là việc trực tiếp hay gián tiếp
tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm
nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công
chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về
chứng khoán và thị trường chứng khoán (Khoản 1 Điều 9 Luật chứng khoán).
33
Thông tin sai sự thật được hiểu là thông tin mà tổ chức công bố không
có khả năng thực tế để thực hiện. Khi đó doanh nghiệp công bố phải có nghĩa
vụ chứng minh, nếu họ không đưa ra được cơ sở thực tế của thông tin này thì
mọi thông tin đều bị coi là sai sự thật.
Vì vậy, tội cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng
khoán là hành vi công bố thông tin sai sự thật liên quan đến hoạt động của
một pháp nhân, công bố thông tin không đúng với các thông tin trong hồ sơ
giao dịch chứng khoán.
Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là việc người có nghĩa
vụ công bố thông tin nhưng không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ
các thông tin trong hồ sơ giao dịch chứng khoán. Nếu hành vi che giấu sự
thật này gây ra hậu quả nghiêm trọng được Bộ luật Hình sự quy định thì sẽ trở
thành tội phạm.
Trên thị trường chứng khoán, thông tin được coi là nền tảng của mọi
hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư là những người tiến hành hoạt động mua
bán chứng khoán nhưng lại không đủ điều kiện hoặc không có khả năng kiểm
soát hoạt động kinh doanh sản xuất của tổ chức phát hành. Vốn đầu tư của họ
luôn có nguy cơ bị công ty phát hành sử dụng không đúng mục đích, không
có lãi hoặc không hiệu quả. Ở đây xuất hiện tình trạng có thông tin nhưng
không muốn công bố hoặc công bố không đầy đủ do sợ ảnh hưởng đến lợi ích
của mình. Các công ty phát hành dường như không muốn minh bạch, muốn
che giấu tình hình hoạt động kinh doanh do tâm lý e ngại phải đưa ra những
thông tin bất lợi cho mình.
Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: Tội cố ý công bố thông tin sai
lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là hành vi nguy hiểm
cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự bảo vệ, phát
sinh trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật chứng khoán về
việc công bố thông tin và sự thật trong hoạt động chứng khoán, gây hậu quả
34
nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần của tổ chức, cá nhân tham gia chứng
khoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Như vậy, chỉ những hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán nào được Bộ luật Hình sự quy định
thì mới coi là tội phạm.
1.3.2.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
Theo quy định của Điều 181a Bộ luật Hình sự, tội cố ý công bố thông
tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được hiểu là
hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến
việc chào báo, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ
chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu
quả nghiêm trọng.
* Khách thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự
thật trong hoạt động chứng khoán.
"Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại" [43, tr. 86].
Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán xâm hại đến khách thể chung là trật tự quản lý kinh tế và
trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhà nước trong chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
Để xác định được loại tội này phải căn cứ vào khách thể trực tiếp bị
xâm hại. Trong đó, khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội mà sự gây thiệt hại
cho quan hệ xã hội đó khi căn cứ vào tất cả các mặt như tính chất quan trọng
của quan hệ xã hội, mức độ bị gây thiệt hại, mục đích chủ quan của người
phạm tội,… thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Theo chúng tôi, cũng cần phải xem xét mục đích của tội phạm này khi
gây mất trật tự trong quản lý kinh tế nói chung, trong thị trường chứng khoán
35
nói riêng có phải là cách thức để người phạm tội đạt được mục đích khác hay
không? Ví dụ: mục đích lợi nhuận, mục đích gây rối loạn thị trường,…
"Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của
tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ" [43, tr. 94].
Theo quy định của các nhà làm luật thì đối tượng tác động của tội này
chính là đến các thông tin liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch,
hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù
trừ hoặc thanh toán chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh
bạch và tính công bằng của thị trường chứng khoán.
* Mặt khách quan của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán.
"Mặt khác quan của tội phạm là bên ngoài của tội phạm, bao gồm
những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan" [43, tr. 91].
Mặt khách quan của tội này được biểu hiện: hành vi khách quan, hậu
quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, mối quan hệ giữa hành vi khách quan và
hậu quả xảy ra.
"Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là ‘biểu hiện" của con
người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt
những mục đích nhất định có chủ định và mong muốn" [43, tr. 93]. Hành vi
khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Không có
hành vi khách quan thì không có tội phạm. Hành vi khách quan của tội phạm
được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Tội này có hai hành vi khách quan khác nhau:
- Hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch.
Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán
là việc người phạm tội đã công bố thông tin sai sự thật liên quan
36
đến hoạt động của công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức
niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty chứng khoán, công ty quản lý
quỹ, công ty đầu tư chứng khoán công bố thông tin không đúng với
các thông tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký
niêm yết, giao dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy
phép thành lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực chứng khoán, hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và
thanh toán chứng khoán [6, Điểm a Khoản 2 Điều 4].
Đó có thể là hành vi cắt xén thông tin, giải thích không đúng với tinh
thần của thông tin được công bố, tạo dựng và tuyên truyền thông tin sai sự
thật hoặc bỏ sót những thông tin cần thiết có ảnh hưởng đến giá chứng khoán
trên thị trường, cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch tài liệu hoặc tiêu
hủy tài liệu giao dịch,…
- Hành vi che giấu thông tin.
Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là việc người
phạm tội không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ các thông
tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký niêm yết, giao
dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy phép thành lập
và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán; hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán
chứng khoán [6, Điểm b Khoản 2 Điều 4].
Yếu tố thứ hai trong mặt khách quan là "hậu quả tội phạm là thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật
hình sự" [43, tr. 102].
Gây hậu quả nghiêm trọng là việc gây thiệt hại lớn về tài sản và các
hậu quả phi vật chất gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của
Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến sự công bằng, công
khai, minh bạch và an toàn của thị trường chứng khoán được pháp luật quy
định. Hậu quả này tại Khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-
37
BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26/6/2013 hướng dẫn áp dụng
một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài
chính - kế toán và chứng khoán (sau đây gọi tắt là Thông tư số 10) đã quy
định rõ:
a) Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về
vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 01 tỷ đồng đến dưới 03 tỷ đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng
trở lên.
Ngoài việc gây hậu quả là thiệt hại về vật chất, hành vi phạm
tội còn có thể gây ra các hậu quả phi vật chất như: gây ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về thị trường
chứng khoán; làm mất niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng
khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai
và an toàn của thị trường chứng khoán.
Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ
thể để đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra thuộc loại nào:
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng.
c) Thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị
từ 500 triệu đồng trở lên từ viê ̣c thực hiê ̣n hành vi phạm tội nêu
trên [6, Khoản 4 Điều 4].
Đây là tội phạm có cấu thành vật chất, nên hành vi công bố thông tin
sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán chỉ cấu thành tội
phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nguy hiểm cho xã hội trên đây chỉ được coi là hậu quả của tội
này khi giữa hành vi khách quan và hậu quả tồn tại mối quan hệ nhân quả: hành
vi khách quan phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời
gian; hành vi khách quan độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một
38
hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh
hậu quả nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm đã xảy ra phải đúng là sự
hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan
hoặc khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác
động hoặc là khả năng để sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra không bị ngăn chặn.
* Chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán.
"Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt
độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể" [43, tr. 114].
Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là
người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật Hình sự) và
không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm
hình sự (Điều 13 Bộ luật Hình sự).
Người này phải đạt độ tuổi nhất định có nghĩa là "người từ đủ 16 tuổi
trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở
lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [28, Điều 12].
Người này đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể có nghĩa là người này
thực hiện một hoặc nhiều hành vi được quy định Bộ luật Hình sự.
Chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật
trong hoạt động chứng khoán là chủ thể đặc biệt. Ngoài các điều kiện của chủ
thể chung, chủ thể của tội này phải là người có nghĩa vụ công bố thông tin.
Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 10 quy định:
3. Chủ thể của tội phạm này là một trong các đối tượng sau:
a) Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc
Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài
chính hoặc Kế toán trưởng của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết,
tổ chức đăng ký giao dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,
công ty đầu tư chứng khoán;
39
b) Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tư vấn phát
hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức kiểm toán được chấp
thuận, những người trực tiếp thực hiện tư vấn phát hành, niêm yết
bảo lãnh phát hành, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, người
được ủy quyền công bố thông tin;
c) Người đại diện theo pháp luật của tổ chức đăng ký, lưu
ký chứng khoán;
d) Những người khác có thể là đồng phạm của tội này
[6, Khoản 3 Điều 4].
Như vậy chủ thể của tội phạm này là những người có nghĩa vụ công
bố thông tin, như: người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền, thường là
người nắm rõ các quy định của pháp luật về nghĩa vụ công bố thông tin, nắm
rõ điều lệ của công ty, nội quy của tổ chức về việc công bố thông tin nhưng
vẫn cố tình sử dụng các biện pháp, thủ đoạn, hành vi trái pháp luật để công bố
thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong thị trường chứng khoán.
* Mặt chủ quan tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự
thật trong hoạt động chứng khoán.
Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ. Trong
đó lỗi được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm.
Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới
hình thức cố ý hoặc vô ý.
"Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi
hỏi của xã hội" [43, tr. 127].
Khoản 1 Điều 181a Bộ luật Hình sự đã quy định rõ: "Người nào cố ý
công bố thông tin sai lệch…" [28, Khoản 1 Điều 181a]. Vì vậy, lỗi của người
40
thực hiện hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong
hoạt động chứng khoán được xác định là lỗi cố ý. Tức là, người phạm tội
nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả
của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Về lí trí, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt
động chứng khoán, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm
cho xã hội.
Về ý trí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh (cố ý trực tiếp)
hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý
gián tiếp).
1.3.3. Hình phạt của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán
Điều 181a Bộ luật Hình sự cũng quy định các hình phạt, các biện pháp
xử lý tương ứng đối với tội này căn cứ vào hành vi phạm tội và hậu quả do
hành vi đó gây ra. Khung hình phạt cao nhất là năm năm. Xét về tình chất
nguy hiểm của hành vi thì chưa đến mức tước bỏ quyền tự do, quyền sống của
người phạm tội nên Bộ luật Hình sự không quy định hình phạt chung thân và
hình phạt tử hình đối với loại tội này.
Khoản 1 Điều 181a Bộ luật Hình sự quy định: "…người thực hiện
hành vi phạm tội có thể bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm
triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến
hai năm" [28, Khoản 1 Điều 181a].
Như vậy, khung hình phạt cơ bản được quy định Khoản 1 Điều 181a
có mức phạt cao nhất là hai năm tù.
Tiếp đó, khung tăng nặng quy định: "…người thực hiện hành vi phạm
tội có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [28, Khoản 2 Điều 181a]. Với
các tình tiết định khung, bao gồm:
41
Một là, phạm tội "có tổ chức" quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 181a.
"Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ
giữa những người thực hiện tội phạm" [28, Khoản 3 Điều 20].
Trong phạm tội có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự
liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ
tương đối rõ rệt, cụ thể. Sự cấu kết này trong tội cố ý công bố thông tin sai
lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán ngày càng cao,
chuyên nghiệp. Không chỉ câu kết trong nước mà còn mở rộng ra phạm vi
toàn thế giới. Hành vi của những tổ chức rõ ràng là tinh vi hơn, khó phát hiện
hơn và thường gây ra những thiệt hại lớn hơn so với một người thực hiện
hành vi phạm tội. Hình thức phạm tội có tổ chức thường là các chủ thể có
nghĩa vụ công bố thông tin trong cùng một công ty, tổ chức mà người đứng
đầu tổ chức chính là người đại diện theo pháp luật của công ty, cùng thực viện
việc công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin chứng khoán, có sự
cấu kết chặt chẽ, phân chia nhiệm vụ rõ ràng và hoạt động rất chuyên nghiệp.
Phạm tội có tổ chức là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng và mức
độ nguy hiểm cao cho xã hội so với trường hợp phạm tội thông thường, do đó
được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Hai là, "thu lợi bất chính lớn" được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 181a
Theo điểm c Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10, phạm tội bị coi là "thu
lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ
viê ̣c thực hiê ̣n hành vi phạm tội nêu trên".
Ba là, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được
quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 181a.
Theo điểm b Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10, phạm tội
"gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là
trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng
trở lên" [6, Điểm b Khoản 4 Điều 4].
42
Bốn là, "tái phạm nguy hiểm" được quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 181a.
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp: người đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái
phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cố ý.
Ngoài những hình phạt chính trên, người phạm tội còn có thể bị phạt
tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
1.3.4. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự
về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán
Đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan và thực tế nền
kinh tế thị trường hiện nay thì quy định này của Bộ luật Hình sự còn rất nhiều
tồn tại, hạn chế cần phải được nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện. Cụ thể:
Thứ nhất, một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến sự chậm trễ được
xác định là do trong quá trình thi hành Bộ luật Hình sự, việc làm rõ như thế
nào là "gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng"
và "thu lời bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" chưa có hướng dẫn nên cơ
quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc Luật không
quy định chi tiết rõ ràng sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm do không đủ căn cứ chứng
minh phạm tội, ngược lại cơ quan tố tụng dễ dàng hình sự hóa các hoạt động
trong lĩnh vực chứng khoán. Điều này dẫn đến việc các cơ quan tố tụng dễ bị
nảy sinh tâm lý "ngại" trong quá trình xử lý vụ việc.
Thông tư số 10 ra đời đã định lượng hóa hậu quả này. Theo đó, Khoản 4
Điều 4 Thông tư số 10 quy định cụ thể về thiệt hại cả vật chất, cụ thể:
"Điều 4.
4.
a) Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về
vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 01 tỷ đồng đến dưới 03 tỷ đồng;
43
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng
trở lên.
…
c) Thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị
từ 500 triệu đồng trở lên từ viê ̣c thực hiê ̣n hành vi ph ạm tội nêu
trên [6, Khoản 4 Điều 4].
Tuy nhiên, nếu so sánh với đặc thù hoạt động của thị trường chứng
khoán thì các mức thiệt hại vật chất định tội, định khung này vẫn còn hơi thấp.
Với mức thiệt hại và thu lợi bât chính khá thấp như trong Thông tư số 10 đã
bị xem xét xử lý hình sự, sẽ làm tăng các trường hợp bị xử lý, tăng áp lực cho
các Sở Giao dịch chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong truy
xuất, xử lý thông tin các giao dịch có dấu hiệu vi phạm. Giá giao dịch mỗi
ngày trên thị trường chứng khoán có thể lên tới nghìn tỷ đồng và có thể còn
cao hơn nữa, vì vậy, nếu quy định mức tối thiểu thấp thì sẽ khó có thể kiểm
soát nổi còn cơ quan pháp luật thì sẽ bị quá tải.
Thứ hai, khi quy định về hậu quả phi vật chất, Khoản 4 Điều 4 Thông
tư số 10 quy định:
Gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước về thị trường chứng khoán; làm mất niềm tin của nhà đầu
tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng,
tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán.
Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể
để đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra thuộc loại nào: nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng [6, Khoản 4 Điều 4].
Quy định này vẫn còn rất mơ hồ, chưa rõ ràng. Việc gây hậu quả phi
vật chất mức độ nào thì bị voi là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt
nghiêm trọng? Ai là người đánh giá? Nếu giao hết cho Cơ quan điều tra đánh
44
giá vấn đề này thì về lý thuyết, vai trò của Cơ quan điều tra thường thiên về
hướng buộc tội, nên dễ bị rơi vào khả năng hình sự hóa các vụ việc chứng
khoán. Còn nếu giao cho liên ngành đánh giá thì thực tế với lợi thế áp đặt ý
chí, nên cũng khó tránh khỏi vẫn thuộc về quan điểm của Cơ quan điều tra.
Thứ ba, chưa có một văn bản hướng dẫn thế nào là thông tin sai lệch?
Chứng minh sự sai lệch đó như thế nào?
Thứ tư, về chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che
giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán quy định tại Thông tư số 10:
- Tại Điểm a Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 10 quy định về nhóm chủ
thể tội phạm bao gồm: "Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc
Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế
toán trưởng của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao
dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán" [6];
quy định này vẫn còn thiếu vì chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám
đốc, Tổng Giám đốc,… không cho thấy rằng đây là những người đại diện theo
pháp luật của tổ chức đó mà có thể chỉ là chức danh tạm thời để thuận tiện
hơn trong kinh doanh. Vì có một số pháp nhân người đại diện không phải Chủ
tịch Hội đồng quản trị hoặc không phải Giám đốc nên họ không có quyền
công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán.
- Pháp luật có quy định chủ thể phải là người có nghĩa vụ công bố
hoặc đồng phạm.
Tuy nhiên, nếu thông tin của công ty đã được công bố mà
người sử dụng thông tin cố tình công bố thông tin sai lệch dưới
nhiều hình thức như cố tình cắt xén thông tin đã được công ty công
bố hoặc đưa ra những nhận định bất lợi cho công ty liên quan đến
việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng
khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán
chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng thì có bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội này không [21, tr. 24].
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY
Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY

More Related Content

What's hot

Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sựTé Lầu
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chínhLuận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trộm cắp tài sản theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân, HOT
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
 
Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sựThi hành án dân sự
Thi hành án dân sự
 
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện BiênLuận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
Luận văn: Các tội phạm về ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên
 
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mạiĐề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
Đề tài: Pháp luật về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại
 
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOTLuận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
Luận văn: Thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất, HOT
 
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAYĐề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
Đề tài: Chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nướcLuận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
Luận văn: Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOTLuận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
Luận văn: Các tội xâm hại tình dục trẻ em theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sựLuận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
Luận văn: Tội mua bán người theo quy định của pháp luật hình sự
 
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đLuận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
Luận văn: Chế tài Hủy hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, 9đ
 
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí MinhLuận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
Luận văn: Tình hình tội phạm trên địa bàn quận 9, Tp Hồ Chí Minh
 
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sảnHợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
Hợp đồng chuyển nhượng dự án trong kinh doanh bất động sản
 
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 

Similar to Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY

Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012Hung Nguyen
 

Similar to Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY (20)

Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệLuận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
Luận văn: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo luật sở hữu trí tuệ
 
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAYĐề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
Đề tài: Hàng giả mạo về sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật, HAY
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự tại tỉnh Tuyên Quang
 
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên QuangLuận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
Luận văn: Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam tại Tuyên Quang
 
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
Luận văn: Định tội danh tội buôn lậu theo pháp luật hình sự, HAY - Gửi miễn p...
 
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội nhận hối lộ theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân sự
Luận văn: Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân sựLuận văn: Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân sự
Luận văn: Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Thi hành án dân sự
 
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh PhúcĐấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
Đấu giá tài sản theo Pháp luật Thi Hành Án Dân Sự từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc
 
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt NamĐề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
Đề tài: Quy phạm pháp luật về môi giới bất động sản ở Việt Nam
 
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOTLuận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Hình phạt trục xuất theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mạiLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
 
Luận văn: Hoạt động điều tra hình sự của cơ quan Hải quan theo luật
Luận văn: Hoạt động điều tra hình sự của cơ quan Hải quan theo luậtLuận văn: Hoạt động điều tra hình sự của cơ quan Hải quan theo luật
Luận văn: Hoạt động điều tra hình sự của cơ quan Hải quan theo luật
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sựLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc theo Luật hình sự
 
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOTLuận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
Luận văn: Các tội phạm liên quan đến đánh bạc, HOT
 
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoánPháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
 
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoánPháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
Pháp luật về công bố thông tin của công ty trên thị trường chứng khoán
 
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012
De cuong-luat-chung-khoan hlu-2012
 
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxAnAn97022
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptxpowerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
powerpoint lịch sử đảng cộng sản việt nam.pptx
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận văn: Tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, HAY

  • 1. 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ GIAO LINH TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. 2 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ GIAO LINH TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Quốc Toản HÀ NỘI - 2015
  • 3. 3 Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ Giao Linh
  • 4. 4 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của chứng khoán 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của các tội phạm về chứng khoán và sự cần thiết quy định các tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam 11 1.2.1. Khái niệm tội phạm về chứng khoán 11 1.2.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm chứng khoán 16 1.3. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Điều 181a Bộ luật Hình sự hiện hành 21 1.3.1. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 21 1.3.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 26 1.3.3. Hình phạt của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 35 1.3.4. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 37 1.4. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán trong luật hình sự một số nước 41
  • 5. 5 Chương 2: THỰC TIỄN XỬ LÝ VI PHẠM VÀ TỘI PHẠM CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI PHẠM NÀY 46 2.1. Tình hình vi phạm và phạm tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán và xử lý hình sự đối với tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng 46 2.1.1. Tình hình vi phạm trong trường hợp công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 46 2.1.2. Tình hình tội phạm và xử lý hình sự đối với tội cố ý công bố thông tin sai lệch và che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán của các cơ quan tiến hành tố tụng 54 2.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán và nâng cao hiệu quả áp dụng 58 2.2.1. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện những quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 58 2.2.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 63 2.2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 65 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  • 6. 6 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Trong những năm gần đây, chủ trương phát triển thị trường chứng khoán đã góp phần làm cho nền kinh tế nước nhà có những chuyển biến tích cực, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Bên cạnh mặt mạnh này, xuất hiện ngày càng nhiều các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đầu tư và lưu thông vốn, tác động tiêu cực đến trật tự quản lý kinh tế và nền kinh tế quốc dân. Thị trường chứng khoán minh bạch là mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng hướng đến trong đó có Việt Nam. Nhưng tính minh bạch của thị trường chứng khoán Việt Nam lại chưa được như kỳ vọng của các nhà quản lý cũng như các nhà đầu tư. Đây cũng là lý do vì sao thị trường chứng khoán trong những năm 2009-2011 gần như giậm chân tại chỗ, nhiều nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài muốn đầu tư vào thị trường mới phát triển và nhiều tiềm năng như Việt Nam nhưng lại e ngại vấn đề minh bạch của thị trường. Chính vì thế, hệ thống pháp luật có vai trò đảm bảo cho sự hoạt động của thị trường chứng khoán, đảm bảo tính công bằng, công khai, minh bạch, đúng sự thật của thị trường này. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, công ty niêm yết không tuân thủ luật công bố thông tin. Có thể thấy các quyết định xử phạt hành chính không đủ mạnh để giáo dục, răn đe và ngăn chặn hành vi vi phạm trong lĩnh vực này. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm không nhận thức được hậu quả nghiêm trọng do mình gây ra nên họ tiếp tục vi phạm. Hàng loạt vụ việc liên quan đến tình trạng công bố thông tin sai lệch, che giấu thông tin… của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây, đã khiến cho nhiều nhà đầu tư rời bỏ thị trường chứng khoán. Trong khi đó, chúng ta chưa có một công cụ pháp lý đủ mạnh để kịp thời trừng trị, răn đe người có hành vi sai phạm.
  • 7. 7 Thấy được sự cần thiết phải có những chế tài nghiêm khắc hơn để xử lý triệt để các hành vi vi phạm này, lần đầu tiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 01/01/2010, đã bổ sung quy định tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán trong ba tội danh trong lĩnh vực chứng khoán. Việc ban hành này là hoàn toàn kịp thời, khá sát thực tiễn nhằm làm lành mạnh hóa các giao dịch trong thị trường chứng khoán, từ đó, hạn chế có hiệu quả vi phạm cũng như tội phạm xảy ra trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, đối chiếu Bộ luật Hình sự với các quy định hiện hành về công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế nhất định như quy định về định mức hậu quả nghiêm trọng chưa phù hợp với điều kiện thực tế, những lĩnh vực buộc phải minh bạch chưa được Bộ luật Hình sự hiện hành quy định chưa bao quát, còn mang tính chất liệt kê, v.v… Trước tình hình trên, tác giả nhận thấy việc nghiên cứu đề tài "Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo luật hình sự Việt Nam" là cần thiết, khách quan, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam. 2. Tình hình nghiên cứu Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề tính minh bạch trong hoạt động chứng khoán, điển hình như: - Dương Tuyết Miên (2010), Về các tội phạm chứng khoán trong luật sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 2; - Nguyễn Thu Dung (2007), Pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, Luận văn tốt nghiệp đại học; - Nguyễn Thị Ánh Vân (2006), Chế độ công bố thông tin theo Luật Chứng khoán năm 2006, Tạp chí Luật học, số 8;
  • 8. 8 - Phan Anh Tuấn (2011), Các tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội này, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4; - Viên Thế Giang (2012), Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1; - Viên Thế Giang (2013), Trách nhiệm hình sự đối với tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở VN hiện nay, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 3; - Hoàng Thị Quỳnh (2009), Một số ý kiến về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 liên quan đến tội phạm chứng khoán, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 8; - Đỗ Thúy Vân (2010), Cần hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định tại Điều 181a, 181b, 181c Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999, Tạp chí Kiểm sát, số 4;... Tuy nhiên, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các công trình khoa học này về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán ở nước ta, cho thấy hầu hết đó là các công trình nghiên cứu chưa chuyên sâu. Sự nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở các công trình nghiên cứu nhỏ lẻ trên tạp chí hoặc là đề cập đến tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán nói chung, trong đó tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán chỉ là một phần nhỏ, chưa được quan tâm đúng mức. Do đó, nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra những kiến nghị, giải pháp đồng bộ. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau: - Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo pháp luật hình sự Việt Nam;
  • 9. 9 - Nghiên cứu, phân tích thực tiễn pháp luật Việt Nam quy định về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, rút ra được những tồn tại, hạn chế các quy định đó và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện luật thực định và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của luật hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung vào những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề chung về chứng khoán, tội phạm chứng khoán, tội công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; - Phân tích rút ra những tồn tại và hạn chế của các quy định về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng; - Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật quy định về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, tác giả đề xuất các kiến nghị, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về loại tội này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, logic, đối chiếu thực tiễn, thống kê, v.v... Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan tới tội cố ý công bố
  • 10. 10 thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực. 5. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật nói chung và vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói riêng, nhất là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật,… 6. Những điểm mới của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vấn đề về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là: - Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo Bộ luật Hình sự; - Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán; nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, những tồn tại trong trong thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Và trên cơ sở đó luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu của áp dụng pháp luật về loại tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán này.
  • 11. 11 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán theo luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Thực tiễn xử lý vi phạm và tội phạm cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán và một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự về tội phạm này.
  • 12. 12 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỨNG KHOÁN Thuật ngữ chứng khoán được hiểu theo những nghĩa khác nhau tùy theo mục đích khi điều chỉnh loại tài sản đặc biệt này. Chứng khoán lần đầu tiên xuất hiện tại Bỉ vào giữa thế kỷ XV, theo đó, "các thỏa thuận được xác lập cho các giao dịch thực hiện ngay và các giao dịch được thực hiện ngay và các giao dịch được thực hiện sau khoảng thời gian nhất định" [41, tr. 7]. Black Law’s Dictionary lại cho rằng "chứng khoán là công cụ chứng minh quyền sở hữu công ty, quyền chủ nợ với công ty hoặc chính phủ hoặc các quyền khác của người nắm giữ" [52, tr. 1358]. Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2010 (sau đây gọi tắt là Luật Chứng khoán) quy định: Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; c) Hợp đồng góp vốn đầu tư; d) Các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quyđịnh [31, tr.26].
  • 13. 13 Chứng khoán thường mang các đặc điểm sau: Tính sinh lời: người phát hành ra chúng phải trả cho người sở hữu chứng khoán khoản lợi tức trong tương lai để nhận về mình quyền sử dụng vốn. Tính sinh lời của chứng khoán là động lực thúc đẩy người đầu tư mua chứng khoán và cũng là tiền đề xuất hiện chứng khoán. Tính sinh lời còn xuất hiện khi người nắm giữ chứng khoán giao dịch chứng khoán như loại tài sản được phép. Tính thanh khoản là khả năng cho phép người sở hữu chứng khoán có thể bán chứng khoán để nhận được khoản tiền nhất định. Tính thanh khoản tạo cho người sở hữu chứng khoán chuyển đổi dạng tài sản chứng khoán sang tiền thông qua giao dịch tại thị trường thứ cấp hoặc thông qua nghiệp vụ ngân hàng. Tính thanh khoản tạo ra sự hấp dẫn đối với người đầu tư, thỏa mãn nhu cầu của họ đồng thời cũng hạn chế rủi ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán. Tính thanh khoản của chứng khoán phụ thuộc vào uy tín của chủ thể phát hành, vào chuyển đổi và sự biến động của thị trường. Tính rủi ro của chứng khoán, thể hiện ở bản chất của hoạt động đầu tư vốn, đó là "lượng tiền trong hiện tại và chỉ có thể thu hồi trong tương lai" thì cả quãng thời gian đó chứa đựng rủi ro. Mức độ rủi ro lớn hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thời gian đầu tư, chủ thể nhận vốn cùng các cam kết khác chính,… Mức độ rủi ro của chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với tính sinh lời và tính thanh khoản của chứng khoán. Căn cứ vào quyền của người sở hữu chứng khoán đối với người phát hành, chứng khoán vốn và chứng khoán nợ. Chứng khoán vốn là loại chứng khoán xác nhận sự góp vốn và quyền liên quan đến phần vốn góp của chủ sở hữu chứng khoán đối với đối tượng phát hành ra nó. Đặc điểm của loại chứng khoán này có đặc điểm nhà đầu tư không xác định được thời gian thu hồi vốn, mức thu nhập từ việc đầu tư nhưng lại có cơ hội tham gia vào kiểm soát hoặc trực tiếp kinh doanh phần vốn đã thu hút. Chứng khoán vốn có hai dạng cơ bản: cổ phiếu và chứng chỉ
  • 14. 14 quỹ đầu tư. Ngoài ra còn có chứng khoán phái sinh từ loại chứng khoán vốn như chứng quyền. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành (Khoản 2 Điều 6 Luật Chứng khoán). Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng (Khoản 4 Điều 6 Luật Chứng khoán). Chứng chỉ khoán nợ là loại chứng khoán rất phổ biến, tạo ra sự ổn định tương đối trong giao dịch trên thị trường là trái phiếu. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành (Khoản 3 Điều 6 Luật Chứng khoán). Bên cạnh đó, cũng cần phải làm rõ khái niệm về thị trường chứng khoán. Về khái niệm thị trường chứng khoán hiện nay cũng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một. Như vậy, theo quan điểm này, thị trường chứng khoán và thị trường vốn là khác nhau, trong đó thị trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị
  • 15. 15 trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trường chứng khoán. Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch chứng khoán lại cho rằng "thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu", hay là nơi mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu. Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, chúng tôi quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường chứng khoán hiện nay đó là: thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán, tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng. Các giao dịch mua bán, trao đổi chứng khoán có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp (Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over The Counter Market), ở thị trường giao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và như vậy, thực chất đây chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá.
  • 16. 16 1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ SỰ CẦN THIẾT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM VỀ CHỨNG KHOÁN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.2.1. Khái niệm tội phạm về chứng khoán Có thể nói, chứng khoán và thị trường chứng khoán đã xuất hiện, tồn tại và phát triển ở Việt Nam như một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường. Bắt đầu từ năm 2000 và khởi sắc mạnh mẽ từ năm 2005 đến nay. Chủ trương phát triển thị trường chứng khoán (kênh huy động vốn đầu tư và lưu thông giữa các nguồn vốn đầu tư) đã góp phần làm cho nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực nhất định, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Bên cạnh mặt mạnh này, xuất hiện càng nhiều các vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường đầu tư và lưu thông vốn, tác động tiêu cực đến trật tự quản lý kinh tế và nền kinh tế quốc dân. Trong báo cáo tổng kết công tác năm của Cục Cảnh sát điều tra tội phạm kinh tế và chức vụ đều nhấn mạnh và khẳng định từ năm 2005 đến nay vi phạm trên lĩnh vực chứng khoán có dấu hiệu gia tăng. Hành vi vi phạm chủ yếu là các doanh nghiệp niêm yết tăng vốn nhưng không báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, lừa đảo bán cổ phiếu trên thị trường OTC, sử dụng vốn nhà nước, vốn của cổ đông để đầu tư chứng khoán nhưng chưa được sự đồng ý của Hội đồng quản trị và Đại hội cổ đông, làm giả chứng khoán... Đặc biệt, trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều doanh nghiệp, công ty niêm yết không tuân thủ quy định của pháp luật về việc công bố thông tin, thậm chí Ủy ban Chứng khoán Nhà nước phạt không kịp, bỏ sót hoặc vì lý do gì đó không phạt khiến doanh nghiệp kinh nhờn và nhà đầu tư lãnh đủ... Hàng loạt vụ việc liên quan đến tình trạng công bố thông tin sai lệch, thiếu, nhiễu thông tin… về tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán trong thời gian gần đây, đã khiến cho nhiều nhà đầu tư chán nản, rời bỏ thị trường, làm cho thị trường chứng khoán trở nên ảm đạm.
  • 17. 17 Có thể nói sai phạm trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng phổ biến và nghiêm trọng. Các giao dịch tại thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để đối phó với thực trạng này Ngân hàng Nhà nước đã ra Chỉ thị 03 ngày 28/5/2007 yêu cầu các ngân hàng thương mại kiểm soát dư nợ đầu tư chứng khoán không quá 3% tổng dư nợ của ngân hàng. Việc Ngân hàng Nhà nước ra chỉ thị trên cùng một số can thiệp khác của Chính phủ, Ủy ban chứng khoán Nhà nước... đã làm thị trường ổn định hơn song vi phạm không có biểu hiện giảm. Trước tình hình chúng ta chưa có một công cụ pháp lý đủ mạnh để ngăn chặn, kịp thời trừng trị, răn đe người có sai phạm đến mức phải xử lý hình sự. Thông tư liên ti ̣ch số 46/2009, ngày 13/3/2009 giữa BộCông an và Bộ Tài chính hướng dẫn phối hợp xử lý vi pha ̣m pháp luâ ̣t trong lĩnh vực chứ ng khoán và thi ̣trường chứ ng khoán và việc sửa đổi Nghị định 36/NĐ-CP về xử phạt hành chính trên lĩnh vực thị trường chứng khoán được ban hành đã giúp công tác quản lý, giám sát, thanh tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cũng được tăng cường hơn. Trước ngày Luật sửa đổi bổ sung có hiệu lực, những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán được giải quyết bằng các biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự bởi một số các tội phạm trong Bộ luật Hình sự nếu ở mức độ nguy hiểm cho xã hội đến mức đáng kể như Tội lừa đảo, Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng… Luật sửa đổi đã bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 lần đầu tiên quy định ba điều luật (Điều 181a, 181b, 181c) trong lĩnh vực chứng khoán đã góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh chứng khoán. Với ba tội phạm mới được ghi nhận trong Luật sửa đổi bổ sung năm 2009 là cơ sở pháp lý hình sự để chúng ta điều tra, truy tố, xét xử những người có hành vi phạm tội trong lĩnh vực này.
  • 18. 18 Như vậy, để bảo vệ các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán, việc quy định các hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán hay tội phạm chứng khoán được rất nhiều nước trên thế giới quan tâm từ nhiều thập kỷ trước. Tuy nhiên, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không được quy định thành nhóm tội riêng trong Bộ luật Hình sự của nhiều quốc gia hay nói cách khác là được quy định thành một chương riêng trong Bộ luật Hình sự, đạo luật duy nhất quy định về hành vi phạm tội cũng như chế tài áp dụng đối với hành vi phạm tội đó, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Bộ luật Hình sự chưa có định nghĩa trong luật về nhóm tội phạm này, do đó định nghĩa về khái niệm khoa học về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ được đề cập trong các sách báo pháp lý, công trình khoa học của Việt Nam cũng như của nhiều quốc gia khác. Tuy nhiên, mức độ đề cập và làm rõ khái niệm về tội phạm chứng khoán còn rất hạn chế, các sách báo pháp lý thường chỉ đề cập đến hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán, cũng như hình thức xử phạt đối với các hành vi này mà chưa khát quát được lên tầm lý luận, làm rõ bản chất của các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng như tội phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt khác đều là một bộ phận của tội phạm nói chung. Vì vậy, về nguyên tắc, khái niệm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không những phải thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm nói chung mà còn phải phản ánh những dấu hiệu riêng thể hiện nét đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực chuyên biệt này. Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa hẹp, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ bao gồm các hành vi trực tiếp vi phạm các quy định của pháp luật chứng khoán ở mức độ bị coi là tội phạm. Theo nghĩa này, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được gọi là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt (chỉ xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán). Theo nghĩa rộng, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm không chỉ tội phạm theo nghĩa
  • 19. 19 hẹp này mà còn cả các tội phạm khác xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán. Các tội phạm khác này có thể được gọi chung là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không có tính riêng biệt (có thể xảy ra trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng khoán). Như vậy, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán theo nghĩa rộng bao gồm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt và tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không có tính riêng biệt. Do có các cách hiểu khác nhau như vậy mà cũng có thể có những định nghĩa khác nhau về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. Tuy nhiên, trong phạm vi của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập, làm rõ khái niệm tội phạm chứng khoán theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, hành vi bị coi là tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán là hành vi xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động chứng khoán qua việc vi phạm trực tiếp các quy định của pháp luật chứng khoán về công bố thông tin chứng khoán, về vấn đề sử dụng thông tin nội bộ trong lĩnh vực chứng khoán, về giá của chứng khoán, qua đó xâm phạm chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho xã hội. Thông thường, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp luật chứng khoán ở mức độ nghiêm trọng được các quốc gia quy định là tội phạm ngay trong các văn bản luật về chứng khoán hoặc trong Bộ luật Hình sự tại các điều luật riêng biệt. Ở Việt Nam, trước thời điểm Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, trong Bộ luật Hình sự hiện hành không có các điều luật riêng về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán; còn trong các văn bản luật về chứng khoán cũng không có quy định về tội phạm cụ thể mà chỉ quy định chung là cho phép có thể truy cứu trách nhiệm hình sự các hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm. Trong trường hợp này, các hành vi vi phạm trực tiếp pháp luật chứng khoán chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các tội danh chung tương ứng đã được quy định trong Bộ luật Hình sự.
  • 20. 20 Tuy nhiên, năm 2009, với việc lần đầu tiên Bộ luật Hình sự hiện hành đã có quy định về tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt với ba tội danh: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a), tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b) và Tội tháo túng giá chứng khoán (Điều 181c). Do vậy, tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán ở Việt Nam đã bao gồm một số hành vi phạm tội đã được quy định trong các tội phạm nói trên trong Bộ luật Hình sự và xảy ra trên thực tế trong lĩnh vực chứng khoán. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán một cách chung nhất như sau: Tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán hay tội phạm về chứng khoán là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật chứng khoán, được quy định là tội phạm trong Bộ luật Hình sự hoặc trong các luật liên quan đến chứng khoán, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia chứng khoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các luật liên quan đến chứng khoán ở đây có thể là luật chứng khoán... tùy theo quy định của pháp luật ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, ở Việt Nam do chúng ta chưa cho phép quy định tội phạm và hình phạt trong các luật chuyên ngành nên tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được định nghĩa là: Những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật chứng khoán, được quy định là tội phạm trong Bộ luật Hình sự, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia chứng khoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Như vậy, đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình sự chỉ là Bộ luật Hình sự như Việt Nam thì tội phạm trong lĩnh vực chứng
  • 21. 21 khoán dù thuộc nhóm nào - nhóm chỉ xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán hay nhóm có thể xảy ra ở các lĩnh vực khác nhau đều chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự. Đối với các quốc gia cho rằng nguồn trực tiếp của luật hình sự không chỉ là Bộ luật Hình sự mà còn có thể là các luật khác thì tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có thể được quy định trong Bộ luật Hình sự và trong các luật khác. Các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có tính riêng biệt có thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hoặc trong chính các luật riêng biệt về chứng khoán. Trong các luật riêng biệt về chứng khoán, nhà làm luật có thể quy định các hành vi vi phạm và các tội phạm, trong đó tội phạm là các hành vi vi phạm luật chứng khoán ở mức độ nghiêm trọng và do vậy có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Bộ luật Hình sự cũng có thể quy định các tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán tương đối thông thường và ổn định trên cơ sở pháp điển hóa các hành vi phạm tội đã được quy định trong các luật riêng biệt về chứng khoán. 1.2.2. Các yếu tố cấu thành tội phạm chứng khoán Xét về nội dung chính trị - xã hội và nội dung pháp lý, tội phạm nói chung cũng như tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có các dấu hiệu (đặc điểm) như đã được trình bày; xét về cấu trúc, tội phạm nói chung cũng như tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán có bốn yếu tố hợp thành. Đó là khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan. * Khách thể của tội phạm về chứng khoán. Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, theo khoa học luật hình sự, được coi là khách thể của tội phạm. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định, được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Tại Việt Nam chứng khoán và thị trường chứng khoán có vai trò rất quan trọng thông qua một số khía cạnh sau: (i) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. Do có chứng khoán và thị trường chứng khoán nên việc đầu tư các nguồn
  • 22. 22 vốn tạm thời nhàn rỗi dễ dàng hơn. Từ việc nguồn vốn bị ứng đọng từ nhiều nơi, không có khả năng sinh lời, cho đến khi có thị trường chứng khoán việc đầu tư, tích lũy vốn sôi động và dồi dào hẳn lên. Thông qua đó nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, công ăn việc làm được giải quyết, thất nghiệp giảm. Bên cạnh, thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn từ dân chúng, như một nam châm cực mạnh hút các nguồn vốn từ nước ngoài. Ngoài ra còn giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu hụt ngân sách, có thêm vốn xây dựng hạ tầng cơ sở. (ii) Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn. Khi doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô sản xuất họ có thể phát hành chứng khoán, vào thị trường để huy động vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát hành và lúc đó nguồn vốn của doanh nghiệp tăng lên. Lúc này rủi ro đối với doanh nghiệp là rất nhỏ vì những cổ đông của họ đã gánh đỡ thay. Một điều thuận lợi nữa, khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như là một tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển nhượng thành tiền khi cần thiết thông qua thị trường chứng khoán. Ngoài ra, khi doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, có nghĩa là đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư. Như vậy các công ty chứng khoán sẽ là tác nhân kích thích giúp doanh nghiệp tạo vốn nhanh chóng hơn. (iii) Chứng khoán và thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai. Thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phức tạp, liên quan đến vận mệnh của nền kinh tế quốc dân. Sự hình thành thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại và dự doán tương lai. Khi giá cổ phiếu của một doanh nghiệp cao (hay thấp) biểu hiện trạng thái kinh tế tức là khả năng mang lại cổ tức cao (hay thấp) cho các cổ đông của doanh nghiệp đó. Triển vọng tương lai của các doanh nghiệp cũng được thể hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ phiếu và cũng như sự biến động của nó. Ngoài ra, với phương
  • 23. 23 pháp chỉ số hóa thị giá của các loại chứng khoán chủ yếu trong nền kinh tế và việc nghiên cứu phân tích một cách khoa học hệ thống chỉ số giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với thị trường thế giới, đã dự đoán được trước sự biến động kinh tế của một hoặc hàng loạt các nước trên thế giới. Như vậy, chứng khoán, thị trường chứng khóa có vai trò, tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế, nó cần phải được bảo vệ khỏi sự xâm hại bằng những công cụ pháp lý trong đó có luật hình sự. Với việc quy định Bộ luật Hình sự về ba tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán thì có thể hiểu rằng các quan hệ xã hội trong lĩnh vực chứng khoán là nhóm quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ và có thể trở thành khách thể của tội phạm. Đó là quan hệ giữa các chủ thể - Nhà nước, các tổ chức chứng khoán, người tham gia chứng khoán. Quan hệ này được hình thành, duy trì và phát triển là nhằm mục đích tạo vốn cho nền kinh tế của Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn, và tạo lợi nhuận trực tiếp cho người tham gia chứng và qua đó đảm bảo cho sự ổn định của xã hội nói chung. Quan hệ xã hội trong lĩnh vực chứng khoán chỉ có thể duy trì và phát triển để thực hiện chức năng xã hội tốt đẹp đó khi các chủ thể thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ của mình. Như vậy, với tầm quan trọng của chứng khoán, thị trường chứng khoán đối với sự ổn định xã hội và hơn nữa với nguy cơ dễ bị xâm phạm, các quan hệ xã hội trong lĩnh vực chứng khoán được xác định là nhóm quan hệ xã hội phải được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Hay nói cách khác, quan hệ chứng khoán được coi là khách thể bảo vệ của pháp luật hình sự và trong trường hợp bị xâm phạm ở mức độ đáng kể, quan hệ chứng khoán trở thành khách thể của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán. * Mặt khách quan của tội phạm về chứng khoán. Cũng như các tội phạm khác, yếu tố mặt khách quan của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán gồm trước hết là hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và quan
  • 24. 24 hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội, bên cạnh đó còn có thể là thủ đoạn phạm tội, thời gian phạm tội... Về hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội: Hành vi khách quan của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán được Bộ luật Hình sự quy định ở ba loại hành vi sau: - Hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu kí, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán. - Hành vi sử dụng thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố để mua chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin đó thu lợi bất chính. - Hành vi thao túng giá chứng khoán, thể hiện ở việc thông đồng để thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả tạo hoặc giao dịch chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua chứng khoán. Về hậu quả nguy hiểm cho xã hội: Hậu quả của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán trước hết là thiệt hại về vật chất cho tổ chức phát hành chứng khoán, nhà đầu tư, người tham gia chứng khoán, ảnh hưởng đến vấn đề quản lý nhà nước về quản lý thị trường chứng khoán, gây xáo động lớn trong nền kinh tế. Trong các cấu thành tội phạm của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán, hành vi khách quan đòi hỏi phải được mô tả và là dấu hiệu bắt buộc của tất cả các cấu thành tội phạm cơ bản. Tuy nhiên, việc xác định biểu hiện cụ thể của hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như việc quy định, mô tả dấu hiệu này như thế nào trong cấu thành tội phạm hoàn toàn không giống nhau giữa các quốc gia. Thông thường, hậu quả của các tội trong lĩnh vực chứng khoán không được xác định là thiệt hại được tính ra bằng tiền mà hậu quả của những hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán đó là gây lũng đoạn thị
  • 25. 25 trường giao dịch chứng khoán hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của nhà đầu tư hoặc gây thiệt hại đến quyền lợi của doanh nghiệp bị thông tin sai sự thật... và để cấu thành tội phạm thì thiệt hại này phải đạt mức độ nhất định. Ngoài ra, thiệt hại ở mức độ cao hơn còn có thể được mô tả là dấu hiệu định khung tăng nặng trong các cấu thành tội phạm. * Chủ thể của tội phạm về chứng khoán. Chủ thể của tội phạm là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi theo luật hình sự quy định đã thực hiện tội phạm về chứng khoán theo luật hình sự quy định. Theo luật hình sự của các nước trên thế giới cũng như luật hình sự Việt Nam, cá nhân có thể là chủ thể của tội phạm nếu có hành vi thỏa mãn các dấu hiệu định tội của các tội phạm cụ thể. Đối với tội phạm nói chung hay tội phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt cũng vậy, cá nhân khi là chủ thể của một tội phạm có thể là chủ thể thường mà cũng có thể là chủ thể đặc biệt. Trong đó, chủ thể thường chỉ đòi hỏi có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định; còn chủ thể đặc biệt đòi hỏi phải có thêm dấu hiệu đặc biệt khác. Trong lĩnh vực chứng khoán, chủ thể của các tội phạm trong lĩnh vực này chỉ cần là chủ thể thường. * Mặt chủ quan của tội phạm về chứng khoán. Mặt chủ quan của tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán cũng có các biểu hiện là lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Trong đó, lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong tất cả các cấu thành tội phạm. Dấu hiệu lỗi ở tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán chỉ có thể là lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp đối với tội công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sai sự thật trong hoạt động chứng khoán hoặc đối với tội thao túng giá chứng khoán, hoặc chỉ là lỗi cố ý trực tiếp đối với tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán. Mục đích phạm tội của các tội phạm chứng khoán không chỉ là mục đích tư lợi mà còn nhằm mục đích gây lũng đoạn, rối loạn thị trường chứng khoán, gây thiệt hại cho nhà đầu tư...
  • 26. 26 1.3. TỘI CỐ Ý CÔNG BỐ THÔNG TIN SAI LỆCH HOẶC CHE GIẤU SỰ THẬT TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG KHOÁN THEO ĐIỀU 181A BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 1.3.1. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Bộ luật Hình sự được ban hành năm 1999 đã thể chế hóa một bước chủ trương, chính sách hình sự và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là những vấn đề về tội phạm và hình phạt, các chính sách nhân đạo... Qua 8 năm thực hiện, Bộ luật Hình sự đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tạo môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự hiện hành chưa cập nhật được những hành vi nguy hiểm cho xã hội đòi hỏi phải xử lý về mặt hình sự mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế, nhất là trong một số lĩnh vực như: công nghệ thông tin, chứng khoán, tài chính - kế toán, sở hữu trí tuệ v.v... Trong lĩnh vực chứng khoán, nhà làm luật cho rằng đây là lĩnh vực chuyên môn phức tạp, do đó trước mắt chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mang tính phổ biến, ổn định, đồng thời phải quy định rõ hơn cấu thành cơ bản của tội danh này để bảo đảm tính khả thi trong áp dụng pháp luật. Để đảm bảo cho thị trường chứng khoán vận hành một cách an toàn, hiệu quả, công khai, công bằng, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường và duy trì được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, từ đó góp phần thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển hơn nữa thì mọi quan hệ phát sinh trên thị trường phải được pháp luật dự liệu hay nói cách khác, cần có sự can thiệp của pháp luật vào hoạt động của thị trường, nhất là các hành vi xâm hại đến quy tắc hoạt động của thị trường. Nhận rõ
  • 27. 27 được vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế của đất nước, các nhà làm luật đã ban hành rất nhiều văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung và văn bản pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng, cũng như sửa đổi, bổ sung các văn bản cũ cho phù hợp với diễn biến của thị trường. Tuy nhiên, các quy định này, đến nay không còn phù hợp với điều kiện thực tế. Thời gian gần đây các hành vi vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán phát sinh ngày càng nhiều, quy mô lớn, hậu quả nguy hiểm cho xã hội ở mức độ cao. Cũng chính vì thế, hình thức xử phạt vi phạm hành chính không đủ mạnh để răn đe, giáo dục người vi phạm nhận thức rõ hậu quả do hành vi vi phạm của mình gây ra. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc sống hàng ngày của nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội hết sức quan tâm. Mặt khác, Bộ luật Hình sự được ban hành từ năm 1999 trong bối cảnh nước ta chưa hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, nên kinh tế thị trường chưa phát triển như bây giờ, nhiều điều ước quốc tế chúng ta chưa có điều kiện gia nhập, do vậy, Bộ luật Hình sự chưa dự liệu được hết những hành vi phạm tội mới phát sinh, và chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, nhất là các tội phạm về chứng khoán mang tính xuyên quốc gia. Do đó, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc xử lý triệt để các vi phạm này. Việc quy định tội phạm về chứng khoán trong luật hình sự Việt Nam bao gồm các tội: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 181b); Tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c) là cần thiết, có ý nghĩa lớn trong việc đáp ứng việc phòng chống, ngăn chặn tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán đang ngày một gia tăng mà các hình thức xử phạt khác không ngăn chặn được.
  • 28. 28 Trong hoạt động chứng khoán, thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các chủ thể tham gia thị trường. Thực tiễn cho thấy, không phải chủ thể tham gia thị trường nào cũng có cơ hội tiếp cận được thông tin thị trường, nhất là thông tin của tổ chức phát hành - chủ thể cung ứng hàng hóa chủ yếu cho thị trường, do đó, trên thị trường thường xuyên xuất hiện tình trạng loan truyền thông tin sai sự thật hoặc thông tin gây hiểu lầm hoặc che giấu thông tin. Do đó, bất kỳ hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán trực tiếp hay gián tiếp đều gây hại cho nhà đầu tư, thị trường, nhất là suy giảm lòng tin của công chúng đối với thị trường. Việc hình sự hóa hành vi cô ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được coi là bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khung pháp luật xử lý vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Sự cần thiết phải hình sự hóa hành vi này được thể hiện qua những khía cạnh sau: Thứ nhất, vai trò công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán. Phân tích những rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán, thì rủi ro thông tin được coi là rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn của mọi rủi ro trong đầu tư chứng khoán, đó chính là rủi ro từ sự dại dột và những sai lần do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường nhạy bén, chính xác của nhà đầu tư. Do đó, khả năng lắng nghe, phân tích các "chiêu thức" và cả "nghệ thuật" tung tin tồn, gây nhiễu thông tin sẽ là lá chắn để nhà đầu tư bảo vệ mình tránh được những cạm bẫy và gắn với thế giới thông tin thị trường luôn mờ ảo trên thị trường chứng khoán. Để đảm bảo tính công khai, minh bạch trên thị trường được thực hiện trên thực tế, nhà làm luật đã quy định nghĩa vụ công bố thông tin đối với các chủ thể tham gia hoạt động chứng khoán. Thông qua hoạt động công bố thông tin, nhà đầu tư có được cái nhìn tổng thể về tổ chức phát hành cũng như thị trường là cơ sở quan trọng cho
  • 29. 29 việc tạo lập, củng cố niềm tin của giới đầu tư và các bên có liên quan đến thị trường vốn; công bố là căn cứ quan trọng nhất đánh giá tính công khai, minh bạch của thị trường, trên cơ sở đó góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán. Đối với cơ quan quản lý thị trường, công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán là căn cứ cho cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhận định những phản ứng của thị trường đối với cơ chế, chính sách, pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với hoạt động của thị trường, làm cơ sở cho các cơ quan này đánh giá tính hợp lý hay không hợp lý của chủ thể tham gia thị trường, đồng thời cũng là cơ sở để nhà nước ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đối với nhà đầu tư chứng khoán công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán là cơ sở cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư; điều chỉnh danh mục đầu tư chứng khoán giúp cho nhà đầu tư lựa chọn được lĩnh vực chứng khoán có khả năng sinh lời cao. Khi thông tin chứng khoán không được công bố đầu đủ, chính xác và kịp thời theo quy định của pháp luật sẽ thành nguyên nhân bất ổn trên thị trường. Do vậy, việc hình sự hóa hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán sẽ tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho việc xử lý với những chủ thể không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật. Thứ hai, hậu quả của việc công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán. Đối với thị trường chứng khoán, tính kịp thời của thông tin có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động của nhà đầu tư, tính chính xác của thông tin được công bố giúp cho nhà đầu tư ra quyết định đầu tư đúng đắn, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro do tình trạng thông tin không chính xác, không kịp thời mang
  • 30. 30 lại. Hệ quả của việc công bố thông tin sai lệch là nhà đầu tư không biết được đâu là nguồn thông tin chính xác; không có cơ sở để phân tích thông tin, không thể truy cứu được trác nhiệm của những người tung tin đồn thất thiệt; … Thứ ba, hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán. Thực tiễn thực thi pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán ở Viện Nam trong thời gian qua cho thấy, mức độ tuân thủ pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán ở Việt Nam không cao, các hành vi vi phạm pháp luật về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán vẫn diễn ra ngày càng phổ biến. Thời gian qua thị trường chứng khoán Việt Nam chứng kiến hàng loạt các vụ cổ đông lớn lợi dụng vị trí của mình đã "quên" không công bố thông tin theo luật định và khi phát hiện xử lý thì mới "nhận khuyết điểm và cam kết không tái phạm" như trường hợp thành viên Hội đồng quản trị Công ty nhựa Đồng Nai, Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Nhiệt điện Phả Lại;… Với sự biến động của thị trường, và lợi nhuận mang lại của việc che giấu thông tin hoặc công bố thông tin sai lệch, nhiều trường hợp, nhà đầu tư cố ý không công bố hoặc công bố sai lệch, "chấp nhận" bị xử phạt hành chính vì mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi này có mức cao nhất chỉ là 70.000.000 đến 90.000.000 đồng nên hiệu quả đấu tranh với loại hành vi này không cao. Nhận thức được tính cần thiết, sự cấp bách phải hình sự hóa hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, Bộ Tài chính đã đề xuất với Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc bổ sung thầm quyền khởi tố đối với hành vi này cùng với hai hành vi khác trong lĩnh vực chứng khoán. Theo Bộ Tài chính nhận định ba hành vi được đề xuất là ba hành vi nguy hiểm nhất trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
  • 31. 31 1.3.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trƣng của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán 1.3.2.1. Khái niệm tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Luật sửa đổi đã bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 lần đầu tiên quy định tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a) đã góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế trong lĩnh vực quản lý, kinh doanh chứng khoán, là cơ sở pháp lý hình sự để chúng ta điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội này. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán cũng như tội phạm trong các lĩnh vực chuyên biệt khác đều là một bộ phận của tội phạm nói chung. Vì vậy, về nguyên tắc, khái niệm tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán không những phải thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm nói chung mà còn phải phản ánh những dấu hiệu riêng thể hiện nét đặc thù của tội phạm trong lĩnh vực chuyên biệt này. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán bao gồm hai tội phạm riêng biệt, đó là tội cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán và tội che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. Công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán là việc đưa thông tin về tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán tới các đối tượng sử dụng thông tin theo các quy định về công bố thông tin hiện hành. Công bố thông tin là hoạt động không thể thiếu đối với bất kỳ thị trường hàng hóa nào. Tuy nhiên, do đối tượng phản ánh khác nhau nên hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán có những đặc trưng, khác với thị trường hàng hóa khác: - Công bố thông tin phải theo một trình tự pháp lý nhất định: bao gồm các bước như: tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, báo cáo và công bố thông tin,… Việc công bố thông tin theo một trình tự nhất định đảm bảo cho thông
  • 32. 32 tin công bố là chính xác và kịp thời, đảm bảo tính công bằng trong việc tiếp cận thông tin của các nhà đầu tư. - Công bố thông tin phải do các chủ thể nhất định thực hiện: các chủ thể này có nghĩa vụ công bố, có khả năng công bố và đồng thời là người chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, phi nội gián của thông tin được công bố. Hoạt động của chủ thể này thường dẫn đến các hành vi vi phạm như: thông tin bị rò rỉ, thông tin không chính thức, tin đồn không có căn cứ, giao dịch nội gián liên quan đến người có trách nhiệm trong quá trình công bố thông tin. - Công bố thông tin được tiến hành liên tục, kịp thời: thị trường chứng khoán là thị trường hoạt động liên tục về thời gian và không gian. Mỗi trạng thái thị trường đều tồn tại trong một khoảng thời gian xác định, nếu thông tin không được cập nhật nhanh chóng sẽ không phản ánh chính xác tình hình thị trường, nhà đầu tư dễ bị thiệt hại do những quyết định sai lầm của mình. - Công bố thông tin phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán như: nguyên tắc công bằng, công khai và minh bạch; nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; thông tin phải được công bố đầy đủ, chính xác, kịp thời và liên tục, đảm bảo công bằng đối với các đối tượng tiếp nhận thông tin được công bố; nguyên tắc trách nhiệm của chủ thể công bố thông tin;… Bất kỳ hành vi công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán nào trái với các quy tắc trên đều bị coi là vi phạm trong hoạt động chứng khoán. Tùy thuộc mức độ vi phạm mà bị coi là vi phạm hành chính hay tội phạm. Gian lận về thông tin trong chứng khoán là việc trực tiếp hay gián tiếp tạo dựng thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, dịch vụ về chứng khoán và thị trường chứng khoán (Khoản 1 Điều 9 Luật chứng khoán).
  • 33. 33 Thông tin sai sự thật được hiểu là thông tin mà tổ chức công bố không có khả năng thực tế để thực hiện. Khi đó doanh nghiệp công bố phải có nghĩa vụ chứng minh, nếu họ không đưa ra được cơ sở thực tế của thông tin này thì mọi thông tin đều bị coi là sai sự thật. Vì vậy, tội cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán là hành vi công bố thông tin sai sự thật liên quan đến hoạt động của một pháp nhân, công bố thông tin không đúng với các thông tin trong hồ sơ giao dịch chứng khoán. Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là việc người có nghĩa vụ công bố thông tin nhưng không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ các thông tin trong hồ sơ giao dịch chứng khoán. Nếu hành vi che giấu sự thật này gây ra hậu quả nghiêm trọng được Bộ luật Hình sự quy định thì sẽ trở thành tội phạm. Trên thị trường chứng khoán, thông tin được coi là nền tảng của mọi hoạt động đầu tư. Các nhà đầu tư là những người tiến hành hoạt động mua bán chứng khoán nhưng lại không đủ điều kiện hoặc không có khả năng kiểm soát hoạt động kinh doanh sản xuất của tổ chức phát hành. Vốn đầu tư của họ luôn có nguy cơ bị công ty phát hành sử dụng không đúng mục đích, không có lãi hoặc không hiệu quả. Ở đây xuất hiện tình trạng có thông tin nhưng không muốn công bố hoặc công bố không đầy đủ do sợ ảnh hưởng đến lợi ích của mình. Các công ty phát hành dường như không muốn minh bạch, muốn che giấu tình hình hoạt động kinh doanh do tâm lý e ngại phải đưa ra những thông tin bất lợi cho mình. Từ các phân tích trên có thể định nghĩa: Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại những quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự bảo vệ, phát sinh trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật chứng khoán về việc công bố thông tin và sự thật trong hoạt động chứng khoán, gây hậu quả
  • 34. 34 nghiêm trọng về vật chất hoặc tinh thần của tổ chức, cá nhân tham gia chứng khoán, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chế độ quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Như vậy, chỉ những hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán nào được Bộ luật Hình sự quy định thì mới coi là tội phạm. 1.3.2.2. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Theo quy định của Điều 181a Bộ luật Hình sự, tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được hiểu là hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào báo, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng. * Khách thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. "Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại" [43, tr. 86]. Tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán xâm hại đến khách thể chung là trật tự quản lý kinh tế và trực tiếp xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhà nước trong chứng khoán và thị trường chứng khoán. Để xác định được loại tội này phải căn cứ vào khách thể trực tiếp bị xâm hại. Trong đó, khách thể trực tiếp là quan hệ xã hội mà sự gây thiệt hại cho quan hệ xã hội đó khi căn cứ vào tất cả các mặt như tính chất quan trọng của quan hệ xã hội, mức độ bị gây thiệt hại, mục đích chủ quan của người phạm tội,… thể hiện được đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi. Theo chúng tôi, cũng cần phải xem xét mục đích của tội phạm này khi gây mất trật tự trong quản lý kinh tế nói chung, trong thị trường chứng khoán
  • 35. 35 nói riêng có phải là cách thức để người phạm tội đạt được mục đích khác hay không? Ví dụ: mục đích lợi nhuận, mục đích gây rối loạn thị trường,… "Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể của tội phạm mà khi tác động lên nó, người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ" [43, tr. 94]. Theo quy định của các nhà làm luật thì đối tượng tác động của tội này chính là đến các thông tin liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán làm ảnh hưởng đến tính công khai, minh bạch và tính công bằng của thị trường chứng khoán. * Mặt khách quan của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. "Mặt khác quan của tội phạm là bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan" [43, tr. 91]. Mặt khách quan của tội này được biểu hiện: hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, mối quan hệ giữa hành vi khách quan và hậu quả xảy ra. "Hành vi khách quan của tội phạm được hiểu là ‘biểu hiện" của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới những hình thức cụ thể nhằm đạt những mục đích nhất định có chủ định và mong muốn" [43, tr. 93]. Hành vi khách quan được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. Không có hành vi khách quan thì không có tội phạm. Hành vi khách quan của tội phạm được biểu hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Tội này có hai hành vi khách quan khác nhau: - Hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch. Cố ý công bố thông tin sai lệch trong hoạt động chứng khoán là việc người phạm tội đã công bố thông tin sai sự thật liên quan
  • 36. 36 đến hoạt động của công ty đại chúng, tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán công bố thông tin không đúng với các thông tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán [6, Điểm a Khoản 2 Điều 4]. Đó có thể là hành vi cắt xén thông tin, giải thích không đúng với tinh thần của thông tin được công bố, tạo dựng và tuyên truyền thông tin sai sự thật hoặc bỏ sót những thông tin cần thiết có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên thị trường, cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch tài liệu hoặc tiêu hủy tài liệu giao dịch,… - Hành vi che giấu thông tin. Che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là việc người phạm tội không công bố hoặc cố ý công bố không đầy đủ các thông tin trong hồ sơ chào bán chứng khoán, hồ sơ đăng ký niêm yết, giao dịch chứng khoán, hồ sơ đề nghị cấp, bổ sung Giấy phép thành lập và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán; hồ sơ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán [6, Điểm b Khoản 2 Điều 4]. Yếu tố thứ hai trong mặt khách quan là "hậu quả tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự" [43, tr. 102]. Gây hậu quả nghiêm trọng là việc gây thiệt hại lớn về tài sản và các hậu quả phi vật chất gây ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến sự công bằng, công khai, minh bạch và an toàn của thị trường chứng khoán được pháp luật quy định. Hậu quả này tại Khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 10/2013/TTLT-
  • 37. 37 BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 26/6/2013 hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự về các tội phạm trong lĩnh vực thuế, tài chính - kế toán và chứng khoán (sau đây gọi tắt là Thông tư số 10) đã quy định rõ: a) Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 01 tỷ đồng đến dưới 03 tỷ đồng; b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng trở lên. Ngoài việc gây hậu quả là thiệt hại về vật chất, hành vi phạm tội còn có thể gây ra các hậu quả phi vật chất như: gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về thị trường chứng khoán; làm mất niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán. Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra thuộc loại nào: nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. c) Thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ viê ̣c thực hiê ̣n hành vi phạm tội nêu trên [6, Khoản 4 Điều 4]. Đây là tội phạm có cấu thành vật chất, nên hành vi công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán chỉ cấu thành tội phạm khi gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội trên đây chỉ được coi là hậu quả của tội này khi giữa hành vi khách quan và hậu quả tồn tại mối quan hệ nhân quả: hành vi khách quan phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian; hành vi khách quan độc lập hoặc trong mối liên hệ tổng hợp với một
  • 38. 38 hoặc nhiều hiện tượng khác phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm đã xảy ra phải đúng là sự hiện thực hóa khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả của hành vi khách quan hoặc khả năng trực tiếp làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động hoặc là khả năng để sự biến đổi đó tiếp tục diễn ra không bị ngăn chặn. * Chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. "Chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể" [43, tr. 114]. Người có năng lực trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật Hình sự) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13 Bộ luật Hình sự). Người này phải đạt độ tuổi nhất định có nghĩa là "người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" [28, Điều 12]. Người này đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể có nghĩa là người này thực hiện một hoặc nhiều hành vi được quy định Bộ luật Hình sự. Chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán là chủ thể đặc biệt. Ngoài các điều kiện của chủ thể chung, chủ thể của tội này phải là người có nghĩa vụ công bố thông tin. Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 10 quy định: 3. Chủ thể của tội phạm này là một trong các đối tượng sau: a) Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán;
  • 39. 39 b) Người đại diện theo pháp luật của tổ chức tư vấn phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức kiểm toán được chấp thuận, những người trực tiếp thực hiện tư vấn phát hành, niêm yết bảo lãnh phát hành, thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính, người được ủy quyền công bố thông tin; c) Người đại diện theo pháp luật của tổ chức đăng ký, lưu ký chứng khoán; d) Những người khác có thể là đồng phạm của tội này [6, Khoản 3 Điều 4]. Như vậy chủ thể của tội phạm này là những người có nghĩa vụ công bố thông tin, như: người đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền, thường là người nắm rõ các quy định của pháp luật về nghĩa vụ công bố thông tin, nắm rõ điều lệ của công ty, nội quy của tổ chức về việc công bố thông tin nhưng vẫn cố tình sử dụng các biện pháp, thủ đoạn, hành vi trái pháp luật để công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong thị trường chứng khoán. * Mặt chủ quan tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm lỗi, mục đích và động cơ. Trong đó lỗi được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm. Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. "Người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội" [43, tr. 127]. Khoản 1 Điều 181a Bộ luật Hình sự đã quy định rõ: "Người nào cố ý công bố thông tin sai lệch…" [28, Khoản 1 Điều 181a]. Vì vậy, lỗi của người
  • 40. 40 thực hiện hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán được xác định là lỗi cố ý. Tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Về lí trí, người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán, thấy trước hành vi đó có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Về ý trí, người phạm tội mong muốn hậu quả phát sinh (cố ý trực tiếp) hoặc tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (cố ý gián tiếp). 1.3.3. Hình phạt của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Điều 181a Bộ luật Hình sự cũng quy định các hình phạt, các biện pháp xử lý tương ứng đối với tội này căn cứ vào hành vi phạm tội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Khung hình phạt cao nhất là năm năm. Xét về tình chất nguy hiểm của hành vi thì chưa đến mức tước bỏ quyền tự do, quyền sống của người phạm tội nên Bộ luật Hình sự không quy định hình phạt chung thân và hình phạt tử hình đối với loại tội này. Khoản 1 Điều 181a Bộ luật Hình sự quy định: "…người thực hiện hành vi phạm tội có thể bị phạt tiền từ một trăm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm" [28, Khoản 1 Điều 181a]. Như vậy, khung hình phạt cơ bản được quy định Khoản 1 Điều 181a có mức phạt cao nhất là hai năm tù. Tiếp đó, khung tăng nặng quy định: "…người thực hiện hành vi phạm tội có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm" [28, Khoản 2 Điều 181a]. Với các tình tiết định khung, bao gồm:
  • 41. 41 Một là, phạm tội "có tổ chức" quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 181a. "Phạm tội có tổ chức là trường hợp đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người thực hiện tội phạm" [28, Khoản 3 Điều 20]. Trong phạm tội có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hóa vai trò, phân công nhiệm vụ tương đối rõ rệt, cụ thể. Sự cấu kết này trong tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán ngày càng cao, chuyên nghiệp. Không chỉ câu kết trong nước mà còn mở rộng ra phạm vi toàn thế giới. Hành vi của những tổ chức rõ ràng là tinh vi hơn, khó phát hiện hơn và thường gây ra những thiệt hại lớn hơn so với một người thực hiện hành vi phạm tội. Hình thức phạm tội có tổ chức thường là các chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin trong cùng một công ty, tổ chức mà người đứng đầu tổ chức chính là người đại diện theo pháp luật của công ty, cùng thực viện việc công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin chứng khoán, có sự cấu kết chặt chẽ, phân chia nhiệm vụ rõ ràng và hoạt động rất chuyên nghiệp. Phạm tội có tổ chức là trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng và mức độ nguy hiểm cao cho xã hội so với trường hợp phạm tội thông thường, do đó được quy định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Hai là, "thu lợi bất chính lớn" được quy định tại điểm b Khoản 2 Điều 181a Theo điểm c Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10, phạm tội bị coi là "thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ viê ̣c thực hiê ̣n hành vi phạm tội nêu trên". Ba là, gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 181a. Theo điểm b Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10, phạm tội "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng trở lên" [6, Điểm b Khoản 4 Điều 4].
  • 42. 42 Bốn là, "tái phạm nguy hiểm" được quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 181a. Tái phạm nguy hiểm là trường hợp: người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý hoặc đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cố ý. Ngoài những hình phạt chính trên, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 1.3.4. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán Đối chiếu với các quy định của pháp luật có liên quan và thực tế nền kinh tế thị trường hiện nay thì quy định này của Bộ luật Hình sự còn rất nhiều tồn tại, hạn chế cần phải được nghiên cứu, bổ sung để hoàn thiện. Cụ thể: Thứ nhất, một trong những nguyên nhân lớn dẫn đến sự chậm trễ được xác định là do trong quá trình thi hành Bộ luật Hình sự, việc làm rõ như thế nào là "gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng" và "thu lời bất chính lớn, rất lớn, đặc biệt lớn" chưa có hướng dẫn nên cơ quan tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, việc Luật không quy định chi tiết rõ ràng sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm do không đủ căn cứ chứng minh phạm tội, ngược lại cơ quan tố tụng dễ dàng hình sự hóa các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán. Điều này dẫn đến việc các cơ quan tố tụng dễ bị nảy sinh tâm lý "ngại" trong quá trình xử lý vụ việc. Thông tư số 10 ra đời đã định lượng hóa hậu quả này. Theo đó, Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10 quy định cụ thể về thiệt hại cả vật chất, cụ thể: "Điều 4. 4. a) Gây hậu quả nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư với số tiền từ 01 tỷ đồng đến dưới 03 tỷ đồng;
  • 43. 43 b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp gây thiệt hại về vật chất cho nhà đầu tư từ 03 tỷ đồng trở lên. … c) Thu lợi bất chính lớn là thu được khoản lợi có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên từ viê ̣c thực hiê ̣n hành vi ph ạm tội nêu trên [6, Khoản 4 Điều 4]. Tuy nhiên, nếu so sánh với đặc thù hoạt động của thị trường chứng khoán thì các mức thiệt hại vật chất định tội, định khung này vẫn còn hơi thấp. Với mức thiệt hại và thu lợi bât chính khá thấp như trong Thông tư số 10 đã bị xem xét xử lý hình sự, sẽ làm tăng các trường hợp bị xử lý, tăng áp lực cho các Sở Giao dịch chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong truy xuất, xử lý thông tin các giao dịch có dấu hiệu vi phạm. Giá giao dịch mỗi ngày trên thị trường chứng khoán có thể lên tới nghìn tỷ đồng và có thể còn cao hơn nữa, vì vậy, nếu quy định mức tối thiểu thấp thì sẽ khó có thể kiểm soát nổi còn cơ quan pháp luật thì sẽ bị quá tải. Thứ hai, khi quy định về hậu quả phi vật chất, Khoản 4 Điều 4 Thông tư số 10 quy định: Gây ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước về thị trường chứng khoán; làm mất niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán; làm ảnh hưởng đến sự công bằng, tính minh bạch, công khai và an toàn của thị trường chứng khoán. Trong các trường hợp này phải tùy vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra thuộc loại nào: nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng [6, Khoản 4 Điều 4]. Quy định này vẫn còn rất mơ hồ, chưa rõ ràng. Việc gây hậu quả phi vật chất mức độ nào thì bị voi là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng? Ai là người đánh giá? Nếu giao hết cho Cơ quan điều tra đánh
  • 44. 44 giá vấn đề này thì về lý thuyết, vai trò của Cơ quan điều tra thường thiên về hướng buộc tội, nên dễ bị rơi vào khả năng hình sự hóa các vụ việc chứng khoán. Còn nếu giao cho liên ngành đánh giá thì thực tế với lợi thế áp đặt ý chí, nên cũng khó tránh khỏi vẫn thuộc về quan điểm của Cơ quan điều tra. Thứ ba, chưa có một văn bản hướng dẫn thế nào là thông tin sai lệch? Chứng minh sự sai lệch đó như thế nào? Thứ tư, về chủ thể của tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoán quy định tại Thông tư số 10: - Tại Điểm a Khoản 3 Điều 4 Thông tư số 10 quy định về nhóm chủ thể tội phạm bao gồm: "Chủ tịch Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính hoặc Kế toán trưởng của tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán" [6]; quy định này vẫn còn thiếu vì chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng Giám đốc,… không cho thấy rằng đây là những người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó mà có thể chỉ là chức danh tạm thời để thuận tiện hơn trong kinh doanh. Vì có một số pháp nhân người đại diện không phải Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc không phải Giám đốc nên họ không có quyền công bố thông tin trong hoạt động chứng khoán. - Pháp luật có quy định chủ thể phải là người có nghĩa vụ công bố hoặc đồng phạm. Tuy nhiên, nếu thông tin của công ty đã được công bố mà người sử dụng thông tin cố tình công bố thông tin sai lệch dưới nhiều hình thức như cố tình cắt xén thông tin đã được công ty công bố hoặc đưa ra những nhận định bất lợi cho công ty liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bù trừ hoặc thanh toán chứng khoán gây hậu quả nghiêm trọng thì có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này không [21, tr. 24].