SlideShare a Scribd company logo
1 of 86
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VIỆT DŨNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hà Nội - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN VIỆT DŨNG
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Người hướng dẫn khoa học: TS Phạm Mạnh Hùng
Hà Nội – 2010
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Bộ luật Hình sự BLHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự BLTTHS
Cảnh sát điều tra CSĐT
Công an nhân dân CAND
Cơ quan điều tra CQĐT
Pháp lệnh Tổ chức Điều tra Hình sự PLTCĐTHS
Tội phạm kinh tế TPKT
Tội phạm về kinh tế, chức vụ TPVKT,CV
Viện kiểm sát nhân dân VKSND
Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTC
Viện kiểm sát VKS
Hợp tác xã HTX
Hợp tác xã vận tải HTXVT
Ngân sách nhà nước NSNN
Giá trị gia tăng GTGT
Trách nhiệm hữu hạn TNHH
2
MỤC LỤC Trang
Mở đầu 4
Chương 1: Những vấn đề chung về tội trốn thuế 8
1.1. Các qui định của pháp luật về tội trốn thuế qua các giai đoạn 8
1.2. Các dấu hiệu pháp lý về tội trốn thuế 16
1.3 . Phân biệt tội Trốn thuế với các loại tội phạm khác 26
Chương 2: Thực trạng và hoạt động đấu tranh phòng, chống tội
trốn thuế ở Việt Nam
32
2.1. Thực trạng tội phạm trốn thuế ở Việt Nam 32
2.2. Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế ở
Việt Nam
57
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế ở Việt Nam
66
3.1. Dự báo tình hình tội phạm trốn thuế 67
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm trốn thuế ở Việt Nam
70
3.3. Những kiến nghị 73
Kết luận 77
Danh mục những tài liệu tham khảo 78
Phụ lục 80
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, là khoản đóng góp
theo qui định của pháp luật mà Nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân phải nộp
vào ngân sách nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường thuế là một trong
những công cụ tài chính giữ vai trò điều tiết thu nhập, tái đầu tư phát triển
kinh tế và xây dựng nền an ninh quốc phòng. Vì vậy đóng thuế là nghĩa vụ
của các doanh nghiệp và mọi công dân.
Trong quá trình đổi mới, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh
tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước trong đó có chính sách thuế đã được điều chỉnh kịp
thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đem lại sự công bằng cho các chủ
thể tham gia kinh doanh. Tuy nhiên, một số văn bản còn bộc lộ sự thiếu
chặt chẽ. Quá trình thực hiện chính sách thuế có lúc, có nơi còn chưa
nghiêm, các qui định của pháp luật về tội trốn thuế còn bộc lộ một số
nhược điểm. Lợi dụng sơ hở này, một bộ phận không nhỏ cá nhân, doanh
nghiệp đã tìm mọi cách trốn thuế, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm
trọng. Trong khi đó, việc xử lý hình sự đối với tội trốn thuế còn nhiều hạn
chế, chưa đạt hiệu quả cao. Số vụ án được đưa ra truy tố, xét xử chiếm tỉ lệ
rất nhỏ, chưa phát huy được vai trò quản lý cũng như tính nghiêm minh của
pháp luật.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam” là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực
tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm về thuế nói chung và tội trốn
thuế nói riêng.
4
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm
trốn thuế mà chỉ có một số chuyên đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm về
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế, cụ thể: Chuyên đề của
Vụ 1 - Viện kiểm sát nhân dân tối cao về “Thực tiễn công tác thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về tội trốn thuế, một số
giải pháp và kiến nghị” trong đó đã nghiên cứu những vấn đề thực tiễn và
những vấn đề khó khăn vướng mắc hiện nay trong quá trình xử lý tội trốn
thuế; đồng thời đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng đấu tranh đối với loại
tội phạm trốn thuế trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu chuyên đề và thời gian nghiên cứu
diễn ra từ trước năm 2006 nên nhiều vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây
chưa được đề cập.
Trong đề tài này tác giả mạnh dạn đi vào nghiên cứu chuyên sâu nhằm
đánh giá đúng thực trạng tội phạm trốn thuế hiện nay và những thủ đoạn tinh
vi nhất là trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, qua đó để đưa ra những
giải pháp nhằm ngăn chặn, xử lý và đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội
phạm này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật hình sự và các qui định của pháp luật
hiện hành về thuế, đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng về tình hình,
nguyên nhân và điều kiện phạm tội của tội trốn thuế nhằm đưa ra các giải
pháp nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống loại
tội phạm này.
Để đạt được mục đích nêu trên đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội trốn thuế quy định tại
Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 1999;
5
- Phân tích làm sáng rõ tình hình tội trốn thuế cũng như thực tiễn xử lý
với loại tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời chỉ ra
những vướng mắc, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này trong thời gian vừa qua;
- Phân biệt một số hành vi trốn thuế với một số loại tội phạm có liên quan;
- Chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó đưa ra giải
pháp nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại tội phạm này;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội trốn thuế được qui định tại
Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở đánh giá tình hình tội phạm
trốn thuế trong thời gian từ 2005 đến 2009.
- Phạm vi nghiên cứu những vấn đề liên quan tới tội trốn thuế. Nêu
rõ những đặc điểm cơ bản và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt
tội Trốn thuế với các loại tội phạm khác, đồng thời nêu rõ thực trạng tội
phạm trốn thuế đang diễn ra hiện nay, cũng như công tác đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này trong những năm qua, trên cơ sở đó để đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn
kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về chính sách thuế trong
nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế để xác định nguyên nhân,
giải pháp phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.
Thông qua sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học để làm
rõ yêu cầu và mục đích của luận văn.
6
6. Yếu tố mới của luận văn
Thông qua phân tích những vấn đề lý luận trên cơ sở các qui định pháp
luật hiện hành và thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án trốn
thuế, từ những vụ án cụ thể rút ra được những thủ đoạn trốn thuế phổ biến
hiện nay. Qua đó tác giả đã đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao, đấu
tranh có hiệu quả đối với tội phạm trốn thuế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội trốn thuế.
Chương 2: Thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm về trốn thuế.
Chương 3: Những giải pháp nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với tội
trốn thuế.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỐN THUẾ
1.1. Các qui định của pháp luật về tội trốn thuế qua các giai
đoạn lịch sử
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà được thành lập. Chính quyền non trẻ cùng lúc phải đối phó
với thù trong, giặc ngoài lại gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Để bảo vệ
thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta hết sức chú trọng
đến việc giữ vững an ninh quốc gia đồng thời xây dựng hệ thống pháp luật
nhằm ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Đặc điểm chung của pháp luật
thời kỳ này là chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hệ thống hoá các
qui định của pháp luật còn hạn chế trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh
vực kinh tế. Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế từng ngày, đòi hỏi quản
lý các nguồn thu ngân sách, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản ban hành để
xác lập về thuế như sau:
- Thông tư 427-TTG ngày 18/12/1954 của Thủ tướng chính phủ qui
định về thuế doanh nghiệp.
- Điều lệ về thuế hàng hoá do Nghị quyết số 487 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội ban hành.
- Điều lệ tạm thời do Nghị định số 661/TTg ngày 12/1/1956 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành qui định về thuế thổ trạch.
- Điều lệ số 542 ngày 26/5/1955 của Thủ tướng Chính phủ qui định về
thuế kinh doanh doanh nghệ thuật.
- Điều lệ thuế nông nghiệp số 715-TTG ngày 24/3/1956 của Thủ tướng
Chính phủ áp dụng ở những nơi đã cải cách ruộng đất.
8
- Điều lệ về thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức
hợp tác và hộ kinh doanh riêng lẻ ban hành kèm theo Quyết định số 200-
NQ/TVQH ngày 18/1/1966 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Những văn bản pháp luật qui định về thuế thời đó đã xác định được các
hành vi vi phạm thể lệ về thuế, coi là một trong các hành vi xâm phạm chính
sách quản lý các hoạt động kinh doanh. Trong các văn bản trên, ngoài việc
đưa ra các qui định về thể lệ, các hành vi vi phạm cụ thể về thuế, đường lối xử
lý đối với các vi phạm cũng đã được xác lập. Một số dạng hành vi liên quan
đến trốn thuế được ghi nhận như: Khai man, không chịu nộp thế, lập chứng từ
giả, bán hàng hoá không có chứng từ hợp lệ, lập sổ sách kế toán không đúng
thực tế đều đã được quy định trong các văn bản pháp luật để xử lý về các
hành vi trốn thuế.
Về đường lối xử lý đối với người có hành vi trốn thuế, ngoài việc qui
định các chế tài đa dạng như phạt tiền, tịch thu hàng hoá gian lận, đình chỉ
hoạt động kinh doanh thì việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng đã bước đầu
được chú ý. Cơ sở phân hoá trách nhiệm được xác định là số tiền trốn thuế và
tính chất nghiêm trọng của hành vi trốn thuế.
Các hành vi vi phạm pháp luật về thuế thông thường chỉ bị xử phạt tiền;
tịch thu một phần hoặc toàn bộ hàng hoá gian lận hay đình chỉ hoạt động. Ví
dụ, khoản 3 Điều 15 Điều lệ thuế hàng hoá qui định “ nếu có hành động trốn
thuế, lậu thuế như khai man khối lượng, giá cả, phẩm chất hàng hoá, tàng trữ
vận chuyển và bán hàng không có chứng từ hợp lệ, ghi chép sổ sách không
đúng thực tế thì có thể bị phạt từ một đến hai lần số thuế gian lậu, hoặc bị xử
phạt theo cả hai hình thức nói trên”.
Trường hợp tái phạm, trốn thuế có tổ chức sẽ bị truy tố ra Toà án.
Theo qui định tại Điều 18 Điều lệ tạm thời ban hành kèm theo Nghị
định số 661/TTg ngày 12/1/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về thuế
9
thổ trạch thì “người nào cố tình dây dưa thuế, chống thuế, có thể bị truy tố
trước toà án”.
Trong số các hình phạt trên, phạt tiền được áp dụng chủ yếu với mức
phạt tiền từ một đến năm lần số thuế gian lận (Điều lệ hàng hoá, thuế thổ
trạch, thuế sát sinh, thuế công thương nghiệp).
Luật thuế doanh nghiệp qui định có thể áp dụng hình phạt tiền lên tới
một đến mười lần số thuế định gian lận (Điều 12 Thông tư 427-TTg ngày
18/12/1954 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về xử phạt các hành vi gian
lận thuế).
Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật thời kỳ này vẫn chưa có điều luật
mang tính khái quát chung về tội trốn thuế, cũng như chưa có sự phân định rõ
ràng trốn thuế với tính chất là một tội phạm và trốn thuế với tính chất vi phạm
pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế. Ngày 15/3/1976 Chính phủ ban hành
Sắc luật 03/76 qui định về tội phạm kinh tế. Điều 6 Sắc luật 03 qui định:
“Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về kinh tế tài chánh cho nhà nước, cho
hợp tác xã hoặc tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát
triển sản xuất, cho ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, gồm các loại:
- Sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ.
- Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh qui định của nhà nước.
- Làm bạc giả hoặc tiêu thụ bạc giả.
- Mua bán gian lận, trốn thuế, lừa gạt nhà cầm quyền.
- Đầu cơ, tích trữ, tung tin thất thiệt, dìm giá, tăng giá phá rối thị
trường.
- Bán hàng nhà nước cấm.
Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm
năm và bị phạt tiền đến 50.000đ ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó.
10
Trường hợp nghiêm trọng, bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử
hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
So với qui định của pháp luật thời kỳ trước, pháp luật thời kỳ này đã có
sự tiến bộ rõ rệt. Bằng việc qui định tội trốn thuế là một trong các tội phạm
kinh tế, pháp luật đã xác định tính nguy hiểm cho xã hội của tội trốn thuế,
đồng thời phân định rõ ràng ranh giới giữa các hành vi trốn thuế bị xử phạt
hành chính và hành vi trốn thuế bị xử lý hình sự.
Sắc luật số 03/76 đã qui định chế tài đối với hành vi trốn thuế nói riêng,
hành vi xâm phạm chế độ kinh tế nói chung ở mức độ nghiêm khắc. Hình
phạt trong Sắc luật 03 qui định là phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm hoặc phạt tiền
đến 50.000đ, trường hợp nghiêm trọng phạt tù 20 năm, chung thân hoặc tử
hình. Những qui định tại điều 6 Sắc luật 03/76 đã thực sự là cơ sở pháp lý cho
việc xử lý hình sự đối với các hành vi xâm phạm chế độ kinh tế nói chung,
hành vi trốn thuế nói riêng, góp phần vào công cuộc phòng, chống tội phạm
trốn thuế.
Phù hợp với diễn biến mới của tình hình kinh tế – xã hội, trên cơ sở các
qui định của Hiến pháp 1980, năm 1982 Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn
lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được ban hành. Tại Điều 6 Pháp lệnh
này, hành vi trốn thuế được coi là một trong những hành vi khách quan trong
tội kinh doanh trái phép:
“Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội
dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm
yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng
hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và người tiêu
dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị
phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng
phạm pháp”.
11
Như vậy, cùng với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, phạm
vi xác định tội phạm trốn thuế ngày càng được cụ thể hoá rõ hơn. Trong Pháp
lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm
1982, hành vi trốn thuế được coi là một trong những hành vi khách quan của
tội kinh doanh trái phép, nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự kinh tế.
Hình phạt được qui định đối với tội kinh doanh trái phép (trong đó có
hành vi trốn thuế) là cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị
phạt tù từ ba tháng đến hai năm, cùng với nó còn bị phạt tiền gấp ba lần trị giá
hàng phạm pháp. Như vậy, hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc đối với mọi
đối tượng phạm vào tội phạm này. Ngoài hình phạt tiền, người phạm tội còn
bị áp dụng một trong hai hình phạt là cải tạo không giam giữ và phạt tù.
Kỳ họp Quốc hội khoá VII năm 1985 đã thông qua Bộ luật hình sự đầu
tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là công cụ sắc bén
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội
cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật hình sự 1985
ra đời trên cơ sở kế thừa các qui định của các văn bản pháp luật trước. Trong
đó đã quy định cụ thể tội Trốn thuế tại Điều 169 như sau:
“Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà
còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù
từ ba tháng đến ba năm”.
Trong cả ba lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vào các năm 1989,
1992 và 1997, qui định về tội trốn thuế đều được sửa đổi bổ sung theo hướng
phân hoá trách nhiệm hình sự và tăng nặng hình phạt. Theo luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1997, Điều 169 về tội Trốn thuế
được qui định như sau:
“1. Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành
chính mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
12
2. Phạm tội trốn thuế với số lượng lớn, rất lớn hoặc đã bị kết án nhưng
chưa được xoá án tích về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội qui định tại
điều 185b, 185c, 185d, 185đ, 97, 165, 166, 167, 168, 173 và 183 hoặc trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai
năm.”
Một trong những dấu hiệu xác định tội trốn thuế là trốn thuế với số
lượng lớn. Song tại điều luật không có qui định như thế nào được coi là số
lượng lớn. Theo thông tư liên tịch số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của liên ngành
Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp về hướng
dẫn về xử lý đối với các hành vi trốn thuế, thì trốn thuế với số lượng lớn là trốn
thuế với số tiền thuế tương đương giá trị của 5 tấn gạo trở lên. Hướng dẫn này
phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn đó.
Do sự biến động của giá cả, sau một thời gian thực hiện thì hướng dẫn
của Thông tư liên ngành số 11 đã không còn phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu xử
lý đối với tội trốn thuế trong tình hình mới, Thông tư liên ngành số 06 ngày
20/9/1996 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Toà án nhân dân tối cao – Bộ
Nội vụ ra đời thay thế Thông tư liên ngành số 11, Thông tư 06 hướng dẫn xử
lý đối với tội trốn thuế như sau: “ Người trốn thuế với số lượng từ năm mươi
triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng thì bị coi là trốn thuế với
số lượng lớn và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 169 Bộ
luật hình sự”.
Sau một thời gian thực hiện Bộ luật hình sự năm 1985, với sự phát triển
của nền kinh tế đất nước, qui định tại Điều 169 Bộ Luật hình sự 1985 cũng
như nhiều điều luật khác đã không còn phù hợp, cần được sửa đổi, bổ sung.
Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời, khắc phục những hạn chế bất cập của
Bộ luật hình sự năm 1985 và đáp ứng được yêu cầu tình hình kinh tế xã hội
trong thời kỳ đổi mới.
13
Tội trốn thuế được qui định tại Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999
như sau:
“1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới
một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn
thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội qui định tại các
điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230,
232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm,
thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo
không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần
đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc
trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến
bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền
trốn thuế”.
So với qui định của Bộ luật hình sự năm 1985, qui định về tội trốn thuế
của Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi đáng chú ý sau:
Thứ nhất, dấu hiệu xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
trốn thuế đã được định lượng cụ thể. Trước kia trong Bộ luật hình sự năm 1985
dấu hiệu này được qui định là “trốn thuế với số lượng lớn” nay được sửa thành
“trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi
triệu đồng”.
Thứ hai, dấu hiệu định tội bổ sung được sửa đổi chính xác hơn so với
qui định trước đây. Bộ luật hình sự năm 1985 qui định: “đã bị xử lý hành
chính” nay sửa thành “đã bị xử lý vi phạm hành chính”.
14
Thứ ba, phạm vi xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế nhìn chung đã
bị thu hẹp. Điều luật giới hạn vi phạm hành chính đã bị xử phạt trước đó là
hành vi trốn thuế (hẹp hơn so với qui định của Bộ luật hình sự năm 1985).
Đồng thời, dấu hiệu đã bị kết án chưa được xoá án tích mà còn vi phạm được
qui định trong cấu thành tội phạm cơ bản, được xem là dấu hiệu định tội trong
trường hợp trốn thuế với số tiền thấp hơn năm mươi triệu đồng.
Thứ tư, qui định về tội trốn thuế đã hoàn thiện hơn về mặt lập pháp, thể
hiện sự phân hoá rõ nét trách nhiệm hình sự trong các trường hợp trốn thuế có
mức độ nguy hiểm khác nhau (phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản và
hai cấu thành tăng nặng) trên cơ sở số tiền trốn thuế và các dấu hiệu định
khung tăng nặng khác hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.
Thứ năm, chế tài đối với tội trốn thuế được qui định giảm nhẹ hơn.
Hình phạt nặng nhất là tù có thời hạn, với mức cao nhất là bảy năm (so với 12
năm trong Bộ luật hình sự năm 1985). Thay vào đó, hình phạt tiền được bổ
sung là hình phạt chính với phạm vi áp dụng rộng, mức phạt được xác định
trên cơ sở số tiền trốn thuế. Đây là điểm nổi bật trong chính sách hình sự của
Nhà nước đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật hình
sự năm 1999
Sau 10 năm thực hiện Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy một số quy
định của Bộ luật hình sự đã tỏ ra không còn phù hợp. Năm 2009 Quốc Hội đã
thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999,
trong đó Điều 161 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba
trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành
chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các
tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193,
193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được
15
xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền
trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm.
2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu
trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm
lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
3. Phạm tội trốn thuế từ sáu trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường
hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền
trốn thuế.”
Như vậy, số tiền trốn thuế để có thể bị khởi tố và chịu trách nhiệm hình
sự theo khoản 1 điều 161 đã thay đổi từ 50 triệu đồng đến một mức mới là
100 triệu đồng. Đồng thời căn cứ để áp dụng khoản 2 và khoản 3 cũng được
thay đổi lên một mức mới là ba trăm đến sáu trăm triệu đồng và trên sáu trăm
triệu đồng.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế
1.2.1. Chủ thể của tội trốn thuế
Theo pháp luật hình sự Việt Nam chủ thể của tội phạm trốn thuế là
người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
theo luật định. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có khả năng nhận thức được tính chất
nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi ấy.
Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này chỉ là những người phải nộp thuế
theo qui định của pháp luật. Chủ thể của tội phạm phụ thuộc vào đối tượng
phải nộp các loại thuế theo qui định của Nhà nước. Ví dụ: Chỉ những người
có thu nhập cao trên 4 triệu đồng/tháng mới phải chịu thuế thu nhập; chỉ
những người có đăng ký kinh doanh mới phải chịu thuế giá trị gia tăng
16
(VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp; Chỉ những người được phép khai thác tài
nguyên mới phải chịu thuế tài nguyên…
Chủ thể của tội phạm trốn thuế là chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên,
có đủ năng lực trách nhiệm hình sự vì cả 3 khoản của điều luật chỉ với mức
hình phạt cao nhất là 7 năm tù do tội Trốn thuế là tội phạm ít nghiêm trọng
(đối với khoản 1 và khoản 2) và tội phạm nghiêm trọng (đối với khoản 3) nên
không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do đó,
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm này. [3]
Bộ luật hình sự chưa qui định pháp nhân là chủ thể của tội phạm
hình sự, mặc dù đối tượng trốn thuế chủ yếu là các pháp nhân có đăng ký
kinh doanh.
1.2.2. Khách thể của tội trốn thuế
Khách thể của tội trốn thuế là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là ngân
sách nhà nước bị thiệt hại do không thu được thuế. Đối tượng tác động trực
tiếp của tội phạm này là ngân sách Nhà nước. [4]
Ở Việt Nam hiện nay, các loại thuế được xác định phải nộp là: thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển
quyền sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập…
1.2.3. Mặt khách quan của tội trốn thuế
Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy
hiểm cho xã hội, đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Tức là sự thể
hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. Trốn thuế là
không nộp thuế cho Nhà nước theo qui định của pháp luật. Hành vi khách
quan của tội trốn thuế là không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Trốn thuế là
hành vi dùng thủ đoạn gian dối để không phải đóng thuế hoặc đóng ít hơn
mức thuế phải nộp. Mặt khách quan được thể hiện bằng hành vi sau: Khai báo
17
gian dối trong sản xuất, kinh doanh để không phải đóng thuế hoặc đóng mức
thuế thấp hơn nhiều so với mức phải đóng: hành vi này thường thể hiện ở việc
gian dối trong kê khai hàng hoá trong sản xuất hoặc kinh doanh, ví như kinh
doanh không đăng ký hoặc đăng ký không đúng quy mô sản xuất, chủng loại
hàng hoá; sử dụng các giấy tờ, chứng từ không đúng quy định hoặc sửa chữa
chứng từ, hoá đơn hoặc dùng chứng từ hoá đơn quay vòng nhiều lần. Hậu quả
trực tiếp của hành vi trốn thuế là gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Tội phạm chỉ cấu thành khi số tiền trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên
hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc
đã bị kết án về tội này hoặc về các tội quy định tại các điều 153, 154, 155,
156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và
238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Đối với tội trốn
thuế, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.
Nếu người phạm tội không có thủ đoạn gian dối để trốn thuế mà chỉ có
hành vi chây ỳ không chịu nộp thuế thì không phải là hành vi trốn thuế mà tuỳ
từng trường hợp có thể bị xử phạt hành chính theo qui định của pháp luật về
hành vi chậm nộp thuế. Nếu người có nghĩa vụ phải nộp thuế, nhưng trốn
tránh việc nộp thuế bằng cách rời khỏi nơi cư trú hoặc bỏ trốn để không phải
nộp thuế thì bị coi là hành vi trốn thuế.
Nếu sau khi đã nộp đầy đủ thuế cho Nhà nước, nhưng sau đó lại dùng
thủ đoạn gian dối để được hoàn thuế thì hành vi đó của người phạm tội là
hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi trốn nộp thuế có thể được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau
nhưng đều có chung một mục đích là không phải nộp khoản tiền hoặc nộp ít
hơn số tiền lẽ ra phải nộp vào ngân sách nhà nước. Hành vi đó có thể là không
kê khai nộp thuế; kê khai không đúng căn cứ tính thuế để trốn một phần thuế
phải nộp; lập sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ không đúng với thực tế kinh
18
doanh; bỏ ngoài sổ sách số liệu kế toán; Sử dụng hoá đơn chứng từ không
đúng sự thật để trốn thuế giá trị gia tăng khai bớt doanh thu; khai man hàng
hoá hoặc các hành vi gian dối khác làm giảm số thuế phải nộp. [3]
Trong Bộ luật hình sự không mô tả cụ thể hành vi trốn thuế nhưng
trong các văn bản dưới luật đã có hướng dẫn chi tiết thế nào là hành vi trốn
thuế. Theo Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/12/2004 của Chính phủ về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì hành vi trốn thuế được
hiểu là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật về thuế làm giảm số thuế
phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn giảm [7]. Hành vi
trốn thuế bao gồm:
Thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Các vi phạm thể hiện liên
quan đến các qui định về lập hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, qui định
về mở sổ và ghi sổ kế toán hoặc các qui định về các khoản thu khác.
Thứ hai, hành vi không nộp thuế hoặc nộp thuế ít hơn mức phải nộp
làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Hai hành vi này có quan hệ chặt chẽ với nhau, hành vi vi phạm pháp
luật thuế tạo cơ sở cho hành vi không nộp thuế hoặc nộp ít hơn số thuế phải
nộp. Hành vi trốn thuế phải là sự kết hợp của cả hai hành vi này.
Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt trốn thuế với dây dưa không
nộp thuế. Dây dưa không nộp thuế là hành vi vi phạm chế độ, thời gian thu,
nộp tiền thuế, chủ thể nộp thuế không có vi phạm trong việc kê khai thuế, căn
cứ tính thuế theo qui định của từng loại thuế hay trong lĩnh vực kế toán như
sử dụng hoá đơn chứng từ…
Theo qui định của pháp luật hiện hành, hành vi dây dưa không nộp thuế bị
coi là hành vi vi phạm hành chính và bị xử lý bằng các biện pháp hành chính.
Để trốn thuế, người phạm tội có thể thực hiện nhiều thủ đoạn khác
nhau, mà các thủ đoạn thường là:
19
Không kê khai thuế, để ngoài sổ sách kế toán số liệu kế toán: Kê khai
thuế là một trong các hoạt động giúp các cơ quan chức năng quản lý một
cách hiệu quả về thuế của các doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để cơ quan
chức năng tính thuế, đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ giữa các thành
phần kinh tế.
Ví dụ: Vụ Công ty TNHH ở Bắc Kạn được thành lập với chức năng
chuyên khai thác mỏ. Sau khi đi vào hoạt động một thời gian có hiệu quả,
Giám đốc doanh nghiệp này đã bán 50% cổ phần cho một doanh nghiệp khác.
Tuy có hợp đồng chuyển nhượng vốn, nhưng Công ty này đã không kê khai
lợi nhuận của hợp đồng từ việc chuyển nhượng vốn vào báo cáo tài chính
năm. Chỉ đến khi cơ quan Công an kiểm tra mới phát hiện được phần lợi
nhuận không kê khai, doanh nghiệp này đã trốn thuế 586 triệu đồng. Đây
chính là thuế thu nhập doanh nghiệp 28% mà lẽ ra doanh nghiệp phải kê khai
để nộp vào ngân sách nhà nước.
Để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài thủ đoạn mua bán hoá đơn
GTGT nhằm nâng cao phần chi phí trong sản xuất, các doanh nghiệp đã mua
hoá đơn GTGT của các doanh nghiệp “ma”, nâng giá trị hàng hoá xấp xỉ với
giá thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp khác
nhau để giấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh.
Kê khai không đúng căn cứ tính thuế theo qui định của từng sắc thuế:
Kê khai căn cứ tính thuế là cơ sở để xác định chính xác số thuế phải nộp. Việc
kê khai không đúng căn cứ tính thuế cũng là một trong các hành vi trốn thuế.
Ví dụ như việc nhập khẩu ô tô con đã qua sử dụng thì thuế xuất sẽ thấp hơn
với nhập ôtô con mới 100%. Công ty trách nhiệm Phú Cường đã hợp đồng
với 1 Công ty có trụ sở tại Mỹ nhập 50 xe ôtô Hon Da ACURA mới 100%
nhưng làm một số chi tiết cũ đi như lốp xe, quay đồng hồ Congtơmet, rồi tiến
hành mở tờ khai hải quan là xe cũ để giảm thuế nhập khẩu.
20
Các doanh nghiệp nhập khẩu thường khai báo sai về chủng loại mặt
hàng nhập khẩu hoặc thông đồng với đối tác nước ngoài hạ giá trị thực tế của
hợp đồng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu, thuế GTGT (do thuế nhập khẩu
được thu căn cứ trên hoá đơn của bên xuất khẩu) hoặc thay đổi con đường vận
chuyển hàng hoá để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi.
Một thực tế nổi cộm trong các hành vi trốn thuế hiện nay là trốn thuế
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Lợi dụng việc đầu tư ngân sách từ trung ương
cho đến các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các tỉnh nhưng các doanh
nghiệp địa phương không đủ năng lực để nhận thầu, nhiều doanh nghiệp ở
trung ương đã trốn thuế bằng các không thành lập doanh nghiệp mà vẫn nhận
công trình sau đó bán thầu cho doanh nghiệp khác thi công nhận tiền chênh
lệch từ bán thầu nhưng không kê khai nộp thuế theo qui định của pháp luật.
Chỉ tính riêng ở Đồng Tháp có 57 lượt doanh nghiệp ở ngoài tỉnh vi phạm
kiểu này. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng quản lý thuế đối với hoạt động xây
dựng cơ bản là hết sức khó khăn phức tạp vì đối tượng phải nộp thuế nhiều
khi không nằm trên địa bàn thi công công trình.
Mới đây, ngày 29 tháng 3 năm 2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc đã có cáo trạng số 07/VKS-P1 truy tố bị can Đinh Quốc Hoàn,
giám đốc công ty Trách nhiệm hữu hạn Bội Đạt về tội “Trốn thuế”, theo Cáo
trạng thì từ năm 2004 đến 31/1/2009 Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bội Đạt
thực hiện hợp đồng thi công xây lắp 09 công trình với tổng doanh thu (đã
bao gồm thuế Giá trị gia tăng) là 7.830.777.565 đồng, trong đó giá trị xây
lắp trước thuế là 7.139.073.111 đồng, thuế giá trị gia tăng là 691.704.454
đồng, số thuế trốn là 451.783.312đồng, với các thủ đoạn là không kê khai
nộp thuế đầu ra (Công trình cải tạo Đê hữu sông cà lồ); không xuất hoá đơn
bán hàng, không đưa giá trị doanh thu bán hàng và thuế giá trị gia tăng đầu
ra vào quyết toán (công trình kè chống sạt lở đê tả sông Cà Lồ, Công trình
21
cải tạo mặt đê Bối xã Chu Phan, huyện Mê Linh, Công trình cải tạo dốc lên
bằng bê tông tả Sông Hồng…)
Các hành vi kê khai không đúng căn cứ tính thuế nhằm trốn thuế rất
đa dạng:
Thứ nhất, lập sổ sách kế toán chứng từ không đúng sự thật so với
thực tế để trốn thuế. Đây cũng là một trong các thủ đoạn mà các doanh
nghiệp thường áp dụng để trốn thuế. Hiện nay các doanh nghiệp thường lập
hai hệ thống sổ sách kế toán, một sổ để đối phó với cơ quan thuế, một hệ
thống sổ sách thật để quản lý việc sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Thứ hai, sử dụng hoá đơn chứng từ không đúng sự thật để trốn thuế giá
trị gia tăng.
Đối với thuế giá trị gia tăng (GTGT): hoá đơn chứng từ được coi là
bằng chứng quan trọng khi xác định phần giá trị tăng thêm, là cơ sở để các cơ
quan chức năng xác định số thuế phải nộp. Vì thế, một số doanh nghiệp
thường thành lập công ty con hoặc công ty ma, làm giả các hợp đồng kinh tế
với đối tác không có thực với mục đích có được hoá đơn GTGT để bán cho
các đối tượng kinh doanh khác kiếm lời bất chính. Các doanh nghiệp mua lại
hoá đơn GTGT lại dùng hoá đơn này để hợp thức hoá số hàng nhập lậu nhằm
chiếm đoạt tiền thuế. Đây là thủ đoạn phổ biến của tội phạm trốn thuế trong
thời gian gần đây.
Ví dụ, ngày 05/01/2002, Phòng cảnh sát kinh tế Công an Thành
phố Hồ Chí Minh đã phát hiện hành vi trốn thuế tại Công ty TNHH
thương mại Vĩnh Tâm có trụ sở đóng tại quận Tân Bình, TP HCM. Chỉ từ
tháng 10/2004 đến tháng 2/2006 Công ty đã mua hoá đơn của các công ty
khác để hợp thức hàng hoá đầu vào, trốn 745,6 triệu đồng tiền thuế đồng
thời mua 72 quyển hoá đơn bán ra ngoài tiếp tay cho các đối tượng khác
trốn thuế.
22
Các đại lý chính thức của HonDa Việt Nam có tên gọi là HEAD bán xe
với giá cao hơn giá niêm yết từ 5-7 triệu đồng nhưng khi ghi hoá đơn xuất cho
khách hàng thì chỉ ghi theo giá niêm yết. Theo nguyên tắc khi HonDa Việt
Nam bán xe cho HEAD thì phải xuất hoá đơn VAT, khi khách hàng mua xe
thì HEAD cũng phải xuất hoá đơn VAT. HEAD có trách nhiệm phải nộp thuế
cho phần giá trị tăng thêm và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, các
HEAD hiện đang trốn hai khoản thuế này. Vấn đề đặt ra là các cơ quan chức
năng không thể không biết, vì sự việc này đã diễn ra trong một thời gian dài,
khách hàng cũng đã nhiều lần phản ánh trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Khi mà khách hàng phải mua xe với giá trên trời còn các đại lý thì
ngang nhiên trốn thuế trong một thời gian dài
Một thực tế xảy ra phổ biến hiện nay mà các cơ quan chức năng về thuế
không xử lý nghiêm là bán hàng nhưng không xuất hoá đơn GTGT. Theo qui
định khi bán hàng có giá trị thanh toán trên 100.000đ, người bán hàng phải
viết hoá đơn GTGT. Việc không lập, không giao hoá đơn, hoặc lập và giao
hoá đơn không hợp pháp đều bị coi là hành vi trốn thuế. Ngay tại trung tâm
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, siêu thị điện máy Nguyễn Kim là một
doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá kim khí điện máy nhưng khi
bán hàng đều không xuất hoá đơn mà chỉ có phiếu tạm ứng xuất kho nội bộ,
tuy nhiên trên phiếu đó lại ghi giá đã bao gồm thuế VAT.
Ngoài ra, còn nhiều thủ đoạn để trốn thuế như: xin tạm nghỉ kinh doanh,
thông báo ngừng hoạt động để được miễn giảm thuế nhưng thực tế vẫn kinh
doanh.
Lợi dụng chính sách ân hạn cho chậm nộp thuế nhập khẩu của Nhà
nước qui định tại Thông tư số 172/1998/TT/BTC ngày 22/12/1998, một số
doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có hành vi trốn
thuế nhập khẩu bằng thủ đoạn thành lập nhiều doanh nghiệp, thuê người đứng
23
tên giám đốc. Sau khi nhập và tiêu thụ hàng trong nội địa không nộp thuế theo
qui định của Hải quan, bỏ trốn khỏi nơi kinh doanh.
Vừa qua, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an – Bộ Công an đã ra quyết định
khởi tố vụ án; bị can đối với Nguyễn Văn Bằng về tội “trốn thuế”. Theo tài liệu
trong hồ sơ xác định được Nguyễn Văn Bằng đã thành lập 3 công ty và thuê 3
người làm giám đốc. Sau đó, Bằng chỉ đạo các công ty ký các hợp đồng ngoại
thương nhập khẩu các mặt hàng gồm 160,6 tấn giấy, 08 xe ôtô các loại đã qua sử
dụng và 7.436 tấn Clanh-ke trị giá 276.542USD từ nước ngoài về Việt Nam theo 6
tờ khai hải quan về tiêu thụ hàng tại nội địa rồi bỏ trốn khỏi nơi kinh doanh. Tổng
cộng 3 công ty mà Bằng lập ra đã trốn không nộp thuế với số tiền là 6,452 tỷ đồng.
1.2.4. Mặt chủ quan của tội trốn thuế
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm các
dấu hiệu: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Nguyên tắc có lỗi là một trong
những nguyên tắc được qui định trong luật hình sự Việt nam. Có lỗi là cơ sở
chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
nguy hiểm cho xã hội của mình và về hậu quả do hành vi đó gây ra. Nếu
không có lỗi thì chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, dù cho hành vi
họ thực hiện đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Điều 8 Bộ luật hình sự
qui định: Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi được thực
hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vô ý.
Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu
họ đã lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù
hợp với đòi hỏi của xã hội.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi
thực hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi
khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
24
Người thực hiện hành vi trốn thuế là cố ý. Người phạm tội nhận thức
rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi trốn thuế của mình gây
thiệt hại cho ngân sách nhà nước nhưng vẫn thực hiện. Động cơ duy nhất khi
thực hiện tội phạm là tư lợi, càng trốn được nhiều thuế thì lợi nhuận đạt
được càng cao.
Về ý chí: người phạm tội mong muốn trốn được một phần hoặc toàn bộ
số thuế phải nộp. Tuy nhiên, động cơ, mục đích của tội phạm không phải là
yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì thông thường động cơ trốn thuế là
tư lợi với đặc điểm tâm lý của người kinh doanh là trốn được càng nhiều thuế
thì càng có lợi. [4]
1.2.5. Trách nhiệm hình sự của tội trốn thuế
Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định về tội Trốn thuế với 3
khung hình phạt chính như sau:
Khung 1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng
đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội qui
định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194,
195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm;
Khung 2: Điều luật quy định hình phạt tiền từ một lần đến năm lần số
tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm áp dụng đối với trường
hợp số tiền trốn thuế từ một trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng
hoặc tái phạm về tội này.
Khung 3: Quy định hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm áp dụng đối
với trường hợp số tiền trốn thuế từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong
trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác như đưa hối lộ; tìm cách tiêu huỷ
chứng từ hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ,..
25
Hình phạt bổ sung: người phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền từ một
đến ba lần số tiền trốn thuế, khi không phải là hình phạt chính. [2]
1.3. Phân biệt tội trốn thuế với các tội phạm về kinh tế khác
Tội phạm về thuế liên quan nhiều đến các tội phạm khác như: tội Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), tội Buôn lậu (Điều 153), Tội làm, tàng trữ,
vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác (Điều 181), tội
Tham ô tài sản (Điều 278).
Để phân biệt với các tội phạm trên, cần dựa vào các yếu tố cấu thành
tội phạm. Mặc dù tội Trốn thuế cùng nằm trong chương các tội phạm về trật
tự quản lý kinh tế và có chung đặc điểm về một số dấu hiệu pháp lý song để
phân biệt giữa tội Trốn thuế với các tội phạm khác thì căn cứ vào mặt khách
quan và một số dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, cụ thể:
1.3.1. Phân biệt tội Trốn thuế với tội Buôn lậu (Điều 153 BLHS)
Tội Buôn lậu được qui định tại Điều 153 Bộ luật hình sự 1999. Buôn
lậu là hành vi buôn bán hàng hoá trái phép qua biên giới. Tội buôn lậu và tội
trốn thuế đều có dấu hiệu chung về mặt chủ thể và chủ quan của tội phạm; Về
khách thể thì hai tội danh này đều xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Hành vi khách quan của tội Buôn lậu cũng rất đa dạng nhưng phải có
một đặc trưng chủ yếu là đưa hàng hoá qua biên giới một cách trái phép.
Chẳng hạn như có một mặt hàng khi đưa qua cửa khẩu (thông quan) nhưng có
khai báo hải quan và nộp thuế đầy đủ thì được coi là hợp pháp. Nhưng cũng
mặt hàng đó khi đưa qua biên giới nhưng không khai báo hải quan để tránh
phải nộp các loại thuế theo qui định của pháp luật thì bị coi là buôn lậu. Ở đây
có hành vi khách quan là dùng hành vi gian dối để không phải nộp thuế. Phân
biệt cấu thành tội phạm giữa tội trốn thuế được qui định tại Điều 161 và Điều
153 Bộ luật hình sự chỉ là hành vi đưa hàng qua biên giới một cách trái phép.
Giống nhau ở hai tội này đều có hành vi gian dối để trốn thuế.
26
Vừa qua Cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế
và chức vụ (PC 15) Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang một
doanh nghiệp tư nhân mở tờ khai hải quan nhập khẩu 3000 bộ bàn phím
máy vi tính. Số bàn phím này được đóng trong 1000 thùng cotton. Cán bộ
hải quan theo nguyên tắc nghiệp vụ chỉ kiểm tra sơ bộ 10% số hàng xin
thông quan nên không phát hiện ra. Chỉ đến khi Cơ quan công an bất ngờ
kiểm tra đã phát hiện 300 máy tính xách tay được đóng trong 100 thùng
cotton xếp lẫn vào các hộp chứa bàn phím. Số hàng này không được
kê khai hải quan để nộp thuế theo qui định của pháp luật. Ngay lập tức
Giám đốc doanh nghiệp đã bị khởi tố về tội buôn lậu theo qui định tại Điều
153 BLHS.
1.3.2. Phân biệt tội Trốn thuế với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(Điều 139 BLHS)
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được qui định tại Điều 139 Bộ luật hình
sự. Trên thực tế, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có liên quan chặt chẽ đến lĩnh
vực thuế. Hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng là điển
hình trong nhưng năm gần đây do có chính sách hoàn thuế hỗ trợ cho các
doanh nghiệp.
Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản và lỗi của người thực hiện hành vi trốn thuế đều là cố ý. Tức là
nhận thức rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội. Với mục đích là
chiếm đoạt tài sản (tội lừa đảo) và không nộp một phần hoặc toàn bộ số thuế
phải nộp (tội trốn thuế).
Về chủ thể của tội phạm: Điểm chung về chủ thể của tội phạm là bất cứ
người nào có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi theo qui định của pháp
luật. Điểm khác là chủ thể của tội trốn thuế chỉ là những người có nghĩa vụ
phải nộp thuế theo qui định của pháp luật
27
Khách thể của tội phạm: Khác nhau ở chỗ: tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản xâm phạm sở hữu còn tội trốn thuế xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi
chiếm đoạt tài sản, giữa hai hành vi này có liên quan chặt chẽ với nhau. Hành
vi lừa dối là điều kiện, tiền đề để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra, còn hành
vi chiếm đoạt là mục đích và kết quả của hành vi lừa dối.
Hành vi trốn thuế bao gồm hai hành vi cụ thể. Đó là hành vi vi phạm
pháp luật về thuế và hành vi gian dối để không nộp thuế hoặc nộp thuế ít hơn
mức phải nộp. Để trốn thuế thì người phạm tội cũng có những hành vi gian
dối nhất định.
Theo mục 1 của TTLN số 01/2004/ BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP
hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua bán, sử
dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng thì người nào có hành vi mua hoá đơn
GTGT và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền
hoàn thuế giá trị gia tăng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ
luật hình sự.
- Tiền hoàn thuế GTGT từ năm trăm ngàn đồng trở lên;
- Tiền hoàn thuế GTGT dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị
kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Trường hợp lập hồ sơ khống để chiếm đoạt số thuế giá trị gia tăng được
hoàn bị coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Ví dụ: Công ty TNHH Kim Chi có chức năng kinh doanh hàng nông
lâm thuỷ sản xuất khẩu. Theo như chức năng công ty sẽ thu mua hàng hoá
rồi xuất khẩu bán sang Trung Quốc. Nhưng thực tế trong thời gian hoạt
28
động công ty không có hoạt động sản xuất, kinh doanh gì cả mà chỉ mua
hoá đơn GTGT rồi lập những hợp đồng kinh tế giả với phía đối tác Trung
Quốc. Sau đó công ty đã lập những bộ hồ sơ giả để làm căn cứ quyết toán
khấu trừ tiền thuế GTGT và đã được chi cục thuế cho khấu trừ thuế GTGT
đầu vào.
Nếu mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập chứng
từ khống về việc mua nguyên, nhiên vật liệu, vật tư hàng hoá chiếm đoạt tiền
của cơ quan tổ chức hoặc người khác thì vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự
như sau:
Nếu là người có chức vụ, tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp
đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương,
được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong
khi thực hiện công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của
cơ quan, tổ chức mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường
hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản theo
Điều 278 BLHS:
- Tiền bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên;
- Tiền bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã
bị kết án về một trong các tội qui định tại mục A chương XXI của Bộ luật
hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
1.3.3. Phân biệt tội Trốn thuế với tội làm, tàng trữ, lưu hành séc giả,
giấy tờ có giá giả khác (Điều 181 BLHS)
Theo định nghĩa của tội này thì làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc
giả, các giấy tờ có giá giả khác là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử
dụng, trao đối, mua bán các loại séc giả, các loại giấy tờ có giá giả khác.
Trong đó có hoá đơn GTGT.
29
Tội phạm này cũng có các dấu hiệu về mặt chủ thể và khách thể giống
tội trốn thuế. Chủ thể của tội phạm là bất cứ ai có năng lực hành vi và đạt đến
một độ tuổi nhất định. Khách thể của tội phạm là trật tự quản lý kinh tế mà cụ
thể là các qui định của Nhà nước về quản lý các giấy tờ có giá khác.
Về mặt chủ quan, người phạm tội thực hiện hành vi một cách cố ý tức
là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu
quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm, trong đó có hành vi
mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng đã được hướng dẫn cụ thể
tại Thông tư liên ngành số 01/2004/TTLN-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật hình sự năm
1999 như sau:
Người nào có hành vi mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá
đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá thì việc
truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
a. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên
giới mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội “Buôn lậu” theo Điều 153 của Bộ luật hình sự.
a.1. Hàng hoá có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên;
a.2. Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt
hành chính về hành vi qui định tại Điều 153 hoặc tại một trong các điều từ
154 đến điều 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các hành
vi này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
b. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua
biên giới (tức là chỉ trong nội địa), mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế theo Điều 161 Bộ luật hình sự:
30
b.1. Tiền trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên;
b.2 Tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành
chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về một trong
các tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193,
194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm.
c. Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà không thuộc
một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các tiểu mục a và b nêu trên thì
việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:
- Trường hợp chứng minh được khi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà
hoá đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì
người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội tàng trữ, vận chuyển, lưu
hành giấy tờ có giá giả” theo Điều 181 của Bộ luật hình sự;
- Trường hợp không chứng minh được hoá đơn trị giá gia tăng đã được
ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn nguyên như khi
phát hành) thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội mua bán tài
liệu của cơ quan nhà nước” theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng
hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên hoặc dưới năm mươi số,
nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán,
tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm.
Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 2009 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 thì Thông tư
liên ngành 01 đã không còn phù hợp ở một số điểm nên cần phải sửa đổi để
hướng dẫn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử trong tình hình
hiện nay.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG
TỘI TRỐN THUẾ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng tội phạm trốn thuế ở Việt Nam
2.1.1. Tình hình tội phạm trốn thuế
Trong 5 năm qua, từ 2005 đến 2009, tình hình trốn thuế xảy ra khắp
mọi nơi, trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh. Nổi
bật trong thời gian gần đây là tội phạm trốn thuế liên quan đến hoàn thuế gia
tăng, loại tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp và khá phổ biến ở các tỉnh,
thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở những địa bàn như Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Cà Mau, Bà Rịa- Vũng Tàu, Thừa Thiên
Huế..., nhiều vụ án trốn thuế có tính tổ chức, móc nối, câu kết với nhau thành
đường dây chặt chẽ, liên quan đến nhiều cá nhân, doanh nghiệp ở địa phương.
Để thực hiện hành vi trốn thuế, các doanh nghiệp mua hoá đơn giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiếp tay cho các doanh nghiệp này trốn thuế
là một số công ty ma lập ra để mua hoá đơn giá trị gia tăng, mới đây đã nhiều
lần bị cơ quan chức năng phát hiện và khởi tố, điều tra làm rõ.
Theo số liệu thống kê của Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản
lý kinh tế và chức vụ, trong 5 năm qua, từ năm 2005 đến 2009 trên địa bàn cả
nước đã phát hiện được 4.288 vụ trốn thuế, số tiền trốn thuế lên tới 158,524 tỉ
đồng, mỗi năm trung bình có 858 vụ trốn thuế bị phát hiện. Ngoài ra, các lực
lượng chức năng còn phối hợp xử lý hành chính 4.873 vụ vi phạm hành chính
trong lĩnh vực thuế vận tải, tài nguyên, thuế trên khâu lưu thông với số tiền
gần 13 tỷ đồng.
Tuy nhiên, vấn đề xử lý hình sự đối với tội trốn thuế rất hạn chế. Theo
số liệu của Cục thống kê tội phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao trên phạm
32
vi toàn quốc trong 5 năm từ năm 2005 đến 2009, toàn quốc đã khởi tố điều tra
201 vụ, 413 bị can, với số tiền trốn thuế lên đến hơn 200 tỷ đồng, một con số
rất ít so với số vụ phát hiện vi phạm trong lĩnh vực thuế nhưng số tiền trốn
thuế cao rất nhiều (Xem bảng 1 mục 2.1.1).
Điển hình, ngày 26/6/2005, Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định
khởi tố bị can và bắt tạm giam Đặng Văn Thiệu, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám
đốc công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tiền Phong (Thái Bình) về tội trốn
thuế gần 15 tỷ đồng. Đây là vụ trốn thuế lớn nhất từ trước tới nay xảy ra trên
địa bàn tỉnh Thái Bình. Theo tài liệu của cơ quan công an, từ năm 2000 đến
năm 2004, với mục đích trốn thuế và có hành vi cố ý làm trái quy định của
Nhà nước về quản lý kinh tế, Đặng Văn Thiệu đã chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ
để ngoài sổ sách kế toán gần 15 tỷ đồng bao gồm tiền từ các nguồn thu như:
bán gạch ngói, vôi do công nhân làm thêm giờ (gần 12 tỷ đồng); thu từ việc
bán các sản phẩm khác và thu quỹ cán bộ công nhân viên công ty gần 400
triệu đồng.
Tiếp đến, ngày 19 tháng 6 năm 2006, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về
trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (Bộ Công an) triệt phá một đường dây trốn
thuế, mua bán hoá đơn rất nghiêm trọng xảy ra tại cửa hàng kinh doanh vật tư
kỹ thuật số 1 thuộc Công ty hoá chất vật liệu điện thành phố Hồ Chí Minh và
một số đơn vị khác. Vụ trốn thuế này vốn tồn tại trong một thời gian dài và
chỉ bị phát hiện qua đơn thư tố giác của quần chúng về hành vi mua bán hoá
đơn của một số đơn vị trên địa bàn thành phố. Quá trình điều tra đã xác định
từ tháng 1-2000 tới tháng 8-2003, Cao Thiên Tòng (với chức danh cửa hàng
trưởng Cửa hàng kinh doanh vật tư kỹ thuật số 1đã liên hệ mua bán hoá đơn
giá trị gia tăng của 7 đơn vị với tổng số 3.519 hoá đơn, trị giá hơn 121,7 tỷ
đồng, trong đó thuế VAT là hơn 9,2 tỷ đồng để hợp pháp hoá các mặt hàng
hoá chất, vật liệu điện mà cửa hàng đã mua trôi nổi, không có nguồn gốc hợp
33
pháp. Trong đó có hai doanh nghiệp nhà nước đã tiếp tay cho hành vi trốn
thuế của Cao Thiên Tòng với lý do... để đảm bảo doanh thu. Đó là Chi nhánh
vật tư Miền Nam (trụ sở trên đường Lý Chính Thắng, quận 3, TP.HCM)
thuộc Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Bộ Công nghiệp), từ tháng 1-2000
đến tháng 8-2004, chi nhánh này đã bán cho cửa hàng 1 hơn 800 hoá đơn
VAT gồm những mặt hàng hoá chất với tổng trị giá hơn 28,3 tỷ đồng. Tại cơ
quan điều tra, N.H.K (trưởng phòng kinh doanh), T.T.V (kế toán trưởng) của
Chi nhánh vật tư miền Nam khai nhận thực tế chi nhánh không kinh doanh,
mua bán các mặt hàng hoá chất vật liệu điện với cửa hàng của Cao Thiên
Tòng như nội dung của các hoá đơn, nhưng để đảm bảo doanh thu của chi
nhánh, theo đề nghị của Tòng, chi nhánh đã xuất hoá đơn VAT khống để
hưởng phần tiền 1% đến 1,5% trị giá hoá đơn (với mặt hàng thuế VAT từ 5
đến 10%) do cửa hàng 1 trả. Với số hoá đơn trên, Chi nhánh vật tư miền Nam
đã thu lợi bất chính hơn 471 triệu đồng. Còn Công ty cổ phần XNK Nam Hà
Nội (Simex), trụ sở trên đường Điện Biên Phủ, quận 3, TP.HCM, cũng xuất
169 hoá đơn VAT gồm các mặt hàng hoá chất, vật liệu điện (vốn không phải
mặt hàng kinh doanh của công ty) trị giá hơn 5,3 tỷ cho cửa hàng 1 để được
hưởng từ 0,7 đến 1% trị giá hàng hoá trên hoá đơn. Trong số 7 đơn vị bán hoá
đơn VAT cho cửa hàng 1, nổi lên 3 công ty: Công ty TNHH Lộc Nghĩa (giám
đốc N.T.Ích), Công ty T.D.V, Công ty Được Vinh (giám đốc là Tạ Quang
Vinh đã bỏ trốn). Qua điều tra xác minh cho thấy 3 doanh nghiệp này đã mua
hoá đơn đầu vào của 75 đơn vị đều là các công ty TNHH tại thành phố Hồ
Chí Minh với tổng giá trị hàng hoá trên hoá đơn là hơn 51,7 tỷ đồng. Trong số
75 doanh nghiệp này, qua tài liệu điều tra, cho thấy đa số là các công ty không
kinh doanh hàng hoá, chỉ thành lập để mua bán hoá đơn VAT, khi bị cơ quan
chức năng phát hiện thì bỏ trốn. Tiêu biểu cho loại doanh nghiệp này là Công
ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ thương mại Hồng Lâm Phát (giám đốc là Tô
34
Hoàng Thái Lâm, đang bị Bộ Công an truy nã trong vụ mua bán hoá đơn với
Trung tâm xuất khẩu Seaprodex), Công ty TNHH Nhật Tín, Công ty TNHH
thương mại An Thịnh (cả hai công ty này đều của giám đốc Nguyễn Tấn Sỹ,
đang bị Công an tỉnh Đồng Nai truy nã)...
Vụ buôn lậu trốn thuế của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đông Nam, TP
HCM, đến nay đã xác định được số tiền trốn thuế khoảng 200 tỷ đồng, vận
chuyển ngoại tệ trái phép qua biên giới khoảng 20 triệu USD. Cơ quan điều
tra đã thu giữ 8.512 máy điện thoại di động các loại, 5.222 đồng hồ, gần
400.000 USD và khoảng 2,3 tỷ đồng. Đã có 5 bị can bị khởi tố về tội buôn lậu
và trốn thuế.
Ngày 24/9/2010, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã ra quyết
định khởi tố vụ án trốn thuế xảy ra tại khách sạn Equatorial (địa chỉ 242 Trần
Bình Trọng quận 5 TPHCM, là liên doanh giữa Công ty Dịch vụ tổng hợp
Hoàng Việt và Công ty Planergo - Hồng Kông). Trong quá trình thanh tra,
Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện hàng loạt sai phạm tại khách
sạn này như: không kê khai nộp thuế nhà thầu hơn 6 tỷ đồng, kê khai thiếu
tiền thuế phải nộp hơn 8 tỷ đồng. Nhận thấy những sai phạm trên diễn ra
trong thời gian dài liên tục, số tiền sai phạm lớn, có dấu hiệu của tội “Trốn
thuế” nên Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ sang cơ quan
điều tra xử lý.
Ngày 23/3/2010, Viện KSND Tối cao đã tống đạt cáo trạng đến các bị
can trong vụ án buôn bán hàng cấm, trốn thuế tại Cửa hàng miễn thuế cảng
Sài Gòn. VKSNDTC đã truy tố bị can Nguyễn Thị Thúy Hạnh (Phó Chủ
nhiệm Cửa hàng miễn thuế Cảng Sài Gòn), Phan Thuỵ Phượng Uyên (em họ
Hạnh là nhân viên bán hàng Cửa hàng miễn thuế) và hai nhân viên hải quan
cảng Sài Gòn là Hoàng Ngọc Sanh, Nguyễn Hồng Phấn về tội “Buôn bán
hàng cấm” và “Trốn thuế”. Theo hồ sơ điều tra của Bộ Công an và cáo trạng
35
của Viện KSND Tối cao, Cửa hàng miễn thuế cảng Sài Gòn là đơn vị trực
thuộc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và dịch vụ cảng Sài Gòn - Tổng cục
Hàng hải Việt Nam. Tuy chỉ là Phó chủ nhiệm nhưng Nguyễn Thị Thuý Hạnh
là người quản lý, chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động tại đây. Theo quy định, cửa
hàng được phép nhập khẩu hàng hoá miễn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế giá trị gia tăng để bán cho những đối tượng xuất nhập cảnh nhưng
không được phép bán hàng vào thị trường trong nước nếu không được phép
của Bộ Thương mại. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến 2004, Hạnh đã cung cấp
cho các nhân viên hải quan, bộ đội biên phòng làm việc tại cảng Sài Gòn, sau
đó chỉ đạo nhân viên hợp thức hoá bằng cách sửa chữa, ghi thêm lượng hàng
bán sai quy định vào các hoá đơn bán hàng cho tàu biển và cho ra đời các hoá
đơn bán khống. Ngoài ra, Hạnh còn chỉ đạo đồng bọn hợp pháp hoá việc buôn
bán hàng cấm bằng cách lập khống các hoá đơn bán lẻ hàng cho khách nước
ngoài. Hạnh đã cho nhân viên lập khống các hoá đơn bán hàng và giả chữ ký
để lấy hàng tuồn ra ngoài tiêu thụ. Tổng cộng Hạnh và đồng bọn đã ghi thêm
2.558 hoá đơn với tổng số lượng hàng hoá trị giá trên 3,6 triệu USD, tuồn ra
ngoài gần 131.000 bao thuốc lá, trên 227.000 chai rượu ngoại và trên 23.000
lon bia ngoại, trốn thuế trên 131 tỷ đồng.
Vụ án Nguyễn Hưng Bình phạm tội trốn thuế. lợi dụng chính sách ân
hạn thuế của Nhà nước, năm 2004 Mai Quý Cường đã rủ Nguyễn Văn Hưng
đứng ra thành lập Công ty TNHH đầu tư và thương mại Hà Hưng. Sau đó,
Mai Quý Cường thuê Ngô Thị Thuý làm dịch vụ thành lập Công ty Hoàng
Loan, Công ty Hưng Thịnh với giá 5 triệu đồng một công ty. Sau khi có giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh của các Công ty trên, Mai Quý Cường và
Nguyễn Thanh Hải đã móc nối với Vũ Hưng Bình, Giám đốc Công ty TNHH
Phương Trinh ở TP.HCM, sử dụng tư cách pháp nhân của 3 công ty: Công ty
Hà Hưng, Công ty Hoàng Loan, Công ty Hưng Thịnh để làm thủ tục nhập
36
khẩu 93 xe ôtô các loại đã qua sử dụng từ Hàn Quốc về Việt Nam, qua cửa
khẩu Cảng Sài Gòn khu vực 3 TP.HCM và cửa khẩu Cảng Phú Mỹ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu, qua đó đã chiếm hưởng 13 tỷ đồng tiền thuế nhập khẩu và
thuế giá trị gia tăng. Trong số tiền chiếm hưởng này, Mai Quý Cường được
4,3 tỷ đồng, Nguyễn Thanh Hải được 35 triệu đồng và Nguyễn Phát Đạt là
người quan hệ với phía Hàn Quốc để mua 82 xe ôtô tải, làm các thủ tục để
nhập khẩu xe ôtô; đã được Bình chia cho gần 600 triệu đồng. Còn Vũ Hưng
Bình chiếm hưởng trên 8,1 tỷ đồng.
Ngoài ra, Vũ Hưng Bình còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi
phạm tội trong thời gian năm 1999-2000, lợi dụng danh nghĩa Công ty Hoàng
Long ở Hà Nội để nhập khẩu hàng hoá rồi đưa vào TP. Hồ Chí Minh tiêu thụ
trốn gần 140 triệu tiền thuế và Bình đã nộp 140 triệu đồng.
VKSNDTC nhận định, các bị can Nguyễn Văn Hưng (Giám đốc
Công ty Hà Hưng), Nguyễn Văn Liêm (Giám đốc Công ty Hoàng Loan),
Vũ Thị Thanh Loan (Giám đốc Công ty Hưng Thịnh) không bàn bạc và
thực hiện việc nhập khẩu 93 xe ôtô để trốn thuế. Bên cạnh đó, các chữ ký
của Hưng, Liêm, Loan ở các bộ hồ sơ nhập khẩu xe ôtô là do Mai Quý
Cường giả mạo và toàn bộ số tiền trốn thuế Hưng, Liêm, Loan không được
ăn chia, hưởng lợi từ số tiền này cùng với các bị can trong vụ án. Do vậy,
sau khi nghiên cứu hồ sơ và xét mức độ sai phạm của 3 bị can này,
VKSNDTC đã quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự. Đối với Ngô Thị Thuý, Mai Lan Anh là những người
có liên quan đến việc thành lập Công ty Hà Hưng, Hoàng Loan và Hưng
Thịnh nhưng không liên quan đến việc ký hợp đồng ngoại thương, mở tờ
khai hàng nhập khẩu, không biết Mai Quý Cường cùng các bị can trên nhập
khẩu xe ôtô nhằm mục đích trốn thuế nên không có căn cứ để xem xét trách
nhiệm hình sự.
37
Ngày 17/10/2008, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên
phạt Nguyễn Thị Phượng (47 tuổi), nguyên giám đốc công ty Trách nhiệm
hữu hạn Thanh Tâm và công ty cổ phần Thanh Thanh Tâm mức án 3 năm, 4
tháng, 28 ngày tù về tội "trốn thuế". Theo cáo trạng, Phượng biết rõ việc chi
trả tiền thưởng, hoa hồng và khuyến mại của các đơn vị Bưu chính viễn thông
khi tiêu thụ số lượng lớn thẻ card điện thoại. Để đẩy nhanh tốc độ bán thẻ,
trong quá trình quản lý hoạt động hai công ty của mình (chuyên phân phối thẻ
Vinacard), bà giám đốc này đã cho thiết lập và duy trì mạng lưới đại lý thứ
cấp để tiêu thụ một số lượng lớn thẻ ra thị trường nhưng không xuất đủ hoá
đơn GTGT.
Do vậy, nhằm hợp thức hoá việc bán lẻ thẻ Vinacard và nhận tiền
thưởng, hoa hồng, khuyến mại trên, Phượng đã móc nối với một số người để
mua bán hoá đơn GTGT. Ngoài ra, bà này còn dùng chính tư cách pháp nhân
nơi bán hoá đơn để lập thủ tục mua bán giả. Tổng cộng, Phượng đã mua 144
hoá đơn của 24 doanh nghiệp để ghi xuất khống tiền hoa hồng cho hai công
ty, làm sai lệch căn cứ tính thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp, trốn
thuế hơn 15 tỷ đồng.
2.1.2. Những thủ đoạn trốn thuế hiện nay
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, là quyền lợi và
nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và công dân. Tuy nhiên, hiện nay
tình trạng trốn thuế đang diễn ra phổ biến ở hầu hết các đối tượng nộp thuế
với các mức độ khác nhau, đặc biệt là tình trạng trốn thuế trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu. Đây là lĩnh vực mà việc trốn thuế diễn ra rất nghiêm trọng và phổ
biến với nhiều phương thức và thủ đoạn rất tinh vi, phức tạp, gây thiệt hại cho
ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Việc trốn thuế xảy ra ở tất
cả các con đường xuất nhập khẩu, từ đường bộ, đường biển, đường hàng
không đến đường bưu điện, tại hầu hết các cửa khẩu quốc tế, quốc gia…
38
Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhận thấy,
tình hình trốn thuế xảy ra ở khắp mọi nơi, trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt
là trong kinh doanh. Nổi bật trong thời gian gần đây là tội phạm trốn thuế liên
quan đến hoàn thuế gia tăng. Loại tội phạm này diễn ra khá phổ biến ở cá
tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần
Thơ, Cà Mau, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thừa Thiên Huế… Đây là loại tội phạm
mới, hoạt động mang tính tổ chức cao, móc mối, câu kết với nhau thành tổ
chức, đường dây chặt chẽ, liên quan đến nhiều cá nhân, doanh nghiệp ở các
địa phương. Để thực hiện hành vi trốn thuế, các doanh nghiệp mua hoá đơn
GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp. Tiếp tay cho các doanh nghiệp này trốn
thuế là một số công ty “ma” lập ra để mua hoá đơn GTGT.
Theo thống kê của Tổng cục Thuế, tính riêng trên địa bàn Hà Nội, năm
2006 đã có tới 453 doanh nghiệp bỏ trốn khỏi địa điểm đăng ký kinh doanh,
mang theo 9.000 bộ hoá đơn. Con số này trong năm 2005 tương ứng là 499
doanh nghiệp và 4.600 bộ hoá đơn. Năm 2007 là 240 doanh nghiệp và 3.900
bộ hoá đơn. Gần đây, Công an thành phố Hà Nội và Phòng Thanh tra 1 – Cục
thuế Hà Nội phát hiện và khởi tố vụ án 6 công ty TNHH thành lập ra để bán
hoá đơn, thu hồi 595 triệu đồng tiền thu lợi bất chính.
Ngoài thuế GTGT, các loại thuế thường bị thất thu khác là thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài thủ đoạn mua bán hoá đơn
GTGT nhằm nâng cao phần chi phí trong sản xuất, các doanh nghiệp đã mua
hoá đơn GTGT của các doanh nghiệp “ma”, nâng giá trị hàng hoá xấp xỉ với
giá của giá thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh
nghiệp khác nhau để giấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh.
Điều đáng nói là đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thực
hiện chế độ kế toán thống kê theo quy định của Nhà nước, thường lập 02 sổ
39
sách kế toán (một loại để tính thuế, một loại để thanh toán nội bộ) hoá đơn
chứng từ chủ yếu là viết tay, thực chất nhằm trốn tránh doanh thu, thuế lợi
tức. Ngoài ra, họ còn dùng một hoá đơn để quay vòng nhiều lần, khai thấp giá
trị hàng hoá so với giá trị thực để trốn thuế.
Các doanh nghiệp nhập khẩu thường khai báo sai về chủng loại mặt
hàng nhập khẩu hoặc thông đồng với đối tác nước ngoài hạ giá trị thực tế của
hợp đồng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu, thuế GTGT (do thuế nhập khẩu
được thu căn cứ trên hoá đơn của bên xuất khẩu) hoặc thay đổi con đường vận
chuyển hàng hoá để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi hơn.
Một thực tế nổi cộm trong các hành vi trốn thuế hiện nay là trốn thuế
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Lợi dụng việc đầu tư ngân sách từ Trung
ương cho đến các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các tỉnh nghèo ở đồng
bằng sông Cửu Long, nhưng các doanh nghiệp ở địa phương không đủ năng
lực để được thầu, nhiều doanh nghiệp của các bộ, ngành, thành phố đã ung
dung trốn thuế mà không cần thành lập doanh nghiệp “ma”. Thông thường,
sau khi nhận công trình đó doanh nghiệp “đại gia” này sẽ ký hợp đồng bán
thầu cho doanh nghiệp khác thi công (doanh nghiệp của chính địa phương
đó), nhận tiền chênh lệch từ bán thầu, song không kê khai nộp thuế tại địa
phương theo quy định. Chỉ riêng ở Đồng Tháp, có tới 57 lượt doanh nghiệp ở
ngoài tỉnh vi phạm kiểu này. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng quản lý thuế đối
với hoạt động xây dựng cơ bản là hết sức khó khăn và phức tạp vì đối tượng
bao gồm cả các doanh nghiệp vãng lai, công trình thì lại nằm rải rác trên địa
bàn rộng. Hơn thế nữa, nguồn cung cấp một số nguyên liệu đầu vào như đất,
đá, cát, sỏi phần lớn từ các hộ dân tại địa phương; các đối tượng này lại không
thực hiện đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế nên rất khó kiểm soát.
Nghiên cứu các vụ trốn thuế lớn xảy ra trong các doanh nghiệp, thấy
rằng hoạt động của bọn tội phạm thường có sự cấu kết, móc nối, quan hệ chặt
40
chẽ với các cơ quan thuế, quản lý thị trường… các doanh nghiệp trốn thuế
thường giữ vai trò chủ động, dùng các lợi ích vật chất hoặc mọi cách khác nhau
tấn công mua chuộc, làm tha hoá những cán bộ, công chức nhà nước, lôi kéo
họ tham gia hoạt động phạm pháp. Cán bộ trong các cơ quan nhà nước có chức
năng quản lý thị trường thường nắm vững những chính sách, quy định quản lý
kinh tế, tài chính, những sơ hở, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn quản lý;
họ giúp đỡ đắc lực cho các chủ doanh nghiệp lợi dụng để luồn lách trốn thuế.
Thậm chí ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng còn có tình trạng cán bộ
thuế tính toán hợp lý hoá tiền thuế phải nộp hàng tháng, hàng quý cho họ ở
mức thấp nhất để sau đó cán bộ thuế cũng sẽ nhận một số tiền bồi dưỡng đáng
kể. Gần đây, trong vụ án công ty Unimax Sài Gòn là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, đăng ký kinh doanh trong khu chế xuất Tân Thuận. Chức năng
hoạt động của Công ty là nhập nguyên phụ liệu để sản xuất hàng may xuất
khẩu đi thị trường EU và Nhật Bản. Công ty được hưởng ưu đãi miễn thuế
hoàn toàn đối với hàng hoá xuất nhập khẩu (thuế suất bằng 0%), trong khi đó
nếu ở người khu chế xuất thì thuế xuất nhập khẩu lên đến 60%. Lợi dụng sự ưu
đãi này, nhân viên của công ty Unimax Sài Gòn đã móc nối với tư thương
Thạch Lê Chân, một trùm buôn vải để tuồn hàng bán ra ngoài thị trường. Khi
hàng nhập về đến cảng Sài Gòn, nhân viên công ty Unimax là Nguyễn Anh Tú
mở từ khai nhập khẩu, làm thủ tục chuyển cửa khẩu từ cảng Sài Gòn về khu
chế xuất, nhưng thực thế hàng được đưa thẳng cho Chân để tiêu thụ. Điều đặc
biệt là các tờ khai nhập khẩu chuyển cửa khẩu của Công ty Unimax Sài Gòn
mặc dù tuồn ra thị trường bán vẫn được công chức Hải quan ký xác nhận “hàng
đã thực nhập vào khu chế xuất”?
Hậu quả của các vụ trốn thuế là rất nghiêm trọng, gây thất thu cho Nhà
nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng và khó có khả năng thu hồi. Vụ án điển hình
là Công ty Đông Nam trốn thuế 135 tỷ đồng, trong đó 36,2 tỷ đồng thuế thu
41
nhập doanh nghiệp, 50 tỷ đồng thuê nhập khẩu, 49 tỷ đồng thuế giá trị gia
tăng. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 23/3/2006, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao đã tống đạt cáo trạng truy tố các bị can Nguyễn Thị Thuý Hạnh (Phó chủ
nhiệm Cửa hàng miễn thuế cảng Sài Gòn); Phạm thuỵ Phương Uyên (nhân
viên bán hàng – Cửa hàng miễn thuế) và Hai nhân viên Hải quan Cảng Sài
Gòn là Hoàng Ngọc Sanh, Nguyễn Hồng Phấn về tội “buôn bán hàng cấm” và
“trốn thuế”. Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hạnh và
đồng bọn đã ghi thêm 2.558 hoá đơn với tổng số lượng hàng hoá giá trị trên
3,6 triệu USD, tuồn ra ngoài gần 131.000 bao thuốc là, trên 227.000 chai rượu
và trên 23.000 lon bia ngoại, trốn thuế trên 131 tỷ đồng.
Thủ đoạn thành lập doanh nghiệp “ma” nhưng không sản xuất kinh
doanh mà chỉ nhằm mua bán hoá đơn bất hợp pháp diễn ra khá phức tạp. Bên
cạnh đó, nhiều công ty sử dụng những “chiêu” để qua mặt cơ quan thuế nhằm
thu lợi bất chính. Thực trạng này gây không ít khó khăn cho cơ quan thuế
trong quá trình thực hiện mục tiêu chống thất thu ngân sách
Chiêu bài phải nhắc tới đầu tiên là hoạt động thành lập doanh nghiệp
để mua bán, sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng (GTGT) bất hợp pháp. Loại tội
phạm này thường thành lập doanh nghiệp với rất nhiều ngành nghề kinh
doanh, thuê nhà với hợp đồng ngắn hạn làm trụ sở công ty để có điều kiện
mua hoá đơn GTGT. Sau khi mua được hoá đơn các đối tượng đều bỏ trốn
khỏi địa chỉ kinh doanh.
Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, hám lợi bất chính, một số đối tượng thuê
người lao động tự do hoặc không nghề nghiệp làm giám đốc công ty. Thậm chí
thuê cả người nghiện ma tuý, từng có tiền án, tiền sự làm giám đốc. Những
giám đốc “ma” này được hưởng lương hàng tháng và chịu sự điều hành của các
đối tượng chủ mưu từ ký các tờ khống, khai thuế khống... hợp thức hồ sơ
chứng từ.
42
Có trường hợp đối tượng khắc chữ ký của giám đốc doanh nghiệp và
lợi dụng con dấu này để đóng vào các văn bản, chứng từ, hoá đơn liên quan
nhằm qua mặt cơ quan quản lý. Một ví dụ điển hình cho chiêu bài này là vụ
đối tượng Nguyễn Thị Bích Vân (trú tại 183 phố Bạch Mai) sử dụng con
dấu, chữ ký của ông Doãn Văn Đức (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại
và Dịch vụ Đức Tiến) dù thời điểm thành lập công ty, ông Đức đã chết được
4 tháng.
Táo tợn hơn, nhiều trường hợp còn thuê đối tượng xã hội đen gây sức
ép doạ nạt cán bộ thuế. Có trường hợp tinh vi hơn khi thuê cả luật sư tư vấn
làm thủ tục mua hoá đơn. Đơn cử trường hợp Công ty TNHH Xây dựng và
thương mại HTT, do Hoàng Thị Thuý Hoà (trú tại 126 Vũ Trọng Phụng) đại
diện. Khi không mua được hoá đơn, công ty này đã thuê Văn phòng Luật sư
VIP ở 86 Tuệ Tĩnh trợ giúp pháp lý nhằm gây áp lực để Chi cục Thuế quận
Hoàng Mai bán hoá đơn. Chỉ đến khi được cơ quan thuế giải thích, văn phòng
luật này mới thống nhất không thực hiện hợp đồng với công ty “ma” nêu trên.
Không những thế, có công ty còn ngang nhiên giả mạo công văn của cơ
quan thuế. Trường hợp Công ty TNHH Đầu tư và Thương mại Tăng Ngân
(đăng ký địa chỉ phường Định Công - Hoàng Mai) là ví dụ điển hình. Sau khi
xác minh doanh nghiệp này có hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp, Chi
cục Thuế Hoàng Mai đó thông báo đề nghị không chấp nhận hoá đơn do
doanh nghiệp “ma” này phát hành.
Tuy nhiên, tại huyện Đan Phượng, Công ty TNHH Thành Vinh và
Công ty TNHH Ngân Giang đã sử dụng hoá đơn do Công ty Tăng Ngân
phát hành với tổng giá trị lên tới hàng trăm triệu đồng và bị Chi cục Thuế
xử lý sai phạm. Sau đó, Chi cục Thuế Đan Phượng lại nhận được Công văn
với nội dung: “Chi cục Thuế Hoàng Mai xác nhận Công ty Tăng Ngân
không có hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp”. Qua xác nhận của Chi
43
cục Thuế Hoàng Mai và xác minh của cơ quan công an thì chữ ký trong
công văn là giả mạo.
Với những thủ đoạn táo tợn nêu trên, không ít hoá đơn GTGT đó được
bán cho nhiều đối tượng sử dụng làm chứng từ kê khai thuế. Nếu không phát
hiện kịp thời, những hoá đơn này sẽ trở thành chứng từ “sạch”, giúp hợp thức
hoá các khoản chi khống, phục vụ mục đích trốn thuế. Nghiêm trọng hơn, nó
có thể trở thành chứng từ rút ruột ngân sách Nhà nước xin hoàn thuế GTGT
với giá trị lớn.
Thống kê của Cục Thuế thành phố Hà Nội cho thấy, ngành thuế Hà Nội
đang quản lý 195.825 đối tượng nộp thuế; trong đó có 71.668 doanh nghiệp
và 122.410 hộ kinh doanh. Một trong những mục tiêu chính của ngành Thuế
Hà Nội trong năm 2009 là giám sát chặt chẽ nguồn thu nhằm hoàn thành
nhiệm vụ thu ngân sách. Do đó, việc đối phó với những thủ đoạn của tội
phạm trong lĩnh vực thuế là nhiệm vụ luôn được chú trọng.
Theo kiến nghị của cơ quan thuế, để ngăn ngừa tình trạng thành lập
doanh nghiệp để mua bán hoá đơn bất hợp pháp cần sửa đổi một số điều kiện
thành lập doanh nghiệp. Có quy định và chế tài cụ thể về việc hậu kiểm tra
sau khi doanh nghiệp được thành lập, nhằm đảm bảo các doanh nghiệp này
hoạt động đúng pháp luật. Về lâu dài, cần đẩy mạnh thanh toán không dùng
tiền mặt để hạn chế các hành vi gian lận trong lĩnh vực thuế đặc biệt là tình
trạng sử dụng hoá đơn trái phép.
Bên cạnh đó, khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn
tự in. Cũng như đẩy mạnh biện pháp tuyên truyền, tăng cường phối hợp giữa
cơ quan thuế và các cơ quan chức năng trong việc ngăn chặn và đấu tranh với
tội phạm buôn bán hoá đơn bất hợp pháp. Cũng cần có những biện pháp mạnh
tay như tiến hành khởi tố điều tra và đưa ra xét xử điểm một số vụ vi phạm
điển hình về hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp để làm gương.
44
Thủ đoạn "Xoá" biển số hoặc rút xe vào rừng: Có rất nhiều cách để chủ
nhân những chiếc ôtô trị giá bạc tỷ, thậm chí cả triệu đôla này đối phó với
chính sách thuế của Nhà nước và hàng chục con đường vòng để những chiếc
xe ôtô mang biển nước ngoài hợp thức hoá vào trong nước. Tại nhiều tụ điểm
mà dân chơi ở Hà Nội hay tụ tập trước đây không đêm nào không có vài chiếc
xế hộp cáu cạnh mang biển NN do người Việt lái, nhưng hiện nay những
chiếc xe này dường như vắng bóng, ngay cả việc lưu thông trên đường cũng
hiếm gặp. Theo Đội kiểm soát Hải quan khu vực phía Bắc, Cục Điều tra
chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan thì có một thực tế là, sau khi tổ công tác
liên ngành (gồm 3 ngành: Hải quan, CSGT, Cục Lễ tân Nhà nước) phối hợp
triển khai các hoạt động điều tra, xác minh, làm rõ đối tượng sử dụng xe ôtô
được miễn thuế nghi vấn sử dụng sai mục đích, thì hầu như tất cả những xe
ôtô mang biển NN và NG (đã chuyển nhượng cho người Việt nhưng chưa nộp
thuế) đều "bốc hơi" một cách đáng ngờ.
Các thủ đoạn để chủ nhân hiện tại của những chiếc xe hơi này trốn thuế
và đối phó với cơ quan chức năng:
Thủ đoạn thường gặp nhất làm cho chiếc xe "biến mất" như cất giấu ở
một nơi xa và không lưu thông trên đường nữa.
Cách làm thứ 2 là tháo biển "xịn" và lắp biển số giả.
Cách thứ ba là "nhân bản" biển số xe NG hay NN của bất kỳ một sứ
quán nào (đang trong nhiệm kỳ công tác) để chạy ngoài đường.
Thứ tư là làm thủ tục huỷ biển kiểm soát với cơ quan Công an rồi đặt
mua chiếc biển số giả y chang biển số thật đã huỷ để chạy.
Theo Quyết định 03/2007 liên ngành Bộ Công thương - Tài chính -
Ngoại giao về "hướng dẫn việc tạm nhập khẩu, nhập khẩu hoặc mua miễn thuế
tại Việt Nam; xuất khẩu, tái xuất khẩu, chuyển nhượng và tiêu huỷ những vật
dụng cần thiết phục vụ cho nhu cầu công tác và sinh hoạt của cơ quan đại diện
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT

More Related Content

What's hot

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYViết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...PinkHandmade
 

What's hot (20)

Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAYĐề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
Đề tài: Tác động tâm lý trong hoạt động hỏi cung bị can, HAY
 
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt NamLuận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
Luận văn: Tội cướp giật tài sản theo Luật Hình sự Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt NamLuận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
Luận văn: Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOTLuận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
Luận văn: Tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế về hoàn thuế, HOT
 
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đLuận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
Luận văn: Chế độ bảo hiểm xã hội đối với tai nạn lao động, 9đ
 
Đề tài: Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật, HAYĐề tài: Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền của người nộp thuế trong pháp luật, HAY
 
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đLuận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
Luận văn: Tình hình tội phạm tại quận Phú Nhuận, TPHCM, 9đ
 
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luậtLuận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Luận văn: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng tặng cho tài sản theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà NẵngLuận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
Luận văn: Phòng ngừa tội phạm quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng
 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
LUẬN ÁN TIẾN SĨ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ THÔNG TIN CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM H...
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOTLuận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
Luận văn: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, HOT
 
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAYLuận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
Luận văn: Biện pháp tạm giam trong luật tố tụng hình sự, HAY
 
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đLuận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
Luận văn: Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình sự, 9đ
 
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đLuận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
Luận văn: Cấp, thông báo, tống đạt văn bản tố tụng, HAY, 9đ
 
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sựLuận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
Luận văn: Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự
 

Similar to Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT

Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
khóa luận kiểm soát thuế TNDN
khóa luận kiểm soát thuế TNDNkhóa luận kiểm soát thuế TNDN
khóa luận kiểm soát thuế TNDNPhan Vũ
 

Similar to Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT (20)

Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCMLuận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng tại Quận 7, TPHCM
 
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, HOT
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, HOTLuận văn: Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, HOT
Luận văn: Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng, HOT
 
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tỉnh Đăk Lăk, 9đ
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tỉnh Đăk Lăk, 9đXử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tỉnh Đăk Lăk, 9đ
Xử lý vi phạm hành chính về thuế giá trị gia tăng tỉnh Đăk Lăk, 9đ
 
Luận văn: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tỉnh Thái Bình, HAY
Luận văn: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tỉnh Thái Bình, HAYLuận văn: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tỉnh Thái Bình, HAY
Luận văn: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tỉnh Thái Bình, HAY
 
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...
Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn tỉnh thái bình sdt/ ZALO 0934...
 
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng, HAY, 9 ĐIỂMBÀI MẪU Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng, HAY, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU Luận văn thạc sĩ về thuế giá trị gia tăng, HAY, 9 ĐIỂM
 
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng từ thực tiễn Quận 7, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng từ thực tiễn Quận 7, 9 ĐIỂMLuận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng từ thực tiễn Quận 7, 9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về thuế giá trị gia tăng từ thực tiễn Quận 7, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước taĐề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
Đề tài: Biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở nước ta
 
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOTĐề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
Đề tài: Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu, HOT
 
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...
Đề tài: Thực trạng thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế t...
 
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAYĐề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
Đề tài: Pháp luật về thuế thu nhập cá nhân tại Quảng Ngãi, HAY
 
Quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng
Quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăngQuyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng
Quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng
 
Những bài luận văn thạc sĩ về quản lý thuế
Những bài luận văn thạc sĩ về quản lý thuếNhững bài luận văn thạc sĩ về quản lý thuế
Những bài luận văn thạc sĩ về quản lý thuế
 
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mạiLuận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
Luận văn: Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại
 
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOTLuận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Tội buôn lậu trong Luật hình sự Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, HOT
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, HOTLuận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, HOT
Luận văn: Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, HOT
 
Xử lý vi phạm về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, 9đ
Xử lý vi phạm về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, 9đXử lý vi phạm về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, 9đ
Xử lý vi phạm về thuế giá trị gia tăng tại Cục thuế tỉnh Đăk Lăk, 9đ
 
Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Thương Mại.doc
Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Thương Mại.docXử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Thương Mại.doc
Xử Phạt Vi Phạm Hành Chính Trong Lĩnh Vực Thương Mại.doc
 
khóa luận kiểm soát thuế TNDN
khóa luận kiểm soát thuế TNDNkhóa luận kiểm soát thuế TNDN
khóa luận kiểm soát thuế TNDN
 
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh tỉnh Quảng NgãiLuận văn: Pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh tỉnh Quảng Ngãi
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với Hộ kinh doanh tỉnh Quảng Ngãi
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptPhamThiThuThuy1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfXem Số Mệnh
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfhoangtuansinh1
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdfltbdieu
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfXem Số Mệnh
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoidnghia2002
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhdangdinhkien2k4
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfXem Số Mệnh
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...ChuThNgnFEFPLHN
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxDungxPeach
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.pptAccess: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
Access: Chuong III Thiet ke truy van Query.ppt
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdfxemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
xemsomenh.com-Vòng Tràng Sinh - Cách An 12 Sao Và Ý Nghĩa Từng Sao.pdf
 
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdfSLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
SLIDE - Tu van, huong dan cong tac tuyen sinh-2024 (đầy đủ chi tiết).pdf
 
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
26 Truyện Ngắn Sơn Nam (Sơn Nam) thuviensach.vn.pdf
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdfxemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
xemsomenh.com-Vòng Lộc Tồn - Vòng Bác Sĩ và Cách An Trong Vòng Lộc Tồn.pdf
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoiC6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
C6. Van de dan toc va ton giao ....pdf . Chu nghia xa hoi
 
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hànhbài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
bài tập lớn môn kiến trúc máy tính và hệ điều hành
 
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdfxemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
xemsomenh.com-Vòng Thái Tuế và Ý Nghĩa Các Sao Tại Cung Mệnh.pdf
 
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
SD-05_Xây dựng website bán váy Lolita Alice - Phùng Thị Thúy Hiền PH 2 7 8 6 ...
 
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptxBài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
Bài tập nhóm Kỹ Năng Gỉai Quyết Tranh Chấp Lao Động (1).pptx
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 

Luận văn: Tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam, HOT

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIỆT DŨNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ Hà Nội - 2010
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VIỆT DŨNG NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỘI TRỐN THUẾ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Hình sự Mã số: 60 38 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: TS Phạm Mạnh Hùng Hà Nội – 2010
  • 3. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN Bộ luật Hình sự BLHS Bộ luật Tố tụng Hình sự BLTTHS Cảnh sát điều tra CSĐT Công an nhân dân CAND Cơ quan điều tra CQĐT Pháp lệnh Tổ chức Điều tra Hình sự PLTCĐTHS Tội phạm kinh tế TPKT Tội phạm về kinh tế, chức vụ TPVKT,CV Viện kiểm sát nhân dân VKSND Viện kiểm sát nhân dân tối cao VKSNDTC Viện kiểm sát VKS Hợp tác xã HTX Hợp tác xã vận tải HTXVT Ngân sách nhà nước NSNN Giá trị gia tăng GTGT Trách nhiệm hữu hạn TNHH
  • 4. 2 MỤC LỤC Trang Mở đầu 4 Chương 1: Những vấn đề chung về tội trốn thuế 8 1.1. Các qui định của pháp luật về tội trốn thuế qua các giai đoạn 8 1.2. Các dấu hiệu pháp lý về tội trốn thuế 16 1.3 . Phân biệt tội Trốn thuế với các loại tội phạm khác 26 Chương 2: Thực trạng và hoạt động đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế ở Việt Nam 32 2.1. Thực trạng tội phạm trốn thuế ở Việt Nam 32 2.2. Hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế ở Việt Nam 57 Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội trốn thuế ở Việt Nam 66 3.1. Dự báo tình hình tội phạm trốn thuế 67 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế ở Việt Nam 70 3.3. Những kiến nghị 73 Kết luận 77 Danh mục những tài liệu tham khảo 78 Phụ lục 80
  • 5. 3 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, là khoản đóng góp theo qui định của pháp luật mà Nhà nước buộc các tổ chức, cá nhân phải nộp vào ngân sách nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường thuế là một trong những công cụ tài chính giữ vai trò điều tiết thu nhập, tái đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng nền an ninh quốc phòng. Vì vậy đóng thuế là nghĩa vụ của các doanh nghiệp và mọi công dân. Trong quá trình đổi mới, cùng với sự phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong đó có chính sách thuế đã được điều chỉnh kịp thời góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đem lại sự công bằng cho các chủ thể tham gia kinh doanh. Tuy nhiên, một số văn bản còn bộc lộ sự thiếu chặt chẽ. Quá trình thực hiện chính sách thuế có lúc, có nơi còn chưa nghiêm, các qui định của pháp luật về tội trốn thuế còn bộc lộ một số nhược điểm. Lợi dụng sơ hở này, một bộ phận không nhỏ cá nhân, doanh nghiệp đã tìm mọi cách trốn thuế, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm trọng. Trong khi đó, việc xử lý hình sự đối với tội trốn thuế còn nhiều hạn chế, chưa đạt hiệu quả cao. Số vụ án được đưa ra truy tố, xét xử chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chưa phát huy được vai trò quản lý cũng như tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội trốn thuế trong luật hình sự Việt Nam” là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm về thuế nói chung và tội trốn thuế nói riêng.
  • 6. 4 2. Tình hình nghiên cứu Cho đến nay chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu về tội phạm trốn thuế mà chỉ có một số chuyên đề nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm về hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm trốn thuế, cụ thể: Chuyên đề của Vụ 1 - Viện kiểm sát nhân dân tối cao về “Thực tiễn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự về tội trốn thuế, một số giải pháp và kiến nghị” trong đó đã nghiên cứu những vấn đề thực tiễn và những vấn đề khó khăn vướng mắc hiện nay trong quá trình xử lý tội trốn thuế; đồng thời đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng đấu tranh đối với loại tội phạm trốn thuế trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, với cấp độ nghiên cứu chuyên đề và thời gian nghiên cứu diễn ra từ trước năm 2006 nên nhiều vấn đề nổi cộm trong thời gian gần đây chưa được đề cập. Trong đề tài này tác giả mạnh dạn đi vào nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá đúng thực trạng tội phạm trốn thuế hiện nay và những thủ đoạn tinh vi nhất là trong lĩnh vực hoàn thuế giá trị gia tăng, qua đó để đưa ra những giải pháp nhằm ngăn chặn, xử lý và đấu tranh có hiệu quả đối với loại tội phạm này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật hình sự và các qui định của pháp luật hiện hành về thuế, đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng về tình hình, nguyên nhân và điều kiện phạm tội của tội trốn thuế nhằm đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Để đạt được mục đích nêu trên đề tài giải quyết một số nhiệm vụ sau: - Làm rõ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội trốn thuế quy định tại Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 1999;
  • 7. 5 - Phân tích làm sáng rõ tình hình tội trốn thuế cũng như thực tiễn xử lý với loại tội phạm này của các cơ quan tiến hành tố tụng, đồng thời chỉ ra những vướng mắc, hạn chế trong công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong thời gian vừa qua; - Phân biệt một số hành vi trốn thuế với một số loại tội phạm có liên quan; - Chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó đưa ra giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống có hiệu quả loại tội phạm này; 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tội trốn thuế được qui định tại Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 trên cơ sở đánh giá tình hình tội phạm trốn thuế trong thời gian từ 2005 đến 2009. - Phạm vi nghiên cứu những vấn đề liên quan tới tội trốn thuế. Nêu rõ những đặc điểm cơ bản và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng để phân biệt tội Trốn thuế với các loại tội phạm khác, đồng thời nêu rõ thực trạng tội phạm trốn thuế đang diễn ra hiện nay, cũng như công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này trong những năm qua, trên cơ sở đó để đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước về chính sách thuế trong nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế để xác định nguyên nhân, giải pháp phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này. Thông qua sử dụng các phương pháp như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp điều tra xã hội học để làm rõ yêu cầu và mục đích của luận văn.
  • 8. 6 6. Yếu tố mới của luận văn Thông qua phân tích những vấn đề lý luận trên cơ sở các qui định pháp luật hiện hành và thực tiễn công tác điều tra, truy tố và xét xử các vụ án trốn thuế, từ những vụ án cụ thể rút ra được những thủ đoạn trốn thuế phổ biến hiện nay. Qua đó tác giả đã đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao, đấu tranh có hiệu quả đối với tội phạm trốn thuế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về tội trốn thuế. Chương 2: Thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm về trốn thuế. Chương 3: Những giải pháp nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với tội trốn thuế.
  • 9. 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỐN THUẾ 1.1. Các qui định của pháp luật về tội trốn thuế qua các giai đoạn lịch sử Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập. Chính quyền non trẻ cùng lúc phải đối phó với thù trong, giặc ngoài lại gặp rất nhiều khó khăn về kinh tế. Để bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng tháng Tám, Nhà nước ta hết sức chú trọng đến việc giữ vững an ninh quốc gia đồng thời xây dựng hệ thống pháp luật nhằm ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Đặc điểm chung của pháp luật thời kỳ này là chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hệ thống hoá các qui định của pháp luật còn hạn chế trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, trước sự phát triển kinh tế từng ngày, đòi hỏi quản lý các nguồn thu ngân sách, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản ban hành để xác lập về thuế như sau: - Thông tư 427-TTG ngày 18/12/1954 của Thủ tướng chính phủ qui định về thuế doanh nghiệp. - Điều lệ về thuế hàng hoá do Nghị quyết số 487 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành. - Điều lệ tạm thời do Nghị định số 661/TTg ngày 12/1/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành qui định về thuế thổ trạch. - Điều lệ số 542 ngày 26/5/1955 của Thủ tướng Chính phủ qui định về thuế kinh doanh doanh nghệ thuật. - Điều lệ thuế nông nghiệp số 715-TTG ngày 24/3/1956 của Thủ tướng Chính phủ áp dụng ở những nơi đã cải cách ruộng đất.
  • 10. 8 - Điều lệ về thuế công thương nghiệp đối với các hợp tác xã, tổ chức hợp tác và hộ kinh doanh riêng lẻ ban hành kèm theo Quyết định số 200- NQ/TVQH ngày 18/1/1966 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Những văn bản pháp luật qui định về thuế thời đó đã xác định được các hành vi vi phạm thể lệ về thuế, coi là một trong các hành vi xâm phạm chính sách quản lý các hoạt động kinh doanh. Trong các văn bản trên, ngoài việc đưa ra các qui định về thể lệ, các hành vi vi phạm cụ thể về thuế, đường lối xử lý đối với các vi phạm cũng đã được xác lập. Một số dạng hành vi liên quan đến trốn thuế được ghi nhận như: Khai man, không chịu nộp thế, lập chứng từ giả, bán hàng hoá không có chứng từ hợp lệ, lập sổ sách kế toán không đúng thực tế đều đã được quy định trong các văn bản pháp luật để xử lý về các hành vi trốn thuế. Về đường lối xử lý đối với người có hành vi trốn thuế, ngoài việc qui định các chế tài đa dạng như phạt tiền, tịch thu hàng hoá gian lận, đình chỉ hoạt động kinh doanh thì việc phân hoá trách nhiệm hình sự cũng đã bước đầu được chú ý. Cơ sở phân hoá trách nhiệm được xác định là số tiền trốn thuế và tính chất nghiêm trọng của hành vi trốn thuế. Các hành vi vi phạm pháp luật về thuế thông thường chỉ bị xử phạt tiền; tịch thu một phần hoặc toàn bộ hàng hoá gian lận hay đình chỉ hoạt động. Ví dụ, khoản 3 Điều 15 Điều lệ thuế hàng hoá qui định “ nếu có hành động trốn thuế, lậu thuế như khai man khối lượng, giá cả, phẩm chất hàng hoá, tàng trữ vận chuyển và bán hàng không có chứng từ hợp lệ, ghi chép sổ sách không đúng thực tế thì có thể bị phạt từ một đến hai lần số thuế gian lậu, hoặc bị xử phạt theo cả hai hình thức nói trên”. Trường hợp tái phạm, trốn thuế có tổ chức sẽ bị truy tố ra Toà án. Theo qui định tại Điều 18 Điều lệ tạm thời ban hành kèm theo Nghị định số 661/TTg ngày 12/1/1956 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về thuế
  • 11. 9 thổ trạch thì “người nào cố tình dây dưa thuế, chống thuế, có thể bị truy tố trước toà án”. Trong số các hình phạt trên, phạt tiền được áp dụng chủ yếu với mức phạt tiền từ một đến năm lần số thuế gian lận (Điều lệ hàng hoá, thuế thổ trạch, thuế sát sinh, thuế công thương nghiệp). Luật thuế doanh nghiệp qui định có thể áp dụng hình phạt tiền lên tới một đến mười lần số thuế định gian lận (Điều 12 Thông tư 427-TTg ngày 18/12/1954 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn về xử phạt các hành vi gian lận thuế). Tuy nhiên, trong các văn bản pháp luật thời kỳ này vẫn chưa có điều luật mang tính khái quát chung về tội trốn thuế, cũng như chưa có sự phân định rõ ràng trốn thuế với tính chất là một tội phạm và trốn thuế với tính chất vi phạm pháp luật hành chính trong lĩnh vực thuế. Ngày 15/3/1976 Chính phủ ban hành Sắc luật 03/76 qui định về tội phạm kinh tế. Điều 6 Sắc luật 03 qui định: “Tội kinh tế là tội gây thiệt hại về kinh tế tài chánh cho nhà nước, cho hợp tác xã hoặc tập thể nhân dân, gây trở ngại cho việc khôi phục và phát triển sản xuất, cho ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân, gồm các loại: - Sản xuất hàng giả cố ý lừa gạt người tiêu thụ. - Kinh doanh trái phép, cố ý trốn tránh qui định của nhà nước. - Làm bạc giả hoặc tiêu thụ bạc giả. - Mua bán gian lận, trốn thuế, lừa gạt nhà cầm quyền. - Đầu cơ, tích trữ, tung tin thất thiệt, dìm giá, tăng giá phá rối thị trường. - Bán hàng nhà nước cấm. Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm và bị phạt tiền đến 50.000đ ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó.
  • 12. 10 Trường hợp nghiêm trọng, bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. So với qui định của pháp luật thời kỳ trước, pháp luật thời kỳ này đã có sự tiến bộ rõ rệt. Bằng việc qui định tội trốn thuế là một trong các tội phạm kinh tế, pháp luật đã xác định tính nguy hiểm cho xã hội của tội trốn thuế, đồng thời phân định rõ ràng ranh giới giữa các hành vi trốn thuế bị xử phạt hành chính và hành vi trốn thuế bị xử lý hình sự. Sắc luật số 03/76 đã qui định chế tài đối với hành vi trốn thuế nói riêng, hành vi xâm phạm chế độ kinh tế nói chung ở mức độ nghiêm khắc. Hình phạt trong Sắc luật 03 qui định là phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm hoặc phạt tiền đến 50.000đ, trường hợp nghiêm trọng phạt tù 20 năm, chung thân hoặc tử hình. Những qui định tại điều 6 Sắc luật 03/76 đã thực sự là cơ sở pháp lý cho việc xử lý hình sự đối với các hành vi xâm phạm chế độ kinh tế nói chung, hành vi trốn thuế nói riêng, góp phần vào công cuộc phòng, chống tội phạm trốn thuế. Phù hợp với diễn biến mới của tình hình kinh tế – xã hội, trên cơ sở các qui định của Hiến pháp 1980, năm 1982 Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép được ban hành. Tại Điều 6 Pháp lệnh này, hành vi trốn thuế được coi là một trong những hành vi khách quan trong tội kinh doanh trái phép: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp”.
  • 13. 11 Như vậy, cùng với sự phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam, phạm vi xác định tội phạm trốn thuế ngày càng được cụ thể hoá rõ hơn. Trong Pháp lệnh trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép năm 1982, hành vi trốn thuế được coi là một trong những hành vi khách quan của tội kinh doanh trái phép, nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự kinh tế. Hình phạt được qui định đối với tội kinh doanh trái phép (trong đó có hành vi trốn thuế) là cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, cùng với nó còn bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp. Như vậy, hình phạt tiền là hình phạt bắt buộc đối với mọi đối tượng phạm vào tội phạm này. Ngoài hình phạt tiền, người phạm tội còn bị áp dụng một trong hai hình phạt là cải tạo không giam giữ và phạt tù. Kỳ họp Quốc hội khoá VII năm 1985 đã thông qua Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là công cụ sắc bén bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật hình sự 1985 ra đời trên cơ sở kế thừa các qui định của các văn bản pháp luật trước. Trong đó đã quy định cụ thể tội Trốn thuế tại Điều 169 như sau: “Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm”. Trong cả ba lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự vào các năm 1989, 1992 và 1997, qui định về tội trốn thuế đều được sửa đổi bổ sung theo hướng phân hoá trách nhiệm hình sự và tăng nặng hình phạt. Theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1997, Điều 169 về tội Trốn thuế được qui định như sau: “1. Người nào trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”
  • 14. 12 2. Phạm tội trốn thuế với số lượng lớn, rất lớn hoặc đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội qui định tại điều 185b, 185c, 185d, 185đ, 97, 165, 166, 167, 168, 173 và 183 hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.” Một trong những dấu hiệu xác định tội trốn thuế là trốn thuế với số lượng lớn. Song tại điều luật không có qui định như thế nào được coi là số lượng lớn. Theo thông tư liên tịch số 11/TTLN ngày 20/11/1990 của liên ngành Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp về hướng dẫn về xử lý đối với các hành vi trốn thuế, thì trốn thuế với số lượng lớn là trốn thuế với số tiền thuế tương đương giá trị của 5 tấn gạo trở lên. Hướng dẫn này phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn đó. Do sự biến động của giá cả, sau một thời gian thực hiện thì hướng dẫn của Thông tư liên ngành số 11 đã không còn phù hợp. Để đáp ứng yêu cầu xử lý đối với tội trốn thuế trong tình hình mới, Thông tư liên ngành số 06 ngày 20/9/1996 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Toà án nhân dân tối cao – Bộ Nội vụ ra đời thay thế Thông tư liên ngành số 11, Thông tư 06 hướng dẫn xử lý đối với tội trốn thuế như sau: “ Người trốn thuế với số lượng từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng thì bị coi là trốn thuế với số lượng lớn và bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 169 Bộ luật hình sự”. Sau một thời gian thực hiện Bộ luật hình sự năm 1985, với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, qui định tại Điều 169 Bộ Luật hình sự 1985 cũng như nhiều điều luật khác đã không còn phù hợp, cần được sửa đổi, bổ sung. Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời, khắc phục những hạn chế bất cập của Bộ luật hình sự năm 1985 và đáp ứng được yêu cầu tình hình kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới.
  • 15. 13 Tội trốn thuế được qui định tại Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: “1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ một trăm năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế”. So với qui định của Bộ luật hình sự năm 1985, qui định về tội trốn thuế của Bộ luật hình sự năm 1999 có một số sửa đổi đáng chú ý sau: Thứ nhất, dấu hiệu xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi trốn thuế đã được định lượng cụ thể. Trước kia trong Bộ luật hình sự năm 1985 dấu hiệu này được qui định là “trốn thuế với số lượng lớn” nay được sửa thành “trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng”. Thứ hai, dấu hiệu định tội bổ sung được sửa đổi chính xác hơn so với qui định trước đây. Bộ luật hình sự năm 1985 qui định: “đã bị xử lý hành chính” nay sửa thành “đã bị xử lý vi phạm hành chính”.
  • 16. 14 Thứ ba, phạm vi xử lý hình sự đối với hành vi trốn thuế nhìn chung đã bị thu hẹp. Điều luật giới hạn vi phạm hành chính đã bị xử phạt trước đó là hành vi trốn thuế (hẹp hơn so với qui định của Bộ luật hình sự năm 1985). Đồng thời, dấu hiệu đã bị kết án chưa được xoá án tích mà còn vi phạm được qui định trong cấu thành tội phạm cơ bản, được xem là dấu hiệu định tội trong trường hợp trốn thuế với số tiền thấp hơn năm mươi triệu đồng. Thứ tư, qui định về tội trốn thuế đã hoàn thiện hơn về mặt lập pháp, thể hiện sự phân hoá rõ nét trách nhiệm hình sự trong các trường hợp trốn thuế có mức độ nguy hiểm khác nhau (phản ánh trong cấu thành tội phạm cơ bản và hai cấu thành tăng nặng) trên cơ sở số tiền trốn thuế và các dấu hiệu định khung tăng nặng khác hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác. Thứ năm, chế tài đối với tội trốn thuế được qui định giảm nhẹ hơn. Hình phạt nặng nhất là tù có thời hạn, với mức cao nhất là bảy năm (so với 12 năm trong Bộ luật hình sự năm 1985). Thay vào đó, hình phạt tiền được bổ sung là hình phạt chính với phạm vi áp dụng rộng, mức phạt được xác định trên cơ sở số tiền trốn thuế. Đây là điểm nổi bật trong chính sách hình sự của Nhà nước đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong Bộ luật hình sự năm 1999 Sau 10 năm thực hiện Bộ luật hình sự năm 1999 cho thấy một số quy định của Bộ luật hình sự đã tỏ ra không còn phù hợp. Năm 2009 Quốc Hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó Điều 161 được sửa đổi, bổ sung như sau: “1. Người nào trốn thuế với số tiền từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng hoặc dưới một trăm triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được
  • 17. 15 xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm. 2. Phạm tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đồng đến dưới sáu trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này, thì bị phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. 3. Phạm tội trốn thuế từ sáu trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một lần đến ba lần số tiền trốn thuế.” Như vậy, số tiền trốn thuế để có thể bị khởi tố và chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 điều 161 đã thay đổi từ 50 triệu đồng đến một mức mới là 100 triệu đồng. Đồng thời căn cứ để áp dụng khoản 2 và khoản 3 cũng được thay đổi lên một mức mới là ba trăm đến sáu trăm triệu đồng và trên sáu trăm triệu đồng. 1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế 1.2.1. Chủ thể của tội trốn thuế Theo pháp luật hình sự Việt Nam chủ thể của tội phạm trốn thuế là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy. Ngoài ra, chủ thể của tội phạm này chỉ là những người phải nộp thuế theo qui định của pháp luật. Chủ thể của tội phạm phụ thuộc vào đối tượng phải nộp các loại thuế theo qui định của Nhà nước. Ví dụ: Chỉ những người có thu nhập cao trên 4 triệu đồng/tháng mới phải chịu thuế thu nhập; chỉ những người có đăng ký kinh doanh mới phải chịu thuế giá trị gia tăng
  • 18. 16 (VAT), thuế thu nhập doanh nghiệp; Chỉ những người được phép khai thác tài nguyên mới phải chịu thuế tài nguyên… Chủ thể của tội phạm trốn thuế là chỉ những người từ đủ 16 tuổi trở lên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự vì cả 3 khoản của điều luật chỉ với mức hình phạt cao nhất là 7 năm tù do tội Trốn thuế là tội phạm ít nghiêm trọng (đối với khoản 1 và khoản 2) và tội phạm nghiêm trọng (đối với khoản 3) nên không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này. [3] Bộ luật hình sự chưa qui định pháp nhân là chủ thể của tội phạm hình sự, mặc dù đối tượng trốn thuế chủ yếu là các pháp nhân có đăng ký kinh doanh. 1.2.2. Khách thể của tội trốn thuế Khách thể của tội trốn thuế là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là ngân sách nhà nước bị thiệt hại do không thu được thuế. Đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm này là ngân sách Nhà nước. [4] Ở Việt Nam hiện nay, các loại thuế được xác định phải nộp là: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập… 1.2.3. Mặt khách quan của tội trốn thuế Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của sự xâm hại nguy hiểm cho xã hội, đến khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Tức là sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan. Trốn thuế là không nộp thuế cho Nhà nước theo qui định của pháp luật. Hành vi khách quan của tội trốn thuế là không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Trốn thuế là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để không phải đóng thuế hoặc đóng ít hơn mức thuế phải nộp. Mặt khách quan được thể hiện bằng hành vi sau: Khai báo
  • 19. 17 gian dối trong sản xuất, kinh doanh để không phải đóng thuế hoặc đóng mức thuế thấp hơn nhiều so với mức phải đóng: hành vi này thường thể hiện ở việc gian dối trong kê khai hàng hoá trong sản xuất hoặc kinh doanh, ví như kinh doanh không đăng ký hoặc đăng ký không đúng quy mô sản xuất, chủng loại hàng hoá; sử dụng các giấy tờ, chứng từ không đúng quy định hoặc sửa chữa chứng từ, hoá đơn hoặc dùng chứng từ hoá đơn quay vòng nhiều lần. Hậu quả trực tiếp của hành vi trốn thuế là gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Tội phạm chỉ cấu thành khi số tiền trốn thuế từ 100 triệu đồng trở lên hoặc dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Đối với tội trốn thuế, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Nếu người phạm tội không có thủ đoạn gian dối để trốn thuế mà chỉ có hành vi chây ỳ không chịu nộp thuế thì không phải là hành vi trốn thuế mà tuỳ từng trường hợp có thể bị xử phạt hành chính theo qui định của pháp luật về hành vi chậm nộp thuế. Nếu người có nghĩa vụ phải nộp thuế, nhưng trốn tránh việc nộp thuế bằng cách rời khỏi nơi cư trú hoặc bỏ trốn để không phải nộp thuế thì bị coi là hành vi trốn thuế. Nếu sau khi đã nộp đầy đủ thuế cho Nhà nước, nhưng sau đó lại dùng thủ đoạn gian dối để được hoàn thuế thì hành vi đó của người phạm tội là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi trốn nộp thuế có thể được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau nhưng đều có chung một mục đích là không phải nộp khoản tiền hoặc nộp ít hơn số tiền lẽ ra phải nộp vào ngân sách nhà nước. Hành vi đó có thể là không kê khai nộp thuế; kê khai không đúng căn cứ tính thuế để trốn một phần thuế phải nộp; lập sổ sách kế toán hoá đơn chứng từ không đúng với thực tế kinh
  • 20. 18 doanh; bỏ ngoài sổ sách số liệu kế toán; Sử dụng hoá đơn chứng từ không đúng sự thật để trốn thuế giá trị gia tăng khai bớt doanh thu; khai man hàng hoá hoặc các hành vi gian dối khác làm giảm số thuế phải nộp. [3] Trong Bộ luật hình sự không mô tả cụ thể hành vi trốn thuế nhưng trong các văn bản dưới luật đã có hướng dẫn chi tiết thế nào là hành vi trốn thuế. Theo Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/12/2004 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì hành vi trốn thuế được hiểu là hành vi vi phạm các qui định của pháp luật về thuế làm giảm số thuế phải nộp hoặc làm tăng số thuế được hoàn hoặc được miễn giảm [7]. Hành vi trốn thuế bao gồm: Thứ nhất, hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Các vi phạm thể hiện liên quan đến các qui định về lập hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá, qui định về mở sổ và ghi sổ kế toán hoặc các qui định về các khoản thu khác. Thứ hai, hành vi không nộp thuế hoặc nộp thuế ít hơn mức phải nộp làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước. Hai hành vi này có quan hệ chặt chẽ với nhau, hành vi vi phạm pháp luật thuế tạo cơ sở cho hành vi không nộp thuế hoặc nộp ít hơn số thuế phải nộp. Hành vi trốn thuế phải là sự kết hợp của cả hai hành vi này. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt trốn thuế với dây dưa không nộp thuế. Dây dưa không nộp thuế là hành vi vi phạm chế độ, thời gian thu, nộp tiền thuế, chủ thể nộp thuế không có vi phạm trong việc kê khai thuế, căn cứ tính thuế theo qui định của từng loại thuế hay trong lĩnh vực kế toán như sử dụng hoá đơn chứng từ… Theo qui định của pháp luật hiện hành, hành vi dây dưa không nộp thuế bị coi là hành vi vi phạm hành chính và bị xử lý bằng các biện pháp hành chính. Để trốn thuế, người phạm tội có thể thực hiện nhiều thủ đoạn khác nhau, mà các thủ đoạn thường là:
  • 21. 19 Không kê khai thuế, để ngoài sổ sách kế toán số liệu kế toán: Kê khai thuế là một trong các hoạt động giúp các cơ quan chức năng quản lý một cách hiệu quả về thuế của các doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để cơ quan chức năng tính thuế, đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế. Ví dụ: Vụ Công ty TNHH ở Bắc Kạn được thành lập với chức năng chuyên khai thác mỏ. Sau khi đi vào hoạt động một thời gian có hiệu quả, Giám đốc doanh nghiệp này đã bán 50% cổ phần cho một doanh nghiệp khác. Tuy có hợp đồng chuyển nhượng vốn, nhưng Công ty này đã không kê khai lợi nhuận của hợp đồng từ việc chuyển nhượng vốn vào báo cáo tài chính năm. Chỉ đến khi cơ quan Công an kiểm tra mới phát hiện được phần lợi nhuận không kê khai, doanh nghiệp này đã trốn thuế 586 triệu đồng. Đây chính là thuế thu nhập doanh nghiệp 28% mà lẽ ra doanh nghiệp phải kê khai để nộp vào ngân sách nhà nước. Để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài thủ đoạn mua bán hoá đơn GTGT nhằm nâng cao phần chi phí trong sản xuất, các doanh nghiệp đã mua hoá đơn GTGT của các doanh nghiệp “ma”, nâng giá trị hàng hoá xấp xỉ với giá thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp khác nhau để giấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh. Kê khai không đúng căn cứ tính thuế theo qui định của từng sắc thuế: Kê khai căn cứ tính thuế là cơ sở để xác định chính xác số thuế phải nộp. Việc kê khai không đúng căn cứ tính thuế cũng là một trong các hành vi trốn thuế. Ví dụ như việc nhập khẩu ô tô con đã qua sử dụng thì thuế xuất sẽ thấp hơn với nhập ôtô con mới 100%. Công ty trách nhiệm Phú Cường đã hợp đồng với 1 Công ty có trụ sở tại Mỹ nhập 50 xe ôtô Hon Da ACURA mới 100% nhưng làm một số chi tiết cũ đi như lốp xe, quay đồng hồ Congtơmet, rồi tiến hành mở tờ khai hải quan là xe cũ để giảm thuế nhập khẩu.
  • 22. 20 Các doanh nghiệp nhập khẩu thường khai báo sai về chủng loại mặt hàng nhập khẩu hoặc thông đồng với đối tác nước ngoài hạ giá trị thực tế của hợp đồng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu, thuế GTGT (do thuế nhập khẩu được thu căn cứ trên hoá đơn của bên xuất khẩu) hoặc thay đổi con đường vận chuyển hàng hoá để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi. Một thực tế nổi cộm trong các hành vi trốn thuế hiện nay là trốn thuế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Lợi dụng việc đầu tư ngân sách từ trung ương cho đến các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các tỉnh nhưng các doanh nghiệp địa phương không đủ năng lực để nhận thầu, nhiều doanh nghiệp ở trung ương đã trốn thuế bằng các không thành lập doanh nghiệp mà vẫn nhận công trình sau đó bán thầu cho doanh nghiệp khác thi công nhận tiền chênh lệch từ bán thầu nhưng không kê khai nộp thuế theo qui định của pháp luật. Chỉ tính riêng ở Đồng Tháp có 57 lượt doanh nghiệp ở ngoài tỉnh vi phạm kiểu này. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng quản lý thuế đối với hoạt động xây dựng cơ bản là hết sức khó khăn phức tạp vì đối tượng phải nộp thuế nhiều khi không nằm trên địa bàn thi công công trình. Mới đây, ngày 29 tháng 3 năm 2010, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã có cáo trạng số 07/VKS-P1 truy tố bị can Đinh Quốc Hoàn, giám đốc công ty Trách nhiệm hữu hạn Bội Đạt về tội “Trốn thuế”, theo Cáo trạng thì từ năm 2004 đến 31/1/2009 Công ty Trách nhiệm hữu hạn Bội Đạt thực hiện hợp đồng thi công xây lắp 09 công trình với tổng doanh thu (đã bao gồm thuế Giá trị gia tăng) là 7.830.777.565 đồng, trong đó giá trị xây lắp trước thuế là 7.139.073.111 đồng, thuế giá trị gia tăng là 691.704.454 đồng, số thuế trốn là 451.783.312đồng, với các thủ đoạn là không kê khai nộp thuế đầu ra (Công trình cải tạo Đê hữu sông cà lồ); không xuất hoá đơn bán hàng, không đưa giá trị doanh thu bán hàng và thuế giá trị gia tăng đầu ra vào quyết toán (công trình kè chống sạt lở đê tả sông Cà Lồ, Công trình
  • 23. 21 cải tạo mặt đê Bối xã Chu Phan, huyện Mê Linh, Công trình cải tạo dốc lên bằng bê tông tả Sông Hồng…) Các hành vi kê khai không đúng căn cứ tính thuế nhằm trốn thuế rất đa dạng: Thứ nhất, lập sổ sách kế toán chứng từ không đúng sự thật so với thực tế để trốn thuế. Đây cũng là một trong các thủ đoạn mà các doanh nghiệp thường áp dụng để trốn thuế. Hiện nay các doanh nghiệp thường lập hai hệ thống sổ sách kế toán, một sổ để đối phó với cơ quan thuế, một hệ thống sổ sách thật để quản lý việc sản xuất kinh doanh của đơn vị. Thứ hai, sử dụng hoá đơn chứng từ không đúng sự thật để trốn thuế giá trị gia tăng. Đối với thuế giá trị gia tăng (GTGT): hoá đơn chứng từ được coi là bằng chứng quan trọng khi xác định phần giá trị tăng thêm, là cơ sở để các cơ quan chức năng xác định số thuế phải nộp. Vì thế, một số doanh nghiệp thường thành lập công ty con hoặc công ty ma, làm giả các hợp đồng kinh tế với đối tác không có thực với mục đích có được hoá đơn GTGT để bán cho các đối tượng kinh doanh khác kiếm lời bất chính. Các doanh nghiệp mua lại hoá đơn GTGT lại dùng hoá đơn này để hợp thức hoá số hàng nhập lậu nhằm chiếm đoạt tiền thuế. Đây là thủ đoạn phổ biến của tội phạm trốn thuế trong thời gian gần đây. Ví dụ, ngày 05/01/2002, Phòng cảnh sát kinh tế Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện hành vi trốn thuế tại Công ty TNHH thương mại Vĩnh Tâm có trụ sở đóng tại quận Tân Bình, TP HCM. Chỉ từ tháng 10/2004 đến tháng 2/2006 Công ty đã mua hoá đơn của các công ty khác để hợp thức hàng hoá đầu vào, trốn 745,6 triệu đồng tiền thuế đồng thời mua 72 quyển hoá đơn bán ra ngoài tiếp tay cho các đối tượng khác trốn thuế.
  • 24. 22 Các đại lý chính thức của HonDa Việt Nam có tên gọi là HEAD bán xe với giá cao hơn giá niêm yết từ 5-7 triệu đồng nhưng khi ghi hoá đơn xuất cho khách hàng thì chỉ ghi theo giá niêm yết. Theo nguyên tắc khi HonDa Việt Nam bán xe cho HEAD thì phải xuất hoá đơn VAT, khi khách hàng mua xe thì HEAD cũng phải xuất hoá đơn VAT. HEAD có trách nhiệm phải nộp thuế cho phần giá trị tăng thêm và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, các HEAD hiện đang trốn hai khoản thuế này. Vấn đề đặt ra là các cơ quan chức năng không thể không biết, vì sự việc này đã diễn ra trong một thời gian dài, khách hàng cũng đã nhiều lần phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng. Khi mà khách hàng phải mua xe với giá trên trời còn các đại lý thì ngang nhiên trốn thuế trong một thời gian dài Một thực tế xảy ra phổ biến hiện nay mà các cơ quan chức năng về thuế không xử lý nghiêm là bán hàng nhưng không xuất hoá đơn GTGT. Theo qui định khi bán hàng có giá trị thanh toán trên 100.000đ, người bán hàng phải viết hoá đơn GTGT. Việc không lập, không giao hoá đơn, hoặc lập và giao hoá đơn không hợp pháp đều bị coi là hành vi trốn thuế. Ngay tại trung tâm Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, siêu thị điện máy Nguyễn Kim là một doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực bán lẻ hàng hoá kim khí điện máy nhưng khi bán hàng đều không xuất hoá đơn mà chỉ có phiếu tạm ứng xuất kho nội bộ, tuy nhiên trên phiếu đó lại ghi giá đã bao gồm thuế VAT. Ngoài ra, còn nhiều thủ đoạn để trốn thuế như: xin tạm nghỉ kinh doanh, thông báo ngừng hoạt động để được miễn giảm thuế nhưng thực tế vẫn kinh doanh. Lợi dụng chính sách ân hạn cho chậm nộp thuế nhập khẩu của Nhà nước qui định tại Thông tư số 172/1998/TT/BTC ngày 22/12/1998, một số doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh có hành vi trốn thuế nhập khẩu bằng thủ đoạn thành lập nhiều doanh nghiệp, thuê người đứng
  • 25. 23 tên giám đốc. Sau khi nhập và tiêu thụ hàng trong nội địa không nộp thuế theo qui định của Hải quan, bỏ trốn khỏi nơi kinh doanh. Vừa qua, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an – Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án; bị can đối với Nguyễn Văn Bằng về tội “trốn thuế”. Theo tài liệu trong hồ sơ xác định được Nguyễn Văn Bằng đã thành lập 3 công ty và thuê 3 người làm giám đốc. Sau đó, Bằng chỉ đạo các công ty ký các hợp đồng ngoại thương nhập khẩu các mặt hàng gồm 160,6 tấn giấy, 08 xe ôtô các loại đã qua sử dụng và 7.436 tấn Clanh-ke trị giá 276.542USD từ nước ngoài về Việt Nam theo 6 tờ khai hải quan về tiêu thụ hàng tại nội địa rồi bỏ trốn khỏi nơi kinh doanh. Tổng cộng 3 công ty mà Bằng lập ra đã trốn không nộp thuế với số tiền là 6,452 tỷ đồng. 1.2.4. Mặt chủ quan của tội trốn thuế Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm bao gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Nguyên tắc có lỗi là một trong những nguyên tắc được qui định trong luật hình sự Việt nam. Có lỗi là cơ sở chủ quan để có thể buộc chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và về hậu quả do hành vi đó gây ra. Nếu không có lỗi thì chủ thể không phải chịu trách nhiệm hình sự, dù cho hành vi họ thực hiện đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Điều 8 Bộ luật hình sự qui định: Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi được thực hiện một cách có lỗi cố ý hoặc vô ý. Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nếu họ đã lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là có lỗi nếu khi thực hiện nhận thức được hoặc có đủ điều kiện để nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và có đủ điều kiện lựa chọn, thực hiện hành vi khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
  • 26. 24 Người thực hiện hành vi trốn thuế là cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, biết rõ hành vi trốn thuế của mình gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước nhưng vẫn thực hiện. Động cơ duy nhất khi thực hiện tội phạm là tư lợi, càng trốn được nhiều thuế thì lợi nhuận đạt được càng cao. Về ý chí: người phạm tội mong muốn trốn được một phần hoặc toàn bộ số thuế phải nộp. Tuy nhiên, động cơ, mục đích của tội phạm không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm. Vì thông thường động cơ trốn thuế là tư lợi với đặc điểm tâm lý của người kinh doanh là trốn được càng nhiều thuế thì càng có lợi. [4] 1.2.5. Trách nhiệm hình sự của tội trốn thuế Điều 161 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định về tội Trốn thuế với 3 khung hình phạt chính như sau: Khung 1. Người nào trốn thuế với số tiền từ năm mươi triệu đồng đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; Khung 2: Điều luật quy định hình phạt tiền từ một lần đến năm lần số tiền trốn thuế hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm áp dụng đối với trường hợp số tiền trốn thuế từ một trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng hoặc tái phạm về tội này. Khung 3: Quy định hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm áp dụng đối với trường hợp số tiền trốn thuế từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác như đưa hối lộ; tìm cách tiêu huỷ chứng từ hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ,..
  • 27. 25 Hình phạt bổ sung: người phạm tội có thể áp dụng hình phạt tiền từ một đến ba lần số tiền trốn thuế, khi không phải là hình phạt chính. [2] 1.3. Phân biệt tội trốn thuế với các tội phạm về kinh tế khác Tội phạm về thuế liên quan nhiều đến các tội phạm khác như: tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), tội Buôn lậu (Điều 153), Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác (Điều 181), tội Tham ô tài sản (Điều 278). Để phân biệt với các tội phạm trên, cần dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm. Mặc dù tội Trốn thuế cùng nằm trong chương các tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và có chung đặc điểm về một số dấu hiệu pháp lý song để phân biệt giữa tội Trốn thuế với các tội phạm khác thì căn cứ vào mặt khách quan và một số dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, cụ thể: 1.3.1. Phân biệt tội Trốn thuế với tội Buôn lậu (Điều 153 BLHS) Tội Buôn lậu được qui định tại Điều 153 Bộ luật hình sự 1999. Buôn lậu là hành vi buôn bán hàng hoá trái phép qua biên giới. Tội buôn lậu và tội trốn thuế đều có dấu hiệu chung về mặt chủ thể và chủ quan của tội phạm; Về khách thể thì hai tội danh này đều xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Hành vi khách quan của tội Buôn lậu cũng rất đa dạng nhưng phải có một đặc trưng chủ yếu là đưa hàng hoá qua biên giới một cách trái phép. Chẳng hạn như có một mặt hàng khi đưa qua cửa khẩu (thông quan) nhưng có khai báo hải quan và nộp thuế đầy đủ thì được coi là hợp pháp. Nhưng cũng mặt hàng đó khi đưa qua biên giới nhưng không khai báo hải quan để tránh phải nộp các loại thuế theo qui định của pháp luật thì bị coi là buôn lậu. Ở đây có hành vi khách quan là dùng hành vi gian dối để không phải nộp thuế. Phân biệt cấu thành tội phạm giữa tội trốn thuế được qui định tại Điều 161 và Điều 153 Bộ luật hình sự chỉ là hành vi đưa hàng qua biên giới một cách trái phép. Giống nhau ở hai tội này đều có hành vi gian dối để trốn thuế.
  • 28. 26 Vừa qua Cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (PC 15) Công an Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang một doanh nghiệp tư nhân mở tờ khai hải quan nhập khẩu 3000 bộ bàn phím máy vi tính. Số bàn phím này được đóng trong 1000 thùng cotton. Cán bộ hải quan theo nguyên tắc nghiệp vụ chỉ kiểm tra sơ bộ 10% số hàng xin thông quan nên không phát hiện ra. Chỉ đến khi Cơ quan công an bất ngờ kiểm tra đã phát hiện 300 máy tính xách tay được đóng trong 100 thùng cotton xếp lẫn vào các hộp chứa bàn phím. Số hàng này không được kê khai hải quan để nộp thuế theo qui định của pháp luật. Ngay lập tức Giám đốc doanh nghiệp đã bị khởi tố về tội buôn lậu theo qui định tại Điều 153 BLHS. 1.3.2. Phân biệt tội Trốn thuế với tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139 BLHS) Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được qui định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Trên thực tế, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có liên quan chặt chẽ đến lĩnh vực thuế. Hành vi lừa đảo để chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng là điển hình trong nhưng năm gần đây do có chính sách hoàn thuế hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Về mặt chủ quan của tội phạm: Lỗi của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lỗi của người thực hiện hành vi trốn thuế đều là cố ý. Tức là nhận thức rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội. Với mục đích là chiếm đoạt tài sản (tội lừa đảo) và không nộp một phần hoặc toàn bộ số thuế phải nộp (tội trốn thuế). Về chủ thể của tội phạm: Điểm chung về chủ thể của tội phạm là bất cứ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự đạt độ tuổi theo qui định của pháp luật. Điểm khác là chủ thể của tội trốn thuế chỉ là những người có nghĩa vụ phải nộp thuế theo qui định của pháp luật
  • 29. 27 Khách thể của tội phạm: Khác nhau ở chỗ: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm sở hữu còn tội trốn thuế xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi phạm tội của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi khác nhau. Đó là hành vi lừa dối và hành vi chiếm đoạt tài sản, giữa hai hành vi này có liên quan chặt chẽ với nhau. Hành vi lừa dối là điều kiện, tiền đề để hành vi chiếm đoạt tài sản xảy ra, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và kết quả của hành vi lừa dối. Hành vi trốn thuế bao gồm hai hành vi cụ thể. Đó là hành vi vi phạm pháp luật về thuế và hành vi gian dối để không nộp thuế hoặc nộp thuế ít hơn mức phải nộp. Để trốn thuế thì người phạm tội cũng có những hành vi gian dối nhất định. Theo mục 1 của TTLN số 01/2004/ BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng thì người nào có hành vi mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập hồ sơ khống chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 Bộ luật hình sự. - Tiền hoàn thuế GTGT từ năm trăm ngàn đồng trở lên; - Tiền hoàn thuế GTGT dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Trường hợp lập hồ sơ khống để chiếm đoạt số thuế giá trị gia tăng được hoàn bị coi là lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ví dụ: Công ty TNHH Kim Chi có chức năng kinh doanh hàng nông lâm thuỷ sản xuất khẩu. Theo như chức năng công ty sẽ thu mua hàng hoá rồi xuất khẩu bán sang Trung Quốc. Nhưng thực tế trong thời gian hoạt
  • 30. 28 động công ty không có hoạt động sản xuất, kinh doanh gì cả mà chỉ mua hoá đơn GTGT rồi lập những hợp đồng kinh tế giả với phía đối tác Trung Quốc. Sau đó công ty đã lập những bộ hồ sơ giả để làm căn cứ quyết toán khấu trừ tiền thuế GTGT và đã được chi cục thuế cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Nếu mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên, nhiên vật liệu, vật tư hàng hoá chiếm đoạt tiền của cơ quan tổ chức hoặc người khác thì vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: Nếu là người có chức vụ, tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức mà mình có trách nhiệm quản lý thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản theo Điều 278 BLHS: - Tiền bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên; - Tiền bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội qui định tại mục A chương XXI của Bộ luật hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. 1.3.3. Phân biệt tội Trốn thuế với tội làm, tàng trữ, lưu hành séc giả, giấy tờ có giá giả khác (Điều 181 BLHS) Theo định nghĩa của tội này thì làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành séc giả, các giấy tờ có giá giả khác là hành vi làm ra, cất giữ, vận chuyển, sử dụng, trao đối, mua bán các loại séc giả, các loại giấy tờ có giá giả khác. Trong đó có hoá đơn GTGT.
  • 31. 29 Tội phạm này cũng có các dấu hiệu về mặt chủ thể và khách thể giống tội trốn thuế. Chủ thể của tội phạm là bất cứ ai có năng lực hành vi và đạt đến một độ tuổi nhất định. Khách thể của tội phạm là trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là các qui định của Nhà nước về quản lý các giấy tờ có giá khác. Về mặt chủ quan, người phạm tội thực hiện hành vi một cách cố ý tức là nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm, trong đó có hành vi mua, bán, sử dụng trái phép hoá đơn giá trị gia tăng đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên ngành số 01/2004/TTLN-BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: Người nào có hành vi mua hoá đơn GTGT và sử dụng trái phép hoá đơn đó để hợp thức hoá chứng từ về việc buôn bán trái phép hàng hoá thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: a. Nếu chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Buôn lậu” theo Điều 153 của Bộ luật hình sự. a.1. Hàng hoá có giá trị từ một trăm triệu đồng trở lên; a.2. Hàng hoá có giá trị dưới một trăm triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi qui định tại Điều 153 hoặc tại một trong các điều từ 154 đến điều 161 của Bộ luật hình sự hoặc đã bị kết án về một trong các hành vi này nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. b. Nếu không chứng minh được hành vi buôn bán trái phép hàng hoá qua biên giới (tức là chỉ trong nội địa), mà thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trốn thuế theo Điều 161 Bộ luật hình sự:
  • 32. 30 b.1. Tiền trốn thuế từ năm mươi triệu đồng trở lên; b.2 Tiền trốn thuế dưới năm mươi triệu đồng, nhưng đã bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội qui định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. c. Người nào có hành vi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà không thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các tiểu mục a và b nêu trên thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau: - Trường hợp chứng minh được khi mua hoá đơn giá trị gia tăng mà hoá đơn giá trị gia tăng đó đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả” theo Điều 181 của Bộ luật hình sự; - Trường hợp không chứng minh được hoá đơn trị giá gia tăng đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (hoá đơn giá trị gia tăng còn nguyên như khi phát hành) thì người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước” theo Điều 268 của Bộ luật hình sự, nếu số lượng hoá đơn giá trị gia tăng từ năm mươi số trở lên hoặc dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Tuy nhiên, với sự ra đời của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 2009 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 thì Thông tư liên ngành 01 đã không còn phù hợp ở một số điểm nên cần phải sửa đổi để hướng dẫn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử trong tình hình hiện nay.
  • 33. 31 Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG TỘI TRỐN THUẾ Ở VIỆT NAM 2.1. Thực trạng tội phạm trốn thuế ở Việt Nam 2.1.1. Tình hình tội phạm trốn thuế Trong 5 năm qua, từ 2005 đến 2009, tình hình trốn thuế xảy ra khắp mọi nơi, trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh. Nổi bật trong thời gian gần đây là tội phạm trốn thuế liên quan đến hoàn thuế gia tăng, loại tội phạm này diễn ra hết sức phức tạp và khá phổ biến ở các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là ở những địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Cà Mau, Bà Rịa- Vũng Tàu, Thừa Thiên Huế..., nhiều vụ án trốn thuế có tính tổ chức, móc nối, câu kết với nhau thành đường dây chặt chẽ, liên quan đến nhiều cá nhân, doanh nghiệp ở địa phương. Để thực hiện hành vi trốn thuế, các doanh nghiệp mua hoá đơn giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, tiếp tay cho các doanh nghiệp này trốn thuế là một số công ty ma lập ra để mua hoá đơn giá trị gia tăng, mới đây đã nhiều lần bị cơ quan chức năng phát hiện và khởi tố, điều tra làm rõ. Theo số liệu thống kê của Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ, trong 5 năm qua, từ năm 2005 đến 2009 trên địa bàn cả nước đã phát hiện được 4.288 vụ trốn thuế, số tiền trốn thuế lên tới 158,524 tỉ đồng, mỗi năm trung bình có 858 vụ trốn thuế bị phát hiện. Ngoài ra, các lực lượng chức năng còn phối hợp xử lý hành chính 4.873 vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế vận tải, tài nguyên, thuế trên khâu lưu thông với số tiền gần 13 tỷ đồng. Tuy nhiên, vấn đề xử lý hình sự đối với tội trốn thuế rất hạn chế. Theo số liệu của Cục thống kê tội phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao trên phạm
  • 34. 32 vi toàn quốc trong 5 năm từ năm 2005 đến 2009, toàn quốc đã khởi tố điều tra 201 vụ, 413 bị can, với số tiền trốn thuế lên đến hơn 200 tỷ đồng, một con số rất ít so với số vụ phát hiện vi phạm trong lĩnh vực thuế nhưng số tiền trốn thuế cao rất nhiều (Xem bảng 1 mục 2.1.1). Điển hình, ngày 26/6/2005, Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam Đặng Văn Thiệu, Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc công ty cổ phần vật liệu xây dựng Tiền Phong (Thái Bình) về tội trốn thuế gần 15 tỷ đồng. Đây là vụ trốn thuế lớn nhất từ trước tới nay xảy ra trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Theo tài liệu của cơ quan công an, từ năm 2000 đến năm 2004, với mục đích trốn thuế và có hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, Đặng Văn Thiệu đã chỉ đạo bộ phận nghiệp vụ để ngoài sổ sách kế toán gần 15 tỷ đồng bao gồm tiền từ các nguồn thu như: bán gạch ngói, vôi do công nhân làm thêm giờ (gần 12 tỷ đồng); thu từ việc bán các sản phẩm khác và thu quỹ cán bộ công nhân viên công ty gần 400 triệu đồng. Tiếp đến, ngày 19 tháng 6 năm 2006, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ (Bộ Công an) triệt phá một đường dây trốn thuế, mua bán hoá đơn rất nghiêm trọng xảy ra tại cửa hàng kinh doanh vật tư kỹ thuật số 1 thuộc Công ty hoá chất vật liệu điện thành phố Hồ Chí Minh và một số đơn vị khác. Vụ trốn thuế này vốn tồn tại trong một thời gian dài và chỉ bị phát hiện qua đơn thư tố giác của quần chúng về hành vi mua bán hoá đơn của một số đơn vị trên địa bàn thành phố. Quá trình điều tra đã xác định từ tháng 1-2000 tới tháng 8-2003, Cao Thiên Tòng (với chức danh cửa hàng trưởng Cửa hàng kinh doanh vật tư kỹ thuật số 1đã liên hệ mua bán hoá đơn giá trị gia tăng của 7 đơn vị với tổng số 3.519 hoá đơn, trị giá hơn 121,7 tỷ đồng, trong đó thuế VAT là hơn 9,2 tỷ đồng để hợp pháp hoá các mặt hàng hoá chất, vật liệu điện mà cửa hàng đã mua trôi nổi, không có nguồn gốc hợp
  • 35. 33 pháp. Trong đó có hai doanh nghiệp nhà nước đã tiếp tay cho hành vi trốn thuế của Cao Thiên Tòng với lý do... để đảm bảo doanh thu. Đó là Chi nhánh vật tư Miền Nam (trụ sở trên đường Lý Chính Thắng, quận 3, TP.HCM) thuộc Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Bộ Công nghiệp), từ tháng 1-2000 đến tháng 8-2004, chi nhánh này đã bán cho cửa hàng 1 hơn 800 hoá đơn VAT gồm những mặt hàng hoá chất với tổng trị giá hơn 28,3 tỷ đồng. Tại cơ quan điều tra, N.H.K (trưởng phòng kinh doanh), T.T.V (kế toán trưởng) của Chi nhánh vật tư miền Nam khai nhận thực tế chi nhánh không kinh doanh, mua bán các mặt hàng hoá chất vật liệu điện với cửa hàng của Cao Thiên Tòng như nội dung của các hoá đơn, nhưng để đảm bảo doanh thu của chi nhánh, theo đề nghị của Tòng, chi nhánh đã xuất hoá đơn VAT khống để hưởng phần tiền 1% đến 1,5% trị giá hoá đơn (với mặt hàng thuế VAT từ 5 đến 10%) do cửa hàng 1 trả. Với số hoá đơn trên, Chi nhánh vật tư miền Nam đã thu lợi bất chính hơn 471 triệu đồng. Còn Công ty cổ phần XNK Nam Hà Nội (Simex), trụ sở trên đường Điện Biên Phủ, quận 3, TP.HCM, cũng xuất 169 hoá đơn VAT gồm các mặt hàng hoá chất, vật liệu điện (vốn không phải mặt hàng kinh doanh của công ty) trị giá hơn 5,3 tỷ cho cửa hàng 1 để được hưởng từ 0,7 đến 1% trị giá hàng hoá trên hoá đơn. Trong số 7 đơn vị bán hoá đơn VAT cho cửa hàng 1, nổi lên 3 công ty: Công ty TNHH Lộc Nghĩa (giám đốc N.T.Ích), Công ty T.D.V, Công ty Được Vinh (giám đốc là Tạ Quang Vinh đã bỏ trốn). Qua điều tra xác minh cho thấy 3 doanh nghiệp này đã mua hoá đơn đầu vào của 75 đơn vị đều là các công ty TNHH tại thành phố Hồ Chí Minh với tổng giá trị hàng hoá trên hoá đơn là hơn 51,7 tỷ đồng. Trong số 75 doanh nghiệp này, qua tài liệu điều tra, cho thấy đa số là các công ty không kinh doanh hàng hoá, chỉ thành lập để mua bán hoá đơn VAT, khi bị cơ quan chức năng phát hiện thì bỏ trốn. Tiêu biểu cho loại doanh nghiệp này là Công ty trách nhiệm hữu hạn dịch vụ thương mại Hồng Lâm Phát (giám đốc là Tô
  • 36. 34 Hoàng Thái Lâm, đang bị Bộ Công an truy nã trong vụ mua bán hoá đơn với Trung tâm xuất khẩu Seaprodex), Công ty TNHH Nhật Tín, Công ty TNHH thương mại An Thịnh (cả hai công ty này đều của giám đốc Nguyễn Tấn Sỹ, đang bị Công an tỉnh Đồng Nai truy nã)... Vụ buôn lậu trốn thuế của Công ty trách nhiệm hữu hạn Đông Nam, TP HCM, đến nay đã xác định được số tiền trốn thuế khoảng 200 tỷ đồng, vận chuyển ngoại tệ trái phép qua biên giới khoảng 20 triệu USD. Cơ quan điều tra đã thu giữ 8.512 máy điện thoại di động các loại, 5.222 đồng hồ, gần 400.000 USD và khoảng 2,3 tỷ đồng. Đã có 5 bị can bị khởi tố về tội buôn lậu và trốn thuế. Ngày 24/9/2010, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã ra quyết định khởi tố vụ án trốn thuế xảy ra tại khách sạn Equatorial (địa chỉ 242 Trần Bình Trọng quận 5 TPHCM, là liên doanh giữa Công ty Dịch vụ tổng hợp Hoàng Việt và Công ty Planergo - Hồng Kông). Trong quá trình thanh tra, Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh đã phát hiện hàng loạt sai phạm tại khách sạn này như: không kê khai nộp thuế nhà thầu hơn 6 tỷ đồng, kê khai thiếu tiền thuế phải nộp hơn 8 tỷ đồng. Nhận thấy những sai phạm trên diễn ra trong thời gian dài liên tục, số tiền sai phạm lớn, có dấu hiệu của tội “Trốn thuế” nên Cục Thuế thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra xử lý. Ngày 23/3/2010, Viện KSND Tối cao đã tống đạt cáo trạng đến các bị can trong vụ án buôn bán hàng cấm, trốn thuế tại Cửa hàng miễn thuế cảng Sài Gòn. VKSNDTC đã truy tố bị can Nguyễn Thị Thúy Hạnh (Phó Chủ nhiệm Cửa hàng miễn thuế Cảng Sài Gòn), Phan Thuỵ Phượng Uyên (em họ Hạnh là nhân viên bán hàng Cửa hàng miễn thuế) và hai nhân viên hải quan cảng Sài Gòn là Hoàng Ngọc Sanh, Nguyễn Hồng Phấn về tội “Buôn bán hàng cấm” và “Trốn thuế”. Theo hồ sơ điều tra của Bộ Công an và cáo trạng
  • 37. 35 của Viện KSND Tối cao, Cửa hàng miễn thuế cảng Sài Gòn là đơn vị trực thuộc Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và dịch vụ cảng Sài Gòn - Tổng cục Hàng hải Việt Nam. Tuy chỉ là Phó chủ nhiệm nhưng Nguyễn Thị Thuý Hạnh là người quản lý, chỉ đạo trực tiếp mọi hoạt động tại đây. Theo quy định, cửa hàng được phép nhập khẩu hàng hoá miễn thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng để bán cho những đối tượng xuất nhập cảnh nhưng không được phép bán hàng vào thị trường trong nước nếu không được phép của Bộ Thương mại. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến 2004, Hạnh đã cung cấp cho các nhân viên hải quan, bộ đội biên phòng làm việc tại cảng Sài Gòn, sau đó chỉ đạo nhân viên hợp thức hoá bằng cách sửa chữa, ghi thêm lượng hàng bán sai quy định vào các hoá đơn bán hàng cho tàu biển và cho ra đời các hoá đơn bán khống. Ngoài ra, Hạnh còn chỉ đạo đồng bọn hợp pháp hoá việc buôn bán hàng cấm bằng cách lập khống các hoá đơn bán lẻ hàng cho khách nước ngoài. Hạnh đã cho nhân viên lập khống các hoá đơn bán hàng và giả chữ ký để lấy hàng tuồn ra ngoài tiêu thụ. Tổng cộng Hạnh và đồng bọn đã ghi thêm 2.558 hoá đơn với tổng số lượng hàng hoá trị giá trên 3,6 triệu USD, tuồn ra ngoài gần 131.000 bao thuốc lá, trên 227.000 chai rượu ngoại và trên 23.000 lon bia ngoại, trốn thuế trên 131 tỷ đồng. Vụ án Nguyễn Hưng Bình phạm tội trốn thuế. lợi dụng chính sách ân hạn thuế của Nhà nước, năm 2004 Mai Quý Cường đã rủ Nguyễn Văn Hưng đứng ra thành lập Công ty TNHH đầu tư và thương mại Hà Hưng. Sau đó, Mai Quý Cường thuê Ngô Thị Thuý làm dịch vụ thành lập Công ty Hoàng Loan, Công ty Hưng Thịnh với giá 5 triệu đồng một công ty. Sau khi có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của các Công ty trên, Mai Quý Cường và Nguyễn Thanh Hải đã móc nối với Vũ Hưng Bình, Giám đốc Công ty TNHH Phương Trinh ở TP.HCM, sử dụng tư cách pháp nhân của 3 công ty: Công ty Hà Hưng, Công ty Hoàng Loan, Công ty Hưng Thịnh để làm thủ tục nhập
  • 38. 36 khẩu 93 xe ôtô các loại đã qua sử dụng từ Hàn Quốc về Việt Nam, qua cửa khẩu Cảng Sài Gòn khu vực 3 TP.HCM và cửa khẩu Cảng Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, qua đó đã chiếm hưởng 13 tỷ đồng tiền thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng. Trong số tiền chiếm hưởng này, Mai Quý Cường được 4,3 tỷ đồng, Nguyễn Thanh Hải được 35 triệu đồng và Nguyễn Phát Đạt là người quan hệ với phía Hàn Quốc để mua 82 xe ôtô tải, làm các thủ tục để nhập khẩu xe ôtô; đã được Bình chia cho gần 600 triệu đồng. Còn Vũ Hưng Bình chiếm hưởng trên 8,1 tỷ đồng. Ngoài ra, Vũ Hưng Bình còn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội trong thời gian năm 1999-2000, lợi dụng danh nghĩa Công ty Hoàng Long ở Hà Nội để nhập khẩu hàng hoá rồi đưa vào TP. Hồ Chí Minh tiêu thụ trốn gần 140 triệu tiền thuế và Bình đã nộp 140 triệu đồng. VKSNDTC nhận định, các bị can Nguyễn Văn Hưng (Giám đốc Công ty Hà Hưng), Nguyễn Văn Liêm (Giám đốc Công ty Hoàng Loan), Vũ Thị Thanh Loan (Giám đốc Công ty Hưng Thịnh) không bàn bạc và thực hiện việc nhập khẩu 93 xe ôtô để trốn thuế. Bên cạnh đó, các chữ ký của Hưng, Liêm, Loan ở các bộ hồ sơ nhập khẩu xe ôtô là do Mai Quý Cường giả mạo và toàn bộ số tiền trốn thuế Hưng, Liêm, Loan không được ăn chia, hưởng lợi từ số tiền này cùng với các bị can trong vụ án. Do vậy, sau khi nghiên cứu hồ sơ và xét mức độ sai phạm của 3 bị can này, VKSNDTC đã quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối với Ngô Thị Thuý, Mai Lan Anh là những người có liên quan đến việc thành lập Công ty Hà Hưng, Hoàng Loan và Hưng Thịnh nhưng không liên quan đến việc ký hợp đồng ngoại thương, mở tờ khai hàng nhập khẩu, không biết Mai Quý Cường cùng các bị can trên nhập khẩu xe ôtô nhằm mục đích trốn thuế nên không có căn cứ để xem xét trách nhiệm hình sự.
  • 39. 37 Ngày 17/10/2008, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt Nguyễn Thị Phượng (47 tuổi), nguyên giám đốc công ty Trách nhiệm hữu hạn Thanh Tâm và công ty cổ phần Thanh Thanh Tâm mức án 3 năm, 4 tháng, 28 ngày tù về tội "trốn thuế". Theo cáo trạng, Phượng biết rõ việc chi trả tiền thưởng, hoa hồng và khuyến mại của các đơn vị Bưu chính viễn thông khi tiêu thụ số lượng lớn thẻ card điện thoại. Để đẩy nhanh tốc độ bán thẻ, trong quá trình quản lý hoạt động hai công ty của mình (chuyên phân phối thẻ Vinacard), bà giám đốc này đã cho thiết lập và duy trì mạng lưới đại lý thứ cấp để tiêu thụ một số lượng lớn thẻ ra thị trường nhưng không xuất đủ hoá đơn GTGT. Do vậy, nhằm hợp thức hoá việc bán lẻ thẻ Vinacard và nhận tiền thưởng, hoa hồng, khuyến mại trên, Phượng đã móc nối với một số người để mua bán hoá đơn GTGT. Ngoài ra, bà này còn dùng chính tư cách pháp nhân nơi bán hoá đơn để lập thủ tục mua bán giả. Tổng cộng, Phượng đã mua 144 hoá đơn của 24 doanh nghiệp để ghi xuất khống tiền hoa hồng cho hai công ty, làm sai lệch căn cứ tính thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp, trốn thuế hơn 15 tỷ đồng. 2.1.2. Những thủ đoạn trốn thuế hiện nay Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước, là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, doanh nghiệp và công dân. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng trốn thuế đang diễn ra phổ biến ở hầu hết các đối tượng nộp thuế với các mức độ khác nhau, đặc biệt là tình trạng trốn thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đây là lĩnh vực mà việc trốn thuế diễn ra rất nghiêm trọng và phổ biến với nhiều phương thức và thủ đoạn rất tinh vi, phức tạp, gây thiệt hại cho ngân sách Nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng. Việc trốn thuế xảy ra ở tất cả các con đường xuất nhập khẩu, từ đường bộ, đường biển, đường hàng không đến đường bưu điện, tại hầu hết các cửa khẩu quốc tế, quốc gia…
  • 40. 38 Qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhận thấy, tình hình trốn thuế xảy ra ở khắp mọi nơi, trên hầu hết các lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh doanh. Nổi bật trong thời gian gần đây là tội phạm trốn thuế liên quan đến hoàn thuế gia tăng. Loại tội phạm này diễn ra khá phổ biến ở cá tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Cần Thơ, Cà Mau, Bà Rịa – Vũng Tàu, Thừa Thiên Huế… Đây là loại tội phạm mới, hoạt động mang tính tổ chức cao, móc mối, câu kết với nhau thành tổ chức, đường dây chặt chẽ, liên quan đến nhiều cá nhân, doanh nghiệp ở các địa phương. Để thực hiện hành vi trốn thuế, các doanh nghiệp mua hoá đơn GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp. Tiếp tay cho các doanh nghiệp này trốn thuế là một số công ty “ma” lập ra để mua hoá đơn GTGT. Theo thống kê của Tổng cục Thuế, tính riêng trên địa bàn Hà Nội, năm 2006 đã có tới 453 doanh nghiệp bỏ trốn khỏi địa điểm đăng ký kinh doanh, mang theo 9.000 bộ hoá đơn. Con số này trong năm 2005 tương ứng là 499 doanh nghiệp và 4.600 bộ hoá đơn. Năm 2007 là 240 doanh nghiệp và 3.900 bộ hoá đơn. Gần đây, Công an thành phố Hà Nội và Phòng Thanh tra 1 – Cục thuế Hà Nội phát hiện và khởi tố vụ án 6 công ty TNHH thành lập ra để bán hoá đơn, thu hồi 595 triệu đồng tiền thu lợi bất chính. Ngoài thuế GTGT, các loại thuế thường bị thất thu khác là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, thuế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Để trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài thủ đoạn mua bán hoá đơn GTGT nhằm nâng cao phần chi phí trong sản xuất, các doanh nghiệp đã mua hoá đơn GTGT của các doanh nghiệp “ma”, nâng giá trị hàng hoá xấp xỉ với giá của giá thị trường, làm thủ tục bán hàng lòng vòng qua nhiều doanh nghiệp khác nhau để giấu đầu vào triệt tiêu lợi nhuận trong kinh doanh. Điều đáng nói là đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không thực hiện chế độ kế toán thống kê theo quy định của Nhà nước, thường lập 02 sổ
  • 41. 39 sách kế toán (một loại để tính thuế, một loại để thanh toán nội bộ) hoá đơn chứng từ chủ yếu là viết tay, thực chất nhằm trốn tránh doanh thu, thuế lợi tức. Ngoài ra, họ còn dùng một hoá đơn để quay vòng nhiều lần, khai thấp giá trị hàng hoá so với giá trị thực để trốn thuế. Các doanh nghiệp nhập khẩu thường khai báo sai về chủng loại mặt hàng nhập khẩu hoặc thông đồng với đối tác nước ngoài hạ giá trị thực tế của hợp đồng nhập khẩu để trốn thuế nhập khẩu, thuế GTGT (do thuế nhập khẩu được thu căn cứ trên hoá đơn của bên xuất khẩu) hoặc thay đổi con đường vận chuyển hàng hoá để được hưởng thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Một thực tế nổi cộm trong các hành vi trốn thuế hiện nay là trốn thuế trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Lợi dụng việc đầu tư ngân sách từ Trung ương cho đến các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng tại các tỉnh nghèo ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng các doanh nghiệp ở địa phương không đủ năng lực để được thầu, nhiều doanh nghiệp của các bộ, ngành, thành phố đã ung dung trốn thuế mà không cần thành lập doanh nghiệp “ma”. Thông thường, sau khi nhận công trình đó doanh nghiệp “đại gia” này sẽ ký hợp đồng bán thầu cho doanh nghiệp khác thi công (doanh nghiệp của chính địa phương đó), nhận tiền chênh lệch từ bán thầu, song không kê khai nộp thuế tại địa phương theo quy định. Chỉ riêng ở Đồng Tháp, có tới 57 lượt doanh nghiệp ở ngoài tỉnh vi phạm kiểu này. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng quản lý thuế đối với hoạt động xây dựng cơ bản là hết sức khó khăn và phức tạp vì đối tượng bao gồm cả các doanh nghiệp vãng lai, công trình thì lại nằm rải rác trên địa bàn rộng. Hơn thế nữa, nguồn cung cấp một số nguyên liệu đầu vào như đất, đá, cát, sỏi phần lớn từ các hộ dân tại địa phương; các đối tượng này lại không thực hiện đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế nên rất khó kiểm soát. Nghiên cứu các vụ trốn thuế lớn xảy ra trong các doanh nghiệp, thấy rằng hoạt động của bọn tội phạm thường có sự cấu kết, móc nối, quan hệ chặt
  • 42. 40 chẽ với các cơ quan thuế, quản lý thị trường… các doanh nghiệp trốn thuế thường giữ vai trò chủ động, dùng các lợi ích vật chất hoặc mọi cách khác nhau tấn công mua chuộc, làm tha hoá những cán bộ, công chức nhà nước, lôi kéo họ tham gia hoạt động phạm pháp. Cán bộ trong các cơ quan nhà nước có chức năng quản lý thị trường thường nắm vững những chính sách, quy định quản lý kinh tế, tài chính, những sơ hở, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn quản lý; họ giúp đỡ đắc lực cho các chủ doanh nghiệp lợi dụng để luồn lách trốn thuế. Thậm chí ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng còn có tình trạng cán bộ thuế tính toán hợp lý hoá tiền thuế phải nộp hàng tháng, hàng quý cho họ ở mức thấp nhất để sau đó cán bộ thuế cũng sẽ nhận một số tiền bồi dưỡng đáng kể. Gần đây, trong vụ án công ty Unimax Sài Gòn là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, đăng ký kinh doanh trong khu chế xuất Tân Thuận. Chức năng hoạt động của Công ty là nhập nguyên phụ liệu để sản xuất hàng may xuất khẩu đi thị trường EU và Nhật Bản. Công ty được hưởng ưu đãi miễn thuế hoàn toàn đối với hàng hoá xuất nhập khẩu (thuế suất bằng 0%), trong khi đó nếu ở người khu chế xuất thì thuế xuất nhập khẩu lên đến 60%. Lợi dụng sự ưu đãi này, nhân viên của công ty Unimax Sài Gòn đã móc nối với tư thương Thạch Lê Chân, một trùm buôn vải để tuồn hàng bán ra ngoài thị trường. Khi hàng nhập về đến cảng Sài Gòn, nhân viên công ty Unimax là Nguyễn Anh Tú mở từ khai nhập khẩu, làm thủ tục chuyển cửa khẩu từ cảng Sài Gòn về khu chế xuất, nhưng thực thế hàng được đưa thẳng cho Chân để tiêu thụ. Điều đặc biệt là các tờ khai nhập khẩu chuyển cửa khẩu của Công ty Unimax Sài Gòn mặc dù tuồn ra thị trường bán vẫn được công chức Hải quan ký xác nhận “hàng đã thực nhập vào khu chế xuất”? Hậu quả của các vụ trốn thuế là rất nghiêm trọng, gây thất thu cho Nhà nước mỗi năm hàng trăm tỷ đồng và khó có khả năng thu hồi. Vụ án điển hình là Công ty Đông Nam trốn thuế 135 tỷ đồng, trong đó 36,2 tỷ đồng thuế thu
  • 43. 41 nhập doanh nghiệp, 50 tỷ đồng thuê nhập khẩu, 49 tỷ đồng thuế giá trị gia tăng. Tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 23/3/2006, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã tống đạt cáo trạng truy tố các bị can Nguyễn Thị Thuý Hạnh (Phó chủ nhiệm Cửa hàng miễn thuế cảng Sài Gòn); Phạm thuỵ Phương Uyên (nhân viên bán hàng – Cửa hàng miễn thuế) và Hai nhân viên Hải quan Cảng Sài Gòn là Hoàng Ngọc Sanh, Nguyễn Hồng Phấn về tội “buôn bán hàng cấm” và “trốn thuế”. Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hạnh và đồng bọn đã ghi thêm 2.558 hoá đơn với tổng số lượng hàng hoá giá trị trên 3,6 triệu USD, tuồn ra ngoài gần 131.000 bao thuốc là, trên 227.000 chai rượu và trên 23.000 lon bia ngoại, trốn thuế trên 131 tỷ đồng. Thủ đoạn thành lập doanh nghiệp “ma” nhưng không sản xuất kinh doanh mà chỉ nhằm mua bán hoá đơn bất hợp pháp diễn ra khá phức tạp. Bên cạnh đó, nhiều công ty sử dụng những “chiêu” để qua mặt cơ quan thuế nhằm thu lợi bất chính. Thực trạng này gây không ít khó khăn cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện mục tiêu chống thất thu ngân sách Chiêu bài phải nhắc tới đầu tiên là hoạt động thành lập doanh nghiệp để mua bán, sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng (GTGT) bất hợp pháp. Loại tội phạm này thường thành lập doanh nghiệp với rất nhiều ngành nghề kinh doanh, thuê nhà với hợp đồng ngắn hạn làm trụ sở công ty để có điều kiện mua hoá đơn GTGT. Sau khi mua được hoá đơn các đối tượng đều bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, hám lợi bất chính, một số đối tượng thuê người lao động tự do hoặc không nghề nghiệp làm giám đốc công ty. Thậm chí thuê cả người nghiện ma tuý, từng có tiền án, tiền sự làm giám đốc. Những giám đốc “ma” này được hưởng lương hàng tháng và chịu sự điều hành của các đối tượng chủ mưu từ ký các tờ khống, khai thuế khống... hợp thức hồ sơ chứng từ.
  • 44. 42 Có trường hợp đối tượng khắc chữ ký của giám đốc doanh nghiệp và lợi dụng con dấu này để đóng vào các văn bản, chứng từ, hoá đơn liên quan nhằm qua mặt cơ quan quản lý. Một ví dụ điển hình cho chiêu bài này là vụ đối tượng Nguyễn Thị Bích Vân (trú tại 183 phố Bạch Mai) sử dụng con dấu, chữ ký của ông Doãn Văn Đức (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Đức Tiến) dù thời điểm thành lập công ty, ông Đức đã chết được 4 tháng. Táo tợn hơn, nhiều trường hợp còn thuê đối tượng xã hội đen gây sức ép doạ nạt cán bộ thuế. Có trường hợp tinh vi hơn khi thuê cả luật sư tư vấn làm thủ tục mua hoá đơn. Đơn cử trường hợp Công ty TNHH Xây dựng và thương mại HTT, do Hoàng Thị Thuý Hoà (trú tại 126 Vũ Trọng Phụng) đại diện. Khi không mua được hoá đơn, công ty này đã thuê Văn phòng Luật sư VIP ở 86 Tuệ Tĩnh trợ giúp pháp lý nhằm gây áp lực để Chi cục Thuế quận Hoàng Mai bán hoá đơn. Chỉ đến khi được cơ quan thuế giải thích, văn phòng luật này mới thống nhất không thực hiện hợp đồng với công ty “ma” nêu trên. Không những thế, có công ty còn ngang nhiên giả mạo công văn của cơ quan thuế. Trường hợp Công ty TNHH Đầu tư và Thương mại Tăng Ngân (đăng ký địa chỉ phường Định Công - Hoàng Mai) là ví dụ điển hình. Sau khi xác minh doanh nghiệp này có hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp, Chi cục Thuế Hoàng Mai đó thông báo đề nghị không chấp nhận hoá đơn do doanh nghiệp “ma” này phát hành. Tuy nhiên, tại huyện Đan Phượng, Công ty TNHH Thành Vinh và Công ty TNHH Ngân Giang đã sử dụng hoá đơn do Công ty Tăng Ngân phát hành với tổng giá trị lên tới hàng trăm triệu đồng và bị Chi cục Thuế xử lý sai phạm. Sau đó, Chi cục Thuế Đan Phượng lại nhận được Công văn với nội dung: “Chi cục Thuế Hoàng Mai xác nhận Công ty Tăng Ngân không có hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp”. Qua xác nhận của Chi
  • 45. 43 cục Thuế Hoàng Mai và xác minh của cơ quan công an thì chữ ký trong công văn là giả mạo. Với những thủ đoạn táo tợn nêu trên, không ít hoá đơn GTGT đó được bán cho nhiều đối tượng sử dụng làm chứng từ kê khai thuế. Nếu không phát hiện kịp thời, những hoá đơn này sẽ trở thành chứng từ “sạch”, giúp hợp thức hoá các khoản chi khống, phục vụ mục đích trốn thuế. Nghiêm trọng hơn, nó có thể trở thành chứng từ rút ruột ngân sách Nhà nước xin hoàn thuế GTGT với giá trị lớn. Thống kê của Cục Thuế thành phố Hà Nội cho thấy, ngành thuế Hà Nội đang quản lý 195.825 đối tượng nộp thuế; trong đó có 71.668 doanh nghiệp và 122.410 hộ kinh doanh. Một trong những mục tiêu chính của ngành Thuế Hà Nội trong năm 2009 là giám sát chặt chẽ nguồn thu nhằm hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách. Do đó, việc đối phó với những thủ đoạn của tội phạm trong lĩnh vực thuế là nhiệm vụ luôn được chú trọng. Theo kiến nghị của cơ quan thuế, để ngăn ngừa tình trạng thành lập doanh nghiệp để mua bán hoá đơn bất hợp pháp cần sửa đổi một số điều kiện thành lập doanh nghiệp. Có quy định và chế tài cụ thể về việc hậu kiểm tra sau khi doanh nghiệp được thành lập, nhằm đảm bảo các doanh nghiệp này hoạt động đúng pháp luật. Về lâu dài, cần đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt để hạn chế các hành vi gian lận trong lĩnh vực thuế đặc biệt là tình trạng sử dụng hoá đơn trái phép. Bên cạnh đó, khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký sử dụng hoá đơn tự in. Cũng như đẩy mạnh biện pháp tuyên truyền, tăng cường phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức năng trong việc ngăn chặn và đấu tranh với tội phạm buôn bán hoá đơn bất hợp pháp. Cũng cần có những biện pháp mạnh tay như tiến hành khởi tố điều tra và đưa ra xét xử điểm một số vụ vi phạm điển hình về hành vi mua bán hoá đơn bất hợp pháp để làm gương.
  • 46. 44 Thủ đoạn "Xoá" biển số hoặc rút xe vào rừng: Có rất nhiều cách để chủ nhân những chiếc ôtô trị giá bạc tỷ, thậm chí cả triệu đôla này đối phó với chính sách thuế của Nhà nước và hàng chục con đường vòng để những chiếc xe ôtô mang biển nước ngoài hợp thức hoá vào trong nước. Tại nhiều tụ điểm mà dân chơi ở Hà Nội hay tụ tập trước đây không đêm nào không có vài chiếc xế hộp cáu cạnh mang biển NN do người Việt lái, nhưng hiện nay những chiếc xe này dường như vắng bóng, ngay cả việc lưu thông trên đường cũng hiếm gặp. Theo Đội kiểm soát Hải quan khu vực phía Bắc, Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan thì có một thực tế là, sau khi tổ công tác liên ngành (gồm 3 ngành: Hải quan, CSGT, Cục Lễ tân Nhà nước) phối hợp triển khai các hoạt động điều tra, xác minh, làm rõ đối tượng sử dụng xe ôtô được miễn thuế nghi vấn sử dụng sai mục đích, thì hầu như tất cả những xe ôtô mang biển NN và NG (đã chuyển nhượng cho người Việt nhưng chưa nộp thuế) đều "bốc hơi" một cách đáng ngờ. Các thủ đoạn để chủ nhân hiện tại của những chiếc xe hơi này trốn thuế và đối phó với cơ quan chức năng: Thủ đoạn thường gặp nhất làm cho chiếc xe "biến mất" như cất giấu ở một nơi xa và không lưu thông trên đường nữa. Cách làm thứ 2 là tháo biển "xịn" và lắp biển số giả. Cách thứ ba là "nhân bản" biển số xe NG hay NN của bất kỳ một sứ quán nào (đang trong nhiệm kỳ công tác) để chạy ngoài đường. Thứ tư là làm thủ tục huỷ biển kiểm soát với cơ quan Công an rồi đặt mua chiếc biển số giả y chang biển số thật đã huỷ để chạy. Theo Quyết định 03/2007 liên ngành Bộ Công thương - Tài chính - Ngoại giao về "hướng dẫn việc tạm nhập khẩu, nhập khẩu hoặc mua miễn thuế tại Việt Nam; xuất khẩu, tái xuất khẩu, chuyển nhượng và tiêu huỷ những vật dụng cần thiết phục vụ cho nhu cầu công tác và sinh hoạt của cơ quan đại diện