SlideShare a Scribd company logo
1 of 96
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM THÚY HÒA
NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI
CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

PHẠM THÚY HÒA
NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI
CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành:
Mã số:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
60 31 01 02
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU
Hµ NéI -2013
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN
LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 10
1.1 Những vấn đềchungvề nguồnlực đấtđaicho pháttriển
làng nghề 10
1.2 Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 29
Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ
DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 48
2.1 Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực
đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội 48
2.2 Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho
phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội 59
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
PHỤ LỤC 82
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT
1. Cụm Công nghiệp làng nghề CCNLN
2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH
3. Cụm công nghiệp CCN
4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN
5. Chủ nghĩa xã hội CNXH
6. Giải phóng mặt bằng GPMB
7. Hội đồng nhân dân HĐND
8. Kinh tế - xã hội KT-XH
9. Làng nghề truyền thống LNTT
10. Trọng điểm Bắc Bộ TĐBB
11. Ủy ban nhân dân UBND
12. Xóa đóigiảm nghèo XĐGN
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế
nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản
lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả.
Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích
3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu
đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước
với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị
kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện
có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế
giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày
càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự
phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên
nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình
thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình
phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời
sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc.
4
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng
nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế,
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang
tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản
xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi
mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản
phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo
nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản
phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao
thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm
nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát
triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững.
Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó
có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử
dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà
nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất,
định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng
đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát
huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề.
Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính
năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to
lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói
riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên
ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận
lẫn thực tiễn.
5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan
tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức.
Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo
chuyên đề có các công trình:
Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư,
Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi
mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô
Hà Nội.
Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong
quá trình pháttriển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến
sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn
đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển
các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát triển
các khu công nghiệp tập trung.
Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và
sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề
của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư,
Tiến sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề
6
xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý
có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất
nước và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình:
Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng
nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011
"Pháttriển bền vững làng nghềtruyền thống vùngkinh tế trọng điểm Bắc Bộ".
Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển
làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng
nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát
triển bền vững các làng nghề.
Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010,
“Khaithácvà sử dụng nguồnlực tài chính từ đấtđai để pháttriển kinh tế - xã
hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng
nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành
phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng
đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố
giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối
quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định,
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất
đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ
7
vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa
bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều
chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời
sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn
lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một
số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên
cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý
nhà nước về đất đai.
Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác
giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết
số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành
chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa
chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà
Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không
trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực
đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề
xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển
làng nghề.
Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội.
8
Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất
đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành
phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ:
- Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất
tại các làng nghề;
- Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo
nguồn vốn cho phát triển làng nghề.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại
thành của Thành phố Hà Nội.
Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị
học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch
sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
9
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các
cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy
hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành
phố Hà Nội.
- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường
cao đẳng, đại học.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2
chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1.Nhữngvấnđề chung về nguồnlực đấtđaichopháttriểnlàngnghề
1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế -
xã hội ở Thủ đô Hà Nội
* Làng nghề:
Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái
niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau:
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn,
phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các
hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau.
Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu
30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn;
hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.
* Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng
nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống
theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt
tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định
nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được côngnhận theo quy định của Thông
tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống.
Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt
được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành
trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền
thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng
11
chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử
dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành
nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các
quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6)
Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của
làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường
theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề
truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường.
* Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những
điều kiện nhất định để hình thành và phát triển.
* Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản
phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay
hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1)
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công
nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3)
Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề.
* Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của
nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều
kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên.
Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277
làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành
phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,
12
Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20
làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6
làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng,
Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng.
Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới
30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm
15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản
23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài -
khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6
làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng;
nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng.
Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83
làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11
làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý
(Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2].
Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu
lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và
dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là:
Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ.
Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ
Liêm, Sóc Sơn, ThanhTrì, ĐôngAnh, Mê Linh, thị xã SơnTây từ 500 - 700 hộ.
* Vai tròcủa làngnghềtrongpháttriểnkinhtế - xã hội Thủ đô Hà Nội
Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động.
Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần
kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất
phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc
13
làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao
động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài
ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ
Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc,
khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên
Trung (Đan Phượng)...
Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu,
chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động,
lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần
giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó
đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn.
Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh
trật tự ở nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và
khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở
các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24
triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và
gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải
thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của
các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000
đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm
2010 [37, tr. 42].
Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố.
Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép
về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc
14
làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện
dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội.
Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do
từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại
thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu
hút lao độngcác địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa
phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho
sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty
TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao,
lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công
nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng
cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở
làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở
cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh
thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề
của địa phương.
Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với
lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản
phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha
ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như:
Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan
cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội
15
ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ
vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ
công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của
Việt Nam đối với bạn bè thế giới.
Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch
vụ du lịch.
Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối
lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc.
Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích
đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên
104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình
quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5].
Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề
truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để
khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng
thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề,
đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát
triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các
làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm
16
chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần
lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm
buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị
trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá.
Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển
các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã
hội và quốc phòng, an ninh.
1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa
bàn Thành phố Hà Nội
* Lý luận chung về địa tô.
Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông
nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ
nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và
những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến,
địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến
chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ
nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn
tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng
dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao
động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ
nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông
nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các
loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền.
Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông
phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất
17
cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động
được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện
thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng
dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu
chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân
nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình
thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của
công nhân nông nghiệp tạo gia
Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi
nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô
chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô
chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa
tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích.
Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất
hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả nông
sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá trị của
chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà chính địa
tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối với xã hội
là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu ruộng đất
bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ xuống có lợi
cho xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất
nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ
còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên
bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng
18
những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô
đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình
thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu
mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên
nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư
bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.
Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều
kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc
quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây
cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có
giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả
độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai.
Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá,
đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi
nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa
của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh
lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng
những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là
những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu
ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về
quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".
Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không
còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình
thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại
địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với
địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.
19
Ở Việt Nam, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc
biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, không gì thay thế được, và là tài nguyên
quý giá của quốc gia. Nhà nước chuyển quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
nông dân, và người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất; cho người nước
ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại
giao; cho phép các tổ chức, cá nhân người Việt Nam tham gia xí nghiệp liên
doanh với người nước ngoài được góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử dụng.
Tuy hình thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng ruộng đất vẫn là một tư liệu
sản xuất có giá trị và người sử dụng vẫn phải trả giá như là một loại địa tô.
* Khái niệm về nguồn lực đất đai.
Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự
phát triển của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà
con người có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Tùy
theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu rất khác nhau
của con người. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm
chí, đối với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng
phát huy tác dụng không giống nhau.
Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân loại theo ngành, theo lĩnh vực.
Theo nhận thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con
người, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công
nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao động, đất đai, tri thức.
Trong hệ thống các nguồn lực cho sự phát triển của xã hội loài người
kể trên, nguồn lực đất đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn ngày
càng quan trọng hơn đối với một quốc gia có trình độ phát triển thấp, đặc biệt
đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông nghiệp. Đất đai là một tư
liệu sản xuất đặc biệt không chỉ đơn thuần là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho
20
hoạt động sản xuất mà trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi
sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn được coi
là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho
sản xuất.
Theo đó, có thể hiểu: Nguồn lực đấtđai cho pháttriển các làng nghềlà
yếu tố tự nhiên có ích với vai trò là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính - vốn
không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ được huy
động, sử dụng cho phát triển các làng nghề phù hợp với quy định của pháp
luật và giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan.
Như vậy, nội dung nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề được
hiểu với tư cách là tư liệu sản xuất như dùng để xây dựng nhà xưởng, tạo mặt
bằng cho sản xuất, nhà kho, sân phơi...; đồng thời, đó còn là nguồn lực tài
chính, nguồn vốn nếu đất đai được chuyển đổi theo cơ chế thị trường và phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
* Vai trò của nguồn lực đất đai trong phát triển làng nghề
Thứ nhất, nguồn lực đất đai với vai trò là tư liệu sản xuất.
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện
tồn tại và phát triển của con người và các loài sinh vật khác trên trái đất. Các
Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để
sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ
bản của sản xuất vật chất” [20, tr.7].
Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai
ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận
của con người, con người dựa vào đó để tạo nên của cải vật chất nuôi sống
mình. Đất đai luôn là thành phần quan trọng của môi trường sống. Không có
đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao
động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.
21
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và
đời sống con người, đất đai chiếm vị trí đặc biệt, là điều kiện đầu tiên và nền
tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Các Mác cho rằng, đất đai là phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung
cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể.
Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đai đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã
khẳng định "Lao động không phải nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và
giá trị tiêu thụ - như William Petty đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải
vật chất, còn đất là mẹ". Chúng ta đều biết rằng không có đất đai thì không
thể có sản xuất, cũng như không tồn tại con người. Đất đai là sản phẩm tự
nhiên, xuất hiện trước con người. Đất đai tồn tại như một vật thể lịch sử - tự
nhiên không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội [22, tr.164].
Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và
hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện lao
động, tuy nhiên đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, nó khác với các tư liệu
sản xuất khác ở những đặc điểm sau:
- Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện ngoài ý chí và nhận thức của
con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên
của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác
động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó các tư
liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người.
- Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất
bị giới hạn bởi ranh giới đất liền. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số
lượng, chế tạo lại tùy theo nhu cầu của xã hội.
- Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, giá trị
và mục đích sử dụng. Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất
lượng, quy cách, tiêu chuẩn.
22
- Tính không thay thế: Thay thế đất đai bằng từ liệu sản xuất khác là
không thể thực hiện được. Các tư liệu sản xuất tùy thuộc vào mức độ phát
triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác
hoàn thiện hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong quá trình sử
dụng, không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các tư liệu sản xuất
khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách
khác nhau tùy theo sự cần thiết.
- Tính vĩnh cửu: Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu, nếu biết sử dụng
hợp lý thì có thể làm tăng tính chất sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất.
Khả năng tăng tính sản xuất của đất tùy thuộc vào phương thức sử dụng là
tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu
sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng là bị
loại khỏi quá trình sản xuất.
Như vậy có thể nói "đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng.
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một
tư liệu sản xuất đặc biệt" [20, tr.12].
Muốn xây dựng nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất
đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng nhà xưởng để máy móc, thiết bị, kho
tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường sá đi lại trong nội bộ,... tất cả những cái đó
là điều cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng
hay địa phương của một loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được
tính cho toàn bộ hay cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các
loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương
thường là cố định và việc tăng thêm thường rất hạn chế. Quỹ đất theo đầu
người thường có xu hướng giảm bớt, vì đất đai không được sản sinh ra thêm
23
trong khi dân số lại tăng lên. Quỹ đất đai của quốc gia là một nguồn lực tự
nhiên cần được bảo vệ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Quỹ đất
đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất
với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất
cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh
thổ. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất do những nhu cầu sử dụng đất
khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hòa và
bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Khi những nhu cầu về xây dựng cơ
sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có
thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông
nghiệp để tăng quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ
đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế
phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng
vào sản xuất.
Thứ hai, nguồn lực đất đai với vai trò là nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ trong
quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế
xã hội trong quan hệ phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng
của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính là phạm trù của
quan hệ phân phối, đó là sự phân phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện
vật và thông qua hiện vật [33, tr.21].
Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc
hình thành mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ tập trung.
Thông qua các nguồn lực tài chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ
thống các quỹ tiền tệ tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay
phương tiện thanh toán. Nguồn lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.
24
Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn lực tài chính hay các quỹ
tiền tệ vận động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều
nguồn lực khác nhau trong đó có nguồn lực từ đất đai.
Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ
nguồn lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội
nhất định và chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó.
Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể
trong xã hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân
phối giá trị cho nên quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa.
Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các
nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao hay kinh tế
thị trường. Vì kinh tế thị trường mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở
thành hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị,
mặc dù có thể chúng không phải do lao động làm ra.
Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được
hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ đất
đai được thị trường hóa. Tức là chúng có thể được mua bán và trao đổi trên
thị trường.
Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao
động trừu tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên,
chúng lại có thể là phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu
chúng. Với tư cách là phương tiện để thực hiện lợi ích thì chúng có vai trò
trong việc hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình
thành các nguồn lực tài chính. Đất đai là một trong những yếu tố có đặc trưng
như vậy.
Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu
thông thường chúng không có giá trị. Tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang
25
tư cách là điều kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho
xã hội. Đất đai không phải là nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều
kiện tạo ra của cải. Khi khoác áo là điều kiện cho quá trình tạo ra của cải thì
người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng. Miễn là phải làm thế nào để
sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể đem đất đai
ra để trao đổi như những yếu tố sản xuất khác. Thông qua sự trao đổi đó, chủ
thể thực hiện được lợi ích của họ. Hay nói một cách khác, đất đai là điều kiện
để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập dưới dạng hình thái
tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đó là những
nguồn lực tài chính từ đất đai.
Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối
giá trị để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua đất đai.
Với tư cách là một loại nguồn lực tài chính, nguồn lực tài chính từ đất
đai có tính chất đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ở chỗ, nó phản ánh quan hệ
phân phối và sử dụng nguồn tài chính song quá trình phân phối và sử dụng
nguồn tài chính đó lại gắn liền với quyền sở hữu đất.
Đó là quan hệ phát sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích từ
quyền sở hữu đất. Mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như C.Mác
đã phân tích là thông qua các hình thức địa tô. Nhưng với tư cách là hình thái
biểu hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền,
không phải là tô hiện vật hay tô lao dịch.
Vì phản ánh quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch
sử. Nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ
đất đai sẽ do quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế
độ xã hội với kiến trúc thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc
trưng của xã hội đó.
Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do
dân đứng ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình
26
thành và thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách
thức sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai. Trái
lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì mục đích sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số đông mà là chỉ là một
bộ phận trong xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài
chính từ đất đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta.
Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và các quyền năng phát
sinh từ quyền sở hữu đó.
Tuỳ thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng
thành viên hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả
các thành viên trong cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai hình thức sở
hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản, đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu
Nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân.
Về mặt hình thức biểu hiện trên thực tế, nguồn lực tài chính từ đất đai
được hình thành thông qua các khoản thu tài chính liên quan đến đất của chủ
sở hữu đất đai với các chủ thể sử dụng đất. Có nhiều hình thức thu và huy
động nguồn lực tài chính từ đất đai, về cơ bản gồm các nguồn thu như: Thu
từ giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thu
từ các khoản thuế liên quan đến đất, có thể có hình thức đổiquyền sử dụng đất
lấy cơ sở hạ tầng.
Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ
đất đai có những đặc điểm riêng.
Mộtlà, nguồnlực tài chínhtừđấtđailuôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai.
Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ
thì trước hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là
tiền đề phái sinh ra các quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện
27
được lợi ích của mình. Quyền sở hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi
ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai.
Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ
thể sở hữu mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình. Tất nhiên, quan hệ sở
hữu đó phải được thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai.
Phương tiện thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái
địa tô. Trong chủ nghĩa tư bản, địa tô phản ánh chế độ sở hữu tư nhân về đất
đai của phương thức sản xuất đó.
Hai là, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện
trong cơ chế kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế tự cung, tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn
thấp, nên phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó
các quan hệ giá trị chưa trở thành phổ biến. Việc trao đổi giữa các thành viên
trong xã hội chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu giá trị sử dụng. Hình thức thực hiện
lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là
giá trị. Trong khi nguồn lực tài chính từ đất đai lại biểu hiện dưới hình thái
của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ. Hơn thế, nguồn lực đó phải không ngừng
vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện thanh
toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà
trong đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có
phải do hao phí lao động làm ra hay không. Cơ chế kinh tế thị trường đáp ứng
được yêu cầu đó.
Để có thể khai thác tốt nguồn lực tài chínhtừ đất đai, ngoài những nỗ lực
chủ quan của Thành phố còn có ảnh hưởng rất quan trọng của các nhân tố
khách quan. Những nhân tố khách quan đó là:
- Quy mô đất đai;
- Đặc điểm và cấu tạo tự nhiên, thổ nhưỡng, môi trường đất đai;
28
- Vị trí không gian địa lý của từng khu vực trên địa bàn Thành phố;
- Trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung.
Ngoài những nhân tố khách quan nói trên, việc khai thác và sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội còn chịu tác
động của nhân tố chính trị, xã hội. Trước hết, phải kể tới chủ trương, chính
sách của Thành phố về vấn đề này. Thứ nữa là nhân tố con người tham gia bộ
máy thực hiện huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát
triển kinh tế - xã hội.
Về mặt chủ trương, chính sách, tác động của nhân tố này đến việc
khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thể hiện ở khả năng tạo
điều kiện hay kìm chế tính hiệu quả của việc khai thác cũng như sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai để phục vụ sự phát triển của Thủ đô. Khi chính
sách phù hợp với tình hình thực tế, tức là các chính sách thể hiện được sự vận
động của cuộc sống, thuận theo quy luật vận động của nền kinh tế thì đó
chính là cơ chế tốt cho việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Hơn nữa,
các chính sách thể hiện sự vận dụng một cách sáng tạo chính sách về đất đai
của Nhà nước nói chung thì cũng là nhân tố tích cực giúp cho khả năng khai
thác nguồn lực tài chính từ đất đai hiệu quả hơn.
Chủ trương, chính sách sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cũng có
tác động quan trọng đến việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho sự
phát triển của Hà Nội. Các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính đảm bảo
tính chặt chẽ và minh bạch là nền tảng cho việc thực hiện chính sách trong
thực tế được hiệu quả. Khi các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính thu
được thông qua đất đai không linh hoạt, kém chặt chẽ, thiếu minh bạch tất sẽ
tạo ra nhiều kẽ hở để gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nghĩa là, việc sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ không hiệu quả.
29
Nếu như chính sách là cơ sở pháp lý để thực hiện việc khai thác và sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thì tính hiệu quả của chính sách lại đòi hỏi
phải được thực hiện thông qua bộ máy hoạt động của các cơ quan chức năng
liên quan. Nghĩa là liên quan đến đội ngũ nhân sự thực hiện huy động và sử
dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố. Với ý nghĩa đó,
con người tham gia vào quá trình này có ý nghĩa quyết định đến việc huy
động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Hà Nội có đạt
hiệu quả cao hay không. Chính vì vậy, nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến việc
khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thủ đô phải
tính tới không chỉ chủ trương, chính sách của Thành phố mà còn phải quan
tâm đến nhân tố con người.
1.2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội
1.2.1. Một số đặc điểm tác động đến khả năng khai thác, sử dụng
nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội
* Đặc điểm tự nhiên
Thứ nhất, vị trí địa lý và tự nhiên đẹp là điều kiện thuận lợi để Hà Nội
huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề.
Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong
khoảng từ 20o34' đến 21o23' vĩ độ Bắc; 105o17' đến 106o02' kinh độ Đông.
Diện tích tự nhiên 3.300 km2. Tiếp giáp với 8 tỉnh: Phía Bắc giáp tỉnh Thái
Nguyên; phía Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh
và Hưng Yên; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam; phía Tây Nam giáp tỉnh Hòa
Bình; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc.
Hiện nay Hà Nội được tổ chức thành 10 quận, 18 huyện và 1 thị xã:
- 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ,
Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và Hà Đông.
30
- 1 thị xã: Sơn Tây.
- 18 huyện gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm,
Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ,
Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa và Mê Linh.
Dân tộc: (Kinh) chiếm 99,1%; các dân tộc khác: Chiếm 0,9%.
Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước ta có vị trí địa lý, kinh tế, chính
trị quan trọng và có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác. Hà Nội nằm ở
phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ
trù phú và nổi tiếng từ lâu đời. Vị trí địa lý quan trọng và địa thế tự nhiên đẹp
đã tạo thuận lợi cho Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoa học và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước.
Thứ hai, các làng nghề về cơ bản gắn liền với nông thôn, nông nghiệp,
quỹ đất sau khi Hà Tây được sát nhập vào Thành phố có sự cải thiện đáng kể
là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn lực này cho phát triển làng nghề.
Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng diện tích đất tự nhiên của
Hà Nội là 334.852,5 ha, trong đó: Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản là
192.720,7 ha, chiếm 57,6%; đất phi nông nghiệp là 131.300,5 ha, chiếm
39,2%; đất chưa sử dụng là 10.831,3 ha, chiếm 3,2%.
Thứ ba, quỹ đất tuy có được cải thiện nhưng Hà Nội vẫn là địa phương
đất chật, người đông cùng với quá trình đô thị hóa với tốc độ nhanh đang gây
khó khăn lớn cho khai thác, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.
Với dân số đến hết năm 2012 là gần 7 triệu người, Thành phố Hà Nội là
địa phương có mật độ dân số cao, bình quân 2.013 người/km2, cao gấp 1,7 lần
bình quân khu vực đồng bằng sông Hồng (1.300 người/km2) và gấp 8 lần bình
quân chung của cả nước (259 người/km2). Với tình trạng đất chật, người đông
như vậy cùng với xu hướng đô thị hóa và tình trạng di dân tự do từ các vùng
nông thôn ra đô thị vẫn đang tiếp diễn mạnh mẽ sẽ là khó khăn rất lớn cho
31
việc khai thác, sử dụng quĩ đất cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà
Nội hiện nay và những năm tiếp theo.
* Đặc điểm kinh tế - xã hội
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh tạo
điều kiện thuận lợi cho đầu tư, nâng cao giá trị sử dụng đất cho phát triển kinh
tế - xã hội nói chung và các làng nghề nói riêng.
Năm 2010, GDP Hà Nội là 73.478 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
giai đoạn 2006 - 2010 của Hà Nội là 10,73%/năm. Nếu xét theo thứ tự về quy
mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai sau
Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu
người của Hà Nội đạt 15,6 triệu đồng; đến năm 2010, GDP bình quân đầu
người của Hà Nội đạt khoảng 37,3 triệu đồng [37, tr.52].
Chuyểndịchcơ cấukinh tế củaThànhphố khánhanh theo hướngdịch vụ -
côngnghiệp, xâydựng- nông, lâm, thủy sản. Năm 2005, tỷ trọng cơ cấu kinh tế
của Thành phố đạt tương ứng như sau: 51,5% - 39,4% và 9,1%. Năm 2010, sự
chuyển dịch tương ứng như sau: 50,6% - 43,1% và 6,2% [37, tr.54]. Hà Nội là
một trong số ít địa phương có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Hà Nội có tiềm năng lớn trong việc
đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao giá trị sử dụng đất, khả năng khai thác quỹ đất
cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng.
Thành phố Hà Nội có kết cấu hạ tầng kỹ thuật được quy hoạch, đầu tư
xây dựng khá đồng bộ bao gồm hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy và
đường không,... thuận lợi cho phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp, giá trị sử dụng đất được nâng cao.
Tốc độ đô thị hoá của thành phố Hà Nội đạt khá cao trong giai đoạn
2001 - 2005 là 5,6%/năm và giảm xuống còn 2,96%/năm giai đoạn 2006-2009,
đưa tỷ lệ đô thị hóa của Hà Nội từ 33,2% năm 2000 lên 39,6% năm 2005 và đạt
32
40,8% năm 2009 [37, tr.55]. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng khai
thác quỹ đất cho phát triển làng nghề, đòihỏi việc sửdụng quỹ đất phải hết sức
tiết kiệm và hiệu quả.
Thứ hai, Hà Nội có địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng vừa là thuận lợi
vừa là khó khăn cho việc huy động, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề.
Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước nên có sức hút di dân
cơ học đến rất cao, do vậy giá đất của thành phố Hà Nội rất cao so với các địa
phương lân cận. Đây là nhân tố có tác động hai mặt đến khả năng khai thác,
quản lý và sử dụng đất đai. Mặt tích cực là làm tăng nguồn tài chính trên một
đơn vị diện tích đất đai đưa vào khai thác; mặt khác gây khó khăn cho công
tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, khó khăn trong công tác quản lý nhà
nước về đất đai, tình trạng mất ổn định xã hội do tranh chấp, khiếu nại tố cáo
liên quan đến đất đai.
Thứ ba, Hà Nội là đất trăm nghề với tốc độ phát triển nhanh vừa là điều
kiện thuận lợi vừa là áp lực lớn đáp ứng nhu cầu đất cho phát triển làng nghề.
Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, các ngành nghề đã thu hút từ
30% đến 70% số hộ và từ 50 % đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề
với trên 300.000 lao động thường xuyên, chưa kể số lao động thu hút từ các
địa phương khác. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Theo đó, cơ cấu lao động ở
nông thônngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm côngnghiệp và dịch vụ. Quy
mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất côngnghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Các huyện có nhiều hộ
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài
Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công
mỹ nghệ của các làng nghề ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên
104 triệu USD năm 2010; tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến
33
2,8%/năm. Tình hình trên vừa là điều kiện thuận lợi vừa gây áp lực lớn về bảo
đảm quỹ đất cho phát triển các làng nghề.
1.2.2. Ưu điểm huyđộng và sử dụng nguồn lựcđất đai cho phát triển
các làng nghề
* Ưu điểm trong khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo
dựng mặt bằng sản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề
Thứ nhất, diện tích đất ở được khai thác và sử dụng khá triệt để cho xây
dựng mặt bằng sản xuất, nhà kho… phục vụ phát triển làng nghề.
Do đặc trưng sản xuất tại các làng nghề theo hộ gia đình và quỹ đất ở
các làng nghề còn hạn chế nên diện tích đất ở của gia đình kết hợp sử dụng
làm nơi sản xuất đã được khai thác sử dụng tối đa. Nhu cầu mặt bằng cho sản
xuất ngày càng lớn, nên các hộ đã thu hẹp không gian sống để dành mặt bằng
cho sản xuất như: tại các làng nghề dệt may Tân Triều (Thanh Trì), Cổ Nhuế
(Từ Liêm), dệt kim La Phù (Hoài Đức), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông)... nhiều
nhà ống cao tầng vừa là cơ sở sản xuất, vừa là nhà kho, hầu như không có
khoảng trống nào trong gia đình mà không được tận dụng để sản xuất. Với
cách khai thác, sử dụng triệt để diện tích đất ở làm mặt bằng sản xuất đã góp
phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh
của sản phẩm do các làng nghề Hà Nội sản xuất. Đó vừa là ưu điểm vừa là
đặc điểm nổi bật tạo nên nét văn hóa riêng và cũng là cơ sở để phát triển loại
hình du lịch làng nghề Hà Nội.
Thứ hai, Hà Nội đã tích cực, chủ động xây dựng quy hoạch dành quỹ
đất cho xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề.
Với mục tiêu nhằm tạo dựng quỹ đất có đủ điều kiện cơ bản về hạ tầng
kỹ thuật, mở rộng mặt bằng sản xuất ở các làng nghề góp phần phát triển
nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 2001, Thành
phố Hà Nội đã tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề trên địa
bàn và triển khai thực hiện.
34
Theo quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn
Thành phố Hà Nội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, Thành phố quy
hoạch phát triển 176 cụm công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.295 ha,
bình quân 7,4 ha/cụm công nghiệp [37, tr.91].
Các cụmcôngnghiệp làng nghề phânbố tạihầu hết các làng nghề, làng có
nghề trên địa bànThànhphố. Sốlượng, diệntíchquyhoạchcáccụmcông nghiệp
làng nghề cơ bản đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các làng nghề.
Như vậy Hà Nộiđãchủ động, tíchcực quy hoạch trước cả khi Chính phủ
banhành Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 về Quy chế quản lý
cụmcôngnghiệp, loạihìnhcụmcôngnghiệp làng nghề là giải pháp vận dụng mô
hìnhcác khucôngnghiệp nhỏ trong việc tạo dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quỹ
đấtđểpháttriển sảnxuất côngnghiệp, tiểu thủ côngnghiệp tạicác làng nghề, làng
có nghề phù hợp với tình hình phát triển thực tiễn tại từng địa phương.
Saukhi ChínhphủbanhànhQuychếquảnlý cụmcôngnghiệp, Thànhphố
Hà Nộiđãbanhành Quyếtđịnh số 44/2010/QĐ-UBNDngày 10/9/2010 để thống
nhất quychếquảnlý cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố thay thế các quy
định trước đây. Đâylàcơ sở pháp lýquantrọngcho việc đầutư pháttriển các cụm
côngnghiệp làng nghề, tạo dựngquỹđấtđểmở rộngsảnxuất cho các hộ sản xuất
tại làng nghề;didờicác cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây ô
nhiễm môi trường ra khỏi các khu dân cư; từng bước xây dựng, phát triển làng
nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại.
Thứ ba, tích cực, chủ động ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào
phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là điều kiện đểsửdụng có hiệu đất đai.
Bên cạnh các chính sách về xây dựng, quản lý hoạt động các cụm công
nghiệp làng nghề, Thànhphố đãbanhànhmộtsố chínhsáchkhuyếnkhích đầu tư
pháttriển các cụmcông nghiệp làng nghề như chính sách đấu thầu thực hiện dự
án, chínhsáchhỗ trợ đầutưhạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, kinh phí giải phóng
35
mặt bằngcác cụmcôngnghiệp;chínhsáchgiao đấtdịchvụcho các hộ dân bị thu
hồiđất, ưutiên sửdụnglao độngđịaphương,... Các chính sách trên có tác động
thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển các cụm công nghiệp làng nghề cũng như
phát triển kinh tế - xã hội chung của các làng nghề.
Đến nay đã có 41 cụm công nghiệp làng nghề đã và đang xây dựng với
tổng diện tích 443 ha. Trong đó, huyện Thạch Thất 6 cụm với diện tích 66 ha;
Hoài Đức 7 cụm, diện tích 74 ha; Chương Mỹ 3 cụm, diện tích 21 ha.... Số dự
án của các doanh nghiệp, hộ sản xuất được cấp giấy phép tại các cụm công
nghiệp làng nghề là 5.870 dự án, bình quân 800m2/dự án. Số dự án của các
doanh nghiệp đã đi vào hoạt động 2000 dự án [29, tr.10].
Thứ tư, sử dụng quỹ đất cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật làng nghề có sự
chuyển biến tích cực.
Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân và giải phóng mặt
bằng nên hệ thống quỹ đất dành cho giao thông nông thôn nói chung và giao
thông để phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làng nghề
phát triển nhanh. Đường giao thông nông thôn từ Thành phố đến trung tâm
các xã và các làng nghề truyền thống đã được nâng cấp cải tạo. Theo số liệu
của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, tổng chiều dài đường giao thông nông thôn
ngoại thành là 9.845,16 km, trong đó có 6.101,71 km đường liên thôn, liên xã
được rải nhựa, bê tông hoá chiếm 62%; một số huyện đường giao thông nông
thôn được bê tông hoá cao chiếm 90% là Đan Phượng, Sóc Sơn, Thường Tín,
Từ Liêm... Giao thông nông thôn phát triển đã tạo thuận lợi cho việc vận
chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cho
sản xuất kinh doanh và khách du lịch đến tham quan các làng nghề.
100% các thôn và 100% số hộ đã có điện từ điện lưới quốc gia. 70% -
75% dân số đã được dùng nước sạch trong sinh hoạt với 18 nhà máy nước và
hàng chục nghìn giếng khoan, đó cũng là kết quả của việc tích cực trong khai
thác, sử dụng quỹ đất cho phát triển làng nghề.
36
* Ưu điểm trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai
cho phát triển làng nghề Hà Nội
Xuất phát từ thực tế của Hà Nội và những hình thức khai thác nguồn
lực tài chính từ đất đai có thể vận dụng trên địa bàn Thủ đô, những năm gần
đây, đặc biệt là kể từ khi có Luật sửa đổi Luật Đất đai được ban hành, Thành
phố Hà Nội đã huy động những nguồn lực tài chính đáng kể từ đất đai nhằm
góp phần vào nguồn ngân sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các làng
nghề của Thành phố.
Thứ nhất, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai thông
qua hình thức thu tiền sử dụng đất.
Từ những quy định hiện hành của Nhà nước cũng như của Thành phố
Hà Nội về khai thác nguồn tài chính từ đất đai thông qua thu tiền sử dụng đất,
thực tiễn vận hành những quy định đó tại các làng nghề đã đem lại nguồn thu
đáng kể cho ngân sách. Tạo lập cơ sở cho cân đối ngân sách phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề.
Kết quả tiền sử dụng đất thu được tăng dần qua các năm. Nếu như năm
2005 mới chỉ đạt 762 tỷ, năm 2008 tăng lên 2.236 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt
5.243 tỷ đồng; năm 2013 kế hoạch thu 10.670 tỷ đồng, kết quả thu 8 tháng
đầu năm đạt 5.553 tỷ, bằng 53% kế hoạch năm.
Mức tăng trên có nguyên nhân phần lớn là do sự điều chỉnh địa giới
hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 làm cho quỹ đất khai thác, sử dụng
với tư cách là nguồn lực tài chính được dồi dào hơn nhưng cũng thể hiện sự
khai thác hiệu quả nguồn lực này cho phát triển của các làng nghề. Kết quả
nguồn thu tăng là do Thành phố đã vận dụng một cách sáng tạo những quy
định chung của Nhà nước về thu tiền sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội. Các
chính sách đã được tổ chức thực hiện hiệu quả với sự tham gia phối hợp của
các cơ quan chức năng theo ngành dọc và liên ngành. Từ đó, làm cho hiệu quả
37
thu tiền sử dụng đất tốt hơn, tăng lượng tiền đóng góp vào ngânsách;làcơ sở có
vai trò rất quan trọng cho việc huy động nguồn lực tàichính này cho phát triển các làng
nghề củaThànhphố.
Như trên đã phân tích, số thu tiền sử dụng đất tăngnhanhtrongcác nămtừ2005
đến 2010 còn do từsựgiatăngnguồnthutừbánđấugiáquyềnsửdụngđấtvàdo sựđiều
chỉnh địa giới hành chính làm tăng diện tích đất tư nhiên của Thành phố lên nhiều lần.
Mục đíchđấugiáquyềnsửdụngđấtlànhằmsửdụnghợp lýhơnnguồntàinguyênđấtđai
tại các làng nghề của Thành phố. Hiện nay, quỹ đất chưa sử dụng hoặc không sử dụng
đúng mục đích còn nhiều song vẫn chưa khaithác triệt đểnguồnthu, vì vậyviệc đấugiá
quyền sử dụng đất là nhằm giúp cho các làng nghề khai thác được nguồn thu hiệu quả
hơn. Vớiquy định này, trảiqua quá trình thực hiện trong thực tiễnđấugiáquyềnsửdụng
đất đã mang lại nguồn thu không nhỏ cho các làng nghề, là một kênh quan trọng và
hữu hiệu để tăng thu tiền sử dụng đất.
Thứhai,HàNộiđãđạtđược kếtquảtíchcựctrong khai thác nguồn lực tài
chính từ đất đai thông qua hình thức thuế.
Dưới hình thức thuế, những năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã đạt
được những kết quả tích cực trong việc khai thác nguồn thu từ đất đai. Quy
mô con số tuyệt đối nguồn thu thuế từ đất đai (trừ thuế sử dụng đất nông
nghiệp được miễn từ năm 2004) gia tăng hàng năm, bình quân giai đoạn
2000-2010 tăng bình quân hơn 16%/năm [38, tr.44]. Các hình thức thuế như:
thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất được khai thác tốt, từ đó làm
tăng quy mô cho ngân sách Thành phố nói chung và các làng nghề nói riêng.
Từ năm 2012, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực sẽ tạo điều
kiện cho Thành phố tăng thêm đáng kể nguồn thu từ thuế sử dụng đất. Việc
tăng quy mô ngân sách thông qua gia tăng lượng thuế thu được một mặt, làm
cho khả năng chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố cải thiện; mặt
khác cũng làm chuyển động trong ý thức của các chủ thể sử dụng đất một
cách hiệu quả hơn.
38
Thứ ba, đã phát huy tác động tích cực trong sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai phục vụ phát triển hạ tầng làng nghề.
Cùng với các nguồn thu ngân sách khác, nguồn tài chính thu được từ
đất đai đã cho phép các làng nghề của Thành phố Hà Nội gia tăng quy mô đầu
tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển sản xuất
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề nói riêng. Việc sử dụng
nguồn lực tài chính từ đất đai trong những năm qua đang phát huy tác dụng
rất tốt vai trò đối với tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kết cấu hạ tầng
các làng nghề.
Thông qua những nguồn đầu tư cho các mục đích và chương trình cụ
thể, nguồn lực tài chính từ đất đai phát huy tác dụng tích cực, trực tiếp trong
nâng cao hiệu quả của chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho phát triển hạ tầng
làng nghề và những mục tiêu đầu tư khác như đã được chứng minh ở vai trò
của các làng nghề với sự phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội.
1.2.3. Hạn chế trong huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho
phát triển các làng nghề Hà Nội
* Khaithácquỹđấtvớivaitròlà tưliệu sản xuấtđểtạodựngmặtbằngsản
xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề còn nhiều hạn chế
Thứnhất,tậndụngquỹđất sinh hoạt, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên ảnh
hưởng đến đời sống và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tìnhtrạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản
xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thường chỉ có lán làm bằng tre, lợp fibrô xi măng,
rơm rạ, lá mía, căng bạt… mang tính chất tạm bợ. Các bãi tập kết nguyên liệu,
kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn
môi trường. Về nhà xưởng, ở các làng nghề chỉ có số ít, chiếm tỷ lệ từ 10% -
30% là nhà xưởng kiên cố, còn lại là bán kiên cố và tạm bợ. Hiện nay, diện tích
đất bình quân dành cho sản xuất của các làng nghề mới đáp ứng được 25% -
39
30% nhu cầu. Theo điều tra khảo sát ở một số làng nghề như La Phù (Hoài
Đức), Hữu Bằng (Thạch Thất)... có đến 70% số nhà xưởng không đáp ứng
yêu cầu sản xuất của các hộ. Vì vậy, nhu cầu về mặt bằng để phát triển mở
rộng sản xuất tại làng nghề là rất lớn như: làng nghề gốm sứ Bát Tràng, nhu
cầu về mặt bằng sản xuất của mỗi hộ là 500 m2 và các doanh nghiệp thuộc
làng nghề là 2000 m2, nhưng hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 200 m2/hộ và 500
m2 - 700 m2/doanh nghiệp. Các làng nghề gỗ Liên Hà, Vân Hà nhu cầu diện
tích mặt bằng cũng rất lớn đòi hỏi diện tích gấp 3 lần. Các làng nghề La Phù
(Hoài Đức), dệt may Cổ Nhuế (Từ Liêm), Tân Triều (Thanh Trì) cần diện tích
gấp 4 lần phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy nhu cầu đất để
làm mặt bằng sản xuất tại các làng nhề rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của
Thành phố lại rất có hạn.
Thứ hai, quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề còn dàn trải, nhỏ lẻ,
thiếu đồng bộ.
Trênthực tế, việc quyhoạchcáccụmcôngnghiệp làngnghề có nhiều cụm
diện tíchchỉkhoảng1ha/cụm. Vớidiện tích quá nhỏ như vậy nên chưa đáp ứng
nhu cầu phát triển của các làng nghề.
Tiến độ triển khai xây dựng cụm côngnghiệp làng nghề chậm. Nhiều làng
nghề do nhu cầubức xúc, các hộ dân đã tự phát lấn chiếm đất nông nghiệp, đất
chuyên dùng, đấthành lang đê điều để lấy mặt bằng sản xuất như làng nghề Hữu
Bằng (Thạch Thất), Liên Hà, Liên Trung, Tân Hội, Tân Lập (Đan Phượng), La
Phù (Hoài Đức) gây khó khăn trong quản lý trật tự an ninh xã hội.
Hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều chưa xây dựng đồng bộ hạ
tầng kỹ thuật theo quy định, đặc biệt là hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường,
đường giao thông nội bộ...
Thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp làng nghề còn gặp nhiều khó
khăn. Do suất đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cao nên đấu giá quyền
40
thuê đất tại các cụm công nghiệp có giá từ 1 - 1,5 triệu đồng/m2 gây khó khăn,
trở ngại cho việc thu hút đầu tư.
Nhiều cụm công nghiệp do quỹ đất hạn chế, trong khi nhu cầu hộ sản
xuất làm nghề lớn nên diện tích đất bị chia nhỏ để cho thuê từ 150 m2 - 200
m2/hộ. Cùng với sự quản lý yếu kém của chính quyền, một số hộ dân được
thuê đất đã sử dụng đất sai mục đích nên chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu
cầu xây dựng cụm công nghiệp làng nghề.
Mô hình, cơ chế đầu tư, xây dựng và quản lý hoạt độngcụm côngnghiệp
làng nghề chưa hiệu quả. Trên địa bàn Thành phố, việc triển khai xây dựng
cụm công nghiệp làng nghề do UBND huyện, xã làm chủ đầu tư nên khó khăn
huy động vốn, công tác quản lý cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, hạn chế.
Thứ ba, đa số các làng nghề, đất dành xây dựng xâydựnghạtầngkỹthuật
làng nghề chưa nhiều.
Quỹ đất dành cho giao thông còn ít, các đường giao thông còn nhỏ,
chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân
dân làng nghề. Tỷ lệ đường giao thông tốt trong đa số các làng nghề chỉ
chiếm trên dưới 20%. Mạng lưới điện ở làng nghề không đồng bộ, chất lượng
thấp, thiếu công suất phục vụ cho sản xuất nên thường xảy ra cháy, chập ảnh
hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Hệ thống cấp
nước sạch chưa đáp ứng được cả cho sinh hoạt và cho sản xuất. Chỉ có 60%
số hộ nông dân dùng nước sạch theo các hình thức nước giếng khoan, nước
mưa, nước giếng khơi, còn lại là dùng nước mặt ao hồ, sông, suối.
Do diện tích mặt bằng sản xuất chật hẹp nên các nhà xưởng tại làng
nghề không đảm bảo yêu cầu về an toàn trong sản xuất và phòng chống cháy
nổ. Đa số các cơ sở sản xuất tại làng nghề không có đất để xây dựng hệ thống
thoát và xử lý chất thải phù hợp gây ảnh hưởng đến môi trường...
Thứ tư, sử dụng đất không hợp lý cho sản xuất và sinh hoạt nên môi
trường làng nghề ô nhiêm nghiêm trọng.
41
Hầu hết các cơ sở sản xuất theo hộ đặt tại nhà và nằm trong khu dân cư
nên việc thu gom và xử lý chất thải rất khó khăn. Hệ thống cấp thoát nước
chưa đồng bộ, 80% số cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải làm
gia tăng ô nhiễm môi trường. Khai thác bừa bãi nên nguồn nước bị cạn kiệt.
Nước thải hầu như ít được xử lý gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ngày
càng nghiêm trọng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, quy mô sản xuất của
nhiều làng nghề tăng lên, áp dụng nhiều biện pháp công nghệ có sử dụng hóa
chất, thiết bị và nhiêu liệu… đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống.
Hầu hết các làng nghề chưa đầu tư bất kỳ giải pháp nào để giảm thiểu ô
nhiễm không khí, tiếng ồn, nước thải, bụi, chất thải rắn, nước thải sản xuất
được thải chung với nước thải sinh hoạt của làng. Trong tổng số 41 cụm công
nghiệp làng nghề đang hoạt động mới chỉ có 02 cụm công nghiệp có xây dựng
hệ thống xử lý nước thải; 39 cụm công nghiệp làng nghề còn lại hoặc không
quy hoạch quỹ đất để xây dựng công trình xử lý nước thải, chất thải, hoặc có
quy hoạch nhưng chưa đầu tư xây dựng.
* Việc khai thácvà sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai tại các làng
nghề trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại nhiều yếu kém
Thứ nhất, vấn đề quy hoạch treo, dự án treo, giao đất không đúng mục
đích sử dụng vẫn còn tồn tại trong các làng nghề.
Đấtđai nói chung là nguồn lực vô cùng quý giá, đối với Hà Nội nó còn
quý giá hơn nhiều lần so với các địa phương khác, vì vậy nó cần phải được sử
dụnghợp lý và hiệu quảnhất. Tuynhiên, trong những năm vừa qua, do công tác
tổ chức quyhoạch, xây dựng quy hoạch sử dụng và khai thác nguồn lực đất đai
chưatốtđãdẫnđếntồntạihàng loạt các khuquyhoạch treo, đất đai không được
sửdụngđúngmục đích,giao đấtcho nhữngchủthểsửdụngđất không đúng mục
đích, tình trạng đất công còn bị để hoang hoá rất nhiều.
Thứ hai, hoạt động quản lý sau đấu giá còn nhiều yếu kém dẫn đến
không thu được toàn bộ số tiền mà các đơn vị trúng đấu giá phải nộp. Đến
42
nay, địa phương có số tiền thu được từ hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng
đất mới chỉ đạt nhiều nhất là 70%, thậm chí có những quận, huyện đạt rất thấp
chỉ khoảng 20% - 30%. Đấu giá quyền sử dụng đất tại các làng nghề của
Thành phố cũng nằm trong tình trạng chung như trên.
Thứ ba, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức
thu tiền cho thuê đất.
Trong số các nguồn tài chính có thể huy động được từ đất đai tại các
làng nghề trên địa bàn Hà Nội, thì hình thức thu từ tiền cho thuê đất có số thu
thấp hơn cả; giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, nguồn thu này chiếm chưa
đến 1% tổng nguồn thu từ đất đai [38, tr.24]. Một mặt, các hộ sản xuất tại
làng nghề đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền
thuê đất mặt bằng sản xuất. Mặt khác, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp
làng nghề để cho các hộ sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn
chậm, quỹ đất còn hạn chế; các hộ thuê đất tại các cụm công nghiệp đã đi vào
hoạt động hầu hết đang trong giai đoạn được hưởng chính sách ưu đãi tiền
thuê đất nên nguồn thu này trong những năm qua còn rất hạn chế. Tuy nhiên,
về mặt con số tuyệt đối và xu hướng vận động của nguồn thu thì vẫn cho thấy
số thu tuyệt đối gia tăng hàng năm.
Thứ ba, việc sử dụng tiền thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất
cũng chưa thật sự minh bạch. Hiện nay, theo quy định của Thủ tướng Chính
phủ và của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, số tiền thu được từ bán đấu
giá quyền sử dụng đất được nộp vào ngân sách và sử dụng phục vụ đầu tư cơ
sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. Thực tế sử dụng nguồn tài chính từ đất
đai tại các làng nghề thời gian qua cho thấy tỷ trọng đầu tư phát triển các công
trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho phát triển sản xuất tại các làng
nghề còn thấp, giai đoạn 2005 - 2010 chỉ chiếm bình quân 15% - 20%. Đặc
biệt là đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề chưa được
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội

More Related Content

What's hot

Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...
Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...
Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nayĐề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nayDịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...Thư viện Tài liệu mẫu
 

What's hot (11)

Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...
Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...
Quản lý nhà nước về lễ hội trên địa bàn thành phố đà nẵng sdt/ ZALO 09345 497...
 
LA01.038_Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới ...
LA01.038_Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới ...LA01.038_Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới ...
LA01.038_Huy động và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn mới ...
 
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nayĐề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
Đề tài: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam hiện nay
 
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAYĐề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
Đề tài: Phát triển khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp, HAY
 
Luận văn: Tổ chức không gian kiến trúc đình làng tại Hải Dương
Luận văn: Tổ chức không gian kiến trúc đình làng tại Hải DươngLuận văn: Tổ chức không gian kiến trúc đình làng tại Hải Dương
Luận văn: Tổ chức không gian kiến trúc đình làng tại Hải Dương
 
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
Luận văn HAY, HOT: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận Hà...
 
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hó...
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hó...Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hó...
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hó...
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤTLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế. Đề tài luận văn HAY NHẤT
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hóa ở quận ...
 
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...
Mối quan hệ giữa văn hoá và phát triển trong việc xây dựng nếp sống văn hoá k...
 
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...
Các giải pháp để phát triển làng nghề ở thành phố hội an, tỉnh quảng nam sdt/...
 

Similar to Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội

Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...
Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...
Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...luanvantrust
 
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...
Luận Văn Thạc Sĩ  Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...Luận Văn Thạc Sĩ  Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...Nhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...https://www.facebook.com/garmentspace
 

Similar to Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội (20)

Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố, HAY!
Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát  triển làng nghề thành phố, HAY!Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát  triển làng nghề thành phố, HAY!
Luận văn :Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố, HAY!
 
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nayTác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội hiện nay
 
Luận văn: Phát triển làng nghề ở thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển làng nghề ở thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển làng nghề ở thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển làng nghề ở thành phố Hà Nội, HAY
 
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệpĐề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
Đề tài: Lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất công nghiệp
 
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà ĐôngLuận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại quận Hà Đông
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAYLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế tỉnh Hà Nam, HAY
 
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAYLuận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp tại Hà Nội, HAY
 
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy TiênLuận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
Luận văn: Xây dựng nông thôn mới về kinh tế ở huyện Duy Tiên
 
Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...
Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...
Xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh đô thị hóa ở huyện Quốc Oai, Thành...
 
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
Luận văn: Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá
 
Luận văn: Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
Luận văn: Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mớiLuận văn: Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
Luận văn: Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
 
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAYGiải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình đô thị hoá, HAY
 
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà NộiLuận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
Luận văn: Tác động của đô thị hóa đến kinh tế nông thôn Hà Nội
 
Đề tài: Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội, HOTĐề tài: Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội, HOT
Đề tài: Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội, HOT
 
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...
Luận Văn Thạc Sĩ  Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...Luận Văn Thạc Sĩ  Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...
Luận Văn Thạc Sĩ Kinh Tế Chính Trị Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Ở Tỉnh Đồng...
 
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAYLuận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
Luận văn: Học tập phong cách Hồ Chí Minh của giảng viên, HAY
 
Luận văn: Phát triển hạ tầng kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Phát triển hạ tầng kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Nai, 9đLuận văn: Phát triển hạ tầng kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Nai, 9đ
Luận văn: Phát triển hạ tầng kinh tế nông thôn tỉnh Đồng Nai, 9đ
 
Luận văn: Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, HAYLuận văn: Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, HAY
Luận văn: Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Đồng Nai, HAY
 
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy ho...
 
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đấtLuận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
Luận văn: Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 

Recently uploaded (19)

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 

Luận văn: Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội

  • 1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM THÚY HÒA NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2013
  • 2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  PHẠM THÚY HÒA NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Mã số: KINH TẾ CHÍNH TRỊ 60 31 01 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU Hµ NéI -2013
  • 3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 3 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 10 1.1 Những vấn đềchungvề nguồnlực đấtđaicho pháttriển làng nghề 10 1.2 Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 29 Chương 2 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 48 2.1 Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội 48 2.2 Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội 59 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 PHỤ LỤC 82
  • 4. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ VIẾT TẮT 1. Cụm Công nghiệp làng nghề CCNLN 2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 3. Cụm công nghiệp CCN 4. Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp CN-TTCN 5. Chủ nghĩa xã hội CNXH 6. Giải phóng mặt bằng GPMB 7. Hội đồng nhân dân HĐND 8. Kinh tế - xã hội KT-XH 9. Làng nghề truyền thống LNTT 10. Trọng điểm Bắc Bộ TĐBB 11. Ủy ban nhân dân UBND 12. Xóa đóigiảm nghèo XĐGN
  • 5. 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích 3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
  • 6. 4 Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế, chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững. Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề. Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn.
  • 7. 5 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức. Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo chuyên đề có các công trình: Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong quá trình pháttriển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát triển các khu công nghiệp tập trung. Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư, Tiến sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề
  • 8. 6 xuất những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý có hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội. Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình: Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011 "Pháttriển bền vững làng nghềtruyền thống vùngkinh tế trọng điểm Bắc Bộ". Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát triển bền vững các làng nghề. Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010, “Khaithácvà sử dụng nguồnlực tài chính từ đấtđai để pháttriển kinh tế - xã hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô. Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ
  • 9. 7 vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý nhà nước về đất đai. Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. * Nhiệm vụ Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội.
  • 10. 8 Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ: - Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất tại các làng nghề; - Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho phát triển làng nghề. * Phạm vi nghiên cứu của đề tài Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại thành của Thành phố Hà Nội. Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn. * Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
  • 11. 9 6. Ý nghĩa của đề tài - Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành phố Hà Nội. - Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường cao đẳng, đại học. 7. Kết cấu của đề tài. Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  • 12. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 1.1.Nhữngvấnđề chung về nguồnlực đấtđaichopháttriểnlàngnghề 1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội ở Thủ đô Hà Nội * Làng nghề: Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau: Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn, phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước. * Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được côngnhận theo quy định của Thông tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống. Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng
  • 13. 11 chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6) Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường. * Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện nhất định để hình thành và phát triển. * Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền. Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1) Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3) Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề. * Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên. Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277 làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,
  • 14. 12 Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20 làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6 làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng, Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng. Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới 30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm 15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản 23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài - khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6 làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng; nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng. Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83 làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11 làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý (Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2]. Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là: Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ Liêm, Sóc Sơn, ThanhTrì, ĐôngAnh, Mê Linh, thị xã SơnTây từ 500 - 700 hộ. * Vai tròcủa làngnghềtrongpháttriểnkinhtế - xã hội Thủ đô Hà Nội Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động. Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc
  • 15. 13 làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc, khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên Trung (Đan Phượng)... Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu, chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động, lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn. Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh trật tự ở nông thôn. Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24 triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000 đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm 2010 [37, tr. 42]. Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc
  • 16. 14 làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội. Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu hút lao độngcác địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo. Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao, lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề của địa phương. Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như: Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội
  • 17. 15 ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của Việt Nam đối với bạn bè thế giới. Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch vụ du lịch. Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc. Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên 104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5]. Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề, đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển. Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm
  • 18. 16 chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá. Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh. 1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội * Lý luận chung về địa tô. Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến, địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền. Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất
  • 19. 17 cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của công nhân nông nghiệp tạo gia Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên cùng một đơn vị diện tích. Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả nông sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá trị của chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà chính địa tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối với xã hội là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu ruộng đất bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ xuống có lợi cho xã hội. Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng
  • 20. 18 những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên. Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền. Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai. Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá, đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô". Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.
  • 21. 19 Ở Việt Nam, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, không gì thay thế được, và là tài nguyên quý giá của quốc gia. Nhà nước chuyển quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân, và người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất; cho người nước ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại giao; cho phép các tổ chức, cá nhân người Việt Nam tham gia xí nghiệp liên doanh với người nước ngoài được góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử dụng. Tuy hình thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng ruộng đất vẫn là một tư liệu sản xuất có giá trị và người sử dụng vẫn phải trả giá như là một loại địa tô. * Khái niệm về nguồn lực đất đai. Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự phát triển của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà con người có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Tùy theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu rất khác nhau của con người. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm chí, đối với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng phát huy tác dụng không giống nhau. Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân loại theo ngành, theo lĩnh vực. Theo nhận thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con người, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao động, đất đai, tri thức. Trong hệ thống các nguồn lực cho sự phát triển của xã hội loài người kể trên, nguồn lực đất đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn ngày càng quan trọng hơn đối với một quốc gia có trình độ phát triển thấp, đặc biệt đối với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông nghiệp. Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt không chỉ đơn thuần là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho
  • 22. 20 hoạt động sản xuất mà trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn được coi là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho sản xuất. Theo đó, có thể hiểu: Nguồn lực đấtđai cho pháttriển các làng nghềlà yếu tố tự nhiên có ích với vai trò là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính - vốn không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ được huy động, sử dụng cho phát triển các làng nghề phù hợp với quy định của pháp luật và giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan. Như vậy, nội dung nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề được hiểu với tư cách là tư liệu sản xuất như dùng để xây dựng nhà xưởng, tạo mặt bằng cho sản xuất, nhà kho, sân phơi...; đồng thời, đó còn là nguồn lực tài chính, nguồn vốn nếu đất đai được chuyển đổi theo cơ chế thị trường và phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. * Vai trò của nguồn lực đất đai trong phát triển làng nghề Thứ nhất, nguồn lực đất đai với vai trò là tư liệu sản xuất. Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và phát triển của con người và các loài sinh vật khác trên trái đất. Các Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản của sản xuất vật chất” [20, tr.7]. Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của con người, con người dựa vào đó để tạo nên của cải vật chất nuôi sống mình. Đất đai luôn là thành phần quan trọng của môi trường sống. Không có đất đai thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao động nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.
  • 23. 21 Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và đời sống con người, đất đai chiếm vị trí đặc biệt, là điều kiện đầu tiên và nền tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào. Các Mác cho rằng, đất đai là phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể. Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đai đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã khẳng định "Lao động không phải nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và giá trị tiêu thụ - như William Petty đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải vật chất, còn đất là mẹ". Chúng ta đều biết rằng không có đất đai thì không thể có sản xuất, cũng như không tồn tại con người. Đất đai là sản phẩm tự nhiên, xuất hiện trước con người. Đất đai tồn tại như một vật thể lịch sử - tự nhiên không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội [22, tr.164]. Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện lao động, tuy nhiên đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, nó khác với các tư liệu sản xuất khác ở những đặc điểm sau: - Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện ngoài ý chí và nhận thức của con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó các tư liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người. - Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất bị giới hạn bởi ranh giới đất liền. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số lượng, chế tạo lại tùy theo nhu cầu của xã hội. - Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, giá trị và mục đích sử dụng. Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn.
  • 24. 22 - Tính không thay thế: Thay thế đất đai bằng từ liệu sản xuất khác là không thể thực hiện được. Các tư liệu sản xuất tùy thuộc vào mức độ phát triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác hoàn thiện hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn. - Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong quá trình sử dụng, không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các tư liệu sản xuất khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách khác nhau tùy theo sự cần thiết. - Tính vĩnh cửu: Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu, nếu biết sử dụng hợp lý thì có thể làm tăng tính chất sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất. Khả năng tăng tính sản xuất của đất tùy thuộc vào phương thức sử dụng là tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng là bị loại khỏi quá trình sản xuất. Như vậy có thể nói "đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một tư liệu sản xuất đặc biệt" [20, tr.12]. Muốn xây dựng nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng nhà xưởng để máy móc, thiết bị, kho tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường sá đi lại trong nội bộ,... tất cả những cái đó là điều cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng hay địa phương của một loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được tính cho toàn bộ hay cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương thường là cố định và việc tăng thêm thường rất hạn chế. Quỹ đất theo đầu người thường có xu hướng giảm bớt, vì đất đai không được sản sinh ra thêm
  • 25. 23 trong khi dân số lại tăng lên. Quỹ đất đai của quốc gia là một nguồn lực tự nhiên cần được bảo vệ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Quỹ đất đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh thổ. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất do những nhu cầu sử dụng đất khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hòa và bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Khi những nhu cầu về xây dựng cơ sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông nghiệp để tăng quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng vào sản xuất. Thứ hai, nguồn lực đất đai với vai trò là nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế xã hội trong quan hệ phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính là phạm trù của quan hệ phân phối, đó là sự phân phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện vật và thông qua hiện vật [33, tr.21]. Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc hình thành mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ tập trung. Thông qua các nguồn lực tài chính mà những chủ thể trong xã hội có được hệ thống các quỹ tiền tệ tập trung vận động độc lập với các chức năng cất trữ hay phương tiện thanh toán. Nguồn lực tài chính là sự vận động của tiền tệ.
  • 26. 24 Với cách hiểu như vậy, để hình thành nguồn lực tài chính hay các quỹ tiền tệ vận động tập trung, các chủ thể trong xã hội có thể khai thác từ nhiều nguồn lực khác nhau trong đó có nguồn lực từ đất đai. Nguồn lực tài chính từ đất đai là nguồn lực tài chính được hình thành từ nguồn lực đất đai thông qua quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong một xã hội nhất định và chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu của xã hội đó. Tài chính và nguồn lực tài chính phản ánh mặt quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội cụ thể là biểu hiện của quan hệ phân phối, song vì đó là sự phân phối giá trị cho nên quan hệ đó chỉ được thực hiện trong nền kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, biểu hiện rõ nhất của mặt phân phối và thực hiện giá trị từ các nguồn lực là trong nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao hay kinh tế thị trường. Vì kinh tế thị trường mới có khả năng biến mọi nguồn lực trở thành hàng hóa và biến các hàng hóa đó trở thành những biểu hiện của giá trị, mặc dù có thể chúng không phải do lao động làm ra. Với ý nghĩa như vậy, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ có thể được hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị trường, khi mà các quan hệ đất đai được thị trường hóa. Tức là chúng có thể được mua bán và trao đổi trên thị trường. Về mặt nguyên lý, những gì không phải là sản phẩm của sự hao phí lao động trừu tượng của con người tạo ra thì chúng không có giá trị. Tuy nhiên, chúng lại có thể là phương tiện để thực hiện lợi ích của các chủ thể sở hữu chúng. Với tư cách là phương tiện để thực hiện lợi ích thì chúng có vai trò trong việc hình thành các quỹ tiền tệ tập trung và vì thế chúng góp phần hình thành các nguồn lực tài chính. Đất đai là một trong những yếu tố có đặc trưng như vậy. Bản thân đất đai không là sản phẩm của lao động, vì thế theo cách hiểu thông thường chúng không có giá trị. Tuy nhiên, đất đai lại là nguồn lực mang
  • 27. 25 tư cách là điều kiện quan trọng tham gia vào các quá trình tạo ra của cải cho xã hội. Đất đai không phải là nguồn gốc tạo ra giá trị nhưng đất đai là điều kiện tạo ra của cải. Khi khoác áo là điều kiện cho quá trình tạo ra của cải thì người ta có thể thực hiện được lợi ích từ chúng. Miễn là phải làm thế nào để sở hữu chúng mà thôi. Từ việc sở hữu đất đai, các chủ thể có thể đem đất đai ra để trao đổi như những yếu tố sản xuất khác. Thông qua sự trao đổi đó, chủ thể thực hiện được lợi ích của họ. Hay nói một cách khác, đất đai là điều kiện để các chủ thể sở hữu thực hiện được nguồn thu nhập dưới dạng hình thái tiền, các nguồn tiền tệ để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đó là những nguồn lực tài chính từ đất đai. Về bản chất, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh quan hệ phân phối giá trị để hình thành các quỹ tiền tệ thông qua đất đai. Với tư cách là một loại nguồn lực tài chính, nguồn lực tài chính từ đất đai có tính chất đặc thù. Tính đặc thù đó thể hiện ở chỗ, nó phản ánh quan hệ phân phối và sử dụng nguồn tài chính song quá trình phân phối và sử dụng nguồn tài chính đó lại gắn liền với quyền sở hữu đất. Đó là quan hệ phát sinh được hình thành trên cơ sở thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất. Mà việc thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất như C.Mác đã phân tích là thông qua các hình thức địa tô. Nhưng với tư cách là hình thái biểu hiện của quan hệ tài chính thì địa tô đó phải là địa tô dưới hình thái tiền, không phải là tô hiện vật hay tô lao dịch. Vì phản ánh quan hệ phân phối nên nguồn lực tài chính mang tính lịch sử. Nghĩa là xét về mặt hình thức, cơ chế thực hiện lợi ích kinh tế từ quan hệ đất đai sẽ do quan hệ sở hữu của chế độ xã hội đó quyết định. Trong mỗi chế độ xã hội với kiến trúc thượng tầng khác nhau sẽ quy định chế độ sở hữu đặc trưng của xã hội đó. Nếu đất đai thuộc quyền sở hữu của nhân dân và nhà nước của dân, do dân đứng ra làm đại diện chủ sở hữu thì nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ hình
  • 28. 26 thành và thực hiện trên cơ sở chế độ sở hữu tương ứng. Từ đó, quy định cách thức sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung hình thành từ nguồn lực đất đai. Trái lại, nếu đất đai thuộc về sở hữu tư nhân thì mục đích sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai chắc chắn không phải phục vụ cho số đông mà là chỉ là một bộ phận trong xã hội. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nguồn lực tài chính từ đất đai phản ánh tính chất quá độ của quan hệ sản xuất của nước ta. Quan hệ đất đai tập trung nhất trong quan hệ sở hữu và các quyền năng phát sinh từ quyền sở hữu đó. Tuỳ thuộc vào từng nước, đất đai có thể thuộc sở hữu riêng của từng thành viên hoặc từng nhóm thành viên và có thể là sở hữu chung của tất cả các thành viên trong cộng đồng quốc gia hoặc hỗn hợp cả hai hình thức sở hữu trên. Ở hầu hết các nước tư bản, đất đai thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu Nhà nước. Ở Việt Nam đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Về mặt hình thức biểu hiện trên thực tế, nguồn lực tài chính từ đất đai được hình thành thông qua các khoản thu tài chính liên quan đến đất của chủ sở hữu đất đai với các chủ thể sử dụng đất. Có nhiều hình thức thu và huy động nguồn lực tài chính từ đất đai, về cơ bản gồm các nguồn thu như: Thu từ giao quyền sử dụng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thu từ các khoản thuế liên quan đến đất, có thể có hình thức đổiquyền sử dụng đất lấy cơ sở hạ tầng. Không giống với các nguồn lực tài chính khác, nguồn lực tài chính từ đất đai có những đặc điểm riêng. Mộtlà, nguồnlực tài chínhtừđấtđailuôn gắn với quan hệ sở hữu đất đai. Như trên đã chỉ ra, muốn đất đai đem lại lợi ích dưới hình thái tiền tệ thì trước hết các chủ thể phải nắm quyền sở hữu đất đai. Việc sở hữu đó sẽ là tiền đề phái sinh ra các quyền năng khác, giúp cho chủ thể sở hữu thực hiện
  • 29. 27 được lợi ích của mình. Quyền sở hữu là điều kiện cần để thực hiện được lợi ích hay khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Khi quan hệ sở hữu được xác lập đối với đối tượng là đất đai, các chủ thể sở hữu mới có cơ sở để thực hiện lợi ích của mình. Tất nhiên, quan hệ sở hữu đó phải được thể chế hóa thành chế độ sở hữu về đất đai. Phương tiện thực hiện các nguồn lực tài chính từ đất đai là các hình thái địa tô. Trong chủ nghĩa tư bản, địa tô phản ánh chế độ sở hữu tư nhân về đất đai của phương thức sản xuất đó. Hai là, nguồn lực tài chính từ đất đai chỉ hình thành và được thực hiện trong cơ chế kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế tự cung, tự cấp, ở đó trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, nên phân công lao động xã hội và chuyên môn hóa chưa sâu sắc, do đó các quan hệ giá trị chưa trở thành phổ biến. Việc trao đổi giữa các thành viên trong xã hội chủ yếu để thỏa mãn nhu cầu giá trị sử dụng. Hình thức thực hiện lợi ích từ quyền sở hữu đất đai của các chủ thể thường gắn với hiện vật hơn là giá trị. Trong khi nguồn lực tài chính từ đất đai lại biểu hiện dưới hình thái của giá trị, hay dưới dạng tiền tệ. Hơn thế, nguồn lực đó phải không ngừng vận động độc lập tương đối với các chức năng cất trữ và phương tiện thanh toán của tiền tệ. Để có thể thực hiện được điều đó, cần một cơ chế kinh tế mà trong đó mọi yếu tố đều có thể chuyển hóa thành hàng hóa bất luận chúng có phải do hao phí lao động làm ra hay không. Cơ chế kinh tế thị trường đáp ứng được yêu cầu đó. Để có thể khai thác tốt nguồn lực tài chínhtừ đất đai, ngoài những nỗ lực chủ quan của Thành phố còn có ảnh hưởng rất quan trọng của các nhân tố khách quan. Những nhân tố khách quan đó là: - Quy mô đất đai; - Đặc điểm và cấu tạo tự nhiên, thổ nhưỡng, môi trường đất đai;
  • 30. 28 - Vị trí không gian địa lý của từng khu vực trên địa bàn Thành phố; - Trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung. Ngoài những nhân tố khách quan nói trên, việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố Hà Nội còn chịu tác động của nhân tố chính trị, xã hội. Trước hết, phải kể tới chủ trương, chính sách của Thành phố về vấn đề này. Thứ nữa là nhân tố con người tham gia bộ máy thực hiện huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội. Về mặt chủ trương, chính sách, tác động của nhân tố này đến việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thể hiện ở khả năng tạo điều kiện hay kìm chế tính hiệu quả của việc khai thác cũng như sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai để phục vụ sự phát triển của Thủ đô. Khi chính sách phù hợp với tình hình thực tế, tức là các chính sách thể hiện được sự vận động của cuộc sống, thuận theo quy luật vận động của nền kinh tế thì đó chính là cơ chế tốt cho việc khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai. Hơn nữa, các chính sách thể hiện sự vận dụng một cách sáng tạo chính sách về đất đai của Nhà nước nói chung thì cũng là nhân tố tích cực giúp cho khả năng khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai hiệu quả hơn. Chủ trương, chính sách sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cũng có tác động quan trọng đến việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho sự phát triển của Hà Nội. Các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính đảm bảo tính chặt chẽ và minh bạch là nền tảng cho việc thực hiện chính sách trong thực tế được hiệu quả. Khi các chính sách sử dụng nguồn lực tài chính thu được thông qua đất đai không linh hoạt, kém chặt chẽ, thiếu minh bạch tất sẽ tạo ra nhiều kẽ hở để gây ra tình trạng thất thoát lãng phí. Nghĩa là, việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai sẽ không hiệu quả.
  • 31. 29 Nếu như chính sách là cơ sở pháp lý để thực hiện việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai thì tính hiệu quả của chính sách lại đòi hỏi phải được thực hiện thông qua bộ máy hoạt động của các cơ quan chức năng liên quan. Nghĩa là liên quan đến đội ngũ nhân sự thực hiện huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thành phố. Với ý nghĩa đó, con người tham gia vào quá trình này có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Hà Nội có đạt hiệu quả cao hay không. Chính vì vậy, nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến việc khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trên địa bàn Thủ đô phải tính tới không chỉ chủ trương, chính sách của Thành phố mà còn phải quan tâm đến nhân tố con người. 1.2. Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội 1.2.1. Một số đặc điểm tác động đến khả năng khai thác, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội * Đặc điểm tự nhiên Thứ nhất, vị trí địa lý và tự nhiên đẹp là điều kiện thuận lợi để Hà Nội huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề. Thành phố Hà Nội nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, giới hạn trong khoảng từ 20o34' đến 21o23' vĩ độ Bắc; 105o17' đến 106o02' kinh độ Đông. Diện tích tự nhiên 3.300 km2. Tiếp giáp với 8 tỉnh: Phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên; phía Đông Bắc giáp tỉnh Bắc Giang; phía Đông giáp tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam; phía Tây Nam giáp tỉnh Hòa Bình; phía Tây giáp tỉnh Phú Thọ; phía Tây Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay Hà Nội được tổ chức thành 10 quận, 18 huyện và 1 thị xã: - 10 quận gồm: Hoàn Kiếm, Ba Ðình, Ðống Ða, Hai Bà Trưng, Tây Hồ, Thanh Xuân, Cầu Giấy, Long Biên, Hoàng Mai và Hà Đông.
  • 32. 30 - 1 thị xã: Sơn Tây. - 18 huyện gồm: Ðông Anh, Sóc Sơn, Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Hoài Đức, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín, Ứng Hòa và Mê Linh. Dân tộc: (Kinh) chiếm 99,1%; các dân tộc khác: Chiếm 0,9%. Thành phố Hà Nội là Thủ đô của nước ta có vị trí địa lý, kinh tế, chính trị quan trọng và có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác. Hà Nội nằm ở phía hữu ngạn sông Đà và hai bên sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú và nổi tiếng từ lâu đời. Vị trí địa lý quan trọng và địa thế tự nhiên đẹp đã tạo thuận lợi cho Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và là đầu mối giao thông quan trọng của cả nước. Thứ hai, các làng nghề về cơ bản gắn liền với nông thôn, nông nghiệp, quỹ đất sau khi Hà Tây được sát nhập vào Thành phố có sự cải thiện đáng kể là điều kiện thuận lợi để khai thác nguồn lực này cho phát triển làng nghề. Theo số liệu của Cục Thống kê Hà Nội, tổng diện tích đất tự nhiên của Hà Nội là 334.852,5 ha, trong đó: Đất nông, lâm nghiệp, thủy sản là 192.720,7 ha, chiếm 57,6%; đất phi nông nghiệp là 131.300,5 ha, chiếm 39,2%; đất chưa sử dụng là 10.831,3 ha, chiếm 3,2%. Thứ ba, quỹ đất tuy có được cải thiện nhưng Hà Nội vẫn là địa phương đất chật, người đông cùng với quá trình đô thị hóa với tốc độ nhanh đang gây khó khăn lớn cho khai thác, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề. Với dân số đến hết năm 2012 là gần 7 triệu người, Thành phố Hà Nội là địa phương có mật độ dân số cao, bình quân 2.013 người/km2, cao gấp 1,7 lần bình quân khu vực đồng bằng sông Hồng (1.300 người/km2) và gấp 8 lần bình quân chung của cả nước (259 người/km2). Với tình trạng đất chật, người đông như vậy cùng với xu hướng đô thị hóa và tình trạng di dân tự do từ các vùng nông thôn ra đô thị vẫn đang tiếp diễn mạnh mẽ sẽ là khó khăn rất lớn cho
  • 33. 31 việc khai thác, sử dụng quĩ đất cho phát triển làng nghề của Thành phố Hà Nội hiện nay và những năm tiếp theo. * Đặc điểm kinh tế - xã hội Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, nâng cao giá trị sử dụng đất cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và các làng nghề nói riêng. Năm 2010, GDP Hà Nội là 73.478 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006 - 2010 của Hà Nội là 10,73%/năm. Nếu xét theo thứ tự về quy mô GDP theo tỉnh, thành cả nước, Thủ đô Hà Nội đứng vị trí thứ hai sau Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2005, theo giá hiện hành, GDP bình quân đầu người của Hà Nội đạt 15,6 triệu đồng; đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Hà Nội đạt khoảng 37,3 triệu đồng [37, tr.52]. Chuyểndịchcơ cấukinh tế củaThànhphố khánhanh theo hướngdịch vụ - côngnghiệp, xâydựng- nông, lâm, thủy sản. Năm 2005, tỷ trọng cơ cấu kinh tế của Thành phố đạt tương ứng như sau: 51,5% - 39,4% và 9,1%. Năm 2010, sự chuyển dịch tương ứng như sau: 50,6% - 43,1% và 6,2% [37, tr.54]. Hà Nội là một trong số ít địa phương có tỷ trọng dịch vụ cao hơn ngành công nghiệp. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, Hà Nội có tiềm năng lớn trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao giá trị sử dụng đất, khả năng khai thác quỹ đất cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển làng nghề nói riêng. Thành phố Hà Nội có kết cấu hạ tầng kỹ thuật được quy hoạch, đầu tư xây dựng khá đồng bộ bao gồm hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy và đường không,... thuận lợi cho phát triển sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giá trị sử dụng đất được nâng cao. Tốc độ đô thị hoá của thành phố Hà Nội đạt khá cao trong giai đoạn 2001 - 2005 là 5,6%/năm và giảm xuống còn 2,96%/năm giai đoạn 2006-2009, đưa tỷ lệ đô thị hóa của Hà Nội từ 33,2% năm 2000 lên 39,6% năm 2005 và đạt
  • 34. 32 40,8% năm 2009 [37, tr.55]. Đây là nhân tố ảnh hưởng lớn đến khả năng khai thác quỹ đất cho phát triển làng nghề, đòihỏi việc sửdụng quỹ đất phải hết sức tiết kiệm và hiệu quả. Thứ hai, Hà Nội có địa kinh tế, chính trị đặc biệt quan trọng vừa là thuận lợi vừa là khó khăn cho việc huy động, sử dụng quỹ đất để phát triển các làng nghề. Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước nên có sức hút di dân cơ học đến rất cao, do vậy giá đất của thành phố Hà Nội rất cao so với các địa phương lân cận. Đây là nhân tố có tác động hai mặt đến khả năng khai thác, quản lý và sử dụng đất đai. Mặt tích cực là làm tăng nguồn tài chính trên một đơn vị diện tích đất đai đưa vào khai thác; mặt khác gây khó khăn cho công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, tình trạng mất ổn định xã hội do tranh chấp, khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai. Thứ ba, Hà Nội là đất trăm nghề với tốc độ phát triển nhanh vừa là điều kiện thuận lợi vừa là áp lực lớn đáp ứng nhu cầu đất cho phát triển làng nghề. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại thành, các ngành nghề đã thu hút từ 30% đến 70% số hộ và từ 50 % đến 90% số lao động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên, chưa kể số lao động thu hút từ các địa phương khác. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Theo đó, cơ cấu lao động ở nông thônngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm côngnghiệp và dịch vụ. Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất côngnghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của các làng nghề ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên 104 triệu USD năm 2010; tốc độ tăng bình quân hàng năm từ 1,6% đến
  • 35. 33 2,8%/năm. Tình hình trên vừa là điều kiện thuận lợi vừa gây áp lực lớn về bảo đảm quỹ đất cho phát triển các làng nghề. 1.2.2. Ưu điểm huyđộng và sử dụng nguồn lựcđất đai cho phát triển các làng nghề * Ưu điểm trong khai thác quỹ đất với vai trò là tư liệu sản xuất để tạo dựng mặt bằng sản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề Thứ nhất, diện tích đất ở được khai thác và sử dụng khá triệt để cho xây dựng mặt bằng sản xuất, nhà kho… phục vụ phát triển làng nghề. Do đặc trưng sản xuất tại các làng nghề theo hộ gia đình và quỹ đất ở các làng nghề còn hạn chế nên diện tích đất ở của gia đình kết hợp sử dụng làm nơi sản xuất đã được khai thác sử dụng tối đa. Nhu cầu mặt bằng cho sản xuất ngày càng lớn, nên các hộ đã thu hẹp không gian sống để dành mặt bằng cho sản xuất như: tại các làng nghề dệt may Tân Triều (Thanh Trì), Cổ Nhuế (Từ Liêm), dệt kim La Phù (Hoài Đức), dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông)... nhiều nhà ống cao tầng vừa là cơ sở sản xuất, vừa là nhà kho, hầu như không có khoảng trống nào trong gia đình mà không được tận dụng để sản xuất. Với cách khai thác, sử dụng triệt để diện tích đất ở làm mặt bằng sản xuất đã góp phần làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm do các làng nghề Hà Nội sản xuất. Đó vừa là ưu điểm vừa là đặc điểm nổi bật tạo nên nét văn hóa riêng và cũng là cơ sở để phát triển loại hình du lịch làng nghề Hà Nội. Thứ hai, Hà Nội đã tích cực, chủ động xây dựng quy hoạch dành quỹ đất cho xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề. Với mục tiêu nhằm tạo dựng quỹ đất có đủ điều kiện cơ bản về hạ tầng kỹ thuật, mở rộng mặt bằng sản xuất ở các làng nghề góp phần phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ năm 2001, Thành phố Hà Nội đã tiến hành quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn và triển khai thực hiện.
  • 36. 34 Theo quy hoạch phát triển các cụm công nghiệp làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, Thành phố quy hoạch phát triển 176 cụm công nghiệp làng nghề với tổng diện tích 1.295 ha, bình quân 7,4 ha/cụm công nghiệp [37, tr.91]. Các cụmcôngnghiệp làng nghề phânbố tạihầu hết các làng nghề, làng có nghề trên địa bànThànhphố. Sốlượng, diệntíchquyhoạchcáccụmcông nghiệp làng nghề cơ bản đáp ứng nhu cầu về mặt bằng sản xuất cho các làng nghề. Như vậy Hà Nộiđãchủ động, tíchcực quy hoạch trước cả khi Chính phủ banhành Quyết định số 105/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 về Quy chế quản lý cụmcôngnghiệp, loạihìnhcụmcôngnghiệp làng nghề là giải pháp vận dụng mô hìnhcác khucôngnghiệp nhỏ trong việc tạo dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, quỹ đấtđểpháttriển sảnxuất côngnghiệp, tiểu thủ côngnghiệp tạicác làng nghề, làng có nghề phù hợp với tình hình phát triển thực tiễn tại từng địa phương. Saukhi ChínhphủbanhànhQuychếquảnlý cụmcôngnghiệp, Thànhphố Hà Nộiđãbanhành Quyếtđịnh số 44/2010/QĐ-UBNDngày 10/9/2010 để thống nhất quychếquảnlý cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố thay thế các quy định trước đây. Đâylàcơ sở pháp lýquantrọngcho việc đầutư pháttriển các cụm côngnghiệp làng nghề, tạo dựngquỹđấtđểmở rộngsảnxuất cho các hộ sản xuất tại làng nghề;didờicác cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp gây ô nhiễm môi trường ra khỏi các khu dân cư; từng bước xây dựng, phát triển làng nghề theo hướng công nghiệp, hiện đại. Thứ ba, tích cực, chủ động ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào phát triển các cụm công nghiệp làng nghề là điều kiện đểsửdụng có hiệu đất đai. Bên cạnh các chính sách về xây dựng, quản lý hoạt động các cụm công nghiệp làng nghề, Thànhphố đãbanhànhmộtsố chínhsáchkhuyếnkhích đầu tư pháttriển các cụmcông nghiệp làng nghề như chính sách đấu thầu thực hiện dự án, chínhsáchhỗ trợ đầutưhạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào, kinh phí giải phóng
  • 37. 35 mặt bằngcác cụmcôngnghiệp;chínhsáchgiao đấtdịchvụcho các hộ dân bị thu hồiđất, ưutiên sửdụnglao độngđịaphương,... Các chính sách trên có tác động thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển các cụm công nghiệp làng nghề cũng như phát triển kinh tế - xã hội chung của các làng nghề. Đến nay đã có 41 cụm công nghiệp làng nghề đã và đang xây dựng với tổng diện tích 443 ha. Trong đó, huyện Thạch Thất 6 cụm với diện tích 66 ha; Hoài Đức 7 cụm, diện tích 74 ha; Chương Mỹ 3 cụm, diện tích 21 ha.... Số dự án của các doanh nghiệp, hộ sản xuất được cấp giấy phép tại các cụm công nghiệp làng nghề là 5.870 dự án, bình quân 800m2/dự án. Số dự án của các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động 2000 dự án [29, tr.10]. Thứ tư, sử dụng quỹ đất cho xây dựng hạ tầng kỹ thuật làng nghề có sự chuyển biến tích cực. Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân và giải phóng mặt bằng nên hệ thống quỹ đất dành cho giao thông nông thôn nói chung và giao thông để phục vụ sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội làng nghề phát triển nhanh. Đường giao thông nông thôn từ Thành phố đến trung tâm các xã và các làng nghề truyền thống đã được nâng cấp cải tạo. Theo số liệu của Sở Giao thông vận tải Hà Nội, tổng chiều dài đường giao thông nông thôn ngoại thành là 9.845,16 km, trong đó có 6.101,71 km đường liên thôn, liên xã được rải nhựa, bê tông hoá chiếm 62%; một số huyện đường giao thông nông thôn được bê tông hoá cao chiếm 90% là Đan Phượng, Sóc Sơn, Thường Tín, Từ Liêm... Giao thông nông thôn phát triển đã tạo thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cho sản xuất kinh doanh và khách du lịch đến tham quan các làng nghề. 100% các thôn và 100% số hộ đã có điện từ điện lưới quốc gia. 70% - 75% dân số đã được dùng nước sạch trong sinh hoạt với 18 nhà máy nước và hàng chục nghìn giếng khoan, đó cũng là kết quả của việc tích cực trong khai thác, sử dụng quỹ đất cho phát triển làng nghề.
  • 38. 36 * Ưu điểm trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai cho phát triển làng nghề Hà Nội Xuất phát từ thực tế của Hà Nội và những hình thức khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai có thể vận dụng trên địa bàn Thủ đô, những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi có Luật sửa đổi Luật Đất đai được ban hành, Thành phố Hà Nội đã huy động những nguồn lực tài chính đáng kể từ đất đai nhằm góp phần vào nguồn ngân sách, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội các làng nghề của Thành phố. Thứ nhất, khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức thu tiền sử dụng đất. Từ những quy định hiện hành của Nhà nước cũng như của Thành phố Hà Nội về khai thác nguồn tài chính từ đất đai thông qua thu tiền sử dụng đất, thực tiễn vận hành những quy định đó tại các làng nghề đã đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách. Tạo lập cơ sở cho cân đối ngân sách phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của các làng nghề. Kết quả tiền sử dụng đất thu được tăng dần qua các năm. Nếu như năm 2005 mới chỉ đạt 762 tỷ, năm 2008 tăng lên 2.236 tỷ đồng, đến năm 2010 đạt 5.243 tỷ đồng; năm 2013 kế hoạch thu 10.670 tỷ đồng, kết quả thu 8 tháng đầu năm đạt 5.553 tỷ, bằng 53% kế hoạch năm. Mức tăng trên có nguyên nhân phần lớn là do sự điều chỉnh địa giới hành chính Thành phố Hà Nội năm 2008 làm cho quỹ đất khai thác, sử dụng với tư cách là nguồn lực tài chính được dồi dào hơn nhưng cũng thể hiện sự khai thác hiệu quả nguồn lực này cho phát triển của các làng nghề. Kết quả nguồn thu tăng là do Thành phố đã vận dụng một cách sáng tạo những quy định chung của Nhà nước về thu tiền sử dụng đất trên địa bàn Hà Nội. Các chính sách đã được tổ chức thực hiện hiệu quả với sự tham gia phối hợp của các cơ quan chức năng theo ngành dọc và liên ngành. Từ đó, làm cho hiệu quả
  • 39. 37 thu tiền sử dụng đất tốt hơn, tăng lượng tiền đóng góp vào ngânsách;làcơ sở có vai trò rất quan trọng cho việc huy động nguồn lực tàichính này cho phát triển các làng nghề củaThànhphố. Như trên đã phân tích, số thu tiền sử dụng đất tăngnhanhtrongcác nămtừ2005 đến 2010 còn do từsựgiatăngnguồnthutừbánđấugiáquyềnsửdụngđấtvàdo sựđiều chỉnh địa giới hành chính làm tăng diện tích đất tư nhiên của Thành phố lên nhiều lần. Mục đíchđấugiáquyềnsửdụngđấtlànhằmsửdụnghợp lýhơnnguồntàinguyênđấtđai tại các làng nghề của Thành phố. Hiện nay, quỹ đất chưa sử dụng hoặc không sử dụng đúng mục đích còn nhiều song vẫn chưa khaithác triệt đểnguồnthu, vì vậyviệc đấugiá quyền sử dụng đất là nhằm giúp cho các làng nghề khai thác được nguồn thu hiệu quả hơn. Vớiquy định này, trảiqua quá trình thực hiện trong thực tiễnđấugiáquyềnsửdụng đất đã mang lại nguồn thu không nhỏ cho các làng nghề, là một kênh quan trọng và hữu hiệu để tăng thu tiền sử dụng đất. Thứhai,HàNộiđãđạtđược kếtquảtíchcựctrong khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức thuế. Dưới hình thức thuế, những năm gần đây, Thành phố Hà Nội đã đạt được những kết quả tích cực trong việc khai thác nguồn thu từ đất đai. Quy mô con số tuyệt đối nguồn thu thuế từ đất đai (trừ thuế sử dụng đất nông nghiệp được miễn từ năm 2004) gia tăng hàng năm, bình quân giai đoạn 2000-2010 tăng bình quân hơn 16%/năm [38, tr.44]. Các hình thức thuế như: thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất được khai thác tốt, từ đó làm tăng quy mô cho ngân sách Thành phố nói chung và các làng nghề nói riêng. Từ năm 2012, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có hiệu lực sẽ tạo điều kiện cho Thành phố tăng thêm đáng kể nguồn thu từ thuế sử dụng đất. Việc tăng quy mô ngân sách thông qua gia tăng lượng thuế thu được một mặt, làm cho khả năng chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thành phố cải thiện; mặt khác cũng làm chuyển động trong ý thức của các chủ thể sử dụng đất một cách hiệu quả hơn.
  • 40. 38 Thứ ba, đã phát huy tác động tích cực trong sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai phục vụ phát triển hạ tầng làng nghề. Cùng với các nguồn thu ngân sách khác, nguồn tài chính thu được từ đất đai đã cho phép các làng nghề của Thành phố Hà Nội gia tăng quy mô đầu tư phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề nói riêng. Việc sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai trong những năm qua đang phát huy tác dụng rất tốt vai trò đối với tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển kết cấu hạ tầng các làng nghề. Thông qua những nguồn đầu tư cho các mục đích và chương trình cụ thể, nguồn lực tài chính từ đất đai phát huy tác dụng tích cực, trực tiếp trong nâng cao hiệu quả của chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cho phát triển hạ tầng làng nghề và những mục tiêu đầu tư khác như đã được chứng minh ở vai trò của các làng nghề với sự phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hà Nội. 1.2.3. Hạn chế trong huy động và sử dụng nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề Hà Nội * Khaithácquỹđấtvớivaitròlà tưliệu sản xuấtđểtạodựngmặtbằngsản xuất, xây dựng hạ tầng kỹ thuật cho phát triển làng nghề còn nhiều hạn chế Thứnhất,tậndụngquỹđất sinh hoạt, mặt bằng sản xuất chật hẹp nên ảnh hưởng đến đời sống và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tìnhtrạng phổ biến nhất hiện nay là việc sử dụng luôn nhà ở làm nơi sản xuất. Các cơ sở sản xuất lớn thường chỉ có lán làm bằng tre, lợp fibrô xi măng, rơm rạ, lá mía, căng bạt… mang tính chất tạm bợ. Các bãi tập kết nguyên liệu, kể cả các bãi, kho chứa hàng gần khu dân cư, tạm bợ, không đúng tiêu chuẩn môi trường. Về nhà xưởng, ở các làng nghề chỉ có số ít, chiếm tỷ lệ từ 10% - 30% là nhà xưởng kiên cố, còn lại là bán kiên cố và tạm bợ. Hiện nay, diện tích đất bình quân dành cho sản xuất của các làng nghề mới đáp ứng được 25% -
  • 41. 39 30% nhu cầu. Theo điều tra khảo sát ở một số làng nghề như La Phù (Hoài Đức), Hữu Bằng (Thạch Thất)... có đến 70% số nhà xưởng không đáp ứng yêu cầu sản xuất của các hộ. Vì vậy, nhu cầu về mặt bằng để phát triển mở rộng sản xuất tại làng nghề là rất lớn như: làng nghề gốm sứ Bát Tràng, nhu cầu về mặt bằng sản xuất của mỗi hộ là 500 m2 và các doanh nghiệp thuộc làng nghề là 2000 m2, nhưng hiện nay chỉ đáp ứng khoảng 200 m2/hộ và 500 m2 - 700 m2/doanh nghiệp. Các làng nghề gỗ Liên Hà, Vân Hà nhu cầu diện tích mặt bằng cũng rất lớn đòi hỏi diện tích gấp 3 lần. Các làng nghề La Phù (Hoài Đức), dệt may Cổ Nhuế (Từ Liêm), Tân Triều (Thanh Trì) cần diện tích gấp 4 lần phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Điều đó cho thấy nhu cầu đất để làm mặt bằng sản xuất tại các làng nhề rất lớn nhưng khả năng đáp ứng của Thành phố lại rất có hạn. Thứ hai, quy hoạch các cụm công nghiệp làng nghề còn dàn trải, nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ. Trênthực tế, việc quyhoạchcáccụmcôngnghiệp làngnghề có nhiều cụm diện tíchchỉkhoảng1ha/cụm. Vớidiện tích quá nhỏ như vậy nên chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của các làng nghề. Tiến độ triển khai xây dựng cụm côngnghiệp làng nghề chậm. Nhiều làng nghề do nhu cầubức xúc, các hộ dân đã tự phát lấn chiếm đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đấthành lang đê điều để lấy mặt bằng sản xuất như làng nghề Hữu Bằng (Thạch Thất), Liên Hà, Liên Trung, Tân Hội, Tân Lập (Đan Phượng), La Phù (Hoài Đức) gây khó khăn trong quản lý trật tự an ninh xã hội. Hầu hết các cụm công nghiệp làng nghề đều chưa xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật theo quy định, đặc biệt là hạng mục xử lý ô nhiễm môi trường, đường giao thông nội bộ... Thu hút đầu tư vào cụm công nghiệp làng nghề còn gặp nhiều khó khăn. Do suất đầu tư xây dựng hạ tầng công nghiệp cao nên đấu giá quyền
  • 42. 40 thuê đất tại các cụm công nghiệp có giá từ 1 - 1,5 triệu đồng/m2 gây khó khăn, trở ngại cho việc thu hút đầu tư. Nhiều cụm công nghiệp do quỹ đất hạn chế, trong khi nhu cầu hộ sản xuất làm nghề lớn nên diện tích đất bị chia nhỏ để cho thuê từ 150 m2 - 200 m2/hộ. Cùng với sự quản lý yếu kém của chính quyền, một số hộ dân được thuê đất đã sử dụng đất sai mục đích nên chưa đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu xây dựng cụm công nghiệp làng nghề. Mô hình, cơ chế đầu tư, xây dựng và quản lý hoạt độngcụm côngnghiệp làng nghề chưa hiệu quả. Trên địa bàn Thành phố, việc triển khai xây dựng cụm công nghiệp làng nghề do UBND huyện, xã làm chủ đầu tư nên khó khăn huy động vốn, công tác quản lý cụm công nghiệp còn nhiều bất cập, hạn chế. Thứ ba, đa số các làng nghề, đất dành xây dựng xâydựnghạtầngkỹthuật làng nghề chưa nhiều. Quỹ đất dành cho giao thông còn ít, các đường giao thông còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hoá và đi lại của nhân dân làng nghề. Tỷ lệ đường giao thông tốt trong đa số các làng nghề chỉ chiếm trên dưới 20%. Mạng lưới điện ở làng nghề không đồng bộ, chất lượng thấp, thiếu công suất phục vụ cho sản xuất nên thường xảy ra cháy, chập ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của các làng nghề. Hệ thống cấp nước sạch chưa đáp ứng được cả cho sinh hoạt và cho sản xuất. Chỉ có 60% số hộ nông dân dùng nước sạch theo các hình thức nước giếng khoan, nước mưa, nước giếng khơi, còn lại là dùng nước mặt ao hồ, sông, suối. Do diện tích mặt bằng sản xuất chật hẹp nên các nhà xưởng tại làng nghề không đảm bảo yêu cầu về an toàn trong sản xuất và phòng chống cháy nổ. Đa số các cơ sở sản xuất tại làng nghề không có đất để xây dựng hệ thống thoát và xử lý chất thải phù hợp gây ảnh hưởng đến môi trường... Thứ tư, sử dụng đất không hợp lý cho sản xuất và sinh hoạt nên môi trường làng nghề ô nhiêm nghiêm trọng.
  • 43. 41 Hầu hết các cơ sở sản xuất theo hộ đặt tại nhà và nằm trong khu dân cư nên việc thu gom và xử lý chất thải rất khó khăn. Hệ thống cấp thoát nước chưa đồng bộ, 80% số cơ sở sản xuất chưa có hệ thống xử lý nước thải làm gia tăng ô nhiễm môi trường. Khai thác bừa bãi nên nguồn nước bị cạn kiệt. Nước thải hầu như ít được xử lý gây ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ngày càng nghiêm trọng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, quy mô sản xuất của nhiều làng nghề tăng lên, áp dụng nhiều biện pháp công nghệ có sử dụng hóa chất, thiết bị và nhiêu liệu… đã gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường sống. Hầu hết các làng nghề chưa đầu tư bất kỳ giải pháp nào để giảm thiểu ô nhiễm không khí, tiếng ồn, nước thải, bụi, chất thải rắn, nước thải sản xuất được thải chung với nước thải sinh hoạt của làng. Trong tổng số 41 cụm công nghiệp làng nghề đang hoạt động mới chỉ có 02 cụm công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lý nước thải; 39 cụm công nghiệp làng nghề còn lại hoặc không quy hoạch quỹ đất để xây dựng công trình xử lý nước thải, chất thải, hoặc có quy hoạch nhưng chưa đầu tư xây dựng. * Việc khai thácvà sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai tại các làng nghề trên địa bàn Hà Nội còn tồn tại nhiều yếu kém Thứ nhất, vấn đề quy hoạch treo, dự án treo, giao đất không đúng mục đích sử dụng vẫn còn tồn tại trong các làng nghề. Đấtđai nói chung là nguồn lực vô cùng quý giá, đối với Hà Nội nó còn quý giá hơn nhiều lần so với các địa phương khác, vì vậy nó cần phải được sử dụnghợp lý và hiệu quảnhất. Tuynhiên, trong những năm vừa qua, do công tác tổ chức quyhoạch, xây dựng quy hoạch sử dụng và khai thác nguồn lực đất đai chưatốtđãdẫnđếntồntạihàng loạt các khuquyhoạch treo, đất đai không được sửdụngđúngmục đích,giao đấtcho nhữngchủthểsửdụngđất không đúng mục đích, tình trạng đất công còn bị để hoang hoá rất nhiều. Thứ hai, hoạt động quản lý sau đấu giá còn nhiều yếu kém dẫn đến không thu được toàn bộ số tiền mà các đơn vị trúng đấu giá phải nộp. Đến
  • 44. 42 nay, địa phương có số tiền thu được từ hoạt động bán đấu giá quyền sử dụng đất mới chỉ đạt nhiều nhất là 70%, thậm chí có những quận, huyện đạt rất thấp chỉ khoảng 20% - 30%. Đấu giá quyền sử dụng đất tại các làng nghề của Thành phố cũng nằm trong tình trạng chung như trên. Thứ ba, khai thác nguồn lực tài chính từ đất đai thông qua hình thức thu tiền cho thuê đất. Trong số các nguồn tài chính có thể huy động được từ đất đai tại các làng nghề trên địa bàn Hà Nội, thì hình thức thu từ tiền cho thuê đất có số thu thấp hơn cả; giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010, nguồn thu này chiếm chưa đến 1% tổng nguồn thu từ đất đai [38, tr.24]. Một mặt, các hộ sản xuất tại làng nghề đang sử dụng nơi ở làm mặt bằng sản xuất nên không thu được tiền thuê đất mặt bằng sản xuất. Mặt khác, tiến độ xây dựng các cụm công nghiệp làng nghề để cho các hộ sản xuất thuê đất, mở rộng mặt bằng sản xuất còn chậm, quỹ đất còn hạn chế; các hộ thuê đất tại các cụm công nghiệp đã đi vào hoạt động hầu hết đang trong giai đoạn được hưởng chính sách ưu đãi tiền thuê đất nên nguồn thu này trong những năm qua còn rất hạn chế. Tuy nhiên, về mặt con số tuyệt đối và xu hướng vận động của nguồn thu thì vẫn cho thấy số thu tuyệt đối gia tăng hàng năm. Thứ ba, việc sử dụng tiền thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất cũng chưa thật sự minh bạch. Hiện nay, theo quy định của Thủ tướng Chính phủ và của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội, số tiền thu được từ bán đấu giá quyền sử dụng đất được nộp vào ngân sách và sử dụng phục vụ đầu tư cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác. Thực tế sử dụng nguồn tài chính từ đất đai tại các làng nghề thời gian qua cho thấy tỷ trọng đầu tư phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ trực tiếp cho phát triển sản xuất tại các làng nghề còn thấp, giai đoạn 2005 - 2010 chỉ chiếm bình quân 15% - 20%. Đặc biệt là đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường tại các làng nghề chưa được