SlideShare a Scribd company logo
1 of 89
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÒ THỊ MAI HƢƠNG
HIÖU LùC CñA HîP §åNG B¶O L·NH VAY VèN NG¢N HµNG
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÒ THỊ MAI HƢƠNG
HIÖU LùC CñA HîP §åNG B¶O L·NH VAY VèN NG¢N HµNG
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THỦY
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lò Thị Mai Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG VÀ HIỆU LỰC CỦA
HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG..................... 8
1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ..................... 9
1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng...................16
1.2.1. Về chủ thể tham gia quan hê ̣hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.........16
1.2.2. Về nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ...................22
1.3. Các trƣờng hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng vôhiệu ....26
1.4. Hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng bảo lãnh trong quan hê ̣vớ i hiê ̣u lƣ̣c
của hợp đồng tín dụng......................................................................29
1.4.1. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng........................................................29
1.4.2. Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng bảo lãnh vay vốn với hợp
đồng tín dụng......................................................................................31
Kết luận Chƣơng 1........................................................................................38
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ HIỆU
LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG...39
2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp
đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng...................................................40
2.1.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.........40
2.1.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng..........43
2.1.3. Các trường hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng vô hiệu...............45
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo
lãnh vay vốn ngân hàng ...................................................................47
Kết luận Chƣơng 2........................................................................................65
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY
VỐN NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM................................................66
3.1. Định hƣớng hoàn thiện ....................................................................67
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quá
áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng ..........................................................................................69
3.2.1. Khắc phục bất cập của pháp luật hiền hành về hiệu lực của hợp
đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng......................................................69
3.2.2. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng .......71
3.2.3. Về vấn đề vô hiệu của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng..........72
3.2.4. Các vấn đề khác liên quan..................................................................73
KẾT LUẬN CHUNG....................................................................................76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................78
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật dân sự
BLNH: Bảo lãnh ngân hàng
ICC: Phòng Thương mại Quốc tế
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
TCTD: Tổ chức tín dụng
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
UNCITRAL: Công ước Liên Hiê ̣p Quốc về Hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế
URDG: Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu
DANH MỤC BẢNG
Số hiệu bảng Tên bảng Trang
Bảng 2.1: Số liệu các vụ án về bảo lãnh ngân hàng được giải
quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ
năm 2009 - 2013 48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thời gian gần đây, cùng với sự chuyển biến tích cực của nền kinh
tế thế giới thì nền kinh tế - xã hội ở nước ta cũng có nhiều bước phát triển
đáng kể, trong đó không thể không kể đến vai trò của pháp luật điều chỉnh các
quan hệ kinh tế, nhất là các quan hệ pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng - nhằm
lưu thông và thúc đẩy nguồn vốn trong xã hội. Đặc biệt, các quan hệ bảo đảm
tiền vay trong ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo
nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các biện pháp bảo đảm này tạo cơ sở để
ngân hàng có thể thu hồi vốn vay và bảo đảm sự an toàn trong hợp đồng vay
vốn, hạn chế hiện tượng phá sản ngân hàng.
Khi nói đến các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và bảo lãnh
vay vốn ngân hàng nói riêng, thì đây không phải là vấn đề mới và thậm chí
pháp luật nước ta đã có rất nhiều các quy định nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động của các ngân hàng cũng như nâng cao hiệu quả của pháp luật về
kinh doanh thương mại, ví dụ như: Bộ luật Dân sự 2005, Luật các tổ chức
tín dụng năm 2010, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm...
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân
hàng đã bộc lộ nhiều thiếu sót làm cho các hợp đồng này không thực hiện
được dẫn đến việc hiểu sai bản chất hoặc kiện tụng giữa các bên, không
đáp ứng được yêu cầu khách quan của nền kinh tế, gây cản trở cho sự phát
triển lành mạnh của môi trường kinh doanh.
Để có cái nhìn tổng thể về cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động bảo
lãnh vay vốn đặc biệt là về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng, từ đó có thể đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh tại
ngân hàng trong điều kiện phát triển hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài:
2
“Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật Việt
Nam” nhằm phân tích những đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng và hiệu lực của hợp đồng này, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các
biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng trên thực tế, cũng như
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
Với mong muốn nghiên cứu pháp luật về hiệu lực hợp đồng bảo lãnh
vay vốn ngân hàng một cách toàn diện, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, tôi đã lựa chọn vấn đề “Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo lãnh,
đã có nhiều công trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu ở nhiều khía cạnh
khác nhau về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, hoặc đi sâu
vào nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, phân loại của biện pháp bảo đảm thực
hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, bảo lãnh vay vốn tại ngân hàng cũng như
phương hướng hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Một số công trình nghiên
cứu tiêu biểu về vấn đề này có thể kể đến như: Giáo trình Luật ngân hàng
Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Giáo trình Luật ngân hàng
Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tín dụng ngân hàng của
Học viện Ngân hàng (2001). Bên cạnh đó có một số các công trình nghiên
cứu ở các cấp độ khác nhau, có thể kể đến là:
- Vận dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động ngân hàng ở VN hiện
nay, Luận án tiến sỹ Lê Hồng Tâm, Hà Nội, 2004. Luận án đã hệ thống hóa
những vấn đề lý luận cơ bản của nghiệp vụ bảo lãnh trong nền kinh tế thị
trường. Đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian
qua và đưa ra những đề xuất trong thời gian tới. Tuy nhiên, luận án được thực
hiện trước khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực nên hầu như những nghiên
cứu này đã không còn tính mới.
3
- Giao dịch bảo đảm theo thỏa thuận có đối tượng là quyền đòi nợ theo
quy định của pháp luật Pháp, Anh và Việt Nam, Luận án tiến sĩ Bùi Đức
Giang, Đại học Paris II, 2014. Luận văn đã nghiên cứu và so sánh về giao
dịch bảo đảm ở Việt Nam đối với các nước để làm nổi bật lên tính chất thỏa
thuận của các bên, trong đó chủ yêu phân tích về đối tượng là quyền đòi nợ -
tài sản bảo đảm của bên đi vay nợ.
- Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ Lê Minh Hùng, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010. Nghiên cứu về chế
định hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng, so sánh chế định hợp đồng của Việt
Nam với các nước trên thế giới để đưa ra những bất cập của pháp luật nước ta
khi quy định về vấn đề này, tác giả thấy đây chính là cơ sở để nghiên cứu sâu
rộng hơn nữa về hiệu lực của hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng.
- Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, thực trạng và
phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Minh Chi;
TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn - Hà Nội, 2004. Luận văn này nghiên
cứu về biện pháp bảo lãnh trong thực hiện hợp đồng tín dụng, tuy có nhiều
sáng kiến về các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề
này, tuy nhiên tác giả nhận thấy luận văn chưa làm nổi bật tính chất “đối
nhân” theo như Bộ luật Dân sự 2005 quy định.
- Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng: Luận văn
thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Thảo; TS. Phạm Công Lạc hướng dẫn - Hà Nội,
2006. Nêu lên quá trình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong hoạt động của các
ngân hàng, đồng thời nêu lên những khó khăn, vướng mắc và đưa ra những
biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong quá trình thực hiện biện pháp
này. Tuy nhiên, luận văn này chưa nêu rõ về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh
và cũng chưa làm nổi bật hệ quả nếu như hợp đồng này vô hiệu.
4
- Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín
dụng của tác giả Lê Thị Thu Thủy (2006) - Đề tài nghiên cứu đặc biệt cấp Đại
học Quốc gia. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Lê Thị Thu Thủy
cùng các tác giả tham gia nghiên cứu đã đề cập một cách có hệ thống những
vấn đề lý luận cơ bản về các biện pháp bảo đảm mà cụ thể là các biện pháp
bảo đảm tiền vay bằng tài sản, xác định các nội dung cần thiết khi xác lập hợp
đồng bảo đảm tiền vay, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp
luật về bảo đảm tiền vay.
Bên cạnh những công trình nghiên cứu ở tầm tiến sỹ và thạc sỹ như
đã nêu trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn, được
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, như: Bàn về biện pháp bảo lãnh,
TS. Phạm Văn Tuyết - Tạp chí Ngân hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam,
2013, Số 13. Bài viết Một số vấn đề về quan hệ BLNH ở nước ta hiện nay của
Võ Đình Toàn (2002), tác phẩm Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng
của Lê Nguyên (1996).
Như vậy, vấn đề về biện pháp bảo lãnh trong vay vốn ngân hàng và
hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng không còn là vấn đề
mới trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cái mới của đề
tài nghiên cứu ở tầm thạc sỹ này là ở chỗ, đề tài tập trung nghiên cứu vấn
đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, các điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng này, các trường hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng vô hiệu. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về
hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, luận văn còn nêu ra
những bất cập và phương hướng cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật
về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói chung và hiệu lực của hợp
đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói riêng.
5
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam
về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng này. Đặc
biệt luận văn phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng
bảo lãnh vay vốn ngân hàng trên thực tế, từ đó tìm ra các bất cập và nêu ra kiến
nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp về vấn đề này.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để phù hợp với yêu cầu và phạm vi hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ
luật học, tác giả không có tham vọng nghiên cứu một cách toàn diện các quy
định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói
chung. Luận văn chỉ dừng lại ở một mức độ nghiên cứu nhất định, cụ thể là:
Chỉ nghiên cứu một số vấn đề cơ bản nhất về hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng này. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng
pháp luật Việt Nam về vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện thành công luận văn này, tác giả đã sử dụng một cách
đồng bộ và tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học. Trước hết đó là
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài phương pháp
nghiên cứu có tính chất lý luận cơ bản này, tác giả cũng đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu truyền thống khác, nhất là phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh. Những phương pháp này giúp tác giả tiếp cận các đối
tượng nghiên cứu một cách có cơ sở khoa học, đảm bảo tính hiệu quả của quá
trình nghiên cứu.
6
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vấn đề hiệu lực của hợp đồng
bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật ở Việt Nam, trên cơ sở đó tìm ra
các biện pháp và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ đặc điểm của pháp luật về hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng này và vấn đề vô hiệu của
hợp đồng. Việc nghiên cứu vấn đề này nhằm giúp người đọc nhận thức được
một cách cơ bản diện mạo của pháp luật về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng ở Việt Nam hiện nay, phân tích thực trạng qui định pháp luật Việt Nam
về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. tìm ra các mặt ưu điểm
cũng như các mặt nhược điểm của nó để trên cơ sở đó mà tìm hướng hoàn
thiện cho phù hợp.
Thứ hai, đi sâu vào nghiên cứu hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng theo pháp luật Việt Nam bằng cách phân tích thực trạng qui định
pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Việc
nghiên cứu thành công vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy được đâu là những
vướng mắc mà quá thực thi pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng trên thực tế
đang gặp phải để trên cơ sở đó mà định hướng các giải pháp nhằm tháo gỡ.
Thứ ba, đánh giá, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về hiệu lực của
hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng thông qua các số liệu, các vụ việc thực
tiễn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố, nhất là của các toà
kinh tế cấp tỉnh và của Toà án nhân dân tối cao.
Thứ tư, đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về
hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ở Việt Nam.
7
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn có những điểm mới cơ bản như sau:
Thứ nhất, trình bày những đặc điểm cơ bản của hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, phân tích thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về hiệu lực
của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng dựa trên thực tế các vụ án kinh tế
từ Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao.
Thứ ba, đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và đảm bảo hiệu lực của
hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục,
nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật của Việt Nam về hiệu lực của hợp
đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hiệu lực
của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ở Việt Nam.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH
VAY VỐN NGÂN HÀNG VÀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG
BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc cho ra đời thiết
chế về giao dịch bảo đảm đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các
hoạt động tín dụng nói riêng và cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung,
góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh các
tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không
đúng nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Việc xác định các giao dịch bảo đảm luôn
hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên có quyền trong giao dịch
này. Áp dụng các biện pháp bảo đảm, bên có quyền không chỉ có quyền theo
hợp đồng buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, mà còn có quyền xử lý tài
sản mà bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm.
Ở nước ta, trước khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực, pháp luật Việt Nam
phân chia hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thành hai chế định hoàn toàn
độc lập. Theo đó, pháp luật về giao dịch bảo đảm cũng có sự phân chia tương
ứng. Hệ quả là các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực dân sự chịu sự điều
chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Còn
các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực kinh tế thì chịu sự điều chỉnh trước hết
từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đến
khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời, đã bãi bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các
quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho các quan hệ cả về dân
sự và kinh tế. Cụ thể hóa quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo
đảm, đồng thời bãi bỏ Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
9
1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị
định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP.
Như vậy, pháp luật nước ta đã từng bước cải cách khuôn khổ pháp luật
và điều chỉnh áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về giao dịch bảo
đảm. Theo quy định hiện hành, bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng
mọi biện pháp đối với khách hàng để khoản vay có thể trở về với ngân hàng
một cách an toàn và có lợi. Như vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay
của mình, ngân hàng phải sử dụng rất nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện
pháp được thực hiện khi lựa chọn khách hàng, các biện pháp ngân hàng áp
dụng trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay và các biện pháp được tiến
hành trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn. Thực chất, đó là những biện
pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho
việc thu hồi các khoản vay [38].
Cùng với các biện pháp bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp,
bảo lãnh được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch vay vốn tín dụng.
Biện pháp này đang ngày càng phát huy những ưu thế của mình trong việc
xác lập các giao dịch dân sự và thương mại. Bộ luật Dân sự 2005 với những
thay đổi đáng kể đã tác động rất lớn đến việc thực hiện, xác lập và chấm dứt,
hay nói cách khác là nói đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng, góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các chủ thể
cũng như đảm bảo an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng
Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định ở Việt
Nam, giao dịch bảo đảm được định nghĩa là hợp đồng mà theo đó một bên
(gọi là bên bảo đảm) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về
việc sẽ thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu
10
đến hạn mà nghĩa vụ hoặc các nghĩa vụ đó không được người có nghĩa vụ
thực hiện (Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm). Giao dịch bảo đảm có
nhiều loại khác nhau như: giao dịch cầm cố, giao dịch thế chấp, nhưng phổ
biến nhất vẫn là giao dịch bảo lãnh. Đây cũng là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
được áp dụng tương đối nhiều trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng đối với khách hàng.
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm truyền thống, sớm được sử dụng
rộng rãi, do đó nó được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau như:
Trong Luật La Mã: Bảo lãnh được hiểu là hợp đồng, theo đó bên thứ ba
với mục đích bảo đảm quyền lợi của bên có quyền đã cam kết thực hiện thay
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm của bên thứ ba là trách nhiệm
bổ sung với trách nhiệm của bên có nghĩa vụ và nó chỉ tồn tại khi nghĩa vụ đó
đảm bảo tồn tại trên thực tế [20].
Pháp luật Hoa Kỳ có nêu: bảo lãnh chính là sự thỏa thuận, theo đó
người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi bên nợ
không trả nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện nghĩa vụ của
bên có nghĩa vụ trong trường hợp có nghĩa vụ không thực hiện [53].
Theo Công ước Liên Hợp quốc về Bảo lãnh độc lập và Tín dụng dự
phòng (Công ước UNCITRAL) quy định: “Bảo lãnh hay cam kết là lời hứa
độc lập, được biết trong thực tiễn quốc tế như là một bảo lãnh độc lập hoặc
tín dụng thư dự phòng do Ngân hàng hoặc tổ chức hay cá nhân (Người bảo
lãnh/ người phát hành) thanh toán cho”.
Ở nước ta, giữa pháp luật ngân hàng và pháp luật dân sự có sự tương
đồng và hỗ trợ lẫn nhau trong các lĩnh vực liên quan đến Ngân hàng, chúng
11
đều thống nhất và đồng bộ, hỗ trợ nhau. Về nội dung, sẽ áp dụng quy định
tại Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng trước, sau đó sẽ áp dụng
pháp luật chung để giải quyết các vấn đề liên quan, tuy nhiên, pháp luật
chuyên ngành về thương mại không quy định rõ định nghĩa về hợp đồng bảo
lãnh, vì vậy, Bộ luật Dân sự 2005 thì quy định rất chi tiết về bảo lãnh, tại
Điều 361 BLDS 2005 nêu:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo
lãnh), nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về
việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh
không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình [31, Điều 361].
Theo quy định này, khái niệm bảo lãnh một mặt đề cập đến hành vi bảo
lãnh (là hành vi cam kết của bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện thay nghĩa vụ
của bên có nghĩa vụ nếu nghĩa vụ này bị vi phạm) nhưng mặt khác cũng đề
cập đến giao dịch bảo lãnh giữa các bên liên quan trong đó có nhấn mạnh đến
yếu tố thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của BLDS
năm 2005, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do
bất kỳ chủ thể nào có năng lực pháp luật và năng lực hành vi cam kết thực
hiện thay nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) mà không đưa ra
bất kỳ tài sản nào để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, điều này
càng thể hiện rõ hơn trong Nghị định 163/2006/NÐ-CP, theo đó, bên bảo lãnh
và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận ký kết hợp đồng cầm cố, thế chấp tài
sản (thuộc sở hữu của bên bảo lãnh) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh.
Bảo lãnh được phân ra làm hai hình thức dựa vào tính chất và đối tượng
bảo lãnh là: Bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối vật. Trong đó, bảo lãnh đối
12
nhân được áp dụng chủ yếu với các quan hệ phi tài sản trong dân sự, bảo lãnh
đối vật được áp dụng trong các quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố
tài sản. Trong khi đó, đối tượng của bảo lãnh là sự cam kết bằng uy tín, bằng
lòng tin của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, tài sản chỉ xuất hiện mang tính chất kèm theo uy tín, lòng tin, do đó
bảo lãnh có cả đặc tính của “đối nhân” và “đối vật”. Khi bên bảo lãnh dùng
tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ thì có nghĩa rằng, bên bảo lãnh đã đưa
tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm cố để bảo đảm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh (bên đi vay) đối với bên nhận bảo lãnh.
Nếu như Bộ luật Dân sự 1995 quy định bên cạnh biện pháp bảo lãnh
không bằng tài sản (không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp) là tín chấp vẫn
có thể kèm theo biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản như trước đây là: cầm cố
(hoặc cầm cố – bảo lãnh) hoặc thế chấp (hoặc thế chấp – bảo lãnh) bằng tài
sản của người thứ ba thì tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có sự khác biệt, chỉ còn
một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp. Tức là sẽ
không còn giao dịch bảo lãnh bằng hàng hoá, tài sản, nhà ở nói chung, bằng
quyền sử dụng đất nói riêng. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 lại buộc
người ta phải hiểu một cách khá lắt léo rằng: Bảo lãnh vẫn là “bằng tài sản”,
chứ không phải là bảo lãnh bằng cam kết “suông” như biện pháp tín chấp của
tổ chức chính trị - xã hội, nhưng đồng thời bảo lãnh lại không gắn liền với tài
sản cụ thể, không bao giờ kèm theo việc cầm cố, thế chấp tài sản như trước
đây. Nội dung này được thể hiện một cách mập mờ, chỉ được hiểu gián tiếp
thông qua việc bỏ đi nghĩa vụ của bên bảo lãnh đã được quy định trước đây
tại Bộ luật Dân sự năm 1995: “Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài
sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc” [29]. So sánh
bảo lãnh với tín chấp và cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba ta thấy
rõ được hình thức của bảo lãnh theo quy định Bộ luật Dân sự 2005: Đối với
13
tín chấp: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng “Tín chấp”
được quy định trong Điều 372 của Bộ luật Dân sự năm 2005 dành riêng
cho quan hệ “Tổ chức chính trị – xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín
chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng
hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy
định của Chính phủ” [31, Điều 372]. Thực chất thì trách nhiệm về tài sản
của biện pháp bảo đảm này hoàn toàn bằng không, “nó” không thuộc về quan
hệ tài sản, cũng chẳng phải là quan hệ nhân thân phi tài sản, điều này không
giống với bảo lãnh, bởi lẽ trong quan hệ về bảo lãnh, người ta vẫn hiểu là bảo
lãnh phải dựa trên cơ sở tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên
được bảo lãnh.
So sánh với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về biện pháp bảo lãnh thì
ta thấy, những quy định về hình thức và đối tượng của quan hệ bảo lãnh trong
Bộ luật này hầu như không có gì thay đổi, tuy nhiền, trong Bộluâ ̣t dân sự sử
đổi có phân ra một cách ra ̣ch ròi hơn về các hình thứ c là bảo lãnh bằng uy tín
hay bảo lãnh bằng tài sản, hay nói cách khác là có thiên hướng quy đi ̣nh giống
Bô ̣luâ ̣t Dân sự1995.
Có ý kiến cho rằng: Việc dùng uy tín, chứ không phải tài sản để bảo
lãnh thực chất chỉ là quan hệ dân sự, chứ không phải quan hệ pháp luật. Nếu
coi đây là quan hệ pháp luật, thì sẽ tạo thành cạm bẫy pháp lý cho những
người liên quan trong giao dịch. Bảo lãnh chỉ khác với cầm cố, thế chấp ở
chỗ, không có tài sản cụ thể được đưa vào để bảo đảm cho nghĩa vụ. Bởi vì,
nếu có một tài sản cụ thể được chỉ đích danh dùng để bảo đảm nghĩa vụ, thì
đó sẽ làm cầm cố hoặc thế chấp. Khẳng định điều này, Luật sư Trần Minh Hải
trong một nghiên cứu của mình đã cho rằng, bảo lãnh bản chất luôn luôn là
bằng tài sản. Bởi vì, để bảo đảm cho một nghĩa vụ tài sản, thì đương nhiên
phải dùng một biện pháp bảo đảm có giá trị bằng tài sản. Khi một bên chấp
14
nhận biện pháp bảo lãnh của bên thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ là họ đã
nhìn vào túi tiền, nhìn vào tài sản của bên nhận bảo lãnh với ước lượng chắc
chắn về khả năng bên bảo lãnh sẽ phải dùng một phần tài sản để thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh nếu phát sinh [17].
Lại có quan điểm cho rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách
hàng vay có tài sản hữu hình để đối ứng với món vay của mình. Song thực tế
chứng minh một khoản vay nếu chỉ được bảo đảm bằng tài sản hữu hình thì
đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu
tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lí do nào
đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản. Vì vậy, bảo đảm tiền vay
phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ là tài sản có giá thị
trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn tất cả, nó là uy tín, tiềm lực tài chính,
tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng nhất trong thực hiện bảo
đảm tiền vay. Hay nói cách khác, mục đích của bảo lãnh là nhằm tạo cơ hội
thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ, ngay cả khi người có nghĩa
vụ không có tài sản để bảo đảm.
Trong thực tế, nghĩa vụ được bảo lãnh luôn là nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ, hay nói cách khác, vị thế của người bảo lãnh dưới con mắt chủ nợ
luôn trong tư thế là một “con nợ” dự phòng. Điều này có nghĩa, chỉ khi nào
bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của
mình thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện
nghĩa vụ thay. Quy tắc này không được thể hiện rõ ở Bộ luật Dân sự năm
1995 (khoản 1 Điều 366) [29] và Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 361) [31], có
nghĩa là, trong trường hợp không có thỏa thuận đặc biệt, nếu nghĩa vụ đến hạn
thực hiện mà người có nghĩa vụ không thực hiện dù đã có yêu cầu thì ngay
lập tức bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa
vụ thay dù bên được bảo lãnh có khả năng mà chưa kịp hay không muốn thực
15
hiện nghĩa vụ của mình. Điều này là một bất cập vì nó ảnh hưởng gián tiếp
đến việc giải quyết các hệ quả phát sinh khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu sẽ
được đề cập trong phần tiếp theo của luận văn.
Tóm lại, bảo lãnh trong vay vốn ngân hàng là việc người thứ ba (là
pháp nhân hoặc cá nhân – bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (bên nhận
bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn (bên được bảo
lãnh) nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không trả được một phần hay
toàn bộ nợ vay (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) cho bên nhận bảo
lãnh. Đây là quan hệ đối nhân, theo đó, bên bảo lãnh sử dụng uy tín của mình
để bảo lãnh cho người vay vốn. Tài sản của bên bảo lãnh chỉ bị xử lý khi đã
đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện các cam
kết đã thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh.
Từ những sự phân tích trên, ta có thể rút ra định nghĩa về hợp đồng bảo
lãnh như sau: “Hợp đồng bảo lãnh là sự thỏa thuận giữa ba bên chủ thể (bên
nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh) hoặc giữa hai bên (bên
nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh), theo đó bên bảo lãnh (tổ chức, cá nhân) cam
kết với bên có quyền (ngân hàng cho vay) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên được bảo lãnh (khách hàng vay vốn) trong trường hợp khách hàng không
trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho bên nhận bảo lãnh”.
Như vâ ̣y, so sánh với khái niê ̣m về bảo lãnh đã nêu ở một số Quốc gia
cũng như Công ước quốc tế , thì quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về bảo lãnh cũng có những điểm chung phù hợp với thông lê ̣quốc tế về viê ̣c
dùng uy tín để bảo lãnh , tuy nhiên, ở nước ta còn có luật chuyên ngành là
Luâ ̣t Ngân hàng , Luâ ̣t các tổ chứ c tín dụng và những văn bản dưới luâ ̣t trực
tiếp điều chỉnh về bảo lãnh trong lĩnh vực ngân hàng , theo đó, người bảo lãnh
phải cam kết dùng tài sản của mình để bảo lãnh cho người được bảo lãnh , đây
là nội dung chủ yếu sẽ được phân tích trong luận văn này.
16
1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng
1.2.1. Về chủ thể tham gia quan hê ̣hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng
Bảo lãnh là một hình thức bảo đảm gián tiếp nhưng được sử dụng khá
phổ biến. Nó mang ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng và khuyến khích
đầu tư. Khi bảo lãnh cho một khoản vốn vay, bên bảo lãnh phải ý thức được
trách nhiệm của mình đối với khoản vay. Vì mặc dù, để chấp nhận cung cấp
một khoản vay, ngân hàng phải xem xét khách hàng trên nhiều khía cạnh khác
nhau như tính khả thi của dự án, khả năng hoàn trả nợ vay…, nhưng người
chịu trách nhiệm trực tiếp trước ngân hàng khi khoản vay “có vấn đề” lại là
bên bảo lãnh. Với ngân hàng, bên bảo lãnh là người cùng chia sẻ mọi rủi ro
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Còn trên phương diện là
bên bảo lãnh, họ là người gánh chịu mọi rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt
động của người vay. Vì vậy, khi đứng ra bảo lãnh cho một khách hàng vay,
bên bảo lãnh phải hiểu rõ năng lực và uy tín của người vay hoặc có quan hệ
đặc biệt với khách hàng đó.
Vậy cam kết bảo lãnh có là hành vi giao kết hợp đồng không? Về vấn
đề này có quan điểm cho rằng cam kết bảo lãnh chỉ là cam kết đơn phương và
không thể coi là hành vi giao kết hợp đồng [27]. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự lại
quy định: Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
của mình. Như vậy, Bộ luật dân sự đã khẳng định, bảo lãnh phát sinh trên sơ
sở sự thỏa thuận giữa các bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh và nó là điều
kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh ở đây không
phải là hành vi giao kết hợp đồng bảo lãnh, quan hệ bảo lãnh không phát sinh
mang tính đơn phương bằng cam kết riêng của bên bảo lãnh [49].
Vì vậy, bảo lãnh thực chất cũng là một loại hợp đồng cụ thể mà đối
tượng trước hết của nó là sự cam kết bằng uy tín để đảm bảo thực hiện nghĩa
17
vụ. Điều này có nghĩa là khi nhận bảo lãnh, người nhận bảo lãnh cũng rất
quan tâm đến cả nhân thân người bảo lãnh, ví dụ: uy tín, độ tin cậy, tư cách...
Đồng thời, với sự đánh giá này, người nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến
khả năng tài sản của người bảo lãnh, vì trong trường hợp nghĩa vụ tài sản
không được người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không đúng,
người bảo lãnh sẽ phải thực hiện thay bằng tài sản của mình.
Tóm lại, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm có những đặc điểm chung
của biện pháp bảo lãnh trong giao dịch dân sự, đồng thời cũng có điểm đặc thù
xuất phát từ đặc trưng, tính chất của hoạt động ngân hàng. Đặc điểm này quyết
định tới việc xây dựng pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động của ngân hàng.
Hiểu đúng bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh là cơ sở để thiết lập
cơ cấu chủ thể của một hợp đồng bảo lãnh. Về mặt lý thuyết, hợp đồng bảo
lãnh thông thường được ký kết bởi ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh
(chủ yếu là TCTD) và bên được bảo lãnh, các chủ thể này phải đảm bảo một
trong các tiêu chí sau:
- Có uy tín,
- Phải chứng minh được năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực
hiện được nghĩa vụ.
Chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh bao gồm ba bên trong quan hệ nghĩa
vụ chính là TCTD – bên nhận bảo lãnh, khách hàng – bên được bảo lãnh và
bên bảo lãnh (bên thứ ba). Tuy nhiên, việc tham gia ký kết của bên được bảo
lãnh không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh,
bởi lẽ, cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh cần phải được nhìn nhận như là cơ
sở ban đầu để xác lập hợp đồng bảo lãnh. Nếu bên nhận bảo lãnh không chấp
nhận thì quan hệ bảo lãnh không thể được xác lập. Về vấn đề này, pháp luật
Nhật Bản cũng có quy định tương tự “Nghĩa vụ bảo lãnh được hình thành
18
trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh. Các bên của hợp đồng bảo lãnh là người bảo
lãnh và chủ nợ của người mắc nợ khác” [50, tr.427].
Theo quy định tại Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP về
giao dịch bảo đảm, có thể xác định được các điều kiện như sau:
- Bên bảo lãnh: Căn cứ vào các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự,
người bảo lãnh phải là người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự. Ngoài ra, người đứng ra bảo lãnh (có thể là cá nhân hoặc tổ chức) phải
là người có uy tín được tổ chức tín dụng chấp nhận, điều này được thể hiện cụ
thể đối với từng loại bảo lãnh (như: bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh bằng tín
chấp, bảo lãnh bằng uy tín của các tổ chức, cá nhân khác). Để tham gia vào
quan hệ hợp đồng bảo lãnh, người bảo lãnh phải có các điều kiện sau:
Một là, người bảo lãnh phải có năng lực pháp luật dân sự nếu như
bên bảo lãnh là pháp nhân. Còn nếu bên bảo lãnh là cá nhân thì bên bảo
lãnh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với pháp
nhân phải có người đại diện đủ thẩm quyền để thay mặt pháp nhân ký kết
hợp đồng bảo lãnh.
Hai là, Người bảo lãnh phải có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. Đối với người bảo lãnh là cá nhân thì đòi hỏi phải có chỗ
làm việc ổn định, thu thập nhường xuyên hoặc phải có một tài sản nhất định
(như nhà ở, đất đai…). Trong trường hợp người bảo lãnh là nhiều cá nhân thì
yêu cầu tổng thu nhập của các cá nhân đó phải lớn hơn thu nhập của bên đi
vay (người được bảo lãnh).
Thứ ba: Người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước TCTD về khoản
vay của khách hàng mà mình đứng ra bảo lãnh. Trường hợp nhiều người cùng
đứng ra bảo lãnh cho một khoản nợ thì tất cả những người bảo lãnh đương
nhiên phải chịu trách nhiệm liên đới đối với chủ nợ (trừ trường hợp giữa họ
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập).
TCTD nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bất cứ một trong số những bên bảo lãnh
19
thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh (Khoản 2 Mục III Thông tư số
07/2003/TT-NHNN, Điều 365 Bộ luật dân sự năm 2005) [22].
Luật pháp của nhiều nước có quy định về các điều kiện cụ thể của
người bảo lãnh. Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản, người bảo lãnh phải có năng
lực hành vi đầy đủ và có đủ các phương tiện để thực hiện trái vụ. Tuy nhiên,
điều kiện này không áp dụng trong trường hợp người nhận bảo lãnh tự đề cử
người bảo lãnh [50].
Luật về bảo đảm của Trung Quốc quy định người bảo lãnh có thể là
một pháp nhân hoặc bất kỳ cá nhân nào khác có khả năng thanh toán nợ.
Ngoài ra có một số chủ thể không thể trở thành người bảo lãnh như các cơ
quan, tổ chức xã hội hoạt động vì mục đích công, ví dụ như: nhà trẻ, trường
học, bệnh viện... (25, Điều 8).
Theo Bộ luật Dân sự Pháp, trường hợp người có nghĩa vụ bắt buộc phải
có người bảo lãnh thì phải giới thiệu một người bảo lãnh có năng lực ký kết
hợp đồng, có tài sản đáp ứng đối tượng của nghĩa vụ và phải có nơi cư trú
trong quản hạt của Toà phúc thẩm nơi bảo lãnh (2, Điều 2018). Khả năng thực
hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh được đánh giá bằng những bất động sản của
họ, trừ bất động sản được sử dụng vào mục đích thương mại hoặc khi nghĩa
vụ có giá trị nhỏ. Tài sản này cũng không tính tới những bất động sản đang có
tranh chấp hoặc bất động sản mà việc kê biên hoặc bán gặp nhiều khó khăn vì
ở xa (2, Điều 2019) [47].
Như vậy, các điều kiện của người bảo lãnh nhìn chung rất đa dạng, tuỳ
thuộc vào điều kiện của các quốc gia. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể điều
kiện của người bảo lãnh là rất cần thiết bởi lẽ người bảo lãnh chính là người
đứng ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, người phải chịu trách nhiệm thực hiện
thay trong trường hợp người vay vốn không thực hiện nghĩa vụ với tổ chức tín
dụng. Nói như vậy không có nghĩa là người bảo lãnh bắt buộc phải thanh toán
20
khoản nợ của người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh thông báo mình
không có khả năng chi trả. Vì theo quy định tại Điều 361 BLDS thì “bên bảo
lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình” [31]. Như vậy, trong trường hợp nếu
người bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ dân sự thay thế cho người được bảo
lãnh khi người được bảo lãnh không thể chính mình thực hiện nghĩa vụ thì chỉ
cần đưa thỏa thuận này vào hợp đồng bảo lãnh để phòng trường hợp người
được bảo lãnh mặc dù có khả năng nhưng cố tình không thực hiện nghĩa vụ.
Ngoài ra, người bảo lãnh nếu muốn cũng có thể giới hạn nghĩa vụ bảo lãnh
của mình, ví dụ đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và người được bảo
lãnh thì người bảo lãnh có thể chỉ bảo lãnh cho phần trả nợ gốc, lãi, phạt chứ
không bảo lãnh cho phần bồi thường thiệt hại.
- Bên nhận bảo lãnh: Người nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh vay
vốn ngân hàng là bên cho vay – các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là
bên thụ hưởng một món nợ do người được bảo đảm thanh toán từ một nghĩa
vụ trong các hợp đồng, các tổ chức này được thành lập và hoạt động theo Luật
các tổ chức tín dụng. Muốn trở thành bên cho vay theo Luật các Tổ chức tín
dụng [49], tổ chức phải đáp ứng các điều kiện sau:
+ Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cấp.
+ Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
+ Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
+ Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng
tín dụng với khách hàng.
Những điều kiện trên là căn cứ để xác định tư cách pháp lý của bên cho
vay cũng như tính hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng. Qua đó, giúp loại bỏ được các chủ thể không đủ tiêu chuẩn
hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người đi vay.
21
- Bên được bảo lãnh: Người được bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh vay
vốn ngân hàng là khách hàng vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo pháp luật
hiện hành, các chủ thể này bao gồm các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác,
doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, pháp nhân Việt Nam và các cá nhân,
pháp nhân nước ngoài có đủ điều kiện vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Điều
kiện vay vốn được thể hiện trước tiên ở năng lực pháp luật và năng lực hành
vi của các chủ thể, tiếp đó là các điều kiện về mục đích sử dụng vốn vay (hợp
pháp), khả năng tài chính bảo đảm cho dự án, phương án sử dụng vốn vay khả
thi và hợp pháp. Nhìn chung các điều kiện này tương đối đầy đủ và phù hợp
với thực tế. Các điều kiện vừa bao quát được các loại chủ thể theo quy định
của pháp luật, vừa đưa ra những tiêu chuẩn cần thiết cho đối tượng vay vốn.
Như vậy, bên bảo lãnh có thể là một cá nhân hoặc gồm nhiều cá nhân,
một tổ chức hoặc nhiều tổ chức, một tổ chức và một cá nhân. Tuy nhiên, việc
nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện
việc bảo lãnh trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác. Thông thường, quan hệ bảo lãnh vay vốn ngân hàng bao gồm các chủ
thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi như trên.
Tuy nhiên, trong bảo lãnh, cả ba mối quan hệ trên (quan hệ giữa người
bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh) cùng tồn tại song
song, nhưng cũng có khi chỉ cần có hai bên, đó là: bên bảo lãnh và bên nhận
bảo lãnh. Việc tham gia ký kết của bên nhận bảo lãnh không phải là điều kiện
bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh. Khi bên thứ ba đưa tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác
(khách hàng vay) thì chỉ cần thiết lập hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng cầm
cố tài sản giữa hai bên: bên bảo đảm (bên thế chấp) với bên có quyền (bên
nhận thế chấp), còn bên được bảo lãnh đã ký kết hợp đồng tín dụng, bởi hợp
đồng tín dụng là hợp đồng chính, còn hợp đồng bảo đảm luôn là hợp đồng
22
phụ, mang tính chất dự phòng khi nghĩa vụ bị vi phạm. Chúng được tách
thành cam kết riêng giữa hai bên căn cứ vào một văn bản pháp luật cụ thể nào
đó hay thực hiện đường lối chính sách của Nhà nước mà không nhất thiết phải
lập hợp đồng riêng hoặc có thể bên bảo lãnh tự nguyện thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không biết và bên bảo lãnh cũng
không yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hoàn lại.
Nói tóm lại, trong số bảy biện pháp bảo đảm, có hai biện pháp có sự
tham gia trực tiếp của người thứ ba, đó là bảo lãnh và tín chấp. Tuy nhiên, tín
chấp có phạm vi chủ thể rất hẹp, đó là, bên tín chấp là tổ chức chính trị, xã hội
tại cơ sở, bên nhận tín chấp là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, bên được tín
chấp là cá nhân, hộ gia đình nghèo. Tín chấp hoàn toàn được hiểu là biện
pháp bảo đảm mang tính đối nhân, không có chế tài về tài sản đối với bên tín
chấp. Còn trong quan hệ bảo lãnh, chủ thể tham gia có thể là bất kỳ cá nhân,
tổ chức nào có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
1.2.2. Về nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham
gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Phần lớn các hợp đồng, nội dung của
chúng hầu như không được hoặc không cần xác định đầy đủ. Tuy nhiên,
người ta đòi hỏi trong mỗi hợp đồng đều phải có các nội dung cụ thể nhằm
phục vụ cho quá trình thực hiện hợp đồng cũng như áp dụng các chế tài khi
hợp đồng xảy ra tranh chấp. Trong Giáo trình Luật Dân sự của Đại học Luật Hà
Nội có nêu: “Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà
các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận” [49]. Các điều khoản
đó xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp
đồng. Bộ luật Dân sự 2005 quy định về nội dung của hợp đồng tại Điều 402,
gợi ý về nội dung chứ không ấn định yêu cầu cụ thể cần phải có trong giao kết
hợp đồng, điều này viết:
23
Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội
dung sau đây:
1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc
phải làm hoặc không được làm;
2. Số lượng, chất lượng;
3. Giá, phương thức thanh toán;
4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
5. Quyền, nghĩa vụ của các bên;
6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
7. Phạt vi phạm hợp đồng;
8. Các nội dung khác [31, Điều 402].
Căn cứ vào các quy định của Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-
BLĐTBXH-BTP ngày 11/7/2007, thì trong hợp đồng bảo lãnh, các bên đã
phải thỏa thuận với nhau về phạm vi bảo lãnh, biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng bảo lãnh và phương thức thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Tuy nhiên,
trên thực tế, tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng mà các bên có thể thỏa
thuận hay không thỏa thuận tất cả các điều khoản ghi trên. Cũng có thể bổ
sung thêm vào hợp đồng những điều khoản không có quy định nhưng các bên
thấy cần thiết. Như vậy, có thể thấy, nội dung của hợp đồng là một vấn đề rất
rộng và hầu như pháp luật Việt Nam rất mở trong vấn đề quy định về nội
dung của hợp đồng, có lẽ vì muốn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham
gia hợp đồng - đúng với tinh thần của Bộ luật Dân sự và phù hợp với thông lệ
quốc tế. Thông thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như:
đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối
tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp
đồng… (Điều 402). Bất kỳ nội dung nào vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu.
24
Nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng dựa trên nền tảng
là nội dung của hợp đồng dân sự với tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng. Đi sâu phân tích về bảo
lãnh ngân hàng, ta thấy rõ được điều này, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010
và Điều 3 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2015 quy
định về bảo lãnh ngân hàng có nêu:
Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên
bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa
vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh
không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết
với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả
cho bên bảo lãnh [24, Điều 3].
Khi so sánh hai khái niệm: bảo lãnh và BLNH theo quy định của pháp
luật Việt Nam, chúng ta thấy nếu như bảo lãnh nói chung được xác định là
một biện pháp (giao dịch) bảo đảm thì BLNH vừa được xác định là biện pháp
bảo đảm, vừa được xác định là một hình thức cấp tín dụng.
Hoạt động BLNH là quá trình làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hai
mối quan hệ pháp luật sau đây: (i) quan hệ hợp đồng cấp bảo lãnh được xác
lập giữa ngân hàng bảo lãnh (bên bảo lãnh) với khách hàng (bên được bảo
lãnh) là tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tài sản cần được bảo đảm bằng bảo lãnh;
và (ii) quan hệ hợp đồng bảo lãnh phát sinh giữa ngân hàng bảo lãnh với bên
thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh).
Hai quan hệ pháp luật này tuy tồn tại độc lập với nhau nhưng
có ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, theo đó, hợp đồng cấp bảo lãnh là
căn cứ hình thành hợp đồng bảo lãnh, còn hợp đồng bảo lãnh là
bằng chứng về việc thực hiện hợp đồng cấp bảo lãnh giữa ngân
hàng bảo lãnh đối với khách hàng.
25
Khi khách hàng có nhu cầu được bảo lãnh cho nghĩa vụ tài sản đối với
bên nhận bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh sẽ thực hiện thẩm định khách hàng và
nếu đủ điều kiện sẽ cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Kết quả của
quá trình này là ngân hàng bảo lãnh và khách hàng sẽ ký hợp đồng cấp bảo
lãnh. Về nguyên tắc, các điều khoản tại hợp đồng cấp bảo lãnh là kết quả của
sự thỏa thuận giữa hai chủ thể bình đẳng về mặt pháp lý. Trong thực tế, các
ngân hàng thường xây dựng sẵn mẫu hợp đồng cấp bảo lãnh để làm cơ sở cho
việc đàm phán ký kết hợp đồng. Nhìn chung, nội dung hợp đồng cấp bảo lãnh
thường bao gồm các điều khoản về thông tin chủ thể tham gia (người bảo lãnh
và người được bảo lãnh), số tiền bảo lãnh, mục đích bảo lãnh, hình thức phát
hành cam kết bảo lãnh, trường hợp thực hiện bảo lãnh, phí bảo lãnh, quyền và
nghĩa vụ của các bên chủ thể. Khi hợp đồng cấp bảo lãnh có hiệu lực, các bên
sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các giao
dịch kinh tế, thương mại, dân sự ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn
chiều sâu. Để đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, thương mại,
dân sự, chế định về giao dịch bảo đảm ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt
là về lĩnh vực bảo lãnh, nội dung, hình thức và các tài sản được đưa vào giao
dịch bảo lãnh ngày càng đa dạng phong phú, trong đó có cả tài sản hình
thành trong tương lai và chế định này là một bước tiến lớn trong khoa học
pháp lý và là sản phẩm tất yếu của sự phát triển các giao dịch dân sự. Cùng
với nó là chế tài xử lý tài sản của bên bảo lãnh được pháp luật quy định rất
rõ ràng và cụ thể “trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho
bên bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh
toán cho bên nhận bảo lãnh” [31, Điều 369].
26
1.3. Các trƣờng hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàngvô hiệu
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không thỏa mãn một trong các
điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật.
- Nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội;
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;
- Vô hiệu do nhầm lẫn;
- Vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa;
- Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình;
- Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức (chỉ trong một số trường
hợp nhất định, ví dụ: không lập thành văn bản, không có đầy đủ chữ ký của
các bên hoặc không công chứng, chứng thực…).
Thứ hai, tùy thuộc vào tính chất và mức độ của sự vô hiệu hợp đồng,
hợp đồng vô hiệu có thể được chia thành:
- Hợp đồng vô hiệu toàn bộ (Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối);
- Hợp đồng vô hiệu từng phần (Hợp đồng vô hiệu tương đối);
Theo quy định của Bộ luật Dân sự, hợp đồng vô hiệu không làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm giao kết. Các bên phải khôi
phục lại tình trạng ban đầu. Việc khôi phục lại tình trạng ban đầu được thực
hiện theo quy định sau:
- Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả
được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền (trừ trường hợp tài sản bị tịch thu
theo quy định của pháp luật);
- Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường cho bên kia.
Theo pháp luật của Việt Nam cũng như của nhiều nước, hợp đồng vô
hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các
27
bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận. Nhưng trong một số trường hợp, việc hoàn trả
bằng hiện vật không thể thực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã được
tiêu thụ, bị mất, bị bán lại cho người khác.
Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại tại Tạp chí Khoa học Pháp lý số
5, Đại học Paris, Cộng hòa Pháp ghi nhận: “Theo pháp luật của các nước Châu
Âu lục địa, trong những trường hợp như vậy, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô
hiệu và việc hoàn trả được thanh toán bằng giá trị tương đương. Giải pháp này
cũng được thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng” [17]. Tác giả này
cũng đưa ra một số dẫn chứng cụ thể, theo Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc
Châu Âu về hợp đồng, “nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện
được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tương tự, theo Điều 3.17 Bộ
nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, “những gì không
thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”. Khi
không thể hoàn trả bằng hiện vật, việc hoàn trả bằng giá trị cũng được thừa
nhận ở Việt Nam. Theo Điều 39, khoản 2, điểm a, Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế, “trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả
bằng tiền” và theo Điều 137, khoản 2, Bộ luật dân sự năm 2005, “nếu không
hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”.
Việc tuyên bố một hợp đồng vô hiệu thuộc thẩm quyền của Toà án.
Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân
hàng, mà hợp đồng bảo lãnh vô hiệu cũng mang đặc điểm của một hợp đồng
kinh tế vô hiệu. Theo đó, quy định tại Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP
thì “Trong trường hợp phải xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại
Điều 369 Bộ luật Dân sự thì các bên thỏa thuận về tài sản, thời gian, địa điểm
và phương thức xử lý; nếu không thỏa thuận được thì bên nhận bảo lãnh có
quyền khởi kiện tại Tòa án” [14, Điều 47]. Tuy nhiên, trên thực tế, khi một
28
người yêu cầu tuyên bố hoạt động vô hiệu là vì họ không muốn thực hiện đầy
đủ những gì mà hợp đồng buộc họ phải làm. Khi Tòa án tuyên bố các bên vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản (khôi phục lại tình trạng ban đầu), thì
có lẽ các bên sẽ “ngại” đến Tòa để yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bởi
khi đó tài sản đã không còn hoặc đã bị hỏng... việc phải bồi hoàn bằng tiền
khiến các bên càng thêm căng thẳng. Trong trường hợp đồng bảo lãnh, có một
nhà bình luận Bộ luật Dân sự Việt Nam cho rằng “nếu nghĩa vụ được bảo lãnh
vô hiệu thì nghĩa vụ bảo lãnh, trên nguyên tắc, sẽ biến mất”. Tuy nhiên, cũng
có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng vô hiệu toàn phần thì nghĩa vụ bảo lãnh
cũng không biến mất mà sẽ vẫn được thực hiện, bởi theo Điều 361 BLDS
2005 thì người bảo lãnh vẫn phải có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận bảo
lãnh. Theo quan điểm này thì chúng ta thấy rằng, Tòa án đã không để các bên
mất quyền lợi mà tạo điều kiện cho các bên giao kết hợp đồng bởi nó đem lại
lợi ích hợp pháp mà các bên mong đợi khi giao kết.
Căn cứ theo Ðiều 317 và Ðiều 410 BLDS 2005 về hợp đồng dân sự vô
hiệu, điều này khẳng định biện pháp bảo đảm là một biện pháp gắn bó mật
thiết với hợp đồng, nhưng không phải là một phần của hợp đồng hoặc là nội
dung của hợp đồng, dù có thể được ghi trong hợp đồng chính. Bởi lẽ: Biện
pháp bảo đảm kèm theo nghĩa vụ không đương nhiên được chuyển giao nếu
không có thỏa thuận khác. Như vậy, cũng có thể nói, biện pháp bảo đảm
không phải là một phần của nghĩa vụ, mà chỉ là biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, điều này cũng có nghĩa nó không thuộc hợp đồng mà chỉ là biện
pháp bảo đảm ký kết hoặc thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ. Mặt
khác, điều này một lần nữa được khẳng định tại Ðiều 410 BLDS 2005, sự vô
hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Về nguyên tắc, đối tượng của sự bảo lãnh phải là một nghĩa vụ đang
29
tồn tại, do đó sự bảo lãnh về một nghĩa vụ vô hiệu tuyệt đối sẽ không phát
sinh một hiệu lực nào cả. Về các trường hợp vô hiệu tương đối, người ta
thường phân biệt: Nếu nguyên nhân của sự vô hiệu là người được bảo lãnh
không có năng lực hành vi, sự huỷ bỏ nghĩa vụ chính không kéo theo sự vô
hiệu của bảo lãnh, nếu người bảo lãnh khi cam kết đã biết rõ người được bảo
lãnh không có năng lực.
1.4. Hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng bảo lãnh trong quan hê ̣vớ i hiê ̣u lƣ̣c của
hợp đồng tín dụng
1.4.1. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh
tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan
hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt
đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hiện, cũng là đồng thời xuất
hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới
hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Xuất hiện sở hữu tư nhân tư
liệu sản xuất, làm cho xã hội có sự phân hóa: giàu, nghèo, người nắm quyền
lực, người không có gì.... Khi người nghèo gặp phải những khó khăn không
thể tránh thì buộc họ phải đi vay, mà những người giàu thì câu kết với nhau
để ấn định lãi suất cao, chính vì thế, tín dụng nặng lãi ra đời. Trong giai đoạn
tín dụng nặng lãi, tín dụng có lãi suất cao nhất là 40-50%, do việc sử dụng tín
dụng nặng lãi không phục vụ cho việc sản xuất mà chỉ phục vụ cho mục đích
tín dụng nên nền kinh tế bị kìm hãm động lực phát triển. Về sau, tín dụng đã
chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.
Tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho
đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên
cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt
động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên
30
đi vay gọi là con nợ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên: Một
bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng
buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,... Thực
chất: “Tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập
và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho
quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả” [48].
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp
đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD),
trong đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng). Hợp
đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay
giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong
một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và
lãi. Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì hợp đồng tín dụng sẽ
là hợp đồng thương mại, nếu bên vay là cá nhân, thì hợp đồng tín dụng sẽ là
hợp đồng dân sự. Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa
đặc biệt, đó là tiền tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì
thế mạnh hoàn toàn thuộc về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có
hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm
1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp
tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu cầu khách hàng cung cấp tài
liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng giải
ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai
trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi
phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành
bên thụ động. Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và
31
Quy chế Cho vay của TCTD đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) ban hành (hiện nay là Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31-12-2001), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện, điều khoản có
trong một hợp đồng tín dụng. Có thể hiểu: “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa
thuận giữa bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng). Theo đó, bên
cho vay chuyển nhượng quyền sở hữu số tiền vay cho khách hàng theo
nguyên tắc hoàn trả dựa trên cơ sở sự tin tưởng, sự tín nhiệm” [21].
Như vậy, tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng
(TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế)
trong đó ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng
trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng (TCTD) khi đến hạn
thanh toán. Đặt trong mối quan hệ so sánh với hợp đồ ng bảo lãnh thì hợp
đồng tín dụng là hợp đồng vay tiền , còn hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng bảo
đảm tiền vay cho hợp đồng vay tiền . Tuy vâ ̣y, hai hợp đồng này có hiê ̣u lực
hoàn toàn độc lập và sự vô hiệu của hợp đồng n ày không hề ảnh hưởng đển
hợp đồng kia và ngược la ̣i .
1.4.2. Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng bảo lãnh vay vốn với hợp
đồng tín dụng
Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản
theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS), theo đó ngân hàng là bên
cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác
định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn
trả cả gốc và lãi. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp
bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân
hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng). Còn những hoạt động cấp tín dụng
khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp
32
đồng cấp tín dụng. Tìm hiểu rõ về các khía cạnh của mối quan hệ này, ta
thấy được sự khác biệt rõ rệt:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng bảo lãnh tài sản bảo đảm tiền vay luôn
có một bên là tổ chức tín dụng - với tư cách là bên nhận bảo lãnh (bên có
quyền đòi nợ theo hợp đồng tín dụng). Ngoài ra, chủ thể thứ hai là bên bảo
lãnh và chủ thể thứ ba là bên được bảo lãnh.
Do chủ thể nhận bảo lãnh là tổ chức tín dụng nên việc phòng tránh rủi
ro tín dụng cho chủ thể này là vấn đề hết sức quan trọng, được pháp luật quan
tâm đặc biệt vì mục tiêu giữ vững an toàn của hệ thống ngân hàng và đảm bảo
lợi ích quốc gia.
Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm bằng hợp đồng bảo lãnh thường là
nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng vay vốn. Nghĩa vụ này phát sinh từ hợp đồng tín dụng, bao gồm
nợ gốc, nợ lãi, các khoản phí, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thực tế cho thấy, do nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hợp đồng tín
dụng thường có giá trị lớn và có tính rủi ro cao nên hầu hết các tổ chức tín
dụng khi cho vay đều mong muốn sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để
phòng tránh rủi ro cho các khoản tín dụng đã cung cấp. Chính vì vậy, các
hợp đồng bảo lãnh hiện nay được giao kết chủ yếu là nhằm bảo đảm cho
nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ các hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín
dụng với khách hàng. Thực tế đó, càng chứng tỏ vai trò của các biện pháp
bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp bảo lãnh tài sản nói riêng đối với
yêu cầu bảo đảm quyền chủ nợ cho các tổ chức tín dụng trong điều kiện
nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng,
do tổ chức tín dụng rất coi trọng vai trò tác dụng của các biện pháp bảo đảm
33
nghĩa vụ trả nợ tiền vay nên hợp đồng bảo đảm nói chung và hợp đồng bảo
lãnh nói riêng thường được các bên (tổ chức tín dụng và bên bảo đảm) xác lập
thành một hợp đồng riêng, tách khỏi hợp đồng tín dụng, với nhiều điều khoản
chi tiết và rất cụ thể. Điều này là cần thiết, vì việc giao kết một hợp đồng bảo
lãnh riêng rẽ với hợp đồng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các bên có cơ hội
thỏa thuận chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về các điều khoản của hợp đồng bảo
đảm tiền vay. Trên cơ sở đó, giúp cho việc thực hiện hợp đồng bảo đảm và
giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay cũng dễ
dàng, thuận lợi hơn.
Khi nói đến mối quan hệ giữa hai hợp đồng này thì các nhà làm luật
dường như còn nhiều “băn khoăn” và tranh luận cả về phương diện học
thuật và thực tiễn hoạt động để xác định tính độc lập hay tính phụ thuộc
giữa hai hợp đồng này. Nói cách khác, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng
và hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng nói riêng có phải là mối quan hệ hợp đồng chính và hợp đồng
phụ hay không? Khi nghiên cứu thực tế, thì kết quả là có rất nhiều quan
điểm khác nhau về vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và
hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố tài sản của bên thứ ba có thể coi là mối quan
hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Trong lịch sử pháp chế Việt Nam đã từng tồn tại quan niệm cho rằng
hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
là hợp đồng phụ. Thật vậy, tại Điều 405 Bộ luật Dân sự 1995 có quy định về
hợp đồng chính, hợp đồng phụ. Mặt khác, trước đây, theo Nghị định số
165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, hợp
đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành
văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Quy định này đã thể hiện quan
34
điểm của người soạn luật cho rằng, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ
là hợp đồng phụ, xét trong mối quan hệ với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ
mà nó bảo đảm (gọi là hợp đồng chính). Có lẽ quan điểm này dựa trên lập
luận cho rằng, sự bảo đảm chỉ có giá trị khi tồn tại nghĩa vụ được bảo đảm
(nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chính). Do nhìn nhận như vậy, nhiều ý kiến
cho rằng, có thể coi mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm
tiền vay nói chung và hợp đồng bảo lãnh vay vốn nói riêng là mối quan hệ giữa
hợp đồng chính với hợp đồng phụ. Điều này không chỉ tồn tại trong các diễn
đàn khoa học mà thực tế đã trở thành những quy định của luật pháp có giá trị
bắt buộc thi hành ở Việt Nam trong những năm trước đây. Theo Nghị định số
165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ về giao dịch bảo đảm, người
soạn luật cho rằng “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến
hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều
kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm” [7, Điều 16, Khoản 2]. Tương
tự, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về việc sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999
của Chính phủ về bảo đảm tiền vay cũng quy định theo hướng như vậy, tuy có
điểm khác biệt là trong mọi trường hợp, sự vô hiệu của giao dịch bảo đảm
không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng
giao dịch đó (khoản 8 Điều 1 Nghị định số 85/2002/NĐ-CP). Tuy nhiên,
trong thực tiễn pháp lý cũng như trong các diễn đàn trao đổi học thuật, từng
có ý kiến cho rằng, chỉ nên coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp
đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có cả hợp đồng bảo lãnh) là hợp đồng phụ
khi cả hai loại hợp đồng này đều có thành phần chủ thể giống nhau, nghĩa là
cả hai hợp đồng này đều cùng được giao kết bởi hai chủ thể xác định. Theo
tác giả, nhận thức này không thật chính xác, bởi vì khi nói đến mối quan hệ
chính - phụ giữa hai hợp đồng nào đó, chủ yếu là nhằm xác định mối quan hệ
ảnh hưởng, chi phối về hiệu lực giữa hai hợp đồng đó với nhau, chứ không
35
giới hạn ở khía cạnh chủ thể của hợp đồng. Nói cách khác, một hợp đồng có
thể được coi là hợp đồng chính và một hợp đồng khác có thể được coi là hợp
đồng phụ, xét trong mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này với
nhau, bất luận chủ thể ký kết hai loại hợp đồng này có trùng nhau hay không.
Quay lại với vấn đề mối quan hệ hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng
bảo lãnh vay vốn, việc cho ra đời những thay đổi mới trong tư duy luật pháp
của nước ta thể hiện sự công bằng hơn khi đưa ra những điều luật nhằm bảo
vệ tối đa quyền lợi cho bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng.
Vì vậy, hiện nay khi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006
(thay thế cho Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999) và Nghị định
11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm ra đời đã gần như
thay đổi cách nghĩ của quan điểm trên.
Trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, nhà làm luật đã
có sự thay đổi quan niệm theo hướng thực tế hơn. Cụ thể là, Điều 15 Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định:
1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các
bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt;
nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được
bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng
có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn
phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó
thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc
toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm
không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
36
4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt
thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo
đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo
quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có
quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của
bên có nghĩa vụ đối với mình [11, Điều 15].
Theo quy định tại Điều 15 nói trên, thì có thể hình dung mối tương
quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này như sau:
- Thứ nhất, nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu
hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc chưa
được thực hiện thì hợp đồng bảo lãnh bị chấm dứt. Cần lưu ý rằng theo quy
định của điều luật nêu trên thì trong trường hợp này, hợp đồng bảo lãnh bị
chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu lực do không
cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh nữa, chứ không phải là hợp
đồng bảo lãnh bị vô hiệu ngay từ khi ký kết. Nếu hợp đồng tín dụng có bảo
đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa
thuận của các bên mà đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng
bảo lãnh không bị đương nhiên chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận chấm dứt hợp đồng thế chấp này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục
thực hiện hợp đồng nữa. Trong trường hợp này, nếu hợp đồng bảo lãnh không
bị chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì bên
nhận bảo lãnh (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản bảo lãnh để thu hồi số
tiền đã giải ngân cho khách hàng.
- Thứ hai, hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu sẽ không ảnh hưởng đến hiệu
lực của hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng tín
dụng thỏa thuận hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng này.
37
Từ việc phân tích, bình luận và khảo cứu các quan điểm trên đây, có
thể khẳng định rằng: Xét trong mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp
đồng bảo đảm tiền vay thì không thể coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính
và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có hợp đồng bảo lãnh) là hợp đồng
phụ, vì các lý do sau đây:
Về khía cạnh học thuật, tự thân mỗi hợp đồng này (tức hợp đồng tín
dụng và hợp đồng bảo lãnh) đều đã có đầy đủ các yếu tố để được coi là một
hợp đồng thực thụ. Vì thế, tự nó sẽ phát sinh hiệu lực nếu thỏa mãn các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân
sự 2005), chứ không cần phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng khác.
Điều này có nghĩa, hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh tài sản đều là
những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hưởng và chi phối đến hiệu lực của
nhau, cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng bảo lãnh là nhằm đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng.
Mặt khác, về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự
2005, tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp
đồng chính và hợp đồng phụ nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy định
về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự,
trong đó có biện pháp bảo lãnh tài sản [8]. Theo ý kiến của các nhà làm luật, lựa
chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm với
hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh được những rủi
ro về kinh tế trong trường hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà bên
chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng này với người đối ước.
Như vậy, có thể kết luận rằng, nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu hoặc bị
chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng bảo
lãnh. Ngược lại, nếu hợp bảo lãnh bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì
cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và khi đó, hợp
đồng tín dụng trở thành hợp đồng không có bảo đảm bằng tài sản.
38
Kết luận Chƣơng 1
Tìm hiểu các quy định về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng cũng
như hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho ta cái nhìn khái
quát về giao dịch bảo đảm này trên phương diện khoa học pháp lý cũng như
lịch sử quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng, biện pháp bảo đảm nói
chung và hợp đồng bảo lãng vay vốn ngân hàng nói riêng, từ đó thấy được
những thay đổi về quy định của pháp luật về bảo lãnh, tổng quát được quy
định của pháp luật các nước đại diện cho các hệ thống pháp luật trên thế giới
qua đó đánh giá được điểm giống và khác nhau trong quy định pháp luật giữa
các nước. Việc tìm hiểu những vấn đề lí luận chung về hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng như: về khái niệm hợp đồng bảo lãnh, các đặc điểm về chủ
thể, hình thức, nội dung, tài sản bảo lãnh… là cơ sở quan trọng để nghiên cứu
sâu hơn những quy định của pháp luật hiện hành về hiệu lực của hợp đồng
bảo lãnh vay vốn ngân hàng, giúp chúng ta định hướng cho việc nghiên cứu
nội dung các quy định pháp luật Việt Nam, nhằm mục đích nâng cao hiệu lực
của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
Ngoài ra, hoạt động tìm hiểu về vấn đề hợp đồng bảo lãnh vay vốn
ngân hàng cũng như hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng trong
pháp luật ở một số nước trên thế giới giúp ta thấy được cách quy định về loại
hợp đồng này ở từng nước sẽ có những đặc trưng riêng, từ đó có thể có những
cái nhìn mới hơn về hoạt động cho vay tín dụng nói chung, thực hiện hợp
đồng bảo lãnh tại Việt Nam nói riêng, nhận thức được thực tế vấn đề hiệu lực
của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng tại Việt Nam còn có những điểm
nào chưa hợp lí cần được điều chỉnh phù hợp hơn với thực tế.
Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản về hợp đồng bảo lãnh vay
vốn ngân hàng, người viết muốn tìm hiểu rõ hơn nữa về vấn đề hiệu lực của
hợp đồng và thực trạng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh ở nước ta
hiện nay để nâng cao hơn nữa hiệu quả của biện pháp bảo đảm này.
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY
Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY

More Related Content

What's hot

Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...
Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...
Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...Thư viện Tài liệu mẫu
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...Dịch vụ viết thuê Khóa Luận - ZALO 0932091562
 
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngThế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

What's hot (20)

Thế chấp tài sản thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng, HAY
Thế chấp tài sản thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng, HAYThế chấp tài sản thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng, HAY
Thế chấp tài sản thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đLuận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
Luận văn: Pháp luật Việt Nam về tín dụng cho vay tiêu dùng, 9đ
 
Đề tài: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng Vietcombank
Đề tài: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng VietcombankĐề tài: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng Vietcombank
Đề tài: Bảo lãnh thực hiện hợp đồng tại Ngân hàng Vietcombank
 
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOTLuận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
Luận văn: Thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo luật dân sự, HOT
 
Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...
Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...
Đề tài Hoạt động bảo hiểm tiền gửi việt nam sau khi có luật bảo hiểm tiền gửi...
 
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo lãnh của Ngân hàng tại MBBank, HAY
 
Đề tài đảm bảo tín dụng tại ngân hàng, RẤT HAY, ĐIỂM CAO
Đề tài đảm bảo tín dụng tại ngân hàng, RẤT HAY, ĐIỂM CAOĐề tài đảm bảo tín dụng tại ngân hàng, RẤT HAY, ĐIỂM CAO
Đề tài đảm bảo tín dụng tại ngân hàng, RẤT HAY, ĐIỂM CAO
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú ThọLuận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Phú Thọ
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...
Đề tài: Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, thực tiễn tại Tòa án nhân dâ...
 
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng, HAYLuận văn: Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng, HAY
Luận văn: Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền tại ngân hàng, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụngĐề tài: Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng
Đề tài: Pháp luật về hoạt động bao thanh toán của tổ chức tín dụng
 
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng AgribankHuy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
Huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi của ngân hàng Agribank
 
Luận văn: Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại, HOT
Luận văn: Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại, HOTLuận văn: Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại, HOT
Luận văn: Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAYLuận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
Luận văn: Pháp luật về Hợp đồng tái bảo hiểm, HAY
 
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAYLuận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
Luận văn: Xử lý tài sản thế chấp ngân hàng để thu hồi nợ, HAY
 
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng VietinbankLuận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
Luận văn: Bảo đảm tiền vay bằng tài sản tại ngân hàng Vietinbank
 
Luận văn: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửiLuận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
Luận văn: Pháp luật về huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi
 
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụngThế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
Thế chấp tài sản của bên thứ ba bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng
 
Luận văn: Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật, HOT
Luận văn: Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật, HOTLuận văn: Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật, HOT
Luận văn: Đăng ký giao dịch bảo đảm tiền vay theo pháp luật, HOT
 

Similar to Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY

BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...Dịch vụ viết thuê Luận Văn - ZALO 0932091562
 
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng sdt...
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng  sdt...Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng  sdt...
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng sdt...Thư viện Tài liệu mẫu
 

Similar to Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY (20)

Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAYLuận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
Luận án: Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng, HAY
 
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOTPháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh, HOT
 
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnhLuận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
Luận án: Pháp luật về thực hiện hợp đồng tín dụng bằng bảo lãnh
 
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
BẢO LÃNH ĐỂ BẢO ĐẢM TIỀN VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...
 
Luận văn: Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong ngân hàng, HAY
Luận văn: Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong ngân hàng, HAYLuận văn: Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong ngân hàng, HAY
Luận văn: Pháp luật về giao dịch bảo đảm trong ngân hàng, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ, HAY
Luận văn: Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ, HAYLuận văn: Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ, HAY
Luận văn: Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ, HAY
 
Luận văn: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng, 9 ĐIỂM
Luận văn: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng, 9 ĐIỂMLuận văn: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng, 9 ĐIỂM
Luận văn: Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng, 9 ĐIỂM
 
Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, HAY
Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, HAYPháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, HAY
Pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá, HAY
 
Luận văn: Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản, 9 ĐIỂMLuận văn: Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản, 9 ĐIỂM
Luận văn: Xử lý tài sản bảo đảm tiền vay là bất động sản, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAYĐề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
Đề tài: Thế chấp phần vống góp trong công ty theo pháp luật, HAY
 
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...
Thế Chấp Tài Sản - Biện Pháp Đảm Bảo Tiền Vay Qua Thực Tiễn Tại Ngân Hàng Thƣ...
 
Luận văn: Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay, HOT
Luận văn: Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay, HOTLuận văn: Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay, HOT
Luận văn: Bảo đảm nghĩa vụ trả nợ trong hoạt động cho vay, HOT
 
Thế chấp nhà ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng, 9đ
Thế chấp nhà ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng, 9đThế chấp nhà ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng, 9đ
Thế chấp nhà ở để bảo đảm hợp đồng tín dụng ngân hàng, 9đ
 
Quyền chủ nợ của ngân hàng trong cho vay bằng biện pháp thế chấp
Quyền chủ nợ của ngân hàng trong cho vay bằng biện pháp thế chấpQuyền chủ nợ của ngân hàng trong cho vay bằng biện pháp thế chấp
Quyền chủ nợ của ngân hàng trong cho vay bằng biện pháp thế chấp
 
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...
Thế chấp tài sản - biện pháp đảm bảo tiền vay qua thực tiễn tại Ngân hàng thư...
 
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂMBÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
BÀI MẪU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH LUẬT NGÂN HÀNG, 9 ĐIỂM
 
Đề tài: Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng, HAY
Đề tài: Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng, HAYĐề tài: Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng, HAY
Đề tài: Bảo đảm tiền vay bằng quyền đòi nợ tại tổ chức tín dụng, HAY
 
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOTĐề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
Đề tài: Hợp đồng mua bán nợ của các Ngân hàng Thương mại, HOT
 
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng sdt...
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng  sdt...Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng  sdt...
Pháp luật việt nam về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng sdt...
 
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàngĐề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
Đề tài: Pháp luật về hợp đồng cầm cố chứng khoán tại các ngân hàng
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 

Recently uploaded (20)

ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 

Đề tài: Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÒ THỊ MAI HƢƠNG HIÖU LùC CñA HîP §åNG B¶O L·NH VAY VèN NG¢N HµNG THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÒ THỊ MAI HƢƠNG HIÖU LùC CñA HîP §åNG B¶O L·NH VAY VèN NG¢N HµNG THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS LÊ THỊ THU THỦY HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lò Thị Mai Hƣơng
  • 4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG VÀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG..................... 8 1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ..................... 9 1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng...................16 1.2.1. Về chủ thể tham gia quan hê ̣hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.........16 1.2.2. Về nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ...................22 1.3. Các trƣờng hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng vôhiệu ....26 1.4. Hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng bảo lãnh trong quan hê ̣vớ i hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng tín dụng......................................................................29 1.4.1. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng........................................................29 1.4.2. Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng bảo lãnh vay vốn với hợp đồng tín dụng......................................................................................31 Kết luận Chƣơng 1........................................................................................38 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG...39 2.1. Các quy định của pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng...................................................40 2.1.1. Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng.........40
  • 5. 2.1.2. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng..........43 2.1.3. Các trường hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng vô hiệu...............45 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ...................................................................47 Kết luận Chƣơng 2........................................................................................65 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM................................................66 3.1. Định hƣớng hoàn thiện ....................................................................67 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quá áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ..........................................................................................69 3.2.1. Khắc phục bất cập của pháp luật hiền hành về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng......................................................69 3.2.2. Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng .......71 3.2.3. Về vấn đề vô hiệu của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng..........72 3.2.4. Các vấn đề khác liên quan..................................................................73 KẾT LUẬN CHUNG....................................................................................76 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................78
  • 6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật dân sự BLNH: Bảo lãnh ngân hàng ICC: Phòng Thương mại Quốc tế NHNN: Ngân hàng Nhà nước TCTD: Tổ chức tín dụng TNHH: Trách nhiệm hữu hạn UNCITRAL: Công ước Liên Hiê ̣p Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế URDG: Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu
  • 7. DANH MỤC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 2.1: Số liệu các vụ án về bảo lãnh ngân hàng được giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2009 - 2013 48
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong thời gian gần đây, cùng với sự chuyển biến tích cực của nền kinh tế thế giới thì nền kinh tế - xã hội ở nước ta cũng có nhiều bước phát triển đáng kể, trong đó không thể không kể đến vai trò của pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế, nhất là các quan hệ pháp lý trong lĩnh vực ngân hàng - nhằm lưu thông và thúc đẩy nguồn vốn trong xã hội. Đặc biệt, các quan hệ bảo đảm tiền vay trong ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Các biện pháp bảo đảm này tạo cơ sở để ngân hàng có thể thu hồi vốn vay và bảo đảm sự an toàn trong hợp đồng vay vốn, hạn chế hiện tượng phá sản ngân hàng. Khi nói đến các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói riêng, thì đây không phải là vấn đề mới và thậm chí pháp luật nước ta đã có rất nhiều các quy định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng cũng như nâng cao hiệu quả của pháp luật về kinh doanh thương mại, ví dụ như: Bộ luật Dân sự 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Nghị định 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm... Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng đã bộc lộ nhiều thiếu sót làm cho các hợp đồng này không thực hiện được dẫn đến việc hiểu sai bản chất hoặc kiện tụng giữa các bên, không đáp ứng được yêu cầu khách quan của nền kinh tế, gây cản trở cho sự phát triển lành mạnh của môi trường kinh doanh. Để có cái nhìn tổng thể về cơ sở lý luận và thực tiễn cho hoạt động bảo lãnh vay vốn đặc biệt là về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, từ đó có thể đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh tại ngân hàng trong điều kiện phát triển hiện nay, tác giả đã lựa chọn đề tài:
  • 9. 2 “Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật Việt Nam” nhằm phân tích những đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng này, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng trên thực tế, cũng như việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Với mong muốn nghiên cứu pháp luật về hiệu lực hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng một cách toàn diện, có hệ thống và phù hợp với thực tiễn Việt Nam, tôi đã lựa chọn vấn đề “Hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo lãnh, đã có nhiều công trình ở các cấp độ khác nhau nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, hoặc đi sâu vào nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, phân loại của biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng, bảo lãnh vay vốn tại ngân hàng cũng như phương hướng hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về vấn đề này có thể kể đến như: Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam của Đại học Quốc gia Hà Nội (2005); Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình tín dụng ngân hàng của Học viện Ngân hàng (2001). Bên cạnh đó có một số các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau, có thể kể đến là: - Vận dụng nghiệp vụ bảo lãnh trong hoạt động ngân hàng ở VN hiện nay, Luận án tiến sỹ Lê Hồng Tâm, Hà Nội, 2004. Luận án đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản của nghiệp vụ bảo lãnh trong nền kinh tế thị trường. Đánh giá thực trạng hoạt động ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua và đưa ra những đề xuất trong thời gian tới. Tuy nhiên, luận án được thực hiện trước khi Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực nên hầu như những nghiên cứu này đã không còn tính mới.
  • 10. 3 - Giao dịch bảo đảm theo thỏa thuận có đối tượng là quyền đòi nợ theo quy định của pháp luật Pháp, Anh và Việt Nam, Luận án tiến sĩ Bùi Đức Giang, Đại học Paris II, 2014. Luận văn đã nghiên cứu và so sánh về giao dịch bảo đảm ở Việt Nam đối với các nước để làm nổi bật lên tính chất thỏa thuận của các bên, trong đó chủ yêu phân tích về đối tượng là quyền đòi nợ - tài sản bảo đảm của bên đi vay nợ. - Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Lê Minh Hùng, Thành phố Hồ Chí Minh, 2010. Nghiên cứu về chế định hợp đồng và hiệu lực của hợp đồng, so sánh chế định hợp đồng của Việt Nam với các nước trên thế giới để đưa ra những bất cập của pháp luật nước ta khi quy định về vấn đề này, tác giả thấy đây chính là cơ sở để nghiên cứu sâu rộng hơn nữa về hiệu lực của hợp đồng, trong đó có hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. - Pháp luật về bảo lãnh thực hiện hợp đồng tín dụng, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Minh Chi; TS. Phạm Thị Giang Thu hướng dẫn - Hà Nội, 2004. Luận văn này nghiên cứu về biện pháp bảo lãnh trong thực hiện hợp đồng tín dụng, tuy có nhiều sáng kiến về các biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này, tuy nhiên tác giả nhận thấy luận văn chưa làm nổi bật tính chất “đối nhân” theo như Bộ luật Dân sự 2005 quy định. - Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động ngân hàng: Luận văn thạc sĩ luật học Nguyễn Thị Thảo; TS. Phạm Công Lạc hướng dẫn - Hà Nội, 2006. Nêu lên quá trình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong hoạt động của các ngân hàng, đồng thời nêu lên những khó khăn, vướng mắc và đưa ra những biện pháp nhằm hoàn thiện pháp luật trong quá trình thực hiện biện pháp này. Tuy nhiên, luận văn này chưa nêu rõ về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh và cũng chưa làm nổi bật hệ quả nếu như hợp đồng này vô hiệu.
  • 11. 4 - Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng của tác giả Lê Thị Thu Thủy (2006) - Đề tài nghiên cứu đặc biệt cấp Đại học Quốc gia. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả Lê Thị Thu Thủy cùng các tác giả tham gia nghiên cứu đã đề cập một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về các biện pháp bảo đảm mà cụ thể là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản, xác định các nội dung cần thiết khi xác lập hợp đồng bảo đảm tiền vay, đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay. Bên cạnh những công trình nghiên cứu ở tầm tiến sỹ và thạc sỹ như đã nêu trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở cấp độ thấp hơn, được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, như: Bàn về biện pháp bảo lãnh, TS. Phạm Văn Tuyết - Tạp chí Ngân hàng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2013, Số 13. Bài viết Một số vấn đề về quan hệ BLNH ở nước ta hiện nay của Võ Đình Toàn (2002), tác phẩm Bảo lãnh ngân hàng và tín dụng dự phòng của Lê Nguyên (1996). Như vậy, vấn đề về biện pháp bảo lãnh trong vay vốn ngân hàng và hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng không còn là vấn đề mới trong khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cái mới của đề tài nghiên cứu ở tầm thạc sỹ này là ở chỗ, đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng này, các trường hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng vô hiệu. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, luận văn còn nêu ra những bất cập và phương hướng cũng như giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói chung và hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói riêng.
  • 12. 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng này. Đặc biệt luận văn phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng trên thực tế, từ đó tìm ra các bất cập và nêu ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp về vấn đề này. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Để phù hợp với yêu cầu và phạm vi hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ luật học, tác giả không có tham vọng nghiên cứu một cách toàn diện các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói chung. Luận văn chỉ dừng lại ở một mức độ nghiên cứu nhất định, cụ thể là: Chỉ nghiên cứu một số vấn đề cơ bản nhất về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng này. Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng pháp luật Việt Nam về vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện thành công luận văn này, tác giả đã sử dụng một cách đồng bộ và tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học. Trước hết đó là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngoài phương pháp nghiên cứu có tính chất lý luận cơ bản này, tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống khác, nhất là phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. Những phương pháp này giúp tác giả tiếp cận các đối tượng nghiên cứu một cách có cơ sở khoa học, đảm bảo tính hiệu quả của quá trình nghiên cứu.
  • 13. 6 5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài 5.1. Mục đích Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật ở Việt Nam, trên cơ sở đó tìm ra các biện pháp và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. 5.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận văn giải quyết một số nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất, làm rõ đặc điểm của pháp luật về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng này và vấn đề vô hiệu của hợp đồng. Việc nghiên cứu vấn đề này nhằm giúp người đọc nhận thức được một cách cơ bản diện mạo của pháp luật về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ở Việt Nam hiện nay, phân tích thực trạng qui định pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. tìm ra các mặt ưu điểm cũng như các mặt nhược điểm của nó để trên cơ sở đó mà tìm hướng hoàn thiện cho phù hợp. Thứ hai, đi sâu vào nghiên cứu hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật Việt Nam bằng cách phân tích thực trạng qui định pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Việc nghiên cứu thành công vấn đề này sẽ giúp chúng ta thấy được đâu là những vướng mắc mà quá thực thi pháp luật về bảo lãnh vay vốn ngân hàng trên thực tế đang gặp phải để trên cơ sở đó mà định hướng các giải pháp nhằm tháo gỡ. Thứ ba, đánh giá, tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng thông qua các số liệu, các vụ việc thực tiễn mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố, nhất là của các toà kinh tế cấp tỉnh và của Toà án nhân dân tối cao. Thứ tư, đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ở Việt Nam.
  • 14. 7 6. Những điểm mới của luận văn Luận văn có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, trình bày những đặc điểm cơ bản của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng theo pháp luật Việt Nam. Thứ hai, phân tích thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng dựa trên thực tế các vụ án kinh tế từ Toà án nhân dân cấp tỉnh và Toà án nhân dân Tối cao. Thứ ba, đưa ra được một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và đảm bảo hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các phụ lục, nội dung của Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng và hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Chương 2: Thực trạng pháp luật của Việt Nam về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng ở Việt Nam.
  • 15. 8 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG VÀ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH VAY VỐN NGÂN HÀNG Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, việc cho ra đời thiết chế về giao dịch bảo đảm đã tạo ra một hành lang pháp lý an toàn cho các hoạt động tín dụng nói riêng và cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung, góp phần không nhỏ vào sự ổn định của các quan hệ dân sự, kinh tế, tránh các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhưng không đúng nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ. Việc xác định các giao dịch bảo đảm luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền lợi của các bên có quyền trong giao dịch này. Áp dụng các biện pháp bảo đảm, bên có quyền không chỉ có quyền theo hợp đồng buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, mà còn có quyền xử lý tài sản mà bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm. Ở nước ta, trước khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực, pháp luật Việt Nam phân chia hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thành hai chế định hoàn toàn độc lập. Theo đó, pháp luật về giao dịch bảo đảm cũng có sự phân chia tương ứng. Hệ quả là các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực dân sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Còn các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực kinh tế thì chịu sự điều chỉnh trước hết từ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đến khi Bộ luật Dân sự 2005 ra đời, đã bãi bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và các quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho các quan hệ cả về dân sự và kinh tế. Cụ thể hóa quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm, đồng thời bãi bỏ Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm
  • 16. 9 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP. Như vậy, pháp luật nước ta đã từng bước cải cách khuôn khổ pháp luật và điều chỉnh áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm. Theo quy định hiện hành, bảo đảm tiền vay là việc ngân hàng áp dụng mọi biện pháp đối với khách hàng để khoản vay có thể trở về với ngân hàng một cách an toàn và có lợi. Như vậy, để có thể bảo đảm cho khoản tiền vay của mình, ngân hàng phải sử dụng rất nhiều biện pháp. Có thể kể đến các biện pháp được thực hiện khi lựa chọn khách hàng, các biện pháp ngân hàng áp dụng trong quá trình khách hàng sử dụng vốn vay và các biện pháp được tiến hành trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn. Thực chất, đó là những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, là cơ sở pháp lý cũng như cơ sở kinh tế cho việc thu hồi các khoản vay [38]. Cùng với các biện pháp bảo đảm bằng tài sản như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh được sử dụng khá phổ biến trong các giao dịch vay vốn tín dụng. Biện pháp này đang ngày càng phát huy những ưu thế của mình trong việc xác lập các giao dịch dân sự và thương mại. Bộ luật Dân sự 2005 với những thay đổi đáng kể đã tác động rất lớn đến việc thực hiện, xác lập và chấm dứt, hay nói cách khác là nói đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, góp phần không nhỏ đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các chủ thể cũng như đảm bảo an toàn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng. 1.1. Khái niệm về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng Trong khoa học pháp lý cũng như trong pháp luật thực định ở Việt Nam, giao dịch bảo đảm được định nghĩa là hợp đồng mà theo đó một bên (gọi là bên bảo đảm) cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về việc sẽ thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu
  • 17. 10 đến hạn mà nghĩa vụ hoặc các nghĩa vụ đó không được người có nghĩa vụ thực hiện (Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm). Giao dịch bảo đảm có nhiều loại khác nhau như: giao dịch cầm cố, giao dịch thế chấp, nhưng phổ biến nhất vẫn là giao dịch bảo lãnh. Đây cũng là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ được áp dụng tương đối nhiều trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm truyền thống, sớm được sử dụng rộng rãi, do đó nó được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau như: Trong Luật La Mã: Bảo lãnh được hiểu là hợp đồng, theo đó bên thứ ba với mục đích bảo đảm quyền lợi của bên có quyền đã cam kết thực hiện thay nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ khi bên này không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Trách nhiệm của bên thứ ba là trách nhiệm bổ sung với trách nhiệm của bên có nghĩa vụ và nó chỉ tồn tại khi nghĩa vụ đó đảm bảo tồn tại trên thực tế [20]. Pháp luật Hoa Kỳ có nêu: bảo lãnh chính là sự thỏa thuận, theo đó người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi bên nợ không trả nợ, là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong trường hợp có nghĩa vụ không thực hiện [53]. Theo Công ước Liên Hợp quốc về Bảo lãnh độc lập và Tín dụng dự phòng (Công ước UNCITRAL) quy định: “Bảo lãnh hay cam kết là lời hứa độc lập, được biết trong thực tiễn quốc tế như là một bảo lãnh độc lập hoặc tín dụng thư dự phòng do Ngân hàng hoặc tổ chức hay cá nhân (Người bảo lãnh/ người phát hành) thanh toán cho”. Ở nước ta, giữa pháp luật ngân hàng và pháp luật dân sự có sự tương đồng và hỗ trợ lẫn nhau trong các lĩnh vực liên quan đến Ngân hàng, chúng
  • 18. 11 đều thống nhất và đồng bộ, hỗ trợ nhau. Về nội dung, sẽ áp dụng quy định tại Luật Ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng trước, sau đó sẽ áp dụng pháp luật chung để giải quyết các vấn đề liên quan, tuy nhiên, pháp luật chuyên ngành về thương mại không quy định rõ định nghĩa về hợp đồng bảo lãnh, vì vậy, Bộ luật Dân sự 2005 thì quy định rất chi tiết về bảo lãnh, tại Điều 361 BLDS 2005 nêu: Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình [31, Điều 361]. Theo quy định này, khái niệm bảo lãnh một mặt đề cập đến hành vi bảo lãnh (là hành vi cam kết của bên bảo lãnh về việc sẽ thực hiện thay nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ nếu nghĩa vụ này bị vi phạm) nhưng mặt khác cũng đề cập đến giao dịch bảo lãnh giữa các bên liên quan trong đó có nhấn mạnh đến yếu tố thỏa thuận của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của BLDS năm 2005, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do bất kỳ chủ thể nào có năng lực pháp luật và năng lực hành vi cam kết thực hiện thay nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh (bên có nghĩa vụ) mà không đưa ra bất kỳ tài sản nào để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, điều này càng thể hiện rõ hơn trong Nghị định 163/2006/NÐ-CP, theo đó, bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận ký kết hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản (thuộc sở hữu của bên bảo lãnh) để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của bên bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh được phân ra làm hai hình thức dựa vào tính chất và đối tượng bảo lãnh là: Bảo lãnh đối nhân và bảo lãnh đối vật. Trong đó, bảo lãnh đối
  • 19. 12 nhân được áp dụng chủ yếu với các quan hệ phi tài sản trong dân sự, bảo lãnh đối vật được áp dụng trong các quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản. Trong khi đó, đối tượng của bảo lãnh là sự cam kết bằng uy tín, bằng lòng tin của bên bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, tài sản chỉ xuất hiện mang tính chất kèm theo uy tín, lòng tin, do đó bảo lãnh có cả đặc tính của “đối nhân” và “đối vật”. Khi bên bảo lãnh dùng tài sản của mình để bảo đảm nghĩa vụ thì có nghĩa rằng, bên bảo lãnh đã đưa tài sản của mình để thế chấp hoặc cầm cố để bảo đảm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh (bên đi vay) đối với bên nhận bảo lãnh. Nếu như Bộ luật Dân sự 1995 quy định bên cạnh biện pháp bảo lãnh không bằng tài sản (không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp) là tín chấp vẫn có thể kèm theo biện pháp cầm cố, thế chấp tài sản như trước đây là: cầm cố (hoặc cầm cố – bảo lãnh) hoặc thế chấp (hoặc thế chấp – bảo lãnh) bằng tài sản của người thứ ba thì tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có sự khác biệt, chỉ còn một loại bảo lãnh duy nhất không kèm theo tài sản cầm cố, thế chấp. Tức là sẽ không còn giao dịch bảo lãnh bằng hàng hoá, tài sản, nhà ở nói chung, bằng quyền sử dụng đất nói riêng. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2005 lại buộc người ta phải hiểu một cách khá lắt léo rằng: Bảo lãnh vẫn là “bằng tài sản”, chứ không phải là bảo lãnh bằng cam kết “suông” như biện pháp tín chấp của tổ chức chính trị - xã hội, nhưng đồng thời bảo lãnh lại không gắn liền với tài sản cụ thể, không bao giờ kèm theo việc cầm cố, thế chấp tài sản như trước đây. Nội dung này được thể hiện một cách mập mờ, chỉ được hiểu gián tiếp thông qua việc bỏ đi nghĩa vụ của bên bảo lãnh đã được quy định trước đây tại Bộ luật Dân sự năm 1995: “Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng việc thực hiện công việc” [29]. So sánh bảo lãnh với tín chấp và cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba ta thấy rõ được hình thức của bảo lãnh theo quy định Bộ luật Dân sự 2005: Đối với
  • 20. 13 tín chấp: Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng “Tín chấp” được quy định trong Điều 372 của Bộ luật Dân sự năm 2005 dành riêng cho quan hệ “Tổ chức chính trị – xã hội tại cơ sở có thể bảo đảm bằng tín chấp cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay một khoản tiền tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác để sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ theo quy định của Chính phủ” [31, Điều 372]. Thực chất thì trách nhiệm về tài sản của biện pháp bảo đảm này hoàn toàn bằng không, “nó” không thuộc về quan hệ tài sản, cũng chẳng phải là quan hệ nhân thân phi tài sản, điều này không giống với bảo lãnh, bởi lẽ trong quan hệ về bảo lãnh, người ta vẫn hiểu là bảo lãnh phải dựa trên cơ sở tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh. So sánh với Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về biện pháp bảo lãnh thì ta thấy, những quy định về hình thức và đối tượng của quan hệ bảo lãnh trong Bộ luật này hầu như không có gì thay đổi, tuy nhiền, trong Bộluâ ̣t dân sự sử đổi có phân ra một cách ra ̣ch ròi hơn về các hình thứ c là bảo lãnh bằng uy tín hay bảo lãnh bằng tài sản, hay nói cách khác là có thiên hướng quy đi ̣nh giống Bô ̣luâ ̣t Dân sự1995. Có ý kiến cho rằng: Việc dùng uy tín, chứ không phải tài sản để bảo lãnh thực chất chỉ là quan hệ dân sự, chứ không phải quan hệ pháp luật. Nếu coi đây là quan hệ pháp luật, thì sẽ tạo thành cạm bẫy pháp lý cho những người liên quan trong giao dịch. Bảo lãnh chỉ khác với cầm cố, thế chấp ở chỗ, không có tài sản cụ thể được đưa vào để bảo đảm cho nghĩa vụ. Bởi vì, nếu có một tài sản cụ thể được chỉ đích danh dùng để bảo đảm nghĩa vụ, thì đó sẽ làm cầm cố hoặc thế chấp. Khẳng định điều này, Luật sư Trần Minh Hải trong một nghiên cứu của mình đã cho rằng, bảo lãnh bản chất luôn luôn là bằng tài sản. Bởi vì, để bảo đảm cho một nghĩa vụ tài sản, thì đương nhiên phải dùng một biện pháp bảo đảm có giá trị bằng tài sản. Khi một bên chấp
  • 21. 14 nhận biện pháp bảo lãnh của bên thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ là họ đã nhìn vào túi tiền, nhìn vào tài sản của bên nhận bảo lãnh với ước lượng chắc chắn về khả năng bên bảo lãnh sẽ phải dùng một phần tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nếu phát sinh [17]. Lại có quan điểm cho rằng: Bảo đảm tiền vay chỉ là việc yêu cầu khách hàng vay có tài sản hữu hình để đối ứng với món vay của mình. Song thực tế chứng minh một khoản vay nếu chỉ được bảo đảm bằng tài sản hữu hình thì đó vẫn chưa phải là khoản vay an toàn. Vốn vay vẫn có thể bị chiếm dụng nếu tài sản sử dụng làm vật bảo đảm không có tính khả mại, hoặc về một lí do nào đó về mặt pháp lý, vốn vay vẫn bị chôn vào tài sản. Vì vậy, bảo đảm tiền vay phải được hiểu theo một nghĩa rộng hơn. Nó không chỉ là tài sản có giá thị trường lớn hơn khoản vay đó, mà hơn tất cả, nó là uy tín, tiềm lực tài chính, tính khả thi của dự án chính là đòi hỏi chính đáng nhất trong thực hiện bảo đảm tiền vay. Hay nói cách khác, mục đích của bảo lãnh là nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho các bên tham gia quan hệ nghĩa vụ, ngay cả khi người có nghĩa vụ không có tài sản để bảo đảm. Trong thực tế, nghĩa vụ được bảo lãnh luôn là nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, hay nói cách khác, vị thế của người bảo lãnh dưới con mắt chủ nợ luôn trong tư thế là một “con nợ” dự phòng. Điều này có nghĩa, chỉ khi nào bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh mới có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay. Quy tắc này không được thể hiện rõ ở Bộ luật Dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 366) [29] và Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 361) [31], có nghĩa là, trong trường hợp không có thỏa thuận đặc biệt, nếu nghĩa vụ đến hạn thực hiện mà người có nghĩa vụ không thực hiện dù đã có yêu cầu thì ngay lập tức bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay dù bên được bảo lãnh có khả năng mà chưa kịp hay không muốn thực
  • 22. 15 hiện nghĩa vụ của mình. Điều này là một bất cập vì nó ảnh hưởng gián tiếp đến việc giải quyết các hệ quả phát sinh khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu sẽ được đề cập trong phần tiếp theo của luận văn. Tóm lại, bảo lãnh trong vay vốn ngân hàng là việc người thứ ba (là pháp nhân hoặc cá nhân – bên bảo lãnh) cam kết với bên cho vay (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay vốn (bên được bảo lãnh) nếu khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không trả được một phần hay toàn bộ nợ vay (bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn) cho bên nhận bảo lãnh. Đây là quan hệ đối nhân, theo đó, bên bảo lãnh sử dụng uy tín của mình để bảo lãnh cho người vay vốn. Tài sản của bên bảo lãnh chỉ bị xử lý khi đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện các cam kết đã thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh. Từ những sự phân tích trên, ta có thể rút ra định nghĩa về hợp đồng bảo lãnh như sau: “Hợp đồng bảo lãnh là sự thỏa thuận giữa ba bên chủ thể (bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh) hoặc giữa hai bên (bên nhận bảo lãnh và bên bảo lãnh), theo đó bên bảo lãnh (tổ chức, cá nhân) cam kết với bên có quyền (ngân hàng cho vay) về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (khách hàng vay vốn) trong trường hợp khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ cho bên nhận bảo lãnh”. Như vâ ̣y, so sánh với khái niê ̣m về bảo lãnh đã nêu ở một số Quốc gia cũng như Công ước quốc tế , thì quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo lãnh cũng có những điểm chung phù hợp với thông lê ̣quốc tế về viê ̣c dùng uy tín để bảo lãnh , tuy nhiên, ở nước ta còn có luật chuyên ngành là Luâ ̣t Ngân hàng , Luâ ̣t các tổ chứ c tín dụng và những văn bản dưới luâ ̣t trực tiếp điều chỉnh về bảo lãnh trong lĩnh vực ngân hàng , theo đó, người bảo lãnh phải cam kết dùng tài sản của mình để bảo lãnh cho người được bảo lãnh , đây là nội dung chủ yếu sẽ được phân tích trong luận văn này.
  • 23. 16 1.2. Đặc điểm của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng 1.2.1. Về chủ thể tham gia quan hê ̣hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng Bảo lãnh là một hình thức bảo đảm gián tiếp nhưng được sử dụng khá phổ biến. Nó mang ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng và khuyến khích đầu tư. Khi bảo lãnh cho một khoản vốn vay, bên bảo lãnh phải ý thức được trách nhiệm của mình đối với khoản vay. Vì mặc dù, để chấp nhận cung cấp một khoản vay, ngân hàng phải xem xét khách hàng trên nhiều khía cạnh khác nhau như tính khả thi của dự án, khả năng hoàn trả nợ vay…, nhưng người chịu trách nhiệm trực tiếp trước ngân hàng khi khoản vay “có vấn đề” lại là bên bảo lãnh. Với ngân hàng, bên bảo lãnh là người cùng chia sẻ mọi rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Còn trên phương diện là bên bảo lãnh, họ là người gánh chịu mọi rủi ro phát sinh trong quá trình hoạt động của người vay. Vì vậy, khi đứng ra bảo lãnh cho một khách hàng vay, bên bảo lãnh phải hiểu rõ năng lực và uy tín của người vay hoặc có quan hệ đặc biệt với khách hàng đó. Vậy cam kết bảo lãnh có là hành vi giao kết hợp đồng không? Về vấn đề này có quan điểm cho rằng cam kết bảo lãnh chỉ là cam kết đơn phương và không thể coi là hành vi giao kết hợp đồng [27]. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự lại quy định: Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Như vậy, Bộ luật dân sự đã khẳng định, bảo lãnh phát sinh trên sơ sở sự thỏa thuận giữa các bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh và nó là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh ở đây không phải là hành vi giao kết hợp đồng bảo lãnh, quan hệ bảo lãnh không phát sinh mang tính đơn phương bằng cam kết riêng của bên bảo lãnh [49]. Vì vậy, bảo lãnh thực chất cũng là một loại hợp đồng cụ thể mà đối tượng trước hết của nó là sự cam kết bằng uy tín để đảm bảo thực hiện nghĩa
  • 24. 17 vụ. Điều này có nghĩa là khi nhận bảo lãnh, người nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến cả nhân thân người bảo lãnh, ví dụ: uy tín, độ tin cậy, tư cách... Đồng thời, với sự đánh giá này, người nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến khả năng tài sản của người bảo lãnh, vì trong trường hợp nghĩa vụ tài sản không được người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không đúng, người bảo lãnh sẽ phải thực hiện thay bằng tài sản của mình. Tóm lại, bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm có những đặc điểm chung của biện pháp bảo lãnh trong giao dịch dân sự, đồng thời cũng có điểm đặc thù xuất phát từ đặc trưng, tính chất của hoạt động ngân hàng. Đặc điểm này quyết định tới việc xây dựng pháp luật về bảo lãnh trong hoạt động của ngân hàng. Hiểu đúng bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh là cơ sở để thiết lập cơ cấu chủ thể của một hợp đồng bảo lãnh. Về mặt lý thuyết, hợp đồng bảo lãnh thông thường được ký kết bởi ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh (chủ yếu là TCTD) và bên được bảo lãnh, các chủ thể này phải đảm bảo một trong các tiêu chí sau: - Có uy tín, - Phải chứng minh được năng lực tài chính để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh khi đến hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ. Chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh bao gồm ba bên trong quan hệ nghĩa vụ chính là TCTD – bên nhận bảo lãnh, khách hàng – bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh (bên thứ ba). Tuy nhiên, việc tham gia ký kết của bên được bảo lãnh không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh, bởi lẽ, cam kết bảo lãnh của bên bảo lãnh cần phải được nhìn nhận như là cơ sở ban đầu để xác lập hợp đồng bảo lãnh. Nếu bên nhận bảo lãnh không chấp nhận thì quan hệ bảo lãnh không thể được xác lập. Về vấn đề này, pháp luật Nhật Bản cũng có quy định tương tự “Nghĩa vụ bảo lãnh được hình thành
  • 25. 18 trên cơ sở hợp đồng bảo lãnh. Các bên của hợp đồng bảo lãnh là người bảo lãnh và chủ nợ của người mắc nợ khác” [50, tr.427]. Theo quy định tại Bộ luật Dân sự và Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm, có thể xác định được các điều kiện như sau: - Bên bảo lãnh: Căn cứ vào các nguyên tắc chung của Bộ luật Dân sự, người bảo lãnh phải là người có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Ngoài ra, người đứng ra bảo lãnh (có thể là cá nhân hoặc tổ chức) phải là người có uy tín được tổ chức tín dụng chấp nhận, điều này được thể hiện cụ thể đối với từng loại bảo lãnh (như: bảo lãnh ngân hàng, bảo lãnh bằng tín chấp, bảo lãnh bằng uy tín của các tổ chức, cá nhân khác). Để tham gia vào quan hệ hợp đồng bảo lãnh, người bảo lãnh phải có các điều kiện sau: Một là, người bảo lãnh phải có năng lực pháp luật dân sự nếu như bên bảo lãnh là pháp nhân. Còn nếu bên bảo lãnh là cá nhân thì bên bảo lãnh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với pháp nhân phải có người đại diện đủ thẩm quyền để thay mặt pháp nhân ký kết hợp đồng bảo lãnh. Hai là, Người bảo lãnh phải có khả năng về vốn, tài sản để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đối với người bảo lãnh là cá nhân thì đòi hỏi phải có chỗ làm việc ổn định, thu thập nhường xuyên hoặc phải có một tài sản nhất định (như nhà ở, đất đai…). Trong trường hợp người bảo lãnh là nhiều cá nhân thì yêu cầu tổng thu nhập của các cá nhân đó phải lớn hơn thu nhập của bên đi vay (người được bảo lãnh). Thứ ba: Người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước TCTD về khoản vay của khách hàng mà mình đứng ra bảo lãnh. Trường hợp nhiều người cùng đứng ra bảo lãnh cho một khoản nợ thì tất cả những người bảo lãnh đương nhiên phải chịu trách nhiệm liên đới đối với chủ nợ (trừ trường hợp giữa họ có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định bảo lãnh theo các phần độc lập). TCTD nhận bảo lãnh có thể yêu cầu bất cứ một trong số những bên bảo lãnh
  • 26. 19 thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bảo lãnh (Khoản 2 Mục III Thông tư số 07/2003/TT-NHNN, Điều 365 Bộ luật dân sự năm 2005) [22]. Luật pháp của nhiều nước có quy định về các điều kiện cụ thể của người bảo lãnh. Theo Bộ luật Dân sự Nhật Bản, người bảo lãnh phải có năng lực hành vi đầy đủ và có đủ các phương tiện để thực hiện trái vụ. Tuy nhiên, điều kiện này không áp dụng trong trường hợp người nhận bảo lãnh tự đề cử người bảo lãnh [50]. Luật về bảo đảm của Trung Quốc quy định người bảo lãnh có thể là một pháp nhân hoặc bất kỳ cá nhân nào khác có khả năng thanh toán nợ. Ngoài ra có một số chủ thể không thể trở thành người bảo lãnh như các cơ quan, tổ chức xã hội hoạt động vì mục đích công, ví dụ như: nhà trẻ, trường học, bệnh viện... (25, Điều 8). Theo Bộ luật Dân sự Pháp, trường hợp người có nghĩa vụ bắt buộc phải có người bảo lãnh thì phải giới thiệu một người bảo lãnh có năng lực ký kết hợp đồng, có tài sản đáp ứng đối tượng của nghĩa vụ và phải có nơi cư trú trong quản hạt của Toà phúc thẩm nơi bảo lãnh (2, Điều 2018). Khả năng thực hiện nghĩa vụ của người bảo lãnh được đánh giá bằng những bất động sản của họ, trừ bất động sản được sử dụng vào mục đích thương mại hoặc khi nghĩa vụ có giá trị nhỏ. Tài sản này cũng không tính tới những bất động sản đang có tranh chấp hoặc bất động sản mà việc kê biên hoặc bán gặp nhiều khó khăn vì ở xa (2, Điều 2019) [47]. Như vậy, các điều kiện của người bảo lãnh nhìn chung rất đa dạng, tuỳ thuộc vào điều kiện của các quốc gia. Tuy nhiên, việc quy định cụ thể điều kiện của người bảo lãnh là rất cần thiết bởi lẽ người bảo lãnh chính là người đứng ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, người phải chịu trách nhiệm thực hiện thay trong trường hợp người vay vốn không thực hiện nghĩa vụ với tổ chức tín dụng. Nói như vậy không có nghĩa là người bảo lãnh bắt buộc phải thanh toán
  • 27. 20 khoản nợ của người được bảo lãnh nếu người được bảo lãnh thông báo mình không có khả năng chi trả. Vì theo quy định tại Điều 361 BLDS thì “bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” [31]. Như vậy, trong trường hợp nếu người bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ dân sự thay thế cho người được bảo lãnh khi người được bảo lãnh không thể chính mình thực hiện nghĩa vụ thì chỉ cần đưa thỏa thuận này vào hợp đồng bảo lãnh để phòng trường hợp người được bảo lãnh mặc dù có khả năng nhưng cố tình không thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra, người bảo lãnh nếu muốn cũng có thể giới hạn nghĩa vụ bảo lãnh của mình, ví dụ đối với hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và người được bảo lãnh thì người bảo lãnh có thể chỉ bảo lãnh cho phần trả nợ gốc, lãi, phạt chứ không bảo lãnh cho phần bồi thường thiệt hại. - Bên nhận bảo lãnh: Người nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh vay vốn ngân hàng là bên cho vay – các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là bên thụ hưởng một món nợ do người được bảo đảm thanh toán từ một nghĩa vụ trong các hợp đồng, các tổ chức này được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng. Muốn trở thành bên cho vay theo Luật các Tổ chức tín dụng [49], tổ chức phải đáp ứng các điều kiện sau: + Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng nhà nước cấp. + Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y. + Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp. + Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với khách hàng. Những điều kiện trên là căn cứ để xác định tư cách pháp lý của bên cho vay cũng như tính hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Qua đó, giúp loại bỏ được các chủ thể không đủ tiêu chuẩn hoạt động tín dụng cũng như bảo vệ quyền lợi cho người đi vay.
  • 28. 21 - Bên được bảo lãnh: Người được bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh vay vốn ngân hàng là khách hàng vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Theo pháp luật hiện hành, các chủ thể này bao gồm các cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, pháp nhân Việt Nam và các cá nhân, pháp nhân nước ngoài có đủ điều kiện vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Điều kiện vay vốn được thể hiện trước tiên ở năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các chủ thể, tiếp đó là các điều kiện về mục đích sử dụng vốn vay (hợp pháp), khả năng tài chính bảo đảm cho dự án, phương án sử dụng vốn vay khả thi và hợp pháp. Nhìn chung các điều kiện này tương đối đầy đủ và phù hợp với thực tế. Các điều kiện vừa bao quát được các loại chủ thể theo quy định của pháp luật, vừa đưa ra những tiêu chuẩn cần thiết cho đối tượng vay vốn. Như vậy, bên bảo lãnh có thể là một cá nhân hoặc gồm nhiều cá nhân, một tổ chức hoặc nhiều tổ chức, một tổ chức và một cá nhân. Tuy nhiên, việc nhiều người cùng bảo lãnh cho một nghĩa vụ thì họ phải liên đới thực hiện việc bảo lãnh trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thông thường, quan hệ bảo lãnh vay vốn ngân hàng bao gồm các chủ thể có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi như trên. Tuy nhiên, trong bảo lãnh, cả ba mối quan hệ trên (quan hệ giữa người bảo lãnh, người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh) cùng tồn tại song song, nhưng cũng có khi chỉ cần có hai bên, đó là: bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Việc tham gia ký kết của bên nhận bảo lãnh không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh. Khi bên thứ ba đưa tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác (khách hàng vay) thì chỉ cần thiết lập hợp đồng thế chấp hoặc hợp đồng cầm cố tài sản giữa hai bên: bên bảo đảm (bên thế chấp) với bên có quyền (bên nhận thế chấp), còn bên được bảo lãnh đã ký kết hợp đồng tín dụng, bởi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính, còn hợp đồng bảo đảm luôn là hợp đồng
  • 29. 22 phụ, mang tính chất dự phòng khi nghĩa vụ bị vi phạm. Chúng được tách thành cam kết riêng giữa hai bên căn cứ vào một văn bản pháp luật cụ thể nào đó hay thực hiện đường lối chính sách của Nhà nước mà không nhất thiết phải lập hợp đồng riêng hoặc có thể bên bảo lãnh tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không biết và bên bảo lãnh cũng không yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ hoàn lại. Nói tóm lại, trong số bảy biện pháp bảo đảm, có hai biện pháp có sự tham gia trực tiếp của người thứ ba, đó là bảo lãnh và tín chấp. Tuy nhiên, tín chấp có phạm vi chủ thể rất hẹp, đó là, bên tín chấp là tổ chức chính trị, xã hội tại cơ sở, bên nhận tín chấp là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng, bên được tín chấp là cá nhân, hộ gia đình nghèo. Tín chấp hoàn toàn được hiểu là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân, không có chế tài về tài sản đối với bên tín chấp. Còn trong quan hệ bảo lãnh, chủ thể tham gia có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. 1.2.2. Về nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Phần lớn các hợp đồng, nội dung của chúng hầu như không được hoặc không cần xác định đầy đủ. Tuy nhiên, người ta đòi hỏi trong mỗi hợp đồng đều phải có các nội dung cụ thể nhằm phục vụ cho quá trình thực hiện hợp đồng cũng như áp dụng các chế tài khi hợp đồng xảy ra tranh chấp. Trong Giáo trình Luật Dân sự của Đại học Luật Hà Nội có nêu: “Nội dung của hợp đồng dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận” [49]. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2005 quy định về nội dung của hợp đồng tại Điều 402, gợi ý về nội dung chứ không ấn định yêu cầu cụ thể cần phải có trong giao kết hợp đồng, điều này viết:
  • 30. 23 Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau đây: 1. Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; 2. Số lượng, chất lượng; 3. Giá, phương thức thanh toán; 4. Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; 5. Quyền, nghĩa vụ của các bên; 6. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; 7. Phạt vi phạm hợp đồng; 8. Các nội dung khác [31, Điều 402]. Căn cứ vào các quy định của Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT- BLĐTBXH-BTP ngày 11/7/2007, thì trong hợp đồng bảo lãnh, các bên đã phải thỏa thuận với nhau về phạm vi bảo lãnh, biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng bảo lãnh và phương thức thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Tuy nhiên, trên thực tế, tùy theo tính chất của từng loại hợp đồng mà các bên có thể thỏa thuận hay không thỏa thuận tất cả các điều khoản ghi trên. Cũng có thể bổ sung thêm vào hợp đồng những điều khoản không có quy định nhưng các bên thấy cần thiết. Như vậy, có thể thấy, nội dung của hợp đồng là một vấn đề rất rộng và hầu như pháp luật Việt Nam rất mở trong vấn đề quy định về nội dung của hợp đồng, có lẽ vì muốn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng - đúng với tinh thần của Bộ luật Dân sự và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thông thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng… (Điều 402). Bất kỳ nội dung nào vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu.
  • 31. 24 Nội dung của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng dựa trên nền tảng là nội dung của hợp đồng dân sự với tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên trong hợp đồng. Đi sâu phân tích về bảo lãnh ngân hàng, ta thấy rõ được điều này, Điều 4 Luật Các TCTD năm 2010 và Điều 3 Thông tư số 07/2015/TT-NHNN ngày 25 tháng 6 năm 2015 quy định về bảo lãnh ngân hàng có nêu: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên bảo lãnh cam kết với bên nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho bên được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh; bên được bảo lãnh phải nhận nợ và hoàn trả cho bên bảo lãnh [24, Điều 3]. Khi so sánh hai khái niệm: bảo lãnh và BLNH theo quy định của pháp luật Việt Nam, chúng ta thấy nếu như bảo lãnh nói chung được xác định là một biện pháp (giao dịch) bảo đảm thì BLNH vừa được xác định là biện pháp bảo đảm, vừa được xác định là một hình thức cấp tín dụng. Hoạt động BLNH là quá trình làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hai mối quan hệ pháp luật sau đây: (i) quan hệ hợp đồng cấp bảo lãnh được xác lập giữa ngân hàng bảo lãnh (bên bảo lãnh) với khách hàng (bên được bảo lãnh) là tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ tài sản cần được bảo đảm bằng bảo lãnh; và (ii) quan hệ hợp đồng bảo lãnh phát sinh giữa ngân hàng bảo lãnh với bên thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh). Hai quan hệ pháp luật này tuy tồn tại độc lập với nhau nhưng có ảnh hưởng chi phối lẫn nhau, theo đó, hợp đồng cấp bảo lãnh là căn cứ hình thành hợp đồng bảo lãnh, còn hợp đồng bảo lãnh là bằng chứng về việc thực hiện hợp đồng cấp bảo lãnh giữa ngân hàng bảo lãnh đối với khách hàng.
  • 32. 25 Khi khách hàng có nhu cầu được bảo lãnh cho nghĩa vụ tài sản đối với bên nhận bảo lãnh, ngân hàng bảo lãnh sẽ thực hiện thẩm định khách hàng và nếu đủ điều kiện sẽ cung cấp dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng. Kết quả của quá trình này là ngân hàng bảo lãnh và khách hàng sẽ ký hợp đồng cấp bảo lãnh. Về nguyên tắc, các điều khoản tại hợp đồng cấp bảo lãnh là kết quả của sự thỏa thuận giữa hai chủ thể bình đẳng về mặt pháp lý. Trong thực tế, các ngân hàng thường xây dựng sẵn mẫu hợp đồng cấp bảo lãnh để làm cơ sở cho việc đàm phán ký kết hợp đồng. Nhìn chung, nội dung hợp đồng cấp bảo lãnh thường bao gồm các điều khoản về thông tin chủ thể tham gia (người bảo lãnh và người được bảo lãnh), số tiền bảo lãnh, mục đích bảo lãnh, hình thức phát hành cam kết bảo lãnh, trường hợp thực hiện bảo lãnh, phí bảo lãnh, quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Khi hợp đồng cấp bảo lãnh có hiệu lực, các bên sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng đã ký. Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các giao dịch kinh tế, thương mại, dân sự ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Để đảm bảo cho việc thực hiện các hợp đồng kinh tế, thương mại, dân sự, chế định về giao dịch bảo đảm ngày càng được hoàn thiện, đặc biệt là về lĩnh vực bảo lãnh, nội dung, hình thức và các tài sản được đưa vào giao dịch bảo lãnh ngày càng đa dạng phong phú, trong đó có cả tài sản hình thành trong tương lai và chế định này là một bước tiến lớn trong khoa học pháp lý và là sản phẩm tất yếu của sự phát triển các giao dịch dân sự. Cùng với nó là chế tài xử lý tài sản của bên bảo lãnh được pháp luật quy định rất rõ ràng và cụ thể “trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh” [31, Điều 369].
  • 33. 26 1.3. Các trƣờng hợp hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàngvô hiệu Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. - Nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội; - Hợp đồng vô hiệu do giả tạo; - Vô hiệu do nhầm lẫn; - Vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa; - Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; - Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức (chỉ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ: không lập thành văn bản, không có đầy đủ chữ ký của các bên hoặc không công chứng, chứng thực…). Thứ hai, tùy thuộc vào tính chất và mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu có thể được chia thành: - Hợp đồng vô hiệu toàn bộ (Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối); - Hợp đồng vô hiệu từng phần (Hợp đồng vô hiệu tương đối); Theo quy định của Bộ luật Dân sự, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ thời điểm giao kết. Các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu. Việc khôi phục lại tình trạng ban đầu được thực hiện theo quy định sau: - Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền (trừ trường hợp tài sản bị tịch thu theo quy định của pháp luật); - Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường cho bên kia. Theo pháp luật của Việt Nam cũng như của nhiều nước, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các
  • 34. 27 bên kể từ thời điểm xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nhưng trong một số trường hợp, việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được vì nhiều lý do như tài sản đã được tiêu thụ, bị mất, bị bán lại cho người khác. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại tại Tạp chí Khoa học Pháp lý số 5, Đại học Paris, Cộng hòa Pháp ghi nhận: “Theo pháp luật của các nước Châu Âu lục địa, trong những trường hợp như vậy, hợp đồng vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu và việc hoàn trả được thanh toán bằng giá trị tương đương. Giải pháp này cũng được thừa nhận trong một số Bộ quy tắc về hợp đồng” [17]. Tác giả này cũng đưa ra một số dẫn chứng cụ thể, theo Điều 4:115 của Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng, “nếu việc hoàn trả bằng hiện vật không thể thực hiện được thì hoàn trả bằng một khoản tiền hợp lý”. Tương tự, theo Điều 3.17 Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại quốc tế của Unidroit, “những gì không thể hoàn trả được bằng vật chất thì phải được hoàn lại bằng giá trị”. Khi không thể hoàn trả bằng hiện vật, việc hoàn trả bằng giá trị cũng được thừa nhận ở Việt Nam. Theo Điều 39, khoản 2, điểm a, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, “trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” và theo Điều 137, khoản 2, Bộ luật dân sự năm 2005, “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền”. Việc tuyên bố một hợp đồng vô hiệu thuộc thẩm quyền của Toà án. Trong luận văn này, tác giả chỉ đề cập đến hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, mà hợp đồng bảo lãnh vô hiệu cũng mang đặc điểm của một hợp đồng kinh tế vô hiệu. Theo đó, quy định tại Điều 47 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì “Trong trường hợp phải xử lý tài sản của bên bảo lãnh theo quy định tại Điều 369 Bộ luật Dân sự thì các bên thỏa thuận về tài sản, thời gian, địa điểm và phương thức xử lý; nếu không thỏa thuận được thì bên nhận bảo lãnh có quyền khởi kiện tại Tòa án” [14, Điều 47]. Tuy nhiên, trên thực tế, khi một
  • 35. 28 người yêu cầu tuyên bố hoạt động vô hiệu là vì họ không muốn thực hiện đầy đủ những gì mà hợp đồng buộc họ phải làm. Khi Tòa án tuyên bố các bên vẫn phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tài sản (khôi phục lại tình trạng ban đầu), thì có lẽ các bên sẽ “ngại” đến Tòa để yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bởi khi đó tài sản đã không còn hoặc đã bị hỏng... việc phải bồi hoàn bằng tiền khiến các bên càng thêm căng thẳng. Trong trường hợp đồng bảo lãnh, có một nhà bình luận Bộ luật Dân sự Việt Nam cho rằng “nếu nghĩa vụ được bảo lãnh vô hiệu thì nghĩa vụ bảo lãnh, trên nguyên tắc, sẽ biến mất”. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng vô hiệu toàn phần thì nghĩa vụ bảo lãnh cũng không biến mất mà sẽ vẫn được thực hiện, bởi theo Điều 361 BLDS 2005 thì người bảo lãnh vẫn phải có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận bảo lãnh. Theo quan điểm này thì chúng ta thấy rằng, Tòa án đã không để các bên mất quyền lợi mà tạo điều kiện cho các bên giao kết hợp đồng bởi nó đem lại lợi ích hợp pháp mà các bên mong đợi khi giao kết. Căn cứ theo Ðiều 317 và Ðiều 410 BLDS 2005 về hợp đồng dân sự vô hiệu, điều này khẳng định biện pháp bảo đảm là một biện pháp gắn bó mật thiết với hợp đồng, nhưng không phải là một phần của hợp đồng hoặc là nội dung của hợp đồng, dù có thể được ghi trong hợp đồng chính. Bởi lẽ: Biện pháp bảo đảm kèm theo nghĩa vụ không đương nhiên được chuyển giao nếu không có thỏa thuận khác. Như vậy, cũng có thể nói, biện pháp bảo đảm không phải là một phần của nghĩa vụ, mà chỉ là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, điều này cũng có nghĩa nó không thuộc hợp đồng mà chỉ là biện pháp bảo đảm ký kết hoặc thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa vụ. Mặt khác, điều này một lần nữa được khẳng định tại Ðiều 410 BLDS 2005, sự vô hiệu của hợp đồng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Về nguyên tắc, đối tượng của sự bảo lãnh phải là một nghĩa vụ đang
  • 36. 29 tồn tại, do đó sự bảo lãnh về một nghĩa vụ vô hiệu tuyệt đối sẽ không phát sinh một hiệu lực nào cả. Về các trường hợp vô hiệu tương đối, người ta thường phân biệt: Nếu nguyên nhân của sự vô hiệu là người được bảo lãnh không có năng lực hành vi, sự huỷ bỏ nghĩa vụ chính không kéo theo sự vô hiệu của bảo lãnh, nếu người bảo lãnh khi cam kết đã biết rõ người được bảo lãnh không có năng lực. 1.4. Hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng bảo lãnh trong quan hê ̣vớ i hiê ̣u lƣ̣c của hợp đồng tín dụng 1.4.1. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng Tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó cũng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất hiện, cũng là đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa. Thời kỳ này, tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật - hàng hóa. Xuất hiện sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, làm cho xã hội có sự phân hóa: giàu, nghèo, người nắm quyền lực, người không có gì.... Khi người nghèo gặp phải những khó khăn không thể tránh thì buộc họ phải đi vay, mà những người giàu thì câu kết với nhau để ấn định lãi suất cao, chính vì thế, tín dụng nặng lãi ra đời. Trong giai đoạn tín dụng nặng lãi, tín dụng có lãi suất cao nhất là 40-50%, do việc sử dụng tín dụng nặng lãi không phục vụ cho việc sản xuất mà chỉ phục vụ cho mục đích tín dụng nên nền kinh tế bị kìm hãm động lực phát triển. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ. Tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo lãi suất. Do hoạt động này làm phát sinh một khoản nợ nên bên cho vay còn gọi là chủ nợ, bên
  • 37. 30 đi vay gọi là con nợ. Do đó, tín dụng phản ánh mối quan hệ giữa hai bên: Một bên là người cho vay, và một bên là người đi vay. Quan hệ giữa hai bên ràng buộc bởi cơ chế tín dụng, thỏa thuận thời gian cho vay, lãi suất phải trả,... Thực chất: “Tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả” [48]. Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS). Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng). Hợp đồng tín dụng chính là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu bên vay là doanh nghiệp và hộ kinh doanh, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp đồng thương mại, nếu bên vay là cá nhân, thì hợp đồng tín dụng sẽ là hợp đồng dân sự. Cho vay vốn được ví như việc bán chịu một loại hàng hóa đặc biệt, đó là tiền tệ. Vì vậy, trong quan hệ tín dụng, trước khi giải ngân, thì thế mạnh hoàn toàn thuộc về ngân hàng và ngân hàng là người quyết định có hay không cho vay. Dấu ấn vẫn đang hiện hữu trong Luật các TCTD năm 1997 để chỉ quá trình chuẩn bị giao kết hợp đồng, đó là những cụm từ “cấp tín dụng” và “xét duyệt cho vay” hay là “yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh” tính khả thi của phương án vay vốn và khả năng trả nợ. Tuy nhiên, ngay sau khi thực hiện hợp đồng, tức là sau khi ngân hàng giải ngân, thì xu thế lại hoàn toàn đảo ngược. Khi ấy, bên vay là người nắm vai trò chủ động trong việc trả nợ. Mặc dù ngân hàng có khá nhiều quyền chi phối theo quy định của pháp luật về hợp đồng tín dụng, nhưng vẫn trở thành bên thụ động. Nhìn chung pháp luật liên quan là BLDS, Luật các TCTD và
  • 38. 31 Quy chế Cho vay của TCTD đối với khách hàng do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành (hiện nay là Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001), đã quy định khá cụ thể, chi tiết các điều kiện, điều khoản có trong một hợp đồng tín dụng. Có thể hiểu: “Hợp đồng tín dụng là sự thỏa thuận giữa bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng). Theo đó, bên cho vay chuyển nhượng quyền sở hữu số tiền vay cho khách hàng theo nguyên tắc hoàn trả dựa trên cơ sở sự tin tưởng, sự tín nhiệm” [21]. Như vậy, tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa Ngân hàng (TCTD) với bên đi vay (là các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó ngân hàng (TCTD) chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng (TCTD) khi đến hạn thanh toán. Đặt trong mối quan hệ so sánh với hợp đồ ng bảo lãnh thì hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tiền , còn hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng bảo đảm tiền vay cho hợp đồng vay tiền . Tuy vâ ̣y, hai hợp đồng này có hiê ̣u lực hoàn toàn độc lập và sự vô hiệu của hợp đồng n ày không hề ảnh hưởng đển hợp đồng kia và ngược la ̣i . 1.4.2. Mối quan hệ hiệu lực giữa hợp đồng bảo lãnh vay vốn với hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng về bản chất là những hợp đồng cho vay tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS), theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tuy nhiên, chỉ gọi là hợp đồng tín dụng trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng (TCTD), trong đó chủ yếu là các ngân hàng (sau đây gọi chung là ngân hàng). Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp
  • 39. 32 đồng cấp tín dụng. Tìm hiểu rõ về các khía cạnh của mối quan hệ này, ta thấy được sự khác biệt rõ rệt: Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng bảo lãnh tài sản bảo đảm tiền vay luôn có một bên là tổ chức tín dụng - với tư cách là bên nhận bảo lãnh (bên có quyền đòi nợ theo hợp đồng tín dụng). Ngoài ra, chủ thể thứ hai là bên bảo lãnh và chủ thể thứ ba là bên được bảo lãnh. Do chủ thể nhận bảo lãnh là tổ chức tín dụng nên việc phòng tránh rủi ro tín dụng cho chủ thể này là vấn đề hết sức quan trọng, được pháp luật quan tâm đặc biệt vì mục tiêu giữ vững an toàn của hệ thống ngân hàng và đảm bảo lợi ích quốc gia. Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm bằng hợp đồng bảo lãnh thường là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay vốn. Nghĩa vụ này phát sinh từ hợp đồng tín dụng, bao gồm nợ gốc, nợ lãi, các khoản phí, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Thực tế cho thấy, do nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong hợp đồng tín dụng thường có giá trị lớn và có tính rủi ro cao nên hầu hết các tổ chức tín dụng khi cho vay đều mong muốn sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để phòng tránh rủi ro cho các khoản tín dụng đã cung cấp. Chính vì vậy, các hợp đồng bảo lãnh hiện nay được giao kết chủ yếu là nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ các hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng. Thực tế đó, càng chứng tỏ vai trò của các biện pháp bảo đảm tiền vay nói chung và biện pháp bảo lãnh tài sản nói riêng đối với yêu cầu bảo đảm quyền chủ nợ cho các tổ chức tín dụng trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thứ ba, trong quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, do tổ chức tín dụng rất coi trọng vai trò tác dụng của các biện pháp bảo đảm
  • 40. 33 nghĩa vụ trả nợ tiền vay nên hợp đồng bảo đảm nói chung và hợp đồng bảo lãnh nói riêng thường được các bên (tổ chức tín dụng và bên bảo đảm) xác lập thành một hợp đồng riêng, tách khỏi hợp đồng tín dụng, với nhiều điều khoản chi tiết và rất cụ thể. Điều này là cần thiết, vì việc giao kết một hợp đồng bảo lãnh riêng rẽ với hợp đồng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về các điều khoản của hợp đồng bảo đảm tiền vay. Trên cơ sở đó, giúp cho việc thực hiện hợp đồng bảo đảm và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay cũng dễ dàng, thuận lợi hơn. Khi nói đến mối quan hệ giữa hai hợp đồng này thì các nhà làm luật dường như còn nhiều “băn khoăn” và tranh luận cả về phương diện học thuật và thực tiễn hoạt động để xác định tính độc lập hay tính phụ thuộc giữa hai hợp đồng này. Nói cách khác, mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng nói riêng có phải là mối quan hệ hợp đồng chính và hợp đồng phụ hay không? Khi nghiên cứu thực tế, thì kết quả là có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng: Mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp hoặc cầm cố tài sản của bên thứ ba có thể coi là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Trong lịch sử pháp chế Việt Nam đã từng tồn tại quan niệm cho rằng hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là hợp đồng phụ. Thật vậy, tại Điều 405 Bộ luật Dân sự 1995 có quy định về hợp đồng chính, hợp đồng phụ. Mặt khác, trước đây, theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Quy định này đã thể hiện quan
  • 41. 34 điểm của người soạn luật cho rằng, hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh chỉ là hợp đồng phụ, xét trong mối quan hệ với hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ mà nó bảo đảm (gọi là hợp đồng chính). Có lẽ quan điểm này dựa trên lập luận cho rằng, sự bảo đảm chỉ có giá trị khi tồn tại nghĩa vụ được bảo đảm (nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng chính). Do nhìn nhận như vậy, nhiều ý kiến cho rằng, có thể coi mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay nói chung và hợp đồng bảo lãnh vay vốn nói riêng là mối quan hệ giữa hợp đồng chính với hợp đồng phụ. Điều này không chỉ tồn tại trong các diễn đàn khoa học mà thực tế đã trở thành những quy định của luật pháp có giá trị bắt buộc thi hành ở Việt Nam trong những năm trước đây. Theo Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ về giao dịch bảo đảm, người soạn luật cho rằng “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm” [7, Điều 16, Khoản 2]. Tương tự, Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay cũng quy định theo hướng như vậy, tuy có điểm khác biệt là trong mọi trường hợp, sự vô hiệu của giao dịch bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng giao dịch đó (khoản 8 Điều 1 Nghị định số 85/2002/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong thực tiễn pháp lý cũng như trong các diễn đàn trao đổi học thuật, từng có ý kiến cho rằng, chỉ nên coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có cả hợp đồng bảo lãnh) là hợp đồng phụ khi cả hai loại hợp đồng này đều có thành phần chủ thể giống nhau, nghĩa là cả hai hợp đồng này đều cùng được giao kết bởi hai chủ thể xác định. Theo tác giả, nhận thức này không thật chính xác, bởi vì khi nói đến mối quan hệ chính - phụ giữa hai hợp đồng nào đó, chủ yếu là nhằm xác định mối quan hệ ảnh hưởng, chi phối về hiệu lực giữa hai hợp đồng đó với nhau, chứ không
  • 42. 35 giới hạn ở khía cạnh chủ thể của hợp đồng. Nói cách khác, một hợp đồng có thể được coi là hợp đồng chính và một hợp đồng khác có thể được coi là hợp đồng phụ, xét trong mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này với nhau, bất luận chủ thể ký kết hai loại hợp đồng này có trùng nhau hay không. Quay lại với vấn đề mối quan hệ hiệu lực của hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh vay vốn, việc cho ra đời những thay đổi mới trong tư duy luật pháp của nước ta thể hiện sự công bằng hơn khi đưa ra những điều luật nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi cho bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng. Vì vậy, hiện nay khi Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 (thay thế cho Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999) và Nghị định 11/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm ra đời đã gần như thay đổi cách nghĩ của quan điểm trên. Trong Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006, nhà làm luật đã có sự thay đổi quan niệm theo hướng thực tế hơn. Cụ thể là, Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 quy định: 1. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 2. Giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 3. Hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện mà các bên chưa thực hiện hợp đồng đó thì giao dịch bảo đảm chấm dứt; nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
  • 43. 36 4. Giao dịch bảo đảm bị huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt thực hiện không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thoả thuận khác. 5. Trong trường hợp giao dịch bảo đảm không chấm dứt theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều này thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ hoàn trả của bên có nghĩa vụ đối với mình [11, Điều 15]. Theo quy định tại Điều 15 nói trên, thì có thể hình dung mối tương quan về hiệu lực giữa hai hợp đồng này như sau: - Thứ nhất, nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên hoặc chưa được thực hiện thì hợp đồng bảo lãnh bị chấm dứt. Cần lưu ý rằng theo quy định của điều luật nêu trên thì trong trường hợp này, hợp đồng bảo lãnh bị chấm dứt, nghĩa là đã có hiệu lực rồi sau đó mới chấm dứt hiệu lực do không cần thiết duy trì hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh nữa, chứ không phải là hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu ngay từ khi ký kết. Nếu hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng bảo lãnh bị vô hiệu hoặc đã có hiệu lực nhưng bị hủy bỏ bởi thỏa thuận của các bên mà đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ thì hợp đồng bảo lãnh không bị đương nhiên chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận chấm dứt hợp đồng thế chấp này vì thấy không cần thiết phải tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa. Trong trường hợp này, nếu hợp đồng bảo lãnh không bị chấm dứt trong khi tổ chức tín dụng đã giải ngân cho khách hàng thì bên nhận bảo lãnh (tổ chức tín dụng) có quyền xử lý tài sản bảo lãnh để thu hồi số tiền đã giải ngân cho khách hàng. - Thứ hai, hợp đồng bảo lãnh bị vô hiệu sẽ không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng tín dụng thỏa thuận hủy bỏ hay chấm dứt hợp đồng này.
  • 44. 37 Từ việc phân tích, bình luận và khảo cứu các quan điểm trên đây, có thể khẳng định rằng: Xét trong mối quan hệ giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng bảo đảm tiền vay thì không thể coi hợp đồng tín dụng là hợp đồng chính và hợp đồng bảo đảm tiền vay (trong đó có hợp đồng bảo lãnh) là hợp đồng phụ, vì các lý do sau đây: Về khía cạnh học thuật, tự thân mỗi hợp đồng này (tức hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh) đều đã có đầy đủ các yếu tố để được coi là một hợp đồng thực thụ. Vì thế, tự nó sẽ phát sinh hiệu lực nếu thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Dân sự 2005), chứ không cần phải phụ thuộc vào hiệu lực của hợp đồng khác. Điều này có nghĩa, hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo lãnh tài sản đều là những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hưởng và chi phối đến hiệu lực của nhau, cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng bảo lãnh là nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Mặt khác, về khía cạnh pháp luật thực định, tại Điều 410 Bộ luật Dân sự 2005, tuy nhà làm luật vẫn mô tả rõ bản chất pháp lý của mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ nhưng đồng thời cũng khẳng định rằng, các quy định về mối quan hệ này không áp dụng cho các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự, trong đó có biện pháp bảo lãnh tài sản [8]. Theo ý kiến của các nhà làm luật, lựa chọn giải pháp này cho mối quan hệ giữa hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm với hợp đồng bảo đảm là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ tránh được những rủi ro về kinh tế trong trường hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị vô hiệu mà bên chủ nợ (bên nhận bảo đảm) đã thực hiện hợp đồng này với người đối ước. Như vậy, có thể kết luận rằng, nếu hợp đồng tín dụng bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hưởng gì đến hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh. Ngược lại, nếu hợp bảo lãnh bị vô hiệu hoặc bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng tín dụng và khi đó, hợp đồng tín dụng trở thành hợp đồng không có bảo đảm bằng tài sản.
  • 45. 38 Kết luận Chƣơng 1 Tìm hiểu các quy định về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng cũng như hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng cho ta cái nhìn khái quát về giao dịch bảo đảm này trên phương diện khoa học pháp lý cũng như lịch sử quy định pháp luật về hợp đồng tín dụng, biện pháp bảo đảm nói chung và hợp đồng bảo lãng vay vốn ngân hàng nói riêng, từ đó thấy được những thay đổi về quy định của pháp luật về bảo lãnh, tổng quát được quy định của pháp luật các nước đại diện cho các hệ thống pháp luật trên thế giới qua đó đánh giá được điểm giống và khác nhau trong quy định pháp luật giữa các nước. Việc tìm hiểu những vấn đề lí luận chung về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng như: về khái niệm hợp đồng bảo lãnh, các đặc điểm về chủ thể, hình thức, nội dung, tài sản bảo lãnh… là cơ sở quan trọng để nghiên cứu sâu hơn những quy định của pháp luật hiện hành về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, giúp chúng ta định hướng cho việc nghiên cứu nội dung các quy định pháp luật Việt Nam, nhằm mục đích nâng cao hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng. Ngoài ra, hoạt động tìm hiểu về vấn đề hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng cũng như hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng trong pháp luật ở một số nước trên thế giới giúp ta thấy được cách quy định về loại hợp đồng này ở từng nước sẽ có những đặc trưng riêng, từ đó có thể có những cái nhìn mới hơn về hoạt động cho vay tín dụng nói chung, thực hiện hợp đồng bảo lãnh tại Việt Nam nói riêng, nhận thức được thực tế vấn đề hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng tại Việt Nam còn có những điểm nào chưa hợp lí cần được điều chỉnh phù hợp hơn với thực tế. Trên cơ sở nghiên cứu những lý luận cơ bản về hợp đồng bảo lãnh vay vốn ngân hàng, người viết muốn tìm hiểu rõ hơn nữa về vấn đề hiệu lực của hợp đồng và thực trạng pháp luật về hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh ở nước ta hiện nay để nâng cao hơn nữa hiệu quả của biện pháp bảo đảm này.