SlideShare a Scribd company logo
1 of 185
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH HÒA
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI
HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
HÀ NỘI, 2019
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ ANH HÒA
HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI
HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG
Ngành: Nhân học
Mã số: 9 31 03 02
NGỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. LÊ DUY ĐẠI
2. TS. ĐẬU TUẤN NAM
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Hôn nhân của người Tày ở vùng biên
giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng là kết quả nghiên cứu của cá nhân, với
các số liệu trung thực, nguồn tư liệu bổ trợ đều được trích dẫn đầy đủ, chính
xác.
Nếu có sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận án
Lê Anh Hòa
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tiến sĩ đề tài: Hôn nhân của người Tày ở vùng
biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được sự chỉ dạy, động viên, giúp đỡ rất nhiều từ tập thể giáo viên, TS.
Lê Duy Đại và TS. Đậu Tuấn Nam. Mỗi lời chỉ dạy của các thầy là một định
hướng để tôi hoàn thành nghiên cứu này. Vì vậy, tôi xin trân trọng được bày
tỏ lòng biết ơn đến hai thầy giáo của mình.
Bên cạnh các thầy giáo hướng dẫn trực tiếp, tôi nhận được sự chỉ dạy
tận tình, những giúp đỡ và những lời khích lệ của tập thể các giáo sư, phó
giáo sư, tiến sĩ là giảng viên Khoa Dân tộc học và Nhân học thuộc Học viện
Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhất là PGS.TS.
Phạm Quang Hoan, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh, PGS.TS. Đặng Thị Hoa,
PGS.TS. Nguyễn Song Hà. Tôi xin trân trọng cảm ơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã
tạo điều kiện cho tôi được học tập, trưởng thành trong nghề mà mình theo
đuổi. Cảm ơn các đồng nghiệp, trong đó phải kể đến PGS.TS. Phạm Văn
Dương, TS. Vi Văn An, TS. Võ Mai Phương, PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu,
những người luôn nhắc nhở, động viên tôi, đồng thời đưa ra những lời khuyên
vô cùng quý giá.
Cuối cùng và vô cùng quan trọng, tôi xin cảm ơn tới một số cán bộ
chuyên trách tại một số phòng ban của UBND huyện Phục Hòa, tỉnh Cao
Bằng và những người dân đã kể cho tôi nghe về câu chuyện hôn nhân, cuộc
sống mưu sinh, những vui buồn của họ ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN
CỨU................................................................................................................11
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..............................................................11
1.2. Cơ sở lý thuyết .........................................................................................25
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu...................................................................34
1.4. Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa .........................................40
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY TRUYỀN
THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI................................................................................50
2.1. Đặc điểm hôn nhân truyền thống .............................................................50
2.2. Những biến đổi trong hôn nhân ...............................................................77
CHƯƠNG 3. HÔN NHÂN XUYÊN BIÊN GIỚI.......................................94
3.1. Đặc điểm vùng biên giới với hôn nhân xuyên biên giới..........................94
3.2. Tình hình hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên giới huyện Phục Hòa .95
3.3. Những đặc điểm kết hôn xuyên biên giới ..............................................102
3.4. Lễ cưới của các cặp hôn nhân xuyên biên giới......................................112
3.5. Mức độ liên lạc gia đình.........................................................................115
3.6. Một số yếu tố cơ bản tác động đến hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên
.......................................................................................................................116
CHƯƠNG 4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI, GIÁ TRỊ
HÔN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.........................................121
4.1. Những yếu tố tác động đến biến đổi hôn nhân ......................................121
4.2. Giá trị của hôn nhân ...............................................................................131
4.3. Một số vấn đề đăt ra đối với hôn nhân vùng biên giới .......................137
4.4. Một số kiến nghị.....................................................................................143
KẾT LUẬN..................................................................................................147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC NGHIÊN CỨU
SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ...............149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................150
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT Chủ tịch
GS Giáo sư
NK Nhập khẩu
PGS Phó giáo sư
PL Phụ lục
Tc Tạp chí
Tr Trang
TS Tiến sĩ
UBND Uỷ ban nhân dân
USD Đô la Mỹ
VDTH Viện Dân tộc học
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Dân số các xã, thị trấn vùng biên giới huyện Phục Hòa ...................42
Bảng 2. Xuất phát của các cuộc hôn nhân (%) .............................................109
Bảng 3. Lý do chính quyết định hôn nhân (%).............................................112
Bảng 4. Tỷ trọng mức độ gặp mặt với người nhà ở Cao Bằng (% hộ).........116
Biểu đồ thống kê hôn nhân hỗn hợp tộc người ở thị trấn Tà Lùng
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là vấn đề cơ bản trong nghiên cứu nhân học, một phần quan
trọng trong đời sống xã hội gắn liền với những tập tục, nghi lễ thể hiện sắc thái
văn hóa riêng của mỗi tộc người, qua đó thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ
giới tính. Ở chiều cạnh khác,
Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về hôn nhân của các tộc người tại các
vùng miền khác nhau nhưng nghiên cứu trường hợp tại vùng biên giới Việt -
Trung, nơi đời sống kinh tế, xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các dòng chảy qua
lại hai bên biên giới gồm: “dòng chảy của hàng hóa, của tư tưởng và của con
người cũng như sự tương tác qua lại và quá trình tạo ra các ranh giới ở vùng
biên” [23, tr. 28] thì chưa nhiều.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, kinh tế phát triển nhanh chóng, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, vùng
biên giới xa xôi vốn được xem như vùng ven, vùng đệm không nằm ngoài quy
luật đó, thậm chí đôi chỗ quá trình phát triển, biến đổi còn diễn ra nhanh hơn
nhiều khu vực nằm sâu trong nội địa. Tại đây, những thay đổi đang diễn ra rõ nét
ở hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội tộc người, điển hình là giao lưu, giao thoa
văn hóa tộc người diễn ra nhanh chóng. Ở khía cạnh hôn nhân, các cuộc hôn
nhân hỗn hợp tộc người ngày càng trở nên phổ biến. Hôn nhân xuyên biên giới
giữa các tộc người ở vùng biên giới hai quốc gia đã và đang là vấn đề có thể gây
mất ổn định an ninh xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về hôn nhân vùng biên giới bên
cạnh góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người còn giải quyết được các thách
thức của cộng đồng nơi đây trên bước đường phát triển, hội nhập toàn cầu hóa
hiện nay.
2
Người Tày là tộc người thiểu số có dân số lớn nhất ở Việt Nam. Theo
Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, người Tày có 1.626.392 người, cư trú
tập trung ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng ở tỉnh Cao Bằng, người Tày cư
trú ở 12 huyện và 01 thành phố tỉnh lỵ, trong đó có 7 huyện biên giới, với dân số
207.805 người, chiếm 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam [128, tr. 151]. Họ
có chung nguồn gốc lịch sử và tương đồng văn hóa với người Nùng (Việt Nam)
và người Choang (Trung Quốc), được xem là cư dân sinh sống lâu đời ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nhưng đồng thời có quan hệ tộc người liên xuyên biên giới.
Ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, nơi có cửa khẩu quốc
tế Tà Lùng tương đối sôi động, nhờ vậy đời sống kinh tế, xã hội của người Tày
đang có những thay đổi, chuyển biến nhanh chóng. Trong đời sống thường nhật,
họ có mối quan hệ mật thiết với các tộc người cùng cư trú như người Nùng,
người Kinh (Việt Nam) và người Choang ở bên kia biên giới Trung Quốc.
Nghiên cứu về hôn nhân của người Tày tại đây bên cạnh cho thấy các đặc điểm
hôn nhân của tộc người còn thấy bức tranh về đời sống cư dân vùng biên giới
Việt – Trung nói chung, thấy được quá trình phát triển tộc người, khả năng thích
ứng, những biến đổi văn hóa và hiện trạng hôn nhân xuyên biên giới. Những vấn
đề đó là cơ sở đề xuất các chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc
người trong hôn nhân, các chính sách phát triển bền vững an ninh xã hội vùng
biên giới.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và các giá trị thực tiễn trên, NCS chọn chủ
đề Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao
Bằng làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Nghiên cứu, phân tích đặc điểm truyền thống và biến đổi hôn nhân của
người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nhằm góp phần bảo
3
lưu giá trị văn hóa tộc người, thấy được quá trình phát triển tộc người, quan hệ
tộc người trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội vùng biên đã và đang có nhiều
thay đổi.
Làm rõ xu hướng và những vấn đề đặt ra trong hôn nhân của người Tày ở
đây, nhất là vấn đề hôn nhân xuyên biên giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
phát huy các giá trị của hôn nhân trong mục tiêu bảo tồn các giá trị văn hóa tộc
người.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng và làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa khoa học, thực tiễn nghiên
cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới.
- Nghiên cứu, trình bày quan niệm, nguyên tắc, hình thức hôn nhân, các
bước trong nghi lễ hôn nhân, cư trú sau hôn nhân và hôn nhân xuyên biên giới
để thấy đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới.
- Chỉ ra những biến đổi trong hôn nhân, các yếu tố tác động, những vấn đề
và xu hướng hôn nhân, đồng thời nêu ra các giải pháp để bảo lưu, phát huy các
giá trị truyền thống trong cuộc sống đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên của luận án là hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Trong đó, đề tài chú trọng nghiên cứu các đặc điểm, những biến đổi của
hôn nhân và một khía cạnh đặc biệt khác là những người kết hôn qua biên giới
Việt - Trung (hôn nhân xuyên biên giới).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: tìm hiểu quan niệm, tập quán, các hình thức,
nghi lễ hôn nhân, những biến đổi hôn nhân truyền thống và thực trạng hôn nhân
xuyên biên giới của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
4
- Phạm vi không gian: nghiên cứu được thực hiện tại 4 xã (Triệu Ấu, Cách
Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng) và hai thị trấn (Hòa Thuận, Tà Lùng) của huyện Phục
Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đó là những địa phương có đường biên giới quốc gia giữa
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa, dân cư phần lớn là người Tày, Nùng và có mối quan hệ mật thiết với những
người đồng tộc ở bên kia biên giới.
- Phạm vi thời gian: Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới”
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giúp kinh tế đất nước phát triển
nhanh, ổn định, từ đó văn hóa, xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Nhiều nghiên
cứu về kinh tế, văn hóa, xã hội vì vậy chọn năm 1986 làm dấu mốc để so sánh sự
thay đổi các vấn đề cần nêu.
Cuộc sống của người Tày ở vùng biên giới Việt - Trung nằm trong bối
cảnh chung của đất nước nhưng có những đặc điểm riêng. Một mốc thời gian
đặc biệt quan trọng, đem đến nhiều thay đổi hơn là năm 1991, khi Việt Nam và
Trung Quốc bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm
(1979-1989). Kể từ đây, việc thông thương, qua lại biên giới hai quốc gia được
khôi phục; các sản phẩm, vật nuôi của cư dân vùng biên không chỉ được bán ở
địa phương mà còn được bán cho người Trung Quốc và ngược lại. Điều đó góp
phần không nhỏ giúp đời sống kinh tế của cư dân vùng biên khởi sắc, đem đến
những chuyển biến, thay đổi trong đời sống văn hóa, xã hội trong đó có hôn
nhân và hình thức kết hôn xuyên biên giới gia tăng. Bởi vậy, NCS chọn năm
1991 là mốc thời gian đánh dấu sự biến đổi trong hôn nhân và các khía cạnh xã
hội khác của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
5
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án, mặc dù hôn nhân được xác
định là mục tiêu nghiên cứu nhưng NCS không xem đó là một thành tố độc lập
mà được đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa, cũng như trong mối quan hệ với cộng đồng các tộc người khác
để thấy rõ những nét riêng biệt hoặc tương đồng trong hôn nhân của người Tày.
Luận án dựa vào quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận, xem xét sự vật và hiện tượng. Hôn nhân
được đặt trong bối cảnh lịch sử phát triển tộc người, cộng đồng, theo dòng thời
gian và không gian xã hội. Xem xét hôn nhân trong sự vận động, biến đổi của
tổng hòa các nhân tố từ kinh tế, chính trị, xã hội, hoàn cảnh cá nhân để lý giải
những nguyên do căn bản, cội nguồn tạo nên sự thay đổi trong hôn nhân của
người Tày ở huyện Phục Hòa hiện nay.
Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề hôn nhân như
Luật hôn nhân gia đình, Luật bình đẳng giới...; các chính sách dành cho các tộc
người thiểu số cư trú khu vực miền núi, biên giới hải đảo, chính sách bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa tộc người làm cơ sở trong đánh giá, nhìn nhận về hôn
nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa hiện nay.
Các quan điểm, tư tưởng trên là cơ sở định hướng và phát triển tư duy
nghiên cứu, giúp NCS nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, chân xác hơn các vấn đề
trong hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
6
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án thực hiện trong khoảng thời gian tương đối dài, từ năm 2012 đến
nay, nhờ vậy, các thông tin, nhận định có thêm thời gian kiểm chứng. Để có
được nguồn tư liệu và hoàn thiện luận án, NCS sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu khác nhau, gồm: điền dã dân tộc học, phương pháp chuyên gia,
phương pháp phân tích, so sánh. Trong đó, điền dã dân tộc học là phương pháp
chính cho phép có được nguồn tư liệu phản ánh chân thực, sinh động thực tiễn
vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điền dã dân tộc học
Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành Dân
tộc học, Nhân học. Ở đây, quá trình tham gia trực tiếp, hòa nhập của người
nghiên cứu vào cộng đồng nghiên cứu, với các thao tác cơ bản: quan sát tham
dự, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Trong thời gian từ năm 2012 đến nửa đầu
năm 2019, NCS đã có nhiều chuyến điền dã tại địa bàn nghiên cứu, mỗi chuyến
thường kèo dài từ một tới hai tuần. Chuyến điền dã gần nhất diễn ra vào cuối
tháng 4 năm 2019 trong thời gian một tuần. Địa bàn nghiên cứu tương đối rộng,
có 4 xã và 2 thị trấn biên giới, vì vậy, mỗi chuyến điền dã, NCS thường chỉ có
thể tìm hiểu tại 2 hoặc 3 đơn vị hành chính trong số đó. Việc lựa chọn địa điểm
nghiên cứu phụ thuộc vào dạng thông tin cần khai thác với mục tiêu cơ bản có
được đa dạng giọng nói của chủ thể, bên cạnh phản ánh hoàn cảnh, quan điểm cá
nhân về vấn đề hôn nhân còn thấy được đặc điểm chung của cộng đồng cùng cư
trú tại từng địa bàn riêng biệt. Có những chuyến điền dã chỉ đơn thuần tham dự
đám cưới của một đôi bạn trẻ. Nhìn chung, mỗi chuyến điền dã, các thao tác
nghiên cứu: phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, thảo luận nhóm đều được NCS sử
dụng.
+ Phỏng vấn sâu: giữ vai trò quan trọng nhất trong nghiên cứu này bởi nó
cho phép NCS có được đa dạng góc nhìn, quan điểm của các đối tượng nghiên
7
cứu. Đối tượng lựa chọn phỏng vấn sâu rất đa dạng, có những người làm công
tác quản lý tại cấp huyện, cấp xã và phần nhiều là dân ở các xóm/bản ở nhiều lứa
tuổi, trình độ khác nhau.
Tại cơ quan cấp huyện và xã, đối tượng phỏng vấn là các cán bộ quản lý
về kinh tế, dân tộc, văn hóa, thống kê, tư pháp, công an nhằm thu được các báo
cáo, số liệu và đánh giá về các vấn đề kinh tế, xã hội, hôn nhân và an ninh tại địa
phương. Vì vậy, tính ở cấp huyện và 06 đơn vị hành chính thuộc cấp xã, thị trấn
vùng biên, NCS phỏng vấn khoảng 30 người làm công tác quản lý. Tại các
thôn/xóm/bản của người Tày, đối tượng phỏng vấn đa dạng hơn, thường có
trưởng thôn, chi hội trưởng phụ nữ và nhiều người khác ở các lứa tuổi, giới tính,
trình độ, vị trí xã hội khác nhau, có người đã kết hôn nhiều năm và chưa kết
hôn... Đối với người dân, các câu hỏi phỏng vấn sâu dành thường xoay quanh
câu chuyện hôn nhân của họ và các thành viên trong gia đình, ở đó có quan niệm
hôn nhân, lựa chọn người kết hôn, việc thực hiện các nghi lễ hôn nhân... Số
lượng người được phỏng vấn sâu sau nhiều đợt nghiên cứu trên 100 người, trong
đó có một số người được phỏng vấn nhiều lần như ông quan lang, bà pả mẻ (ông
mối, bà mối) bởi có sự hiểu biết sâu sắc về đời sống kinh tế, xã hội của cộng
đồng và tập quán hôn nhân. Thời gian cho mỗi cuộc phỏng vấn sâu thường từ 20
phút tới 2 tiếng, một số ít trường hợp thời lượng kéo dài từ 4 đến 5 tiếng, phụ
thuộc vào mức độ hiểu biết, hấp dẫn của thông tin mà họ cung cấp.
+ Quan sát tham dự: giữ một vai trò quan trọng trong điền dã dân tộc học
nói chung. Việc đi vào từng xóm/bản, vào từng nhà, quan sát công việc đồng
áng, chăn nuôi, đi làm thuê của cư dân đã cho phép NCS cảm nhận được thực tế
cuộc sống người Tày vùng biên giới.
Luận án nghiên cứu về hôn nhân của người Tày nên NCS đặt ra mục tiêu
cần tham dự các bước nghi lễ hôn nhân từ đám dạm, đám hỏi, đám cưới của ít
nhất từ 2 đến 3 cặp đôi. Việc thực hiện không đơn giản như dự kiến ban đầu do
8
địa bàn nghiên cứu ở xa, khó thu xếp thời gian tới tham dự, các bước nghi lễ
thường cách nhau vài tuần hoặc vài tháng, không biết thời điểm diễn ra đám
cưới.... Nhờ giúp đỡ của người dân địa phương, NCS đã phần nào đạt được mục
tiêu đặt ra khi tham dự được 03 đám cưới và một số lễ ăn hỏi, lễ dạm. Trong quá
trình tham gia các nghi lễ, ngoài ghi chép chi tiết các diễn tiến của nghi lễ, NCS
sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như chụp ảnh, quay phim, ghi âm.
Nguồn tư liệu quan sát tham dự là cơ sở quan trọng để diễn giải các nghi lễ hôn
nhân, hình thành các nhận định, đánh giá dựa trên quan điểm cá nhân dù xem
trọng quan điểm của đối tượng nghiên cứu.
+ Thảo luận nhóm: có ý nghĩa quan trọng với kết quả nghiên cứu bởi cho
phép có được đa giọng nói ở cùng một thời điểm, thấy được sự đồng thuận hoặc
khác biệt trong quan điểm của những người tham gia thảo luận nhóm. Bởi vậy,
NCS mong muốn mỗi chuyến nghiên cứu điền dã có được ít nhất 3 đến 5 cuộc
thảo luận nhóm. Do điền dã nghiên cứu bằng kinh phí tự túc, kinh phí khó khăn
nên khó cho NCS chủ động đưa ra đề nghị một cuộc thảo luận nhóm từ 2 đến 5
người. May mắn, trong thời gian diễn ra các cuộc phỏng vấn sâu, nhiều trường
hợp người được phỏng vấn chủ động mời gọi người khác có hiểu biết về vấn đề
được hỏi tham gia trả lời, phần nhiều còn lại các cuộc thảo luận nhóm được hình
thành bởi sự tò mò, hiếu kỳ của những người khác rồi chủ động tham dự. Mỗi
cuộc thảo luận nhóm thường diễn ra trong khoảng 30 phút đến một tiếng. Nghiên
cứu này có khoảng 40 cuộc thảo luận nhóm.
Các cuộc thảo luận nhóm thường xoay quanh chủ đề về quan điểm hôn
nhân, lựa chọn đối tượng kết hôn, các bước tiến hành hôn nhân, tình hình kinh
tế, xã hội của địa phương...
- Phương pháp chuyên gia
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài luận án, NCS luôn chủ động
gặp gỡ, trao đổi và xin ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về hôn nhân gia
9
đình, kinh tế, xã hội của các tộc người ở Việt Nam, đặc biệt về người Tày. Qua 7
năm nghiên cứu đề tài, số lượng các lần gặp trao đổi với các chuyên gia được
thực hiện tương đối nhiều, khoảng trên 30 lần. Thời gian mỗi lần trao đổi thường
khoảng từ 30 phút đến 1 tiếng.
Ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu đã giúp NCS định hướng nghiên
cứu, có được những góc nhìn, đánh giá về hôn nhân của người Tày chính xác
hơn, thấy được mối liên hệ giữa hôn nhân với các vấn đề kinh tế, xã hội tại địa
bàn nghiên cứu và sự phát triển chung của cả nước.
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp…
Luận án dựa vào phương pháp phân tích, so sánh hoàn cảnh cá nhân, bối
cảnh kinh tế, xã hội, thời điểm kết hôn để thấy sự khác biệt về quan điểm hôn
nhân, câu chuyện hôn nhân của nhiều người khác nhau trong cùng một cộng
đồng nghiên cứu, từ đó tìm ra đặc điểm chung về hôn nhân của người Tày ở
vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Kết quả nghiên cứu của luận án bên cạnh dựa chủ yếu vào nguồn tư liệu
có được từ các chuyến điền dã nghiên cứu còn dựa vào các kết quả nghiên cứu
có trước làm cơ sở so sánh, phân tích thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa
hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng với
các địa phương khác trong nước.
5. Nguồn tư liệu luận án
- Tư liệu điền đã Dân tộc học: khảo sát thực địa tại 4 xã và 2 thị trấn vùng
biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
- Phân tích số liệu từ kết quả khảo sát tại tỉnh Cao Bằng của đề tài cấp Nhà
nước KX01-HNXBG. Mẫu khảo sát: E: 100 người Tày; E 100 người Nùng.
- Các tài liệu thứ cấp.
10
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số nghiên cứu về hôn nhân của
người Tày, nhưng đây là công trình đầu tiên thực hiện tại vùng biên giới huyện
Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh những đặc điểm tương đồng với người Tày
cư trú tại các địa phương khác, đời sống của người Tày tại đây chịu chi phối, ảnh
hưởng trực tiếp của yếu tố vùng biên giới Việt – Trung như sự giao thương qua
lại, mối quan hệ tộc người hai bên biên giới... Trong đó, nổi lên vấn đề hôn nhân
xuyên biên giới trong nhiều năm trở lại đây.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Tư liệu luận án trình bày các đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng
biên giới không chỉ góp phần nhận diện giá trị văn hóa tộc người được bảo lưu
trong hôn nhân mà còn là cơ sở để so sánh sự tương đồng, khác biệt giữa hôn
nhân của người Tày tại đây với các địa phương khác, nơi có sự khác biệt về đặc
điểm tự nhiên, xã hội...
Kết quả của luận án là cơ sở để các nhà quản lý xây dựng chính sách bảo
tồn, phát huy văn hóa tộc người, giải quyết các vấn đề tiêu cực phát sinh trong
hôn nhân nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, ổn định cho cư dân cư trú ở
khu vực biên giới Việt - Trung.
7. Cơ cấu luận án
Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội
dung chính của luận án được cơ cấu thành 04 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát
về người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng
Chương 2: Đặc điểm hôn nhân của người Tày truyền thống và biến đổi
Chương 3: Hôn nhân xuyên biên giới
Chương 4: Những yếu tố tác động đến biến đổi, giá trị hôn nhân và một số
vấn đề đặt ra
11
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU,
CƠ SỞ LÝ THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI
VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Người Tày có dân số đông nhất trong 53 tộc người thiểu số ở Việt
Nam, có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời nên thu hút được nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu.
1.1.1. Nghiên cứu về người Tày
1.1.1.1. Nghiên cứu của các học giả ngoài nước về người Tày
Vào những năm đầu của thế kỉ 20, một số học giả người Pháp đã quan
tâm và nghiên cứu về người Tày. Trước hết kể đến các công trình của học giả
nổi tiếng A. Bonifacy, như: Những nghi lễ trong tang ma của người Thổ
(1904) [8], Sưu tập truyện cổ tích Thổ trên hai bờ sông Lô (1905) [9], Khởi
nghĩa của người Tày năm 1983: ghi chép tác chiến quân đội vì sự đàn áp
(1907) [10], Tết Hồ Bồ của người Tày (1915) [11], Lòng kiên nhẫn vô biên:
truyện cổ tích Thổ (1915) [12]. Qua các bài viết, ông đưa ra một số nhận định
có giá trị tham khảo như tang lễ của người Thổ không khác gì với tang lễ của
người Việt vì người Thổ và người Việt đều tiếp thu nền văn minh Trung
Quốc; tết Hồ Bồ của người Tày gắn với nghi lễ nông nghiệp, không có kiêng
kỵ, cũng như cầu khấn Phật... Bên cạnh đó, còn có công trình của A.Biddet
(1918) về Nguồn gốc lịch sử, sự giống và khác nhau giữa người Thổ với
người Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc [7]. Trong đó, A.Biddet bàn về sự
giống nhau giữa người Thổ ở Lạng Sơn, Cao Bằng với người Choang ở
Quảng Tây (Trung Quốc) và người Kinh, người Nùng, người Thái, người
Mường (Việt Nam) trên các phương diện: tộc tính, ngôn ngữ…
12
Trong nhiều năm trở lại đây, nghiên cứu của các học giả ngoài nước về
người Tày có lẽ ngày càng phong phú nhưng dù cố gắng NCS chưa tiếp cận
được do thiếu thông tin tìm nguồn tư liệu và rào cản về ngôn ngữ, đặc biệt là
nghiên cứu của các học giả Trung Quốc được viết bằng tiếng Trung.
Vào năm 2015, tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam có 02 luận văn
thạc sĩ ngành Việt Nam học bảo vệ thành công của các học viên người Trung
Quốc tên là Cai Li Chao (Thái Lập Siêu) [17] và Qin Yu Qiao (Đàm Vũ Tiếu)
[94] nghiên cứu về tín ngưỡng và tục cưới hỏi của người Tày ở khu vực biên
giới tỉnh Cao Bằng so sánh với người Choang ở khu vực biên giới phía Nam
Quảng Tây (Trung Quốc). Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều điểm tương đồng
trong tín ngưỡng và tục cưới xin của người Tày và người Choang, góp phần
khẳng định mối liên hệ xuyên suốt lịch sử của hai tộc người này, cũng như cơ
sở xem xét các nhân tố tạo dựng các cuộc hôn nhân xuyên biên giới.
Nhìn chung, mặc dù NCS chưa tiếp cận được nhiều các nghiên của các
học giả ngoài nước về người Tày, đặc biệt ở hôn nhân nhưng những gì đã có
cơ bản giúp NCS có được thêm những góc nhìn, đánh giá quan trọng hoàn
thiện nội dung luận án.
1.1.1.2. Nghiên cứu của học giả trong nước về người Tày và hôn nhân
người Tày
Có thể khẳng định người Tày là một trong số ít tộc người được nhiều
học giả trong nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh lịch sử, văn hóa,
xã hội khác nhau, phần nào phù hợp với vai trò, vị thế và đóng góp của họ
trong lịch sử hình thành, phát triển, đấu tranh và xây dựng đất nước. Ở phần
viết này, NCS điểm nhấn một số nghiên cứu về người Tày, đặc biệt hơn với
nghiên cứu về hôn nhân.
Từ triều đại nhà Lê, nhà Nguyễn, người Tày đã được đề cập trong các
cuốn sách nổi tiếng như Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) [36]
13
và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) [24]…
Mặc dù tư liệu ở mức độ khái lược nhưng giúp thế hệ sau phần nào hiểu được
sinh hoạt văn hóa dân gian của người Tày ở Việt Nam trong các thế kỷ trước.
Sau khi đất nước thống nhất 1975, nhất là những năm gần đây, ngày
càng có nhiều học giả nghiên cứu về người Tày. Dự tính đến thời điểm hiện
tại có trên 120 đầu mục tài liệu gồm sách và tạp chí viết về người Tày, ở đó
đề cập đa dạng các vấn đề từ nguồn gốc tộc người, văn hóa vật chất, văn hóa
tinh thần, tôn giáo và văn học nghệ thuật... Chủ đề hôn nhân, gia đình, đặc
biệt phong tục cưới xin là một trong những khía cạnh đời sống thu hút quan
tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Một trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về văn hóa Tày sau năm 1975
kể đến là ấn phẩm Văn hóa Tày Nùng của các tác giả Hà Văn Thư và Lã Văn
Lô (1982) [121]. Cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh văn hóa của người
Tày, Nùng như tín ngưỡng tôn giáo, sinh đẻ, ma chay, tiếng nói, chữ viết... và
một phần nhỏ về hôn nhân. Các đặc điểm hôn nhân như tuổi kết hôn, nguyên
tắc trong quan hệ hôn nhân, các bước tiến hành hôn nhân được diễn giải cơ
bản, có thể xem như khởi đầu, đề dẫn cho các nghiên cứu hôn nhân sau này.
Giả dụ như nhận định: “hôn nhân ở vùng Tày, Nùng có tính chất mua bán...”
[121, tr. 42] được nhiều nghiên cứu tiếp nối đề cập.
Cuốn sách Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam của Viện Dân tộc học
xuất bản năm 1992 [135] góp phần đầy đủ hơn cho nghiên cứu tổng quan về
người Tày. Ở phần viết về hôn nhân, mặc dù các tác giả chỉ dành hơn 20 trang
sách trong tổng số 332 trang sách nhưng cho thấy rõ nét đặc điểm hôn nhân
của người Tày từ các nguyên tắc kết hôn, việc tìm hiểu, cư trú sau hôn nhân,
nghi lễ đám cưới... Các vấn đề được đề cập trong sách góp phần định hình cho
các nghiên cứu hôn nhân sau này nói chung và người Tày nói riêng.
14
Vào năm 1994, nghiên cứu của tác giả Đỗ Thúy Bình [6] về Hôn nhân
và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam có thể xem là nghiên
cứu đầu tiên tập trung ở khía cạnh hôn nhân và gia đình dù tập hợp 3 tộc
người cùng ngữ hệ. Ở phần nghiên cứu về hôn nhân, tác giả tìm hiểu nhiều về
Luật hôn nhân gia đình, những đánh giá đặc điểm hôn nhân được minh chứng
bằng các số liệu điều tra xã hội học. Có lẽ đây là phương cách ít người làm
với thể loại chủ đề này tại thời điểm đầu những năm 1990 nhưng có giá trị
thiết thực với những ai tiếp nối nghiên cứu về hôn nhân của người Tày trong
so sánh với người Nùng, Thái sau này.
Cùng trong năm 1994, các tác giả Hoàng Quyết, Tiến Dũng [101] xuất
bản ấn phẩm Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc. Việt Bắc là địa danh
phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao trùm nhiều tỉnh ở miền
núi phía Bắc và nay gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang,
Tuyên Quang, Thái Nguyên. Với tựa đề về phong tục tập quán, các tác giả đã
dành toàn bộ Chương II để viết Phong tục tập quán về lễ cưới và Lễ cưới. Ở
phần này, các tác giả miêu tả rõ ràng các bước chuẩn bị cho lễ cưới như tiền
bạc, lợn, tham gia phường họ bạn, giúp người khác về vật chất, tìm ướm chọn
con dâu tương lai, đưa con trai ra xã hội. Mỗi vấn đề là một câu chuyện được
kể về cách thức chuẩn bị đi cùng quan điểm xã hội đặt ra với nó. Sự phân
định rành mạch như vậy giúp người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt nội dung nghi lễ
cưới của người Tày.
Dựa trên nghiên cứu đã có, năm 1995 tác giả Triều Ân hợp tác cùng
Hoàng Quyết [2] xuất bản cuốn sách riêng về Tục cưới xin của người Tày.
Sách gồm hai phần nội dung chính: Tục cưới xin và lễ cưới và Thơ quan làng,
pả mẻ. Ở phần Tục cưới xin và lễ cưới phần nhiều được các tác giả tiếp nối và
bổ sung từ cuốn sách Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc (1994) bởi
vậy không có nhiều điểm mới trong nghiên cứu. Nhưng phần hai về Thơ quan
15
làng, pả mẻ là tư liệu rất có giá trị tham khảo trong nghiên cứu hôn nhân
người Tày. Thơ được dùng trong các tình huống đối đáp giữa ông quan làng,
bà pả mẻ là những người đại diện nhà trai và nhà gái trong ngày cưới, được
các tác giả sưu tầm tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái (Bắc Kạn,
Thái Nguyên), Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang.
Năm 1997, tác giả Nguyễn Thanh Nga [88] có bài viết về Phong tục
cưới xin cổ truyền của người Tày ở Cao Bằng, được đăng tải tại phần Tư liệu
dân tộc học trên Tạp chí Dân tộc học nên lượng thông tin, phân tích, đánh giá
khoa học không cao. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên về hôn nhân của
người Tày tại Cao Bằng, có thể dùng để so sánh thấy điểm tương đồng và
khác biệt với hôn nhân của người Tày ở nhiều địa phương khác trước đó.
Đến năm 2001, có một cuốn sách riêng về hôn nhân của người Tày ở
tỉnh Cao Bằng của các tác giả Hoàng Tuấn Nam và Bế Thanh Tuyền với tiêu
đề Việc dựng vợ gả chồng của người Tày ở Cao Bằng [86]. Các tác giả đều là
người Tày, như Hoàng Tuấn Nam (chủ biên) là người Tày ở huyện Hòa An,
tỉnh Cao Bằng nên nguồn tư liệu có tính chính xác cao khi trực tiếp viết về tộc
người và địa phương của họ. Tuy nhiên, tư liệu đơn thuần mô tả, ít phân tích,
đánh giá. Phần một quyển sách tập trung diễn giải các bước tiến hành hôn
nhân, phần hai là các bài thơ quan làng, pả mẻ sưu tập được.
Vào năm 2010, tác giả La Công Ý [140] sau 30 năm gắn bó với sự
nghiệp nghiên cứu dân tộc học đã xuất bản cuốn sách trên 400 trang về tộc
người của ông với tiêu đề Đến với người Tày và văn hóa Tày. Đây là công
trình dày dặn đề cập nhiều lĩnh vực từ nguồn gốc lịch sử tộc người, ngôn ngữ,
sinh kế truyền thống, đời sống vật chất, quan hệ hệ xã hội, văn hóa phi vật thể
và những thành tựu hiện nay. Nguồn tư liệu được đúc kết từ các nghiên cứu
có trước, quá trình nhiều năm thực tế trải nghiệm với lối viết chắc chắn đã tạo
nên tổng quan tương đối hoàn chỉnh về người Tày. Phần nghiên cứu về hôn
16
nhân và gia đình trong chỉnh thế đó được miêu tả, diễn giải chi tiết, có sự so
sánh khác biệt hôn nhân của người Tày ở các vùng khác nhau. Tuy nhiên,
nghiên cứu thiên nhiều về miêu tả lối sống truyền thống mà ít thấy hơi thở
cuộc sống đương đại.
Năm 2013, tác giả Hoàng Thị Cành [15] xuất bản cuốn sách về Tục
hôn nhân cổ của người Tày Nguyên Bình thuộc Dự án công bố, phổ biến tài
sản văn hóa, văn nghệ của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Với lối viết
mộc mạc như kể chuyện, tác giả đề cập đến quá trình tìm hiểu, không gian
tìm hiểu, mai mối, các bước tiến hành hôn nhân và đặc biệt những bài thơ
quan làng, pả mẻ được phiên âm bằng chữ quốc ngữ và viết bằng chữ nôm
Tày. Bởi huyện Nguyên Bình cùng thuộc tỉnh Cao Bằng nên sẽ rất hữu ích
để NCS so sánh, đối chiếu với hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa.
Năm 2016, người Tày có thêm một công trình nghiên cứu cơ bản về họ
của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và các cộng sự [108]. Nghiên cứu tại người
Tày tỉnh Tuyên Quang ở các khía cạnh kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa và cả
các giải pháp để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của người Tày, trong đó có
một phần viết về hôn nhân truyền thống. Ở phần nội dung này, qua những
miêu tả sinh động về quan niệm hôn nhân, nguyên tắc hôn nhân, tính chất hôn
nhân..., có thể thấy rõ sự tương đồng trong vấn đề hôn nhân giữa người Tày
Tuyên Quang với người Tày ở huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng.
Ngoài ra còn phải kể đến một số nghiên cứu của các NCS, học viên cao
học như luận án tiến sĩ của Bế Văn Hậu (2012) [51] nghiên cứu về biến đổi
văn hóa người Tày tại Lạng Sơn trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Ở đó
phân tích biến đổi về văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và xã hội, những
nguyên nhân tác động. Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Phương Nga (2017) [87]
nghiên cứu về tiếp biến văn hóa trong gia đình hỗn hợp dân tộc qua nghiên
17
cứu người Tày ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Đây là vấn đề mới mẻ,
thú vị trong nghiên cứu hiện nay nhưng thực tiễn đang diễn ra phổ biến bởi
sự gần gũi, hòa đồng giữa các tộc người cùng cư trú giúp hình thành các
gia đình đa dạng về tộc người và văn hóa. Gần đây có thêm luận văn thạc sĩ
của Hoàng Đức Trung (2018) [130] nghiên cứu về hôn nhân của người Tày
ở xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Ở đó tác giả miêu tả, diễn
giải quan niệm hôn nhân, nguyên tắc hôn nhân, tuổi kết hôn và các bước
tiến hành hôn nhân...
Nhìn chung, nghiên cứu về người Tày, đặc biệt hôn nhân của người
Tày là chủ đề liên quan trực tiếp đến luận án của NCS đã có khá nhiều, nhưng
thiên về mô tả, diễn giải và tại các nhóm người Tày cư trú trong nội tỉnh, xa
vùng biên giới. Bởi vậy, nghiên cứu này hy vọng sẽ tiếp nối được các thành
quả nghiên cứu trước, có thêm những tiếng nói của cộng đồng, người dân về
hôn nhân của họ và thấy được đặc điểm hôn nhân vùng biên giới.
1.1.2. Nghiên cứu về vùng biên và quan hệ vùng biên
Vùng biên nơi có vị trí địa lý đặc biệt với mỗi quốc gia, thường được
xem là vùng sâu, vùng xa, người dân có điều kiện kinh tế khó khăn, phát triển
chưa tương đồng với sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, các tộc
người cư trú vùng biên bên cạnh hưởng lợi, chịu tác động từ các chính sách,
tình hình chung của cả nước thì còn chịu ảnh hưởng từ các chính sách của
quốc gia liền kề và có mối quan hệ sâu sắc với các tộc người sinh sống bên
kia biên giới. Bởi các tính chất đó, nghiên cứu về một hoặc một số vấn đề
hiện tại về vùng biên giới là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, bên
cạnh giá trị khoa học, còn mang nhiều giá trị thực tiễn trong phát triển bền
vững an ninh, xã hội biên giới quốc gia.
1.1.2.1. Nghiên cứu của các học giả ngoài nước về vùng biên và quan
hệ vùng biên
18
Nghiên cứu về vùng biên giới ban đầu chủ yếu bàn về tính hợp pháp
của các đường biên giới quốc gia. Cho đến nửa sau thế kỷ XX trở lại đây,
nghiên cứu về vùng biên đang trở thành một lĩnh vực khoa học được đặc biệt
quan tâm, không chỉ ở phương pháp tiếp cận liên ngành mà còn hình thành
các trung tâm nghiên cứu, đào tạo về đường biên và vùng biên giới [23, tr.33].
Bởi sự phong phú của các tư tưởng, ấn phẩm nghiên cứu về vùng biên giới
nên ở phần tổng luận này, NCS chỉ tập trung điểm một số nghiên cứu tiêu
biểu về vùng biên giới Việt - Trung.
Trước hết kể đến các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội vùng
biên. Năm 2005, các tác giả Chu Kiện và Lưu Đông Nhiệm (Trung Quốc) với
nghiên cứu Chính sách dân tộc của Việt Nam và ảnh hưởng của chính sách
đó đến khu vực dân tộc biên giới Trung Quốc [67]. Nghiên cứu cho rằng,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới và khu vực miền núi, dân
tộc thiểu số của Việt Nam đã thúc đẩy kinh tế vùng biên phát triển. Vì thế:
“Đây là vấn đề phía Trung Quốc quan tâm, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Tây và
Vân Nam cũng nên học tập kinh nghiệm của Việt Nam, từng bước áp dụng
vào thực tế, tăng cường xây dựng khu vực biên giới Việt Trung, để khu vực
biên giới Trung Quốc nhanh chóng hưng thịnh” [67, tr.7]. Nghiên cứu này cơ
bản đứng ở một chiều đánh giá chính sách của Việt Nam với vùng biên giới
mà chưa xem xét, đánh giá chính sách “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc
thực hiện tác động tới vùng biên Trung Quốc và Việt Nam.
Một lĩnh vực thứ hai được quan tâm là quan hệ kinh tế qua lại qua biên
giới hai quốc gia Việt - Trung như luận văn thạc sĩ của Zhung Juan (2010)
(Trung Quốc) với tiêu đề Border opened up: Everyday Business in China-
Vietnam Frontier (Mở cửa biên giới:Quan hệ thương mại vùng biên giới Việt-
Trung) [152]. Ở đó, tác giả điểm lại các mốc chính trong quan hệ vùng biên
trước và sau mở cửa biên giới Việt-Trung, trong đó tập trung phân tích quan hệ
19
thương mại. Các thông tin và đánh giá về thương mại vùng biên giới Việt-Trung
mà tác giả đưa ra là một góc nhìn mới và có giá trị với nghiên cứu của chúng tôi.
Bên cạnh đó có nghiên cứu đánh giá mối quan hệ đa chiều tại vùng biên
giới hai quốc gia như nghiên cứu của Phùng Nhuận (2013) (Trung Quốc)
thuộc Đại học Dân tộc Trung ương đánh giá về Tác động văn hóa biên giới
Trung-Việt, trường hợp tỉnh Vân Nam [89]. Ông cho rằng, với vai trò thúc
đẩy của kinh tế biên mậu, biên giới Việt-Trung đã xuất hiện các tương tác
xuyên văn hóa bao gồm cư dân biên giới đi các chợ vùng biên, vượt biên để
trồng trọt, vượt biên chăn thả gia súc, hôn nhân xuyên biên giới, vượt biên
đánh bạc, cư dân biên giới tham gia lễ hội cùng đón tết, vượt biên làm thuê,
vượt biên thăm thân, tham gia các hoạt động tôn giáo bên kia biên giới. Các
dân tộc vùng biên giới Việt-Trung có cùng nguồn gốc, các thành tố văn hóa
tạo nên tương tác xã hội mang đặc thù của văn hóa xuyên biên giới. Ông chỉ
ra ba loại hình tương tác chính là tương tác cá nhân (tiêu biểu là hôn nhân
xuyên biên giới), tương tác nhóm xã hội và tương tác chính phủ. Ông lập luận
rằng kinh tế và phương tiện truyền thông phát triển nhanh, các hình thức tương
tác văn hóa vùng biên sẽ ngày càng phong phú hơn…
Một khía cạnh nghiên cứu đáng chú ý trong quan hệ cư dân hai bên biên
giới là hôn nhân xuyên biên giới được một số học giả quan tâm như nghiên cứu
của tác giả Carolin Grillot (2010) với tiêu đề Cross-Border marriages between
Vietnamese women and Chiness man: The intergration of otherness and the
inpact of popular representations (Hôn nhân xuyên biên giới giữa phụ nữ Việt
Nam và đàn ông Trung Quốc: Sự hòa hợp của khác biệt và tác động của những
phản kháng phổ biến) [145]. Nghiên cứu là kết quả sau 5 tháng điền dã của tác
giả diễn ra trong thời gian từ năm 2006 - 2009 tại Hà Khẩu (Vân Nam), Đông
Kinh (Quảng Tây) Trung Quốc và Lào Cai, Móng Cái (Quảng Ninh) Việt Nam.
Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng hai thập kỷ qua khu vực biên giới Việt - Trung
20
đã tăng hiện tượng di dân, là kết quả của việc tương tác và liên kết mạng lưới gia
đình, thương mại. Bởi vậy hình thành nên các cuộc hôn nhân xuyên biên giới,
tuy nhiên, mục đích chung (nâng cao địa vị xã hội, điều kiện sống) có vẻ không
đủ để lý giải hiện tượng đáng tranh luận này. Nền tảng của từng người trong
những cuộc phối ngẫu này bộc lộ ra một điều rằng hầu hết họ là những người bị
bỏ rơi, ngoài lề xã hội, những người không thể kết hôn và họ đến với nhau trong
hy vọng rằng hôn nhân sẽ tạo cho họ vị thế xã hội như những người bình thường.
Có thể nói, những nhận định, đánh giá của Carolin Grillot phản ánh tương đối
chính xác đặc điểm của các cặp kết hôn xuyên biên giới tại vùng biên, là cơ sở
tham khảo có ý nghĩa trong nghiên cứu này.
Cùng nghiên cứu về hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên giữa phụ nữ
Việt Nam với nam giới Trung Quốc còn có luận văn thạc sĩ của Lianling Su
(2009) [148] thuộc trường đại học Harbin Normal University. Tác giả phỏng
vấn sâu 64 cặp vợ chồng sinh sống tại vùng biên giới Trung Quốc có vợ là
người Việt Nam, chồng là người Trung Quốc để tìm hiểu lý do họ đến được
với nhau. Những phụ nữ đó hầu hết chưa được đăng ký quốc tịch Trung
Quốc. Qua đó, tác giả nhận định lý do chính phụ nữ Việt Nam lấy chồng
Trung Quốc vì muốn có cuộc sống tốt hơn, điều kiện kinh tế đầy đủ hơn, mức
sống cao hơn, có thể hỗ trợ gia đình... Ở chiều ngược lại, những người đàn
ông Trung Quốc lấy vợ Việt Nam thường có mức thu nhập thấp hơn bình
quân, trình độ học vấn thấp, khó lấy vợ Trung Quốc trong bối cảnh đất nước
Trung Quốc thiếu phụ nữ, dư thừa đàn ông... Những nhận định đó không hoàn
toàn chính xác, bởi trên thực tiễn, yếu tố kinh tế không là mục đích chính tạo
dựng nên các cuộc hôn nhân này. Tuy nhiên, tác giả đánh giá đúng khi cho
rằng, sự tương đồng văn hóa và mối liên hệ lịch sử giữa các khu vực biên giới
Trung Quốc và Việt Nam tạo điều kiện cho các cuộc hôn nhân xuyên biên
giới và sẽ tiếp diễn trong tương lai.
21
Nhìn chung, các nghiên cứu về kinh tế, xã hội, hôn nhân ở vùng biên
giới Việt - Trung của các học giả nước ngoài có nhiều ý nghĩa tham khảo cho
NCS trong quá trình viết luận án.
1.1.2.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước về vùng biên và quan
hệ vùng biên
Nghiên cứu về vùng biên ở Việt Nam trước hết hay nói cách khác một
trong những lĩnh vực quan trọng, ưu tiên hàng đầu là phát triển kinh tế vùng
biên sau những năm dài đất nước có chiến tranh và khôi phục lại quan hệ láng
giềng giữa hai quốc gia Việt Nam, Trung Quốc. Năm 1997, tác giả Hoàng
Xuân Long xuất bản công trình nghiên cứu về Lợi thế so sánh trong trao đổi
hàng hóa qua biên giới Việt-Trung [76]. Ở đó, tác giả tập trung đánh giá
những chuyển biến và những mặt mạnh của Việt Nam trong thông thương
hàng hóa qua biên giới Việt - Trung. Vào năm 2001, một công trình khác là
Buôn bán qua biên giới Việt Trung: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng của tác
giả Nguyễn Minh Hằng (chủ biên) [49] nêu việc buôn bán, thương mại qua
biên giới ở các giai đoạn, từ đầu đến cuối thế kỷ XIX, từ cuối thế kỷ XIX đến
XX và cho đến thời điểm nghiên cứu. Những năm gần đây số lượng các công
trình nghiên cứu về kinh tế vùng biên ngày càng nhiều hơn, thường được
đăng trong các tạp chí nghiên cứu về kinh tế, Trung Quốc, như bài viết của
tác giả Trần Văn Thọ (2014) [114] với tiêu đề Kinh tế biên giới Việt -Trung
trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tác giả đã đưa ra các dẫn chứng cho thấy
sức mạnh kinh tế vùng biên Trung Quốc vượt trội hơn Việt Nam ở nhiều mặt.
Vì vậy, Việt Nam cần có những chuyển biến chính sách để giúp kinh tế khu
vực này phát triển hơn nữa. Mặc dù các nghiên cứu thiên về giao thương qua
lại khu vực biên giới nhưng những thông tin cung cấp ở đó có nhiều ý nghĩa
cho NCS trong nhận định mối tương quan kinh tế và xã hội của luận án.
22
Lĩnh vực thứ hai liên quan đến vùng biên được các học giả Việt Nam
quan tâm là vấn đề chính sách của cả Việt Nam và Trung Quốc dành cho khu
vực này. Một trong cuốn sách quan trọng được hầu hết các học giả trong nước
tham khảo khi nghiên cứu về vùng biên giới là cuốn Chính sách “Hưng biên
phú dân” và quá trình thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số các tỉnh biên giới
Tây Nam Trung Quốc (2008) của tác giả Nguyễn Văn Căn [16]. Ông tìm hiểu
mục tiêu, mục đích, quá trình thực hiện, triển khai và những tác động xã hội
do chính sách quan trọng này tạo ra với cư dân vùng biên giới Trung Quốc.
Để từ đó, ông phân tích và nhìn nhận những điểm tương đồng, khác biệt của
chính sách Hưng biên phú dân (Trung Quốc) với một số chính sách đã và
đang được thực hiện ở vùng biên của Việt Nam như Chính sách 135 của
Chính phủ. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong các đánh giá tổng thể
về phát triển kinh tế - xã hội vùng biên của hai quốc gia.
Trong khoảng 10 năm gần đây, vùng biên giới trở thành chủ đề rất
được quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội Việt
Nam. Có thể dẫn chứng như hàng loạt các đề tài cấp bộ nghiên cứu về các vấn
đề vùng biên đã được các cán bộ nghiên cứu của Viện Dân tộc học, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện. Trước hết là nghiên cứu của tác giả
Đặng Thanh Phương và các cộng sự (2009) [93] có tiêu đề: Một số vấn đề bức
xúc của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Giáy trong quá trình phát triển kinh tế
vùng biên Lạng Sơn và Lào Cai. Nghiên cứu đưa ra các đánh giá về sự
chuyển biến kinh tế, xã hội vùng biên và những tác động tới những biến đổi
trong đời sống của đồng bào các dân tộc vùng biên Tày, Nùng, Giáy. Năm
2011, tác giả Vương Xuân Tình, Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học và
các cộng sự nghiên cứu về Một số vấn đề cơ bản về dân tộc dưới tác động của
sự phát triển vùng biên giới Việt-Trung (Nghiên cứu người Hà Nhì ở một làng
của tỉnh Lào Cai và một làng thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung
23
Quốc [123]. Mục tiêu triển khai nghiên cứu tại hai làng người Hà Nhì, một ở
Việt Nam, một ở Trung Quốc để thấy những đặc điểm tương đồng, khác biệt
của tộc người này tại hai quốc gia và mối liên hệ tộc người qua biên giới. Tuy
nhiên, nghiên cứu chỉ được triển khai ở người Hà Nhì, Việt Nam do không có
sự hợp tác từ phía bạn Trung Quốc. Dẫu vậy, kết quả nghiên cứu tương đối
hoàn thiện, đánh giá được đa chiều các mối quan hệ xuyên biên giới từ lĩnh
vực văn hóa tộc người, kinh tế... Cùng trong năm 2011, có một nghiên cứu
thú vị khác về vùng biên có tựa đề: Một số vấn đề cơ bản về chính sách dân
tộc vùng biên giới của hai nước Việt Nam-Trung Quốc (Trường hợp vùng Tây
Bắc Việt Nam và tỉnh Vân Nam Trung Quốc) của tác giả Trần Thị Mai Lan và
cộng sự (2011) [70]. Trong nghiên cứu này, các các tác giả đánh giá chính
sách vùng biên của Việt Nam và Trung Quốc với những điểm tương đồng và
khác biệt, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và bổ sung chính sách
vùng biên của Việt Nam như cần xây dựng các chiến lược, chính sách dân tộc
đặc biệt dành riêng cho khu vực này. Năm 2012, tác giả Lý Hành Sơn và các
cộng sự thực hiện đề tài “Một số vấn đề cơ bản về dân tộc – tôn giáo trong
phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam” [104], đánh giá thực trạng
quan hệ tộc người, tín ngưỡng tộc người, di dân tại các tỉnh biên giới. Nhìn
chung, kết quả nghiên cứu của các đề tài cho thấy cùng với sự gia tăng của
hoạt động thương mại, mối quan hệ tộc người xuyên biên giới ở nhiều chiều
cạnh ngày càng phát triển, góp phần nâng cao đời sống kinh tế của cư dân
vùng biên, đồng thời tạo ra một số vấn đề gây bất ổn xã hội và an ninh quốc
gia. Các nghiên cứu này đều đề cập đến hôn nhân xuyên biên giới và cho rằng
đây là xu hướng tất yếu bởi dựa trên mối quan hệ đồng tộc, thân tộc và hoạt
động thương mại qua biên giới nẩy sinh.
Kết quả từ các nghiên cứu vùng biên của các nhà nghiên cứu thuộc
Viện Dân tộc học trong các năm tiếp theo phần nào được chuyển thành sách.
24
Trước hết cuốn sách Một số vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội ở các vùng biên
giới Việt Nam của các tác giả Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc Thanh [35].
Nghiên cứu đề cập đến các lĩnh vực kinh tế, đói nghèo, tệ nạn xã hội ở vùng
biên giới nước ta để thấy rằng cần có các chính sách đồng bộ, phù hợp để cư
dân vùng biên phát triển bền vững. Trong hai năm 2016 và 2017, Viện Dân
tộc học đã xuất bản một bộ sách gồm 03 cuốn về quan hệ tộc người xuyên
quốc gia tại 03 vùng khác nhau: vùng núi Phía Bắc, vùng Tây Nguyên và
vùng Nam Bộ [106, 50, 124]. Các nghiên cứu đánh giá mối quan hệ tộc người
xuyên quốc gia ở một số chiều căn bản như trong hoạt động kinh tế, nguồn
gốc tộc người, thân tộc, lĩnh vực văn hóa, chính trị, các yếu tố tác động và xu
hướng... Trong đó có đề cập đến quan hệ hôn nhân xuyên biên giới. Ví dụ
trong cuốn Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở Việt Nam nghiên cứu tại vùng
núi phía Bắc, các tác giả Lý Hành Sơn, Trịnh Thị Mai Lan và cộng sự (2017)
[106] đã đưa ra các số liệu thống kê số người hôn qua biên giới của người
Nùng, Thái, Hmông và Hà Nhì cư trú tại vùng biên giới với tình trạng chung
phần nhiều kết hôn đồng tộc, không đăng ký kết hôn... Tuy nhiên, cũng theo
số liệu các tác giả chỉ ra rằng phụ nữ tại các xã giáp biên giới không hẳn kết
hôn xuyên biên nhiều hơn so với khu vực nội địa Việt Nam.
Trong các quan hệ xã hội vùng biên giới, hôn nhân xuyên biên giới
trong nhiều năm trở thành vấn đề gây bất ổn xã hội vùng biên cần được giải
quyết. Nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này do tác giả Lê Thị Hường [64] thực
hiện ở người Nùng Cháo, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Năm 2014, tác giả Lê
Thị Hường [65] tiếp tục nghiên cứu chủ đề này ở người Nùng, Thái, Hmông
tại hai tỉnh Cao Bằng và Điện Biên. Các số liệu về số người kết hôn xuyên
biên giới, tình trạng không đăng ký kết hôn và những khó khăn mà người
tham gia kết hôn gặp phải phản ánh tương đối rõ nét về thực trạng này. Trong
các năm từ 2015 đến 2016, đã có thêm một loạt các nghiên cứu liên quan hôn
25
nhân xuyên biên giới của cư dân vùng biên như của tác giả Đặng Thị Hoa [53,
54, 55, 56], Lê Ngọc Lân [71], Trần Thị Hồng [62], Trần Quý Long [77]...
Đây là kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả tham gia đề tài nghiên cứu cấp
Nhà nước “Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội ở các tỉnh miền núi
nước ta hiện nay” mã số KX02.21/11-15 thuộc Chương trình Nghiên cứu
khoa học phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam đến năm
2020 (KX.02/11-15) do Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội chủ trì thực hiện. Kết quả nghiên cứu đã được tổng hợp trong
cuốn sách Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xả hội do Chủ nhiệm đề tài
Đặng Thị Hoa đứng tên [55]. Cuốn sách đề cập thực trạng hôn nhân xuyên
biên giới tại 6 tỉnh vùng biên giáp ranh với Trung Quốc, Lào, Campuchia với
các số liệu cụ thể, phản ánh sâu rộng thực trạng hôn nhân xuyên biên giới ở
các tỉnh vùng biên giới, trong đó có Cao Bằng... Bởi vậy, nghiên cứu này là
cơ sở, tiền đề quan trọng cho nghiên cứu của luận án.
Ngoài ra còn một số công trình khác nghiên cứu về vùng biên có nhiều
giá trị tham khảo cho luận án này như của các tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình
[4], Trần Hồng Hạnh [48], Đinh Quang Hải [45, 46]... Các nghiên cứu nhìn
chung tạo nên một bức tranh tổng thể về kinh tế, xã hội và cả hôn nhân của cư
dân ở vùng biên giới, tuy nhiên ở phạm vi rộng. Bởi vậy, nghiên cứu này sẽ
nghiên cứu hôn nhân của cư dân vùng biên giới tại một địa bàn hẹp là vùng
biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, làm nên một một mảnh ghép nhỏ
trong bức tranh chung về hôn nhân vùng biên giới.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm
- Hôn nhân
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Hôn nhân là thể chế xã hội kèm
theo những nghi thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều người
26
thuộc hai giới khác nhau (nam, nữ), được coi là chồng và vợ, quy định mối
quan hệ trách nhiệm giữa họ với nhau và giữa họ với con cái của họ”. Ở đây,
“thể chế” được hiểu là những quy tắc xã hội chính thức, những quy định xã
hội không chính thức hay những nhận thức chung của xã hội mà các cá nhân
tham gia kết hôn cần phải tuân thủ. Sự tuân thủ các thể chế (như độ tuổi kết
hôn, môn đăng họ đối, hình thức kết hôn, thủ tục kết hôn theo quy định hiện
hành…) cùng với các nghi lễ, tục lệ là điều kiện xác nhận quan hệ tính giao
của một cặp đôi nam nữ. Ngoài ra, theo định nghĩa này thì hôn nhân quy định
trách nhiệm của những người tham gia kết hôn với con cái [60: tr 389].
Nhìn nhận theo giai đoạn thay đổi vị thế xã hội, Emily A.Schult và
Robert H.Lavenda cho rằng, hôn nhân là một quá trình xã hội với mô hình là
sự kết hợp giữa một người đàn ông với một người đàn bà, từ đó làm thay đổi
mối quan hệ giữa những người thân thuộc ở mỗi bên và duy trì những khuôn
mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số nghĩa vụ và quyền lợi đi
kèm [38, tr. 342].
Ở góc độ pháp luật, quan niệm hôn nhân được xem xét ở sau giai đoạn
kết hôn: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” [89].
Các quan hệ này dựa trên cơ sở giao tiếp giữa hai vợ chồng, với các khía cạnh
về ngôn ngữ giao tiếp, môi trường giao tiếp, thái độ giao tiếp, mục đích giao
tiếp, trách nhiệm con cái…
+ Nội hôn tộc người: là nguyên tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc
hay cùng một nhóm địa phương với mình.
+ Hôn nhân một vợ một chồng: là hình thức hôn nhân giữa một người
vợ và một người chồng vào một thời điểm nhất định. Luật Hôn nhân và gia
đình qui định rõ tại mục 1 của Điều 2 về Những nguyên tắc cơ bản của chế
độ hôn nhân và gia đình là Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng, vợ chồng bình đẳng
27
+ Hôn nhân hỗn hợp (mixed marriage): là hôn nhân giữa vợ và chồng
thuộc hai nhóm quốc tịch, dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo khác nhau. Theo
đó ở luận án này, “hôn nhân hỗn hợp” được hiểu là cặp hôn nhân giữa vợ và
chồng thuộc hai nhóm tộc người khác nhau sau kết hôn. Ví dụ, chồng là
người Tày lấy vợ là người Nùng, Kinh hoặc ngược lại. Sự khác biệt về quốc
gia trong hôn nhân ở luận án này sẽ được dùng bằng thuật ngữ hôn nhân
xuyên biên giới hay phụ nữ vùng biên kết hôn với chồng Trung Quốc.
+ Hôn nhân có yếu tố nước ngoài: là thuật ngữ được dùng phổ biến và
chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Luật Hôn
nhân và gia đình. Tại Khoản 14, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
có ghi: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham
gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan
hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Hình thức hôn nhân này rõ ràng nhấn
mạnh các yếu tố pháp lý trong quan hệ hôn nhân giữa người Việt Nam với
người nước ngoài.
+ Hôn nhân xuyên quốc gia (cross-national marriage): là hình thức hôn
nhân mà một bên sẽ di cư đến và phải thích nghi với một nền văn hóa mới
khác biệt với nền văn hóa của họ và phải hòa nhập về kinh tế và văn hóa vào
một cộng đồng mới chưa có sẵn gồm những người có cùng nền văn hóa với
họ ở đó” [55, tr. 24].
+ Hôn nhân xuyên biên giới (cross - border mariage): có nhiều cách
hiểu về thuật ngữ này và vào năm 2010 trong nghiên cứu của mình, Lucy
Williams đưa ra những yếu tố để phân định hai hình thái hôn nhân xuyên
quốc gia là cross-border marriage và transnational marrigage.
28
Cross-border marriage là hôn nhân giữa các nhóm tộc người và văn hóa
khác nhau ở vùng cận biên giữa các nước, với đặc trưng là ít hiểu biết về lối
sống và văn hóa của nhau.
Transnational marriage là mối quan hệ hôn nhân nằm trong một cộng
đồng nội khối nào đó nhưng vượt qua biên giới quốc gia, ở đó có sự khác biệt
về lối sống và niềm tin nhưng có sự hiểu biết lẫn nhau. Từ đó, ông đưa ra
cách tiếp cận nghiên cứu theo hai hướng khác nhau ở mỗi nhóm thuộc cross-
border marriage hay transnational marrigage [149, tr. 120].
Ở Việt Nam, thuật ngữ “hôn nhân xuyên biên giới” được sử dụng tương
đối phổ biến trong các nghiên cứu về hôn nhân qua lại giữa các tộc người,
cộng đồng ở hai quốc gia có chung đường biên giới. Các tộc người đó có thể
là đồng tộc hoặc khác tộc người, có chung đặc điểm văn hóa hoặc khác biệt
về văn hóa. “Hôn nhân xuyên biên giới là các cuộc hôn nhân giữa những
người ở các quốc gia có chung đường biên giới và đặc biệt là các cuộc hôn
nhân ở vùng biên giới” [55, tr. 59].
Dẫu còn nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm thuật ngữ “hôn nhân
xuyên biên giới” nhưng thuật ngữ đã dần trở nên quen thuộc và được sử dụng
nhiều trong các nghiên cứu hôn nhân giữa các tộc người ở vùng biên với
người ở bên kia biên giới. Bởi vậy, trong luận án này, chúng tôi sẽ sử dụng
thuật ngữ “hôn nhân xuyên biên giới” để chỉ mối quan hệ hôn nhân giữa các
tộc người ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng với người ở bên
kia biên giới Trung Quốc.
+ Hôn nhân vùng biên giới: dùng để chỉ phạm vi không gian xã hội là
vùng biên giới, nơi người người tham gia kết hôn lớn lên, trưởng thành cho
đến khi kết hôn hoặc người từ địa phương khác đến sinh sống và kết hôn
tại đây.
- Biên giới quốc gia
29
Theo Luật biên giới Quốc gia, Điều 1 quy định: “Biên giới quốc gia của
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo
đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong
đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [96, tr. 3]. Biên giới quốc gia trên
đất liền được xác định bằng hệ thống mốc quốc giới.
- Khu vực biên giới:
“Khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bao gồm các xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp
với đường biên giới quốc gia trên đất liền. Hoạt động trong khu vực biên giới
trên đất liền bao gồm: Cư trú, đi lại, sản xuất, kinh doanh; thăm dò, khai thác
tài nguyên; xây dựng các công trình, thực hiện các dự án và các hoạt động
khác có liên quan đến xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an
ninh, trật tự, an toàn xã hội trong khu vực biên giới đất liền” [22].
- Vùng biên giới:
Theo Quyết định 1151/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng
vùng biên giới Việt – Trung đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, vùng
biên giới được xác định là khu vực hành chính cấp huyện tiếp giáp với đường
biên giới.
Theo cách phân định như vậy thì huyện Phục Hòa được gọi là huyện
vùng biên; tỉnh Cao Bằng được gọi là tỉnh vùng biên. Hai thị trấn và 04 xã
của huyện Phục Hòa có ranh giới là đường biên giới quốc gia (địa bàn nghiên
cứu của luận án) được gọi là các xã, thị trấn khu vực biên giới của huyện
Phục Hòa. Tuy nhiên, người dân địa phương còn thường gọi là các xã, thị trấn
vùng biên của huyện, tương đồng với tên gọi của luận án.
30
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
Luận án sử dụng một lý thuyết làm cơ sở tiếp cận, phân tích và giải
quyết các vấn đề nghiên cứu, gồm: Lý thuyết sự lựa chọn duy lý, lý thuyết về
giao lưu và tiếp biến văn hóa và lý thuyết vùng văn hóa.
- Lý thuyết lựa chọn duy lý (Rational choice theory)
Cách tiếp cận theo lý thuyết lựa chọn duy lý (Rational Choice Theory)
từ lâu đã là mô hình chi phối trong kinh tế học, nhưng trong những thập kỷ
gần đây, nó đã được sử dụng rộng rãi hơn trong các ngành khác như Xã hội
học, Khoa học Chính trị và Nhân học… Lý thuyết lựa chọn duy lý là cách tiếp
cận được sử dụng để hiểu hành vi của con người, bắt đầu bằng việc xem xét
hành vi lựa chọn của cá nhân. Lý thuyết này cho rằng hành động của con
người luôn có chủ đích nhằm tối đa hóa lợi ích. Thuyết lựa chọn duy lý đòi
hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong bối cảnh kinh tế - xã
hội nhất định và trong mối liên hệ với hệ thống xã hội và các cá nhân khác.
Trong lĩnh vực nhân học văn hóa và xã hội thì việc ứng dụng lý thuyết lựa
chọn duy lý vẫn còn khá ít ỏi, bắt đầu từ các nhà nhân học kinh tế. Trong
công trình khảo luận về quà tặng xuất bản năm 1925, Marcel Mauss cho rằng,
quan hệ trao đổi là một quan hệ quyền lực, trong đó người nhận quà thường
tìm cách trao lại món quà khác có giá trị tương đương với mong muốn thoát
khỏi sự ràng buộc. Trong tác phẩm “Định chế Tôtem hiện nay”[72], Lévi-
Strauss đã đưa ra nguyên lý trao đổi trong hôn nhân để lý giải tục lệ cấm hôn
nhân nội tộc. Ông cho rằng, tục lệ này nảy sinh trên cơ sở coi hôn nhân là việc
xây dựng mạng lưới và hình thành quan hệ xã hội với bên ngoài làm cơ sở
cho việc bảo đảm hòa bình và mang lại lợi ích cho cá nhân và cộng đồng.
Lựa chọn kết hôn là thuộc về quyền quyết định cá nhân trong lựa chọn
bạn đời. Dựa trên các quan điểm cá nhân để có lý do lựa chọn hợp lý để thể hiện
rõ mục đích kết hôn. Do vậy, NCS chọn lý thuyết Lựa chọn duy lý để lý giải các
31
quan niệm và hành vi trong hôn nhân. Do để thấy rõ hơn mục đích sự lựa chọn
trong hôn nhân của người Tày vùng biên, trong đó tập trung vào tính kết hợp
(tạo mạng lưới) và tính trao đổi giá trị kinh tế của hôn nhân.
- Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa
Giao lưu và tiếp biến văn hóa (acculturation) được các nhà dân tộc học
Pháp và phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX chỉ quá trình thay đổi văn hóa
xẩy ra khi các cá nhân từ các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và liên tục.
Sự tiếp xúc này dẫn đến những thay đổi ở cả hai cá nhân (thái độ, giá trị,
niềm tin và bản sắc) cũng như cấp độ nhóm (hệ thống văn hóa và xã hội). Các cá
nhân có nền văn hóa khác biệt cố gắng hòa mình vào nền văn hóa phổ biển hơn
bằng cách tham gia vào các hoạt động văn hóa mới nhưng vẫn giữ truyền thống
văn hóa ban đầu của họ.
Những ảnh hưởng của giao lưu tiếp biến văn hóa có thể được nhìn thấy ở
nhiều cấp độ, ở những người sở hữu văn hóa gốc và những người đang cố gắng
hòa nhập. Ở cấp độ cộng đồng, giao lưu tiếp biến văn hóa dẫn đến thay đổi về
văn hóa như hành vi thực hành tôn giáo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và tổ
chức xã hội, không ngoại trừ cả trang phục và ngôn ngữ. Ở cấp độ cá nhân, giao
lưu và tiếp biến văn hóa dẫn đến sự pha trộn các giá trị về phong tục, chuẩn mực,
hành vi. Quá trình tiếp biến này thông thường diễn ra trong một vài thế hệ, có thể
thông qua áp lực xã hội.
Quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra theo các bước: khuếch tán, thích nghi
mang tính ứng phó, tái tổ chức xã hội văn hóa, tiếp xúc và phân giải văn hóa.
Các hình thức nổi bật của quá trình tích lũy bao gồm các yếu tố tiền đề (điều
kiện tích lũy), các chiến lược (định hướng tích lũy) và kết quả của sự tiếp biến.
Điều kiện tích lũy là các yếu tố cấp độ cá nhân và cấp độ nhóm, chẳng hạn như
các đặc điểm của xã hội tiếp nhận (như sự phân biệt đối xử nhận thức hoặc
khách quan), đặc điểm của xã hội gốc (như bối cảnh chính trị), đặc điểm của
32
nhóm người nhập cư (như sức sống tộc người) và đặc điểm cá nhân (như kỳ
vọng, chuẩn mực và tính cách). Những đặc điểm này xác định bối cảnh ảnh
hưởng đến quá trình tích lũy.
Trong nghiên cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới, lý thuyết
giao lưu và tiếp biến văn hóa là công cụ xem xét, đánh giá những thay đổi về
quan điểm, hành vi, thái độ ứng xử cũng như tính bảo lưu giá trị văn hóa truyền
thống của các cá nhân, cộng đồng tộc người khi tiếp xúc với một văn hóa mới
khác biệt. Từ đó hình thành sự tiếp biến văn hóa và một giá trị văn hóa mới
chung nhất được định hình.
- Lý thuyết vùng văn hóa
Với sự ra đời của Lý thuyết “vùng văn hóa” trong nhân học Mỹ là một
bước đột phá ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một mặt, lý thuyết này
chống lại quan điểm tiến hóa của L.Morgan và E.Taylor, mặt khác, nó cũng
phê phán những quan điểm “vòng văn hóa”, “khuyến tán văn hóa” cực đoan
của các nhà nghiên cứu Tây Âu. Trên cơ sở nghiên cứu khá tường tận về
người da đỏ châu Mỹ, các nhà nhân học Mỹ đã đưa ra lý thuyết “vùng văn
hóa”, “loại hình văn hóa” và "trung tâm văn hóa" mà đại diện tiêu biểu là
C.L.Wisler. Ông cho rằng, nghiên cứu cácvùng văn hóa nhất thiết phải bắt
đầu từ việc phân tích một tổ hợp các yếu tố văn hóa, rằng không thể nhìn
nhận riêng rẽ từng yếu tố một, chúng hợp thành một thể thống nhất không thể
chia cắt, và đó chính là kết quả của quá trình lâu dài nhóm dân cư ấy thích
ứng với những điều kiện của môi trường sinh thái. Đây là một bước tiến mới
mang tính lý luận và phương pháp nghiên cứu về vùng văn hóa.
Các nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết đã kế thừa trên bình diện
rộng lớn hơn, đã bàn tới vấn đề nghiên cứu liên văn hóa. Từ những năm 30
của thế kỷ XX, trong một số công trình của S.P.Tônxtop và A.M.Dôlôrarep
đã đề cập đến vấn đề không gian địa lý của các hiện tượng văn hóa. Đây là
33
tiền đề cho sự xuất hiện lý thuyết về “Loại hình kinh tế - văn hóa” và “Khu
vực văn hóa - lịch sử” (còn gọi là khu vực lịch sử - dân tộc học hay vùng
văn hóa - lịch sử) [129].
Với việc đưa ra khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa (loại hình kinh tế
- xã hội) của các nhà dân tộc học Xô Viết để giải thích hiện tượng tương đồng
và khác biệt văn hóa kể trên, loại hình kinh tế - văn hóa được hiểu: “Đó là
một tổng thể các đặc điểm kinh tế và văn hóa hình thành trong quá trình lịch
sử của các dân tộc khác nhau, cùng ở một trình độ phát triển kinh tế - xã hội
và sinh sống trong môi trường địa lý tự nhiên như nhau” [129, tr. 49].
Để bao quát việc nhận thức các hiện tượng tương đồng và khác biệt văn
hóa giữa các vùng và các dân tộc, các nhà dân tộc học Xô Viết không chỉ sử
dụng khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa mà còn dùng cả khái niệm “vùng
văn hóa - lịch sử” (vùng lịch sử - văn hóa): Vùng văn hóa - lịch sử (vùng lịch
sử - dân tộc học hay gọi tắt là vùng văn hóa) là một vùng mà ở đó sinh sống
những tộc người. Trong quá trình lịch sử lâu dài, giữa họ có những giao lưu,
ảnh hưởng khăng khít với nhau, từ đó hình thành nên những yếu tố văn hóa
chung thể hiện trong văn hóa vậtchất cũng như văn hóa tinh thần [129, tr. 57].
Đặc trưng văn hóa của vùng là những yếu tố văn hóa gắn bó hữu cơ với
nhau thể hiện rõ trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Đối với các dân
tộc còn ở trình độ tiền công nghiệp thì văn hóa dân gian (folklore) thể hiện rõ
nét và cơ bản những sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng văn hóa - lịch sử.
Phạm vi không gian văn hóa lớn hơn vùng là miền hay khu vực. Cấp
bậc hẹp hơn vùng là tiểu vùng. Dưới vùng và tiểu vùng còn có thể phân ra
nhỏ hơn nữa tùy thuộc vào thực tế mỗi vùng văn hóa - lịch sử. Trong thực tế,
khi phân cấp các vùng văn hóa - lịch sử, phạm vi các vùng càng nhỏ, thì khả
năng trùng hợp càng lớn hơn. Sự khác biệt giữa loại hình kinh tế - văn hóa và
vùng văn hóa - lịch sử cũng được phân biệt rõ ràng. Nếu vùng văn hóa - lịch
34
sử là một không gian địa lý liên tục, liền khoảnh thì loại hình kinh tế - văn
hóa có thể bao gồm trong đó nhiều vùngđất thuộc những vùng địa lý và đại
lục khác nhau [117].
Khi áp dụng vào thực tiễn Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và
khuynh hướng khác nhau về không gian văn hóa ở các nước châu Âu, ở Mỹ
và Liên Xô (cũ), Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra khái niệm vùng văn hóa (hay
vùng văn hóa - lịch sử), trong mỗi vùng văn hóa lại có các tiểu vùng văn hóa.
Như vậy, vùng biên giới Phục Hòa được xem là một tiểu vùng văn hóa.
Việc vận dụng lý thuyết vùng văn hóa giúp tác giả luận án thấy tính đặc thù
trong hôn nhân được định hình bởi văn hóa riêng biệt, độc lập ở vùng biên
giới so với các khu vực xa biên giới.
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu
1.3.1. Huyện Phục Hòa
Phục Hòa là tên gọi có từ xa xưa, gắn với thành Phục Hòa, nay là trung
tâm chợ Phục Hòa. Thành Phục Hòa tương truyền được xây cùng thời với
thành Nà Lữ (Hòa An), thành Đại La (Hà Nội) và thành Lạng Sơn (tỉnh Lạng
Sơn), khoảng năm 864. Vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn, Gia Long (1802)
tỉnh Cao Bằng lúc này được phân thành 4 châu gồm: Thạch Lâm, Quảng
Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang với 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, phố, trại,
động. Phục Hòa là một trong 14 tổng thuộc Châu Thạch Lâm và được chia
thành 11 xã nhỏ, trong đó có xã Phục Hòa. Xã Cách Linh thuộc huyện Phục
Hòa ngày nay khi đó thuộc Cách Linh. Đến năm 1835, Minh Mệnh thứ 16,
Châu Thạch Lâm lại chia thành Thạch Lâm và Thạch An.
Đến thời vua Tự Đức (1848-1883), tỉnh Cao Bằng có một phủ Trùng
Khánh và 5 huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ
Lang. Đến thời Đồng Khánh (1886-1888), tổng Phục Hòa thuộc huyện Thạch
35
An với 6 xã, phố, trại là: xã Phục Hòa, xã Bút Phong, xã Xuân Quang, xã
Tiên Giao, phố Bằng Lâu và trại Can Kham [100, tr. 663].
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ Hòa An,
8 châu (Bảo Lạc, Hà Quảng, Hạ Lang, Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên,
Thạch An và Thượng Lang) và 33 tổng. Trong đó châu Phục Hòa gồm 2 tổng:
Phục Hòa (9 xã) và Cách Linh (8 xã).
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, châu Phục Hòa đổi thành huyện
Phục Hòa, gồm các xã: Hồng Đại, Triệu Ẩu, Cách Linh, Lương Thiện, Tiên
Thành, Đà Sơn, Đại Tiến, Mỹ Hưng và Tà Lùng.
Do nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và theo
chủ trương của Đảng, Nhà nước, tháng 5/1967, hai huyện Phục Hòa và
Quảng Uyên được sáp nhập thành một đơn vị hành chính gọi là Quảng
Hòa. Đến ngày 13/12/2001, Chính phủ có Nghị định số 96/2001/NĐ-CP về
việc chia huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng thành hai huyện Phục Hòa và
Quảng Uyên. Lúc này huyện Phục Hòa có 8 xã và 1 thị trấn cửa khẩu.
Ngày 13/12/2007, Chính phủ có Nghị định số 183/2007/NĐ-CP thành lập
thị trấn Hòa Thuận thuộc huyện Phục Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và
nhân khẩu của xã Hòa Thuận.
Hiện nay, huyện có 9 đơn vị hành chính, gồm 7 xã và 2 thị trấn, trong
đó có 4 xã và 2 thị trấn có có ranh giới là đường biên giới quốc gia giáp với
huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, với tổng chiều dài đường
biên giới là 21km. Các địa bàn thuộc vùng biên giới gồm: thị trấn Tà Lùng,
Hòa Thuận và các xã Triệu Ẩu, Cách Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng là địa bàn
nghiên cứu của luận án này.
1.3.2. Điều kiện tự nhiên huyện Phục Hòa
Huyện Phục Hòa có diện tích tự nhiên là 251,1284 km2
, nằm ở phía
Đông Nam của tỉnh Cao Bằng, phía Bắc giáp huyện Quảng Uyên; phía Đông
36
giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc; phía Tây Nam giáp huyện Thạch An,
Hòa An, là điểm cuối của quốc lộ 3, giao thông đi lại thuận lợi. Địa hình
huyện Phục Hòa chia thành 3 khu vực tương đối rõ nét, gồm địa hình núi đá,
địa hình núi đất và địa hình đồi núi thấp. Ở các vùng núi có địa hình phức tạp,
bao gồm các dãy núi đá vôi, với các đỉnh nhọn như tai mèo, gồ ghề lởm
chởm. Ở các vùng núi thấp, đất đồi có địa hình lượn sóng hoặc bậc thang do
quá trình cải tạo, khai phá của con người. Dưới chân những dãy núi là những
thung lũng, cánh đồng nhỏ, tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho canh tác
nông nghiệp. Đó là những cánh đồng lúa ở các bản thuộc trung tâm các xã
như Tiên Thành, Tục Mỹ (Mỹ Hưng), Bản Riềng, Bản Pò (Cách Linh), Nà
Suối (Hồng Đại), bản Chàm (trung tâm thị trấn Hòa Thuận), bản Co, Nà Lòa,
Nà Vải (Triệu Ẩu)…
Ở huyện Phục Hòa, mỗi năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông nhưng do
ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vị trí nằm sâu trong lục địa nên sự
phân định giữa các mùa không rõ rệt, cơ bản có hai mùa: mùa mưa và mùa
khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9 hằng năm, nhiệt độ trung
bình 25o
c với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có lúc gây ra lũ lụt. Mùa khô từ
tháng 10 tới tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình 12o
c đến 15o
c, có năm rét
dưới 0o
c, rét đậm, rét hại khiến vật nuôi chết hàng loạt.
Hệ thống sông ngòi của huyện tương đối phong phú với ba con sông
lớn: sông Bằng Giang, sông Bắc Vọng và sông Vi Vọng, ngoài ra còn các
nhánh nhỏ đi đều đến các xã và thị trấn. Các con sông đều bắt nguồn từ biên
giới Việt - Trung, chảy trên địa bàn huyện Phục Hòa rồi chảy sang Trung
Quốc, đồng thời trở thành ranh giới phân định đường biên giữa hai quốc gia.
Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có rất nhiều các con suối, mạch nước
ngầm bắt nguồn từ chân núi thuận tiện cho việc tưới tiêu như suối Cốc Lùng,
37
Khưa Nính (Đại Sơn), Khuổi Nuông (Cách Linh), Nặm Cáp, Khuổi Kheng
(Triệu Ẩu)...
1.3.3. Giới thiệu các điểm nghiên cứu
- Thị trấn Tà Lùng
Tà Lùng là thị trấn cửa khẩu, được thành lập vào năm 1999, phía Bắc
và phía Tây giáp thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa), phía đông giáp Trung Quốc,
phía nam giáp Trung Quốc và xã Mỹ Hưng. Thị trấn có 7 bản, trong đó, người
Tày sống tập trung tại các bản: Pò Tập, Đỏng Lèng, Bó Pu và rải rác ở các bản
khác. Người Nùng ở bản Phia Khoang có quan hệ thân tộc rất gần gũi với người
Nùng ở bản Phùng bên kia biên giới Trung Quốc. Người Kinh mới đến sống ở
Tà Lùng trong vài chục năm gần đây do sức hút của kinh tế cửa khẩu.
Nhờ có cửa khẩu quốc tế Tà Lùng, một trong những đầu mối giao
thương quan trọng với Trung Quốc, đời sống kinh tế của cư dân ở Tà Lùng
khá giả và ổn định hơn so với các xã khác trong huyện, trong đó có trên 30%
số hộ làm dịch vụ, trên 60% số hộ còn lại thu nhập chủ yếu từ trồng mía. Tỉ lệ
hộ nghèo vào năm 2015 chỉ còn trên 2%, so với mức bình quân 13,9% của cả
huyện Phục Hòa.
- Thị trấn Hòa Thuận
Thị trấn Hòa Thuận được thành lập vào năm 2007, trên cơ sở diện tích
tự nhiên của xã Hòa Thuận, phía bắc giáp với các xã Đại Sơn, Lương Thiện
(Phục Hòa), phía nam giáp xã Mỹ Hưng và thị trấn Tà Lùng, phía tây giáp xã
Mỹ Hưng, phía đông giáp xã Đại Sơn và Trung Quốc. Thị trấn có 15 bản,
trong đó, người Tày sinh sống tập trung tại các bản: Bó Khoan, Phố Phục Hòa
1, Phố Phục Hòa 2, Pác Bó 1, Pác Bó 2.
Thị trấn Hòa Thuận là trung tâm hành chính của huyện Phục Hòa nên
cư dân có điều kiện phát triển kinh tế theo hướng thương mại, dịch vụ. Hiện nay,
thị trấn có 504 cơ sở và hộ gia đình hoạt động thương mại - dịch vụ và tiểu thủ
38
công nghiệp, chiếm 46,3% về cơ cấu kinh tế. Tỷ lệ hộ sản xuất nông nghiệp
chiếm 53,7% về cơ cấu kinh tế của thị trấn. Bên cạnh đó, có nhiều người làm
công chức nhà nước. Nhờ vậy, nhìn chung, đời sống kinh tế của người dân ở thị
trấn Hòa Thuận tốt hơn so với thị trấn Tà Lùng và các xã khác trong huyện.
- Xã Triệu Ẩu
Xã Triệu Ẩu phía bắc giáp huyện Quảng Uyên và huyện Hạ Lang. Phía
đông giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc, phía nam giáp xã Cách Linh, phía
tây giáp xã Hồng Đại (Phục Hòa). Xã có 11 bản, hầu hết các bản là bản của
người người Tày, gồm: bản Co, bản Sàng, bản Buống, bản Nà Nòa, bản Nà
Sao, bản Roọng Phàng, bản Phia Chiếu, bản Tha Miang, bản Khuổi Khuông,
bản Khún.
So với 6/9 xã, thị trấn khu vực biên giới của huyện Phục Hòa thì Triệu
Ẩu được xếp vào xã đặc biệt khó khăn bởi nằm cách xa trung tâm huyện
22km, giao thông liên xã và liên huyện xuống cấp, nhiều đoạn là đường đất
nên đi lại rất khó khăn, đặc biệt vào những ngày mưa gió. Cư dân trong xã
chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, sắn, lúa và chăn nuôi. Có nhiều hộ có
người đi qua biên giới làm thuê cho người Trung Quốc. Tuy nhiên, do vị trí
tiếp giáp với Trung Quốc hẹp, việc đi lại khó khăn, nên để sang Trung Quốc,
người dân thường đi sang huyện Hạ Lang, từ đó qua Trung Quốc.Tỉ lệ hộ
nghèo của xã năm 2018 là 27,97%.
- Xã Cách Linh
Xã Cách Linh phía bắc giáp xã Đồng Đại và xã Triệu Ẩu (Phục Hòa),
phía nam giáp xã Đại Sơn, phía tây giáp xã Đại Sơn và Hồng Đại, phía đông
giáp với Trung Quốc. Xã có 18 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại
các bản: Riềng Dưới, Bản Mển, Bó An. Mặc dù tiếp giáp với Trung Quốc qua
sông Bắc Vọng nhưng do đường đi lại, vận chuyển khó khăn nên hoạt động
39
trao đổi buôn bán qua sông bằng đường tiểu ngạch ở xã Cách Linh không rầm
rộ như ở xã Đại Sơn hay tại thị trấn Tà Lùng.
Cư dân chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, lúa và sắn và chăn nuôi. Tỉ
lệ lao động nông nghiệp chiếm trên 90%. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người
đã và đang đi làm bốc vác hàng thuê cho các chủ thương lái qua đường tiểu
ngạch hoặc sang Trung Quốc làm thuê. Năm 2017, xã đạt 10/19 tiêu chí xây
dựng nông thôn mới, các tiêu chí chưa đạt gồm: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở
dân cư, thu nhập, hộ nghèo, môi trường an toàn thực phẩm…Tỉ lệ hộ nghèo
chiếm trên 30% và tỉ lệ hộ cận nghèo chiếm trên 44%.
- Xã Đại Sơn
Xã Đại Sơn phía bắc giáp với xã Cách Linh (Phục Hòa) và xã Hồng
Quang (Quảng Uyên), phía nam giáp thị trấn Hòa Thuận, phía tây giáp thị
trấn Hòa Thuận và xã Lương Thiện (Phục Hòa), phía đông giáp với Trung
Quốc. Xã có 16 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại các bản: Bản
Mày, Cốc Lùng vả rải rác ở các bản người Nùng khác.
Cư dân của xã Mỹ Hưng chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía và chăn
nuôi. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người đã hoặc đang đi làm bốc vác vận
chuyển hàng, chủ yếu là gạo, nông sản qua sông Bắc Vọng hoặc đi làm thuê ở
bên Trung Quốc. Con sông này chảy qua các xã Cách Linh, Đại Sơn và thị
trấn Tà Lùng, đồng thời là ranh giới phân định biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc. Có 2 điểm vận chuyển hàng qua sông nhiều nhất là tại xã Đại
Sơn và thị trấn Tà Lùng. Năm 2017, xã đã thực hiện được 14/19 tiêu chí nông
thôn mới, bê tông hóa được 13,75 km đường làng ngõ xóm… trong đó, các
tiêu chí chưa đạt được có: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ
nghèo, môi trường an toàn thực phẩm. Nhìn chung, đời sống cư dân tốt hơn so
với xã Mỹ Hưng, nhưng còn nhiều khó khăn.
- Xã Mỹ Hưng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng
Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng

More Related Content

What's hot

Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửTriết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửMan_Ebook
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Man_Ebook
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửTư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửMan_Ebook
 
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...nataliej4
 
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayẢnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayMan_Ebook
 
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửNhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửMan_Ebook
 
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...Man_Ebook
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốcanh hieu
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốchieu anh
 
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...https://www.facebook.com/garmentspace
 

What's hot (13)

Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch SửTriết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
Triết Học Ấn Độ Cổ Đại - Nội Dung, Đặc Điểm Và ý Nghĩa Lịch Sử
 
Đề tài nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
Đề tài  nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8Đề tài  nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
Đề tài nét tương đồng và khác biệt trong văn hóa mặc, ĐIỂM 8
 
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
Văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945
 
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
Luận văn: Sinh kế hiện nay của người Xơ Đăng ở tỉnh Kon Tum - Gửi miễn phí qu...
 
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửTư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Tư tưởng đạo đức của khổng tử - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
 
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...
Luận án: Đặc điểm sinh thái của loài Voọc bạc tại khu vực núi đá vôi - Gửi mi...
 
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...
Phân tích ảnh hưởng của môt trường văn hóa đến hoạt động marketing tại hai qu...
 
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nayẢnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
Ảnh hưởng của phật giáo đến lối sống của người việt nam hiện nay
 
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sửNhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
Nhân sinh quan trong tư tưởng của Minh Mệnh - đặc điểm và ý nghĩa lịch sử
 
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...
Tư tưởng do thái giáo trong kinh tanakh và ảnh hưởng của nó đến đường lối chí...
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
 
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn QuốcSổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
Sổ tay từ ngữ văn hóa truyền thống Hàn Quốc
 
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...
Thực trạng hành vi lây nhiễm hiv aids và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi lây nhi...
 

Similar to Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng

Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0936 885 877
 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfNGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfHanaTiti
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naVấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...HanaTiti
 

Similar to Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng (20)

Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
Khoá Luận Tốt Nghiệp Hôn Nhân Của Người Tày Ở Vùng Biên Giới Huyện Phục Hòa, ...
 
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng SơnLuận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
Luận án: Nghi lễ chu kỳ đời người của người Nùng Cháo ở Lạng Sơn
 
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn LaLuận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
Luận văn: Hôn nhân hiện nay của người H’mông Đen tỉnh Sơn La
 
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đTập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
Tập quán trong sinh đẻ và nuôi dạy trẻ nhỏ của người Hmông, 9đ
 
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộcLuận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
Luận án: Tiếp biến văn hóa trong bối cảnh gia đình hỗn hợp dân tộc
 
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đTập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
Tập quán chăm sóc trẻ nhỏ trong gia đình hỗn hợp dân tộc, 9đ
 
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAYLuận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
Luận văn: Nghi lễ hôn nhân của người Tu Dí ở tỉnh Lào Cai, HAY
 
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai ChâuLuận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
Luận văn: Tang ma của người Cống ở huyện Mường Tè, Lai Châu
 
Luận văn: Hôn nhân xuyên biên giới của tộc người Hmông, HAY
Luận văn: Hôn nhân xuyên biên giới của tộc người Hmông, HAYLuận văn: Hôn nhân xuyên biên giới của tộc người Hmông, HAY
Luận văn: Hôn nhân xuyên biên giới của tộc người Hmông, HAY
 
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdfNGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
NGHIÊN CỨU SO SÁNH DỊNG HỌ CỦA NHĨM HMƠNG TRẮNG VÀ HMƠNG HOA Ở XÃ BẠCH NGỌC.pdf
 
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk LắkLuận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
Luận án: Hôn nhân hiện nay của người ê-đê ở tỉnh Đắk Lắk
 
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
Luận văn: Ẩm thực của người Nùng ở tỉnh Lạng Sơn, HAY, 9đ - Gửi miễn phí qua ...
 
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóaLuận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
Luận văn: Vai trò của hệ thống chính trị trong giữ gìn bản sắc văn hóa
 
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đLuận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
Luận văn: Ứng xử của người Cơ Lao với tài nguyên thiên nhiên, 9đ
 
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện naVấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
Vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình hiện na
 
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc MườngLuận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
Luận văn: Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường
 
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn LaLuận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
Luận văn: Hôn nhân và gia đình của người Khơ mú ở Sơn La
 
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAYLuận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
Luận văn: Văn hóa vật chất của người Cơ tu ở xã Hòa Bắc, HAY
 
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nayXây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
 
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...
[123doc] - trang-phuc-truyen-thong-hien-nay-cua-nguoi-lo-lo-hoa-o-huyen-meo-v...
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanmyvh40253
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoámyvh40253
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...Nguyen Thanh Tu Collection
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-KhnhHuyn546843
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgsNmmeomeo
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...hoangtuansinh1
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quanGNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
GNHH và KBHQ - giao nhận hàng hoá và khai báo hải quan
 
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
1 - MÃ LỖI SỬA CHỮA BOARD MẠCH BẾP TỪ.pdf
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoáCác điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
Các điều kiện bảo hiểm trong bảo hiểm hàng hoá
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
SÁNG KIẾN ÁP DỤNG CLT (COMMUNICATIVE LANGUAGE TEACHING) VÀO QUÁ TRÌNH DẠY - H...
 
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
cac-cau-noi-tthcm.pdf-cac-cau-noi-tthcm-
 
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgspowerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
powerpoint mẫu họp phụ huynh cuối kì 2 học sinh lớp 7 bgs
 
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIGIÁO TRÌNH  KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
GIÁO TRÌNH KHỐI NGUỒN CÁC LOẠI - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
Danh sách sinh viên tốt nghiệp Đại học - Cao đẳng Trường Đại học Phú Yên năm ...
 

Luận án: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới tỉnh Cao Bằng

  • 1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ANH HÒA HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC HÀ NỘI, 2019
  • 2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ ANH HÒA HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY Ở VÙNG BIÊN GIỚI HUYỆN PHỤC HÒA, TỈNH CAO BẰNG Ngành: Nhân học Mã số: 9 31 03 02 NGỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. LÊ DUY ĐẠI 2. TS. ĐẬU TUẤN NAM HÀ NỘI, 2019
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng là kết quả nghiên cứu của cá nhân, với các số liệu trung thực, nguồn tư liệu bổ trợ đều được trích dẫn đầy đủ, chính xác. Nếu có sai phạm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm. Tác giả luận án Lê Anh Hòa
  • 4. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận án tiến sĩ đề tài: Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự chỉ dạy, động viên, giúp đỡ rất nhiều từ tập thể giáo viên, TS. Lê Duy Đại và TS. Đậu Tuấn Nam. Mỗi lời chỉ dạy của các thầy là một định hướng để tôi hoàn thành nghiên cứu này. Vì vậy, tôi xin trân trọng được bày tỏ lòng biết ơn đến hai thầy giáo của mình. Bên cạnh các thầy giáo hướng dẫn trực tiếp, tôi nhận được sự chỉ dạy tận tình, những giúp đỡ và những lời khích lệ của tập thể các giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ là giảng viên Khoa Dân tộc học và Nhân học thuộc Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhất là PGS.TS. Phạm Quang Hoan, PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thanh, PGS.TS. Đặng Thị Hoa, PGS.TS. Nguyễn Song Hà. Tôi xin trân trọng cảm ơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi được học tập, trưởng thành trong nghề mà mình theo đuổi. Cảm ơn các đồng nghiệp, trong đó phải kể đến PGS.TS. Phạm Văn Dương, TS. Vi Văn An, TS. Võ Mai Phương, PGS.TS. Nguyễn Duy Thiệu, những người luôn nhắc nhở, động viên tôi, đồng thời đưa ra những lời khuyên vô cùng quý giá. Cuối cùng và vô cùng quan trọng, tôi xin cảm ơn tới một số cán bộ chuyên trách tại một số phòng ban của UBND huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng và những người dân đã kể cho tôi nghe về câu chuyện hôn nhân, cuộc sống mưu sinh, những vui buồn của họ ở vùng biên giới huyện Phục Hòa. Hà Nội, ngày tháng năm 2019
  • 5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU................................................................................................................11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..............................................................11 1.2. Cơ sở lý thuyết .........................................................................................25 1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu...................................................................34 1.4. Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa .........................................40 CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN CỦA NGƯỜI TÀY TRUYỀN THỐNG VÀ BIẾN ĐỔI................................................................................50 2.1. Đặc điểm hôn nhân truyền thống .............................................................50 2.2. Những biến đổi trong hôn nhân ...............................................................77 CHƯƠNG 3. HÔN NHÂN XUYÊN BIÊN GIỚI.......................................94 3.1. Đặc điểm vùng biên giới với hôn nhân xuyên biên giới..........................94 3.2. Tình hình hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên giới huyện Phục Hòa .95 3.3. Những đặc điểm kết hôn xuyên biên giới ..............................................102 3.4. Lễ cưới của các cặp hôn nhân xuyên biên giới......................................112 3.5. Mức độ liên lạc gia đình.........................................................................115 3.6. Một số yếu tố cơ bản tác động đến hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên .......................................................................................................................116 CHƯƠNG 4. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN BIẾN ĐỔI, GIÁ TRỊ HÔN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA.........................................121 4.1. Những yếu tố tác động đến biến đổi hôn nhân ......................................121 4.2. Giá trị của hôn nhân ...............................................................................131 4.3. Một số vấn đề đăt ra đối với hôn nhân vùng biên giới .......................137 4.4. Một số kiến nghị.....................................................................................143 KẾT LUẬN..................................................................................................147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH, BÀI BÁO KHOA HỌC NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ...............149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................150
  • 6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CT Chủ tịch GS Giáo sư NK Nhập khẩu PGS Phó giáo sư PL Phụ lục Tc Tạp chí Tr Trang TS Tiến sĩ UBND Uỷ ban nhân dân USD Đô la Mỹ VDTH Viện Dân tộc học XK Xuất khẩu XNK Xuất nhập khẩu
  • 7. DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ Bảng 1: Dân số các xã, thị trấn vùng biên giới huyện Phục Hòa ...................42 Bảng 2. Xuất phát của các cuộc hôn nhân (%) .............................................109 Bảng 3. Lý do chính quyết định hôn nhân (%).............................................112 Bảng 4. Tỷ trọng mức độ gặp mặt với người nhà ở Cao Bằng (% hộ).........116 Biểu đồ thống kê hôn nhân hỗn hợp tộc người ở thị trấn Tà Lùng
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hôn nhân là vấn đề cơ bản trong nghiên cứu nhân học, một phần quan trọng trong đời sống xã hội gắn liền với những tập tục, nghi lễ thể hiện sắc thái văn hóa riêng của mỗi tộc người, qua đó thừa nhận tính hợp pháp của quan hệ giới tính. Ở chiều cạnh khác, Cho đến nay đã có nhiều nghiên cứu về hôn nhân của các tộc người tại các vùng miền khác nhau nhưng nghiên cứu trường hợp tại vùng biên giới Việt - Trung, nơi đời sống kinh tế, xã hội chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các dòng chảy qua lại hai bên biên giới gồm: “dòng chảy của hàng hóa, của tư tưởng và của con người cũng như sự tương tác qua lại và quá trình tạo ra các ranh giới ở vùng biên” [23, tr. 28] thì chưa nhiều. Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế phát triển nhanh chóng, hội nhập quốc tế diễn ra sâu rộng, vùng biên giới xa xôi vốn được xem như vùng ven, vùng đệm không nằm ngoài quy luật đó, thậm chí đôi chỗ quá trình phát triển, biến đổi còn diễn ra nhanh hơn nhiều khu vực nằm sâu trong nội địa. Tại đây, những thay đổi đang diễn ra rõ nét ở hầu hết các lĩnh vực đời sống xã hội tộc người, điển hình là giao lưu, giao thoa văn hóa tộc người diễn ra nhanh chóng. Ở khía cạnh hôn nhân, các cuộc hôn nhân hỗn hợp tộc người ngày càng trở nên phổ biến. Hôn nhân xuyên biên giới giữa các tộc người ở vùng biên giới hai quốc gia đã và đang là vấn đề có thể gây mất ổn định an ninh xã hội. Bởi vậy, nghiên cứu về hôn nhân vùng biên giới bên cạnh góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa tộc người còn giải quyết được các thách thức của cộng đồng nơi đây trên bước đường phát triển, hội nhập toàn cầu hóa hiện nay.
  • 9. 2 Người Tày là tộc người thiểu số có dân số lớn nhất ở Việt Nam. Theo Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009, người Tày có 1.626.392 người, cư trú tập trung ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Riêng ở tỉnh Cao Bằng, người Tày cư trú ở 12 huyện và 01 thành phố tỉnh lỵ, trong đó có 7 huyện biên giới, với dân số 207.805 người, chiếm 22,5% tổng số người Tày tại Việt Nam [128, tr. 151]. Họ có chung nguồn gốc lịch sử và tương đồng văn hóa với người Nùng (Việt Nam) và người Choang (Trung Quốc), được xem là cư dân sinh sống lâu đời ở các tỉnh miền núi phía Bắc nhưng đồng thời có quan hệ tộc người liên xuyên biên giới. Ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, nơi có cửa khẩu quốc tế Tà Lùng tương đối sôi động, nhờ vậy đời sống kinh tế, xã hội của người Tày đang có những thay đổi, chuyển biến nhanh chóng. Trong đời sống thường nhật, họ có mối quan hệ mật thiết với các tộc người cùng cư trú như người Nùng, người Kinh (Việt Nam) và người Choang ở bên kia biên giới Trung Quốc. Nghiên cứu về hôn nhân của người Tày tại đây bên cạnh cho thấy các đặc điểm hôn nhân của tộc người còn thấy bức tranh về đời sống cư dân vùng biên giới Việt – Trung nói chung, thấy được quá trình phát triển tộc người, khả năng thích ứng, những biến đổi văn hóa và hiện trạng hôn nhân xuyên biên giới. Những vấn đề đó là cơ sở đề xuất các chính sách nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tộc người trong hôn nhân, các chính sách phát triển bền vững an ninh xã hội vùng biên giới. Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và các giá trị thực tiễn trên, NCS chọn chủ đề Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng làm đề tài luận án tiến sĩ Nhân học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Nghiên cứu, phân tích đặc điểm truyền thống và biến đổi hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng nhằm góp phần bảo
  • 10. 3 lưu giá trị văn hóa tộc người, thấy được quá trình phát triển tộc người, quan hệ tộc người trong bối cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội vùng biên đã và đang có nhiều thay đổi. Làm rõ xu hướng và những vấn đề đặt ra trong hôn nhân của người Tày ở đây, nhất là vấn đề hôn nhân xuyên biên giới, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy các giá trị của hôn nhân trong mục tiêu bảo tồn các giá trị văn hóa tộc người. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Xây dựng và làm rõ cơ sở lý luận, ý nghĩa khoa học, thực tiễn nghiên cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới. - Nghiên cứu, trình bày quan niệm, nguyên tắc, hình thức hôn nhân, các bước trong nghi lễ hôn nhân, cư trú sau hôn nhân và hôn nhân xuyên biên giới để thấy đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới. - Chỉ ra những biến đổi trong hôn nhân, các yếu tố tác động, những vấn đề và xu hướng hôn nhân, đồng thời nêu ra các giải pháp để bảo lưu, phát huy các giá trị truyền thống trong cuộc sống đương đại. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên của luận án là hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Trong đó, đề tài chú trọng nghiên cứu các đặc điểm, những biến đổi của hôn nhân và một khía cạnh đặc biệt khác là những người kết hôn qua biên giới Việt - Trung (hôn nhân xuyên biên giới). 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi vấn đề nghiên cứu: tìm hiểu quan niệm, tập quán, các hình thức, nghi lễ hôn nhân, những biến đổi hôn nhân truyền thống và thực trạng hôn nhân xuyên biên giới của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
  • 11. 4 - Phạm vi không gian: nghiên cứu được thực hiện tại 4 xã (Triệu Ấu, Cách Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng) và hai thị trấn (Hòa Thuận, Tà Lùng) của huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Đó là những địa phương có đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, dân cư phần lớn là người Tày, Nùng và có mối quan hệ mật thiết với những người đồng tộc ở bên kia biên giới. - Phạm vi thời gian: Năm 1986, Việt Nam bắt đầu công cuộc “Đổi mới” chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giúp kinh tế đất nước phát triển nhanh, ổn định, từ đó văn hóa, xã hội có nhiều biến đổi sâu sắc. Nhiều nghiên cứu về kinh tế, văn hóa, xã hội vì vậy chọn năm 1986 làm dấu mốc để so sánh sự thay đổi các vấn đề cần nêu. Cuộc sống của người Tày ở vùng biên giới Việt - Trung nằm trong bối cảnh chung của đất nước nhưng có những đặc điểm riêng. Một mốc thời gian đặc biệt quan trọng, đem đến nhiều thay đổi hơn là năm 1991, khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ sau chiến tranh biên giới kéo dài 10 năm (1979-1989). Kể từ đây, việc thông thương, qua lại biên giới hai quốc gia được khôi phục; các sản phẩm, vật nuôi của cư dân vùng biên không chỉ được bán ở địa phương mà còn được bán cho người Trung Quốc và ngược lại. Điều đó góp phần không nhỏ giúp đời sống kinh tế của cư dân vùng biên khởi sắc, đem đến những chuyển biến, thay đổi trong đời sống văn hóa, xã hội trong đó có hôn nhân và hình thức kết hôn xuyên biên giới gia tăng. Bởi vậy, NCS chọn năm 1991 là mốc thời gian đánh dấu sự biến đổi trong hôn nhân và các khía cạnh xã hội khác của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận
  • 12. 5 Trong quá trình nghiên cứu và viết luận án, mặc dù hôn nhân được xác định là mục tiêu nghiên cứu nhưng NCS không xem đó là một thành tố độc lập mà được đặt trong bối cảnh văn hóa, xã hội của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, cũng như trong mối quan hệ với cộng đồng các tộc người khác để thấy rõ những nét riêng biệt hoặc tương đồng trong hôn nhân của người Tày. Luận án dựa vào quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử để nhìn nhận, xem xét sự vật và hiện tượng. Hôn nhân được đặt trong bối cảnh lịch sử phát triển tộc người, cộng đồng, theo dòng thời gian và không gian xã hội. Xem xét hôn nhân trong sự vận động, biến đổi của tổng hòa các nhân tố từ kinh tế, chính trị, xã hội, hoàn cảnh cá nhân để lý giải những nguyên do căn bản, cội nguồn tạo nên sự thay đổi trong hôn nhân của người Tày ở huyện Phục Hòa hiện nay. Luận án dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề hôn nhân như Luật hôn nhân gia đình, Luật bình đẳng giới...; các chính sách dành cho các tộc người thiểu số cư trú khu vực miền núi, biên giới hải đảo, chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa tộc người làm cơ sở trong đánh giá, nhìn nhận về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa hiện nay. Các quan điểm, tư tưởng trên là cơ sở định hướng và phát triển tư duy nghiên cứu, giúp NCS nhìn nhận, đánh giá đúng đắn, chân xác hơn các vấn đề trong hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
  • 13. 6 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án thực hiện trong khoảng thời gian tương đối dài, từ năm 2012 đến nay, nhờ vậy, các thông tin, nhận định có thêm thời gian kiểm chứng. Để có được nguồn tư liệu và hoàn thiện luận án, NCS sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác nhau, gồm: điền dã dân tộc học, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích, so sánh. Trong đó, điền dã dân tộc học là phương pháp chính cho phép có được nguồn tư liệu phản ánh chân thực, sinh động thực tiễn vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp điền dã dân tộc học Điền dã dân tộc học là phương pháp nghiên cứu đặc thù của ngành Dân tộc học, Nhân học. Ở đây, quá trình tham gia trực tiếp, hòa nhập của người nghiên cứu vào cộng đồng nghiên cứu, với các thao tác cơ bản: quan sát tham dự, phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm. Trong thời gian từ năm 2012 đến nửa đầu năm 2019, NCS đã có nhiều chuyến điền dã tại địa bàn nghiên cứu, mỗi chuyến thường kèo dài từ một tới hai tuần. Chuyến điền dã gần nhất diễn ra vào cuối tháng 4 năm 2019 trong thời gian một tuần. Địa bàn nghiên cứu tương đối rộng, có 4 xã và 2 thị trấn biên giới, vì vậy, mỗi chuyến điền dã, NCS thường chỉ có thể tìm hiểu tại 2 hoặc 3 đơn vị hành chính trong số đó. Việc lựa chọn địa điểm nghiên cứu phụ thuộc vào dạng thông tin cần khai thác với mục tiêu cơ bản có được đa dạng giọng nói của chủ thể, bên cạnh phản ánh hoàn cảnh, quan điểm cá nhân về vấn đề hôn nhân còn thấy được đặc điểm chung của cộng đồng cùng cư trú tại từng địa bàn riêng biệt. Có những chuyến điền dã chỉ đơn thuần tham dự đám cưới của một đôi bạn trẻ. Nhìn chung, mỗi chuyến điền dã, các thao tác nghiên cứu: phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, thảo luận nhóm đều được NCS sử dụng. + Phỏng vấn sâu: giữ vai trò quan trọng nhất trong nghiên cứu này bởi nó cho phép NCS có được đa dạng góc nhìn, quan điểm của các đối tượng nghiên
  • 14. 7 cứu. Đối tượng lựa chọn phỏng vấn sâu rất đa dạng, có những người làm công tác quản lý tại cấp huyện, cấp xã và phần nhiều là dân ở các xóm/bản ở nhiều lứa tuổi, trình độ khác nhau. Tại cơ quan cấp huyện và xã, đối tượng phỏng vấn là các cán bộ quản lý về kinh tế, dân tộc, văn hóa, thống kê, tư pháp, công an nhằm thu được các báo cáo, số liệu và đánh giá về các vấn đề kinh tế, xã hội, hôn nhân và an ninh tại địa phương. Vì vậy, tính ở cấp huyện và 06 đơn vị hành chính thuộc cấp xã, thị trấn vùng biên, NCS phỏng vấn khoảng 30 người làm công tác quản lý. Tại các thôn/xóm/bản của người Tày, đối tượng phỏng vấn đa dạng hơn, thường có trưởng thôn, chi hội trưởng phụ nữ và nhiều người khác ở các lứa tuổi, giới tính, trình độ, vị trí xã hội khác nhau, có người đã kết hôn nhiều năm và chưa kết hôn... Đối với người dân, các câu hỏi phỏng vấn sâu dành thường xoay quanh câu chuyện hôn nhân của họ và các thành viên trong gia đình, ở đó có quan niệm hôn nhân, lựa chọn người kết hôn, việc thực hiện các nghi lễ hôn nhân... Số lượng người được phỏng vấn sâu sau nhiều đợt nghiên cứu trên 100 người, trong đó có một số người được phỏng vấn nhiều lần như ông quan lang, bà pả mẻ (ông mối, bà mối) bởi có sự hiểu biết sâu sắc về đời sống kinh tế, xã hội của cộng đồng và tập quán hôn nhân. Thời gian cho mỗi cuộc phỏng vấn sâu thường từ 20 phút tới 2 tiếng, một số ít trường hợp thời lượng kéo dài từ 4 đến 5 tiếng, phụ thuộc vào mức độ hiểu biết, hấp dẫn của thông tin mà họ cung cấp. + Quan sát tham dự: giữ một vai trò quan trọng trong điền dã dân tộc học nói chung. Việc đi vào từng xóm/bản, vào từng nhà, quan sát công việc đồng áng, chăn nuôi, đi làm thuê của cư dân đã cho phép NCS cảm nhận được thực tế cuộc sống người Tày vùng biên giới. Luận án nghiên cứu về hôn nhân của người Tày nên NCS đặt ra mục tiêu cần tham dự các bước nghi lễ hôn nhân từ đám dạm, đám hỏi, đám cưới của ít nhất từ 2 đến 3 cặp đôi. Việc thực hiện không đơn giản như dự kiến ban đầu do
  • 15. 8 địa bàn nghiên cứu ở xa, khó thu xếp thời gian tới tham dự, các bước nghi lễ thường cách nhau vài tuần hoặc vài tháng, không biết thời điểm diễn ra đám cưới.... Nhờ giúp đỡ của người dân địa phương, NCS đã phần nào đạt được mục tiêu đặt ra khi tham dự được 03 đám cưới và một số lễ ăn hỏi, lễ dạm. Trong quá trình tham gia các nghi lễ, ngoài ghi chép chi tiết các diễn tiến của nghi lễ, NCS sử dụng các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ như chụp ảnh, quay phim, ghi âm. Nguồn tư liệu quan sát tham dự là cơ sở quan trọng để diễn giải các nghi lễ hôn nhân, hình thành các nhận định, đánh giá dựa trên quan điểm cá nhân dù xem trọng quan điểm của đối tượng nghiên cứu. + Thảo luận nhóm: có ý nghĩa quan trọng với kết quả nghiên cứu bởi cho phép có được đa giọng nói ở cùng một thời điểm, thấy được sự đồng thuận hoặc khác biệt trong quan điểm của những người tham gia thảo luận nhóm. Bởi vậy, NCS mong muốn mỗi chuyến nghiên cứu điền dã có được ít nhất 3 đến 5 cuộc thảo luận nhóm. Do điền dã nghiên cứu bằng kinh phí tự túc, kinh phí khó khăn nên khó cho NCS chủ động đưa ra đề nghị một cuộc thảo luận nhóm từ 2 đến 5 người. May mắn, trong thời gian diễn ra các cuộc phỏng vấn sâu, nhiều trường hợp người được phỏng vấn chủ động mời gọi người khác có hiểu biết về vấn đề được hỏi tham gia trả lời, phần nhiều còn lại các cuộc thảo luận nhóm được hình thành bởi sự tò mò, hiếu kỳ của những người khác rồi chủ động tham dự. Mỗi cuộc thảo luận nhóm thường diễn ra trong khoảng 30 phút đến một tiếng. Nghiên cứu này có khoảng 40 cuộc thảo luận nhóm. Các cuộc thảo luận nhóm thường xoay quanh chủ đề về quan điểm hôn nhân, lựa chọn đối tượng kết hôn, các bước tiến hành hôn nhân, tình hình kinh tế, xã hội của địa phương... - Phương pháp chuyên gia Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài luận án, NCS luôn chủ động gặp gỡ, trao đổi và xin ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu về hôn nhân gia
  • 16. 9 đình, kinh tế, xã hội của các tộc người ở Việt Nam, đặc biệt về người Tày. Qua 7 năm nghiên cứu đề tài, số lượng các lần gặp trao đổi với các chuyên gia được thực hiện tương đối nhiều, khoảng trên 30 lần. Thời gian mỗi lần trao đổi thường khoảng từ 30 phút đến 1 tiếng. Ý kiến của các chuyên gia nghiên cứu đã giúp NCS định hướng nghiên cứu, có được những góc nhìn, đánh giá về hôn nhân của người Tày chính xác hơn, thấy được mối liên hệ giữa hôn nhân với các vấn đề kinh tế, xã hội tại địa bàn nghiên cứu và sự phát triển chung của cả nước. - Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp… Luận án dựa vào phương pháp phân tích, so sánh hoàn cảnh cá nhân, bối cảnh kinh tế, xã hội, thời điểm kết hôn để thấy sự khác biệt về quan điểm hôn nhân, câu chuyện hôn nhân của nhiều người khác nhau trong cùng một cộng đồng nghiên cứu, từ đó tìm ra đặc điểm chung về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu của luận án bên cạnh dựa chủ yếu vào nguồn tư liệu có được từ các chuyến điền dã nghiên cứu còn dựa vào các kết quả nghiên cứu có trước làm cơ sở so sánh, phân tích thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng với các địa phương khác trong nước. 5. Nguồn tư liệu luận án - Tư liệu điền đã Dân tộc học: khảo sát thực địa tại 4 xã và 2 thị trấn vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. - Phân tích số liệu từ kết quả khảo sát tại tỉnh Cao Bằng của đề tài cấp Nhà nước KX01-HNXBG. Mẫu khảo sát: E: 100 người Tày; E 100 người Nùng. - Các tài liệu thứ cấp.
  • 17. 10 6. Đóng góp mới về khoa học của luận án Cho đến thời điểm hiện tại, đã có một số nghiên cứu về hôn nhân của người Tày, nhưng đây là công trình đầu tiên thực hiện tại vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh những đặc điểm tương đồng với người Tày cư trú tại các địa phương khác, đời sống của người Tày tại đây chịu chi phối, ảnh hưởng trực tiếp của yếu tố vùng biên giới Việt – Trung như sự giao thương qua lại, mối quan hệ tộc người hai bên biên giới... Trong đó, nổi lên vấn đề hôn nhân xuyên biên giới trong nhiều năm trở lại đây. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Tư liệu luận án trình bày các đặc điểm hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới không chỉ góp phần nhận diện giá trị văn hóa tộc người được bảo lưu trong hôn nhân mà còn là cơ sở để so sánh sự tương đồng, khác biệt giữa hôn nhân của người Tày tại đây với các địa phương khác, nơi có sự khác biệt về đặc điểm tự nhiên, xã hội... Kết quả của luận án là cơ sở để các nhà quản lý xây dựng chính sách bảo tồn, phát huy văn hóa tộc người, giải quyết các vấn đề tiêu cực phát sinh trong hôn nhân nhằm hướng tới sự phát triển bền vững, ổn định cho cư dân cư trú ở khu vực biên giới Việt - Trung. 7. Cơ cấu luận án Ngoài các phần Mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án được cơ cấu thành 04 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng Chương 2: Đặc điểm hôn nhân của người Tày truyền thống và biến đổi Chương 3: Hôn nhân xuyên biên giới Chương 4: Những yếu tố tác động đến biến đổi, giá trị hôn nhân và một số vấn đề đặt ra
  • 18. 11 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT, KHÁI QUÁT VỀ TỘC NGƯỜI VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Người Tày có dân số đông nhất trong 53 tộc người thiểu số ở Việt Nam, có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời nên thu hút được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu. 1.1.1. Nghiên cứu về người Tày 1.1.1.1. Nghiên cứu của các học giả ngoài nước về người Tày Vào những năm đầu của thế kỉ 20, một số học giả người Pháp đã quan tâm và nghiên cứu về người Tày. Trước hết kể đến các công trình của học giả nổi tiếng A. Bonifacy, như: Những nghi lễ trong tang ma của người Thổ (1904) [8], Sưu tập truyện cổ tích Thổ trên hai bờ sông Lô (1905) [9], Khởi nghĩa của người Tày năm 1983: ghi chép tác chiến quân đội vì sự đàn áp (1907) [10], Tết Hồ Bồ của người Tày (1915) [11], Lòng kiên nhẫn vô biên: truyện cổ tích Thổ (1915) [12]. Qua các bài viết, ông đưa ra một số nhận định có giá trị tham khảo như tang lễ của người Thổ không khác gì với tang lễ của người Việt vì người Thổ và người Việt đều tiếp thu nền văn minh Trung Quốc; tết Hồ Bồ của người Tày gắn với nghi lễ nông nghiệp, không có kiêng kỵ, cũng như cầu khấn Phật... Bên cạnh đó, còn có công trình của A.Biddet (1918) về Nguồn gốc lịch sử, sự giống và khác nhau giữa người Thổ với người Choang ở Quảng Tây, Trung Quốc [7]. Trong đó, A.Biddet bàn về sự giống nhau giữa người Thổ ở Lạng Sơn, Cao Bằng với người Choang ở Quảng Tây (Trung Quốc) và người Kinh, người Nùng, người Thái, người Mường (Việt Nam) trên các phương diện: tộc tính, ngôn ngữ…
  • 19. 12 Trong nhiều năm trở lại đây, nghiên cứu của các học giả ngoài nước về người Tày có lẽ ngày càng phong phú nhưng dù cố gắng NCS chưa tiếp cận được do thiếu thông tin tìm nguồn tư liệu và rào cản về ngôn ngữ, đặc biệt là nghiên cứu của các học giả Trung Quốc được viết bằng tiếng Trung. Vào năm 2015, tại Học viện Khoa học xã hội Việt Nam có 02 luận văn thạc sĩ ngành Việt Nam học bảo vệ thành công của các học viên người Trung Quốc tên là Cai Li Chao (Thái Lập Siêu) [17] và Qin Yu Qiao (Đàm Vũ Tiếu) [94] nghiên cứu về tín ngưỡng và tục cưới hỏi của người Tày ở khu vực biên giới tỉnh Cao Bằng so sánh với người Choang ở khu vực biên giới phía Nam Quảng Tây (Trung Quốc). Các nghiên cứu đã chỉ ra nhiều điểm tương đồng trong tín ngưỡng và tục cưới xin của người Tày và người Choang, góp phần khẳng định mối liên hệ xuyên suốt lịch sử của hai tộc người này, cũng như cơ sở xem xét các nhân tố tạo dựng các cuộc hôn nhân xuyên biên giới. Nhìn chung, mặc dù NCS chưa tiếp cận được nhiều các nghiên của các học giả ngoài nước về người Tày, đặc biệt ở hôn nhân nhưng những gì đã có cơ bản giúp NCS có được thêm những góc nhìn, đánh giá quan trọng hoàn thiện nội dung luận án. 1.1.1.2. Nghiên cứu của học giả trong nước về người Tày và hôn nhân người Tày Có thể khẳng định người Tày là một trong số ít tộc người được nhiều học giả trong nước quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh lịch sử, văn hóa, xã hội khác nhau, phần nào phù hợp với vai trò, vị thế và đóng góp của họ trong lịch sử hình thành, phát triển, đấu tranh và xây dựng đất nước. Ở phần viết này, NCS điểm nhấn một số nghiên cứu về người Tày, đặc biệt hơn với nghiên cứu về hôn nhân. Từ triều đại nhà Lê, nhà Nguyễn, người Tày đã được đề cập trong các cuốn sách nổi tiếng như Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726-1784) [36]
  • 20. 13 và Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840) [24]… Mặc dù tư liệu ở mức độ khái lược nhưng giúp thế hệ sau phần nào hiểu được sinh hoạt văn hóa dân gian của người Tày ở Việt Nam trong các thế kỷ trước. Sau khi đất nước thống nhất 1975, nhất là những năm gần đây, ngày càng có nhiều học giả nghiên cứu về người Tày. Dự tính đến thời điểm hiện tại có trên 120 đầu mục tài liệu gồm sách và tạp chí viết về người Tày, ở đó đề cập đa dạng các vấn đề từ nguồn gốc tộc người, văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, tôn giáo và văn học nghệ thuật... Chủ đề hôn nhân, gia đình, đặc biệt phong tục cưới xin là một trong những khía cạnh đời sống thu hút quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Một trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về văn hóa Tày sau năm 1975 kể đến là ấn phẩm Văn hóa Tày Nùng của các tác giả Hà Văn Thư và Lã Văn Lô (1982) [121]. Cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh văn hóa của người Tày, Nùng như tín ngưỡng tôn giáo, sinh đẻ, ma chay, tiếng nói, chữ viết... và một phần nhỏ về hôn nhân. Các đặc điểm hôn nhân như tuổi kết hôn, nguyên tắc trong quan hệ hôn nhân, các bước tiến hành hôn nhân được diễn giải cơ bản, có thể xem như khởi đầu, đề dẫn cho các nghiên cứu hôn nhân sau này. Giả dụ như nhận định: “hôn nhân ở vùng Tày, Nùng có tính chất mua bán...” [121, tr. 42] được nhiều nghiên cứu tiếp nối đề cập. Cuốn sách Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam của Viện Dân tộc học xuất bản năm 1992 [135] góp phần đầy đủ hơn cho nghiên cứu tổng quan về người Tày. Ở phần viết về hôn nhân, mặc dù các tác giả chỉ dành hơn 20 trang sách trong tổng số 332 trang sách nhưng cho thấy rõ nét đặc điểm hôn nhân của người Tày từ các nguyên tắc kết hôn, việc tìm hiểu, cư trú sau hôn nhân, nghi lễ đám cưới... Các vấn đề được đề cập trong sách góp phần định hình cho các nghiên cứu hôn nhân sau này nói chung và người Tày nói riêng.
  • 21. 14 Vào năm 1994, nghiên cứu của tác giả Đỗ Thúy Bình [6] về Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam có thể xem là nghiên cứu đầu tiên tập trung ở khía cạnh hôn nhân và gia đình dù tập hợp 3 tộc người cùng ngữ hệ. Ở phần nghiên cứu về hôn nhân, tác giả tìm hiểu nhiều về Luật hôn nhân gia đình, những đánh giá đặc điểm hôn nhân được minh chứng bằng các số liệu điều tra xã hội học. Có lẽ đây là phương cách ít người làm với thể loại chủ đề này tại thời điểm đầu những năm 1990 nhưng có giá trị thiết thực với những ai tiếp nối nghiên cứu về hôn nhân của người Tày trong so sánh với người Nùng, Thái sau này. Cùng trong năm 1994, các tác giả Hoàng Quyết, Tiến Dũng [101] xuất bản ấn phẩm Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc. Việt Bắc là địa danh phổ biến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, bao trùm nhiều tỉnh ở miền núi phía Bắc và nay gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Với tựa đề về phong tục tập quán, các tác giả đã dành toàn bộ Chương II để viết Phong tục tập quán về lễ cưới và Lễ cưới. Ở phần này, các tác giả miêu tả rõ ràng các bước chuẩn bị cho lễ cưới như tiền bạc, lợn, tham gia phường họ bạn, giúp người khác về vật chất, tìm ướm chọn con dâu tương lai, đưa con trai ra xã hội. Mỗi vấn đề là một câu chuyện được kể về cách thức chuẩn bị đi cùng quan điểm xã hội đặt ra với nó. Sự phân định rành mạch như vậy giúp người đọc dễ hiểu, dễ nắm bắt nội dung nghi lễ cưới của người Tày. Dựa trên nghiên cứu đã có, năm 1995 tác giả Triều Ân hợp tác cùng Hoàng Quyết [2] xuất bản cuốn sách riêng về Tục cưới xin của người Tày. Sách gồm hai phần nội dung chính: Tục cưới xin và lễ cưới và Thơ quan làng, pả mẻ. Ở phần Tục cưới xin và lễ cưới phần nhiều được các tác giả tiếp nối và bổ sung từ cuốn sách Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc (1994) bởi vậy không có nhiều điểm mới trong nghiên cứu. Nhưng phần hai về Thơ quan
  • 22. 15 làng, pả mẻ là tư liệu rất có giá trị tham khảo trong nghiên cứu hôn nhân người Tày. Thơ được dùng trong các tình huống đối đáp giữa ông quan làng, bà pả mẻ là những người đại diện nhà trai và nhà gái trong ngày cưới, được các tác giả sưu tầm tại các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái (Bắc Kạn, Thái Nguyên), Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang. Năm 1997, tác giả Nguyễn Thanh Nga [88] có bài viết về Phong tục cưới xin cổ truyền của người Tày ở Cao Bằng, được đăng tải tại phần Tư liệu dân tộc học trên Tạp chí Dân tộc học nên lượng thông tin, phân tích, đánh giá khoa học không cao. Tuy nhiên, đây là nghiên cứu đầu tiên về hôn nhân của người Tày tại Cao Bằng, có thể dùng để so sánh thấy điểm tương đồng và khác biệt với hôn nhân của người Tày ở nhiều địa phương khác trước đó. Đến năm 2001, có một cuốn sách riêng về hôn nhân của người Tày ở tỉnh Cao Bằng của các tác giả Hoàng Tuấn Nam và Bế Thanh Tuyền với tiêu đề Việc dựng vợ gả chồng của người Tày ở Cao Bằng [86]. Các tác giả đều là người Tày, như Hoàng Tuấn Nam (chủ biên) là người Tày ở huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng nên nguồn tư liệu có tính chính xác cao khi trực tiếp viết về tộc người và địa phương của họ. Tuy nhiên, tư liệu đơn thuần mô tả, ít phân tích, đánh giá. Phần một quyển sách tập trung diễn giải các bước tiến hành hôn nhân, phần hai là các bài thơ quan làng, pả mẻ sưu tập được. Vào năm 2010, tác giả La Công Ý [140] sau 30 năm gắn bó với sự nghiệp nghiên cứu dân tộc học đã xuất bản cuốn sách trên 400 trang về tộc người của ông với tiêu đề Đến với người Tày và văn hóa Tày. Đây là công trình dày dặn đề cập nhiều lĩnh vực từ nguồn gốc lịch sử tộc người, ngôn ngữ, sinh kế truyền thống, đời sống vật chất, quan hệ hệ xã hội, văn hóa phi vật thể và những thành tựu hiện nay. Nguồn tư liệu được đúc kết từ các nghiên cứu có trước, quá trình nhiều năm thực tế trải nghiệm với lối viết chắc chắn đã tạo nên tổng quan tương đối hoàn chỉnh về người Tày. Phần nghiên cứu về hôn
  • 23. 16 nhân và gia đình trong chỉnh thế đó được miêu tả, diễn giải chi tiết, có sự so sánh khác biệt hôn nhân của người Tày ở các vùng khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu thiên nhiều về miêu tả lối sống truyền thống mà ít thấy hơi thở cuộc sống đương đại. Năm 2013, tác giả Hoàng Thị Cành [15] xuất bản cuốn sách về Tục hôn nhân cổ của người Tày Nguyên Bình thuộc Dự án công bố, phổ biến tài sản văn hóa, văn nghệ của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Với lối viết mộc mạc như kể chuyện, tác giả đề cập đến quá trình tìm hiểu, không gian tìm hiểu, mai mối, các bước tiến hành hôn nhân và đặc biệt những bài thơ quan làng, pả mẻ được phiên âm bằng chữ quốc ngữ và viết bằng chữ nôm Tày. Bởi huyện Nguyên Bình cùng thuộc tỉnh Cao Bằng nên sẽ rất hữu ích để NCS so sánh, đối chiếu với hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa. Năm 2016, người Tày có thêm một công trình nghiên cứu cơ bản về họ của tác giả Nguyễn Ngọc Thanh và các cộng sự [108]. Nghiên cứu tại người Tày tỉnh Tuyên Quang ở các khía cạnh kinh tế, tổ chức xã hội, văn hóa và cả các giải pháp để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của người Tày, trong đó có một phần viết về hôn nhân truyền thống. Ở phần nội dung này, qua những miêu tả sinh động về quan niệm hôn nhân, nguyên tắc hôn nhân, tính chất hôn nhân..., có thể thấy rõ sự tương đồng trong vấn đề hôn nhân giữa người Tày Tuyên Quang với người Tày ở huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Ngoài ra còn phải kể đến một số nghiên cứu của các NCS, học viên cao học như luận án tiến sĩ của Bế Văn Hậu (2012) [51] nghiên cứu về biến đổi văn hóa người Tày tại Lạng Sơn trong quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Ở đó phân tích biến đổi về văn hóa tinh thần, văn hóa vật chất và xã hội, những nguyên nhân tác động. Luận án tiến sĩ của Vũ Thị Phương Nga (2017) [87] nghiên cứu về tiếp biến văn hóa trong gia đình hỗn hợp dân tộc qua nghiên
  • 24. 17 cứu người Tày ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Đây là vấn đề mới mẻ, thú vị trong nghiên cứu hiện nay nhưng thực tiễn đang diễn ra phổ biến bởi sự gần gũi, hòa đồng giữa các tộc người cùng cư trú giúp hình thành các gia đình đa dạng về tộc người và văn hóa. Gần đây có thêm luận văn thạc sĩ của Hoàng Đức Trung (2018) [130] nghiên cứu về hôn nhân của người Tày ở xã Tô Hiệu, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn. Ở đó tác giả miêu tả, diễn giải quan niệm hôn nhân, nguyên tắc hôn nhân, tuổi kết hôn và các bước tiến hành hôn nhân... Nhìn chung, nghiên cứu về người Tày, đặc biệt hôn nhân của người Tày là chủ đề liên quan trực tiếp đến luận án của NCS đã có khá nhiều, nhưng thiên về mô tả, diễn giải và tại các nhóm người Tày cư trú trong nội tỉnh, xa vùng biên giới. Bởi vậy, nghiên cứu này hy vọng sẽ tiếp nối được các thành quả nghiên cứu trước, có thêm những tiếng nói của cộng đồng, người dân về hôn nhân của họ và thấy được đặc điểm hôn nhân vùng biên giới. 1.1.2. Nghiên cứu về vùng biên và quan hệ vùng biên Vùng biên nơi có vị trí địa lý đặc biệt với mỗi quốc gia, thường được xem là vùng sâu, vùng xa, người dân có điều kiện kinh tế khó khăn, phát triển chưa tương đồng với sự phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, các tộc người cư trú vùng biên bên cạnh hưởng lợi, chịu tác động từ các chính sách, tình hình chung của cả nước thì còn chịu ảnh hưởng từ các chính sách của quốc gia liền kề và có mối quan hệ sâu sắc với các tộc người sinh sống bên kia biên giới. Bởi các tính chất đó, nghiên cứu về một hoặc một số vấn đề hiện tại về vùng biên giới là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, bên cạnh giá trị khoa học, còn mang nhiều giá trị thực tiễn trong phát triển bền vững an ninh, xã hội biên giới quốc gia. 1.1.2.1. Nghiên cứu của các học giả ngoài nước về vùng biên và quan hệ vùng biên
  • 25. 18 Nghiên cứu về vùng biên giới ban đầu chủ yếu bàn về tính hợp pháp của các đường biên giới quốc gia. Cho đến nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, nghiên cứu về vùng biên đang trở thành một lĩnh vực khoa học được đặc biệt quan tâm, không chỉ ở phương pháp tiếp cận liên ngành mà còn hình thành các trung tâm nghiên cứu, đào tạo về đường biên và vùng biên giới [23, tr.33]. Bởi sự phong phú của các tư tưởng, ấn phẩm nghiên cứu về vùng biên giới nên ở phần tổng luận này, NCS chỉ tập trung điểm một số nghiên cứu tiêu biểu về vùng biên giới Việt - Trung. Trước hết kể đến các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội vùng biên. Năm 2005, các tác giả Chu Kiện và Lưu Đông Nhiệm (Trung Quốc) với nghiên cứu Chính sách dân tộc của Việt Nam và ảnh hưởng của chính sách đó đến khu vực dân tộc biên giới Trung Quốc [67]. Nghiên cứu cho rằng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới và khu vực miền núi, dân tộc thiểu số của Việt Nam đã thúc đẩy kinh tế vùng biên phát triển. Vì thế: “Đây là vấn đề phía Trung Quốc quan tâm, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam cũng nên học tập kinh nghiệm của Việt Nam, từng bước áp dụng vào thực tế, tăng cường xây dựng khu vực biên giới Việt Trung, để khu vực biên giới Trung Quốc nhanh chóng hưng thịnh” [67, tr.7]. Nghiên cứu này cơ bản đứng ở một chiều đánh giá chính sách của Việt Nam với vùng biên giới mà chưa xem xét, đánh giá chính sách “Hưng biên phú dân” của Trung Quốc thực hiện tác động tới vùng biên Trung Quốc và Việt Nam. Một lĩnh vực thứ hai được quan tâm là quan hệ kinh tế qua lại qua biên giới hai quốc gia Việt - Trung như luận văn thạc sĩ của Zhung Juan (2010) (Trung Quốc) với tiêu đề Border opened up: Everyday Business in China- Vietnam Frontier (Mở cửa biên giới:Quan hệ thương mại vùng biên giới Việt- Trung) [152]. Ở đó, tác giả điểm lại các mốc chính trong quan hệ vùng biên trước và sau mở cửa biên giới Việt-Trung, trong đó tập trung phân tích quan hệ
  • 26. 19 thương mại. Các thông tin và đánh giá về thương mại vùng biên giới Việt-Trung mà tác giả đưa ra là một góc nhìn mới và có giá trị với nghiên cứu của chúng tôi. Bên cạnh đó có nghiên cứu đánh giá mối quan hệ đa chiều tại vùng biên giới hai quốc gia như nghiên cứu của Phùng Nhuận (2013) (Trung Quốc) thuộc Đại học Dân tộc Trung ương đánh giá về Tác động văn hóa biên giới Trung-Việt, trường hợp tỉnh Vân Nam [89]. Ông cho rằng, với vai trò thúc đẩy của kinh tế biên mậu, biên giới Việt-Trung đã xuất hiện các tương tác xuyên văn hóa bao gồm cư dân biên giới đi các chợ vùng biên, vượt biên để trồng trọt, vượt biên chăn thả gia súc, hôn nhân xuyên biên giới, vượt biên đánh bạc, cư dân biên giới tham gia lễ hội cùng đón tết, vượt biên làm thuê, vượt biên thăm thân, tham gia các hoạt động tôn giáo bên kia biên giới. Các dân tộc vùng biên giới Việt-Trung có cùng nguồn gốc, các thành tố văn hóa tạo nên tương tác xã hội mang đặc thù của văn hóa xuyên biên giới. Ông chỉ ra ba loại hình tương tác chính là tương tác cá nhân (tiêu biểu là hôn nhân xuyên biên giới), tương tác nhóm xã hội và tương tác chính phủ. Ông lập luận rằng kinh tế và phương tiện truyền thông phát triển nhanh, các hình thức tương tác văn hóa vùng biên sẽ ngày càng phong phú hơn… Một khía cạnh nghiên cứu đáng chú ý trong quan hệ cư dân hai bên biên giới là hôn nhân xuyên biên giới được một số học giả quan tâm như nghiên cứu của tác giả Carolin Grillot (2010) với tiêu đề Cross-Border marriages between Vietnamese women and Chiness man: The intergration of otherness and the inpact of popular representations (Hôn nhân xuyên biên giới giữa phụ nữ Việt Nam và đàn ông Trung Quốc: Sự hòa hợp của khác biệt và tác động của những phản kháng phổ biến) [145]. Nghiên cứu là kết quả sau 5 tháng điền dã của tác giả diễn ra trong thời gian từ năm 2006 - 2009 tại Hà Khẩu (Vân Nam), Đông Kinh (Quảng Tây) Trung Quốc và Lào Cai, Móng Cái (Quảng Ninh) Việt Nam. Qua nghiên cứu, tác giả cho rằng hai thập kỷ qua khu vực biên giới Việt - Trung
  • 27. 20 đã tăng hiện tượng di dân, là kết quả của việc tương tác và liên kết mạng lưới gia đình, thương mại. Bởi vậy hình thành nên các cuộc hôn nhân xuyên biên giới, tuy nhiên, mục đích chung (nâng cao địa vị xã hội, điều kiện sống) có vẻ không đủ để lý giải hiện tượng đáng tranh luận này. Nền tảng của từng người trong những cuộc phối ngẫu này bộc lộ ra một điều rằng hầu hết họ là những người bị bỏ rơi, ngoài lề xã hội, những người không thể kết hôn và họ đến với nhau trong hy vọng rằng hôn nhân sẽ tạo cho họ vị thế xã hội như những người bình thường. Có thể nói, những nhận định, đánh giá của Carolin Grillot phản ánh tương đối chính xác đặc điểm của các cặp kết hôn xuyên biên giới tại vùng biên, là cơ sở tham khảo có ý nghĩa trong nghiên cứu này. Cùng nghiên cứu về hôn nhân xuyên biên giới ở vùng biên giữa phụ nữ Việt Nam với nam giới Trung Quốc còn có luận văn thạc sĩ của Lianling Su (2009) [148] thuộc trường đại học Harbin Normal University. Tác giả phỏng vấn sâu 64 cặp vợ chồng sinh sống tại vùng biên giới Trung Quốc có vợ là người Việt Nam, chồng là người Trung Quốc để tìm hiểu lý do họ đến được với nhau. Những phụ nữ đó hầu hết chưa được đăng ký quốc tịch Trung Quốc. Qua đó, tác giả nhận định lý do chính phụ nữ Việt Nam lấy chồng Trung Quốc vì muốn có cuộc sống tốt hơn, điều kiện kinh tế đầy đủ hơn, mức sống cao hơn, có thể hỗ trợ gia đình... Ở chiều ngược lại, những người đàn ông Trung Quốc lấy vợ Việt Nam thường có mức thu nhập thấp hơn bình quân, trình độ học vấn thấp, khó lấy vợ Trung Quốc trong bối cảnh đất nước Trung Quốc thiếu phụ nữ, dư thừa đàn ông... Những nhận định đó không hoàn toàn chính xác, bởi trên thực tiễn, yếu tố kinh tế không là mục đích chính tạo dựng nên các cuộc hôn nhân này. Tuy nhiên, tác giả đánh giá đúng khi cho rằng, sự tương đồng văn hóa và mối liên hệ lịch sử giữa các khu vực biên giới Trung Quốc và Việt Nam tạo điều kiện cho các cuộc hôn nhân xuyên biên giới và sẽ tiếp diễn trong tương lai.
  • 28. 21 Nhìn chung, các nghiên cứu về kinh tế, xã hội, hôn nhân ở vùng biên giới Việt - Trung của các học giả nước ngoài có nhiều ý nghĩa tham khảo cho NCS trong quá trình viết luận án. 1.1.2.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước về vùng biên và quan hệ vùng biên Nghiên cứu về vùng biên ở Việt Nam trước hết hay nói cách khác một trong những lĩnh vực quan trọng, ưu tiên hàng đầu là phát triển kinh tế vùng biên sau những năm dài đất nước có chiến tranh và khôi phục lại quan hệ láng giềng giữa hai quốc gia Việt Nam, Trung Quốc. Năm 1997, tác giả Hoàng Xuân Long xuất bản công trình nghiên cứu về Lợi thế so sánh trong trao đổi hàng hóa qua biên giới Việt-Trung [76]. Ở đó, tác giả tập trung đánh giá những chuyển biến và những mặt mạnh của Việt Nam trong thông thương hàng hóa qua biên giới Việt - Trung. Vào năm 2001, một công trình khác là Buôn bán qua biên giới Việt Trung: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng của tác giả Nguyễn Minh Hằng (chủ biên) [49] nêu việc buôn bán, thương mại qua biên giới ở các giai đoạn, từ đầu đến cuối thế kỷ XIX, từ cuối thế kỷ XIX đến XX và cho đến thời điểm nghiên cứu. Những năm gần đây số lượng các công trình nghiên cứu về kinh tế vùng biên ngày càng nhiều hơn, thường được đăng trong các tạp chí nghiên cứu về kinh tế, Trung Quốc, như bài viết của tác giả Trần Văn Thọ (2014) [114] với tiêu đề Kinh tế biên giới Việt -Trung trước sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tác giả đã đưa ra các dẫn chứng cho thấy sức mạnh kinh tế vùng biên Trung Quốc vượt trội hơn Việt Nam ở nhiều mặt. Vì vậy, Việt Nam cần có những chuyển biến chính sách để giúp kinh tế khu vực này phát triển hơn nữa. Mặc dù các nghiên cứu thiên về giao thương qua lại khu vực biên giới nhưng những thông tin cung cấp ở đó có nhiều ý nghĩa cho NCS trong nhận định mối tương quan kinh tế và xã hội của luận án.
  • 29. 22 Lĩnh vực thứ hai liên quan đến vùng biên được các học giả Việt Nam quan tâm là vấn đề chính sách của cả Việt Nam và Trung Quốc dành cho khu vực này. Một trong cuốn sách quan trọng được hầu hết các học giả trong nước tham khảo khi nghiên cứu về vùng biên giới là cuốn Chính sách “Hưng biên phú dân” và quá trình thực hiện tại vùng dân tộc thiểu số các tỉnh biên giới Tây Nam Trung Quốc (2008) của tác giả Nguyễn Văn Căn [16]. Ông tìm hiểu mục tiêu, mục đích, quá trình thực hiện, triển khai và những tác động xã hội do chính sách quan trọng này tạo ra với cư dân vùng biên giới Trung Quốc. Để từ đó, ông phân tích và nhìn nhận những điểm tương đồng, khác biệt của chính sách Hưng biên phú dân (Trung Quốc) với một số chính sách đã và đang được thực hiện ở vùng biên của Việt Nam như Chính sách 135 của Chính phủ. Nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong các đánh giá tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội vùng biên của hai quốc gia. Trong khoảng 10 năm gần đây, vùng biên giới trở thành chủ đề rất được quan tâm của các nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội Việt Nam. Có thể dẫn chứng như hàng loạt các đề tài cấp bộ nghiên cứu về các vấn đề vùng biên đã được các cán bộ nghiên cứu của Viện Dân tộc học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện. Trước hết là nghiên cứu của tác giả Đặng Thanh Phương và các cộng sự (2009) [93] có tiêu đề: Một số vấn đề bức xúc của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Giáy trong quá trình phát triển kinh tế vùng biên Lạng Sơn và Lào Cai. Nghiên cứu đưa ra các đánh giá về sự chuyển biến kinh tế, xã hội vùng biên và những tác động tới những biến đổi trong đời sống của đồng bào các dân tộc vùng biên Tày, Nùng, Giáy. Năm 2011, tác giả Vương Xuân Tình, Nguyên Viện trưởng Viện Dân tộc học và các cộng sự nghiên cứu về Một số vấn đề cơ bản về dân tộc dưới tác động của sự phát triển vùng biên giới Việt-Trung (Nghiên cứu người Hà Nhì ở một làng của tỉnh Lào Cai và một làng thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung
  • 30. 23 Quốc [123]. Mục tiêu triển khai nghiên cứu tại hai làng người Hà Nhì, một ở Việt Nam, một ở Trung Quốc để thấy những đặc điểm tương đồng, khác biệt của tộc người này tại hai quốc gia và mối liên hệ tộc người qua biên giới. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ được triển khai ở người Hà Nhì, Việt Nam do không có sự hợp tác từ phía bạn Trung Quốc. Dẫu vậy, kết quả nghiên cứu tương đối hoàn thiện, đánh giá được đa chiều các mối quan hệ xuyên biên giới từ lĩnh vực văn hóa tộc người, kinh tế... Cùng trong năm 2011, có một nghiên cứu thú vị khác về vùng biên có tựa đề: Một số vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc vùng biên giới của hai nước Việt Nam-Trung Quốc (Trường hợp vùng Tây Bắc Việt Nam và tỉnh Vân Nam Trung Quốc) của tác giả Trần Thị Mai Lan và cộng sự (2011) [70]. Trong nghiên cứu này, các các tác giả đánh giá chính sách vùng biên của Việt Nam và Trung Quốc với những điểm tương đồng và khác biệt, từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện và bổ sung chính sách vùng biên của Việt Nam như cần xây dựng các chiến lược, chính sách dân tộc đặc biệt dành riêng cho khu vực này. Năm 2012, tác giả Lý Hành Sơn và các cộng sự thực hiện đề tài “Một số vấn đề cơ bản về dân tộc – tôn giáo trong phát triển bền vững các tỉnh biên giới Việt Nam” [104], đánh giá thực trạng quan hệ tộc người, tín ngưỡng tộc người, di dân tại các tỉnh biên giới. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của các đề tài cho thấy cùng với sự gia tăng của hoạt động thương mại, mối quan hệ tộc người xuyên biên giới ở nhiều chiều cạnh ngày càng phát triển, góp phần nâng cao đời sống kinh tế của cư dân vùng biên, đồng thời tạo ra một số vấn đề gây bất ổn xã hội và an ninh quốc gia. Các nghiên cứu này đều đề cập đến hôn nhân xuyên biên giới và cho rằng đây là xu hướng tất yếu bởi dựa trên mối quan hệ đồng tộc, thân tộc và hoạt động thương mại qua biên giới nẩy sinh. Kết quả từ các nghiên cứu vùng biên của các nhà nghiên cứu thuộc Viện Dân tộc học trong các năm tiếp theo phần nào được chuyển thành sách.
  • 31. 24 Trước hết cuốn sách Một số vấn đề cơ bản về kinh tế - xã hội ở các vùng biên giới Việt Nam của các tác giả Bùi Xuân Đính và Nguyễn Ngọc Thanh [35]. Nghiên cứu đề cập đến các lĩnh vực kinh tế, đói nghèo, tệ nạn xã hội ở vùng biên giới nước ta để thấy rằng cần có các chính sách đồng bộ, phù hợp để cư dân vùng biên phát triển bền vững. Trong hai năm 2016 và 2017, Viện Dân tộc học đã xuất bản một bộ sách gồm 03 cuốn về quan hệ tộc người xuyên quốc gia tại 03 vùng khác nhau: vùng núi Phía Bắc, vùng Tây Nguyên và vùng Nam Bộ [106, 50, 124]. Các nghiên cứu đánh giá mối quan hệ tộc người xuyên quốc gia ở một số chiều căn bản như trong hoạt động kinh tế, nguồn gốc tộc người, thân tộc, lĩnh vực văn hóa, chính trị, các yếu tố tác động và xu hướng... Trong đó có đề cập đến quan hệ hôn nhân xuyên biên giới. Ví dụ trong cuốn Quan hệ dân tộc xuyên quốc gia ở Việt Nam nghiên cứu tại vùng núi phía Bắc, các tác giả Lý Hành Sơn, Trịnh Thị Mai Lan và cộng sự (2017) [106] đã đưa ra các số liệu thống kê số người hôn qua biên giới của người Nùng, Thái, Hmông và Hà Nhì cư trú tại vùng biên giới với tình trạng chung phần nhiều kết hôn đồng tộc, không đăng ký kết hôn... Tuy nhiên, cũng theo số liệu các tác giả chỉ ra rằng phụ nữ tại các xã giáp biên giới không hẳn kết hôn xuyên biên nhiều hơn so với khu vực nội địa Việt Nam. Trong các quan hệ xã hội vùng biên giới, hôn nhân xuyên biên giới trong nhiều năm trở thành vấn đề gây bất ổn xã hội vùng biên cần được giải quyết. Nghiên cứu đầu tiên về chủ đề này do tác giả Lê Thị Hường [64] thực hiện ở người Nùng Cháo, huyện Cao Lộc, Lạng Sơn. Năm 2014, tác giả Lê Thị Hường [65] tiếp tục nghiên cứu chủ đề này ở người Nùng, Thái, Hmông tại hai tỉnh Cao Bằng và Điện Biên. Các số liệu về số người kết hôn xuyên biên giới, tình trạng không đăng ký kết hôn và những khó khăn mà người tham gia kết hôn gặp phải phản ánh tương đối rõ nét về thực trạng này. Trong các năm từ 2015 đến 2016, đã có thêm một loạt các nghiên cứu liên quan hôn
  • 32. 25 nhân xuyên biên giới của cư dân vùng biên như của tác giả Đặng Thị Hoa [53, 54, 55, 56], Lê Ngọc Lân [71], Trần Thị Hồng [62], Trần Quý Long [77]... Đây là kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả tham gia đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước “Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xã hội ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay” mã số KX02.21/11-15 thuộc Chương trình Nghiên cứu khoa học phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam đến năm 2020 (KX.02/11-15) do Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội chủ trì thực hiện. Kết quả nghiên cứu đã được tổng hợp trong cuốn sách Hôn nhân xuyên biên giới với phát triển xả hội do Chủ nhiệm đề tài Đặng Thị Hoa đứng tên [55]. Cuốn sách đề cập thực trạng hôn nhân xuyên biên giới tại 6 tỉnh vùng biên giáp ranh với Trung Quốc, Lào, Campuchia với các số liệu cụ thể, phản ánh sâu rộng thực trạng hôn nhân xuyên biên giới ở các tỉnh vùng biên giới, trong đó có Cao Bằng... Bởi vậy, nghiên cứu này là cơ sở, tiền đề quan trọng cho nghiên cứu của luận án. Ngoài ra còn một số công trình khác nghiên cứu về vùng biên có nhiều giá trị tham khảo cho luận án này như của các tác giả Nguyễn Thị Thanh Bình [4], Trần Hồng Hạnh [48], Đinh Quang Hải [45, 46]... Các nghiên cứu nhìn chung tạo nên một bức tranh tổng thể về kinh tế, xã hội và cả hôn nhân của cư dân ở vùng biên giới, tuy nhiên ở phạm vi rộng. Bởi vậy, nghiên cứu này sẽ nghiên cứu hôn nhân của cư dân vùng biên giới tại một địa bàn hẹp là vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, làm nên một một mảnh ghép nhỏ trong bức tranh chung về hôn nhân vùng biên giới. 1.2. Cơ sở lý thuyết 1.2.1. Một số khái niệm - Hôn nhân Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Hôn nhân là thể chế xã hội kèm theo những nghi thức xác nhận quan hệ tính giao giữa hai hay nhiều người
  • 33. 26 thuộc hai giới khác nhau (nam, nữ), được coi là chồng và vợ, quy định mối quan hệ trách nhiệm giữa họ với nhau và giữa họ với con cái của họ”. Ở đây, “thể chế” được hiểu là những quy tắc xã hội chính thức, những quy định xã hội không chính thức hay những nhận thức chung của xã hội mà các cá nhân tham gia kết hôn cần phải tuân thủ. Sự tuân thủ các thể chế (như độ tuổi kết hôn, môn đăng họ đối, hình thức kết hôn, thủ tục kết hôn theo quy định hiện hành…) cùng với các nghi lễ, tục lệ là điều kiện xác nhận quan hệ tính giao của một cặp đôi nam nữ. Ngoài ra, theo định nghĩa này thì hôn nhân quy định trách nhiệm của những người tham gia kết hôn với con cái [60: tr 389]. Nhìn nhận theo giai đoạn thay đổi vị thế xã hội, Emily A.Schult và Robert H.Lavenda cho rằng, hôn nhân là một quá trình xã hội với mô hình là sự kết hợp giữa một người đàn ông với một người đàn bà, từ đó làm thay đổi mối quan hệ giữa những người thân thuộc ở mỗi bên và duy trì những khuôn mẫu xã hội thông qua việc sinh đẻ cùng với một số nghĩa vụ và quyền lợi đi kèm [38, tr. 342]. Ở góc độ pháp luật, quan niệm hôn nhân được xem xét ở sau giai đoạn kết hôn: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn” [89]. Các quan hệ này dựa trên cơ sở giao tiếp giữa hai vợ chồng, với các khía cạnh về ngôn ngữ giao tiếp, môi trường giao tiếp, thái độ giao tiếp, mục đích giao tiếp, trách nhiệm con cái… + Nội hôn tộc người: là nguyên tắc chỉ kết hôn với người đồng tộc hay cùng một nhóm địa phương với mình. + Hôn nhân một vợ một chồng: là hình thức hôn nhân giữa một người vợ và một người chồng vào một thời điểm nhất định. Luật Hôn nhân và gia đình qui định rõ tại mục 1 của Điều 2 về Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình là Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
  • 34. 27 + Hôn nhân hỗn hợp (mixed marriage): là hôn nhân giữa vợ và chồng thuộc hai nhóm quốc tịch, dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo khác nhau. Theo đó ở luận án này, “hôn nhân hỗn hợp” được hiểu là cặp hôn nhân giữa vợ và chồng thuộc hai nhóm tộc người khác nhau sau kết hôn. Ví dụ, chồng là người Tày lấy vợ là người Nùng, Kinh hoặc ngược lại. Sự khác biệt về quốc gia trong hôn nhân ở luận án này sẽ được dùng bằng thuật ngữ hôn nhân xuyên biên giới hay phụ nữ vùng biên kết hôn với chồng Trung Quốc. + Hôn nhân có yếu tố nước ngoài: là thuật ngữ được dùng phổ biến và chính thức trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam như Luật Hôn nhân và gia đình. Tại Khoản 14, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có ghi: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, quan hệ hôn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Hình thức hôn nhân này rõ ràng nhấn mạnh các yếu tố pháp lý trong quan hệ hôn nhân giữa người Việt Nam với người nước ngoài. + Hôn nhân xuyên quốc gia (cross-national marriage): là hình thức hôn nhân mà một bên sẽ di cư đến và phải thích nghi với một nền văn hóa mới khác biệt với nền văn hóa của họ và phải hòa nhập về kinh tế và văn hóa vào một cộng đồng mới chưa có sẵn gồm những người có cùng nền văn hóa với họ ở đó” [55, tr. 24]. + Hôn nhân xuyên biên giới (cross - border mariage): có nhiều cách hiểu về thuật ngữ này và vào năm 2010 trong nghiên cứu của mình, Lucy Williams đưa ra những yếu tố để phân định hai hình thái hôn nhân xuyên quốc gia là cross-border marriage và transnational marrigage.
  • 35. 28 Cross-border marriage là hôn nhân giữa các nhóm tộc người và văn hóa khác nhau ở vùng cận biên giữa các nước, với đặc trưng là ít hiểu biết về lối sống và văn hóa của nhau. Transnational marriage là mối quan hệ hôn nhân nằm trong một cộng đồng nội khối nào đó nhưng vượt qua biên giới quốc gia, ở đó có sự khác biệt về lối sống và niềm tin nhưng có sự hiểu biết lẫn nhau. Từ đó, ông đưa ra cách tiếp cận nghiên cứu theo hai hướng khác nhau ở mỗi nhóm thuộc cross- border marriage hay transnational marrigage [149, tr. 120]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hôn nhân xuyên biên giới” được sử dụng tương đối phổ biến trong các nghiên cứu về hôn nhân qua lại giữa các tộc người, cộng đồng ở hai quốc gia có chung đường biên giới. Các tộc người đó có thể là đồng tộc hoặc khác tộc người, có chung đặc điểm văn hóa hoặc khác biệt về văn hóa. “Hôn nhân xuyên biên giới là các cuộc hôn nhân giữa những người ở các quốc gia có chung đường biên giới và đặc biệt là các cuộc hôn nhân ở vùng biên giới” [55, tr. 59]. Dẫu còn nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm thuật ngữ “hôn nhân xuyên biên giới” nhưng thuật ngữ đã dần trở nên quen thuộc và được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu hôn nhân giữa các tộc người ở vùng biên với người ở bên kia biên giới. Bởi vậy, trong luận án này, chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ “hôn nhân xuyên biên giới” để chỉ mối quan hệ hôn nhân giữa các tộc người ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng với người ở bên kia biên giới Trung Quốc. + Hôn nhân vùng biên giới: dùng để chỉ phạm vi không gian xã hội là vùng biên giới, nơi người người tham gia kết hôn lớn lên, trưởng thành cho đến khi kết hôn hoặc người từ địa phương khác đến sinh sống và kết hôn tại đây. - Biên giới quốc gia
  • 36. 29 Theo Luật biên giới Quốc gia, Điều 1 quy định: “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [96, tr. 3]. Biên giới quốc gia trên đất liền được xác định bằng hệ thống mốc quốc giới. - Khu vực biên giới: “Khu vực biên giới đất liền nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm các xã, phường, thị trấn có một phần địa giới hành chính trùng hợp với đường biên giới quốc gia trên đất liền. Hoạt động trong khu vực biên giới trên đất liền bao gồm: Cư trú, đi lại, sản xuất, kinh doanh; thăm dò, khai thác tài nguyên; xây dựng các công trình, thực hiện các dự án và các hoạt động khác có liên quan đến xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong khu vực biên giới đất liền” [22]. - Vùng biên giới: Theo Quyết định 1151/QĐ-TTg về việc phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng biên giới Việt – Trung đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ, vùng biên giới được xác định là khu vực hành chính cấp huyện tiếp giáp với đường biên giới. Theo cách phân định như vậy thì huyện Phục Hòa được gọi là huyện vùng biên; tỉnh Cao Bằng được gọi là tỉnh vùng biên. Hai thị trấn và 04 xã của huyện Phục Hòa có ranh giới là đường biên giới quốc gia (địa bàn nghiên cứu của luận án) được gọi là các xã, thị trấn khu vực biên giới của huyện Phục Hòa. Tuy nhiên, người dân địa phương còn thường gọi là các xã, thị trấn vùng biên của huyện, tương đồng với tên gọi của luận án.
  • 37. 30 1.2.2. Cơ sở lý thuyết Luận án sử dụng một lý thuyết làm cơ sở tiếp cận, phân tích và giải quyết các vấn đề nghiên cứu, gồm: Lý thuyết sự lựa chọn duy lý, lý thuyết về giao lưu và tiếp biến văn hóa và lý thuyết vùng văn hóa. - Lý thuyết lựa chọn duy lý (Rational choice theory) Cách tiếp cận theo lý thuyết lựa chọn duy lý (Rational Choice Theory) từ lâu đã là mô hình chi phối trong kinh tế học, nhưng trong những thập kỷ gần đây, nó đã được sử dụng rộng rãi hơn trong các ngành khác như Xã hội học, Khoa học Chính trị và Nhân học… Lý thuyết lựa chọn duy lý là cách tiếp cận được sử dụng để hiểu hành vi của con người, bắt đầu bằng việc xem xét hành vi lựa chọn của cá nhân. Lý thuyết này cho rằng hành động của con người luôn có chủ đích nhằm tối đa hóa lợi ích. Thuyết lựa chọn duy lý đòi hỏi phải phân tích hành động lựa chọn của cá nhân trong bối cảnh kinh tế - xã hội nhất định và trong mối liên hệ với hệ thống xã hội và các cá nhân khác. Trong lĩnh vực nhân học văn hóa và xã hội thì việc ứng dụng lý thuyết lựa chọn duy lý vẫn còn khá ít ỏi, bắt đầu từ các nhà nhân học kinh tế. Trong công trình khảo luận về quà tặng xuất bản năm 1925, Marcel Mauss cho rằng, quan hệ trao đổi là một quan hệ quyền lực, trong đó người nhận quà thường tìm cách trao lại món quà khác có giá trị tương đương với mong muốn thoát khỏi sự ràng buộc. Trong tác phẩm “Định chế Tôtem hiện nay”[72], Lévi- Strauss đã đưa ra nguyên lý trao đổi trong hôn nhân để lý giải tục lệ cấm hôn nhân nội tộc. Ông cho rằng, tục lệ này nảy sinh trên cơ sở coi hôn nhân là việc xây dựng mạng lưới và hình thành quan hệ xã hội với bên ngoài làm cơ sở cho việc bảo đảm hòa bình và mang lại lợi ích cho cá nhân và cộng đồng. Lựa chọn kết hôn là thuộc về quyền quyết định cá nhân trong lựa chọn bạn đời. Dựa trên các quan điểm cá nhân để có lý do lựa chọn hợp lý để thể hiện rõ mục đích kết hôn. Do vậy, NCS chọn lý thuyết Lựa chọn duy lý để lý giải các
  • 38. 31 quan niệm và hành vi trong hôn nhân. Do để thấy rõ hơn mục đích sự lựa chọn trong hôn nhân của người Tày vùng biên, trong đó tập trung vào tính kết hợp (tạo mạng lưới) và tính trao đổi giá trị kinh tế của hôn nhân. - Lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa Giao lưu và tiếp biến văn hóa (acculturation) được các nhà dân tộc học Pháp và phương Tây đưa ra vào cuối thế kỷ XIX chỉ quá trình thay đổi văn hóa xẩy ra khi các cá nhân từ các nền văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và liên tục. Sự tiếp xúc này dẫn đến những thay đổi ở cả hai cá nhân (thái độ, giá trị, niềm tin và bản sắc) cũng như cấp độ nhóm (hệ thống văn hóa và xã hội). Các cá nhân có nền văn hóa khác biệt cố gắng hòa mình vào nền văn hóa phổ biển hơn bằng cách tham gia vào các hoạt động văn hóa mới nhưng vẫn giữ truyền thống văn hóa ban đầu của họ. Những ảnh hưởng của giao lưu tiếp biến văn hóa có thể được nhìn thấy ở nhiều cấp độ, ở những người sở hữu văn hóa gốc và những người đang cố gắng hòa nhập. Ở cấp độ cộng đồng, giao lưu tiếp biến văn hóa dẫn đến thay đổi về văn hóa như hành vi thực hành tôn giáo, chăm sóc sức khỏe cộng đồng và tổ chức xã hội, không ngoại trừ cả trang phục và ngôn ngữ. Ở cấp độ cá nhân, giao lưu và tiếp biến văn hóa dẫn đến sự pha trộn các giá trị về phong tục, chuẩn mực, hành vi. Quá trình tiếp biến này thông thường diễn ra trong một vài thế hệ, có thể thông qua áp lực xã hội. Quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra theo các bước: khuếch tán, thích nghi mang tính ứng phó, tái tổ chức xã hội văn hóa, tiếp xúc và phân giải văn hóa. Các hình thức nổi bật của quá trình tích lũy bao gồm các yếu tố tiền đề (điều kiện tích lũy), các chiến lược (định hướng tích lũy) và kết quả của sự tiếp biến. Điều kiện tích lũy là các yếu tố cấp độ cá nhân và cấp độ nhóm, chẳng hạn như các đặc điểm của xã hội tiếp nhận (như sự phân biệt đối xử nhận thức hoặc khách quan), đặc điểm của xã hội gốc (như bối cảnh chính trị), đặc điểm của
  • 39. 32 nhóm người nhập cư (như sức sống tộc người) và đặc điểm cá nhân (như kỳ vọng, chuẩn mực và tính cách). Những đặc điểm này xác định bối cảnh ảnh hưởng đến quá trình tích lũy. Trong nghiên cứu về hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới, lý thuyết giao lưu và tiếp biến văn hóa là công cụ xem xét, đánh giá những thay đổi về quan điểm, hành vi, thái độ ứng xử cũng như tính bảo lưu giá trị văn hóa truyền thống của các cá nhân, cộng đồng tộc người khi tiếp xúc với một văn hóa mới khác biệt. Từ đó hình thành sự tiếp biến văn hóa và một giá trị văn hóa mới chung nhất được định hình. - Lý thuyết vùng văn hóa Với sự ra đời của Lý thuyết “vùng văn hóa” trong nhân học Mỹ là một bước đột phá ở cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Một mặt, lý thuyết này chống lại quan điểm tiến hóa của L.Morgan và E.Taylor, mặt khác, nó cũng phê phán những quan điểm “vòng văn hóa”, “khuyến tán văn hóa” cực đoan của các nhà nghiên cứu Tây Âu. Trên cơ sở nghiên cứu khá tường tận về người da đỏ châu Mỹ, các nhà nhân học Mỹ đã đưa ra lý thuyết “vùng văn hóa”, “loại hình văn hóa” và "trung tâm văn hóa" mà đại diện tiêu biểu là C.L.Wisler. Ông cho rằng, nghiên cứu cácvùng văn hóa nhất thiết phải bắt đầu từ việc phân tích một tổ hợp các yếu tố văn hóa, rằng không thể nhìn nhận riêng rẽ từng yếu tố một, chúng hợp thành một thể thống nhất không thể chia cắt, và đó chính là kết quả của quá trình lâu dài nhóm dân cư ấy thích ứng với những điều kiện của môi trường sinh thái. Đây là một bước tiến mới mang tính lý luận và phương pháp nghiên cứu về vùng văn hóa. Các nhà nghiên cứu dân tộc học Xô Viết đã kế thừa trên bình diện rộng lớn hơn, đã bàn tới vấn đề nghiên cứu liên văn hóa. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, trong một số công trình của S.P.Tônxtop và A.M.Dôlôrarep đã đề cập đến vấn đề không gian địa lý của các hiện tượng văn hóa. Đây là
  • 40. 33 tiền đề cho sự xuất hiện lý thuyết về “Loại hình kinh tế - văn hóa” và “Khu vực văn hóa - lịch sử” (còn gọi là khu vực lịch sử - dân tộc học hay vùng văn hóa - lịch sử) [129]. Với việc đưa ra khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa (loại hình kinh tế - xã hội) của các nhà dân tộc học Xô Viết để giải thích hiện tượng tương đồng và khác biệt văn hóa kể trên, loại hình kinh tế - văn hóa được hiểu: “Đó là một tổng thể các đặc điểm kinh tế và văn hóa hình thành trong quá trình lịch sử của các dân tộc khác nhau, cùng ở một trình độ phát triển kinh tế - xã hội và sinh sống trong môi trường địa lý tự nhiên như nhau” [129, tr. 49]. Để bao quát việc nhận thức các hiện tượng tương đồng và khác biệt văn hóa giữa các vùng và các dân tộc, các nhà dân tộc học Xô Viết không chỉ sử dụng khái niệm loại hình kinh tế - văn hóa mà còn dùng cả khái niệm “vùng văn hóa - lịch sử” (vùng lịch sử - văn hóa): Vùng văn hóa - lịch sử (vùng lịch sử - dân tộc học hay gọi tắt là vùng văn hóa) là một vùng mà ở đó sinh sống những tộc người. Trong quá trình lịch sử lâu dài, giữa họ có những giao lưu, ảnh hưởng khăng khít với nhau, từ đó hình thành nên những yếu tố văn hóa chung thể hiện trong văn hóa vậtchất cũng như văn hóa tinh thần [129, tr. 57]. Đặc trưng văn hóa của vùng là những yếu tố văn hóa gắn bó hữu cơ với nhau thể hiện rõ trong văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Đối với các dân tộc còn ở trình độ tiền công nghiệp thì văn hóa dân gian (folklore) thể hiện rõ nét và cơ bản những sắc thái văn hóa đặc trưng cho vùng văn hóa - lịch sử. Phạm vi không gian văn hóa lớn hơn vùng là miền hay khu vực. Cấp bậc hẹp hơn vùng là tiểu vùng. Dưới vùng và tiểu vùng còn có thể phân ra nhỏ hơn nữa tùy thuộc vào thực tế mỗi vùng văn hóa - lịch sử. Trong thực tế, khi phân cấp các vùng văn hóa - lịch sử, phạm vi các vùng càng nhỏ, thì khả năng trùng hợp càng lớn hơn. Sự khác biệt giữa loại hình kinh tế - văn hóa và vùng văn hóa - lịch sử cũng được phân biệt rõ ràng. Nếu vùng văn hóa - lịch
  • 41. 34 sử là một không gian địa lý liên tục, liền khoảnh thì loại hình kinh tế - văn hóa có thể bao gồm trong đó nhiều vùngđất thuộc những vùng địa lý và đại lục khác nhau [117]. Khi áp dụng vào thực tiễn Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khuynh hướng khác nhau về không gian văn hóa ở các nước châu Âu, ở Mỹ và Liên Xô (cũ), Ngô Đức Thịnh cũng đưa ra khái niệm vùng văn hóa (hay vùng văn hóa - lịch sử), trong mỗi vùng văn hóa lại có các tiểu vùng văn hóa. Như vậy, vùng biên giới Phục Hòa được xem là một tiểu vùng văn hóa. Việc vận dụng lý thuyết vùng văn hóa giúp tác giả luận án thấy tính đặc thù trong hôn nhân được định hình bởi văn hóa riêng biệt, độc lập ở vùng biên giới so với các khu vực xa biên giới. 1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu 1.3.1. Huyện Phục Hòa Phục Hòa là tên gọi có từ xa xưa, gắn với thành Phục Hòa, nay là trung tâm chợ Phục Hòa. Thành Phục Hòa tương truyền được xây cùng thời với thành Nà Lữ (Hòa An), thành Đại La (Hà Nội) và thành Lạng Sơn (tỉnh Lạng Sơn), khoảng năm 864. Vào thời kỳ đầu của nhà Nguyễn, Gia Long (1802) tỉnh Cao Bằng lúc này được phân thành 4 châu gồm: Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang với 27 tổng, 233 xã, thôn, phường, phố, trại, động. Phục Hòa là một trong 14 tổng thuộc Châu Thạch Lâm và được chia thành 11 xã nhỏ, trong đó có xã Phục Hòa. Xã Cách Linh thuộc huyện Phục Hòa ngày nay khi đó thuộc Cách Linh. Đến năm 1835, Minh Mệnh thứ 16, Châu Thạch Lâm lại chia thành Thạch Lâm và Thạch An. Đến thời vua Tự Đức (1848-1883), tỉnh Cao Bằng có một phủ Trùng Khánh và 5 huyện: Thạch Lâm, Thạch An, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang. Đến thời Đồng Khánh (1886-1888), tổng Phục Hòa thuộc huyện Thạch
  • 42. 35 An với 6 xã, phố, trại là: xã Phục Hòa, xã Bút Phong, xã Xuân Quang, xã Tiên Giao, phố Bằng Lâu và trại Can Kham [100, tr. 663]. Đến những năm 20 của thế kỷ XX, tỉnh Cao Bằng gồm 1 phủ Hòa An, 8 châu (Bảo Lạc, Hà Quảng, Hạ Lang, Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên, Thạch An và Thượng Lang) và 33 tổng. Trong đó châu Phục Hòa gồm 2 tổng: Phục Hòa (9 xã) và Cách Linh (8 xã). Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, châu Phục Hòa đổi thành huyện Phục Hòa, gồm các xã: Hồng Đại, Triệu Ẩu, Cách Linh, Lương Thiện, Tiên Thành, Đà Sơn, Đại Tiến, Mỹ Hưng và Tà Lùng. Do nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, tháng 5/1967, hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên được sáp nhập thành một đơn vị hành chính gọi là Quảng Hòa. Đến ngày 13/12/2001, Chính phủ có Nghị định số 96/2001/NĐ-CP về việc chia huyện Quảng Hòa tỉnh Cao Bằng thành hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên. Lúc này huyện Phục Hòa có 8 xã và 1 thị trấn cửa khẩu. Ngày 13/12/2007, Chính phủ có Nghị định số 183/2007/NĐ-CP thành lập thị trấn Hòa Thuận thuộc huyện Phục Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và nhân khẩu của xã Hòa Thuận. Hiện nay, huyện có 9 đơn vị hành chính, gồm 7 xã và 2 thị trấn, trong đó có 4 xã và 2 thị trấn có có ranh giới là đường biên giới quốc gia giáp với huyện Long Châu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, với tổng chiều dài đường biên giới là 21km. Các địa bàn thuộc vùng biên giới gồm: thị trấn Tà Lùng, Hòa Thuận và các xã Triệu Ẩu, Cách Linh, Đại Sơn, Mỹ Hưng là địa bàn nghiên cứu của luận án này. 1.3.2. Điều kiện tự nhiên huyện Phục Hòa Huyện Phục Hòa có diện tích tự nhiên là 251,1284 km2 , nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Cao Bằng, phía Bắc giáp huyện Quảng Uyên; phía Đông
  • 43. 36 giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc; phía Tây Nam giáp huyện Thạch An, Hòa An, là điểm cuối của quốc lộ 3, giao thông đi lại thuận lợi. Địa hình huyện Phục Hòa chia thành 3 khu vực tương đối rõ nét, gồm địa hình núi đá, địa hình núi đất và địa hình đồi núi thấp. Ở các vùng núi có địa hình phức tạp, bao gồm các dãy núi đá vôi, với các đỉnh nhọn như tai mèo, gồ ghề lởm chởm. Ở các vùng núi thấp, đất đồi có địa hình lượn sóng hoặc bậc thang do quá trình cải tạo, khai phá của con người. Dưới chân những dãy núi là những thung lũng, cánh đồng nhỏ, tương đối bằng phẳng, thuận tiện cho canh tác nông nghiệp. Đó là những cánh đồng lúa ở các bản thuộc trung tâm các xã như Tiên Thành, Tục Mỹ (Mỹ Hưng), Bản Riềng, Bản Pò (Cách Linh), Nà Suối (Hồng Đại), bản Chàm (trung tâm thị trấn Hòa Thuận), bản Co, Nà Lòa, Nà Vải (Triệu Ẩu)… Ở huyện Phục Hòa, mỗi năm có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông nhưng do ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vị trí nằm sâu trong lục địa nên sự phân định giữa các mùa không rõ rệt, cơ bản có hai mùa: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 tới tháng 9 hằng năm, nhiệt độ trung bình 25o c với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có lúc gây ra lũ lụt. Mùa khô từ tháng 10 tới tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình 12o c đến 15o c, có năm rét dưới 0o c, rét đậm, rét hại khiến vật nuôi chết hàng loạt. Hệ thống sông ngòi của huyện tương đối phong phú với ba con sông lớn: sông Bằng Giang, sông Bắc Vọng và sông Vi Vọng, ngoài ra còn các nhánh nhỏ đi đều đến các xã và thị trấn. Các con sông đều bắt nguồn từ biên giới Việt - Trung, chảy trên địa bàn huyện Phục Hòa rồi chảy sang Trung Quốc, đồng thời trở thành ranh giới phân định đường biên giữa hai quốc gia. Bên cạnh đó, trên địa bàn huyện còn có rất nhiều các con suối, mạch nước ngầm bắt nguồn từ chân núi thuận tiện cho việc tưới tiêu như suối Cốc Lùng,
  • 44. 37 Khưa Nính (Đại Sơn), Khuổi Nuông (Cách Linh), Nặm Cáp, Khuổi Kheng (Triệu Ẩu)... 1.3.3. Giới thiệu các điểm nghiên cứu - Thị trấn Tà Lùng Tà Lùng là thị trấn cửa khẩu, được thành lập vào năm 1999, phía Bắc và phía Tây giáp thị trấn Hòa Thuận (Phục Hòa), phía đông giáp Trung Quốc, phía nam giáp Trung Quốc và xã Mỹ Hưng. Thị trấn có 7 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại các bản: Pò Tập, Đỏng Lèng, Bó Pu và rải rác ở các bản khác. Người Nùng ở bản Phia Khoang có quan hệ thân tộc rất gần gũi với người Nùng ở bản Phùng bên kia biên giới Trung Quốc. Người Kinh mới đến sống ở Tà Lùng trong vài chục năm gần đây do sức hút của kinh tế cửa khẩu. Nhờ có cửa khẩu quốc tế Tà Lùng, một trong những đầu mối giao thương quan trọng với Trung Quốc, đời sống kinh tế của cư dân ở Tà Lùng khá giả và ổn định hơn so với các xã khác trong huyện, trong đó có trên 30% số hộ làm dịch vụ, trên 60% số hộ còn lại thu nhập chủ yếu từ trồng mía. Tỉ lệ hộ nghèo vào năm 2015 chỉ còn trên 2%, so với mức bình quân 13,9% của cả huyện Phục Hòa. - Thị trấn Hòa Thuận Thị trấn Hòa Thuận được thành lập vào năm 2007, trên cơ sở diện tích tự nhiên của xã Hòa Thuận, phía bắc giáp với các xã Đại Sơn, Lương Thiện (Phục Hòa), phía nam giáp xã Mỹ Hưng và thị trấn Tà Lùng, phía tây giáp xã Mỹ Hưng, phía đông giáp xã Đại Sơn và Trung Quốc. Thị trấn có 15 bản, trong đó, người Tày sinh sống tập trung tại các bản: Bó Khoan, Phố Phục Hòa 1, Phố Phục Hòa 2, Pác Bó 1, Pác Bó 2. Thị trấn Hòa Thuận là trung tâm hành chính của huyện Phục Hòa nên cư dân có điều kiện phát triển kinh tế theo hướng thương mại, dịch vụ. Hiện nay, thị trấn có 504 cơ sở và hộ gia đình hoạt động thương mại - dịch vụ và tiểu thủ
  • 45. 38 công nghiệp, chiếm 46,3% về cơ cấu kinh tế. Tỷ lệ hộ sản xuất nông nghiệp chiếm 53,7% về cơ cấu kinh tế của thị trấn. Bên cạnh đó, có nhiều người làm công chức nhà nước. Nhờ vậy, nhìn chung, đời sống kinh tế của người dân ở thị trấn Hòa Thuận tốt hơn so với thị trấn Tà Lùng và các xã khác trong huyện. - Xã Triệu Ẩu Xã Triệu Ẩu phía bắc giáp huyện Quảng Uyên và huyện Hạ Lang. Phía đông giáp huyện Hạ Lang và Trung Quốc, phía nam giáp xã Cách Linh, phía tây giáp xã Hồng Đại (Phục Hòa). Xã có 11 bản, hầu hết các bản là bản của người người Tày, gồm: bản Co, bản Sàng, bản Buống, bản Nà Nòa, bản Nà Sao, bản Roọng Phàng, bản Phia Chiếu, bản Tha Miang, bản Khuổi Khuông, bản Khún. So với 6/9 xã, thị trấn khu vực biên giới của huyện Phục Hòa thì Triệu Ẩu được xếp vào xã đặc biệt khó khăn bởi nằm cách xa trung tâm huyện 22km, giao thông liên xã và liên huyện xuống cấp, nhiều đoạn là đường đất nên đi lại rất khó khăn, đặc biệt vào những ngày mưa gió. Cư dân trong xã chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, sắn, lúa và chăn nuôi. Có nhiều hộ có người đi qua biên giới làm thuê cho người Trung Quốc. Tuy nhiên, do vị trí tiếp giáp với Trung Quốc hẹp, việc đi lại khó khăn, nên để sang Trung Quốc, người dân thường đi sang huyện Hạ Lang, từ đó qua Trung Quốc.Tỉ lệ hộ nghèo của xã năm 2018 là 27,97%. - Xã Cách Linh Xã Cách Linh phía bắc giáp xã Đồng Đại và xã Triệu Ẩu (Phục Hòa), phía nam giáp xã Đại Sơn, phía tây giáp xã Đại Sơn và Hồng Đại, phía đông giáp với Trung Quốc. Xã có 18 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại các bản: Riềng Dưới, Bản Mển, Bó An. Mặc dù tiếp giáp với Trung Quốc qua sông Bắc Vọng nhưng do đường đi lại, vận chuyển khó khăn nên hoạt động
  • 46. 39 trao đổi buôn bán qua sông bằng đường tiểu ngạch ở xã Cách Linh không rầm rộ như ở xã Đại Sơn hay tại thị trấn Tà Lùng. Cư dân chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía, lúa và sắn và chăn nuôi. Tỉ lệ lao động nông nghiệp chiếm trên 90%. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người đã và đang đi làm bốc vác hàng thuê cho các chủ thương lái qua đường tiểu ngạch hoặc sang Trung Quốc làm thuê. Năm 2017, xã đạt 10/19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, các tiêu chí chưa đạt gồm: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, môi trường an toàn thực phẩm…Tỉ lệ hộ nghèo chiếm trên 30% và tỉ lệ hộ cận nghèo chiếm trên 44%. - Xã Đại Sơn Xã Đại Sơn phía bắc giáp với xã Cách Linh (Phục Hòa) và xã Hồng Quang (Quảng Uyên), phía nam giáp thị trấn Hòa Thuận, phía tây giáp thị trấn Hòa Thuận và xã Lương Thiện (Phục Hòa), phía đông giáp với Trung Quốc. Xã có 16 bản, trong đó, người Tày sống tập trung tại các bản: Bản Mày, Cốc Lùng vả rải rác ở các bản người Nùng khác. Cư dân của xã Mỹ Hưng chủ yếu làm nông nghiệp trồng mía và chăn nuôi. Ngoài ra, hầu hết các hộ có người đã hoặc đang đi làm bốc vác vận chuyển hàng, chủ yếu là gạo, nông sản qua sông Bắc Vọng hoặc đi làm thuê ở bên Trung Quốc. Con sông này chảy qua các xã Cách Linh, Đại Sơn và thị trấn Tà Lùng, đồng thời là ranh giới phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Có 2 điểm vận chuyển hàng qua sông nhiều nhất là tại xã Đại Sơn và thị trấn Tà Lùng. Năm 2017, xã đã thực hiện được 14/19 tiêu chí nông thôn mới, bê tông hóa được 13,75 km đường làng ngõ xóm… trong đó, các tiêu chí chưa đạt được có: cơ sở vật chất văn hóa, nhà ở dân cư, thu nhập, hộ nghèo, môi trường an toàn thực phẩm. Nhìn chung, đời sống cư dân tốt hơn so với xã Mỹ Hưng, nhưng còn nhiều khó khăn. - Xã Mỹ Hưng