SlideShare a Scribd company logo
1 of 211
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ THỊ MAI
HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ
Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR,
TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
HÀ NỘI - 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ THỊ MAI
HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ
Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR,
TỈNH ĐẮK LẮK
Ngành: Nhân học
Mã số: 9.31.03.02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Nguyễn Văn Minh
2. PGS.TS. Phạm Văn Dương
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất cứ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Hà Thị Mai
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU................................................................................11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................11
1.2. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................21
1.3. Khái quát về xã Cuôr Dăng................................................................................29
1.4. Người Ê-đê ở Tây Nguyên và người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng ..............................34
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ HÌNH THỨC KẾT HÔN ...........45
2.1. Một số đặc điểm và tính chất cơ bản trong hôn nhân ........................................45
2.2. Một số nguyên tắc - hình thức kết hôn...............................................................63
2.3. Một số trường hợp hôn nhân khác .....................................................................67
Chƣơng 3: PHONG TỤC VÀ NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN........................81
3.1. Phong tục và nghi lễ trong hôn nhân của những người đồng tộc ......................81
3.2. Phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của người Ê-đê với người khác tộc.............96
3.3. Phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của những người cùng và khác tôn giáo...101
Chƣơng 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ HIỆN
NAY Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK .............111
4.1. Xu hướng và nguyên nhân biến đổi trong hôn nhân của người Ê-đê ..............111
4.2. Một số giá trị của hôn nhân..............................................................................123
4.3. Một số vấn đề đang đặt ra ................................................................................128
4.4. Một số khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của hôn nhân trong
quá trình phát triển cộng đồng người Ê-đê hiện nay...............................................135
KẾT LUẬN............................................................................................................143
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................146
DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIÊT TẮT
CT: Chỉ thị
ĐHQG Đại học Quốc gia
GS. Giáo sư
HCM Hồ Chí Minh
NCS Nghiên cứu sinh
Nxb Nhà xuất bản
PGS Phó giáo sư
QĐ Quyết định
TP Thành phố
Tr Trang
TS Tiến sĩ
TTg Thủ tướng
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Tổng hợp dân số theo thành phần dân tộc................................................31
Bảng 2.1: Thời gian tìm hiểu của các cặp vợ chồng trước khi kết hôn ....................47
Bảng 2.2. Bối cảnh gặp gỡ trước hôn nhân...............................................................48
Bảng 2.3. Nơi cư trú sau kết hôn...............................................................................62
Bảng 2.4. Quan niệm kết hôn con cô – con cậu........................................................69
Bảng 2.5: Thống kê hôn nhân cận huyết từ 1975 đến 2018......................................70
Bảng 2.6: Kết hôn khác dân tộc tại các buôn ở xã từ 1975 đến 2018.......................71
Bảng 4.1: Lý do thay đổi tuổi kết hôn.....................................................................114
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Quyền quyết định hôn nhân (đơn vị: %) ..............................................53
Biểu 4.1. Sự can thiệp của các bên liên quan khi vợ/chồng ngoại tình, ly hôn ......129
Biểu đồ 4.2: Ý kiến có nên duy trì tục thách cưới hay không.................................133
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người Ê-đê là một trong năm dân tộc thiểu số theo chế độ mẫu hệ (Ê-đê, Gia
rai, Chu Ru, Raglai và Chăm) thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo ở nước ta. Người Ê-
đê có dân số đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên, chỉ sau
dân tộc Gia rai. Đây là cộng đồng tộc người có văn hóa truyền thống độc đáo, tiêu
biểu và phong phú, cư trú chủ yếu ở tỉnh Đắk Lắk. Do có dân số lớn, trình độ phát
triển kinh tế - xã hội vào loại cao ở Tây Nguyên và do những nguyên nhân lịch sử,
văn hóa mà dân tộc Ê-đê từ trước đến nay luôn có vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và ổn định chính trị ở vùng
Tây Nguyên.
Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, trong đó có phong tục tập quán và nghi
lễ hôn nhân là những giá trị được hình thành từ lâu đời, phản ánh đặc trưng tộc
người. Trong những thập niên vừa qua, nhất là thời kỳ đổi mới, quá trình giao lưu
và hội nhập diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực không chỉ ở trong
đời sống người Ê-đê mà còn trong tất cả các tộc người khác. Quá trình ấy đã mang
lại những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, song cũng gây ra những nguy
cơ và thách thức mới, trong đó có sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách,
giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm nâng cao
đời sống cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó, hôn nhân và
gia đình luôn được coi trọng, thể hiện qua việc thực hiện Chiến lược phát triển gia
đình Việt Nam và ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình cũng như tập trung xây dựng
đời sống văn hóa mới ở các khu dân cư trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới
hiện nay. Thực tế cho thấy, hiện nay đời sống của phần lớn người Ê-đê còn bị chi
phối ít nhiều ở các mức độ khác nhau bởi phong tục, tập quán, trong đó những
phong tục, tập quán về hôn nhân - gia đình thường có tính bền vững và ăn sâu trong
tâm thức của người dân. Chính vì vậy, mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân và gia
2
đình tiến bộ, đặc biệt là khi có Luật Hôn nhân và Gia đình đầu tiên của nước ta
được ban hành năm 1959, gần đây nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và
Nghị định 126 về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn
nhân và Gia đình (2014) đã bước đầu được đặt trong bối cảnh hướng tới sự hài hòa
giữa pháp luật và phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn
áp dụng pháp luật về hôn nhân đối với người Ê-đê theo mối tương quan với những
qui định của tập quán pháp tộc người đã và đang đặt ra không ít các vấn đề cần giải
quyết về mặt lý luận như: tục thách cưới, việc đăng ký kết hôn, xử lý ly hôn, phân
chia tài sản sau khi ly hôn,… Vì vậy, nghiên cứu các giá trị văn hóa của tộc người
Ê-đê nói chung và trong lĩnh vực hôn nhân nói riêng trong bối cảnh thực hiện Luật
Hôn nhân và Gia đình, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, chính sách xây
dựng đời sống văn hóa mới hiện nay ở dân tộc Ê-đê là cần thiết và có ý nghĩa về
khoa học lẫn thực tiễn.
Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã công bố trong và ngoài nước cũng như những
thông tin thu thập được từ các chuyến đi thực địa, luận án hướng tới việc xây dựng
một bức tranh tương đối đầy đủ về các vấn đề cơ bản trong hôn nhân của người Ê-
đê, nhất là những biến đổi trong hôn nhân hay sự xuất hiện các hình thức kết hôn
mới: hôn nhân hỗn hợp dân tộc, hôn nhân giữa người có đạo và người không có
đạo, sự giao tiếp văn hóa giữa hôn nhân của người Ê-đê với các tộc người theo chế
độ phụ hệ… cũng như một số vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh hiện đại và hội
nhập hiện nay cần nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu hôn nhân của người Ê-đê sẽ
giúp cho việc hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn về đặc điểm văn hóa tộc người truyền
thống, nhất là các phong tục tập quán, những khuôn mẫu ứng xử cá nhân, gia đình
và cộng đồng, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Ngoài ra, qua việc nghiên
cứu hôn nhân của tộc người Ê-đê, luận án cũng chỉ ra những vấn đề dân tộc mới nảy
sinh cũng như các yếu tố văn hóa mới cần tiếp tục tìm hiểu. Đồng thời, luận án cũng
cung cấp những luận cứ khoa học giúp chính quyền địa phương tham khảo trong
việc thực hiện chính sách, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
3
của tộc người Ê-đê phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi
mới hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, cung cấp hệ thống tư liệu về đặc điểm, hình thức - nguyên tắc,
phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân truyền thống của người Ê-đê đang được thực
hành tại điểm nghiên cứu.
Thứ hai, tìm hiểu những biến đổi trong hôn nhân của người Ê-đê ở điểm
nghiên cứu từ 1975 đến nay, qua đó làm rõ đời sống hôn nhân của đồng bào trong
thời kỳ đổi mới đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế.
Thứ ba, góp phần đánh giá làm rõ những giá trị cơ bản và các vấn đề đang đặt
ra trong hôn nhân của người Ê-đê hiện nay, qua đó cung cấp cơ sở khoa học phục
vụ cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp nhằm phát huy các giá
trị của hôn nhân trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của người Ê-đê ở điểm
nghiên cứu nói riêng và tộc người này ở Tây Nguyên nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung thực hiện
một số nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu tổng quan về người Ê-đê ở điểm nghiên cứu, nhất là các đặc
điểm liên quan và tác động đến hôn nhân của tộc người này.
- Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, phong tục tập quán
và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê hiện nay ở điểm nghiên cứu.
- Đánh giá xu hướng biến đổi và phân tích nguyên nhân biến đổi của các xu
hướng; xác định các giá trị của hôn nhân và những vấn đề đang đặt ra hiện nay... để
từ đó đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm phát huy các giá trị của hôn nhân
trong quá trình phát triển hiện nay.
4
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các vấn
đề hôn nhân hiện nay của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk
Lắk, gồm: quan niệm, đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, phong tục và nghi lễ trong
hôn nhân.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phạm vi nội dung của luận án là các đặc điểm,
hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê ở xã
Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Phạm vi không gian nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu là xã Cuôr Dăng, huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Xã Cuôr Dăng cách thành phố Buôn Ma Thuột 17km, đây
là địa bàn đã và đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa –
hiện đại hóa. Toàn xã có 6 buôn: buôn Cuôr Dăng A, buôn Cuôr Dăng B, buôn
Kroa B, buôn Kroa C, buôn Aring, buôn Ko Hneh. Dân tộc Ê-đê chiếm trên 80%
dân số toàn xã, bộ phận còn lại gồm: dân tộc Việt (Kinh), các dân tộc thiểu số tại
chỗ Tây Nguyên và các dân tộc thiểu số phía Bắc di cư vào. Ở địa bàn xã được lựa
chọn nghiên cứu đều có các trường hợp kết hôn nội tộc người, hôn nhân khác tộc
người, hôn nhân của những người khác tôn giáo,... Do vậy, việc nghiên cứu sinh lựa
chọn xã Cuôr Dăng để nghiên cứu hôn nhân của người Ê-đê trong giai đoạn hiện
nay đảm bảo tính đại diện, khách quan.
Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án: Được xác định là các đặc điểm,
hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê hiện
đang được thực hành tại điểm nghiên cứu, nhưng đặt trong sự so sánh từ năm 1975
đến nay để làm rõ hơn quá trình và xu hướng biến đổi của các nội dung nghiên cứu.
Sở dĩ nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn mốc thời gian từ năm 1975 đến nay để
nghiên cứu là vì, từ 1975 đến nay Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách quan trọng
có tác động mạnh mẽ đến người Ê-đê nói chung và hôn nhân nói riêng, trong đó
đáng chú ý là chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo kế hoạch, cùng
5
với đó là làn sóng di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung lên Tây
Nguyên trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, đã làm cho dân số của toàn tỉnh Đắk
Lắk nói chung và xã Cuôr Dăng tăng nhanh. Do vậy, đời sống của đồng bào dân tộc
thiểu số tại chỗ có sự giao lưu và ảnh hưởng nhất định từ bộ phận cư dân mới đến
này. Quá trình đó đã góp phần hình thành những yếu tố văn hóa mới của tộc người,
biến đổi văn hóa tộc người. Trong đó, hôn nhân và gia đình là một trong những lĩnh
vực biến đổi khá rõ nét.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, luận án đã sử dụng những
phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp luận
- Luận án vận dụng các luận điểm về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của người Ê-đê ở nước ta. Cụ
thể ở đây, NCS luôn đặt hôn nhân nói chung và các vấn đề của hôn nhân nói riêng
trong một hệ thống gồm các thành tố lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường tự
nhiên và con người ở cộng đồng nghiên cứu trong mối liên quan và sự tương tác lẫn
nhau và với các cộng đồng khác. Quá trình đó đã góp phần tạo ra sự giao lưu tiếp
biến về nhiều mặt để dẫn đến việc hôn nhân của người Ê-đê tại địa bàn nghiên cứu
vừa giữ được những đặc trưng truyền thống của tộc người, của vùng miền, nhưng
cũng luôn có sự biến đổi để thích nghi với các điều kiện mới.
- Luận án đã vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tộc người
nói chung và hôn nhân gia đình của các tộc người thiểu số nói riêng, nhất là Luật
Hôn nhân và Gia đình hiện hành và Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay. Những quan điểm này là các định hướng quan trọng để luận án
giải quyết các mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của luận án, nhất là xác định các giá
trị và hạn chế của hôn nhân hiện nay để đề xuất một số khuyến nghị khoa học liên
quan nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân trong bối cảnh hiện nay.
6
Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê và kế thừa các tài liệu có sẵn: Nghiên cứu sinh đã đọc và xử lý tài
liệu từ các nguồn sách, tạp chí, các báo cáo kết quả của những chương trình, dự án
nghiên cứu trong nước; báo cáo tổng kết của các cơ quan trung ương và địa phương
liên quan đến đề tài nghiên cứu; số liệu thống kê ở các cấp trung ương, tỉnh, huyện,
xã và buôn làng.
- Điền dã dân tộc học: Trước hết bằng phương pháp định tính, NCS đã sống
và trải nghiệm cùng với người dân tại địa phương để có thể quan sát tham dự các
hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của họ. Cố gắng hiểu được một cách tương
đối đầy đủ về quan niệm, tâm lý và hành vi của người Ê-đê ở điểm nghiên cứu liên
quan đến vấn đề hôn nhân. Trong quá trình đó, NCS kết hợp phương pháp quan sát
tham dự với các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đối với những thông tín viên
để thu thập thông tin theo vấn đề phù hợp với đối tượng nghiên cứu, nhất là những
người am hiểu và có uy tín như cán bộ, già làng, người già,... Nghiên cứu sinh đã
tiến hành lựa chọn phỏng vấn sâu 35 người, đảm bảo các nguyên tắc về tính đại
diện cho lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, học vấn, điều kiện kinh tế, vị trí
xã hội, cụ thể: về giới tính có 20 nữ (57,1%), 15 nam (42,9%); có 28 người Ê-đê
(80%), 3 người Việt (8,57%), 2 người Gia-rai (5,71%), 1 người Hrê (2,86%), 1
người Thái (2,86%); có 5 người dưới 20 tuổi (14,29%), 10 người từ 20 đến 35 tuổi
(28,57%), 5 người từ 35 đến 50 tuổi (14,29%), 15 người ngoài 50 tuổi (42,86%); có
10 người không theo đạo (28,57%), 15 người theo Tin Lành (42,86%), 6 người theo
Công giáo (17,14%), 3 người theo đạo Phật (8,57%), 1 người theo Đạo Cao Đài
(2,86%); có 25 người làm nông (71,43%), 1 người làm cán bộ huyện (2,86%), 3
người cán làm bộ xã (8,57%), 3 người làm cán bộ buôn (8,57%), 2 người hưu trí
(5,71%), 01 người giáo viên (2,86%); về học vấn (trình độ học vấn cao nhất của đối
tượng phỏng vấn): có 5 người không đi học (14,29%), 25 người trình độ học vấn từ
lớp 1 đến lớp 12 (71,43%), 5 người có trình độ từ cao đẳng trở lên (14,29%); có 5
người nghèo (có trong danh sách hộ nghèo của địa phương, chiếm 14,29%), 20
người trung bình (57,1%), 10 người khá giả (28,57%). Nội dung phỏng vấn thường
7
được chuẩn bị trước với hệ thống câu hỏi mở để người trả lời có thể có nhiều lựa
chọn khi đưa ra ý kiến của mình.
Nghiên cứu sinh tiến hành thảo luận nhóm tại địa bàn nghiên cứu để thu thập
thông tin định tính. Đối tượng thảo luận trong một nhóm thường có sự thống nhất
chung như nhóm cán bộ buôn làng, nhóm đàn ông lớn tuổi, nhóm phụ nữ trung
niên,... Hướng thảo luận nhóm tập trung vào các vấn đề cụ thể như: tình hình đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội, các phong tục, tập quán liên quan đến hôn nhân từ
truyền thống đến hiện tại, việc vận dụng luật tục và luật pháp trong thực hành hôn
nhân ở địa phương cũng như những nguyện vọng của người dân trong việc bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa tộc người.
Nghiên cứu sinh đã tham dự 5 lễ ăn hỏi có nghi thức tổ chức theo phong tục
truyền thống, 7 đám cưới tổ chức theo cách thức người Việt (trong đó có 4 đám
cưới của người Ê-đê kết hôn với người Ê-đê, 1 đám cưới người Ê-đê kết hôn với
người Tày, 1 đám cưới người Ê-đê kết hôn với người Việt, 1 đám cưới người Ê-đê
kết hôn với người Gia-rai); tham dự 1 lễ đính hôn của người Ê-đê tại Chi hội Tin
Lành Cuôr Dăng, 1 lễ cưới của người Ê-đê theo Công giáo ở giáo xứ Thiên Đăng.
Trong quá trình điền dã, NCS áp dụng các công cụ bổ trợ như chụp ảnh, sưu tầm
các tư liệu về văn học nghệ thuật dân gian, tài liệu thư tịch của tộc người Ê-đê liên
quan đến đề tài luận án.
- Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được áp dụng thông qua các
cuộc tọa đàm hẹp, thảo luận, trao đổi theo từng vấn đề chuyên sâu, nhằm thu thập tư
liệu và kinh nghiệm nghiên cứu từ các chuyên gia, những cán bộ và người dân có uy
tín và am hiểu trong cộng đồng ở địa phương tiến hành điền dã. Trong quá trình
thực hiện luận án, NCS đã tiến hành nhiều cuộc trao đổi với các nhà khoa học trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó cũng tranh thủ ý kiến của các nhà quản
lý, cán bộ phụ trách về văn hóa, dân số của xã; các già làng,... để thu thập những ý
kiến đánh giá chuyên sâu và những kinh nghiệm của họ đối với vấn đề nghiên cứu.
- Sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu
8
các nguồn thông tin, tư liệu, số liệu thu thập được để hoàn thành mục tiêu nghiên
cứu đề ra. Trong đó, so sánh đồng đại và lịch đại được dùng chủ yếu trong quá trình
phân tích và đánh giá các tài liệu đã thu thập được từ những phương pháp khác.
Mục tiêu là trên cơ sở các tài liệu có được từ kế thừa tài liệu có sẵn và từ điền dã
dân tộc học, so sánh để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong hôn nhân ở
người Ê-đê từ quá khứ đến hiện tại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được triển khai trong suốt quá trình thực
hiện đề tài để có thể đưa ra những kết luận, nhận định phù hợp dựa trên các nguồn
tư liệu về đối tượng và địa bàn nghiên cứu đề tài thu thập được.
- Phương pháp định lượng: Cùng với các phương pháp nghiên cứu định tính,
NCS sử dụng phương pháp định lượng để thu thập thông tin phục vụ mục tiêu
nghiên cứu. Bảng hỏi được xây dựng với hơn 50 câu hỏi về thông tin chung của hộ
gia đình, quan niệm, tiêu chí lựa chọn bạn đời, nghi lễ hôn nhân, cư trú sau kết
hôn… (xem phụ lục 5). Cộng đồng người Ê-đê tại xã Cuôr Dăng cư trú ở 5 buôn là:
buôn Kroa B, buôn Kroa C, buôn Cuôr Dăng B, buôn Ko Hneh và buôn Aring. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, do hạn chế về thời gian, kinh phí, nhân lực…
nên NCS không tiến hành điều tra ở cả 5 buôn này mà chỉ chọn điểm 3 buôn (Cuôr
Dăng B, buôn Aring, buôn Kroa B) để nghiên cứu, bởi người Ê-đê khá đồng nhất về
môi trường cư trú, tổ chức xã hội cũng như cách thức sản xuất nhưng cũng tồn tại
những điểm khác biệt như số lượng người theo đạo Tin Lành, số lượng các tộc
người cùng chung sống trong buôn, phong tục truyền thống còn lưu giữ,… NCS đã
điều tra 200 phiếu thông qua phương pháp chọn mẫu có chủ đích. Số phiếu điều tra
được nhập và xử lý và làm sạch bằng phần mềm SPSS. Điều tra bảng hỏi tập trung
vào các đối tượng đã kết hôn kết hôn trong độ tuổi từ 15 – 65 tuổi, bao gồm những
đối tượng kết hôn trước và sau năm 1975. Việc tập trung vào đối tượng này tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu. Bởi vì, đối tượng là những người Ê-đê đã
từng thực hiện nghi lễ hôn nhân, có nhận thức nhất định về quan niệm, nguyên tắc -
hình thức, phong tục, nghi lễ cũng những vấn đề khác liên quan tới hôn nhân.
9
Ngoài ra, luận án còn tham khảo, kế thừa những công trình nghiên cứu trước,
luận án, luận văn, những tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước, nhất là các ấn
phẩm về hôn nhân nói chung và của người Ê-đê nói riêng đã công bố; Bên cạnh đó,
còn tham khảo một số báo cáo của địa phương liên quan đến điều kiện địa lý, đặc
điểm dân cư, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của địa bàn và đối tượng nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện và có tính
hệ thống về đặc điểm, nguyên tắc - hình thức, phong tục tập quán và nghi lễ hôn
nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
- Thông qua kết quả nghiên cứu, luận án góp phần làm rõ những đặc trưng của
người Ê-đê tại điểm nghiên cứu trong các vấn đề hôn nhân hiện nay cũng như phân
tích đánh giá về các nguyên nhân tác động đến xu hướng biến đổi trong hôn nhân
của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
- Luận án góp phần bổ sung những tư liệu mới, trên cơ sở đó xác định được
các giá trị của hôn nhân và một số vấn đề về hôn nhân đang đặt ra hiện nay cần
quan tâm. Kết quả thu được sẽ cung cấp thêm các luận cứ khoa học giúp các cơ
quan quản lý xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm đưa
Luật Hôn nhân và Gia đình, chính sách xây dựng đời sống mới trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình vào thực tiễn tộc người Ê-đê hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án hệ thống hóa và làm rõ những quan niệm, đặc điểm,
hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê
đang thực hành tại điểm nghiên cứu. Qua đó cung cấp hệ thống tư liệu khoa học
mới góp phần bổ sung các khái niệm và lý luận về hôn nhân ở cộng đồng còn theo
chế độ mẫu hệ khá điển hình của nước ta trong bối cảnh hiện tại. Đồng thời luận án
cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm góp phần áp dụng Luật Hôn nhân và Gia
đình, xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư vào thực tiễn người Ê-đê ở xã
10
Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar trên cơ sở vẫn bảo tồn và phát huy được các giá trị
hôn nhân tộc người này.
- Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu có giá trị
tham khảo đối với các nhà nghiên cứu, các cấp chính quyền địa phương trong quá
trình thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực hôn
nhân và gia đình ở các cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và người
Ê-đê nói riêng trong bối cảnh hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án gồm 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu
Chương 2. Đặc điểm, nguyên tắc và hình thức kết hôn
Chương 3: Phong tục và nghi lễ trong hôn nhân
Chương 4: Một số vấn đề về hôn nhân của người Ê-đê hiện nay ở xã Cuôr
Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
11
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Một số nghiên cứu chung về hôn nhân
Từ thời cổ đại, các triết gia Hy Lạp đã quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia
đình, nhưng phải tới năm 1861 khi Bacofell xuất bản tác phẩm Mẫu quyền, trong đó
ông nêu lên luận điểm quan trọng là lúc đầu loài người sống trong tình trạng tạp
hôn, con cái sinh ra không biết bố chỉ biết mẹ, tổ chức xã hội đầu tiên theo mẫu hệ
rồi mới chuyển sang phụ hệ, thì lịch sử nghiên cứu về hôn nhân mới được coi là bắt
đầu. Sau Bacofell, nhà bác học người Anh J.M.Lennan trong cuốn Hôn nhân
nguyên thủy (1865) khi tìm hiểu những tập quán đã từng tồn tại một cách phổ biến
trong các nền văn hóa khác nhau như cưới trộm, hôn nhân ngoại tộc (ngoại tộc
hôn), hôn nhân đa phu, đã coi đó là những đặc điểm của các thị tộc theo dòng mẹ.
Năm 1866, Mc Lenan xuất bản công trình Nghiên cứu lịch sử cổ đại – hôn nhân
nguyên thủy, đã đề cập đến chế độ ngoại tộc hôn. Đó là, luật tục cấm những nam nữ
trong cùng một nhóm chung huyết thống được lấy nhau mà chỉ được kết hôn với
những người không cùng huyết thống ở các nhóm khác. Tiếp sau đó, nhà dân tộc
học người Mỹ là L. Morgan xuất bản cuốn Xã hội cổ đại, công trình đã đánh dấu
lịch sử nghiên cứu hôn nhân bước sang trang mới. L.Morgan đã sử dụng tài liệu của
hệ thống huyết tộc và thân tộc để dựng lại lịch sử hôn nhân và gia đình của loài
người qua năm hình thái kế tiếp nhau là: gia đình huyết tộc (Consanguine family),
gia đình punalua (Punaluan family), gia đình một vợ một chồng (Monogamian
family), Gia đình đối ngẫu (Syndyasmian family) và gia đình phụ quyền
(Patriarchal family). Năm 1884, trên cơ sở tổng kết các thành tựu khoa học đương
thời, Engels đã viết tác phẩm kinh điển Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và nhà nước. Trong đó, riêng phần hôn nhân, Engels đã kế thừa nhiều luận điểm
của L. Morgan [82, tr.35]. Ông quan niệm, chế độ mẫu hệ chỉ là huyết tộc về phía
12
mẹ, những người cùng họ hàng trong cùng một thị tộc mới được kế thừa và tài sản
được trao cho những người cùng huyết tộc với mẹ.
Trên cơ sở nghiên cứu xã hội mẫu hệ của nhiều dân tộc trên thế giới, các nhà
dân tộc học xác định mẫu hệ là cách tính dòng dõi theo phía mẹ, quyền thừa kế
tài sản và con cái đều được truyền lại cho con cháu của người phụ nữ. Ở Việt
Nam, có năm tộc người thuộc loại hình xã hội mẫu hệ là: Ê-đê, Gia-rai, Chu Ru,
Raglai và Chăm. Ngoài ra còn có một số tộc người phụ hệ nhưng yếu tố mẫu hệ
còn rất đậm nét như: Cơ-ho, Mnông,… Trong số các dân tộc này, qua nghiên cứu
cho thấy tộc người Ê-đê là xã hội mẫu hệ điển hình ở Tây Nguyên nói riêng và
Việt Nam nói chung.
Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về hôn nhân. Trước hết phải kể đến các
bài viết của tác giả Phan Hữu Dật: Hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta
(1998) in trong Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam đã giúp người đọc hình dung
một cách khái quát về bức tranh hôn nhân của cộng đồng các tộc người ở Việt Nam.
Trong hai bài viết Dấu vết hôn nhân ba thị tộc ở người Vân Kiều và Dấu vết hệ
thống bốn hôn đẳng ở Tây Nguyên (1991), tác giả đã khắc họa phần nào bức
tranh đa dạng trong văn hóa hôn nhân của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Kết
quả nghiên cứu của ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu
lịch sử hôn nhân và gia đình ở nước ta như hình thái hôn nhân, tính chất và thiết
chế hôn nhân.
Công trình Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam
của Đỗ Thúy Bình (1994) đã đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản của đời sống hôn
nhân, nhất là về kết cấu gia đình, chức năng của gia đình và nghi lễ chu kỳ đời
người, từ đó khái quát hóa gia đình như một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm tâm
lý xã hội đặc biệt. Những phân tích, nhận định, đánh giá của tác giả ở thời điểm
những năm cuối thế kỷ XX khá sâu sắc, có giá trị khoa học. Đây là công trình
chuyên khảo có sử dụng những số liệu điều tra xã hội học tộc người để minh họa
cho vấn đề nghiên cứu.
13
Nghiên cứu Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam của Bá Trung
Phụ (1994) đã giới thiệu khá đầy đủ về gia đình và hôn nhân, làm rõ tổ chức xã hội, đặc
trưng văn hóa của tộc người này, đồng thời chỉ ra được những đặc trưng của hôn nhân
người Chăm với các dân tộc khác. Tuy không trực tiếp liên quan đến đề tài hôn nhân
của người Ê-đê, nhưng đây cũng là nội dung khoa học đặt ra những giả định về mối
quan hệ giữa hai cộng đồng người để NCS tham khảo trong quá trình nghiên cứu.
Nghiên cứu Hôn nhân - gia đình - ma chay của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân
Kiều ở Quảng trị - Thừa Thiên Huế của Nguyễn Xuân Hồng (1998) là công trình đi
sâu phân tích một cách có hệ thống về nguồn gốc của chế độ hôn nhân – gia đình
cũng như các tập tục nghi lễ liên quan của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru – Vân Kiều.
Đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho các nghiên cứu về hôn nhân gia đình nói
riêng và văn hóa tộc người nói chung.
Tìm hiểu về hôn nhân và gia đình không thể bỏ qua nghiên cứu: Hôn nhân gia
đình các dân tộc Hmông, Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng (2004) của
Nguyễn Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa và Nguyễn Thị Thanh. Cuốn sách không chỉ đi
sâu phân tích những đặc điểm và thực trạng hôn nhân - gia đình của hai tộc người
thiểu số ở hai địa phương nói trên mà còn cung cấp các thông tin về nguồn gốc tộc
người, điều kiện tự nhiên của địa bàn cư trú, đặc điểm kinh tế…làm căn cứ cho tìm
hiểu quá trình tác động dẫn đến sự chuyển biến trong hôn nhân và gia đình của hai
tộc người Hmông và Dao, cụ thể là nhóm Hmông Trắng và nhóm Dao Đỏ.
Luận án Hôn nhân và gia đình của người Brâu ở làng Đắk Mế, xã Bờ Y, huyện
Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum của Bùi Ngọc Quang (2013), trong phần hôn nhân đã cung
cấp những tư liệu đầy đủ về hôn nhân truyền thống của người Brâu, như: quan niệm
truyền thống về hôn nhân, những nguyên tắc trong hôn nhân, hình thức và tính chất
của hôn nhân, trường hợp hôn nhân đặc biệt, các nghi thức trong hôn nhân,... Đồng
thời tác giả cũng đưa ra một vài nhận định về xu hướng biến đổi trong giai đoạn
hiện nay. Những tư liệu này giúp NCS đặt ra các mối liên hệ so sánh trong quá trình
nghiên cứu hôn nhân tộc người Ê-đê trong bối cảnh hiện nay.
14
Cuốn sách Nhân học về thân tộc, dòng họ, hôn nhân và gia đình được biên
soạn bởi Nguyễn Khắc Cảnh và Đặng Thị Kim Oanh (2015) gồm 4 chương đề cập
đến những vấn đề: thân tộc, dòng họ, hôn nhân, gia đình. Trong đó, hôn nhân và gia
đình được xem như là thiết chế xã hội hết sức đa dạng và phức tạp phản ánh các
mối quan hệ sinh học và văn hóa, vật chất và tinh thần, tư tưởng và tâm lý. Công
trình đã giúp cho việc hiểu biết thêm về thể chế xã hội, chức năng của hôn nhân từ
đó có những định hướng nghiên cứu cụ thể trong hôn nhân của người Ê-đê.
Ấn phẩm Hôn nhân và gia đình của người Chu Ru của Võ Tấn Tú (2016) đã
miêu tả chi tiết đầy đủ những phong tục, kiêng cữ cũng như các nghi thức liên quan
đến hôn nhân và gia đình của người Chu Ru. Qua những phân tích của tác giả,
người đọc nhận thấy các phong tục tập quán liên quan tới hôn nhân và gia đình góp
phần giữ vững sự ổn định và phát triển xã hội, tạo nên đặc trưng văn hóa của người
Chu Ru trong quá trình cộng cư, xen cư, giao lưu văn hóa với những tộc người
khác. Đồng thời, tác giả đã có những phân tích và nhận định về ảnh hưởng của chế
độ mẫu hệ đến các phong tục tập quán của người Chu Ru đặc biệt là trong hôn nhân
gia đình.
Bài viết Văn hóa hôn nhân ở tộc người Raglai của Nguyễn Ngọc Thanh và Hồ Sĩ
Lập (2017) đã chỉ ra hôn nhân của tộc người này mang những đặc điểm của xã hội mẫu
hệ như con gái đi bắt chồng, sau hôn nhân chàng trai cư trú bên nhà vợ, con cái sinh ra
mang họ mẹ,… Nhóm tác giả nhận định rằng: hiện nay hôn nhân ở người Raglai vẫn
tuân thủ nguyên tắc ngoại hôn dòng họ và chế độ một vợ một chồng. Mặt khác, hôn
nhân của người Raglai còn có sự khác biệt về vai trò, vị trí của người đàn ông trong gia
đình, xã hội so với các dân tộc mẫu hệ khác. Các yếu tố trên là những đặc điểm tạo nên
nét đặc trưng trong hôn nhân của người Raglai [97, tr.47]. Bài viết là tư liệu quý giúp
NCS có thêm tư liệu về một tộc người theo chế độ xã hội mẫu hệ ở Tây Nguyên, bởi
qua đó có thể liên hệ, so sánh với hôn nhân ở tộc người Ê-đê.
Từ việc tổng quan các nghiên cứu chung về hôn nhân nói trên cho thấy, tuy
góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng những ấn phẩm đã công bố góp phần làm rõ
15
nguồn gốc và quá trình phát triển của hôn nhân cũng như các nguyên tắc và hình
thức kết hôn của loài người nói chung, đồng thời làm rõ các đặc trưng tộc người ở
nước ta qua những mối quan hệ hôn nhân và gia đình, đi sâu phân tích các nghi lễ
liên quan đến đời sống hôn nhân - gia đình trong quá trình biến đổi, đồng thời chỉ ra
những xu hướng phát triển của nó ở một số tộc người thiểu số nước ta trước đây và
hiện nay.
1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tộc người và hôn nhân của
người Ê-đê
Nghiên cứu các tộc người ở Tây Nguyên nói chung và người Ê-đê nói riêng
của các tác giả nước ngoài đã trải qua quá trình lâu dài hàng thế kỷ, nhất là của
người Pháp như H. Maitre, L. Sabachiê, J. Dournes, G. Condominas,... Trong những
công trình nghiên cứu về người Ê-đê, ở các mức độ khác nhau những tác giả nước
ngoài đều đã quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình truyền thống. Nghiên cứu
sớm nhất về người Ê-đê có lẽ là công trình khảo cứu của nhà thám hiểm người Pháp
Henri Maitre với tựa đề Các xứ thượng ở miền Nam Đông Dương. Công trình này
đã có nhiều mô tả khái quát về đời sống xã hội, kinh tế, phong tục tập quán... của
dân tộc Ê-đê, Mnông và các tộc người tại chỗ Tây Nguyên. Đây là nguồn tư liệu giá
trị, khảo tả chân thực về cuộc sống của hai dân tộc này trong những năm đầu thế kỷ
XX. Trong phần hôn nhân, ông có nhắc đến việc tái hôn của người đàn bà góa:
“Thỉnh thoảng một người đàn bà góa muốn tái hôn, cho một người làm mối tới đặt
yêu cầu với cha mẹ người mà mình chọn mà không hề báo trước cho người đó biết.
Nếu cha mẹ và người con trai đồng ý công việc được giải quyết và người chồng mới
cưới đến ở nhà người vợ cùng với cha mẹ; nhưng trong trường hợp này, chi phí về
lễ cưới do cha mẹ vợ chịu...” Tuy nhiên, trong cuốn sách này, H. Maitre cũng
không miêu tả kỹ về thiết chế mẫu hệ của người Ê-đê [78, tr.3].
Năm 1915, Sabatier đã thu thập và biên tập bộ luật tục Ê-đê (Bi duê), ghi chép
một cách đầy đủ về luật tục hôn nhân, thiết chế mẫu hệ của tộc người này. Bộ luật
tục này đã được dùng chính thức trong Tòa án phong tục của tỉnh Đắk Lắk một thời
16
gian dài. Bộ luật tục đã đề cập một cách đầy đủ về thiết chế mẫu hệ Ê-đê trong
nhiều khía cạnh của cuộc sống, phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ Ê-đê
với tư cách là người duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ và là biểu tượng của xã
hội mẫu hệ truyền thống. Hiện nay, những nội dung trong bộ luật tục này vẫn đang
được thi hành ở các mức độ khác nhau tại cộng đồng người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng,
huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk.
Tuy nhiên, viết về người Ê-đê một cách khá hệ thống và đầy đủ phải kể tới tác
giả người Pháp Anne De Hautecloque Howe (2004) với cuốn sách Người Rhađê,
một xã hội mẫu quyền. Cuốn sách được dịch ra tiếng Việt là công trình đi sâu
nghiên cứu, giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, đặc
biệt là xã hội mẫu quyền điển hình của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Trong nghiên
cứu của mình, bà đã dành một chương khảo tả khá chi tiết về kết ước hôn nhân, về
các thủ tục trong hôn nhân, đời sống vợ chồng, ly hôn. Đồng thời miêu tả xã hội
mẫu hệ Ê-đê qua những hoạt động của một buôn khá tỉ mỉ như đám cưới, đám tang,
làm nhà, những cuộc tranh luận của người phụ nữ trong gia đình,... Những hiểu biết
sâu sắc và kỹ lưỡng về người Ê-đê được tác giả trình bày đã cung cấp nguồn tư liệu
quý cho các nhà nghiên cứu dân tộc học, xã hội học, vǎn hoá học, cũng là tài liệu
tham khảo tốt cho những người làm công tác thực tiễn và quản lý ở địa phương
trước kia cũng như hiện nay. Đây là những tư liệu có giá trị lớn về mặt khoa học
giúp NCS có những hiểu biết ban đầu cụ thể về hôn nhân và chế độ mẫu hệ của
người Ê-đê trong truyền thống. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu tại một buôn làng cụ
thể vào thời điểm những năm 1960, trong khi hiện nay với bối cảnh mới có nhiều
biến đổi kinh tế - xã hội đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
1.1.3. Nghiên cứu của các tác giả trong nước về tộc người và hôn nhân của
người Ê-đê
Nghiên cứu về các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên nói chung và người
Ê-đê nói riêng đã có nhiều công trình khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề
cập dưới các góc độ khác nhau. Trước năm 1975, có những tác giả và công trình
17
nghiên cứu đáng chú ý về các dân tộc thiểu số Tây Nguyên như: Cửu Long Giang
và Toan Ánh (1974) với công trình Cao nguyên miền Thượng; Nguyễn Trắc Dĩ
(1970) với công trình Các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam; Lân Đình (1969) với công
trình Người Thượng dọc dãy Trường Sơn; Lê Thêm (1957) với bài viết Hôn nhân
giữa đồng bào Thượng,... Nhìn chung, những tác giả trên đều giới thiệu về các dân
tộc thiểu số ở Tây Nguyên mang tính chất đại cương, tổng quát và chưa nghiên cứu
kỹ về hôn nhân của tộc người Ê-đê. Từ năm 1975, việc nghiên cứu các dân tộc thiểu
số ở Tây Nguyên nói chung và tộc người Ê-đê nói riêng bắt đầu có tính hệ thống và
đi sâu hơn, khối lượng các nghiên cứu tăng nhanh. Trong đó, công trình có tính khái
quát và đi sâu về dân tộc Ê-đê là cuốn: Đại cương về các dân tộc Ê-đê, Mnông ở
Dak Lak (1982). Đây là khảo cứu đầu tiên giới thiệu bức tranh tộc người của hai
dân tộc Ê-đê và Mnông dưới các khía cạnh: đặc điểm tự nhiên, nhân chủng, tổ chức
xã hội, sản xuất kinh tế, hôn nhân - gia đình. Ở phần thứ 3 của chương 1, Chu Thái
Sơn đã đề cập đến văn hóa vật chất của người Ê-đê; trong chương 3, Vũ Đình Lợi
đã giới thiệu khái quát về những lễ nghi - phong tục trong chu kỳ đời sống của
người Ê-đê,… Đây là những tri thức quý báu cho NCS trong quá trình hệ thống hóa
những đặc trưng văn hóa của tộc người Ê-đê.
Trong bài viết Dấu vết hệ thống bốn hôn đẳng ở Tây Nguyên của Phan Hữu
Dật (1991) giới thiệu về tục cuê nuê và giải thích tục này thông qua tìm hiểu thiết
chế xã hội, hình thái hôn nhân gia đình của người Ê-đê. Kết quả nghiên cứu của ông
đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử hôn nhân và gia
đình ở nước ta như hình thái hôn nhân, tính chất và thiết chế hôn nhân.
Cuốn sách Gia đình và hôn nhân truyền thống ở các dân tộc Malayô –
Polynêxia Trường Sơn - Tây Nguyên của Vũ Đình Lợi (1994) đã khắc họa những
vấn đề liên quan đến phong tục tập quán, gia đình, hôn nhân truyền thống của các
dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesian ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Đây
là nghiên cứu chi tiết, cụ thể về hôn nhân và gia đình truyền thống trong đời sống
của các tộc người theo chế độ mẫu hệ ở nước ta, khắc họa các nét phong tục truyền
thống của đồng bào một cách sinh động. Nghiên cứu đã cho thấy tộc người Ê-đê là
18
xã hội mẫu hệ điển hình ở Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung. Đây là
nguồn tài liệu bổ ích cho NCS trong quá trình tìm hiểu về hôn nhân của người Ê-đê
trước đây và hiện nay.
Cuốn sách Văn hóa dân gian Ê-đê do Ngô Đức Thịnh chủ biên (1994) đã giới
thiệu khá chi tiết các nghi thức liên quan đến chu kỳ đời sống của tộc người Ê-đê
nói chung và về hôn nhân, gia đình nói riêng. Đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ
ích cho những nhà nghiên cứu hôn nhân gia đình nói riêng và văn hóa tộc người Ê-
đê nói chung. Tuy vậy, nghiên cứu này chưa có những nội dung chi tiết về hôn nhân
của người Ê-đê ở một địa bàn cụ thể.
Sau năm 2000, các công trình nghiên cứu về người Ê-đê ngày càng phong phú
về chủ đề và số lượng. Luận án Tiến sĩ Dân tộc học: Người phụ nữ Ê-đê trong đời
sống xã hội tộc người của Thu Nhung Mlô (2001) đã phân tích sự biến đổi vai trò
của người phụ nữ trong đời sống buôn làng và chỉ ra những biến đổi đang diễn ra
trong lòng xã hội Ê-đê trong bước chuyển từ cổ truyền sang hiện đại. Luận án Tiến
sĩ Văn hóa Ê-đê – truyền thống và biến đổi của Nguyễn Ngọc Hòa (2002) đã trình
bày quá trình biến đổi của văn hóa Ê-đê từ truyền thống đến hiện đại và đề xuất các
giải pháp nhằm bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị của văn hóa Ê-đê trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ
tập trung hệ thống lại, trình bày những nét biến đổi của văn hóa Ê-đê mà không có
những phân tích sâu về những thực hành hôn nhân hiện nay của người Ê-đê.
Năm 2004, Nguyễn Thị Hạnh công bố nghiên cứu Mẫu hệ, phụ nữ Ê-đê và
kinh tế hộ gia đình, công trình đã tập trung khai thác vấn đề chế độ mẫu hệ và vai
trò của người phụ nữ Ê-đê trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua đó cung cấp
những tư liệu quan trọng về vấn đề phân công lao động, quyền và vị trí của hai giới,
những đặc trưng chủ yếu của xã hội mẫu hệ Ê-đê và vị thế, vai trò của phụ nữ Ê-đê
trong việc phát triển hộ gia đình.
Đỗ Thị Phấn (2007) với Đất Và Người Tây Nguyên là công trình tập hợp bài
viết của các nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà khảo cổ... về Tây Nguyên. Các bài viết
19
tập trung nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, xã hội của vùng Tây Nguyên, đặc biệt giai
đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Trong đó, đáng chú ý có bài Gia đình
mẫu hệ vùng Trường Sơn - Tây Nguyên đã phân tích và đưa ra những nhận định ban
đầu về hôn nhân và gia đình mẫu hệ của các tộc người ở Tây Nguyên. Những tư
liệu này đã giúp NCS có cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Cuốn sách Luật tục Ê-đê (Tập quán pháp) của Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn,
Nguyễn Hữu Thấu sưu tầm và biên soạn (2012) là một nghiên cứu điển hình về luật
tục của người Ê-đê. Luật tục Ê-đê là chuẩn mực xã hội, được cụ thể hóa từ hệ thống
giá trị xã hội của người Ê-đê, được cộng đồng thừa nhận và có hiệu lực trong việc
điều tiết xã hội, trong đó có các quan hệ gia đình. Trong cơ cấu của bộ luật tục Ê-đê
có thể thấy nội dung về hôn nhân chiếm phần lớn (chương V, có 48/236 điều)1
. Qua
đó cho biết tầm quan trọng của hôn nhân đối với đời sống người Ê-đê. Luật tục Ê-đê
bắt nguồn từ quan niệm xã hội mẫu hệ nên những điều khoản trong luật tục Ê-đê
thường hướng tới bảo vệ, củng cố thiết chế gia đình mẫu hệ. Qua các nội dung luật
tục được ghi chép trong tác phẩm đã thể hiện rất rõ quan niệm của người Ê-đê: gia
đình là nền tảng của xã hội. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội của người Ê-đê hiện nay
thì sự biến đổi của luật tục Ê-đê cho thấy tự nó loại bỏ những điểm lỗi thời không
còn phù hợp với xã hội hiện tại.
Năm 2012, Buôn Krông Tuyết Nhung công bố ấn phẩm Văn hóa mẫu hệ qua
sử thi Ê-đê dưới góc độ văn hóa học. Trên cơ sở khảo sát nguyên tắc mẫu hệ được
thể hiện trong đời sống xã hội tộc người Ê-đê, tác giả khảo sát một số sử thi tiêu
biểu của người Ê-đê đã được biên soạn xuất bản và đang được lưu truyền trong dân
gian để thấy được sự phản ánh của văn hóa mẫu hệ qua hệ thống đề tài (chiến tranh,
hôn nhân), qua cốt truyện và hệ thống nữ nhân vật được đề cập trong sử thi Ê-đê.
Trong phần trình bày quan hệ dòng họ, gia đình và hôn nhân, tác giả đề cập đến vai
trò của dòng nữ chi phối toàn bộ gia đình, dòng họ và hôn nhân của người Ê-đê.
1
Theo nghiên cứu này, luật tục Ê-đê được chia làm 11 chương với 236 điều.
20
Tuy nhiên, nghiên cứu không đi sâu tìm hiểu quan niệm, nguyên tắc - hình thức kết
hôn của người Ê-đê hiện nay.
Cuốn sách Cộng đồng dân tộc Ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay của Hà Đình
Thành (2012) tập trung khảo sát, nghiên cứu cộng đồng dân tộc Ê-đê trong đời sống
chính trị, văn hóa, xã hội hiện nay ở Đắk Lắk, trong đó tập trung vào ba nhóm đối
tượng chính là thanh niên, phụ nữ và người cao tuổi. Nội dung của cuốn sách đã
đánh giá khá chi tiết và đầy đủ về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người Ê-đê,
đồng thời đưa ra các nhận xét về những mặt tích cực, các mặt tiêu cực và những
biến đổi của người Ê-đê. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị bảo tồn và phát
huy các giá trị tốt đẹp của người Ê-đê nhằm đảm bảo khối đại đoàn kết các dân tộc,
chống lại âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Cuốn sách này là tài
liệu tham khảo có giá trị đối với NCS trong quá trình tìm hiểu hôn nhân của người
Ê-đê tại thời điểm hiện nay.
Năm 2017, Trương Thị Hiền xuất bản cuốn Luật tục Ê-đê một nền tư pháp hòa
giải những giá trị xã hội và sự biến đổi. Trong chương 2, tác giả bàn đến sự pha
trộn giữa những yếu tố mang tính duy lý và các yếu tố của kiểu tư pháp Khadi trong
hôn nhân và gia đình của người Ê-đê thể hiện qua những nội dung: mô hình cư trú
sau hôn nhân, chế độ ngoại hôn, nhận con nuôi, ngoại tình, ly hôn, tục nối dây, thừa
kế tài sản, quan hệ anh chị em, trách nhiệm bồi thường cha mẹ. Công trình nghiên
cứu tiếp cận dưới góc độ xã hội học cung cấp cho NCS có góc nhìn đa chiều về vấn
đề hôn nhân của người Ê-đê. Tuy nhiên, trong phần liên quan tới hôn nhân, nghiên
cứu này chỉ trình bày sự biến đổi trong thực hành luật pháp và luật tục trong việc xử
lý tội ngoại tình, loạn luân, nơi ở sau kết hôn ở người Ê-đê nói chung.
Ngoài ra, NCS đã tiếp cận một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước,
cấp bộ, các luận án, luận văn, các bài tạp chí... viết về văn hóa tộc người nói chung
và hôn nhân của người Ê-đê nói riêng. Có thể nhận thấy, tài liệu nghiên cứu về
người Ê-đê cho đến nay đã có số lượng lớn, đa dạng, cung cấp cho NCS những hiểu
biết cơ bản về tộc người này, như: văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hoá vật
21
chất, văn học nghệ thuật dân gian, những lễ nghi – phong tục trong chu kỳ đời sống,
những biến đổi kinh tế - xã hội và sự phát triển về văn hoá ở người Ê-đê trong
truyền thống và hiện nay. Cùng với đó, các công trình, những bài viết của các học
giả trong và ngoài nước cũng đã đề cập đến các quan niệm, nguyên tắc – hình thức,
phong tục và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê dưới những góc độ, mức độ khác
nhau. Các nghiên cứu này là nguồn tư liệu quý giá để NCS tham khảo trong quá
trình thực hiện luận án này. Tuy nhiên, tác giả chưa được tiếp cận chuyên khảo nào
đi sâu phân tích, nghiên cứu về hôn nhân của người Ê-đê tại một địa bàn cụ thể
trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu hôn nhân hiện nay của người Ê-đê ở xã
Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có
ý nghĩa về mặt thực tiễn.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản
- Hôn nhân: Hôn nhân là bước ngoặt, là nghi thức hết sức quan trọng trong
chu kỳ đời người, là tập tục không thể thiếu trong bất cứ đời sống xã hội của mỗi
tộc người. Với mục đích là tái tạo, phát triển nòi giống, hôn nhân phản ánh mối
quan hệ sinh học và xã hội, vật chất và tinh thần, tư tưởng và tâm lý tộc người [89,
tr.3]. Từ trước đến nay có nhiều khái niệm về hôn nhân. Nhưng nhìn chung các khái
niệm này ở nhiều nghiên cứu thường có những điểm tương đồng, như: hôn nhân bao
hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội
của con, cháu [2, tr.343]. Hôn nhân cũng tạo ra tính hợp pháp của con cái do người
vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ họ hàng bên vợ và bên chồng – đó là về quan
hệ xã hội [2, 306]. Hai mối quan hệ này nằm ở tâm điểm của định nghĩa về hôn
nhân và sự hình thành các nhóm xã hội. Chỉ có quan hệ tính giao thì không tạo nên
quan hệ với họ hàng bên vợ hay bên chồng mà hôn nhân mới thực hiện được chức
năng này. Theo Emily A.Schultz và Robert H.Lavenda (2001): “Hôn nhân là một
quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông với
một người đàn bà, là sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi
22
quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và duy trì những khuôn mẫu xã
hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm”. Hai tác
giả này cũng cho rằng: hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai
người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con cháu. Một cuộc hôn nhân đòi hỏi phải
có một người nam và một người nữ và quy định mức độ quan hệ tính giao với các
thành viên trong hôn nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền đến quan
hệ ưu tiên. Hôn nhân cũng tạo nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và
thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng [2, tr.343].
Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta tại Điều 3 (2014) khẳng định: “Hôn nhân
là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”.
Như vậy, hôn nhân là sự giao kết giữa người nam và người nữ được hợp thức
hóa bởi các tập quán và luật pháp của xã hội, nhằm chung sống khác giới tính với
nhau để tái sản xuất ra con người, từ đó hình thành những quyền hạn và trách nhiệm
của vợ chồng trong quan hệ với nhau và con cháu của họ. Hôn nhân là một quá trình
có tính xã hội, tạo nên các mối quan hệ mới giữa họ hàng người chồng và họ hàng
người vợ. Các quan hệ này được gọi là quan hệ thông gia, phân biệt với quan hệ
huyết thống.
- Ngoại hôn dòng họ: Ngoại hôn dòng họ là thành viên của tổ chức xã hội dựa
trên cơ sở mối quan hệ thân thuộc tính theo dòng huyết thống phía mẹ hay phía cha
dù xa mấy đời cũng không được có quan hệ với nhau. Ở người Ê-đê, trước đây
ngoại hôn dòng họ theo phía mẹ là tuyệt đối, dù có ở khác buôn hoặc cách bao
nhiều đời mà cùng họ cũng không được lấy nhau.
- Nội hôn tộc người: Là sự lựa chọn người đối ngẫu để kết hôn trong cùng một
tộc người, được luật tục hoặc tập quán đã định rõ.
- Hôn nhân khác tộc người: Là kết hôn giữa hai người khác dân tộc với nhau.
- Dòng họ mẫu hệ (Matriliny/Matrilineal descent): Dòng họ mẫu hệ là loại
hình dòng họ ít phổ biến hơn so với dòng họ phụ hệ, trong đó quy tắc liên kết trong
dòng họ chỉ xác định quan hệ huyết thống tính theo dòng mẹ. Trong hệ thống này,
23
những đứa con trong mỗi thế hệ được xếp cùng nhóm thân thuộc của mẹ và phụ nữ,
chứ không phải nam giới, là người truyền lại sợi dây ràng buộc về tài sản, bao gồm
cả tài sản vô hình như là quyền và nghĩa vụ cho thế hệ kế tiếp. Tên họ của tổ tiên
được truyền bởi những người mẹ cho con cái của họ và rồi đến lượt những đứa con
gái truyền lại tên họ này cho con gái và con trai của mình. Tên họ này người con
trai có thể dùng nhưng không thể để lại cho con cái của mình. Vì tên họ được xem
như là tài sản tinh thần của tổ tiên của nhóm mẫu hệ. Con cái của một người con trai
sẽ thừa hưởng tên họ của tổ tiên từ mẹ mình [29, tr.47].
Theo Đặng Thị Kim Oanh (2016), dòng họ mẫu hệ có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, hạt nhân của tộc họ mẫu hệ là cặp chị em gái – anh em trai, khi anh
em trai đi lấy vợ sống với gia đình vợ nhưng vẫn duy trì vai trò tích cực (dường như
là vai trò kiểm soát) trong đời sống dòng tộc của mình.
Thứ hai, người đàn ông quan trọng nhất trong đời của một đứa con trai trong
dòng họ mẫu hệ không phải là cha của nó (người không thuộc tộc họ của nó) mà là
anh em trai của mẹ nó (cậu)2
. Chính từ những người cậu này (không phải từ cha nó)
mà đứa bé nhận được của thừa kế của tộc họ mình.
Thứ ba, quyền hành mà phụ nữ được thi hành trong dòng họ mẫu hệ là một
điều chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi. Một xã hội mẫu hệ không đồng nghĩa với
một xã hội mẫu quyền. Tuy phụ nữ trong dòng họ mẫu hệ tương đối độc lập hơn
trong dòng họ phụ hệ, nhưng dường như những người đàn ông của dòng họ (cha,
anh em trai) mới là những người điều hành dòng họ, thi hành những quyền hành
thường nhật [29, tr.53]. Điều này theo NCS là đúng trong xã hội người Ê-đê, họ
thực hành mẫu quyền trong gia đình nhưng nam quyền ngoài xã hội.
- Nghi lễ và nghi lễ hôn nhân: Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành một
cuộc lễ [114, tr. 866]. Nghi lễ hôn nhân được hiểu là các nghi lễ, nghi thức diễn ra
theo phong tục tập quán hoặc quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Để
tiến đến hôn nhân, mỗi người trải qua những nghi lễ nhất định theo quy định của
2
Trong những phần sau chúng tôi sẽ làm rõ vai trò của ông cậu (dam dei) trong hôn nhân của người Ê-đê
24
cộng đồng mà cá nhân đó là thành viên. Khi cuộc hôn nhân diễn ra đúng nghi lễ, nghĩa
là cuộc hôn nhân đó được cộng đồng và tổ tiên cũng như thần linh chấp nhận. Nghi lễ
hôn nhân còn bao hàm yếu tố tâm linh để đảm bảo cho cuộc hôn nhân bền vững.
- Ly hôn: Theo quy định của Pháp luật Việt Nam tại khoản 14, điều 3 Luật hôn
nhân và Gia đình năm 2014 quy định, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng
theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án.
- Phong tục: Là thói quen, tục lễ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi
người công nhận và làm theo. Về cơ bản, khái niệm này khá thống nhất trong các
cuốn từ điển đã công bố [128, tr. 783].
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
Hôn nhân được tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, từ tự nhiên
đến xã hội, từ lịch sử đến hiện tại, từ phạm vi xã hội đến cá nhân được thực hiện bởi
nhiều ngành khoa học: sinh học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, dân tộc học/
nhân học,… Trong phạm vi đề tài của luận án này, chúng tôi không có tham vọng
bao quát hết tầm rộng lớn đó mà chủ yếu dựa vào các quan điểm dân tộc học/ nhân
học về hôn nhân làm chỉ dẫn lý thuyết cho việc thực hiện những nhiệm vụ nghiên
cứu của luận án.
- Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa: Giao lưu tiếp biến văn hóa (cultural
acculturation) là quá trình các cộng đồng nguời “gặp nhau” và tiếp xúc trên cơ sở
“tiếp nhận” những giá trị văn hóa của nhau. Sự tiếp nhận này có vai trò như là một
động lực làm cho nhiều yếu tố truyền thống trong văn hóa của họ luôn được điều
chỉnh, biến đổi cho thích hợp.
Theo trường phái Nhân học Anglo Saxon du nhập vào Mỹ cuối thế kỷ XIX,
khái niệm về giao lưu tiếp biến văn hóa là chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa
hai nền văn hóa khác nhau, hệ quả của cuộc tiếp xúc này là sự thay đổi hay biến đổi
của một số loại hình văn hóa của cả hai nền văn hóa đó. Theo các nhà Nhân học
Mỹ, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, ảnh
hưởng từ một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền
25
văn hóa ấy. Vì thế sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến
đổi văn hóa, đó là sự trao đổi của những đặc tính văn hóa nảy sinh trong quá trình
các cộng đồng tiếp xúc trực tiếp và liên tục.
Từ điển Nhân học do Thomas Barfield biên soạn (1997) cho rằng, tiếp biến
văn hóa bao gồm các quá trình khác nhau, như: khuyếch tán, thích nghi mang tính
ứng phó, các hình thái tổ chức xã hội và văn hóa khác nhau sau tiếp xúc và giải văn
hóa hay phân giải văn hóa. Một loạt các điều chỉnh phát sinh, gồm việc có được sự
tự trị đáng kể văn hóa, hay điển hình hơn là sự bị đồng hóa của nhóm tiếp xúc yếu
hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và diễn ra sự hỗn dung văn hóa, nhờ đó văn hóa
có thể trao đổi các yếu tố để sau đó tạo ra một văn hóa riêng [18].
Tóm lại, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình mà trong đó một nền văn hóa
này giao lưu, tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của một hay nhiều nền văn hóa khác, vay
mượn nhiều yếu tố văn hóa và những nét đặc trưng từ các nền văn hóa khác làm
biến đổi bản sắc của nền văn hóa chịu ảnh hưởng hay biến đổi chính các yếu tố văn
hóa vay mượn để làm phong phú nền văn hóa chịu ảnh hưởng. Trong thế giới luôn
vận động và biến đổi thì các nền văn hóa không thể tĩnh tại độc lập mà phải tiếp xúc
với các nền văn hóa khác. Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa cho thấy sự biến
đổi là tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mà trong đó quan trọng chính là văn hóa
tộc người. Dưới sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thời kỳ toàn cầu hóa và hội
nhập thì sự giao lưu và tiếp biến văn hóa của tộc người là không thể tránh khỏi.
Áp dụng lý thuyết này vào nghiên cứu luận án, NCS nhận biết các yếu tố văn
hóa truyền thống của người Ê-đê và những biểu hiện giao lưu, tiếp biến văn hóa với
các tộc người cộng cư trên địa bàn. Đồng thời tìm hiểu, giải thích và làm rõ những
biến đổi về đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, quy trình và những phong tục, nghi lễ
trong hôn nhân của người Ê-đê, từ đó làm rõ các yếu tố văn hóa đặc trưng của người
Ê-đê cũng như khả năng thích nghi, tiếp nhận và sáng tạo văn hóa của tộc người này
trong quá trình giao lưu với các tộc người khác.
26
- Lý thuyết chức năng: Emile Durkheim được coi là người đầu tiên xây dựng
khái niệm chức năng một cách có hệ thống và áp dụng vào nghiên cứu khoa học
chặt chẽ đối với đời sống xã hội. Luận điểm cơ bản của Durkheim cho rằng xã hội
là một tổng thể “trong bản thân nó”, khác biệt với các bộ phận hợp thành và không
thể quy giản về các bộ phận hợp thành. Việc phân tích các thành tố bộ phận có
nghĩa là xem xét chúng hoàn thành những chức năng, nhu cầu, đòi hỏi cơ bản của
cái toàn thể như thế nào. Xã hội có thể tồn tại trong trạng thái khỏe mạnh/bình
thường hoặc là ốm yếu/bất bình thường, điều này liên quan đến “các nhu cầu mang
tính chức năng”. Để tồn tại một cách mạnh khỏe hay bình thường, các hệ thống xã
hội có những nhu cầu mà chúng phải được đáp ứng [18].
Truyền thống chức năng luận Durkheim được tiếp nối trong nhân học nửa đầu
thế kỷ XX chủ yếu ở Anh với hai đại diện nổi bật cho hai trường phái là: Alfred R.
Radcliffe-Brown – đại diện cho chức năng cấu trúc và Bronislaw Malinowski – đại
diện cho chức năng tâm lý. Một trong những điểm yếu của chức năng luận khiến nó
bị phê phán là ở chỗ cách phân tích chức năng dễ mang tính mục đích luận
(teleology). Tính mục đích luận thể hiện ở lập luận: hệ quả của một sự kiện là
nguyên nhân tạo ra sự kiện đó, mọi cái toàn thể đều có “dự định, mục đích” và nhu
cầu duy trì cái toàn thể đã là nguyên nhân tạo ra sự tồn tại của các thành tố của nó.
Durkheim cũng nhận thấy điểm yếu này và ông nhấn mạnh cần phân biệt rõ nguyên
nhân của một hiện tượng với các mục tiêu mà hiện tượng đó phải phục vụ. Nói cách
khác, Durkheim yêu cầu phân tích chức năng phải phân biệt “nguyên nhân” và
“chức năng”. Tuy nhiên, như các nhà phê bình đã chỉ ra, nhiều nghiên cứu chức
năng luận thường rơi vào cái bẫy mục đích luận [18].
Để khắc phục hạn chế nói trên, Radcliffe-Brown thay thế khái niệm “nhu cầu”
của hệ thống bằng khái niệm “các điều kiện cần thiết để tồn tại”. Như vậy, không có
những nhu cầu mang tính phổ quát mà thay vào đó là một câu hỏi mang tính thực
nghiệm: các điều kiện nào cần cho sự tồn tại của một hệ thống cụ thể đang được
nghiên cứu. Ông cũng nhấn mạnh các điều kiện như thế có thể là rất đa dạng.
Radcliffe-Brown cho rằng, một điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của một xã hội là ở
27
chỗ phải có một sự liên kết tối thiểu các thành tố của nó. Khái niệm chức năng liên
quan đến những quá trình duy trì sự liên kết cần thiết này. Như vậy, trong một xã
hội, các đặc trưng cấu trúc có thể được xem là những đặc trưng đóng góp vào việc
duy trì sự liên kết. Do đó, phân tích chức năng đối với một hiện tượng xã hội, theo
Radcliffe-Brown là tìm kiếm xem nó có đóng góp gì vào việc duy trì liên kết của xã
hội. Radcliffe-Brown đã thực hiện những phân tích chức năng luận trong thực
nghiệm, chẳng hạn về hệ thống phân chia đất theo dòng họ (lineage system). Các hệ
thống này là một cách thức điều chỉnh xung đột, duy trì sự đoàn kết xã hội [18].
Vì cách tiếp cận của Brown nhấn mạnh tới chức năng duy trì cấu trúc của các
thiết chế xã hội, cách tiếp cận này thường được gọi là cách tiếp cận cấu trúc - chức
năng. Tư tưởng cơ bản của chức năng luận là bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng
bao gồm những bộ phận khác nhau nhưng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận
hành để tạo nên cái toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ thống. Sự đóng góp vào việc vận
hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng
chức năng khác nhau đối với hệ thống [27; tr.43]. Coi văn hóa của mỗi tộc người
trong tiến trình phát triển của nó luôn tạo ra một hệ thống cân bằng và ổn định.
Trong đó, mỗi đơn vị cấu thành đều thực hiện một chức năng nhất định, nghĩa là để
làm gì đó để cả hệ thống được tồn tại và vận hành. Triệt tiêu một yếu tố hay đơn vị
nào đó sẽ làm cho toàn bộ hệ thống văn hóa tộc người đi vào suy thoái và hủy hoại.
Vì vậy, tìm hiểu văn hóa tộc người phải tìm hiểu từ bên trong dưới cái nhìn thực
hiện chức năng khác nhau của nó và phải luôn tôn trọng những giá trị văn hóa do
các tộc người khác nhau tạo ra.
Việc nhấn mạnh đến các chức năng và sự liên hệ hữu cơ của các thành tố văn
hóa trong một tổng thể của một hệ thống văn hóa đã đưa lại cho các nhà nghiên cứu
về cách tiếp cận tổng thể phổ biến hiện nay trong nghiên cứu văn hóa. Với cách tiếp
cận này, các nhà nghiên cứu sẽ có thể hiểu được một cách đầy đủ và sâu sắc nội
dung, ý nghĩa và chức năng của một thực hành văn hóa nào đó trong bối cảnh rộng
nhất có thể của chúng. Chính vì vậy, khi nghiên cứu một thành tố văn hóa nào đó,
chúng ta sẽ phải quan tâm đến các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
28
hội của cộng đồng nơi thực hành văn hóa đó được sinh ra và tồn tại. Thêm vào đó, cách
tiếp cận tổng thể cũng đòi hỏi phải đặt các thành tố văn hóa mà chúng ta tìm hiểu,
nghiên cứu trong mối liên hệ với những thành tố khác trong truyền thống văn hóa đó.
Vận dụng lý thuyết trên vào trong quá trình nghiên cứu luận án, NCS luôn gắn
chặt việc tìm hiểu văn hóa Ê-đê trong bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển của
cộng đồng tộc người, bối cảnh kinh tế - xã hội và những điều kiện địa lý ở vùng
người Ê-đê cư trú. Xem văn hóa của người Ê-đê là một hệ thống mà trong đó hôn
nhân là một trong những yếu tố không thể tách rời. Do đó, hôn nhân nói chung và
các lĩnh vực thuộc hôn nhân nói riêng không thể đứng ngoài các thành tố văn hóa
khác như tôn giáo, tín ngưỡng, đặc điểm cư trú, hoạt động sinh kế, quan hệ xã hội,
đặc điểm thân tộc, dòng họ,… Và đến lượt nó, hôn nhân là một thực thể hợp thành
từ nhiều yếu tố trong mối tương tác lẫn nhau. Trên cơ sở đó, luận án đi sâu phân
tích làm rõ ý nghĩa chức năng của mỗi yếu tố và mức độ liên kết của các yếu tố làm
nên những đặc trưng hôn nhân của người Ê-đê nói riêng và văn hóa của người Ê-đê
nói chung. Khi các thành tố không còn góp phần duy trì sự ổn định của cấu trúc
toàn thể thì cấu trúc ấy sẽ bị đổ vỡ, ảnh hưởng đến tính liên tục của các thực hành
văn hóa của cộng đồng. Chẳng hạn, ở người Ê-đê, các nghi lễ trong chu kỳ hôn
nhân đều có chức năng là nhằm đảm bảo tính chính thức – sự công nhận của cộng
đồng và đảm bảo yếu tố tâm linh để duy trì một cuộc hôn nhân bền vững. Tuy
nhiên, trong đời sống hiện nay, nhiều lễ tục hôn nhân bị coi là rườm rà, tốn kém
không còn phù hợp với lối sống mới, cho nên để tái cân bằng đời sống, cộng đồng
tất yếu phải thay đổi tập tục cũ và đi tìm các thành tố mới thay thế. Bên cạnh đó, sự
suy giảm diện tích rừng dường như không liên quan đến hôn nhân nhưng lại khiến
cho không gian để thực hành nghệ thuật cồng chiêng dần bị thu hẹp cũng kéo theo
sự biến đổi hay biến mất nhiều lễ tục trong hôn nhân của người Ê-đê. Chính vì thế,
trong phần Kết luận của luận án, nghiên cứu sinh đã vận dụng quan điểm của
Radcliffe-Brown về “các điều kiện cần thiết để tồn tại” để đưa ra một số khuyến
nghị nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị hôn nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr
Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk trong bối cảnh hiện nay.
29
1.3. Khái quát về xã Cuôr Dăng
1.3.1. Điều kiện tự nhiên
Xã Cuôr Dăng nằm ở phía đông nam huyện Cư M’gar, cách thành phố Buôn
Ma Thuột 17km về hướng đông. Dân cư tập trung chủ yếu ở hai bên đường quốc lộ
14 đi qua khoảng 5 km và được chia thành 6 buôn. Vị trí của xã tiếp giáp với các
vùng sau (xem phụ lục 1): Phía bắc giáp xã Ea Drơng, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk;
Phía nam giáp xã Hòa Đông, huyện Krông Pač, Đắk Lắk; Phía đông giáp xã Cư
Bao, thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk; Phía tây giáp xã Hòa Thuận, thành phố Buôn Ma
Thuột, Đắk Lắk.
Diện tích đất tự nhiên toàn xã là 3.333 ha, trong đó: đất nông nghiêp 2.594,71
ha, chiếm 77,73% tổng diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp 737,93 ha, chiếm
22,08% diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng 6,08 ha, chiếm 0,18% diện tích đất
tự nhiên toàn xã. Đất của xã chủ yếu là loại đất đỏ bazan màu mỡ, phù hợp với
nhiều loại cây trồng trong đó cây cà phê, cây cao su mang lại thu nhập chính cho
người dân trên địa bàn xã. Tổng diện tích mặt nước là 437,80 ha; trong đó: 02 đập
thuỷ lợi là đập Ea Khăp và đập Ea Hneh với tổng diện tích là 421,65ha đảm bảo
phục vụ nước tưới hơn 300 ha diện tích cà phê và 35ha diện tích lúa nước xung
quanh đập; diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 0,68 ha và sông suối là 15,67 ha [119].
Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nhưng bị chi phối bởi độ cao
và ảnh hưởng của địa hình cao nguyên, nên khí hậu của xã Cuôr Dăng có hai mùa
rõ rệt: mùa mưa trùng với mùa hạ có khí hậu ẩm và dịu mát, mùa khô trùng với mùa
thu và mùa đông có khí hậu mát lạnh, độ ẩm thấp. Nhiệt độ bình quân hàng năm là
23,5 0
C. Lượng mưa bình quân hàng năm 1.773mm [116].
Trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên, xã Cuôr Dăng có nhiều lợi
thế về đưa một số giống mới cho năng suất, chất lượng cao vào sản xuất chăn nuôi,
hướng tới thu hút đầu tư dịch vụ tại chợ xã Cuôr Dăng. Xã có trục đường quốc lộ 14
chạy qua với chiều dài 5 km rất thuận lợi cho vận chuyển, lưu thông hàng hóa và
việc giao lưu văn hóa, trao đổi mua bán có lợi cho việc kinh doanh phát triển kinh tế
30
- xã hội với thành phố Buôn Ma Thuột và các vùng lân cận. Đất đai màu mỡ, khí
hậu ôn hòa rất tốt cho việc phát triển trồng cây công nghiệp dài ngày như cà phê,
cao su, hồ tiêu và các loại cây ngắn ngày như lúa nước, ngô cho năng suất cao. Tuy
nhiên, hoạt động kinh tế chính của người dân là sản xuất nông nghiệp, thương mại
dịch vụ chiếm tỉ lệ không đáng kể nên quá trình phát triển kinh tế chưa chủ động,
còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, một bộ phận đời sống của một bộ phận
người dân còn nhiều khó khăn.
1.3.2. Đặc điểm dân cư, dân tộc, tôn giáo
- Lịch sử hình thành xã: Đầu thế kỷ XX, địa bàn Cư M’gar nằm trong quận
Buôn Ma Thuột. Giai đoạn 1954-1975, Cư M’gar vẫn là một bộ phận của thị xã
Buôn Ma Thuột. Đến tháng 7 năm 1977, chính quyền chia huyện Buôn Hồ thành
hai huyện mới là huyện Krông Búk và huyện Ea Súp, địa bàn Cư M’gar được cắt về
huyện Ea Súp. Ngày 23 – 1 – 1984, tách huyện Ea Súp thành hai huyện mới là
huyện Ea Súp và huyện Cư M’gar, tên huyện Cư M’gar bắt đầu có từ đó. Cùng thời
điểm này, xã Cuôr Dăng (thuộc huyện Krông Búk) được tách thành 2 xã (xã Cuôr
Dăng và xã Ea Drơng) thuộc huyện Cư M’gar [73, tr.183].
Về tên gọi xã Cuôr Dăng có hai quan điểm: Thứ nhất cho rằng, trong ngôn
ngữ Ê-đê, Cuôr nghĩa là đầm, sình và Dăng là nước màu đen - Cuôr Dăng là đầm
sình nước màu đen lớn trung tâm khu dân cư; Thứ hai cho rằng, Cuôr nghĩa là đầm,
sình và Dăng là dây - Cuôr Dăng là cái đầm nước như cái dây lớn chia đôi cụm dân
cư thành buôn Cuôr Dăng A và buôn Cuôr Dăng B. Cư dân tụ cư hai bên đầm nước
nên gọi là Cuôr Dăng. Cả hai quan điểm trên đều có sự thống nhất đó là trong
truyền thống người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng cư trú quanh đầm nước lớn. Hiện nay,
đầm Cuôr Dăng vẫn còn, tuy nhiên không còn chứa nước. Đất ở khu vực này thuộc
sự quản lý của chính quyền xã (xem phụ lục 6, hình 13-14).
- Dân cư, dân tộc: Trước khi có sự thống trị của thực dân Pháp, người Ê-đê đã
là chủ nhân chính của xã Cuôr Dăng nói riêng và địa bàn thuộc huyện Cư M’gar nói
chung [73, tr.15]. Người Việt và các dân tộc thiểu số khác đến cư trú ở Cư M’gar
31
vào những thời điểm khác nhau, trong các hoàn cảnh khác nhau sau đó. Những năm
1960, có một số người Việt đến sinh sống ở xã Cuôr Dăng, chủ yếu làm việc trong
các đồn điền cao su. Do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ sau 1975
người Việt chuyển đến đông hơn, cư tụ thành một nhóm ở vị trí ngã ba gần trục
đường lớn (quốc lộ 14), nay là buôn Ko Hneh.
Bảng 1.1: Tổng hợp dân số theo thành phần dân tộc
TT Dân tộc Tổng số toàn xã
Hộ Khẩu
1 Ê-đê 2.036 9.574
2 Việt 512 1.859
3 Tày 1 4
4 Nùng 3 10
5 Thái 2 7
6 Gia rai 5 15
7 Cơ-ho 3 12
8 Hrê 2 7
9 Mnông 3 17
10 Khơ-me 2 5
Tổng 2.569 11.510
(Nguồn: UBND xã Cuôr Dăng, tháng 7/2018)
Qua bảng 1.1 cho thấy, người Ê-đê trên địa bàn xã có 9.574 nhân khẩu (chiếm
hơn 83,17%) dân số, còn lại 1.936 nhân khẩu (16,83%) là người Việt và các dân tộc
thiểu số khác. Trên địa bàn xã có 10 tộc người cùng sinh sống, gồm: Ê-đê, Việt,
Tày, Nùng, Thái, Gia-rai, Hrê, Mnông, Khơ-me, Cơ-ho.
Toàn xã có 6 buôn và phân thành ba cụm dân cư chính: buôn Ko Hneh và
buôn Aring, buôn Cuôr Dăng B và buôn Cuôr Dăng A, buôn Kroa B và buôn Kroa
C. Các cụm dân cư sinh sống dọc hai bên đường quốc lộ 14, đường liên xã, đường
giao thông nông thôn. Do dân cư trên địa bàn chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số
tại chỗ được quy hoạch theo chính sách định canh định cư của Nhà nước nên các
cụm dân cư có mức độ tập trung khá cao, một số công trình cơ sở hạ tầng như điện,
đường, trường, trạm đã được đầu tư xây dựng cơ bản.
32
- Đặc điểm tôn giáo: Hiện nay trên địa bàn xã Cuôr Dăng có 4 tôn giáo chính
đang hoạt động là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành và Cao Đài. Công giáo có 478 hộ
với 1984 tín đồ, sinh hoạt tại giáo xứ Thiên Đăng; Tin Lành có 498 hộ với 2238 tín
đồ, sinh hoạt tại Chi hội Tin Lành Cuôr Dăng; Phật giáo có 72 tín đồ và Đạo Cao
Đài có 4 tín đồ [125]. Các sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng pháp luật, chính quyền
thực hiện nghiêm túc công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.
1.3.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Trong những năm gần đây, xã Cuôr Dăng có những chuyển biến tích cực và
phát triển đạt mức khá cao so với những năm trước. Xã có trên 90% dân số sống
bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và một số
hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp, cà phê và tiêu đang trở
thành hai giống cây trồng lâu năm có vai trò vượt trội. Cây trồng hàng năm tập
trung vào hai loại cây lương thực chính là lúa và ngô. Thời gian qua, giá hạt tiêu
tăng cao nên nhiều hộ gia đình đã trồng xen cây tiêu vào diện tích cây cà phê và
vườn tạp với mật độ trung bình khoảng 250 trụ/hecta.
Tính đến thời điểm cuối năm 2017, giá trị chăn nuôi chiếm khoảng 15% trong
cơ cấu ngành nông nghiệp. Chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chất lượng, tổng
đàn gia súc gia cầm có 17.650 con [122]; khu vực chuồng trại được đảm bảo vệ sinh
môi trường và phòng dịch theo quy định. Các hoạt động thương mại, dịch vụ bước
đầu phát triển phục vụ cho hoạt động sản xuất nông sản và đáp ứng nhu cầu hàng
ngày của người dân. Các hộ hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ chủ yếu
là người Việt sinh sống ở khu vực trung tâm xã và ven quốc lộ 14.
Y tế: Những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người dân có
nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao, lĩnh vực y
tế dự phòng được quan tâm đúng mức. Các chương trình mục tiêu quốc gia về dân
số và kế hoạch hóa gia đình được chú trọng thực hiện, công tác chăm sóc sức khỏe
sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được duy trì thường xuyên thông qua các mạng lưới
cộng tác viên tại buôn. Nhận thức của người dân, nhất là bộ phận người dân tộc
thiểu số tại chỗ về chăm sóc sức khỏe được nâng lên rõ rệt.
33
Giáo dục: Xã Cuôr Dăng thực hiện tốt công tác vận động học sinh đến
trường. Trên địa bàn xã có 4 trường học (trong đó có 1 trường trung học cơ sở, 2
trường tiểu học, 1 trường mẫu giáo). Xã được công nhận phổ cập giáo dục trung học
cơ sở đạt 100% và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung
học cơ sở được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc) đạt trên 95% [122].
Trong công tác dân tộc, xã Cuôr Dăng đã có sự phối hợp với phòng dân tộc
của huyện thực hiện tốt các chương trình của Chính phủ về hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số theo QĐ 102/QĐ-TTg và thực hiện chính sách đối với người có uy tín
trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo quyết định số 18/2011/QĐ-TTg.
Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” luôn được quan
tâm cả về số lượng và chất lượng các hoạt động. Các hủ tục “lạc hậu”, tệ nạn
“mê tín dị đoan” từng bước được đẩy lùi. Phong trào văn nghệ quần chúng có
bước phát triển nhất định. Công tác tuyên truyền được duy trì thường xuyên với
nhiều hình thức.
Về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, sau 7 năm triển
khai thực hiện chương trình đầu tư xây dựng nông thôn mới, diện mạo của xã đã có
nhiều khởi sắc, kinh tế không ngừng phát triển, đời sống nhân dân và chất lượng
cuộc sống ngày càng được cải thiện đáng kể. Kết cấu hạ tầng nông thôn, kinh tế - xã
hội được đầu tư phát triển, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe của
nhân dân ngày càng tiến bộ, quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ
vững, hệ thống chính trị được kiện toàn vững mạnh. Đến năm 2017, xã Cuôr Dăng
là một trong những xã đầu tiên của huyện Cư M’gar đạt chuẩn 19 tiêu chí xây dựng
nông thôn mới. Quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã đã khơi
dậy được truyền thống đoàn kết, ý thức trách nhiệm của người dân được nâng lên.
Cảnh quan môi trường nông thôn được cải thiện, đời sống người dân được nâng
cao; bản sắc văn hóa được giữ gìn, phát huy.
Nhìn chung, trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội tại xã Cuôr Dăng
khá ổn định và cơ bản có nhiều thuận lợi. Đời sống của người dân nhất là đồng bào
dân tộc thiểu số tại chỗ đang dần được nâng cao. Công tác dân tộc, tôn giáo được
34
chính quyền quan tâm đúng mức, đảm bảo quyền lợi của người dân nói chung và
người Ê-đê trên địa bàn nói riêng. Tuy nhiên, địa phương vẫn còn những khó khăn,
tồn tại đó là: xã Cuôr Dăng là địa bàn có dân số khá đông, chủ yếu là đồng bào dân
tộc thiểu số tại chỗ, do vậy việc tiếp cận cũng như kỹ năng ứng dụng khoa học công
nghệ, khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn hạn chế. Nhiều hộ dân có ít đất sản xuất,
trong điều kiện diễn biến thời tiết thất thường, năng suất giảm thấp, giá cả các mặt
hàng không ổn định nên thu nhập thực tế của một bộ phận người dân bị giảm. Lao
động nông nghiệp chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao, hạn chế sự phát triển trong toàn
xã. Cơ sở hạ tầng của một số buôn xuống cấp, gây khó khăn cho việc đi lại của
người dân.
1.4. Ngƣời Ê-đê ở Tây Nguyên và ngƣời Ê-đê ở xã Cuôr Dăng
1.4.1. Lịch sử nguồn gốc tộc người
Người Ê-đê là một trong những cư dân cư trú lâu đời ở Tây Nguyên, là một
trong năm tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam (gồm Ê-
đê, Chăm, Gia Rai, Raglai, Chu Ru), thuộc loại hình nhân chủng Inđonesien, có
tiếng nói thuộc nhóm Malayo – Polynesian trong hệ ngôn ngữ Nam Đảo
(Austronesian Language Family). Việc tìm hiểu nguồn gốc của các tộc người Mã
Lai – Đa Đảo là một vấn đề khoa học lớn, đã và đang được nhiều nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa
học về vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu gần đây của các ngành Khảo cổ học, Nhân học/Dân tộc
học… đã đưa đến nhận định: những người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam có nguồn
gốc từ quần đảo Nam Dương di cư lên qua đường biển. Hiện có hai quan điểm
chính: thứ nhất là, họ di cư thẳng từ biển vào; thứ hai cho rằng họ di cư lên Nam
Trung Quốc rồi sau đó men theo biển di cư xuống miền trung Việt Nam tạo thành
cư dân Nam Đảo như ngày nay. Bộ phận các dân tộc thuộc ngôn ngữ Nam Đảo tụ
cư thành nhiều nhóm trên khắp địa bàn trung và nam của Trung Bộ. Chính những
người này và con cháu của họ đã sáng tạo nên phức hệ văn hóa Sa Huỳnh được các
35
nhà khảo cổ học xếp vào thời tiền sơ sử. Lớp người này phân chia thành nhiều
nhóm, dừng chân trên từng địa bàn riêng có những đặc thù về địa lý – sinh thái. Đời
sống của mỗi nhóm như vậy phải thích nghi và chịu sự tác động của những yếu tố
địa lý – sinh thái – nhân văn đặc thù, dần dần làm biến đổi và tạo ra những khác biệt
so với ban đầu trong các yếu tố văn hóa, ngôn ngữ,… Đó là một quá trình lịch sử
lâu dài, con đường phân ly của lớp người Nam Đảo ở miền Nam Đông Dương đã
diễn ra để định hình những nhóm người có nét riêng trong văn hóa và hình thành
tâm lý tộc người riêng. Có thể khi bước vào thời đại kim khí, thì những người
Malayo - Polynesian ở miền nam Đông Dương đã hình thành 5 tộc người nói trên
như ngày nay [111].
Trong cuốn Luật tục Ê-đê, khi nhận định về nguồn gốc của tộc người Ê-đê,
Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn và Nguyễn Hữu Thấu (2012) cũng cùng quan điểm
như trên. Để trở về với gốc tích xa xưa của dân tộc Ê-đê, nhiều nhà nghiên cứu
thường hướng về cư dân cổ Sa Huỳnh, những cư dân sáng tạo nên nền văn hóa khảo
cổ Sa Huỳnh nổi tiếng, trải dài suốt duyên hải Trung Bộ và vùng nội địa, hình thành
nên các dạng văn hóa đồng bằng ven biển, bán sơn địa. Sau này, cùng với những
chuyển biến về kinh tế - xã hội, nhất là những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ mà
một bộ phận của cư dân Sa Huỳnh ven biển đã tiến sang xã hội có giai cấp, hình
thành Nhà nước cổ đại Chăm Pa, người Sa Huỳnh trở thành người Chăm với nước
Chăm Pa và nền văn minh Chăm nổi tiếng, còn những bộ phận cư dân miền núi và
cao nguyên nằm xa vùng ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa Ấn Độ có trình độ phát
triển kinh tế - xã hội thấp hơn, sau này hình thành các cộng đồng người Ê-đê, Gia
rai, Chu Ru… như hiện nay.
Trong quá trình lịch sử, dân cư trong các buôn làng Ê-đê có sự dịch chuyển
nơi cư trú. Tuy nhiên, môi trường sinh tồn của tộc người từ xa xưa đến nay vẫn là
vùng cao nguyên đất đỏ màu mỡ ở trung tâm Tây Nguyên, nằm giữa Gia Lai, Kon
Tum ở phía Bắc và Lâm Đồng ở phía Nam. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng,
người Ê-đê là cư dân cư trú lâu đời ở Tây Nguyên.
Người Ê-đê còn có những tên gọi khác nhau như Rađê, Anăk Ê-đê, Ê-đê Êgar,
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk

More Related Content

What's hot

Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộHoàng Mai
 

What's hot (20)

Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đLuận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Nhà Nước Về Di Sản Văn Hóa,9đ
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biểnLuận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
 
Luận văn: Tri thức dân gian trong đánh bắt hải sản hiện nay, 9đ
Luận văn: Tri thức dân gian trong đánh bắt hải sản hiện nay, 9đLuận văn: Tri thức dân gian trong đánh bắt hải sản hiện nay, 9đ
Luận văn: Tri thức dân gian trong đánh bắt hải sản hiện nay, 9đ
 
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luậtLuận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
Luận văn: Quyền của người đồng tính chuyển giới theo pháp luật
 
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOTLuận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
 
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng HớiLv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
Lv: Nghiên cứu phát triển du lịch theo hướng bền vững tại thành phố Đồng Hới
 
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc BộVùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
Vùng văn hóa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ
 
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt NamLuận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật Việt Nam
 
Đề tài: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ninh, HAY
Đề tài: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ninh, HAYĐề tài: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ninh, HAY
Đề tài: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ninh, HAY
 
Luận văn: Phát triển du lịch Nha Trang theo hướng bền vững, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch Nha Trang theo hướng bền vững, 9đLuận văn: Phát triển du lịch Nha Trang theo hướng bền vững, 9đ
Luận văn: Phát triển du lịch Nha Trang theo hướng bền vững, 9đ
 
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCMĐề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
Đề tài: Bảo tồn di sản văn hóa tài liệu, hiện vật ở Bảo tàng HCM
 
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOTLuận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
 
Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam BộLuận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
Luận án: Giá trị văn hóa của đạo Cao Đài trong đời sống Nam Bộ
 
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOTĐề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
Đề tài: Pháp luật về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ tài nguyên du lịch ở Việt Nam, HAY
 
Đề tài: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển, HAYĐề tài: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển, HAY
Đề tài: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển, HAY
 
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà NẵngLuận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng
Luận văn: Thực hiện chính sách phát triển du lịch biển Đà Nẵng
 
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ngãi, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ngãi, HAY, 9đLuận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ngãi, HAY, 9đ
Luận văn: Quản lý nhà nước về du lịch tỉnh Quảng Ngãi, HAY, 9đ
 
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAYLuận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
Luận văn: Bảo đảm thực thi quyền lợi của người tiêu dùng, HAY
 

Similar to Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk

Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...luanvantrust
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

Similar to Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk (20)

Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAYLuận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
Luận án: Văn hóa gia đình truyền thống của người Lào, HAY
 
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đTập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
 
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao BằngLuận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
 
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn LaLuận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
 
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà XùaLuận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen ở xã Tà Xùa
 
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành tỉnh Gia Lai
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành tỉnh Gia LaiLuận văn: Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành tỉnh Gia Lai
Luận văn: Thực hiện chính sách đối với đạo Tin Lành tỉnh Gia Lai
 
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộcLuận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
 
Luận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
Luận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà NộiLuận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
Luận án: Chợ truyền thống trong quá trình đô thị hoá ở Hà Nội
 
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng SơnLuận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
 
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt NamĐề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
Đề tài: Thực hiện chính sách dân tộc thời kỳ đổi mới ở Việt Nam
 
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOTLuận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
Luận án: Thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Êđê, HOT
 
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAYLuận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
 
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóaLuận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
 
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đTập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
 
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đLuận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
Luận văn: Quản lý đối với hoạt động tôn giáo ở huyện Điện Biên, 9đ
 
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAYĐề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
Đề tài: Đời sống văn hóa của các hộ gia đình nông dân Khmer, HAY
 
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình DươngQuản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
Quản Lý Nhà Nước Về Tôn Giáo Tại Tỉnh Bình Dương
 
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
Quản lý nhà nước về xây dựng gia đình văn hoá ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh B...
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfVyTng986513
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdfchuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
chuong-7-van-de-gia-dinh-trong-thoi-ky-qua-do-len-cnxh.pdf
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 

Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THỊ MAI HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI - 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HÀ THỊ MAI HÔN NHÂN HIỆN NAY CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK Ngành: Nhân học Mã số: 9.31.03.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Văn Minh 2. PGS.TS. Phạm Văn Dương HÀ NỘI - 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Hà Thị Mai
  • 4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU................................................................................11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................11 1.2. Cơ sở lý thuyết ...................................................................................................21 1.3. Khái quát về xã Cuôr Dăng................................................................................29 1.4. Người Ê-đê ở Tây Nguyên và người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng ..............................34 Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ HÌNH THỨC KẾT HÔN ...........45 2.1. Một số đặc điểm và tính chất cơ bản trong hôn nhân ........................................45 2.2. Một số nguyên tắc - hình thức kết hôn...............................................................63 2.3. Một số trường hợp hôn nhân khác .....................................................................67 Chƣơng 3: PHONG TỤC VÀ NGHI LỄ TRONG HÔN NHÂN........................81 3.1. Phong tục và nghi lễ trong hôn nhân của những người đồng tộc ......................81 3.2. Phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của người Ê-đê với người khác tộc.............96 3.3. Phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của những người cùng và khác tôn giáo...101 Chƣơng 4: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HÔN NHÂN CỦA NGƢỜI Ê-ĐÊ HIỆN NAY Ở XÃ CUÔR DĂNG, HUYỆN CƢ M’GAR, TỈNH ĐẮK LẮK .............111 4.1. Xu hướng và nguyên nhân biến đổi trong hôn nhân của người Ê-đê ..............111 4.2. Một số giá trị của hôn nhân..............................................................................123 4.3. Một số vấn đề đang đặt ra ................................................................................128 4.4. Một số khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của hôn nhân trong quá trình phát triển cộng đồng người Ê-đê hiện nay...............................................135 KẾT LUẬN............................................................................................................143 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................146
  • 5. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIÊT TẮT CT: Chỉ thị ĐHQG Đại học Quốc gia GS. Giáo sư HCM Hồ Chí Minh NCS Nghiên cứu sinh Nxb Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư QĐ Quyết định TP Thành phố Tr Trang TS Tiến sĩ TTg Thủ tướng UBND Ủy ban nhân dân
  • 6. DANH MỤC BẢNG Bảng 1.1: Tổng hợp dân số theo thành phần dân tộc................................................31 Bảng 2.1: Thời gian tìm hiểu của các cặp vợ chồng trước khi kết hôn ....................47 Bảng 2.2. Bối cảnh gặp gỡ trước hôn nhân...............................................................48 Bảng 2.3. Nơi cư trú sau kết hôn...............................................................................62 Bảng 2.4. Quan niệm kết hôn con cô – con cậu........................................................69 Bảng 2.5: Thống kê hôn nhân cận huyết từ 1975 đến 2018......................................70 Bảng 2.6: Kết hôn khác dân tộc tại các buôn ở xã từ 1975 đến 2018.......................71 Bảng 4.1: Lý do thay đổi tuổi kết hôn.....................................................................114
  • 7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 2.1. Quyền quyết định hôn nhân (đơn vị: %) ..............................................53 Biểu 4.1. Sự can thiệp của các bên liên quan khi vợ/chồng ngoại tình, ly hôn ......129 Biểu đồ 4.2: Ý kiến có nên duy trì tục thách cưới hay không.................................133
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Người Ê-đê là một trong năm dân tộc thiểu số theo chế độ mẫu hệ (Ê-đê, Gia rai, Chu Ru, Raglai và Chăm) thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo ở nước ta. Người Ê- đê có dân số đông thứ hai trong các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên, chỉ sau dân tộc Gia rai. Đây là cộng đồng tộc người có văn hóa truyền thống độc đáo, tiêu biểu và phong phú, cư trú chủ yếu ở tỉnh Đắk Lắk. Do có dân số lớn, trình độ phát triển kinh tế - xã hội vào loại cao ở Tây Nguyên và do những nguyên nhân lịch sử, văn hóa mà dân tộc Ê-đê từ trước đến nay luôn có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng và ổn định chính trị ở vùng Tây Nguyên. Văn hóa truyền thống của người Ê-đê, trong đó có phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân là những giá trị được hình thành từ lâu đời, phản ánh đặc trưng tộc người. Trong những thập niên vừa qua, nhất là thời kỳ đổi mới, quá trình giao lưu và hội nhập diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực không chỉ ở trong đời sống người Ê-đê mà còn trong tất cả các tộc người khác. Quá trình ấy đã mang lại những thành tựu to lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội, song cũng gây ra những nguy cơ và thách thức mới, trong đó có sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội nhằm nâng cao đời sống cho người dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong đó, hôn nhân và gia đình luôn được coi trọng, thể hiện qua việc thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam và ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình cũng như tập trung xây dựng đời sống văn hóa mới ở các khu dân cư trong bối cảnh xây dựng nông thôn mới hiện nay. Thực tế cho thấy, hiện nay đời sống của phần lớn người Ê-đê còn bị chi phối ít nhiều ở các mức độ khác nhau bởi phong tục, tập quán, trong đó những phong tục, tập quán về hôn nhân - gia đình thường có tính bền vững và ăn sâu trong tâm thức của người dân. Chính vì vậy, mục tiêu xây dựng chế độ hôn nhân và gia
  • 9. 2 đình tiến bộ, đặc biệt là khi có Luật Hôn nhân và Gia đình đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1959, gần đây nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định 126 về Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình (2014) đã bước đầu được đặt trong bối cảnh hướng tới sự hài hòa giữa pháp luật và phong tục, tập quán về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng pháp luật về hôn nhân đối với người Ê-đê theo mối tương quan với những qui định của tập quán pháp tộc người đã và đang đặt ra không ít các vấn đề cần giải quyết về mặt lý luận như: tục thách cưới, việc đăng ký kết hôn, xử lý ly hôn, phân chia tài sản sau khi ly hôn,… Vì vậy, nghiên cứu các giá trị văn hóa của tộc người Ê-đê nói chung và trong lĩnh vực hôn nhân nói riêng trong bối cảnh thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình, chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình, chính sách xây dựng đời sống văn hóa mới hiện nay ở dân tộc Ê-đê là cần thiết và có ý nghĩa về khoa học lẫn thực tiễn. Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã công bố trong và ngoài nước cũng như những thông tin thu thập được từ các chuyến đi thực địa, luận án hướng tới việc xây dựng một bức tranh tương đối đầy đủ về các vấn đề cơ bản trong hôn nhân của người Ê- đê, nhất là những biến đổi trong hôn nhân hay sự xuất hiện các hình thức kết hôn mới: hôn nhân hỗn hợp dân tộc, hôn nhân giữa người có đạo và người không có đạo, sự giao tiếp văn hóa giữa hôn nhân của người Ê-đê với các tộc người theo chế độ phụ hệ… cũng như một số vấn đề mới nảy sinh trong bối cảnh hiện đại và hội nhập hiện nay cần nghiên cứu. Thông qua nghiên cứu hôn nhân của người Ê-đê sẽ giúp cho việc hiểu biết đầy đủ và sâu sắc hơn về đặc điểm văn hóa tộc người truyền thống, nhất là các phong tục tập quán, những khuôn mẫu ứng xử cá nhân, gia đình và cộng đồng, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu hôn nhân của tộc người Ê-đê, luận án cũng chỉ ra những vấn đề dân tộc mới nảy sinh cũng như các yếu tố văn hóa mới cần tiếp tục tìm hiểu. Đồng thời, luận án cũng cung cấp những luận cứ khoa học giúp chính quyền địa phương tham khảo trong việc thực hiện chính sách, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
  • 10. 3 của tộc người Ê-đê phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới hiện nay. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Thứ nhất, cung cấp hệ thống tư liệu về đặc điểm, hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân truyền thống của người Ê-đê đang được thực hành tại điểm nghiên cứu. Thứ hai, tìm hiểu những biến đổi trong hôn nhân của người Ê-đê ở điểm nghiên cứu từ 1975 đến nay, qua đó làm rõ đời sống hôn nhân của đồng bào trong thời kỳ đổi mới đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thứ ba, góp phần đánh giá làm rõ những giá trị cơ bản và các vấn đề đang đặt ra trong hôn nhân của người Ê-đê hiện nay, qua đó cung cấp cơ sở khoa học phục vụ cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp nhằm phát huy các giá trị của hôn nhân trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội của người Ê-đê ở điểm nghiên cứu nói riêng và tộc người này ở Tây Nguyên nói chung. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được các mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung thực hiện một số nhiệm vụ chính sau: - Nghiên cứu tổng quan về người Ê-đê ở điểm nghiên cứu, nhất là các đặc điểm liên quan và tác động đến hôn nhân của tộc người này. - Nghiên cứu làm rõ các đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê hiện nay ở điểm nghiên cứu. - Đánh giá xu hướng biến đổi và phân tích nguyên nhân biến đổi của các xu hướng; xác định các giá trị của hôn nhân và những vấn đề đang đặt ra hiện nay... để từ đó đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm phát huy các giá trị của hôn nhân trong quá trình phát triển hiện nay.
  • 11. 4 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là các vấn đề hôn nhân hiện nay của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, gồm: quan niệm, đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, phong tục và nghi lễ trong hôn nhân. - Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phạm vi nội dung của luận án là các đặc điểm, hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Phạm vi không gian nghiên cứu: Địa bàn nghiên cứu là xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. Xã Cuôr Dăng cách thành phố Buôn Ma Thuột 17km, đây là địa bàn đã và đang chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Toàn xã có 6 buôn: buôn Cuôr Dăng A, buôn Cuôr Dăng B, buôn Kroa B, buôn Kroa C, buôn Aring, buôn Ko Hneh. Dân tộc Ê-đê chiếm trên 80% dân số toàn xã, bộ phận còn lại gồm: dân tộc Việt (Kinh), các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên và các dân tộc thiểu số phía Bắc di cư vào. Ở địa bàn xã được lựa chọn nghiên cứu đều có các trường hợp kết hôn nội tộc người, hôn nhân khác tộc người, hôn nhân của những người khác tôn giáo,... Do vậy, việc nghiên cứu sinh lựa chọn xã Cuôr Dăng để nghiên cứu hôn nhân của người Ê-đê trong giai đoạn hiện nay đảm bảo tính đại diện, khách quan. Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án: Được xác định là các đặc điểm, hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán, nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê hiện đang được thực hành tại điểm nghiên cứu, nhưng đặt trong sự so sánh từ năm 1975 đến nay để làm rõ hơn quá trình và xu hướng biến đổi của các nội dung nghiên cứu. Sở dĩ nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn mốc thời gian từ năm 1975 đến nay để nghiên cứu là vì, từ 1975 đến nay Nhà nước ta thực thi nhiều chính sách quan trọng có tác động mạnh mẽ đến người Ê-đê nói chung và hôn nhân nói riêng, trong đó đáng chú ý là chính sách di dân xây dựng các vùng kinh tế mới theo kế hoạch, cùng
  • 12. 5 với đó là làn sóng di cư tự do từ các tỉnh phía Bắc và ven biển miền Trung lên Tây Nguyên trong hai thập kỷ cuối của thế kỷ XX, đã làm cho dân số của toàn tỉnh Đắk Lắk nói chung và xã Cuôr Dăng tăng nhanh. Do vậy, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ có sự giao lưu và ảnh hưởng nhất định từ bộ phận cư dân mới đến này. Quá trình đó đã góp phần hình thành những yếu tố văn hóa mới của tộc người, biến đổi văn hóa tộc người. Trong đó, hôn nhân và gia đình là một trong những lĩnh vực biến đổi khá rõ nét. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, luận án đã sử dụng những phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây: Phương pháp luận - Luận án vận dụng các luận điểm về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của người Ê-đê ở nước ta. Cụ thể ở đây, NCS luôn đặt hôn nhân nói chung và các vấn đề của hôn nhân nói riêng trong một hệ thống gồm các thành tố lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, môi trường tự nhiên và con người ở cộng đồng nghiên cứu trong mối liên quan và sự tương tác lẫn nhau và với các cộng đồng khác. Quá trình đó đã góp phần tạo ra sự giao lưu tiếp biến về nhiều mặt để dẫn đến việc hôn nhân của người Ê-đê tại địa bàn nghiên cứu vừa giữ được những đặc trưng truyền thống của tộc người, của vùng miền, nhưng cũng luôn có sự biến đổi để thích nghi với các điều kiện mới. - Luận án đã vận dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tộc người nói chung và hôn nhân gia đình của các tộc người thiểu số nói riêng, nhất là Luật Hôn nhân và Gia đình hiện hành và Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Những quan điểm này là các định hướng quan trọng để luận án giải quyết các mục tiêu và nhiệm vụ trọng tâm của luận án, nhất là xác định các giá trị và hạn chế của hôn nhân hiện nay để đề xuất một số khuyến nghị khoa học liên quan nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị hôn nhân trong bối cảnh hiện nay.
  • 13. 6 Phương pháp nghiên cứu - Thống kê và kế thừa các tài liệu có sẵn: Nghiên cứu sinh đã đọc và xử lý tài liệu từ các nguồn sách, tạp chí, các báo cáo kết quả của những chương trình, dự án nghiên cứu trong nước; báo cáo tổng kết của các cơ quan trung ương và địa phương liên quan đến đề tài nghiên cứu; số liệu thống kê ở các cấp trung ương, tỉnh, huyện, xã và buôn làng. - Điền dã dân tộc học: Trước hết bằng phương pháp định tính, NCS đã sống và trải nghiệm cùng với người dân tại địa phương để có thể quan sát tham dự các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của họ. Cố gắng hiểu được một cách tương đối đầy đủ về quan niệm, tâm lý và hành vi của người Ê-đê ở điểm nghiên cứu liên quan đến vấn đề hôn nhân. Trong quá trình đó, NCS kết hợp phương pháp quan sát tham dự với các cuộc phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm đối với những thông tín viên để thu thập thông tin theo vấn đề phù hợp với đối tượng nghiên cứu, nhất là những người am hiểu và có uy tín như cán bộ, già làng, người già,... Nghiên cứu sinh đã tiến hành lựa chọn phỏng vấn sâu 35 người, đảm bảo các nguyên tắc về tính đại diện cho lứa tuổi, nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, học vấn, điều kiện kinh tế, vị trí xã hội, cụ thể: về giới tính có 20 nữ (57,1%), 15 nam (42,9%); có 28 người Ê-đê (80%), 3 người Việt (8,57%), 2 người Gia-rai (5,71%), 1 người Hrê (2,86%), 1 người Thái (2,86%); có 5 người dưới 20 tuổi (14,29%), 10 người từ 20 đến 35 tuổi (28,57%), 5 người từ 35 đến 50 tuổi (14,29%), 15 người ngoài 50 tuổi (42,86%); có 10 người không theo đạo (28,57%), 15 người theo Tin Lành (42,86%), 6 người theo Công giáo (17,14%), 3 người theo đạo Phật (8,57%), 1 người theo Đạo Cao Đài (2,86%); có 25 người làm nông (71,43%), 1 người làm cán bộ huyện (2,86%), 3 người cán làm bộ xã (8,57%), 3 người làm cán bộ buôn (8,57%), 2 người hưu trí (5,71%), 01 người giáo viên (2,86%); về học vấn (trình độ học vấn cao nhất của đối tượng phỏng vấn): có 5 người không đi học (14,29%), 25 người trình độ học vấn từ lớp 1 đến lớp 12 (71,43%), 5 người có trình độ từ cao đẳng trở lên (14,29%); có 5 người nghèo (có trong danh sách hộ nghèo của địa phương, chiếm 14,29%), 20 người trung bình (57,1%), 10 người khá giả (28,57%). Nội dung phỏng vấn thường
  • 14. 7 được chuẩn bị trước với hệ thống câu hỏi mở để người trả lời có thể có nhiều lựa chọn khi đưa ra ý kiến của mình. Nghiên cứu sinh tiến hành thảo luận nhóm tại địa bàn nghiên cứu để thu thập thông tin định tính. Đối tượng thảo luận trong một nhóm thường có sự thống nhất chung như nhóm cán bộ buôn làng, nhóm đàn ông lớn tuổi, nhóm phụ nữ trung niên,... Hướng thảo luận nhóm tập trung vào các vấn đề cụ thể như: tình hình đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, các phong tục, tập quán liên quan đến hôn nhân từ truyền thống đến hiện tại, việc vận dụng luật tục và luật pháp trong thực hành hôn nhân ở địa phương cũng như những nguyện vọng của người dân trong việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc người. Nghiên cứu sinh đã tham dự 5 lễ ăn hỏi có nghi thức tổ chức theo phong tục truyền thống, 7 đám cưới tổ chức theo cách thức người Việt (trong đó có 4 đám cưới của người Ê-đê kết hôn với người Ê-đê, 1 đám cưới người Ê-đê kết hôn với người Tày, 1 đám cưới người Ê-đê kết hôn với người Việt, 1 đám cưới người Ê-đê kết hôn với người Gia-rai); tham dự 1 lễ đính hôn của người Ê-đê tại Chi hội Tin Lành Cuôr Dăng, 1 lễ cưới của người Ê-đê theo Công giáo ở giáo xứ Thiên Đăng. Trong quá trình điền dã, NCS áp dụng các công cụ bổ trợ như chụp ảnh, sưu tầm các tư liệu về văn học nghệ thuật dân gian, tài liệu thư tịch của tộc người Ê-đê liên quan đến đề tài luận án. - Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này được áp dụng thông qua các cuộc tọa đàm hẹp, thảo luận, trao đổi theo từng vấn đề chuyên sâu, nhằm thu thập tư liệu và kinh nghiệm nghiên cứu từ các chuyên gia, những cán bộ và người dân có uy tín và am hiểu trong cộng đồng ở địa phương tiến hành điền dã. Trong quá trình thực hiện luận án, NCS đã tiến hành nhiều cuộc trao đổi với các nhà khoa học trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Bên cạnh đó cũng tranh thủ ý kiến của các nhà quản lý, cán bộ phụ trách về văn hóa, dân số của xã; các già làng,... để thu thập những ý kiến đánh giá chuyên sâu và những kinh nghiệm của họ đối với vấn đề nghiên cứu. - Sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu
  • 15. 8 các nguồn thông tin, tư liệu, số liệu thu thập được để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đề ra. Trong đó, so sánh đồng đại và lịch đại được dùng chủ yếu trong quá trình phân tích và đánh giá các tài liệu đã thu thập được từ những phương pháp khác. Mục tiêu là trên cơ sở các tài liệu có được từ kế thừa tài liệu có sẵn và từ điền dã dân tộc học, so sánh để thấy được sự tương đồng và khác biệt trong hôn nhân ở người Ê-đê từ quá khứ đến hiện tại. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được triển khai trong suốt quá trình thực hiện đề tài để có thể đưa ra những kết luận, nhận định phù hợp dựa trên các nguồn tư liệu về đối tượng và địa bàn nghiên cứu đề tài thu thập được. - Phương pháp định lượng: Cùng với các phương pháp nghiên cứu định tính, NCS sử dụng phương pháp định lượng để thu thập thông tin phục vụ mục tiêu nghiên cứu. Bảng hỏi được xây dựng với hơn 50 câu hỏi về thông tin chung của hộ gia đình, quan niệm, tiêu chí lựa chọn bạn đời, nghi lễ hôn nhân, cư trú sau kết hôn… (xem phụ lục 5). Cộng đồng người Ê-đê tại xã Cuôr Dăng cư trú ở 5 buôn là: buôn Kroa B, buôn Kroa C, buôn Cuôr Dăng B, buôn Ko Hneh và buôn Aring. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, do hạn chế về thời gian, kinh phí, nhân lực… nên NCS không tiến hành điều tra ở cả 5 buôn này mà chỉ chọn điểm 3 buôn (Cuôr Dăng B, buôn Aring, buôn Kroa B) để nghiên cứu, bởi người Ê-đê khá đồng nhất về môi trường cư trú, tổ chức xã hội cũng như cách thức sản xuất nhưng cũng tồn tại những điểm khác biệt như số lượng người theo đạo Tin Lành, số lượng các tộc người cùng chung sống trong buôn, phong tục truyền thống còn lưu giữ,… NCS đã điều tra 200 phiếu thông qua phương pháp chọn mẫu có chủ đích. Số phiếu điều tra được nhập và xử lý và làm sạch bằng phần mềm SPSS. Điều tra bảng hỏi tập trung vào các đối tượng đã kết hôn kết hôn trong độ tuổi từ 15 – 65 tuổi, bao gồm những đối tượng kết hôn trước và sau năm 1975. Việc tập trung vào đối tượng này tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình nghiên cứu. Bởi vì, đối tượng là những người Ê-đê đã từng thực hiện nghi lễ hôn nhân, có nhận thức nhất định về quan niệm, nguyên tắc - hình thức, phong tục, nghi lễ cũng những vấn đề khác liên quan tới hôn nhân.
  • 16. 9 Ngoài ra, luận án còn tham khảo, kế thừa những công trình nghiên cứu trước, luận án, luận văn, những tài liệu của các tác giả trong và ngoài nước, nhất là các ấn phẩm về hôn nhân nói chung và của người Ê-đê nói riêng đã công bố; Bên cạnh đó, còn tham khảo một số báo cáo của địa phương liên quan đến điều kiện địa lý, đặc điểm dân cư, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của địa bàn và đối tượng nghiên cứu. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, tương đối toàn diện và có tính hệ thống về đặc điểm, nguyên tắc - hình thức, phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. - Thông qua kết quả nghiên cứu, luận án góp phần làm rõ những đặc trưng của người Ê-đê tại điểm nghiên cứu trong các vấn đề hôn nhân hiện nay cũng như phân tích đánh giá về các nguyên nhân tác động đến xu hướng biến đổi trong hôn nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk. - Luận án góp phần bổ sung những tư liệu mới, trên cơ sở đó xác định được các giá trị của hôn nhân và một số vấn đề về hôn nhân đang đặt ra hiện nay cần quan tâm. Kết quả thu được sẽ cung cấp thêm các luận cứ khoa học giúp các cơ quan quản lý xây dựng và thực hiện các chính sách, giải pháp phù hợp nhằm đưa Luật Hôn nhân và Gia đình, chính sách xây dựng đời sống mới trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình vào thực tiễn tộc người Ê-đê hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Về mặt lý luận: Luận án hệ thống hóa và làm rõ những quan niệm, đặc điểm, hình thức - nguyên tắc, phong tục tập quán và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê đang thực hành tại điểm nghiên cứu. Qua đó cung cấp hệ thống tư liệu khoa học mới góp phần bổ sung các khái niệm và lý luận về hôn nhân ở cộng đồng còn theo chế độ mẫu hệ khá điển hình của nước ta trong bối cảnh hiện tại. Đồng thời luận án cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm góp phần áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình, xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư vào thực tiễn người Ê-đê ở xã
  • 17. 10 Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar trên cơ sở vẫn bảo tồn và phát huy được các giá trị hôn nhân tộc người này. - Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án là nguồn tài liệu có giá trị tham khảo đối với các nhà nghiên cứu, các cấp chính quyền địa phương trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở các cộng đồng dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung và người Ê-đê nói riêng trong bối cảnh hiện nay. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 4 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu Chương 2. Đặc điểm, nguyên tắc và hình thức kết hôn Chương 3: Phong tục và nghi lễ trong hôn nhân Chương 4: Một số vấn đề về hôn nhân của người Ê-đê hiện nay ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
  • 18. 11 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Một số nghiên cứu chung về hôn nhân Từ thời cổ đại, các triết gia Hy Lạp đã quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình, nhưng phải tới năm 1861 khi Bacofell xuất bản tác phẩm Mẫu quyền, trong đó ông nêu lên luận điểm quan trọng là lúc đầu loài người sống trong tình trạng tạp hôn, con cái sinh ra không biết bố chỉ biết mẹ, tổ chức xã hội đầu tiên theo mẫu hệ rồi mới chuyển sang phụ hệ, thì lịch sử nghiên cứu về hôn nhân mới được coi là bắt đầu. Sau Bacofell, nhà bác học người Anh J.M.Lennan trong cuốn Hôn nhân nguyên thủy (1865) khi tìm hiểu những tập quán đã từng tồn tại một cách phổ biến trong các nền văn hóa khác nhau như cưới trộm, hôn nhân ngoại tộc (ngoại tộc hôn), hôn nhân đa phu, đã coi đó là những đặc điểm của các thị tộc theo dòng mẹ. Năm 1866, Mc Lenan xuất bản công trình Nghiên cứu lịch sử cổ đại – hôn nhân nguyên thủy, đã đề cập đến chế độ ngoại tộc hôn. Đó là, luật tục cấm những nam nữ trong cùng một nhóm chung huyết thống được lấy nhau mà chỉ được kết hôn với những người không cùng huyết thống ở các nhóm khác. Tiếp sau đó, nhà dân tộc học người Mỹ là L. Morgan xuất bản cuốn Xã hội cổ đại, công trình đã đánh dấu lịch sử nghiên cứu hôn nhân bước sang trang mới. L.Morgan đã sử dụng tài liệu của hệ thống huyết tộc và thân tộc để dựng lại lịch sử hôn nhân và gia đình của loài người qua năm hình thái kế tiếp nhau là: gia đình huyết tộc (Consanguine family), gia đình punalua (Punaluan family), gia đình một vợ một chồng (Monogamian family), Gia đình đối ngẫu (Syndyasmian family) và gia đình phụ quyền (Patriarchal family). Năm 1884, trên cơ sở tổng kết các thành tựu khoa học đương thời, Engels đã viết tác phẩm kinh điển Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước. Trong đó, riêng phần hôn nhân, Engels đã kế thừa nhiều luận điểm của L. Morgan [82, tr.35]. Ông quan niệm, chế độ mẫu hệ chỉ là huyết tộc về phía
  • 19. 12 mẹ, những người cùng họ hàng trong cùng một thị tộc mới được kế thừa và tài sản được trao cho những người cùng huyết tộc với mẹ. Trên cơ sở nghiên cứu xã hội mẫu hệ của nhiều dân tộc trên thế giới, các nhà dân tộc học xác định mẫu hệ là cách tính dòng dõi theo phía mẹ, quyền thừa kế tài sản và con cái đều được truyền lại cho con cháu của người phụ nữ. Ở Việt Nam, có năm tộc người thuộc loại hình xã hội mẫu hệ là: Ê-đê, Gia-rai, Chu Ru, Raglai và Chăm. Ngoài ra còn có một số tộc người phụ hệ nhưng yếu tố mẫu hệ còn rất đậm nét như: Cơ-ho, Mnông,… Trong số các dân tộc này, qua nghiên cứu cho thấy tộc người Ê-đê là xã hội mẫu hệ điển hình ở Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về hôn nhân. Trước hết phải kể đến các bài viết của tác giả Phan Hữu Dật: Hôn nhân và gia đình của các dân tộc ở nước ta (1998) in trong Một số vấn đề dân tộc học Việt Nam đã giúp người đọc hình dung một cách khái quát về bức tranh hôn nhân của cộng đồng các tộc người ở Việt Nam. Trong hai bài viết Dấu vết hôn nhân ba thị tộc ở người Vân Kiều và Dấu vết hệ thống bốn hôn đẳng ở Tây Nguyên (1991), tác giả đã khắc họa phần nào bức tranh đa dạng trong văn hóa hôn nhân của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử hôn nhân và gia đình ở nước ta như hình thái hôn nhân, tính chất và thiết chế hôn nhân. Công trình Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam của Đỗ Thúy Bình (1994) đã đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản của đời sống hôn nhân, nhất là về kết cấu gia đình, chức năng của gia đình và nghi lễ chu kỳ đời người, từ đó khái quát hóa gia đình như một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm tâm lý xã hội đặc biệt. Những phân tích, nhận định, đánh giá của tác giả ở thời điểm những năm cuối thế kỷ XX khá sâu sắc, có giá trị khoa học. Đây là công trình chuyên khảo có sử dụng những số liệu điều tra xã hội học tộc người để minh họa cho vấn đề nghiên cứu.
  • 20. 13 Nghiên cứu Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam của Bá Trung Phụ (1994) đã giới thiệu khá đầy đủ về gia đình và hôn nhân, làm rõ tổ chức xã hội, đặc trưng văn hóa của tộc người này, đồng thời chỉ ra được những đặc trưng của hôn nhân người Chăm với các dân tộc khác. Tuy không trực tiếp liên quan đến đề tài hôn nhân của người Ê-đê, nhưng đây cũng là nội dung khoa học đặt ra những giả định về mối quan hệ giữa hai cộng đồng người để NCS tham khảo trong quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu Hôn nhân - gia đình - ma chay của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru - Vân Kiều ở Quảng trị - Thừa Thiên Huế của Nguyễn Xuân Hồng (1998) là công trình đi sâu phân tích một cách có hệ thống về nguồn gốc của chế độ hôn nhân – gia đình cũng như các tập tục nghi lễ liên quan của người Tà Ôi, Cơ Tu, Bru – Vân Kiều. Đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho các nghiên cứu về hôn nhân gia đình nói riêng và văn hóa tộc người nói chung. Tìm hiểu về hôn nhân và gia đình không thể bỏ qua nghiên cứu: Hôn nhân gia đình các dân tộc Hmông, Dao ở hai tỉnh Lai Châu và Cao Bằng (2004) của Nguyễn Ngọc Tấn, Đặng Thị Hoa và Nguyễn Thị Thanh. Cuốn sách không chỉ đi sâu phân tích những đặc điểm và thực trạng hôn nhân - gia đình của hai tộc người thiểu số ở hai địa phương nói trên mà còn cung cấp các thông tin về nguồn gốc tộc người, điều kiện tự nhiên của địa bàn cư trú, đặc điểm kinh tế…làm căn cứ cho tìm hiểu quá trình tác động dẫn đến sự chuyển biến trong hôn nhân và gia đình của hai tộc người Hmông và Dao, cụ thể là nhóm Hmông Trắng và nhóm Dao Đỏ. Luận án Hôn nhân và gia đình của người Brâu ở làng Đắk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum của Bùi Ngọc Quang (2013), trong phần hôn nhân đã cung cấp những tư liệu đầy đủ về hôn nhân truyền thống của người Brâu, như: quan niệm truyền thống về hôn nhân, những nguyên tắc trong hôn nhân, hình thức và tính chất của hôn nhân, trường hợp hôn nhân đặc biệt, các nghi thức trong hôn nhân,... Đồng thời tác giả cũng đưa ra một vài nhận định về xu hướng biến đổi trong giai đoạn hiện nay. Những tư liệu này giúp NCS đặt ra các mối liên hệ so sánh trong quá trình nghiên cứu hôn nhân tộc người Ê-đê trong bối cảnh hiện nay.
  • 21. 14 Cuốn sách Nhân học về thân tộc, dòng họ, hôn nhân và gia đình được biên soạn bởi Nguyễn Khắc Cảnh và Đặng Thị Kim Oanh (2015) gồm 4 chương đề cập đến những vấn đề: thân tộc, dòng họ, hôn nhân, gia đình. Trong đó, hôn nhân và gia đình được xem như là thiết chế xã hội hết sức đa dạng và phức tạp phản ánh các mối quan hệ sinh học và văn hóa, vật chất và tinh thần, tư tưởng và tâm lý. Công trình đã giúp cho việc hiểu biết thêm về thể chế xã hội, chức năng của hôn nhân từ đó có những định hướng nghiên cứu cụ thể trong hôn nhân của người Ê-đê. Ấn phẩm Hôn nhân và gia đình của người Chu Ru của Võ Tấn Tú (2016) đã miêu tả chi tiết đầy đủ những phong tục, kiêng cữ cũng như các nghi thức liên quan đến hôn nhân và gia đình của người Chu Ru. Qua những phân tích của tác giả, người đọc nhận thấy các phong tục tập quán liên quan tới hôn nhân và gia đình góp phần giữ vững sự ổn định và phát triển xã hội, tạo nên đặc trưng văn hóa của người Chu Ru trong quá trình cộng cư, xen cư, giao lưu văn hóa với những tộc người khác. Đồng thời, tác giả đã có những phân tích và nhận định về ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ đến các phong tục tập quán của người Chu Ru đặc biệt là trong hôn nhân gia đình. Bài viết Văn hóa hôn nhân ở tộc người Raglai của Nguyễn Ngọc Thanh và Hồ Sĩ Lập (2017) đã chỉ ra hôn nhân của tộc người này mang những đặc điểm của xã hội mẫu hệ như con gái đi bắt chồng, sau hôn nhân chàng trai cư trú bên nhà vợ, con cái sinh ra mang họ mẹ,… Nhóm tác giả nhận định rằng: hiện nay hôn nhân ở người Raglai vẫn tuân thủ nguyên tắc ngoại hôn dòng họ và chế độ một vợ một chồng. Mặt khác, hôn nhân của người Raglai còn có sự khác biệt về vai trò, vị trí của người đàn ông trong gia đình, xã hội so với các dân tộc mẫu hệ khác. Các yếu tố trên là những đặc điểm tạo nên nét đặc trưng trong hôn nhân của người Raglai [97, tr.47]. Bài viết là tư liệu quý giúp NCS có thêm tư liệu về một tộc người theo chế độ xã hội mẫu hệ ở Tây Nguyên, bởi qua đó có thể liên hệ, so sánh với hôn nhân ở tộc người Ê-đê. Từ việc tổng quan các nghiên cứu chung về hôn nhân nói trên cho thấy, tuy góc độ tiếp cận khác nhau, nhưng những ấn phẩm đã công bố góp phần làm rõ
  • 22. 15 nguồn gốc và quá trình phát triển của hôn nhân cũng như các nguyên tắc và hình thức kết hôn của loài người nói chung, đồng thời làm rõ các đặc trưng tộc người ở nước ta qua những mối quan hệ hôn nhân và gia đình, đi sâu phân tích các nghi lễ liên quan đến đời sống hôn nhân - gia đình trong quá trình biến đổi, đồng thời chỉ ra những xu hướng phát triển của nó ở một số tộc người thiểu số nước ta trước đây và hiện nay. 1.1.2. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về tộc người và hôn nhân của người Ê-đê Nghiên cứu các tộc người ở Tây Nguyên nói chung và người Ê-đê nói riêng của các tác giả nước ngoài đã trải qua quá trình lâu dài hàng thế kỷ, nhất là của người Pháp như H. Maitre, L. Sabachiê, J. Dournes, G. Condominas,... Trong những công trình nghiên cứu về người Ê-đê, ở các mức độ khác nhau những tác giả nước ngoài đều đã quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình truyền thống. Nghiên cứu sớm nhất về người Ê-đê có lẽ là công trình khảo cứu của nhà thám hiểm người Pháp Henri Maitre với tựa đề Các xứ thượng ở miền Nam Đông Dương. Công trình này đã có nhiều mô tả khái quát về đời sống xã hội, kinh tế, phong tục tập quán... của dân tộc Ê-đê, Mnông và các tộc người tại chỗ Tây Nguyên. Đây là nguồn tư liệu giá trị, khảo tả chân thực về cuộc sống của hai dân tộc này trong những năm đầu thế kỷ XX. Trong phần hôn nhân, ông có nhắc đến việc tái hôn của người đàn bà góa: “Thỉnh thoảng một người đàn bà góa muốn tái hôn, cho một người làm mối tới đặt yêu cầu với cha mẹ người mà mình chọn mà không hề báo trước cho người đó biết. Nếu cha mẹ và người con trai đồng ý công việc được giải quyết và người chồng mới cưới đến ở nhà người vợ cùng với cha mẹ; nhưng trong trường hợp này, chi phí về lễ cưới do cha mẹ vợ chịu...” Tuy nhiên, trong cuốn sách này, H. Maitre cũng không miêu tả kỹ về thiết chế mẫu hệ của người Ê-đê [78, tr.3]. Năm 1915, Sabatier đã thu thập và biên tập bộ luật tục Ê-đê (Bi duê), ghi chép một cách đầy đủ về luật tục hôn nhân, thiết chế mẫu hệ của tộc người này. Bộ luật tục này đã được dùng chính thức trong Tòa án phong tục của tỉnh Đắk Lắk một thời
  • 23. 16 gian dài. Bộ luật tục đã đề cập một cách đầy đủ về thiết chế mẫu hệ Ê-đê trong nhiều khía cạnh của cuộc sống, phản ánh vai trò quan trọng của người phụ nữ Ê-đê với tư cách là người duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ và là biểu tượng của xã hội mẫu hệ truyền thống. Hiện nay, những nội dung trong bộ luật tục này vẫn đang được thi hành ở các mức độ khác nhau tại cộng đồng người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’Gar, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, viết về người Ê-đê một cách khá hệ thống và đầy đủ phải kể tới tác giả người Pháp Anne De Hautecloque Howe (2004) với cuốn sách Người Rhađê, một xã hội mẫu quyền. Cuốn sách được dịch ra tiếng Việt là công trình đi sâu nghiên cứu, giới thiệu về cơ cấu tổ chức, các quan hệ xã hội của dân tộc Ê-đê, đặc biệt là xã hội mẫu quyền điển hình của người Ê-đê ở Tây Nguyên. Trong nghiên cứu của mình, bà đã dành một chương khảo tả khá chi tiết về kết ước hôn nhân, về các thủ tục trong hôn nhân, đời sống vợ chồng, ly hôn. Đồng thời miêu tả xã hội mẫu hệ Ê-đê qua những hoạt động của một buôn khá tỉ mỉ như đám cưới, đám tang, làm nhà, những cuộc tranh luận của người phụ nữ trong gia đình,... Những hiểu biết sâu sắc và kỹ lưỡng về người Ê-đê được tác giả trình bày đã cung cấp nguồn tư liệu quý cho các nhà nghiên cứu dân tộc học, xã hội học, vǎn hoá học, cũng là tài liệu tham khảo tốt cho những người làm công tác thực tiễn và quản lý ở địa phương trước kia cũng như hiện nay. Đây là những tư liệu có giá trị lớn về mặt khoa học giúp NCS có những hiểu biết ban đầu cụ thể về hôn nhân và chế độ mẫu hệ của người Ê-đê trong truyền thống. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu tại một buôn làng cụ thể vào thời điểm những năm 1960, trong khi hiện nay với bối cảnh mới có nhiều biến đổi kinh tế - xã hội đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. 1.1.3. Nghiên cứu của các tác giả trong nước về tộc người và hôn nhân của người Ê-đê Nghiên cứu về các dân tộc thiểu số tại chỗ ở Tây Nguyên nói chung và người Ê-đê nói riêng đã có nhiều công trình khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đề cập dưới các góc độ khác nhau. Trước năm 1975, có những tác giả và công trình
  • 24. 17 nghiên cứu đáng chú ý về các dân tộc thiểu số Tây Nguyên như: Cửu Long Giang và Toan Ánh (1974) với công trình Cao nguyên miền Thượng; Nguyễn Trắc Dĩ (1970) với công trình Các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam; Lân Đình (1969) với công trình Người Thượng dọc dãy Trường Sơn; Lê Thêm (1957) với bài viết Hôn nhân giữa đồng bào Thượng,... Nhìn chung, những tác giả trên đều giới thiệu về các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên mang tính chất đại cương, tổng quát và chưa nghiên cứu kỹ về hôn nhân của tộc người Ê-đê. Từ năm 1975, việc nghiên cứu các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói chung và tộc người Ê-đê nói riêng bắt đầu có tính hệ thống và đi sâu hơn, khối lượng các nghiên cứu tăng nhanh. Trong đó, công trình có tính khái quát và đi sâu về dân tộc Ê-đê là cuốn: Đại cương về các dân tộc Ê-đê, Mnông ở Dak Lak (1982). Đây là khảo cứu đầu tiên giới thiệu bức tranh tộc người của hai dân tộc Ê-đê và Mnông dưới các khía cạnh: đặc điểm tự nhiên, nhân chủng, tổ chức xã hội, sản xuất kinh tế, hôn nhân - gia đình. Ở phần thứ 3 của chương 1, Chu Thái Sơn đã đề cập đến văn hóa vật chất của người Ê-đê; trong chương 3, Vũ Đình Lợi đã giới thiệu khái quát về những lễ nghi - phong tục trong chu kỳ đời sống của người Ê-đê,… Đây là những tri thức quý báu cho NCS trong quá trình hệ thống hóa những đặc trưng văn hóa của tộc người Ê-đê. Trong bài viết Dấu vết hệ thống bốn hôn đẳng ở Tây Nguyên của Phan Hữu Dật (1991) giới thiệu về tục cuê nuê và giải thích tục này thông qua tìm hiểu thiết chế xã hội, hình thái hôn nhân gia đình của người Ê-đê. Kết quả nghiên cứu của ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu lịch sử hôn nhân và gia đình ở nước ta như hình thái hôn nhân, tính chất và thiết chế hôn nhân. Cuốn sách Gia đình và hôn nhân truyền thống ở các dân tộc Malayô – Polynêxia Trường Sơn - Tây Nguyên của Vũ Đình Lợi (1994) đã khắc họa những vấn đề liên quan đến phong tục tập quán, gia đình, hôn nhân truyền thống của các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo – Polynesian ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Đây là nghiên cứu chi tiết, cụ thể về hôn nhân và gia đình truyền thống trong đời sống của các tộc người theo chế độ mẫu hệ ở nước ta, khắc họa các nét phong tục truyền thống của đồng bào một cách sinh động. Nghiên cứu đã cho thấy tộc người Ê-đê là
  • 25. 18 xã hội mẫu hệ điển hình ở Tây Nguyên nói riêng và Việt Nam nói chung. Đây là nguồn tài liệu bổ ích cho NCS trong quá trình tìm hiểu về hôn nhân của người Ê-đê trước đây và hiện nay. Cuốn sách Văn hóa dân gian Ê-đê do Ngô Đức Thịnh chủ biên (1994) đã giới thiệu khá chi tiết các nghi thức liên quan đến chu kỳ đời sống của tộc người Ê-đê nói chung và về hôn nhân, gia đình nói riêng. Đây là nguồn tài liệu tham khảo bổ ích cho những nhà nghiên cứu hôn nhân gia đình nói riêng và văn hóa tộc người Ê- đê nói chung. Tuy vậy, nghiên cứu này chưa có những nội dung chi tiết về hôn nhân của người Ê-đê ở một địa bàn cụ thể. Sau năm 2000, các công trình nghiên cứu về người Ê-đê ngày càng phong phú về chủ đề và số lượng. Luận án Tiến sĩ Dân tộc học: Người phụ nữ Ê-đê trong đời sống xã hội tộc người của Thu Nhung Mlô (2001) đã phân tích sự biến đổi vai trò của người phụ nữ trong đời sống buôn làng và chỉ ra những biến đổi đang diễn ra trong lòng xã hội Ê-đê trong bước chuyển từ cổ truyền sang hiện đại. Luận án Tiến sĩ Văn hóa Ê-đê – truyền thống và biến đổi của Nguyễn Ngọc Hòa (2002) đã trình bày quá trình biến đổi của văn hóa Ê-đê từ truyền thống đến hiện đại và đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn, làm giàu và phát huy giá trị của văn hóa Ê-đê trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, tác giả chỉ tập trung hệ thống lại, trình bày những nét biến đổi của văn hóa Ê-đê mà không có những phân tích sâu về những thực hành hôn nhân hiện nay của người Ê-đê. Năm 2004, Nguyễn Thị Hạnh công bố nghiên cứu Mẫu hệ, phụ nữ Ê-đê và kinh tế hộ gia đình, công trình đã tập trung khai thác vấn đề chế độ mẫu hệ và vai trò của người phụ nữ Ê-đê trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Qua đó cung cấp những tư liệu quan trọng về vấn đề phân công lao động, quyền và vị trí của hai giới, những đặc trưng chủ yếu của xã hội mẫu hệ Ê-đê và vị thế, vai trò của phụ nữ Ê-đê trong việc phát triển hộ gia đình. Đỗ Thị Phấn (2007) với Đất Và Người Tây Nguyên là công trình tập hợp bài viết của các nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà khảo cổ... về Tây Nguyên. Các bài viết
  • 26. 19 tập trung nghiên cứu về lịch sử, văn hoá, xã hội của vùng Tây Nguyên, đặc biệt giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Trong đó, đáng chú ý có bài Gia đình mẫu hệ vùng Trường Sơn - Tây Nguyên đã phân tích và đưa ra những nhận định ban đầu về hôn nhân và gia đình mẫu hệ của các tộc người ở Tây Nguyên. Những tư liệu này đã giúp NCS có cái nhìn tổng quan về vấn đề nghiên cứu. Cuốn sách Luật tục Ê-đê (Tập quán pháp) của Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu sưu tầm và biên soạn (2012) là một nghiên cứu điển hình về luật tục của người Ê-đê. Luật tục Ê-đê là chuẩn mực xã hội, được cụ thể hóa từ hệ thống giá trị xã hội của người Ê-đê, được cộng đồng thừa nhận và có hiệu lực trong việc điều tiết xã hội, trong đó có các quan hệ gia đình. Trong cơ cấu của bộ luật tục Ê-đê có thể thấy nội dung về hôn nhân chiếm phần lớn (chương V, có 48/236 điều)1 . Qua đó cho biết tầm quan trọng của hôn nhân đối với đời sống người Ê-đê. Luật tục Ê-đê bắt nguồn từ quan niệm xã hội mẫu hệ nên những điều khoản trong luật tục Ê-đê thường hướng tới bảo vệ, củng cố thiết chế gia đình mẫu hệ. Qua các nội dung luật tục được ghi chép trong tác phẩm đã thể hiện rất rõ quan niệm của người Ê-đê: gia đình là nền tảng của xã hội. Trong bối cảnh kinh tế - xã hội của người Ê-đê hiện nay thì sự biến đổi của luật tục Ê-đê cho thấy tự nó loại bỏ những điểm lỗi thời không còn phù hợp với xã hội hiện tại. Năm 2012, Buôn Krông Tuyết Nhung công bố ấn phẩm Văn hóa mẫu hệ qua sử thi Ê-đê dưới góc độ văn hóa học. Trên cơ sở khảo sát nguyên tắc mẫu hệ được thể hiện trong đời sống xã hội tộc người Ê-đê, tác giả khảo sát một số sử thi tiêu biểu của người Ê-đê đã được biên soạn xuất bản và đang được lưu truyền trong dân gian để thấy được sự phản ánh của văn hóa mẫu hệ qua hệ thống đề tài (chiến tranh, hôn nhân), qua cốt truyện và hệ thống nữ nhân vật được đề cập trong sử thi Ê-đê. Trong phần trình bày quan hệ dòng họ, gia đình và hôn nhân, tác giả đề cập đến vai trò của dòng nữ chi phối toàn bộ gia đình, dòng họ và hôn nhân của người Ê-đê. 1 Theo nghiên cứu này, luật tục Ê-đê được chia làm 11 chương với 236 điều.
  • 27. 20 Tuy nhiên, nghiên cứu không đi sâu tìm hiểu quan niệm, nguyên tắc - hình thức kết hôn của người Ê-đê hiện nay. Cuốn sách Cộng đồng dân tộc Ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay của Hà Đình Thành (2012) tập trung khảo sát, nghiên cứu cộng đồng dân tộc Ê-đê trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội hiện nay ở Đắk Lắk, trong đó tập trung vào ba nhóm đối tượng chính là thanh niên, phụ nữ và người cao tuổi. Nội dung của cuốn sách đã đánh giá khá chi tiết và đầy đủ về đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của người Ê-đê, đồng thời đưa ra các nhận xét về những mặt tích cực, các mặt tiêu cực và những biến đổi của người Ê-đê. Từ đó, đề xuất một số giải pháp, kiến nghị bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của người Ê-đê nhằm đảm bảo khối đại đoàn kết các dân tộc, chống lại âm mưu diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Cuốn sách này là tài liệu tham khảo có giá trị đối với NCS trong quá trình tìm hiểu hôn nhân của người Ê-đê tại thời điểm hiện nay. Năm 2017, Trương Thị Hiền xuất bản cuốn Luật tục Ê-đê một nền tư pháp hòa giải những giá trị xã hội và sự biến đổi. Trong chương 2, tác giả bàn đến sự pha trộn giữa những yếu tố mang tính duy lý và các yếu tố của kiểu tư pháp Khadi trong hôn nhân và gia đình của người Ê-đê thể hiện qua những nội dung: mô hình cư trú sau hôn nhân, chế độ ngoại hôn, nhận con nuôi, ngoại tình, ly hôn, tục nối dây, thừa kế tài sản, quan hệ anh chị em, trách nhiệm bồi thường cha mẹ. Công trình nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ xã hội học cung cấp cho NCS có góc nhìn đa chiều về vấn đề hôn nhân của người Ê-đê. Tuy nhiên, trong phần liên quan tới hôn nhân, nghiên cứu này chỉ trình bày sự biến đổi trong thực hành luật pháp và luật tục trong việc xử lý tội ngoại tình, loạn luân, nơi ở sau kết hôn ở người Ê-đê nói chung. Ngoài ra, NCS đã tiếp cận một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước, cấp bộ, các luận án, luận văn, các bài tạp chí... viết về văn hóa tộc người nói chung và hôn nhân của người Ê-đê nói riêng. Có thể nhận thấy, tài liệu nghiên cứu về người Ê-đê cho đến nay đã có số lượng lớn, đa dạng, cung cấp cho NCS những hiểu biết cơ bản về tộc người này, như: văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, văn hoá vật
  • 28. 21 chất, văn học nghệ thuật dân gian, những lễ nghi – phong tục trong chu kỳ đời sống, những biến đổi kinh tế - xã hội và sự phát triển về văn hoá ở người Ê-đê trong truyền thống và hiện nay. Cùng với đó, các công trình, những bài viết của các học giả trong và ngoài nước cũng đã đề cập đến các quan niệm, nguyên tắc – hình thức, phong tục và nghi lễ hôn nhân của người Ê-đê dưới những góc độ, mức độ khác nhau. Các nghiên cứu này là nguồn tư liệu quý giá để NCS tham khảo trong quá trình thực hiện luận án này. Tuy nhiên, tác giả chưa được tiếp cận chuyên khảo nào đi sâu phân tích, nghiên cứu về hôn nhân của người Ê-đê tại một địa bàn cụ thể trong bối cảnh hiện nay. Vì vậy, nghiên cứu hôn nhân hiện nay của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn. 1.2. Cơ sở lý thuyết 1.2.1. Một số khái niệm cơ bản - Hôn nhân: Hôn nhân là bước ngoặt, là nghi thức hết sức quan trọng trong chu kỳ đời người, là tập tục không thể thiếu trong bất cứ đời sống xã hội của mỗi tộc người. Với mục đích là tái tạo, phát triển nòi giống, hôn nhân phản ánh mối quan hệ sinh học và xã hội, vật chất và tinh thần, tư tưởng và tâm lý tộc người [89, tr.3]. Từ trước đến nay có nhiều khái niệm về hôn nhân. Nhưng nhìn chung các khái niệm này ở nhiều nghiên cứu thường có những điểm tương đồng, như: hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con, cháu [2, tr.343]. Hôn nhân cũng tạo ra tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ họ hàng bên vợ và bên chồng – đó là về quan hệ xã hội [2, 306]. Hai mối quan hệ này nằm ở tâm điểm của định nghĩa về hôn nhân và sự hình thành các nhóm xã hội. Chỉ có quan hệ tính giao thì không tạo nên quan hệ với họ hàng bên vợ hay bên chồng mà hôn nhân mới thực hiện được chức năng này. Theo Emily A.Schultz và Robert H.Lavenda (2001): “Hôn nhân là một quá trình xã hội mà mô hình mẫu của nó là sự kết hợp giữa một người đàn ông với một người đàn bà, là sự kiện làm biến đổi những thành viên của nó, làm thay đổi
  • 29. 22 quan hệ giữa những người thân thuộc của mỗi bên và duy trì những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số quyền lợi và nghĩa vụ đi kèm”. Hai tác giả này cũng cho rằng: hôn nhân bao hàm một sự thay đổi trong vị trí xã hội của hai người và ảnh hưởng đến vị trí xã hội của con cháu. Một cuộc hôn nhân đòi hỏi phải có một người nam và một người nữ và quy định mức độ quan hệ tính giao với các thành viên trong hôn nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền đến quan hệ ưu tiên. Hôn nhân cũng tạo nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng [2, tr.343]. Luật Hôn nhân và Gia đình nước ta tại Điều 3 (2014) khẳng định: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Như vậy, hôn nhân là sự giao kết giữa người nam và người nữ được hợp thức hóa bởi các tập quán và luật pháp của xã hội, nhằm chung sống khác giới tính với nhau để tái sản xuất ra con người, từ đó hình thành những quyền hạn và trách nhiệm của vợ chồng trong quan hệ với nhau và con cháu của họ. Hôn nhân là một quá trình có tính xã hội, tạo nên các mối quan hệ mới giữa họ hàng người chồng và họ hàng người vợ. Các quan hệ này được gọi là quan hệ thông gia, phân biệt với quan hệ huyết thống. - Ngoại hôn dòng họ: Ngoại hôn dòng họ là thành viên của tổ chức xã hội dựa trên cơ sở mối quan hệ thân thuộc tính theo dòng huyết thống phía mẹ hay phía cha dù xa mấy đời cũng không được có quan hệ với nhau. Ở người Ê-đê, trước đây ngoại hôn dòng họ theo phía mẹ là tuyệt đối, dù có ở khác buôn hoặc cách bao nhiều đời mà cùng họ cũng không được lấy nhau. - Nội hôn tộc người: Là sự lựa chọn người đối ngẫu để kết hôn trong cùng một tộc người, được luật tục hoặc tập quán đã định rõ. - Hôn nhân khác tộc người: Là kết hôn giữa hai người khác dân tộc với nhau. - Dòng họ mẫu hệ (Matriliny/Matrilineal descent): Dòng họ mẫu hệ là loại hình dòng họ ít phổ biến hơn so với dòng họ phụ hệ, trong đó quy tắc liên kết trong dòng họ chỉ xác định quan hệ huyết thống tính theo dòng mẹ. Trong hệ thống này,
  • 30. 23 những đứa con trong mỗi thế hệ được xếp cùng nhóm thân thuộc của mẹ và phụ nữ, chứ không phải nam giới, là người truyền lại sợi dây ràng buộc về tài sản, bao gồm cả tài sản vô hình như là quyền và nghĩa vụ cho thế hệ kế tiếp. Tên họ của tổ tiên được truyền bởi những người mẹ cho con cái của họ và rồi đến lượt những đứa con gái truyền lại tên họ này cho con gái và con trai của mình. Tên họ này người con trai có thể dùng nhưng không thể để lại cho con cái của mình. Vì tên họ được xem như là tài sản tinh thần của tổ tiên của nhóm mẫu hệ. Con cái của một người con trai sẽ thừa hưởng tên họ của tổ tiên từ mẹ mình [29, tr.47]. Theo Đặng Thị Kim Oanh (2016), dòng họ mẫu hệ có những đặc trưng sau: Thứ nhất, hạt nhân của tộc họ mẫu hệ là cặp chị em gái – anh em trai, khi anh em trai đi lấy vợ sống với gia đình vợ nhưng vẫn duy trì vai trò tích cực (dường như là vai trò kiểm soát) trong đời sống dòng tộc của mình. Thứ hai, người đàn ông quan trọng nhất trong đời của một đứa con trai trong dòng họ mẫu hệ không phải là cha của nó (người không thuộc tộc họ của nó) mà là anh em trai của mẹ nó (cậu)2 . Chính từ những người cậu này (không phải từ cha nó) mà đứa bé nhận được của thừa kế của tộc họ mình. Thứ ba, quyền hành mà phụ nữ được thi hành trong dòng họ mẫu hệ là một điều chưa rõ ràng và còn nhiều tranh cãi. Một xã hội mẫu hệ không đồng nghĩa với một xã hội mẫu quyền. Tuy phụ nữ trong dòng họ mẫu hệ tương đối độc lập hơn trong dòng họ phụ hệ, nhưng dường như những người đàn ông của dòng họ (cha, anh em trai) mới là những người điều hành dòng họ, thi hành những quyền hành thường nhật [29, tr.53]. Điều này theo NCS là đúng trong xã hội người Ê-đê, họ thực hành mẫu quyền trong gia đình nhưng nam quyền ngoài xã hội. - Nghi lễ và nghi lễ hôn nhân: Nghi lễ là nghi thức và trình tự tiến hành một cuộc lễ [114, tr. 866]. Nghi lễ hôn nhân được hiểu là các nghi lễ, nghi thức diễn ra theo phong tục tập quán hoặc quy định của cộng đồng trong mỗi cuộc hôn nhân. Để tiến đến hôn nhân, mỗi người trải qua những nghi lễ nhất định theo quy định của 2 Trong những phần sau chúng tôi sẽ làm rõ vai trò của ông cậu (dam dei) trong hôn nhân của người Ê-đê
  • 31. 24 cộng đồng mà cá nhân đó là thành viên. Khi cuộc hôn nhân diễn ra đúng nghi lễ, nghĩa là cuộc hôn nhân đó được cộng đồng và tổ tiên cũng như thần linh chấp nhận. Nghi lễ hôn nhân còn bao hàm yếu tố tâm linh để đảm bảo cho cuộc hôn nhân bền vững. - Ly hôn: Theo quy định của Pháp luật Việt Nam tại khoản 14, điều 3 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án. - Phong tục: Là thói quen, tục lễ đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo. Về cơ bản, khái niệm này khá thống nhất trong các cuốn từ điển đã công bố [128, tr. 783]. 1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu Hôn nhân được tiếp cận nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, từ tự nhiên đến xã hội, từ lịch sử đến hiện tại, từ phạm vi xã hội đến cá nhân được thực hiện bởi nhiều ngành khoa học: sinh học, tâm lý học, đạo đức học, xã hội học, dân tộc học/ nhân học,… Trong phạm vi đề tài của luận án này, chúng tôi không có tham vọng bao quát hết tầm rộng lớn đó mà chủ yếu dựa vào các quan điểm dân tộc học/ nhân học về hôn nhân làm chỉ dẫn lý thuyết cho việc thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. - Lý thuyết về giao lưu tiếp biến văn hóa: Giao lưu tiếp biến văn hóa (cultural acculturation) là quá trình các cộng đồng nguời “gặp nhau” và tiếp xúc trên cơ sở “tiếp nhận” những giá trị văn hóa của nhau. Sự tiếp nhận này có vai trò như là một động lực làm cho nhiều yếu tố truyền thống trong văn hóa của họ luôn được điều chỉnh, biến đổi cho thích hợp. Theo trường phái Nhân học Anglo Saxon du nhập vào Mỹ cuối thế kỷ XIX, khái niệm về giao lưu tiếp biến văn hóa là chỉ sự tiếp xúc trực tiếp và lâu dài giữa hai nền văn hóa khác nhau, hệ quả của cuộc tiếp xúc này là sự thay đổi hay biến đổi của một số loại hình văn hóa của cả hai nền văn hóa đó. Theo các nhà Nhân học Mỹ, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa là quá trình một nền văn hóa thích nghi, ảnh hưởng từ một nền văn hóa khác bằng cách vay mượn nhiều nét đặc trưng của nền
  • 32. 25 văn hóa ấy. Vì thế sự giao lưu tiếp biến văn hóa cũng là một cơ chế khác của biến đổi văn hóa, đó là sự trao đổi của những đặc tính văn hóa nảy sinh trong quá trình các cộng đồng tiếp xúc trực tiếp và liên tục. Từ điển Nhân học do Thomas Barfield biên soạn (1997) cho rằng, tiếp biến văn hóa bao gồm các quá trình khác nhau, như: khuyếch tán, thích nghi mang tính ứng phó, các hình thái tổ chức xã hội và văn hóa khác nhau sau tiếp xúc và giải văn hóa hay phân giải văn hóa. Một loạt các điều chỉnh phát sinh, gồm việc có được sự tự trị đáng kể văn hóa, hay điển hình hơn là sự bị đồng hóa của nhóm tiếp xúc yếu hơn bởi nhóm tiếp xúc mạnh hơn và diễn ra sự hỗn dung văn hóa, nhờ đó văn hóa có thể trao đổi các yếu tố để sau đó tạo ra một văn hóa riêng [18]. Tóm lại, giao lưu tiếp biến văn hóa là quá trình mà trong đó một nền văn hóa này giao lưu, tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của một hay nhiều nền văn hóa khác, vay mượn nhiều yếu tố văn hóa và những nét đặc trưng từ các nền văn hóa khác làm biến đổi bản sắc của nền văn hóa chịu ảnh hưởng hay biến đổi chính các yếu tố văn hóa vay mượn để làm phong phú nền văn hóa chịu ảnh hưởng. Trong thế giới luôn vận động và biến đổi thì các nền văn hóa không thể tĩnh tại độc lập mà phải tiếp xúc với các nền văn hóa khác. Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa cho thấy sự biến đổi là tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng, mà trong đó quan trọng chính là văn hóa tộc người. Dưới sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập thì sự giao lưu và tiếp biến văn hóa của tộc người là không thể tránh khỏi. Áp dụng lý thuyết này vào nghiên cứu luận án, NCS nhận biết các yếu tố văn hóa truyền thống của người Ê-đê và những biểu hiện giao lưu, tiếp biến văn hóa với các tộc người cộng cư trên địa bàn. Đồng thời tìm hiểu, giải thích và làm rõ những biến đổi về đặc điểm, nguyên tắc – hình thức, quy trình và những phong tục, nghi lễ trong hôn nhân của người Ê-đê, từ đó làm rõ các yếu tố văn hóa đặc trưng của người Ê-đê cũng như khả năng thích nghi, tiếp nhận và sáng tạo văn hóa của tộc người này trong quá trình giao lưu với các tộc người khác.
  • 33. 26 - Lý thuyết chức năng: Emile Durkheim được coi là người đầu tiên xây dựng khái niệm chức năng một cách có hệ thống và áp dụng vào nghiên cứu khoa học chặt chẽ đối với đời sống xã hội. Luận điểm cơ bản của Durkheim cho rằng xã hội là một tổng thể “trong bản thân nó”, khác biệt với các bộ phận hợp thành và không thể quy giản về các bộ phận hợp thành. Việc phân tích các thành tố bộ phận có nghĩa là xem xét chúng hoàn thành những chức năng, nhu cầu, đòi hỏi cơ bản của cái toàn thể như thế nào. Xã hội có thể tồn tại trong trạng thái khỏe mạnh/bình thường hoặc là ốm yếu/bất bình thường, điều này liên quan đến “các nhu cầu mang tính chức năng”. Để tồn tại một cách mạnh khỏe hay bình thường, các hệ thống xã hội có những nhu cầu mà chúng phải được đáp ứng [18]. Truyền thống chức năng luận Durkheim được tiếp nối trong nhân học nửa đầu thế kỷ XX chủ yếu ở Anh với hai đại diện nổi bật cho hai trường phái là: Alfred R. Radcliffe-Brown – đại diện cho chức năng cấu trúc và Bronislaw Malinowski – đại diện cho chức năng tâm lý. Một trong những điểm yếu của chức năng luận khiến nó bị phê phán là ở chỗ cách phân tích chức năng dễ mang tính mục đích luận (teleology). Tính mục đích luận thể hiện ở lập luận: hệ quả của một sự kiện là nguyên nhân tạo ra sự kiện đó, mọi cái toàn thể đều có “dự định, mục đích” và nhu cầu duy trì cái toàn thể đã là nguyên nhân tạo ra sự tồn tại của các thành tố của nó. Durkheim cũng nhận thấy điểm yếu này và ông nhấn mạnh cần phân biệt rõ nguyên nhân của một hiện tượng với các mục tiêu mà hiện tượng đó phải phục vụ. Nói cách khác, Durkheim yêu cầu phân tích chức năng phải phân biệt “nguyên nhân” và “chức năng”. Tuy nhiên, như các nhà phê bình đã chỉ ra, nhiều nghiên cứu chức năng luận thường rơi vào cái bẫy mục đích luận [18]. Để khắc phục hạn chế nói trên, Radcliffe-Brown thay thế khái niệm “nhu cầu” của hệ thống bằng khái niệm “các điều kiện cần thiết để tồn tại”. Như vậy, không có những nhu cầu mang tính phổ quát mà thay vào đó là một câu hỏi mang tính thực nghiệm: các điều kiện nào cần cho sự tồn tại của một hệ thống cụ thể đang được nghiên cứu. Ông cũng nhấn mạnh các điều kiện như thế có thể là rất đa dạng. Radcliffe-Brown cho rằng, một điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của một xã hội là ở
  • 34. 27 chỗ phải có một sự liên kết tối thiểu các thành tố của nó. Khái niệm chức năng liên quan đến những quá trình duy trì sự liên kết cần thiết này. Như vậy, trong một xã hội, các đặc trưng cấu trúc có thể được xem là những đặc trưng đóng góp vào việc duy trì sự liên kết. Do đó, phân tích chức năng đối với một hiện tượng xã hội, theo Radcliffe-Brown là tìm kiếm xem nó có đóng góp gì vào việc duy trì liên kết của xã hội. Radcliffe-Brown đã thực hiện những phân tích chức năng luận trong thực nghiệm, chẳng hạn về hệ thống phân chia đất theo dòng họ (lineage system). Các hệ thống này là một cách thức điều chỉnh xung đột, duy trì sự đoàn kết xã hội [18]. Vì cách tiếp cận của Brown nhấn mạnh tới chức năng duy trì cấu trúc của các thiết chế xã hội, cách tiếp cận này thường được gọi là cách tiếp cận cấu trúc - chức năng. Tư tưởng cơ bản của chức năng luận là bất kỳ một hệ thống ổn định nào cũng bao gồm những bộ phận khác nhau nhưng liên hệ với nhau, chúng cùng nhau vận hành để tạo nên cái toàn bộ, tạo nên sự ổn định hệ thống. Sự đóng góp vào việc vận hành ổn định của hệ thống được gọi là chức năng. Các bộ phận có tầm quan trọng chức năng khác nhau đối với hệ thống [27; tr.43]. Coi văn hóa của mỗi tộc người trong tiến trình phát triển của nó luôn tạo ra một hệ thống cân bằng và ổn định. Trong đó, mỗi đơn vị cấu thành đều thực hiện một chức năng nhất định, nghĩa là để làm gì đó để cả hệ thống được tồn tại và vận hành. Triệt tiêu một yếu tố hay đơn vị nào đó sẽ làm cho toàn bộ hệ thống văn hóa tộc người đi vào suy thoái và hủy hoại. Vì vậy, tìm hiểu văn hóa tộc người phải tìm hiểu từ bên trong dưới cái nhìn thực hiện chức năng khác nhau của nó và phải luôn tôn trọng những giá trị văn hóa do các tộc người khác nhau tạo ra. Việc nhấn mạnh đến các chức năng và sự liên hệ hữu cơ của các thành tố văn hóa trong một tổng thể của một hệ thống văn hóa đã đưa lại cho các nhà nghiên cứu về cách tiếp cận tổng thể phổ biến hiện nay trong nghiên cứu văn hóa. Với cách tiếp cận này, các nhà nghiên cứu sẽ có thể hiểu được một cách đầy đủ và sâu sắc nội dung, ý nghĩa và chức năng của một thực hành văn hóa nào đó trong bối cảnh rộng nhất có thể của chúng. Chính vì vậy, khi nghiên cứu một thành tố văn hóa nào đó, chúng ta sẽ phải quan tâm đến các yếu tố tự nhiên, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
  • 35. 28 hội của cộng đồng nơi thực hành văn hóa đó được sinh ra và tồn tại. Thêm vào đó, cách tiếp cận tổng thể cũng đòi hỏi phải đặt các thành tố văn hóa mà chúng ta tìm hiểu, nghiên cứu trong mối liên hệ với những thành tố khác trong truyền thống văn hóa đó. Vận dụng lý thuyết trên vào trong quá trình nghiên cứu luận án, NCS luôn gắn chặt việc tìm hiểu văn hóa Ê-đê trong bối cảnh lịch sử hình thành và phát triển của cộng đồng tộc người, bối cảnh kinh tế - xã hội và những điều kiện địa lý ở vùng người Ê-đê cư trú. Xem văn hóa của người Ê-đê là một hệ thống mà trong đó hôn nhân là một trong những yếu tố không thể tách rời. Do đó, hôn nhân nói chung và các lĩnh vực thuộc hôn nhân nói riêng không thể đứng ngoài các thành tố văn hóa khác như tôn giáo, tín ngưỡng, đặc điểm cư trú, hoạt động sinh kế, quan hệ xã hội, đặc điểm thân tộc, dòng họ,… Và đến lượt nó, hôn nhân là một thực thể hợp thành từ nhiều yếu tố trong mối tương tác lẫn nhau. Trên cơ sở đó, luận án đi sâu phân tích làm rõ ý nghĩa chức năng của mỗi yếu tố và mức độ liên kết của các yếu tố làm nên những đặc trưng hôn nhân của người Ê-đê nói riêng và văn hóa của người Ê-đê nói chung. Khi các thành tố không còn góp phần duy trì sự ổn định của cấu trúc toàn thể thì cấu trúc ấy sẽ bị đổ vỡ, ảnh hưởng đến tính liên tục của các thực hành văn hóa của cộng đồng. Chẳng hạn, ở người Ê-đê, các nghi lễ trong chu kỳ hôn nhân đều có chức năng là nhằm đảm bảo tính chính thức – sự công nhận của cộng đồng và đảm bảo yếu tố tâm linh để duy trì một cuộc hôn nhân bền vững. Tuy nhiên, trong đời sống hiện nay, nhiều lễ tục hôn nhân bị coi là rườm rà, tốn kém không còn phù hợp với lối sống mới, cho nên để tái cân bằng đời sống, cộng đồng tất yếu phải thay đổi tập tục cũ và đi tìm các thành tố mới thay thế. Bên cạnh đó, sự suy giảm diện tích rừng dường như không liên quan đến hôn nhân nhưng lại khiến cho không gian để thực hành nghệ thuật cồng chiêng dần bị thu hẹp cũng kéo theo sự biến đổi hay biến mất nhiều lễ tục trong hôn nhân của người Ê-đê. Chính vì thế, trong phần Kết luận của luận án, nghiên cứu sinh đã vận dụng quan điểm của Radcliffe-Brown về “các điều kiện cần thiết để tồn tại” để đưa ra một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy những giá trị hôn nhân của người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk trong bối cảnh hiện nay.
  • 36. 29 1.3. Khái quát về xã Cuôr Dăng 1.3.1. Điều kiện tự nhiên Xã Cuôr Dăng nằm ở phía đông nam huyện Cư M’gar, cách thành phố Buôn Ma Thuột 17km về hướng đông. Dân cư tập trung chủ yếu ở hai bên đường quốc lộ 14 đi qua khoảng 5 km và được chia thành 6 buôn. Vị trí của xã tiếp giáp với các vùng sau (xem phụ lục 1): Phía bắc giáp xã Ea Drơng, huyện Cư M’gar, Đắk Lắk; Phía nam giáp xã Hòa Đông, huyện Krông Pač, Đắk Lắk; Phía đông giáp xã Cư Bao, thị xã Buôn Hồ, Đắk Lắk; Phía tây giáp xã Hòa Thuận, thành phố Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk. Diện tích đất tự nhiên toàn xã là 3.333 ha, trong đó: đất nông nghiêp 2.594,71 ha, chiếm 77,73% tổng diện tích đất tự nhiên; đất phi nông nghiệp 737,93 ha, chiếm 22,08% diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng 6,08 ha, chiếm 0,18% diện tích đất tự nhiên toàn xã. Đất của xã chủ yếu là loại đất đỏ bazan màu mỡ, phù hợp với nhiều loại cây trồng trong đó cây cà phê, cây cao su mang lại thu nhập chính cho người dân trên địa bàn xã. Tổng diện tích mặt nước là 437,80 ha; trong đó: 02 đập thuỷ lợi là đập Ea Khăp và đập Ea Hneh với tổng diện tích là 421,65ha đảm bảo phục vụ nước tưới hơn 300 ha diện tích cà phê và 35ha diện tích lúa nước xung quanh đập; diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 0,68 ha và sông suối là 15,67 ha [119]. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nhưng bị chi phối bởi độ cao và ảnh hưởng của địa hình cao nguyên, nên khí hậu của xã Cuôr Dăng có hai mùa rõ rệt: mùa mưa trùng với mùa hạ có khí hậu ẩm và dịu mát, mùa khô trùng với mùa thu và mùa đông có khí hậu mát lạnh, độ ẩm thấp. Nhiệt độ bình quân hàng năm là 23,5 0 C. Lượng mưa bình quân hàng năm 1.773mm [116]. Trên cơ sở tiềm năng và thế mạnh về tài nguyên, xã Cuôr Dăng có nhiều lợi thế về đưa một số giống mới cho năng suất, chất lượng cao vào sản xuất chăn nuôi, hướng tới thu hút đầu tư dịch vụ tại chợ xã Cuôr Dăng. Xã có trục đường quốc lộ 14 chạy qua với chiều dài 5 km rất thuận lợi cho vận chuyển, lưu thông hàng hóa và việc giao lưu văn hóa, trao đổi mua bán có lợi cho việc kinh doanh phát triển kinh tế
  • 37. 30 - xã hội với thành phố Buôn Ma Thuột và các vùng lân cận. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa rất tốt cho việc phát triển trồng cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su, hồ tiêu và các loại cây ngắn ngày như lúa nước, ngô cho năng suất cao. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế chính của người dân là sản xuất nông nghiệp, thương mại dịch vụ chiếm tỉ lệ không đáng kể nên quá trình phát triển kinh tế chưa chủ động, còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, một bộ phận đời sống của một bộ phận người dân còn nhiều khó khăn. 1.3.2. Đặc điểm dân cư, dân tộc, tôn giáo - Lịch sử hình thành xã: Đầu thế kỷ XX, địa bàn Cư M’gar nằm trong quận Buôn Ma Thuột. Giai đoạn 1954-1975, Cư M’gar vẫn là một bộ phận của thị xã Buôn Ma Thuột. Đến tháng 7 năm 1977, chính quyền chia huyện Buôn Hồ thành hai huyện mới là huyện Krông Búk và huyện Ea Súp, địa bàn Cư M’gar được cắt về huyện Ea Súp. Ngày 23 – 1 – 1984, tách huyện Ea Súp thành hai huyện mới là huyện Ea Súp và huyện Cư M’gar, tên huyện Cư M’gar bắt đầu có từ đó. Cùng thời điểm này, xã Cuôr Dăng (thuộc huyện Krông Búk) được tách thành 2 xã (xã Cuôr Dăng và xã Ea Drơng) thuộc huyện Cư M’gar [73, tr.183]. Về tên gọi xã Cuôr Dăng có hai quan điểm: Thứ nhất cho rằng, trong ngôn ngữ Ê-đê, Cuôr nghĩa là đầm, sình và Dăng là nước màu đen - Cuôr Dăng là đầm sình nước màu đen lớn trung tâm khu dân cư; Thứ hai cho rằng, Cuôr nghĩa là đầm, sình và Dăng là dây - Cuôr Dăng là cái đầm nước như cái dây lớn chia đôi cụm dân cư thành buôn Cuôr Dăng A và buôn Cuôr Dăng B. Cư dân tụ cư hai bên đầm nước nên gọi là Cuôr Dăng. Cả hai quan điểm trên đều có sự thống nhất đó là trong truyền thống người Ê-đê ở xã Cuôr Dăng cư trú quanh đầm nước lớn. Hiện nay, đầm Cuôr Dăng vẫn còn, tuy nhiên không còn chứa nước. Đất ở khu vực này thuộc sự quản lý của chính quyền xã (xem phụ lục 6, hình 13-14). - Dân cư, dân tộc: Trước khi có sự thống trị của thực dân Pháp, người Ê-đê đã là chủ nhân chính của xã Cuôr Dăng nói riêng và địa bàn thuộc huyện Cư M’gar nói chung [73, tr.15]. Người Việt và các dân tộc thiểu số khác đến cư trú ở Cư M’gar
  • 38. 31 vào những thời điểm khác nhau, trong các hoàn cảnh khác nhau sau đó. Những năm 1960, có một số người Việt đến sinh sống ở xã Cuôr Dăng, chủ yếu làm việc trong các đồn điền cao su. Do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên từ sau 1975 người Việt chuyển đến đông hơn, cư tụ thành một nhóm ở vị trí ngã ba gần trục đường lớn (quốc lộ 14), nay là buôn Ko Hneh. Bảng 1.1: Tổng hợp dân số theo thành phần dân tộc TT Dân tộc Tổng số toàn xã Hộ Khẩu 1 Ê-đê 2.036 9.574 2 Việt 512 1.859 3 Tày 1 4 4 Nùng 3 10 5 Thái 2 7 6 Gia rai 5 15 7 Cơ-ho 3 12 8 Hrê 2 7 9 Mnông 3 17 10 Khơ-me 2 5 Tổng 2.569 11.510 (Nguồn: UBND xã Cuôr Dăng, tháng 7/2018) Qua bảng 1.1 cho thấy, người Ê-đê trên địa bàn xã có 9.574 nhân khẩu (chiếm hơn 83,17%) dân số, còn lại 1.936 nhân khẩu (16,83%) là người Việt và các dân tộc thiểu số khác. Trên địa bàn xã có 10 tộc người cùng sinh sống, gồm: Ê-đê, Việt, Tày, Nùng, Thái, Gia-rai, Hrê, Mnông, Khơ-me, Cơ-ho. Toàn xã có 6 buôn và phân thành ba cụm dân cư chính: buôn Ko Hneh và buôn Aring, buôn Cuôr Dăng B và buôn Cuôr Dăng A, buôn Kroa B và buôn Kroa C. Các cụm dân cư sinh sống dọc hai bên đường quốc lộ 14, đường liên xã, đường giao thông nông thôn. Do dân cư trên địa bàn chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ được quy hoạch theo chính sách định canh định cư của Nhà nước nên các cụm dân cư có mức độ tập trung khá cao, một số công trình cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm đã được đầu tư xây dựng cơ bản.
  • 39. 32 - Đặc điểm tôn giáo: Hiện nay trên địa bàn xã Cuôr Dăng có 4 tôn giáo chính đang hoạt động là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành và Cao Đài. Công giáo có 478 hộ với 1984 tín đồ, sinh hoạt tại giáo xứ Thiên Đăng; Tin Lành có 498 hộ với 2238 tín đồ, sinh hoạt tại Chi hội Tin Lành Cuôr Dăng; Phật giáo có 72 tín đồ và Đạo Cao Đài có 4 tín đồ [125]. Các sinh hoạt tôn giáo diễn ra đúng pháp luật, chính quyền thực hiện nghiêm túc công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo. 1.3.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội Trong những năm gần đây, xã Cuôr Dăng có những chuyển biến tích cực và phát triển đạt mức khá cao so với những năm trước. Xã có trên 90% dân số sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi. Cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và một số hoạt động tiểu thủ công nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp, cà phê và tiêu đang trở thành hai giống cây trồng lâu năm có vai trò vượt trội. Cây trồng hàng năm tập trung vào hai loại cây lương thực chính là lúa và ngô. Thời gian qua, giá hạt tiêu tăng cao nên nhiều hộ gia đình đã trồng xen cây tiêu vào diện tích cây cà phê và vườn tạp với mật độ trung bình khoảng 250 trụ/hecta. Tính đến thời điểm cuối năm 2017, giá trị chăn nuôi chiếm khoảng 15% trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Chăn nuôi phát triển cả về số lượng và chất lượng, tổng đàn gia súc gia cầm có 17.650 con [122]; khu vực chuồng trại được đảm bảo vệ sinh môi trường và phòng dịch theo quy định. Các hoạt động thương mại, dịch vụ bước đầu phát triển phục vụ cho hoạt động sản xuất nông sản và đáp ứng nhu cầu hàng ngày của người dân. Các hộ hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ chủ yếu là người Việt sinh sống ở khu vực trung tâm xã và ven quốc lộ 14. Y tế: Những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho người dân có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng khám, chữa bệnh được nâng cao, lĩnh vực y tế dự phòng được quan tâm đúng mức. Các chương trình mục tiêu quốc gia về dân số và kế hoạch hóa gia đình được chú trọng thực hiện, công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình được duy trì thường xuyên thông qua các mạng lưới cộng tác viên tại buôn. Nhận thức của người dân, nhất là bộ phận người dân tộc thiểu số tại chỗ về chăm sóc sức khỏe được nâng lên rõ rệt.
  • 40. 33 Giáo dục: Xã Cuôr Dăng thực hiện tốt công tác vận động học sinh đến trường. Trên địa bàn xã có 4 trường học (trong đó có 1 trường trung học cơ sở, 2 trường tiểu học, 1 trường mẫu giáo). Xã được công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở đạt 100% và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc) đạt trên 95% [122]. Trong công tác dân tộc, xã Cuôr Dăng đã có sự phối hợp với phòng dân tộc của huyện thực hiện tốt các chương trình của Chính phủ về hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số theo QĐ 102/QĐ-TTg và thực hiện chính sách đối với người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo quyết định số 18/2011/QĐ-TTg. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” luôn được quan tâm cả về số lượng và chất lượng các hoạt động. Các hủ tục “lạc hậu”, tệ nạn “mê tín dị đoan” từng bước được đẩy lùi. Phong trào văn nghệ quần chúng có bước phát triển nhất định. Công tác tuyên truyền được duy trì thường xuyên với nhiều hình thức. Về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, sau 7 năm triển khai thực hiện chương trình đầu tư xây dựng nông thôn mới, diện mạo của xã đã có nhiều khởi sắc, kinh tế không ngừng phát triển, đời sống nhân dân và chất lượng cuộc sống ngày càng được cải thiện đáng kể. Kết cấu hạ tầng nông thôn, kinh tế - xã hội được đầu tư phát triển, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày càng tiến bộ, quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, hệ thống chính trị được kiện toàn vững mạnh. Đến năm 2017, xã Cuôr Dăng là một trong những xã đầu tiên của huyện Cư M’gar đạt chuẩn 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã đã khơi dậy được truyền thống đoàn kết, ý thức trách nhiệm của người dân được nâng lên. Cảnh quan môi trường nông thôn được cải thiện, đời sống người dân được nâng cao; bản sắc văn hóa được giữ gìn, phát huy. Nhìn chung, trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội tại xã Cuôr Dăng khá ổn định và cơ bản có nhiều thuận lợi. Đời sống của người dân nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ đang dần được nâng cao. Công tác dân tộc, tôn giáo được
  • 41. 34 chính quyền quan tâm đúng mức, đảm bảo quyền lợi của người dân nói chung và người Ê-đê trên địa bàn nói riêng. Tuy nhiên, địa phương vẫn còn những khó khăn, tồn tại đó là: xã Cuôr Dăng là địa bàn có dân số khá đông, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, do vậy việc tiếp cận cũng như kỹ năng ứng dụng khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật trong sản xuất còn hạn chế. Nhiều hộ dân có ít đất sản xuất, trong điều kiện diễn biến thời tiết thất thường, năng suất giảm thấp, giá cả các mặt hàng không ổn định nên thu nhập thực tế của một bộ phận người dân bị giảm. Lao động nông nghiệp chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ cao, hạn chế sự phát triển trong toàn xã. Cơ sở hạ tầng của một số buôn xuống cấp, gây khó khăn cho việc đi lại của người dân. 1.4. Ngƣời Ê-đê ở Tây Nguyên và ngƣời Ê-đê ở xã Cuôr Dăng 1.4.1. Lịch sử nguồn gốc tộc người Người Ê-đê là một trong những cư dân cư trú lâu đời ở Tây Nguyên, là một trong năm tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam (gồm Ê- đê, Chăm, Gia Rai, Raglai, Chu Ru), thuộc loại hình nhân chủng Inđonesien, có tiếng nói thuộc nhóm Malayo – Polynesian trong hệ ngôn ngữ Nam Đảo (Austronesian Language Family). Việc tìm hiểu nguồn gốc của các tộc người Mã Lai – Đa Đảo là một vấn đề khoa học lớn, đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa học về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu gần đây của các ngành Khảo cổ học, Nhân học/Dân tộc học… đã đưa đến nhận định: những người Mã Lai – Đa Đảo ở Việt Nam có nguồn gốc từ quần đảo Nam Dương di cư lên qua đường biển. Hiện có hai quan điểm chính: thứ nhất là, họ di cư thẳng từ biển vào; thứ hai cho rằng họ di cư lên Nam Trung Quốc rồi sau đó men theo biển di cư xuống miền trung Việt Nam tạo thành cư dân Nam Đảo như ngày nay. Bộ phận các dân tộc thuộc ngôn ngữ Nam Đảo tụ cư thành nhiều nhóm trên khắp địa bàn trung và nam của Trung Bộ. Chính những người này và con cháu của họ đã sáng tạo nên phức hệ văn hóa Sa Huỳnh được các
  • 42. 35 nhà khảo cổ học xếp vào thời tiền sơ sử. Lớp người này phân chia thành nhiều nhóm, dừng chân trên từng địa bàn riêng có những đặc thù về địa lý – sinh thái. Đời sống của mỗi nhóm như vậy phải thích nghi và chịu sự tác động của những yếu tố địa lý – sinh thái – nhân văn đặc thù, dần dần làm biến đổi và tạo ra những khác biệt so với ban đầu trong các yếu tố văn hóa, ngôn ngữ,… Đó là một quá trình lịch sử lâu dài, con đường phân ly của lớp người Nam Đảo ở miền Nam Đông Dương đã diễn ra để định hình những nhóm người có nét riêng trong văn hóa và hình thành tâm lý tộc người riêng. Có thể khi bước vào thời đại kim khí, thì những người Malayo - Polynesian ở miền nam Đông Dương đã hình thành 5 tộc người nói trên như ngày nay [111]. Trong cuốn Luật tục Ê-đê, khi nhận định về nguồn gốc của tộc người Ê-đê, Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn và Nguyễn Hữu Thấu (2012) cũng cùng quan điểm như trên. Để trở về với gốc tích xa xưa của dân tộc Ê-đê, nhiều nhà nghiên cứu thường hướng về cư dân cổ Sa Huỳnh, những cư dân sáng tạo nên nền văn hóa khảo cổ Sa Huỳnh nổi tiếng, trải dài suốt duyên hải Trung Bộ và vùng nội địa, hình thành nên các dạng văn hóa đồng bằng ven biển, bán sơn địa. Sau này, cùng với những chuyển biến về kinh tế - xã hội, nhất là những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ mà một bộ phận của cư dân Sa Huỳnh ven biển đã tiến sang xã hội có giai cấp, hình thành Nhà nước cổ đại Chăm Pa, người Sa Huỳnh trở thành người Chăm với nước Chăm Pa và nền văn minh Chăm nổi tiếng, còn những bộ phận cư dân miền núi và cao nguyên nằm xa vùng ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa Ấn Độ có trình độ phát triển kinh tế - xã hội thấp hơn, sau này hình thành các cộng đồng người Ê-đê, Gia rai, Chu Ru… như hiện nay. Trong quá trình lịch sử, dân cư trong các buôn làng Ê-đê có sự dịch chuyển nơi cư trú. Tuy nhiên, môi trường sinh tồn của tộc người từ xa xưa đến nay vẫn là vùng cao nguyên đất đỏ màu mỡ ở trung tâm Tây Nguyên, nằm giữa Gia Lai, Kon Tum ở phía Bắc và Lâm Đồng ở phía Nam. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng, người Ê-đê là cư dân cư trú lâu đời ở Tây Nguyên. Người Ê-đê còn có những tên gọi khác nhau như Rađê, Anăk Ê-đê, Ê-đê Êgar,