SlideShare a Scribd company logo
1 of 71
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGÔ ĐÌNH LẬP
CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
NGÔĐÌNHLẬPLUẬNVĂNCAOHỌCNĂM2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
NGÔ ĐÌNH LẬP
CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY
CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
Mã số CN : 62380107
Người hướng dẫn khoa học: Phó giáo sư – Tiến sỹ Bùi Xuân Hải
TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi trên cơ sở những ý
tưởng hoặc tổng hợp của tôi. Những luận điểm của các tác giả khác đã được
trích dẫn đầy đủ.
Đà Lạt, ngày tháng 8 năm 2014
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU: ....................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1- Khái quát cơ cấu tổ chức công ty cổ phần:........................................................7
1.2- Vị trí, vai trò của Ban kiểm soát: ....................................................................13
1.3- Chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát:.......................................................20
Kết luận chương 1: ...............................................................................................22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1- Về thành lập Ban kiểm soát:..........................................................................24
2.2- Về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát: ............................................................26
2.3- Về hoạt động của Ban kiểm soát....................................................................27
2.4- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát...................................................29
2.5- Về thành viên Ban kiểm soát: ........................................................................39
Kết luận chương 2: ................................................................................................52
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ BAN
KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
3.1- Định hướng chung cho việc hoàn thiện chế định Ban kiểm soát: ....................53
3.2- Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về Ban kiểm soát của công ty cổ phần
trong pháp luật doanh nghiệp.................................................................................57
3.2.1- Về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Ban kiểm soát: ........................................57
3.2.2- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát:................................................58
3.2.3- Về tiêu chuẩn và bầu thành viên Ban kiểm soát:..........................................59
3.2.4- Về nghĩa vụ, trách nhiệm, chế độ thù lao và lợi ích khác của thành viên Ban
kiểm soát:..............................................................................................................60
3.2.5- Về miễn nhiệm, bãi nhiệm và cơ chế pháp lý bảo vệ thành viên Ban kiểm
soát:......................................................................................................................61
Kết luận chương 3: ...............................................................................................61
KẾT LUẬN.........................................................................................................63
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1- Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, trong nhiều năm, kinh tế
Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng vì vậy, đã khai thông tiềm lực
tài chính của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội cũng như thu hút một
lượng lớn các nhà đầu tư tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Bên
cạnh đó, trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, việc trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã khẳng định sự đúng đắn
công cuộc đổi mới ở nước ta qua đó đã ghi nhận những thành tựu to lớn trên
con đường phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một trong những thành tựu đáng ghi nhận đó là việc tạo hành lang
pháp lý an toàn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Tạo sự thông
thoáng trong môi trường đầu tư cũng như đáp ứng kịp thời sự thay đổi của xã
hội vì vậy, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được cũng cố và ngày
càng hoàn thiện.
Với việc ban hành Bộ luật Dân sự; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư;
Luật chứng khoán; Luật Thương mại; Luật kinh doanh bất động sản; Luật Phá
sản....cũng như nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt
động của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhằm thực hiện thành công mục
đích chính sách kinh tế của Nhà nước là “ làm cho dân giàu nước mạnh, đáp
ứng ngày càng tốt nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát
huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế”.1
Cùng với việc xây dựng luật, các chủ trương chính sách trong việc
thực thi đường lối cải cách kinh tế cũng đã có sự thay đổi đáng kể như chủ
trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, biện pháp hành chính được áp dụng
trong điều hành kinh tế thời bao cấp được thay đổi theo hướng tuân thủ các
quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Việc hình thành các thị trường cơ
1
Điều 16 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 51/2001/QH 10 của Quốc Hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 10, khóa X từ ngày 20/11 đến ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi
bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
2
bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường
đất đai… đã nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận
lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng
trưởng kinh tế.
Với chính sách và phương châm như thế, Luật Doanh nghiệp được
ban hành đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp
cũng như tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút các nhà đầu tư, tạo ra một
sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế “ là một bước tiến lớn, đã tạo
ra một thay đổi căn bản trong hoàn thiện khung khổ pháp luật về môi trường
kinh doanh ở nước ta, góp phần thiết lập môi trường kinh doanh bình đẳng,
công bằng và không phân biệt đối xử.” 2
qua đó góp phần làm cho quyền và
nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong các hình thức sở hữu là bình đẳng như
nhau.
Tuy nhiên, có một thực tế mà chúng ta phải thừa nhận đó là: Mặc dù
được đánh giá là đạo luật tiến bộ trong việc tạo điều kiện cho việc hình thành
các loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên, các thiết chế để tạo hành lang pháp lý
cho các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình vẫn là thách
thức lớn đối với các nhà lập pháp nhất là trong xu thế hiện nay với sự phát
triển của những cấu trúc công ty mới như “các tập đoàn toàn cầu linh hoạt và
năng động dần dần thay thế cho các tập đoàn ở tầm khu vực; đó là mạng lưới
các công ty con và liên minh chiến lược rộng lớn và phức tạp với việc hữu sở
cổ phiếu và quản trị chéo lẫn nhau; nguồn vốn đầu tư mang tính đại chúng” 3
.
Vì thế, mô hình tổ chức quản trị doanh nghiệp nhất là trong công ty cổ
phần luôn luôn là đề tài được nghiên cứu hoàn thiện không chỉ ở các nước
phát triển mà còn ở các nền kinh tế đang phát triển. Về bản chất việc phân
định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong công ty cổ
phần trong đó có Ban kiểm soát chính là sự phân chia và chế ước quyền lực
lẫn nhau giữa cổ đông và người quản lý/điều hành trong công ty. Vì vậy, quản
2
Bộ Kế hoạch và đầu tư Ban soạn thảo dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Báo cáo Tổng kết thi hành Luật
Doanh nghiệp 2005
3
Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị, NXB Thời Đại, trang 39
3
trị công ty dù tổ chức theo mô hình nào cũng đều hướng đến hai mục tiêu
quan trọng đó là đảm bảo cho công ty có một hệ thống kiểm soát chặt chẽ
trong hoạt động nhằm đem lại lợi ích cho chủ thể khác nhau.
Vì vậy, giám sát hoạt động quản lý, điều hành, phòng ngừa và phát
hiện nhằm hạn chế rủi ro, tiêu cực... đang là một trong những vấn đề quan tâm
hàng đầu và giữ vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp nói chung
và đối với công ty cổ phần nói riêng. Để công ty cổ phần hoạt động có hiệu
quả, phát triển bền vững theo đúng định hướng, chiến lược kinh doanh của
công ty theo đúng quy định của pháp luật cũng như Điều lệ của công ty, đảm
bảo lợi ích tối đa của công ty, của cổ đông, đăc biệt là những cổ đông nhỏ và
những đối tượng có liên quan, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thì việc
nghiên cứu hoàn thiện chế định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần đóng
vai trò rất quan trọng trong hoàn thiện các chế định bảo vệ nhà đầu tư từ đó
làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng minh bạch. Trên cơ
sở đó, học viên đã lựa chọn “Chế định Ban kiểm soát của công ty cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp 2005” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học luật.
2- Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổ chức quản trị doanh nghiệp nhất là trong công ty cổ phần cũng như
các chế định về bảo vệ cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số đã được rất nhiều
tác giả nghiên cứu, tuy nhiên trong luận văn của mình, học viên tiếp cận
nghiên cứu các vấn đề này thông qua chế định về Ban kiểm soát.
Bởi lẽ, vai trò của Ban kiểm soát được ví như “cơ quan tư pháp”
trong một “nhà nước thu nhỏ”, nhưng trên thực tế thì Ban kiểm soát lại chưa
hoàn thành đúng chức năng mà nó vốn có.
Sở dĩ có hiện tượng này là do cơ chế pháp lý đã có nhưng việc thực thi
chưa nghiêm; nhưng quan trọng nhất đó là quy định của pháp luật về vấn đề
này vẫn còn những bất cập từ đó dẫn đến hoạt động của Ban kiểm soát giống
như “con rối”, thực tế diễn ra trong thời gian gần đây trên các lĩnh vực ngân
hàng, chứng khoán đã chứng minh Ban kiểm soát không có vai trò gì trong
hoạt động của các doanh nghiệp, bởi nếu làm đúng chức năng của mình thì
4
nhà đầu tư phải biết được những sai phạm của các doanh nghiệp này trước khi
bị các cơ quan có chức năng điều tra làm rõ sai phạm.
Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu kết quả khoa học của các đề tài nghiên cứu
trước đó, đồng thời đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ chặt chẽ với yêu
cầu thực tiễn để kiến nghị những sửa đổi về chế định Ban kiểm soát từ đó góp
phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư.
Những nội dung liên quan đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc
độ khác nhau như trong các Luận văn Thạc sỹ Luật học của các tác giả Châu
Quốc An (2006) “Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo Luật Doanh
nghiệp”; Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2008) “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong
công ty cổ phần – So sánh giữa pháp luật Anh và pháp luật Việt Nam”; Đoàn
Mạnh Quỳnh (2010) “Pháp luật về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005”.
Các sách chuyên khảo của các tác giả như: Mai Hồng Quỳ (2012) “Tự
do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam”; Phạm Trí
Hùng – Nguyễn Trung Thẳng (2012) “CEO và Hội đồng quản trị”; Bob Triker
(2012) “Kiểm soát quản trị – các nguyên tắc, chính sách và thực hành về quản
trị công ty và cơ chế kiểm soát quản trị”; Bùi Xuân Hải (2011) “Luật Doanh
nghiệp bảo vệ cổ đông – pháp luật và thực tiễn”; Nguyễn Ngọc Bích –
Nguyễn Đình Cung (2009) “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật
Doanh nghiệp 2005”; Ngô Văn Quế (2001) “Công ty cổ phần và thị trường
tài chính”; Đoàn Văn Trường (1996) “Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt
động công ty cổ phần” và Tập bài giảng chủ thể kinh doanh – Trường Đại học
Luật Tp.Hồ Chí Minh .
Cùng các bài viết trên các tạp chí Khoa học pháp lý của Phó giáo sư –
Tiến sỹ Bùi Xuân Hải vào các năm 2006, 2007, 2009 như: So sánh cấu trúc
quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mô hình điển hình trên
thế giới; Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam; Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật Doanh
nghiệp 2005 cũng như các bài viết của các tác giả khác.
5
Những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận vấn đề dưới những góc
độ pháp lý khác nhau và đối tượng nghiên cứu của các tác giả cũng có sự
khác biệt; nhưng các tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng để học viên
hoàn thành luận văn của mình.
3- Mục đích nghiên cứu đề tài
Thông qua việc nghiên cứu, học viên nêu lên những bất cập của chế
định Ban kiểm soát của Công ty cổ phần; từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn
thiện chế định này nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ
đông ngày càng hiệu quả và thực chất hơn trong hoạt động kinh doanh.
4- Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về chế định Ban kiểm soát được
quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 thông qua việc so sánh Luật Doanh
nghiệp 1999 và Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 từ đó phân tích để chỉ
ra những bất cập, hạn chế và thiếu sót của chế định này với vai trò là một
trong những công cụ quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư,
đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ.
Một số bất cập của chế định đã được các tác giả khác nghiên cứu
nhưng trong luận văn này, những bất cập đó sẽ được nhìn nhận và phân tích
dưới những góc độ khác nhau.
Để tiến hành nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác-LêNin kết hợp với các phương pháp khác như
phương pháp phân tích; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp….. để
đánh giá và nghiêu cứu những nội dung cơ bản của luận văn.
5- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu những quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về
chế định Ban kiểm soát từ đó rút ra những hạn chế bất cập của Luật thực định,
trên cơ sở đó chỉ ra những thiếu sót và đề xuất hướng hoàn thiện chế định này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các công ty cổ phần trong tình hình hiện nay, cũng như những
đối tượng có liên quan như các sinh viên của các trường luật.
6- Bố cục của luận văn
6
Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về Ban kiểm soát của công ty cổ
phần
Chương 2: Thực trạng pháp luật về Ban kiểm soát của công ty cổ phần
Chương 3: Định hướng hoàn thiện chế định về Ban kiểm soát của
công ty cổ phần
7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1- Khái quát cơ cấu tổ chức công ty cổ phần
Tổ chức các doanh nghiệp dưới mô hình công ty có lịch sử hình thành
và phát triển tương đối lâu dài trên thế giới. Trong đó công ty cổ phần “xét ở
góc độ lịch sử hình thành và phát triển thì nó xuất hiện trước công ty trách
nhiệm hữu hạn một thời gian khá dài” 4
. Loại hình công ty này đã phát triển ở
hầu hết các nước “từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn,
từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia thông qua các
công ty đa quốc gia” 5
. Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường được đề cao bởi
quy luật cạnh tranh giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh mà khi tham
gia vào các quan hệ này, sự tự do, sự sáng tạo của các chủ thể được phát huy
tối đa trong đó có tự do trong việc lựa chọn loại hình kinh doanh. Chính vì
vậy, công ty cổ phần đã trở thành một loại hình kinh doanh phổ biến ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới và “được xem là phương thức phát triển cao nhất
cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm
cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” 6
.
Việt Nam, với vị thế của quốc gia đang phát triển cũng tiếp thu những
thành tựu văn minh nhân loại trong đó có thành tựu về kinh tế vì vậy những
loại hình doanh nghiệp trong đó có mô hình công ty cổ phần đã được quy
định tại Luật Công ty năm 1990; Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh
nghiệp 2005. Theo quy định tại Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005 thì cơ cấu
tổ chức quản lý của công ty cổ phần gồm có:
1.1.1 Đại hội đồng cổ đông
Bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, đây là cơ quan
quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Giống như cơ quan lập pháp, Đại
hội đồng cổ đông chỉ họp thường niên hoặc bất thường ít nhất một lần trong
4
Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia,
trang 58
5
Đặng Cẩm Thuý (1997) “Bàn về con đường hình thành công ty cổ phần ở các nước Tư bản và vận dụng
vào Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (số 225).
6
Nguyễn Ngọc Bích (2004), Luật Doanh nghiệp: vốn và quản lý trong công ty cổ phần, NXB Trẻ, trang 38.
8
năm. Đây được xem là nơi tập trung quyền lực của những người có phần vốn
góp trong công ty và là nơi quyết định hầu hết những vấn đề quan trọng có ý
nghĩa đến sự tồn tại của công ty .
Có thể phân định thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thành các
nhóm sau:
- Một là: Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua định hướng phát
triển công ty, quyết định tổ chức, giải thể công ty. Đây là những vấn đề liên
quan đến nền tảng của công ty nên chỉ có Đại hội đồng cổ đông là cơ quan
quyết định cao nhất mới có thẩm quyền này.
- Hai là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và
tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại.
- Ba là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định về mức cổ tức
hằng năm của từng loại cổ phần.
- Bốn là: Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua báo cáo tài chính
hằng năm của công ty cũng như báo cáo đánh giá công tác quản lý và điều
hành công ty.
- Năm là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định mua lại trên 10%
tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại. Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết
định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại, do
đó khi công ty mua lại các cổ phần đã bán, đặc biệt là mua lại với số lượng
lớn (trên 10%) có khả năng ảnh hưởng đến cơ cấu vốn điều lệ của công ty thì
phải được sự đồng ý của Đại hội đồng cổ đông.
- Sáu là: Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn
hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của
công ty nếu Điều lệ công ty không quy định khác.
- Bảy là: Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm
thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, đồng thời có quyền
xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt
hại cho công ty và cổ đông.
- Tám là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ
sung Điều lệ công ty.
9
Do tính chất quan trọng trong các quyết định của Đại hội đồng cổ
đông có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần nên Luật
Doanh nghiệp cũng đã quy định rất chặt chẽ về thẩm quyền triệu tập họp, theo
đó Đại hội thường niên phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, nhưng
tối đa không được quá sáu tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính để thảo
luận và thông qua các vấn đề chính như báo cáo tài chính hằng năm; báo cáo
của Hội đồng quản trị; báo cáo của Ban kiểm soát; quyết định mức cổ tức đối
với mỗi cổ phần của từng loại và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền.
Bên cạnh cuộc họp thường niên, cuộc họp bất thường Đại hội đồng cổ
đông cũng được tiến hành khi Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích
của công ty; khi số thành viên Hội đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên
theo quy định của pháp luật; theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu
tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty; theo yêu
cầu của Ban kiểm soát.
Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông chỉ được tiến hành khi số cổ đông dự
họp đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Nếu cuộc họp
lần thứ nhất không tiến hành được thì sẽ triệu tập cuộc họp lần thứ hai trong
vòng 30 ngày kể từ ngày họp lần thứ nhất, cuộc họp này diễn ra khi số cổ
đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần biểu quyết. Nếu cuộc họp
này lại không thể tiến hành thì cuộc họp lần ba sẽ được triệu tập mà không
cần phụ thuộc vào số cổ đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết
trong vòng 20 ngày kể từ ngày họp lần thứ 2.
Quyết định của Đại hội đồng cổ đông chỉ được thông qua tại cuộc họp
khi được ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp chấp
thuận; đối với việc quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng
loại được quyền chào bán, sửa đổi bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại/giải
thể công ty, đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá
trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ
công ty không có quy định khác thì phải được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu
quyết của cổ đông dự họp chấp thuận. Việc biểu quyết bầu thành viên Hội
10
đồng quản trị và Ban kiểm soát được thực hiện thông qua phương thức bầu
dồn phiếu; trường hợp quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua dưới
hình thức bằng văn bản chỉ có giá trị khi được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu
quyết chấp thuận.
Như vậy, việc triệu tập họp, tham dự cuộc họp và thông qua các quyết
định của Đại hội đồng cổ đông được quy định rất chặt chẽ, trong trường hợp
có sự vi phạm trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông cũng như
trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định của Đại hội đồng cổ
đông vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty thì cổ đông, thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm soát có quyền yêu
cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ
đông trừ trường hợp các quyết định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng
cổ đông với số phiếu cổ phần trực tiếp và ủy quyền tham dự đại diện 100%
tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp.
1.1.2- Hội đồng quản trị
Là cơ quan quản lý công ty, có toàn bộ quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm
quyền của Đại hội đồng cổ đông 7
. Có thể phân quyền và nhiệm vụ của Hội
đồng quản trị thành các nhóm sau:
Thứ nhất nhóm quyền quyết định: Về chiến lược, kế hoạch phát triển
trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; về chào bán cổ phần
mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại hoặc huy
động thêm vốn theo hình thức khác; về giá chào bán cổ phần và trái phiếu của
công ty; về mua lại không quá 10% tổng số cổ phần của từng loại đã được
chào bán trong mỗi mười hai tháng; về thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử
lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh về phương án đầu tư và dự án đầu
tư trong thẩm quyền và giới hạn; về giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị
công nghệ, thông qua hợp đồng vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng
hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần
nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ trừ các giao
7
Khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2005.
11
dịch và hợp đồng thuộc quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông; về cơ
cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; về thành lập công ty con, thành
lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn mua cổ phần của doanh
nghiệp khác; về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng với Giám đốc, Tổng giám đốc hoặc người quản lý khác; về cử
người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn
góp ở công ty khác; về mức lương và lợi ích khác của những người này;
Thứ hai nhóm quyền kiến nghị: Về loại cổ phần và tổng số cổ phần
được quyền chào bán của từng loại; kiến nghị mức cổ tức được trả; kiến nghị
việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty.
Bên cạnh những quyền trên, Hội đồng quản trị có nghĩa vụ duyệt
chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp, triệu tập họp hoặc lấy ý kiến để
Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định; trình báo cáo quyết toán tài chính
hằng năm cũng như giám sát, chỉ đạo giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người
quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty.
Với quy định này, chúng ta nhận thấy những hoạt động kinh doanh và
công việc nội bộ trong công ty đều thuộc sự quản lý của Hội đồng quản trị.
Từ quyền quản lý và tổ chức công ty gồm: Quyết định chiến lược, kế hoạch
phát triển trung dài hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; quyết
định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập các
công ty con, lập chi nhánh văn phòng đại diện và việc góp vốn mua cổ phần
của doanh nghiệp khác…Để thực hiện những nhiệm vụ này, Luật Doanh
nghiệp 2005 quy định thành viên Hội đồng quản trị phải là thể nhân và số
lượng tối thiểu là ba người và tối đa là mười một người, trừ Điều lệ có quy
định khác. Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị không quá năm năm, thành viên
Hội đồng quản trị không nhất thiết phải là cổ đông của công ty và có thể được
bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các quyết định của Hội đồng quản trị
được thông qua bằng hình thức biểu quyết và có hiệu lực thi hành. Số lượng
thành viên Hội đồng quản trị phụ thuộc vào quy mô hoạt động của công ty và
họ có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông công ty. Một số công ty cổ
phần nếu lựa chọn Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm nhiệm Giám đốc hoặc
12
Tổng giám đốc công ty thì việc tập trung quyền lực vào một cá nhân là rất lớn
nên nguy cơ công ty bị thao túng là rất cao.
1.1.3-Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Là người điều hành công việc kinh doanh của công ty, do Hội đồng
quản trị bổ nhiệm trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám đốc/Tổng giám
đốc, là người đại diện theo pháp luật nếu Điều lệ công ty không quy định
khác; nhiệm kỳ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm
kỳ không hạn chế, không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
của doanh nghiệp khác, chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước Hội đồng
quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao
như: Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng
ngày của công ty; quyền kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý
nội bộ công ty; quyền bổ nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công
ty; quyền tuyển dụng lao động và quyết định lương và phụ cấp đối với người
lao động trong công ty và người quản lý thuộc quyền bổ nhiệm của họ; quyền
kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh. Bên cạnh đó,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có nghĩa vụ tổ chức thực hiện các quyết định
của Hội đồng quản trị cũng như tiến hành tổ chức thực hiện kế hoạch kinh
doanh và phương án đầu tư của công ty.
Khi thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty,
hợp đồng lao động đã ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị.
Nếu làm trái những quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì họ phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty.
1.1.4- Ban kiểm soát
Theo quy định thì không phải công ty cổ phần nào cũng bắt buộc phải
thành lập Ban kiểm soát mà chế định này chỉ được thành lập khi công ty cổ
phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu
trên 50% tổng số cổ phần của công ty. Chức năng chính của Ban kiểm soát là
giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc điều
hành công ty; thẩm định và trình các báo cáo bắt buộc của công ty như báo
13
cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công
ty, báo cáo công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông
tại cuộc họp thường niên.
1.2- Vị trí, vai trò của Ban kiểm soát
Một trong những đặc trưng của công ty cổ phần là số lượng cổ đông
về mặt lý thuyết thường rất đông đảo và đa dạng về thành phần xã hội. Nếu
như công ty trách nhiệm hữu hạn với số lượng thành viên tối đa là năm mươi
thì cổ đông của công ty cổ phần là không hạn chế số lượng tối đa. Bên cạnh
đó là sự biến động về số lượng cổ đông cũng diễn ra thường xuyên và dễ dàng
hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa
các cổ đông thường không bền chặt. Họ thậm chí không biết mặt nhau trừ
những cổ đông có số lượng cổ phần lớn trong công ty. Mặt khác, do số lượng
cổ phần của các cổ đông sở hữu trong công ty là không giống nhau – có người
nhiều, người ít vì vậy, tiếng nói và sự ảnh hưởng đến hoạt động trong công ty
của những cổ đông này cũng có sự khác biệt.
Một sự thật hiển nhiên mà chúng ta phải thừa nhận đó là “ không phải
tất cả các cổ đông đều có quyền lợi thống nhất với nhau, đều có khả năng chi
phối, tham gia hoạt động quản lý, kiểm soát công ty giống nhau” 8
. Đây là
một nhận định hoàn toàn chính xác và nó thể hiện đúng bản chất của công ty
cổ phần đó chính là sự đa dạng của cổ đông vì có nhiều hình thức khác nhau
để một tổ chức hay cá nhân trở thành cổ đông của công ty cổ phần, chẳng hạn
như họ có thể tham gia thành lập công ty cổ phần với tư cách là thành viên
sáng lập; tham gia mua cổ phần được chào bán khi công ty phát hành công
khai; nhận chuyển nhượng hoặc được thừa kế cổ phần của cổ đông trong công
ty cũng như xuất thân từ các giai tầng khác nhau trong xã hội đó có thề là tầng
lớp nông dân, công nhân, trí thức…tuy mục đích của họ là lợi nhuận được
chia của công ty dựa vào tỷ lệ vốn góp nhưng động cơ trở thành cổ đông của
họ cũng rất khác biệt đó có thể là một sự đầu tư bài bản và dài hơi hay chỉ là
một sự đầu tư mang tính chất cảm tính, thời vụ hay ảnh hưởng bởi tâm lý đám
8
Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia,
trang 151
14
đông nên họ tham gia vào công ty cổ phần mà không có sự nghiên cứu kỹ về
hiệu quả hoạt động của công ty trước mắt cũng như lâu dài.
Xét về số lượng thì số cổ đông này chiếm tỷ lệ lớn nhưng nó tỷ lệ
nghịch với số lượng cổ phần mà họ sở hữu, vì thế vai trò của họ trong công ty
cổ phần là không đáng kể. Những cổ đông này, được gọi là cổ đông thiểu
số/cổ đông nhỏ hay “cổ đông ít vốn” 9
đều có chung một số phận đó là luôn
luôn chịu sự chèn ép, bị lép vế, hay phải “gánh chịu những thủ đoạn chơi xấu
của các cổ đông lớn có thể sử dụng để làm thiệt hại lợi ích cho những cổ đông
này” 10
chẳng hạn như đối với những cổ đông lớn, họ có thể thông qua Đại
hội đồng cổ đông để “ thiết lập bộ máy quản lý điều hành theo ý chí của mình
hoặc bắt tay nhau để quyết định đường lối phát triển của công ty phù hợp với
lợi ích của họ mà bỏ qua lợi ích của các cổ đông nhỏ” 11
. Đây là điểm khác
biệt rất lớn nếu so sánh với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp
danh, chúng ta thấy, ở hai loại hình kinh doanh này, yếu tố quen biết, mối
quan hệ thâm giao chính là nền tảng đầu tiên để gắn kết các thành viên với
nhau. Thông qua mối quan hệ này, họ sẽ cùng nhau hợp tác để hình thành
công ty.
Do sự đa dạng về số lượng cổ đông nên cơ cấu tổ chức quản trị của
công ty cổ phần cũng có phần phức tạp. Việc thành viên Hội đồng quản trị
hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc của công ty cổ phần có thể không là cổ đông
công ty vì khi công ty có quy mô nhỏ, số lượng cổ đông ít thì các cổ đông có
thể kiêm nhiệm luôn các chức năng quản lý trong công ty. Vì vậy, xét về hiện
tượng thì có vẻ như không có sự tách bạch về vốn giữa công ty và cổ đông vì
họ cũng chính là người đang quản lý và kinh doanh trên chính đồng vốn của
họ đã đầu tư. “Đồng tiền đi liền khúc ruột” cho nên các quyết định và kế
hoạch kinh doanh của công ty sẽ được xem xét quyết định một cách thận
9
Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh
nghiệp 2005, NXB Tri Thức, trang 349
10
Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia,
trang 154-155
11
Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia,
trang 152-153
15
trọng và sáng suốt vì chính họ đang quyết định sự mất/còn của đồng vốn mà
họ đã bỏ ra.
Tuy nhiên, khi công ty phát triển ngày càng lớn, quy mô ngày càng
được mở rộng thì số lượng cổ đông ngày càng nhiều, vấn đề quản lý và điều
hành ngày càng phức tạp, công ty không thể quản lý theo kiểu gia đình mà
cần phải có cơ chế điều hành khoa học hơn.Việc thuê người quản lý, điều
hành công ty là một xu thế tất yếu và là một quy luật khách quan của sự phát
triển trong nền kinh tế mở. Chính vì vậy, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể
không là cổ đông của công ty. Lúc này thì những cổ đông của công ty đều
đứng trước khả năng phải chịu những rủi ro xảy ra đối với phần vốn góp của
mình trong công ty cổ phần.
Vì vậy, một trong những ẩn số cần giải quyết trong bài toán cho sự
phát triển bền vững của công ty cổ phần đó là phải có sự kiểm soát nhằm hạn
chế những xung đột về lợi ích giữa người quản lý công ty – với tư cách là
người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn và các cổ đông – với tư cách là chủ sở
hữu thật sự của công ty. Trên thực tế, người điều hành công ty có thể là cổ
đông hoặc không phải là cổ đông, vì không phải chủ sở hữu nào cũng có khả
năng điều hành hoạt động kinh doanh, có thể họ có tiền, nhưng không có khả
năng điều hành và quản lý hoặc không có hoặc hạn chế về lĩnh vực mà họ đầu
tư. Chính vì vậy, việc thuê người điều hành là xu thế tất yếu, bằng cách này,
các công ty mới có thể thu hút nhiều nhà quản trị giỏi có khả năng điều hành
hoạt động công ty ngày càng hiệu quả hơn. Nhưng ở bất cứ vai trò nào là
người làm thuê hay cổ đông tham gia để điều hành thì họ cũng có nhiều cơ
hội để tư lợi cho bản thân hoặc những người thân của họ. Mặc dù khi thực
hiện công việc được giao, họ phải đảm bảo đem lại tốt nhất lợi ích hợp pháp,
tối đa cho công ty và cổ đông; thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một
cách “trung thực, cẩn trọng” 12
. Tuy nhiên những khái niệm “trung thực, cẩn
trọng” ít nhiều thể hiện sự định tính, nó không có bất cứ một chuẩn mực nào
để đánh giá cho hành vi của người điều hành là cẩn trọng hay trung thực hay
chưa. Người điều hành công ty có nhiều lý do để biện minh cho những quyết
12
Điểm b khoản 1 điều 119 Luật Doanh nghiệp 2005
16
định của mình và họ có thể cho rằng khi thực hiện những quyết định đó, họ đã
thể hiện đầy đủ trách nhiệm vì vậy không thể quy trách nhiệm cho họ được,
mặt khác những rủi ro của quyết định mà họ đưa ra có thể không thấy trước
mà có thể chỉ để lại hậu quả về sau.
Nhìn trên bình diện rộng hơn thì việc giám sát các hoạt động của
người quản lý không chỉ bảo vệ cho quyền lợi của cổ đông mà còn đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của công ty cũng như của nền kinh tế. Bởi lẽ trong
hoạt động công ty, bên cạnh lợi ích của cổ đông thì còn có những lợi ích của
những đối tác khác như: người lao động, các chủ nợ, của chính quyền – thông
qua việc thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế của công ty và quan trọng hơn cả là
sự ổn định phát triển kinh tế quốc gia.
Một cơ chế giám sát hoạt động những cổ đông lớn và những người
quản lý công ty nhằm ngăn chặn và phát hiện kịp thời những hành vi lạm
quyền hoặc những hành vi tư lợi để bảo vệ lợi ích của công ty và các cổ đông
khác là điều cần thiết vì mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông chính là cổ
tức mà họ nhận được hằng năm thông qua hoạt động của công ty. Vì vậy, bảo
vệ họ là một yêu cầu tất yếu khi xây dựng quy chế quản trị nội bộ công ty
cũng như những quy phạm pháp luật về công ty cũng phải có những quy định
cần thiết để bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ.
Chính vì vậy, chế định Ban kiểm soát được đặt ra không phải do ý chí
chủ quan của các nhà lập pháp mà xuất phát từ thực tiễn hoạt động của công
ty cổ phần, một cơ chế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho cổ đông nói chung
và cổ đông thiểu số nói riêng là một điều tất yếu. Tuy nhiên, chế định này
được thiết kế trong luật phải mang tính mềm dẻo và uyển chuyển bởi nếu các
quy định này quá cứng ngắt và mang tính áp đặt thì nó sẽ làm mất đi tính chất
riêng biệt của công ty cổ phần từ đó dẫn đến sự can thiệp quá sâu của Nhà
nước vào quyền của chủ sở hữu, nó sẽ làm cho: “Công dân chẳng thể nào thực
hiện được quyền tự do kinh doanh của mình khi hình thức kinh doanh của họ
tạo lập không được quyền tự do kinh doanh” 13
.
13
Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, NXB Lao
động, trang 155
17
Nhưng xuất phát từ quan điểm: “ Quyền tự do kinh doanh của một chủ
thể luôn bị giới hạn bởi quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của chủ
thể khác trong xã hội” 14
. Vì vậy, để đảm bảo hài hòa quyền của chủ sở hữu
nhưng đồng thời cũng bảo vệ cho những mục tiêu khác trong xã hội nên chế
định Ban kiểm soát vẫn phải được luật hóa và trên cơ sở này, các công ty cổ
phần có quyền quy định cụ thể hoạt động của Ban kiểm soát trong điều lệ
hoặc quy chế nội bộ của công ty cho phù hợp với quy mô và tính chất của mỗi
công ty.
Pháp luật coi quy chế, điều lệ của doanh nghiệp là “luật của doanh
nghiệp” và Tòa án, các cơ quan bảo vệ pháp luật khi xem xét một số tranh
chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp cũng có thể coi chúng là “nguồn luật áp
dụng” 15
. Vì vậy, các công ty cổ phần cần phải chủ động đưa các nguyên tắc
quản trị công ty vào điều lệ, vào Quy chế quản trị công ty, trong đó đặc biệt
chú ý tới vai trò của Ban kiểm soát, phải quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền
hạn của Ban kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát khi thực hiện việc
giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong quản lý, điều
hành công ty đảm bảo để công ty làm ăn có lãi, tài sản công ty không bị thất
thoát.
Luật Doanh nghiệp 2005 trong những quy định về quản trị nội bộ của
công ty cổ phần đã có những quy định mang tính mở nhằm tạo sự tự do cho
định hướng phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền tự quyết trong tổ
chức quản lý công ty phải tuân thủ khuôn khổ của pháp luật.
Trên cơ sở lý luận này thì chế định Ban kiểm soát đã được quy định
trong luật, tuy nhiên, những quy định này chỉ được áp dụng khi Điều lệ công
ty không có những quy định khác. Rõ ràng, hoạt động của Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần không chỉ dựa trên những quy định của pháp luật mà
còn chịu sự điều chỉnh của quy định nội bộ công ty cổ phần. Điều này thể
14
Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước & pháp
luật (5)
15
Bùi Ngọc Cương (2002), “Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh”, Tạp
chí khoa học pháp lý (7)
18
hiện sự linh hoạt, tự chủ trong hoạt động kinh doanh được pháp luật trao cho
các chủ sở hữu, từ đó góp phần tạo ra một cơ chế giám sát hữu hiệu đối với
hoạt động quản lý điều hành của công ty.
Hành lang pháp lý cho việc ban hành các quy định nội bộ của công ty
trong hoạt động của Ban kiểm soát đã có, vấn đề còn lại là các công ty cổ
phần có biết vận dụng hiệu quả những quy định này hay không? Nếu không
triển khai được những quy định này thì sẽ làm triệt tiêu hoạt động của Ban
kiểm soát hoặc sẽ làm chồng chéo, trùng lắp với một số bộ phận khác trong
công ty.
Như vậy, chúng ta nhận thấy, các quy định về Ban kiểm soát trong
công ty cổ phần có thể được chia thành từ hai nguồn khác nhau đó là: Dựa
trên các quy định pháp luật và các nguyên tắc của quản trị của công ty (được
ghi nhận trong Điều lệ, Quy chế quản trị công ty, Quy chế hoạt động của Ban
kiểm soát). Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn
của Ban kiểm soát theo quy định của pháp luật, có thể thấy khi Ban kiểm soát
thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn này vẫn chưa đủ để thực sự đảm bảo vai
trò giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trong thực
tiễn, vai trò của Ban kiểm soát chủ yếu là thẩm định báo cáo tình hình kinh
doanh, báo cáo tài chính theo định kỳ của công ty, báo cáo đánh giá công tác
quản lý của Hội đồng quản trị một cách hình thức và thường là sự sao chép
“có chọn lọc” từ báo cáo của Hội đồng quản trị và trình các báo cáo này lên
Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. Có nhiều nguyên nhân cả
khách quan lẫn chủ quan để dẫn đến thực trạng trên như nhận thức chưa đầy
đủ của cổ đông, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc về vị trí,
vai trò của Ban kiểm soát cũng như sự bất cập và chưa hoàn thiện của pháp
luật. Nhưng, xuất phát từ vai trò quan trọng của Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần nên trong khi chờ đợi việc hoàn thiện quy định pháp luật về chế định
này thì cổ đông của công ty có thể đưa các quy định về Ban kiểm soát vào
Điều lệ, Quy chế quản trị công ty, Quy chế hoạt động của Ban kiểm soát như
một cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của mình.
19
Mặc khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban kiểm soát thì phải
có cơ chế đảm bảo cho những nguyên tắc sau đây được thực thi bên cạnh sự
thay đổi trong nhận thức về vai trò và vị trí của Ban kiểm soát được thể hiện
trong các quy định của pháp luật cũng như các quy chế quản trị nội bộ của
công ty đó là:
Nguyên tắc 1: Cổ đông không can thiệp vào hoạt động của Ban kiểm
soát dưới bất cứ hình thức nào, hoạt động của Ban kiểm soát chỉ tuân thủ các
quy định của pháp luật và các quy định có liên quan của công ty. Phải có sự
tách bạch trong hoạt động của các bộ phận trong công ty, tránh trường hợp
chồng chéo, dẫm chân nhau trong hoạt động. Khi thực hiện nhiệm vụ, Ban
kiểm soát không được làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động quản lý, điều
hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; ngược lại, Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cũng không được lợi dụng vị trí
và ảnh hưởng của mình để tác động nhằm cản trở hoạt động của Ban kiểm
soát.
Nguyên tắc 2: Quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát chỉ phát sinh khi
xảy ra sự kiện pháp lý mà những sự kiện này được quy định trong Luật doanh
nghiệp và những quy định nội bộ của công ty. Điều này có nghĩa là Ban kiểm
soát chỉ được thực hiện những nhiệm vụ đã được quy định sẵn. Khi thực hiện
nhiệm vụ của mình, Ban kiểm soát phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật
và Điều lệ công ty, phải phù hợp với đạo đức nghề nghiệp; phải trung thực;
cẩn trọng và phải trung thành với lợi ích của công ty 16
. Để cụ thể hóa những
phạm trù này, cách tốt nhất là quy định nội bộ của công ty cần phải quy định
chi tiết những chuẩn mực này, có như vậy mới nâng cao trách nhiệm của
thành viên Ban kiểm soát, tránh cách hiểu và cách vận dụng khác nhau dẫn
đến những tranh cãi không đáng có giữa người quản lý/điều hành công ty và
thành viên Ban kiểm soát trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình.
Như vậy, từ vị trí pháp lý đã được pháp luật minh định thì vai trò của
Ban kiểm soát là rất quan trọng, đây được xem là người bảo vệ cho những
đồng vốn của cổ đông, bởi khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Ban kiểm soát
16
Khoản 1,2,3 Điều 126 Luật Doanh nghiệp.
20
không nhân danh cá nhân mà phải đứng trên lập trường, quan điểm và lợi ích
của cổ đông để thực thi nhiệm vụ giám sát. Đây được xem là bộ lộc quan
trọng nhằm ngăn ngừa những hành vi sử dụng vốn không đúng trong hoạt
động kinh doanh.
Có thể nói, cổ đông đã ủy quyền cho Ban kiểm soát giám sát việc sử
dụng đồng vốn của họ trong công ty vì vậy, khi thực hiện chức năng giám sát,
Ban kiểm soát hoàn toàn độc lập với Hội đồng quan trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc công ty. Điều này khẳng định: Ban kiểm soát chỉ chịu trách nhiệm
trước Đại hội đồng cổ đông, khi thực hiện quyền của mình, Ban kiểm soát chỉ
hướng đến một mục tiêu duy nhất đó là đảm bảo các quyết định của người
quản lý và điều hành công ty phải đúng luật, phải phù hợp với nghị quyết của
Đại hội đồng cổ đông từ đó đảm bảo cho quyền lợi của cổ động không bị xâm
phạm. Việc xác định đúng vị trí pháp lý của Ban kiểm soát có ý nghĩa quan
trọng trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát trong công ty
cổ phần, qua đó, quyền lợi của cổ đông và những đối tượng có liên quan sẽ
được bảo vệ.
1.3- Chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát
Giống như Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát trong công ty cổ phần do
Đại hội đồng cổ đông bầu, chịu trách nhiệm trước cổ đông, vì thế, xét về
phương diện thành lập thì Ban kiểm soát ngang hàng với Hội đồng quản trị
nhưng khi thực thi nhiệm vụ của mình thì một số hoạt động của Hội đồng
quản trị lại là đối tượng giám sát của Ban kiểm soát.
Theo quy định tại Điều 123 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì chức
năng của Ban kiểm soát là thay mặt Đại hội đồng cổ đông giám sát Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong quản lý và điều hành công ty;
kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán,
thống kê và lập báo cáo tài chính, từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý,
điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết; thẩm định báo cáo tình
hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo
cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị, trình báo cáo lên Đại hội
21
đồng cổ đông thường niên; xem xét sổ sách kế toán và các tài liệu khác của
công ty, các công việc quản lý và điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi
nào nếu thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc
theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở
lên; phát hiện vi phạm của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì phải thông báo ngay
bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm
dứt hành vi phạm và có giải pháp khắc phục
Như vậy, những hoạt động quản lý điều hành của công ty được thực
hiện thông qua Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, những
người quản lý khác và người có lợi ích liên quan trong một số trường hợp cụ
thể là đối tượng giám sát của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. Vì vậy, để
thực hiện tốt chức năng kiểm soát của mình, đòi hỏi các thành viên Ban kiểm
soát phải có bản lĩnh và trình độ năng lực chuyên môn cao, phải hội tụ những
kỹ năng chính để thực hiện tốt hoạt động giám sát đó chính là kỹ năng về
quản lý rủi ro, kỹ năng về kế toán kiểm toán, kỹ năng về hoạt động kinh
doanh của công ty và kỹ năng giám sát sự tuân thủ pháp luật. Chỉ khi nào Ban
kiểm soát đáp ứng được những tiêu chí như trên thì mới có thể giám sát tốt
những đối tượng mà mình có trách nhiệm giám sát trong công ty cổ phần.
Hoạt động giám sát của Ban kiểm soát là một chức năng được thực
hiện một cách liên tục bởi các thành viên Ban kiểm soát nhằm cung cấp cho
Đại hội đồng cổ đông những thông tin trong hoạt động quản lý và điều hành
công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Kết quả của
hoạt động giám sát giúp Đại hội đồng cổ đông có điều kiện đánh giá hiệu quả
công tác điều hành quản lý công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc; đảm bảo việc điều hành là đúng và tuân thủ những quy định
của pháp luật và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông nhằm duy trì ổn
định cho sự phát triển bền vững của công ty.
Mục đích hoạt động giám sát của Ban kiểm soát là nhằm đảm bảo các
chủ thể quản lý và điều hành trong công ty tuân thủ các chuẩn mực về tính
hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều
22
hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập
báo cáo tài chính. Hoạt động này của Ban kiểm soát sẽ dẫn đến hệ quả là các
chủ thể quản lý và điều hành công ty phải cận trọng hơn trong khi thực hiện
nhiệm vụ của mình. Điều này cũng có nghĩa là mọi quyết định của họ điều
đem lại những lợi ích cho công ty, phải vì sự bền vững và sự phát triển của
công ty. Trong trường hợp không vì lợi ích của công ty thì với chức năng
giám sát của mình, Ban kiểm soát có quyền yêu cầu họ dừng các hành vi xâm
phạm đến lợi ích của công ty hoặc yêu cầu triệu tập Đại hội đồng cổ đông để
xem xét vấn đề này.
Bên cạnh chức năng giám sát, hoạt động thẩm định các báo cáo cũng
là chức năng không kém phần quan trọng trong thực thi nhiệm vụ của Ban
kiểm soát, đây là bước kiểm tra cuối cùng trước khi được Đại hội đồng cổ
đông thông qua, vì vậy đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nó đòi hỏi Ban kiểm
soát phải thực sự khách quan, có trình độ và có bản lĩnh để nhận xét khách
quan và chính xác các báo cáo, giúp cổ đông định hướng được mục tiêu trong
hoạt động đầu tư của mình cũng như có cái nhìn chính xác về hiệu quả trong
hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc. Trên cơ sở đó, cổ đông sẽ quyết định có tiếp tục tín nhiệm
hay yêu cầu có sự thay đổi bộ máy lãnh đạo cũng như quyết định cho việc tiếp
tục đầu tư hay hay thoái vốn ra khỏi công ty.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu khái quát những đặc trưng của công ty cổ phần từ đó chỉ
ra cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của Ban
kiểm soát có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của
Ban kiểm soát cũng như mối quan hệ với các đơn vị, các bộ phận chức năng
khác trong công ty để nó thật sự là cơ quan giám sát, kiểm soát độc lập và có
thực quyền. Vì vậy, trong chương 1, học viên đã trình bày một số vấn đề lý
luận về Ban kiểm soát của công ty cổ phần, từ đó đã quát về cơ cấu tổ chức
của công ty cổ phần đặc biệt là đã làm rõ vị trí vai trò, chức năng và nhiệm vụ
của Ban kiểm soát. Những cơ sở lý luận này là tiền đề cho việc nhận định về
23
thực trạng của Ban kiểm soát sẽ được học viên trình bày tại chương 2 của
luận văn.
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA
CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1- Về thành lập Ban kiểm soát
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, thì cơ cấu tổ chức công
ty cổ phần phải có Ban kiểm soát khi có trên mười một cổ đông là cá nhân
hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty. Điều
này đồng nghĩa với việc nếu số lượng cổ đông là cá nhân từ mười một người
trở xuống và không có tổ chức sở hữu trên 50% số cổ phần thì không bắt buộc
phải thành lập Ban kiểm soát. Việc thành lập Ban kiểm soát trong trường hợp
này sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định căn cứ vào nhu cầu và thực tế hoạt
động của công ty.
Quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 là một sự khác biệt lớn so với
quy định tại Điều 69 Luật Doanh nghiệp 1999 theo đó “ …đối với công ty cổ
phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát”.
Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014, tại Điều 138 quy định công ty
cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai
cách sau, trừ trường hợp pháp luật chứng khoán có quy định khác:
a) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám
đốc, Tổng Giám đốc. Trong trường hợp công ty cổ phần có dưới mười một cổ
đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty,
thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát;
b) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc, Tổng Giám
đốc. Trong trường hợp này ít nhất 30% số thành viên Hội đồng quản trị phải
là thành viên không điều hành và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội
đồng quản trị. Các thành viên không điều hành thực hiện chức năng giám sát
và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty.
Như vậy, việc thành lập Ban kiểm soát theo quy định của Luật Doanh
nghiệp 1999 chỉ dựa trên một tiêu chí đó là số lượng về cổ đông, trong khi đó,
theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, cũng như Dự thảo lần 5 Luật
Doanh nghiệp 2014 (trong trường hợp công ty cổ phần lựa chọn mô hình có
25
thành lập Ban kiểm soát) thì có 2 tiêu chí để thành lập Ban kiểm soát đó dựa
vào số lượng cổ đông hoặc số lượng cổ phần của công ty mà tổ chức sở hữu.
Tuy nhiên nếu đọc kỹ quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như
Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 thì vẫn còn đó những cách hiểu khác
nhau cũng như những vấn đề mà Luật còn bõ ngõ chưa có quy định rõ ràng về
yêu cầu phải thành lập Ban kiểm soát đó là:
Trường hợp một: Nếu số lượng cổ đông là tổ chức và số lượng cổ
đông là cá nhân trên mười một nhưng không có tổ chức nào nắm giữ trên 50%
cổ phần của công ty hoặc
Trường hợp hai: Trong trường hợp số lượng cổ đông là cá nhân dưới
mười một người nhưng có cổ đông chiếm tỷ lệ cổ phần trên 50% tức có khả
năng chi phối và điều hành hoạt động của công ty thì có thành lập Ban kiểm
soát hay không?
Trường hợp ba: Khi thành lập, công ty cổ phần không rơi vào những
trường hợp luật định phải thành lập Ban kiểm soát, nhưng nếu trong quá trình
hoạt động mà công ty hội đủ các điều kiện phải thành lập thì trình tự thủ tục
và thời gian để tiến hành cho hoạt động này là như thế nào?
Rõ ràng, những trường hợp được nêu trên chưa được Luật Doanh
nghiệp 2005 quy định cụ thể, chính vì vậy trong hoạt động thực tiễn, khó
tránh khỏi những cổ đông có ảnh hưởng lợi dụng thiếu sót này của Luật để
thao túng hoặc gây thiệt hại cho các cổ đông khác, ngoài ra, quy định như trên
của Luật Doanh nghiệp 2005 còn làm cho các nhà đầu tư suy nghĩ rằng có sự
phân biệt và đối xử giữa nhà đầu tư là tổ chức và nhà đầu tư là cá nhân khi
Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ quy định thành lập Ban kiểm soát khi tổ chức
nắm giữ 50% cổ phần của công ty còn nếu là cổ đông là cá nhân thì không bắt
buộc phải thành lập Ban kiểm soát, trong khi đó nếu nói về điều kiện để thực
hiện việc thao túng và gây ảnh hưởng đối với công ty thì rõ ràng cổ đông là cá
nhân có điều kiện thuận lợi hơn khi thực hiện điều này vì họ có thể nhân danh
cá nhân để quyết định và tự chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình.
Còn đối với tổ chức việc quyết định một vấn đề nào đó phải mất nhiều thời
gian hơn do phải đáp ứng các yêu cầu về thủ tục pháp lý như phải tổ chức
26
họp, thông qua biên bản nội dung cuộc họp, cũng như phải ủy quyền cho cá
nhân thực hiện công việc của tổ chức đó…v…v…
Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn có chế định về Ban kiểm soát,
nhưng những hạn chế trên vẫn chưa có lời giải vì vậy bài toán cho sự hoàn
thiện về việc thành lập Ban kiểm soát vẫn còn bõ ngõ và những bất cập được
nêu ra vẫn chưa có lời giải thỏa đáng.
2.2- Về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát
Theo quy định tại khoản 1 Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005 nếu
Điều lệ công ty không có quy định khác thì Ban kiểm soát có từ ba đến năm
thành viên, điều này đồng nghĩa với việc Ban kiểm soát tối thiểu phải là ba và
tối đa là năm thành viên theo quy định của luật.
Tuy nhiên, nếu Điều lệ công ty có quy định khác thì giải quyết như thế
nào? Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định số lượng tối thiểu cũng như số
lượng tối đa thành viên Ban kiểm soát mà do Điều lệ công ty quy định, chính
vì vậy, nếu Điều lệ công ty quy định số lượng thành viên Ban kiểm soát là
một người thì có được hay không? Và như vậy, trong trường hợp này, sẽ
không có khái niệm Trưởng ban kiểm soát theo như quy định tại khoản 2 của
Điều 121 vì “các thành viên ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm
Trưởng ban kiểm soát”. Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 tại Điều 167
cũng chỉ làm rõ thêm về việc bầu Trưởng ban kiểm soát theo nguyên tắc đa số
cũng như quy định cụ thể Trưởng ban kiểm soát phải là kế toán viên hoặc
kiểm toán viên chuyên nghiệp mà thôi, vì thế nếu Ban kiểm soát là một người
thì họ có đương nhiên là Trưởng ban hay không thì Luật Doanh nghiệp 2005
cũng như Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 lại không quy định. Cũng như
quy định về việc “Ban kiểm soát phải có hơn một nữa thành viên thường trú ở
Việt Nam” cũng chỉ có giá trị pháp lý đối với những công ty có tối thiểu từ ba
thành viên Ban kiểm soát trở lên.
Như vậy, cơ cấu và điều kiện về thường trú tại Việt Nam chỉ được áp
dụng trong trường hợp công ty có tối thiểu từ ba thành viên Ban kiểm soát,
còn nếu dưới ba thành viên như quy định của Điều lệ công ty thì quy định này
lại không áp dụng được. Đây cũng là một bất cập của Luật Doanh nghiệp
27
2005 khi quy định về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát nhưng những bất cập
này cũng không được Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 điều chỉnh.
Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát là năm năm và Luật không hạn chế
nhiệm kỳ làm thành viên Ban kiểm soát, điều này có nghĩa thời gian tại vị dài
hay ngắn của thành viên Ban kiểm soát phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả công
việc cũng như uy tín của họ đối với cổ đông. Đây cũng là một điểm mới của
Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999 khi quy định “nhiệm
kỳ Ban kiểm soát do Điều lệ công ty hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết
định”17
.
2.3- Về hoạt động của Ban kiểm soát
Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp
2005 đã không đưa ra khái niệm về hoạt động của Ban kiểm soát mà chỉ quy
định quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát tại Điều 123 và một số điều khác
của Luật Doanh nghiệp 2005, qua đó trực tiếp hay gián tiếp nêu lên các hoạt
động của Ban kiểm soát. Căn cứ theo quy định tại các điều luật này thì nhận
thấy hoạt động của Ban kiểm soát bao gồm hai nội dung cơ bản đó là giám sát
và thẩm định các báo cáo của chủ thể quản lý và điều hành trong công ty, đây
chính là hoạt động quản lý và điều hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc. Đối tượng trong hoạt động giám sát của Ban kiểm soát
chính là những hoạt động quản lý điều hành của công ty được thực hiện thông
qua các chủ thể quản lý và điều hành đó chính là Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc, những người quản lý khác và người có lợi ích liên quan
trong một số trường hợp cụ thể.
Các hoạt động của Ban kiểm soát được thiết lập thông qua các quy
định của pháp luật cũng như Điều lệ công ty. Hoạt động của Ban kiểm soát
trong công ty cổ phần là hoạt động do các thành viên Ban kiểm soát tiến hành,
mang tính độc lập, khách quan để giám sát sự quản lý, điều hành của Hội
đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và những người quản lý khác
trong công ty; thẩm định kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, trung thực và mức độ
cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công
17
Điều 91 Luật Doanh nghiệp 1999
28
tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính, đảm bảo quá trình đó diễn ra
theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, thông qua hoạt động này
sẽ hạn chế rủi ro, tiêu cực, góp phần tăng cường hiệu quả trong công tác quản
lý, điều hành công ty, đảm bảo lợi ích tối đa của công ty, của cổ đông công ty
và những người có lợi ích liên quan.
Tóm lại, thông qua quy định pháp luật về hoạt động của Ban kiểm
soát cho thấy Ban kiểm soát có hai chức năng chính:
Chức năng thứ nhất là giám sát hoạt động quản lý và điều hành công
ty của Hội đồng quản trị ,Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm
trước Đại hội đồng cổ đông (Khoản 1 Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2005).
So với quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 thì có thể khẳng định
đây là điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2005 vì Luật Doanh nghiệp 1999
không quy định về chức năng giám sát hoạt động quản lý và điều hành công
ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, cũng như không xác
định về trách nhiệm của Ban kiểm soát trước Đại hội đồng cổ đông. Luật
Doanh nghiệp 2005 quy định điều này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định
rõ ràng vị trí pháp lý độc lập của Ban kiểm soát đối với các cơ quan quản lý
trong công ty.
Tuy nhiên, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã loại bỏ trách
nhiệm của Ban kiểm soát trước Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện các
nhiệm vụ được giao khi tại khoản 1 Điều 169 Dự thảo chỉ quy định: “Ban
kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám
đốc trong việc quản lý và điều hành công ty”.
Rõ ràng, đây là một bước lùi của Dự thảo so với Luật Doanh nghiệp
2005, vì nếu quy định như Dự thảo thì rõ ràng sẽ không thấy được vị trí độc
lập trong hoạt động của Ban kiểm soát cũng như sẽ không có cơ sở để ràng
buộc trách nhiệm của các thành viên Ban kiểm soát trong hoạt động của mình.
Đồng thời, đây còn là kẽ hở để Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc buộc thành viên Ban kiểm soát phải thực hiện công việc theo ý của họ.
Chức năng thứ hai là thẩm định các loại báo cáo bắt buộc của công ty
(khoản 3 Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2005) thông qua hoạt động kiểm tra,
29
xem xét tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực, mức độ cẩn trọng trong quản
lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê
và lập báo cáo tài chính; sổ sách kế toán, các tài liệu khác của công ty.
Tuy nhiên, để Ban kiểm soát thực hiện có hiệu quả chức năng của
mình thì một số quy định về quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát cũng phải
được sửa đổi cho phù hợp tránh tình trạng quy định chung chung làm cho
thành viên Ban kiểm soát chưa xác định được các họat động cụ thể của mình
cũng như cần có sự phân công và phối hợp trong khi thực thi nhiệm vụ của
từng thành viên Ban kiểm soát; trách nhiệm của từng thành viên Ban kiểm
soát không được quy định cụ thể, dẫn đến tình trạng “lắm sải không ai đóng
cửa chùa”; vai trò của Trưởng ban kiểm soát như thế nào; các quyết định của
Ban kiểm soát được thông qua ra sao đã không được Luật Doanh nghiệp 2005
quy định cụ thể, vì vậy, để hoạt động của Ban kiểm soát đạt được hiệu quả
nhất định thì Luật Doanh nghiệp 2005 cũng cần bổ sung quy định về nguyên
tắc hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, những hạn chế này
không được Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 đề cập đến mặc dù trong Báo
cáo Tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 của Ban soạn thảo dự án Luật
Doanh nghiệp (sửa đổi) – Bộ Kế hoạch và đầu tư đã thừa nhận “Quy định về
cơ cấu và tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm soát chưa bảo đảm được tính độc
lập của Ban kiểm soát; chưa đảm bảo để Ban kiểm soát có đủ năng lực, trình
độ chuyên môn nghề nghiệp và nguồn lực để thực hiện chức năng và nhiệm
vụ theo quy định. Ngoài ra, chưa có cơ chế để Ban kiểm soát sử dụng để buộc
HĐQT phải thực hiện kiến nghị của mình trong trường hợp thực sự cần thiết”.
2.4- Về nhiệm vụ quyền hạn của Ban kiểm soát
Ban kiểm soát thực hiện quyền của mình trên hầu hết các hoạt động
quản lý, điều hành của những người quản trị trong công ty cổ phần. So với
Luật Doanh nghiệp 1999 thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định cụ thể, rõ
ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát, đồng thời cũng xác lập vị
trí pháp lý của Ban kiểm soát qua đó khẳng định sự độc lập trong hoạt động
của Ban kiểm soát đối với các cơ quan quản lý trong công ty. Việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát được phân chia thành các nhóm sau:
30
2.4.1- Quyền thẩm định kiểm tra
Khi thực hiện quyền này, Ban kiểm soát có trách nhiệm thẩm định báo
cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công
ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị. Trình báo cáo
thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng năm của công
ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của hội đồng quản trị lên Đại hội
đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên18
. Có thể thấy báo cáo của Ban kiểm
soát là một “kênh thông tin” quan trọng, làm tài liệu để so sánh các báo cáo
tài chính của công ty, từ đó giúp nhà đầu tư và các cơ quan quản lý Nhà nước,
những người có lợi ích liên quan có cái nhìn tổng thể về hoạt động của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, đây không phải là báo cáo bắt buộc phải nộp cho cơ quan
thuế hay phải công bố thông tin bởi các báo cáo hằng năm phải nộp cho cơ
quan thuế chỉ gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính19
, chế
độ công khai về thông tin công ty cổ phần 20
chỉ có báo cáo tài chính hằng
năm.
Chính vì hạn chế này nên những báo cáo thẩm tra của Ban kiểm soát
thường là sự sao chép chứ ít có thông tin phản biện hay lập luận chỉ ra những
mâu thuẩn trong báo cáo tài chính của công ty, chính vì những thiếu sót này
nên tính pháp lý đối với báo cáo của Ban kiểm soát chỉ được nhìn nhận dưới
góc độ nội bộ từ đó báo cáo thẩm tra của Ban kiểm soát đôi khi trở thành hình
thức là tài liệu phải có cho “dày thêm” trong báo cáo tại Đại hội đồng cổ
đông, hạn chế này cũng dẫn đến tình trạng là Ban kiểm soát ít có sự đầu tư,
nghiên cứu đối với hoạt động thẩm định kiểm tra do vậy tính hiệu quả trong
báo cáo của Ban kiểm soát không cao, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của
Ban kiểm soát.
18
Khoản 3 các điều 123 và 128 Luật DN 2005
19
Điểm 3.1 khoản 3 mục A-I Phần thứ hai Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 về việc Ban
hành chế độ kế toán doanh nghiệp và khoản 3 Mục I phần thứ ba Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày
14/9/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tài chính.
20
Khoản 1 Điều 129 Luật DN 2005
31
Việc quy định Ban kiểm soát kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính
trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh
doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính21
cũng là một điểm mới đáng ghi nhận của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật
Doanh nghiệp 1999 , tuy nhiên quy định này lại bao hàm sự định tính nhiều
hơn vì vậy, trên thực tế người điều hành công ty có nhiều lý do để biện minh
và cho rằng khi thực hiện quyết định đó, họ đã đảm bảo cho những quyết định
của mình là hợp lý, hợp pháp, không vụ lợi và có mức độ cẩn trọng cần thiết.
Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, đòi hỏi Ban kiểm soát phải
vững về chuyên môn nghiệp vụ, phải có lập trường quan điểm rõ ràng, phải
có tầm nhìn bao quát trong hoạt động của công ty không chỉ trước mắt mà
phải là cái nhìn chiến lược trong tương lai. Mặt khác, việc thu thập thông tin
cũng như tiếp cận các tài liệu có liên quan cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
chất lượng của báo cáo thẩm định, chính vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005
cũng đã quy định rõ ràng về:
2.4.2- Quyền được cung cấp thông tin, tiếp cận tài liệu
So với Luật Doanh nghiệp 1999 khi quy định Hội đồng quản trị,
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, các cán bộ quản
lý khác phải cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin, tài liệu về hoạt động kinh
doanh của công ty theo yêu cầu của Ban kiểm soát 22
thì Luật Doanh nghiệp
2005 quy định một cách cụ thể, rõ ràng, những tài liệu và phương thức cung
cấp thông tin cho thành viên Ban kiểm soát giống như Hội đồng quản trị mà
không cần có yêu cầu của Ban kiểm soát.
Theo đó, thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng
quản trị, báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị
và các tài liệu khác phải được gửi cùng thời điểm và theo phương thức như
đối với thành viên Hội đồng quản trị 23
. Quy định này của Luật Doanh nghiệp
2005, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Ban kiểm soát trong việc được tiếp cận
21
Khoản 2 Điều 123 Luật DN 2005
22
Điều 89 Luật DN 1999
23
Khoản 1, 2 Điều 124 Luật DN 2005
32
nhanh chóng, kịp thời thông tin, tài liệu, giúp cho việc thực hiện chức năng
của Ban kiểm soát hiệu quả hơn.
Một hạn chế của Luật Doanh nghiệp 1999 đã không được Luật Doanh
nghiệp 2005 khắc phục đó là ngoài những tài liệu, thông tin được quy định tại
khoản 1,2 Điều 124 thì các tài liệu khác được gửi đến Ban kiểm soát như thế
nào? Có cần Ban kiểm soát phải yêu cầu hay không? Thời gian và phương
thức gửi ra sao? Cũng như chế tài đối với việc không gửi, không cung cấp
thông tin hoặc cung cấp không đầy đủ, không đúng thời gian, không chính
xác hoặc cản trở việc tiếp nhận thông tin thì sẽ xử lý như thế nào? trách nhiệm
thuộc về ai? Đây là vấn đề mà Luật Doanh nghiệp 2005 chưa quy định.
Tuy nhiên, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã khắc phục một
phần những hạn chế nêu trên khi khoản 2 Điều 170 quy định: “Các nghị
quyết, quyết định và biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản
trị phải được gửi đến cho các thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và
theo phương thức như đối với cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị”. Như
vậy, nếu Dự thảo được thông qua thì quyền được cung cấp thông tin của Ban
kiểm soát sẽ được thực hiện một cách đầy đủ và cụ thể hơn, góp phần thuận
lợi cho Ban kiểm soát thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
2.4.3- Quyền kiến nghị
Xuất phát từ vị trí pháp lý của Ban kiểm soát không phải là cơ quan
quản lý trong công ty nên chỉ được kiến nghị những giải pháp để từ đó hoạt
động quản lý và điều hành công ty được hoàn thiện hơn vì vậy, Ban kiểm soát
có quyền kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông “các biện
pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh của công ty” 24
, quy định này làm cho vai trò của Ban kiểm soát
trong quá trình thực thi quyền và nhiệm vụ của mình có ảnh hưởng nhất định
đối với các chủ thể bị giám sát, làm cho các chủ thể này phải “vuốt mặt nể
mũi” khi quyết định các vấn đề trong hoạt động của công ty.
2.4.4- Quyền yêu cầu
24
Khoản 6 Điều 123 Luật DN 2005
33
Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám
đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì phải “ thông báo ngay
bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm
dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục” 25
.
Đây là một quyền mà Luật Doanh nghiệp 1999 không quy định nhưng
Luật Doanh nghiệp 2005 đã bổ sung Ban kiểm soát có quyền yêu cầu người vi
phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục. Nhưng cơ chế để
thực thi quyền này như thế nào lại không được Luật Doanh nghiệp 2005 đề
cập đến khi người vi phạm không chấm dứt hành vi vi phạm cũng như không
đưa ra giải pháp khắc phục hành vi đó hoặc thời gian để người vi phạm chấm
dứt hành vi là bao lâu cũng không được quy định cụ thể, chính vì vậy, quy
định này trên thực tế rất khó được thực thi.
Về lý thuyết thì khi phát hiện vi phạm, nếu Ban kiểm soát đã báo cáo
Hội đồng quản trị và yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc
phục nhưng họ không thực hiện thì Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Hội đồng
quản trị triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại điểm
d khoản 3 điều 97 Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng rõ ràng quy định này
không phải là giải pháp tối ưu.
Ngoài quyền yêu cầu thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng
giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty chấm dứt hành vi vi
phạm, Điều 107 Luật Doanh nghiệp 2005 còn cho phép Ban kiểm soát yêu
cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ
đông, trong thời hạn chín mươi ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại
hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng
cổ đông trong các trường hợp trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ
đông không được thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và
Điều lệ công ty hoặc trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi
phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty trừ trường hợp “các quyết định được
thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông với số cổ đông trực tiếp và ủy
25
Khoản 7 Điều 123 Luật DN 2005
34
quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp
pháp”26
.
Với quy định này, thì rõ ràng, quyền giám sát của Ban kiểm soát còn
“phủ sóng” đến cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông, điều này chứng
tỏ tính độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát, tuy nhiên, để thực thi được
quyền này thì đòi hỏi Ban kiểm soát phải được tham gia các cuộc họp của Đại
hội đồng cổ đông thế nhưng việc dự họp của Ban kiểm soát lại chưa được
Luật Doanh nghiệp 2005 đề cập đến, vì thế nếu trong trường hợp Điều lệ công
ty quy định thành phần tham dự họp Đại hội đồng cổ đông chỉ là các cổ đông
công ty - điều này đồng nghĩa với việc thành viên Ban kiểm soát không là cổ
đông sẽ không được dự họp thì việc phát hiện có sai sót về thủ tục hay không
cũng gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần luật hóa quyền tham dự họp Đại hội
đồng cổ đông của Ban kiểm soát là điều cần thiết.
Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã có thay đổi quan trọng khi
khoản 9 Điều 169 quy định “ Ban kiểm soát có quyền tham dự và tham gia
thảo luận tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và các
cuộc họp khác của công ty”. Như vậy, Dự thảo đã khắc phục thiếu sót của
Luật Doanh nghiệp 2005 khi bổ sung việc tham gia họp Đại hội đồng cổ đông
của Ban kiểm soát là điều đương nhiên. Nhưng “một bước lùi” rất đáng tiết
đó là Điều 151 Dự thảo đã tước đi quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem
xét hủy bỏ quyết định hoặc một phần nội dung quyết định của Đại hội đồng
cổ đông của Ban kiểm soát trong trường hợp trình tự thủ tục triệu tập họp và
ra quyết định của Ðại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định
của Luật này và Ðiều lệ công ty hoặc nội dung quyết định vi phạm pháp luật
hoặc Điều lệ công ty .
Nếu bỏ đi quyền của Ban kiểm soát trong việc yêu cầu Tòa án xem xét
hủy bỏ các quyết định của Đại hội đồng cổ đông thì các nhà làm luật đã vô
tình hạ thấp vị thế của Ban kiểm soát. Nếu Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014
vẫn giữ chế định về Ban kiểm soát thì ít ra phải trang bị cho họ cơ chế để thực
thi nhiệm vụ của mình và một trong những cơ chế đó chính là quyền yêu cầu
26
Khoản 4 Điều 104 LDN 2005
35
các cơ quan tài phán xem xét các quyết định của Đại hội đồng cổ đông khi
những quyết định này có sự vi phạm vì bản chất của Ban kiểm soát là bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ bảo vệ
cho lợi ích của một nhóm cổ đông. Vì vậy, cần giữ nguyên quyền yêu cầu hủy
bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông như Luật Doanh nghiệp 2005 là cần
thiết.
2.4.5- Quyền sử dụng tư vấn độc lập
Để thực hiện nhiệm vụ, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cho Ban
kiểm soát được sử dụng tư vấn độc lập, đây là một quy định mới so với Luật
Doanh nghiệp 1999. Với quy định này, Ban kiểm soát có thêm một “ kênh
thông tin” quan trọng nhằm đánh giá một cách khách quan và chính xác hơn
các báo cáo của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, qua đó
giúp Ban kiểm soát phát hiện kịp thời những vấn đề bất cập, thiếu sót thậm
chí là trái với quy định của pháp luật trong các báo cáo nhất là trong lĩnh vực
kế toán tài chính, từ đó góp phần tăng thêm giá trị cũng như tính chính xác
trong các kiến nghị và kết luận của Ban kiểm soát.
Quy định này cũng đã khắc phục được một tồn tại trong hoạt động
thực tiễn của Ban kiểm soát đó là kỹ năng và năng lực chuyên môn của thành
viên Ban kiểm soát có những hạn chế nhất định, không phải thành viên Ban
kiểm soát nào cũng hội tụ đủ những kiến thức cần phải thẩm định trong các
báo cáo mà họ được quyền xem xét, chính vì vậy, việc quy định quyền sử
dụng tư vấn độc lập để thẩm định các báo cáo là quy định cần thiết, đảm bảo
Ban kiểm soát thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, khi sử dụng
quyền này, đòi hỏi Ban kiểm soát cũng phải có sự cân nhắc lựa chọn đơn vị tư
vấn có uy tín cũng như có kinh nghiệm để thực hiện công việc một cách hiệu
quả, không lãng phí.
Bên cạnh quy định về quyền sử dụng tư vấn độc lập như Luật Doanh
nghiệp 2005, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định thêm việc
Ban kiểm soát được quyền sử dụng bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để
thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây là quy định mới của Dự thảo với mục đích
là sử dụng “cái có sẵn” của công ty nhằm tiết kiệm chi phí khi phải thuê tư
36
vấn độc lập. Tuy nhiên, Dự thảo cần quy định đây là bộ phận trực thuộc và
chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát, có như vậy thì bộ phận này mới
thật sự là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động
của Ban kiểm soát.
2.4.6- Quyền yêu cầu họp Đại hội đồng cổ đông
Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 đều quy định
quyền yêu cầu họp Đại hội đồng cổ đông của Ban kiểm soát, tuy nhiên sự
kiện pháp lý để dẫn đến việc Ban kiểm soát yêu cầu triệu tập họp thì có sự
khác biệt rất lớn.
Tại khoản 2 Điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định Ban kiểm soát
chỉ được yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp “ Hội
đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý hoặc Hội
đồng quản trị ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao hoặc các trường
hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty”. Như vậy, chỉ khi nào rơi vào
những trường hợp như trên thì Ban kiểm soát mới có quyền yêu cầu triệu tập
họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, hay nói cách khác là phải có lý do cụ
thể, rõ ràng mới làm phát sinh quyền này của Ban kiểm soát.
Trong khi đó, theo quy định tại điểm d khoản 3 điều 97 Luật Doanh
nghiệp 2005 thì “ Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị triệu tập
họp bất thường Đại hội đồng cổ đông”. Điều này cho thấy không có giới hạn
trong việc yêu cầu triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông theo yêu
cầu của Ban kiểm soát.
Câu hỏi được đặt ra là quy định này có dẫn đến sự lạm quyền của Ban
kiểm soát khi yêu cầu họp bất thường Đại hội đồng cổ đông hay không? Về
mặt lý luận khó xảy ra trường hợp này vì khi thực hiện nhiệm vụ của mình,
Ban kiểm soát phải đứng trên quan điểm bảo vệ lợi ích tối đa cho cổ đông, vì
vậy nếu xét những trường hợp không cần thiết phải triệu tập họp thì chắc chắn
Ban kiểm soát sẽ không yêu cầu.
Về thực tiễn thì hoạt động của Ban kiểm soát ít nhiều cũng phải chịu
sự chi phối của Hội đồng quản trị cho nên những đề nghị “nhạy cảm” như
triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông chắc chắn phải có sự bàn bạc
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT

More Related Content

What's hot

BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...
BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...
BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...OnTimeVitThu
 

What's hot (20)

Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chínhLuận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
Luận văn: Pháp luật về xử lý hành vi bán hàng đa cấp bất chính
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAYLuận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Pháp luật về góp vốn thành lập công ty cổ phần, HAY
 
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAYĐề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
Đề tài: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt NamLuận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
Luận văn: Thực trạng pháp luật về chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam
 
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nayLuận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
 
Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị công ty
Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị công tyGiải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị công ty
Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về quản trị công ty
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Doanh Nghiệp, Dễ Làm Điểm Cao
 
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nayLuận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Luận văn: Bảo hộ tên thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
 
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 ĐiểmLiệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
Liệt Kê 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Tại Công Ty Luật, 9 Điểm
 
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAYLuân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty, HOTLuận văn: Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty, HOT
Luận văn: Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty, HOT
 
BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...
BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...
BÁO CÁO THỰC TẬP LUẬT KINH TẾ: PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA, THỰC T...
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệpLuận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
Luận văn: Quyền lợi của cổ đông thiểu số theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOTLuận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
 
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lậpLuận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
 
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAYLuận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
Luận văn: Pháp luật về khuyến mại tại Thành phố Đà Nẵng, HAY
 

Similar to Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT

Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019PinkHandmade
 
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...HanaTiti
 
Tiểu luận luật.
Tiểu luận luật.Tiểu luận luật.
Tiểu luận luật.ssuser499fca
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfHanaTiti
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...KhoTi1
 

Similar to Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT (20)

Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
 
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
 
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...
Ban kiểm soát trong Quản trị nội bộ công ty cổ phần theo pháp luật ở Việt Nam...
 
Tiểu luận luật.
Tiểu luận luật.Tiểu luận luật.
Tiểu luận luật.
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát Luật 2020
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát Luật 2020Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát Luật 2020
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát Luật 2020
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
 
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Chuyển nhượng cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
 
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đQuản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
 
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệpTổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
Tổ chức và hoạt động của công ty hợp danh theo luật doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocVnPhan58
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Học viện Kstudy
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHThaoPhuong154017
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếngTonH1
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 

Recently uploaded (20)

30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hocBai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
Bai 1 cong bo mot cong trinh nghien cuu khoa hoc
 
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tếMa trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
Ma trận - định thức và các ứng dụng trong kinh tế
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
Slide Webinar Hướng dẫn sử dụng ChatGPT cho người mới bắt đầ...
 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXHTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và CNXH
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tếHệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
Hệ phương trình tuyến tính và các ứng dụng trong kinh tế
 
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
ĐỀ THAM KHẢO THEO HƯỚNG MINH HỌA 2025 KIỂM TRA CUỐI HỌC KÌ 2 NĂM HỌC 2023-202...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 

Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT

  • 1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGÔ ĐÌNH LẬP CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014 NGÔĐÌNHLẬPLUẬNVĂNCAOHỌCNĂM2014
  • 2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH NGÔ ĐÌNH LẬP CHẾ ĐỊNH BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2005 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ Mã số CN : 62380107 Người hướng dẫn khoa học: Phó giáo sư – Tiến sỹ Bùi Xuân Hải TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi trên cơ sở những ý tưởng hoặc tổng hợp của tôi. Những luận điểm của các tác giả khác đã được trích dẫn đầy đủ. Đà Lạt, ngày tháng 8 năm 2014
  • 4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU: ....................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1- Khái quát cơ cấu tổ chức công ty cổ phần:........................................................7 1.2- Vị trí, vai trò của Ban kiểm soát: ....................................................................13 1.3- Chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát:.......................................................20 Kết luận chương 1: ...............................................................................................22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 2.1- Về thành lập Ban kiểm soát:..........................................................................24 2.2- Về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát: ............................................................26 2.3- Về hoạt động của Ban kiểm soát....................................................................27 2.4- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát...................................................29 2.5- Về thành viên Ban kiểm soát: ........................................................................39 Kết luận chương 2: ................................................................................................52 CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 3.1- Định hướng chung cho việc hoàn thiện chế định Ban kiểm soát: ....................53 3.2- Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về Ban kiểm soát của công ty cổ phần trong pháp luật doanh nghiệp.................................................................................57 3.2.1- Về cơ cấu tổ chức, hoạt động của Ban kiểm soát: ........................................57 3.2.2- Về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát:................................................58 3.2.3- Về tiêu chuẩn và bầu thành viên Ban kiểm soát:..........................................59 3.2.4- Về nghĩa vụ, trách nhiệm, chế độ thù lao và lợi ích khác của thành viên Ban kiểm soát:..............................................................................................................60 3.2.5- Về miễn nhiệm, bãi nhiệm và cơ chế pháp lý bảo vệ thành viên Ban kiểm soát:......................................................................................................................61 Kết luận chương 3: ...............................................................................................61 KẾT LUẬN.........................................................................................................63
  • 5. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1- Lý do chọn đề tài Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, trong nhiều năm, kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng vì vậy, đã khai thông tiềm lực tài chính của tất cả các thành phần kinh tế trong xã hội cũng như thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, việc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã khẳng định sự đúng đắn công cuộc đổi mới ở nước ta qua đó đã ghi nhận những thành tựu to lớn trên con đường phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những thành tựu đáng ghi nhận đó là việc tạo hành lang pháp lý an toàn trong hoạt động kinh doanh của các chủ thể. Tạo sự thông thoáng trong môi trường đầu tư cũng như đáp ứng kịp thời sự thay đổi của xã hội vì vậy, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng được cũng cố và ngày càng hoàn thiện. Với việc ban hành Bộ luật Dân sự; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật chứng khoán; Luật Thương mại; Luật kinh doanh bất động sản; Luật Phá sản....cũng như nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư nhằm thực hiện thành công mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là “ làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế”.1 Cùng với việc xây dựng luật, các chủ trương chính sách trong việc thực thi đường lối cải cách kinh tế cũng đã có sự thay đổi đáng kể như chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp, biện pháp hành chính được áp dụng trong điều hành kinh tế thời bao cấp được thay đổi theo hướng tuân thủ các quy luật khách quan của kinh tế thị trường. Việc hình thành các thị trường cơ 1 Điều 16 Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung bằng Nghị quyết số 51/2001/QH 10 của Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại kỳ họp thứ 10, khóa X từ ngày 20/11 đến ngày 25/12/2001 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
  • 6. 2 bản như thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường đất đai… đã nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế, tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho hoạt động kinh doanh, phát huy mọi nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. Với chính sách và phương châm như thế, Luật Doanh nghiệp được ban hành đã tạo điều kiện cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp cũng như tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút các nhà đầu tư, tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế “ là một bước tiến lớn, đã tạo ra một thay đổi căn bản trong hoàn thiện khung khổ pháp luật về môi trường kinh doanh ở nước ta, góp phần thiết lập môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng và không phân biệt đối xử.” 2 qua đó góp phần làm cho quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư trong các hình thức sở hữu là bình đẳng như nhau. Tuy nhiên, có một thực tế mà chúng ta phải thừa nhận đó là: Mặc dù được đánh giá là đạo luật tiến bộ trong việc tạo điều kiện cho việc hình thành các loại hình doanh nghiệp, tuy nhiên, các thiết chế để tạo hành lang pháp lý cho các chủ thể tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình vẫn là thách thức lớn đối với các nhà lập pháp nhất là trong xu thế hiện nay với sự phát triển của những cấu trúc công ty mới như “các tập đoàn toàn cầu linh hoạt và năng động dần dần thay thế cho các tập đoàn ở tầm khu vực; đó là mạng lưới các công ty con và liên minh chiến lược rộng lớn và phức tạp với việc hữu sở cổ phiếu và quản trị chéo lẫn nhau; nguồn vốn đầu tư mang tính đại chúng” 3 . Vì thế, mô hình tổ chức quản trị doanh nghiệp nhất là trong công ty cổ phần luôn luôn là đề tài được nghiên cứu hoàn thiện không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nền kinh tế đang phát triển. Về bản chất việc phân định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trong công ty cổ phần trong đó có Ban kiểm soát chính là sự phân chia và chế ước quyền lực lẫn nhau giữa cổ đông và người quản lý/điều hành trong công ty. Vì vậy, quản 2 Bộ Kế hoạch và đầu tư Ban soạn thảo dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 3 Bob Tricker (2012), Kiểm soát quản trị, NXB Thời Đại, trang 39
  • 7. 3 trị công ty dù tổ chức theo mô hình nào cũng đều hướng đến hai mục tiêu quan trọng đó là đảm bảo cho công ty có một hệ thống kiểm soát chặt chẽ trong hoạt động nhằm đem lại lợi ích cho chủ thể khác nhau. Vì vậy, giám sát hoạt động quản lý, điều hành, phòng ngừa và phát hiện nhằm hạn chế rủi ro, tiêu cực... đang là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và giữ vai trò đặc biệt quan trọng của các doanh nghiệp nói chung và đối với công ty cổ phần nói riêng. Để công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả, phát triển bền vững theo đúng định hướng, chiến lược kinh doanh của công ty theo đúng quy định của pháp luật cũng như Điều lệ của công ty, đảm bảo lợi ích tối đa của công ty, của cổ đông, đăc biệt là những cổ đông nhỏ và những đối tượng có liên quan, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thì việc nghiên cứu hoàn thiện chế định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần đóng vai trò rất quan trọng trong hoàn thiện các chế định bảo vệ nhà đầu tư từ đó làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam ngày càng minh bạch. Trên cơ sở đó, học viên đã lựa chọn “Chế định Ban kiểm soát của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp 2005” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học luật. 2- Tình hình nghiên cứu đề tài Tổ chức quản trị doanh nghiệp nhất là trong công ty cổ phần cũng như các chế định về bảo vệ cổ đông, đặc biệt là cổ đông thiểu số đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu, tuy nhiên trong luận văn của mình, học viên tiếp cận nghiên cứu các vấn đề này thông qua chế định về Ban kiểm soát. Bởi lẽ, vai trò của Ban kiểm soát được ví như “cơ quan tư pháp” trong một “nhà nước thu nhỏ”, nhưng trên thực tế thì Ban kiểm soát lại chưa hoàn thành đúng chức năng mà nó vốn có. Sở dĩ có hiện tượng này là do cơ chế pháp lý đã có nhưng việc thực thi chưa nghiêm; nhưng quan trọng nhất đó là quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn còn những bất cập từ đó dẫn đến hoạt động của Ban kiểm soát giống như “con rối”, thực tế diễn ra trong thời gian gần đây trên các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán đã chứng minh Ban kiểm soát không có vai trò gì trong hoạt động của các doanh nghiệp, bởi nếu làm đúng chức năng của mình thì
  • 8. 4 nhà đầu tư phải biết được những sai phạm của các doanh nghiệp này trước khi bị các cơ quan có chức năng điều tra làm rõ sai phạm. Vì vậy, trên cơ sở tiếp thu kết quả khoa học của các đề tài nghiên cứu trước đó, đồng thời đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ chặt chẽ với yêu cầu thực tiễn để kiến nghị những sửa đổi về chế định Ban kiểm soát từ đó góp phần bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư. Những nội dung liên quan đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở những góc độ khác nhau như trong các Luận văn Thạc sỹ Luật học của các tác giả Châu Quốc An (2006) “Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp”; Nguyễn Hoàng Thuỳ Trang (2008) “Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần – So sánh giữa pháp luật Anh và pháp luật Việt Nam”; Đoàn Mạnh Quỳnh (2010) “Pháp luật về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005”. Các sách chuyên khảo của các tác giả như: Mai Hồng Quỳ (2012) “Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam”; Phạm Trí Hùng – Nguyễn Trung Thẳng (2012) “CEO và Hội đồng quản trị”; Bob Triker (2012) “Kiểm soát quản trị – các nguyên tắc, chính sách và thực hành về quản trị công ty và cơ chế kiểm soát quản trị”; Bùi Xuân Hải (2011) “Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ đông – pháp luật và thực tiễn”; Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung (2009) “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005”; Ngô Văn Quế (2001) “Công ty cổ phần và thị trường tài chính”; Đoàn Văn Trường (1996) “Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động công ty cổ phần” và Tập bài giảng chủ thể kinh doanh – Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh . Cùng các bài viết trên các tạp chí Khoa học pháp lý của Phó giáo sư – Tiến sỹ Bùi Xuân Hải vào các năm 2006, 2007, 2009 như: So sánh cấu trúc quản trị nội bộ của công ty cổ phần Việt Nam với các mô hình điển hình trên thế giới; Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam; Bảo vệ cổ đông: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như các bài viết của các tác giả khác.
  • 9. 5 Những công trình nghiên cứu trên đã tiếp cận vấn đề dưới những góc độ pháp lý khác nhau và đối tượng nghiên cứu của các tác giả cũng có sự khác biệt; nhưng các tài liệu này là nguồn tham khảo quan trọng để học viên hoàn thành luận văn của mình. 3- Mục đích nghiên cứu đề tài Thông qua việc nghiên cứu, học viên nêu lên những bất cập của chế định Ban kiểm soát của Công ty cổ phần; từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện chế định này nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông ngày càng hiệu quả và thực chất hơn trong hoạt động kinh doanh. 4- Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu về chế định Ban kiểm soát được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2005 thông qua việc so sánh Luật Doanh nghiệp 1999 và Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 từ đó phân tích để chỉ ra những bất cập, hạn chế và thiếu sót của chế định này với vai trò là một trong những công cụ quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ. Một số bất cập của chế định đã được các tác giả khác nghiên cứu nhưng trong luận văn này, những bất cập đó sẽ được nhìn nhận và phân tích dưới những góc độ khác nhau. Để tiến hành nghiên cứu, học viên sử dụng phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-LêNin kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp phân tích; phương pháp so sánh; phương pháp tổng hợp….. để đánh giá và nghiêu cứu những nội dung cơ bản của luận văn. 5- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài nghiên cứu những quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 về chế định Ban kiểm soát từ đó rút ra những hạn chế bất cập của Luật thực định, trên cơ sở đó chỉ ra những thiếu sót và đề xuất hướng hoàn thiện chế định này. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các công ty cổ phần trong tình hình hiện nay, cũng như những đối tượng có liên quan như các sinh viên của các trường luật. 6- Bố cục của luận văn
  • 10. 6 Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về Ban kiểm soát của công ty cổ phần Chương 2: Thực trạng pháp luật về Ban kiểm soát của công ty cổ phần Chương 3: Định hướng hoàn thiện chế định về Ban kiểm soát của công ty cổ phần
  • 11. 7 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 1.1- Khái quát cơ cấu tổ chức công ty cổ phần Tổ chức các doanh nghiệp dưới mô hình công ty có lịch sử hình thành và phát triển tương đối lâu dài trên thế giới. Trong đó công ty cổ phần “xét ở góc độ lịch sử hình thành và phát triển thì nó xuất hiện trước công ty trách nhiệm hữu hạn một thời gian khá dài” 4 . Loại hình công ty này đã phát triển ở hầu hết các nước “từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty đa quốc gia” 5 . Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường được đề cao bởi quy luật cạnh tranh giữa các chủ thể trong hoạt động kinh doanh mà khi tham gia vào các quan hệ này, sự tự do, sự sáng tạo của các chủ thể được phát huy tối đa trong đó có tự do trong việc lựa chọn loại hình kinh doanh. Chính vì vậy, công ty cổ phần đã trở thành một loại hình kinh doanh phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới và “được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” 6 . Việt Nam, với vị thế của quốc gia đang phát triển cũng tiếp thu những thành tựu văn minh nhân loại trong đó có thành tựu về kinh tế vì vậy những loại hình doanh nghiệp trong đó có mô hình công ty cổ phần đã được quy định tại Luật Công ty năm 1990; Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005. Theo quy định tại Điều 95 Luật Doanh nghiệp 2005 thì cơ cấu tổ chức quản lý của công ty cổ phần gồm có: 1.1.1 Đại hội đồng cổ đông Bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, đây là cơ quan quyết định cao nhất của công ty cổ phần. Giống như cơ quan lập pháp, Đại hội đồng cổ đông chỉ họp thường niên hoặc bất thường ít nhất một lần trong 4 Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, trang 58 5 Đặng Cẩm Thuý (1997) “Bàn về con đường hình thành công ty cổ phần ở các nước Tư bản và vận dụng vào Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (số 225). 6 Nguyễn Ngọc Bích (2004), Luật Doanh nghiệp: vốn và quản lý trong công ty cổ phần, NXB Trẻ, trang 38.
  • 12. 8 năm. Đây được xem là nơi tập trung quyền lực của những người có phần vốn góp trong công ty và là nơi quyết định hầu hết những vấn đề quan trọng có ý nghĩa đến sự tồn tại của công ty . Có thể phân định thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông thành các nhóm sau: - Một là: Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua định hướng phát triển công ty, quyết định tổ chức, giải thể công ty. Đây là những vấn đề liên quan đến nền tảng của công ty nên chỉ có Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất mới có thẩm quyền này. - Hai là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại. - Ba là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định về mức cổ tức hằng năm của từng loại cổ phần. - Bốn là: Đại hội đồng cổ đông có quyền thông qua báo cáo tài chính hằng năm của công ty cũng như báo cáo đánh giá công tác quản lý và điều hành công ty. - Năm là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định mua lại trên 10% tổng số cổ phần đã bán của mỗi loại. Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại, do đó khi công ty mua lại các cổ phần đã bán, đặc biệt là mua lại với số lượng lớn (trên 10%) có khả năng ảnh hưởng đến cơ cấu vốn điều lệ của công ty thì phải được sự đồng ý của Đại hội đồng cổ đông. - Sáu là: Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định khác. - Bảy là: Đại hội đồng cổ đông có quyền bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, đồng thời có quyền xem xét và xử lý các vi phạm của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát gây thiệt hại cho công ty và cổ đông. - Tám là: Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty.
  • 13. 9 Do tính chất quan trọng trong các quyết định của Đại hội đồng cổ đông có liên quan đến sự tồn tại và phát triển của công ty cổ phần nên Luật Doanh nghiệp cũng đã quy định rất chặt chẽ về thẩm quyền triệu tập họp, theo đó Đại hội thường niên phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, nhưng tối đa không được quá sáu tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính để thảo luận và thông qua các vấn đề chính như báo cáo tài chính hằng năm; báo cáo của Hội đồng quản trị; báo cáo của Ban kiểm soát; quyết định mức cổ tức đối với mỗi cổ phần của từng loại và các vấn đề khác thuộc thẩm quyền. Bên cạnh cuộc họp thường niên, cuộc họp bất thường Đại hội đồng cổ đông cũng được tiến hành khi Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; khi số thành viên Hội đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn theo quy định tại Điều lệ công ty; theo yêu cầu của Ban kiểm soát. Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông chỉ được tiến hành khi số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Nếu cuộc họp lần thứ nhất không tiến hành được thì sẽ triệu tập cuộc họp lần thứ hai trong vòng 30 ngày kể từ ngày họp lần thứ nhất, cuộc họp này diễn ra khi số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số cổ phần biểu quyết. Nếu cuộc họp này lại không thể tiến hành thì cuộc họp lần ba sẽ được triệu tập mà không cần phụ thuộc vào số cổ đông dự họp và tỷ lệ số cổ phần có quyền biểu quyết trong vòng 20 ngày kể từ ngày họp lần thứ 2. Quyết định của Đại hội đồng cổ đông chỉ được thông qua tại cuộc họp khi được ít nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp chấp thuận; đối với việc quyết định về loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán, sửa đổi bổ sung Điều lệ công ty, tổ chức lại/giải thể công ty, đầu tư hoặc bán tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không có quy định khác thì phải được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết của cổ đông dự họp chấp thuận. Việc biểu quyết bầu thành viên Hội
  • 14. 10 đồng quản trị và Ban kiểm soát được thực hiện thông qua phương thức bầu dồn phiếu; trường hợp quyết định của Đại hội đồng cổ đông thông qua dưới hình thức bằng văn bản chỉ có giá trị khi được ít nhất 75% tổng số phiếu biểu quyết chấp thuận. Như vậy, việc triệu tập họp, tham dự cuộc họp và thông qua các quyết định của Đại hội đồng cổ đông được quy định rất chặt chẽ, trong trường hợp có sự vi phạm trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông cũng như trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định của Đại hội đồng cổ đông vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty thì cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông trừ trường hợp các quyết định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông với số phiếu cổ phần trực tiếp và ủy quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp. 1.1.2- Hội đồng quản trị Là cơ quan quản lý công ty, có toàn bộ quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông 7 . Có thể phân quyền và nhiệm vụ của Hội đồng quản trị thành các nhóm sau: Thứ nhất nhóm quyền quyết định: Về chiến lược, kế hoạch phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; về chào bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại hoặc huy động thêm vốn theo hình thức khác; về giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty; về mua lại không quá 10% tổng số cổ phần của từng loại đã được chào bán trong mỗi mười hai tháng; về thời hạn và thủ tục trả cổ tức hoặc xử lý lỗ phát sinh trong quá trình kinh doanh về phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn; về giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị công nghệ, thông qua hợp đồng vay và các hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ trừ các giao 7 Khoản 1 Điều 8 Luật Doanh nghiệp 2005.
  • 15. 11 dịch và hợp đồng thuộc quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông; về cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; về thành lập công ty con, thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện và việc góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp khác; về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký hợp đồng, chấm dứt hợp đồng với Giám đốc, Tổng giám đốc hoặc người quản lý khác; về cử người đại diện theo ủy quyền thực hiện quyền sở hữu cổ phần hoặc phần vốn góp ở công ty khác; về mức lương và lợi ích khác của những người này; Thứ hai nhóm quyền kiến nghị: Về loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; kiến nghị mức cổ tức được trả; kiến nghị việc tổ chức lại, giải thể hoặc yêu cầu phá sản công ty. Bên cạnh những quyền trên, Hội đồng quản trị có nghĩa vụ duyệt chương trình, nội dung tài liệu phục vụ họp, triệu tập họp hoặc lấy ý kiến để Đại hội đồng cổ đông thông qua quyết định; trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm cũng như giám sát, chỉ đạo giám đốc hoặc Tổng giám đốc và người quản lý khác trong điều hành công việc kinh doanh hằng ngày của công ty. Với quy định này, chúng ta nhận thấy những hoạt động kinh doanh và công việc nội bộ trong công ty đều thuộc sự quản lý của Hội đồng quản trị. Từ quyền quản lý và tổ chức công ty gồm: Quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển trung dài hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; quyết định cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập các công ty con, lập chi nhánh văn phòng đại diện và việc góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp khác…Để thực hiện những nhiệm vụ này, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định thành viên Hội đồng quản trị phải là thể nhân và số lượng tối thiểu là ba người và tối đa là mười một người, trừ Điều lệ có quy định khác. Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị không quá năm năm, thành viên Hội đồng quản trị không nhất thiết phải là cổ đông của công ty và có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các quyết định của Hội đồng quản trị được thông qua bằng hình thức biểu quyết và có hiệu lực thi hành. Số lượng thành viên Hội đồng quản trị phụ thuộc vào quy mô hoạt động của công ty và họ có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông công ty. Một số công ty cổ phần nếu lựa chọn Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm nhiệm Giám đốc hoặc
  • 16. 12 Tổng giám đốc công ty thì việc tập trung quyền lực vào một cá nhân là rất lớn nên nguy cơ công ty bị thao túng là rất cao. 1.1.3-Giám đốc hoặc Tổng giám đốc Là người điều hành công việc kinh doanh của công ty, do Hội đồng quản trị bổ nhiệm trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám đốc/Tổng giám đốc, là người đại diện theo pháp luật nếu Điều lệ công ty không quy định khác; nhiệm kỳ không quá năm năm và có thể được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế, không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác, chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao như: Quyền quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty; quyền kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức, quy chế quản lý nội bộ công ty; quyền bổ nhiệm, cách chức các chức danh quản lý trong công ty; quyền tuyển dụng lao động và quyết định lương và phụ cấp đối với người lao động trong công ty và người quản lý thuộc quyền bổ nhiệm của họ; quyền kiến nghị phương án trả cổ tức hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh. Bên cạnh đó, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có nghĩa vụ tổ chức thực hiện các quyết định của Hội đồng quản trị cũng như tiến hành tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty. Khi thực hiện quyền và nhiệm vụ của mình, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc phải thực hiện đúng theo quy định của pháp luật, Điều lệ công ty, hợp đồng lao động đã ký với công ty và quyết định của Hội đồng quản trị. Nếu làm trái những quy định này mà gây thiệt hại cho công ty thì họ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và phải bồi thường thiệt hại cho công ty. 1.1.4- Ban kiểm soát Theo quy định thì không phải công ty cổ phần nào cũng bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát mà chế định này chỉ được thành lập khi công ty cổ phần có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty. Chức năng chính của Ban kiểm soát là giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc điều hành công ty; thẩm định và trình các báo cáo bắt buộc của công ty như báo
  • 17. 13 cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo công tác quản lý của Hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. 1.2- Vị trí, vai trò của Ban kiểm soát Một trong những đặc trưng của công ty cổ phần là số lượng cổ đông về mặt lý thuyết thường rất đông đảo và đa dạng về thành phần xã hội. Nếu như công ty trách nhiệm hữu hạn với số lượng thành viên tối đa là năm mươi thì cổ đông của công ty cổ phần là không hạn chế số lượng tối đa. Bên cạnh đó là sự biến động về số lượng cổ đông cũng diễn ra thường xuyên và dễ dàng hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa các cổ đông thường không bền chặt. Họ thậm chí không biết mặt nhau trừ những cổ đông có số lượng cổ phần lớn trong công ty. Mặt khác, do số lượng cổ phần của các cổ đông sở hữu trong công ty là không giống nhau – có người nhiều, người ít vì vậy, tiếng nói và sự ảnh hưởng đến hoạt động trong công ty của những cổ đông này cũng có sự khác biệt. Một sự thật hiển nhiên mà chúng ta phải thừa nhận đó là “ không phải tất cả các cổ đông đều có quyền lợi thống nhất với nhau, đều có khả năng chi phối, tham gia hoạt động quản lý, kiểm soát công ty giống nhau” 8 . Đây là một nhận định hoàn toàn chính xác và nó thể hiện đúng bản chất của công ty cổ phần đó chính là sự đa dạng của cổ đông vì có nhiều hình thức khác nhau để một tổ chức hay cá nhân trở thành cổ đông của công ty cổ phần, chẳng hạn như họ có thể tham gia thành lập công ty cổ phần với tư cách là thành viên sáng lập; tham gia mua cổ phần được chào bán khi công ty phát hành công khai; nhận chuyển nhượng hoặc được thừa kế cổ phần của cổ đông trong công ty cũng như xuất thân từ các giai tầng khác nhau trong xã hội đó có thề là tầng lớp nông dân, công nhân, trí thức…tuy mục đích của họ là lợi nhuận được chia của công ty dựa vào tỷ lệ vốn góp nhưng động cơ trở thành cổ đông của họ cũng rất khác biệt đó có thể là một sự đầu tư bài bản và dài hơi hay chỉ là một sự đầu tư mang tính chất cảm tính, thời vụ hay ảnh hưởng bởi tâm lý đám 8 Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, trang 151
  • 18. 14 đông nên họ tham gia vào công ty cổ phần mà không có sự nghiên cứu kỹ về hiệu quả hoạt động của công ty trước mắt cũng như lâu dài. Xét về số lượng thì số cổ đông này chiếm tỷ lệ lớn nhưng nó tỷ lệ nghịch với số lượng cổ phần mà họ sở hữu, vì thế vai trò của họ trong công ty cổ phần là không đáng kể. Những cổ đông này, được gọi là cổ đông thiểu số/cổ đông nhỏ hay “cổ đông ít vốn” 9 đều có chung một số phận đó là luôn luôn chịu sự chèn ép, bị lép vế, hay phải “gánh chịu những thủ đoạn chơi xấu của các cổ đông lớn có thể sử dụng để làm thiệt hại lợi ích cho những cổ đông này” 10 chẳng hạn như đối với những cổ đông lớn, họ có thể thông qua Đại hội đồng cổ đông để “ thiết lập bộ máy quản lý điều hành theo ý chí của mình hoặc bắt tay nhau để quyết định đường lối phát triển của công ty phù hợp với lợi ích của họ mà bỏ qua lợi ích của các cổ đông nhỏ” 11 . Đây là điểm khác biệt rất lớn nếu so sánh với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh, chúng ta thấy, ở hai loại hình kinh doanh này, yếu tố quen biết, mối quan hệ thâm giao chính là nền tảng đầu tiên để gắn kết các thành viên với nhau. Thông qua mối quan hệ này, họ sẽ cùng nhau hợp tác để hình thành công ty. Do sự đa dạng về số lượng cổ đông nên cơ cấu tổ chức quản trị của công ty cổ phần cũng có phần phức tạp. Việc thành viên Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc/Tổng giám đốc của công ty cổ phần có thể không là cổ đông công ty vì khi công ty có quy mô nhỏ, số lượng cổ đông ít thì các cổ đông có thể kiêm nhiệm luôn các chức năng quản lý trong công ty. Vì vậy, xét về hiện tượng thì có vẻ như không có sự tách bạch về vốn giữa công ty và cổ đông vì họ cũng chính là người đang quản lý và kinh doanh trên chính đồng vốn của họ đã đầu tư. “Đồng tiền đi liền khúc ruột” cho nên các quyết định và kế hoạch kinh doanh của công ty sẽ được xem xét quyết định một cách thận 9 Nguyễn Ngọc Bích – Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty vốn, quản lý và tranh chấp theo luật doanh nghiệp 2005, NXB Tri Thức, trang 349 10 Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, trang 154-155 11 Bùi Xuân Hải (2011), Luật doanh nghiệp bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, trang 152-153
  • 19. 15 trọng và sáng suốt vì chính họ đang quyết định sự mất/còn của đồng vốn mà họ đã bỏ ra. Tuy nhiên, khi công ty phát triển ngày càng lớn, quy mô ngày càng được mở rộng thì số lượng cổ đông ngày càng nhiều, vấn đề quản lý và điều hành ngày càng phức tạp, công ty không thể quản lý theo kiểu gia đình mà cần phải có cơ chế điều hành khoa học hơn.Việc thuê người quản lý, điều hành công ty là một xu thế tất yếu và là một quy luật khách quan của sự phát triển trong nền kinh tế mở. Chính vì vậy, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể không là cổ đông của công ty. Lúc này thì những cổ đông của công ty đều đứng trước khả năng phải chịu những rủi ro xảy ra đối với phần vốn góp của mình trong công ty cổ phần. Vì vậy, một trong những ẩn số cần giải quyết trong bài toán cho sự phát triển bền vững của công ty cổ phần đó là phải có sự kiểm soát nhằm hạn chế những xung đột về lợi ích giữa người quản lý công ty – với tư cách là người trực tiếp quản lý, sử dụng vốn và các cổ đông – với tư cách là chủ sở hữu thật sự của công ty. Trên thực tế, người điều hành công ty có thể là cổ đông hoặc không phải là cổ đông, vì không phải chủ sở hữu nào cũng có khả năng điều hành hoạt động kinh doanh, có thể họ có tiền, nhưng không có khả năng điều hành và quản lý hoặc không có hoặc hạn chế về lĩnh vực mà họ đầu tư. Chính vì vậy, việc thuê người điều hành là xu thế tất yếu, bằng cách này, các công ty mới có thể thu hút nhiều nhà quản trị giỏi có khả năng điều hành hoạt động công ty ngày càng hiệu quả hơn. Nhưng ở bất cứ vai trò nào là người làm thuê hay cổ đông tham gia để điều hành thì họ cũng có nhiều cơ hội để tư lợi cho bản thân hoặc những người thân của họ. Mặc dù khi thực hiện công việc được giao, họ phải đảm bảo đem lại tốt nhất lợi ích hợp pháp, tối đa cho công ty và cổ đông; thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách “trung thực, cẩn trọng” 12 . Tuy nhiên những khái niệm “trung thực, cẩn trọng” ít nhiều thể hiện sự định tính, nó không có bất cứ một chuẩn mực nào để đánh giá cho hành vi của người điều hành là cẩn trọng hay trung thực hay chưa. Người điều hành công ty có nhiều lý do để biện minh cho những quyết 12 Điểm b khoản 1 điều 119 Luật Doanh nghiệp 2005
  • 20. 16 định của mình và họ có thể cho rằng khi thực hiện những quyết định đó, họ đã thể hiện đầy đủ trách nhiệm vì vậy không thể quy trách nhiệm cho họ được, mặt khác những rủi ro của quyết định mà họ đưa ra có thể không thấy trước mà có thể chỉ để lại hậu quả về sau. Nhìn trên bình diện rộng hơn thì việc giám sát các hoạt động của người quản lý không chỉ bảo vệ cho quyền lợi của cổ đông mà còn đảm bảo cho sự phát triển bền vững của công ty cũng như của nền kinh tế. Bởi lẽ trong hoạt động công ty, bên cạnh lợi ích của cổ đông thì còn có những lợi ích của những đối tác khác như: người lao động, các chủ nợ, của chính quyền – thông qua việc thực hiện các nghĩa vụ nộp thuế của công ty và quan trọng hơn cả là sự ổn định phát triển kinh tế quốc gia. Một cơ chế giám sát hoạt động những cổ đông lớn và những người quản lý công ty nhằm ngăn chặn và phát hiện kịp thời những hành vi lạm quyền hoặc những hành vi tư lợi để bảo vệ lợi ích của công ty và các cổ đông khác là điều cần thiết vì mối quan tâm hàng đầu của các cổ đông chính là cổ tức mà họ nhận được hằng năm thông qua hoạt động của công ty. Vì vậy, bảo vệ họ là một yêu cầu tất yếu khi xây dựng quy chế quản trị nội bộ công ty cũng như những quy phạm pháp luật về công ty cũng phải có những quy định cần thiết để bảo vệ những nhà đầu tư nhỏ. Chính vì vậy, chế định Ban kiểm soát được đặt ra không phải do ý chí chủ quan của các nhà lập pháp mà xuất phát từ thực tiễn hoạt động của công ty cổ phần, một cơ chế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích cho cổ đông nói chung và cổ đông thiểu số nói riêng là một điều tất yếu. Tuy nhiên, chế định này được thiết kế trong luật phải mang tính mềm dẻo và uyển chuyển bởi nếu các quy định này quá cứng ngắt và mang tính áp đặt thì nó sẽ làm mất đi tính chất riêng biệt của công ty cổ phần từ đó dẫn đến sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào quyền của chủ sở hữu, nó sẽ làm cho: “Công dân chẳng thể nào thực hiện được quyền tự do kinh doanh của mình khi hình thức kinh doanh của họ tạo lập không được quyền tự do kinh doanh” 13 . 13 Mai Hồng Quỳ (2012), Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam, NXB Lao động, trang 155
  • 21. 17 Nhưng xuất phát từ quan điểm: “ Quyền tự do kinh doanh của một chủ thể luôn bị giới hạn bởi quyền tự do kinh doanh và lợi ích chính đáng của chủ thể khác trong xã hội” 14 . Vì vậy, để đảm bảo hài hòa quyền của chủ sở hữu nhưng đồng thời cũng bảo vệ cho những mục tiêu khác trong xã hội nên chế định Ban kiểm soát vẫn phải được luật hóa và trên cơ sở này, các công ty cổ phần có quyền quy định cụ thể hoạt động của Ban kiểm soát trong điều lệ hoặc quy chế nội bộ của công ty cho phù hợp với quy mô và tính chất của mỗi công ty. Pháp luật coi quy chế, điều lệ của doanh nghiệp là “luật của doanh nghiệp” và Tòa án, các cơ quan bảo vệ pháp luật khi xem xét một số tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp cũng có thể coi chúng là “nguồn luật áp dụng” 15 . Vì vậy, các công ty cổ phần cần phải chủ động đưa các nguyên tắc quản trị công ty vào điều lệ, vào Quy chế quản trị công ty, trong đó đặc biệt chú ý tới vai trò của Ban kiểm soát, phải quy định cụ thể nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát và các thành viên Ban kiểm soát khi thực hiện việc giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công ty đảm bảo để công ty làm ăn có lãi, tài sản công ty không bị thất thoát. Luật Doanh nghiệp 2005 trong những quy định về quản trị nội bộ của công ty cổ phần đã có những quy định mang tính mở nhằm tạo sự tự do cho định hướng phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quyền tự quyết trong tổ chức quản lý công ty phải tuân thủ khuôn khổ của pháp luật. Trên cơ sở lý luận này thì chế định Ban kiểm soát đã được quy định trong luật, tuy nhiên, những quy định này chỉ được áp dụng khi Điều lệ công ty không có những quy định khác. Rõ ràng, hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần không chỉ dựa trên những quy định của pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh của quy định nội bộ công ty cổ phần. Điều này thể 14 Bùi Xuân Hải (2011), “Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp chí Nhà nước & pháp luật (5) 15 Bùi Ngọc Cương (2002), “Vai trò của pháp luật kinh tế trong việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh”, Tạp chí khoa học pháp lý (7)
  • 22. 18 hiện sự linh hoạt, tự chủ trong hoạt động kinh doanh được pháp luật trao cho các chủ sở hữu, từ đó góp phần tạo ra một cơ chế giám sát hữu hiệu đối với hoạt động quản lý điều hành của công ty. Hành lang pháp lý cho việc ban hành các quy định nội bộ của công ty trong hoạt động của Ban kiểm soát đã có, vấn đề còn lại là các công ty cổ phần có biết vận dụng hiệu quả những quy định này hay không? Nếu không triển khai được những quy định này thì sẽ làm triệt tiêu hoạt động của Ban kiểm soát hoặc sẽ làm chồng chéo, trùng lắp với một số bộ phận khác trong công ty. Như vậy, chúng ta nhận thấy, các quy định về Ban kiểm soát trong công ty cổ phần có thể được chia thành từ hai nguồn khác nhau đó là: Dựa trên các quy định pháp luật và các nguyên tắc của quản trị của công ty (được ghi nhận trong Điều lệ, Quy chế quản trị công ty, Quy chế hoạt động của Ban kiểm soát). Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Ban kiểm soát theo quy định của pháp luật, có thể thấy khi Ban kiểm soát thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn này vẫn chưa đủ để thực sự đảm bảo vai trò giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trong thực tiễn, vai trò của Ban kiểm soát chủ yếu là thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính theo định kỳ của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị một cách hình thức và thường là sự sao chép “có chọn lọc” từ báo cáo của Hội đồng quản trị và trình các báo cáo này lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên. Có nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan để dẫn đến thực trạng trên như nhận thức chưa đầy đủ của cổ đông, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc về vị trí, vai trò của Ban kiểm soát cũng như sự bất cập và chưa hoàn thiện của pháp luật. Nhưng, xuất phát từ vai trò quan trọng của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần nên trong khi chờ đợi việc hoàn thiện quy định pháp luật về chế định này thì cổ đông của công ty có thể đưa các quy định về Ban kiểm soát vào Điều lệ, Quy chế quản trị công ty, Quy chế hoạt động của Ban kiểm soát như một cơ chế quan trọng nhằm đảm bảo quyền lợi của mình.
  • 23. 19 Mặc khác, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban kiểm soát thì phải có cơ chế đảm bảo cho những nguyên tắc sau đây được thực thi bên cạnh sự thay đổi trong nhận thức về vai trò và vị trí của Ban kiểm soát được thể hiện trong các quy định của pháp luật cũng như các quy chế quản trị nội bộ của công ty đó là: Nguyên tắc 1: Cổ đông không can thiệp vào hoạt động của Ban kiểm soát dưới bất cứ hình thức nào, hoạt động của Ban kiểm soát chỉ tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định có liên quan của công ty. Phải có sự tách bạch trong hoạt động của các bộ phận trong công ty, tránh trường hợp chồng chéo, dẫm chân nhau trong hoạt động. Khi thực hiện nhiệm vụ, Ban kiểm soát không được làm ảnh hưởng đến quá trình hoạt động quản lý, điều hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; ngược lại, Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cũng không được lợi dụng vị trí và ảnh hưởng của mình để tác động nhằm cản trở hoạt động của Ban kiểm soát. Nguyên tắc 2: Quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát chỉ phát sinh khi xảy ra sự kiện pháp lý mà những sự kiện này được quy định trong Luật doanh nghiệp và những quy định nội bộ của công ty. Điều này có nghĩa là Ban kiểm soát chỉ được thực hiện những nhiệm vụ đã được quy định sẵn. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Ban kiểm soát phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, phải phù hợp với đạo đức nghề nghiệp; phải trung thực; cẩn trọng và phải trung thành với lợi ích của công ty 16 . Để cụ thể hóa những phạm trù này, cách tốt nhất là quy định nội bộ của công ty cần phải quy định chi tiết những chuẩn mực này, có như vậy mới nâng cao trách nhiệm của thành viên Ban kiểm soát, tránh cách hiểu và cách vận dụng khác nhau dẫn đến những tranh cãi không đáng có giữa người quản lý/điều hành công ty và thành viên Ban kiểm soát trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Như vậy, từ vị trí pháp lý đã được pháp luật minh định thì vai trò của Ban kiểm soát là rất quan trọng, đây được xem là người bảo vệ cho những đồng vốn của cổ đông, bởi khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Ban kiểm soát 16 Khoản 1,2,3 Điều 126 Luật Doanh nghiệp.
  • 24. 20 không nhân danh cá nhân mà phải đứng trên lập trường, quan điểm và lợi ích của cổ đông để thực thi nhiệm vụ giám sát. Đây được xem là bộ lộc quan trọng nhằm ngăn ngừa những hành vi sử dụng vốn không đúng trong hoạt động kinh doanh. Có thể nói, cổ đông đã ủy quyền cho Ban kiểm soát giám sát việc sử dụng đồng vốn của họ trong công ty vì vậy, khi thực hiện chức năng giám sát, Ban kiểm soát hoàn toàn độc lập với Hội đồng quan trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty. Điều này khẳng định: Ban kiểm soát chỉ chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông, khi thực hiện quyền của mình, Ban kiểm soát chỉ hướng đến một mục tiêu duy nhất đó là đảm bảo các quyết định của người quản lý và điều hành công ty phải đúng luật, phải phù hợp với nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông từ đó đảm bảo cho quyền lợi của cổ động không bị xâm phạm. Việc xác định đúng vị trí pháp lý của Ban kiểm soát có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, qua đó, quyền lợi của cổ đông và những đối tượng có liên quan sẽ được bảo vệ. 1.3- Chức năng, nhiệm vụ của Ban kiểm soát Giống như Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát trong công ty cổ phần do Đại hội đồng cổ đông bầu, chịu trách nhiệm trước cổ đông, vì thế, xét về phương diện thành lập thì Ban kiểm soát ngang hàng với Hội đồng quản trị nhưng khi thực thi nhiệm vụ của mình thì một số hoạt động của Hội đồng quản trị lại là đối tượng giám sát của Ban kiểm soát. Theo quy định tại Điều 123 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì chức năng của Ban kiểm soát là thay mặt Đại hội đồng cổ đông giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong quản lý và điều hành công ty; kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính, từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết; thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị, trình báo cáo lên Đại hội
  • 25. 21 đồng cổ đông thường niên; xem xét sổ sách kế toán và các tài liệu khác của công ty, các công việc quản lý và điều hành hoạt động của công ty bất cứ khi nào nếu thấy cần thiết hoặc theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% vốn điều lệ trở lên; phát hiện vi phạm của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì phải thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi phạm và có giải pháp khắc phục Như vậy, những hoạt động quản lý điều hành của công ty được thực hiện thông qua Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, những người quản lý khác và người có lợi ích liên quan trong một số trường hợp cụ thể là đối tượng giám sát của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng kiểm soát của mình, đòi hỏi các thành viên Ban kiểm soát phải có bản lĩnh và trình độ năng lực chuyên môn cao, phải hội tụ những kỹ năng chính để thực hiện tốt hoạt động giám sát đó chính là kỹ năng về quản lý rủi ro, kỹ năng về kế toán kiểm toán, kỹ năng về hoạt động kinh doanh của công ty và kỹ năng giám sát sự tuân thủ pháp luật. Chỉ khi nào Ban kiểm soát đáp ứng được những tiêu chí như trên thì mới có thể giám sát tốt những đối tượng mà mình có trách nhiệm giám sát trong công ty cổ phần. Hoạt động giám sát của Ban kiểm soát là một chức năng được thực hiện một cách liên tục bởi các thành viên Ban kiểm soát nhằm cung cấp cho Đại hội đồng cổ đông những thông tin trong hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Kết quả của hoạt động giám sát giúp Đại hội đồng cổ đông có điều kiện đánh giá hiệu quả công tác điều hành quản lý công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; đảm bảo việc điều hành là đúng và tuân thủ những quy định của pháp luật và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông nhằm duy trì ổn định cho sự phát triển bền vững của công ty. Mục đích hoạt động giám sát của Ban kiểm soát là nhằm đảm bảo các chủ thể quản lý và điều hành trong công ty tuân thủ các chuẩn mực về tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều
  • 26. 22 hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính. Hoạt động này của Ban kiểm soát sẽ dẫn đến hệ quả là các chủ thể quản lý và điều hành công ty phải cận trọng hơn trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều này cũng có nghĩa là mọi quyết định của họ điều đem lại những lợi ích cho công ty, phải vì sự bền vững và sự phát triển của công ty. Trong trường hợp không vì lợi ích của công ty thì với chức năng giám sát của mình, Ban kiểm soát có quyền yêu cầu họ dừng các hành vi xâm phạm đến lợi ích của công ty hoặc yêu cầu triệu tập Đại hội đồng cổ đông để xem xét vấn đề này. Bên cạnh chức năng giám sát, hoạt động thẩm định các báo cáo cũng là chức năng không kém phần quan trọng trong thực thi nhiệm vụ của Ban kiểm soát, đây là bước kiểm tra cuối cùng trước khi được Đại hội đồng cổ đông thông qua, vì vậy đây là nhiệm vụ rất quan trọng, nó đòi hỏi Ban kiểm soát phải thực sự khách quan, có trình độ và có bản lĩnh để nhận xét khách quan và chính xác các báo cáo, giúp cổ đông định hướng được mục tiêu trong hoạt động đầu tư của mình cũng như có cái nhìn chính xác về hiệu quả trong hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Trên cơ sở đó, cổ đông sẽ quyết định có tiếp tục tín nhiệm hay yêu cầu có sự thay đổi bộ máy lãnh đạo cũng như quyết định cho việc tiếp tục đầu tư hay hay thoái vốn ra khỏi công ty. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Nghiên cứu khái quát những đặc trưng của công ty cổ phần từ đó chỉ ra cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý cho sự hình thành và hoạt động của Ban kiểm soát có một ý nghĩa quan trọng trong việc xác lập quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát cũng như mối quan hệ với các đơn vị, các bộ phận chức năng khác trong công ty để nó thật sự là cơ quan giám sát, kiểm soát độc lập và có thực quyền. Vì vậy, trong chương 1, học viên đã trình bày một số vấn đề lý luận về Ban kiểm soát của công ty cổ phần, từ đó đã quát về cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần đặc biệt là đã làm rõ vị trí vai trò, chức năng và nhiệm vụ của Ban kiểm soát. Những cơ sở lý luận này là tiền đề cho việc nhận định về
  • 27. 23 thực trạng của Ban kiểm soát sẽ được học viên trình bày tại chương 2 của luận văn.
  • 28. 24 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BAN KIỂM SOÁT CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN 2.1- Về thành lập Ban kiểm soát Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, thì cơ cấu tổ chức công ty cổ phần phải có Ban kiểm soát khi có trên mười một cổ đông là cá nhân hoặc cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ phần của công ty. Điều này đồng nghĩa với việc nếu số lượng cổ đông là cá nhân từ mười một người trở xuống và không có tổ chức sở hữu trên 50% số cổ phần thì không bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát. Việc thành lập Ban kiểm soát trong trường hợp này sẽ do Đại hội đồng cổ đông quyết định căn cứ vào nhu cầu và thực tế hoạt động của công ty. Quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 là một sự khác biệt lớn so với quy định tại Điều 69 Luật Doanh nghiệp 1999 theo đó “ …đối với công ty cổ phần có trên mười một cổ đông phải có Ban kiểm soát”. Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014, tại Điều 138 quy định công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai cách sau, trừ trường hợp pháp luật chứng khoán có quy định khác: a) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và Giám đốc, Tổng Giám đốc. Trong trường hợp công ty cổ phần có dưới mười một cổ đông và các cổ đông là tổ chức sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần của công ty, thì không bắt buộc phải có Ban kiểm soát; b) Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc, Tổng Giám đốc. Trong trường hợp này ít nhất 30% số thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên không điều hành và có Ban kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị. Các thành viên không điều hành thực hiện chức năng giám sát và tổ chức thực hiện kiểm soát đối với việc quản lý điều hành công ty. Như vậy, việc thành lập Ban kiểm soát theo quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 chỉ dựa trên một tiêu chí đó là số lượng về cổ đông, trong khi đó, theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, cũng như Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 (trong trường hợp công ty cổ phần lựa chọn mô hình có
  • 29. 25 thành lập Ban kiểm soát) thì có 2 tiêu chí để thành lập Ban kiểm soát đó dựa vào số lượng cổ đông hoặc số lượng cổ phần của công ty mà tổ chức sở hữu. Tuy nhiên nếu đọc kỹ quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 thì vẫn còn đó những cách hiểu khác nhau cũng như những vấn đề mà Luật còn bõ ngõ chưa có quy định rõ ràng về yêu cầu phải thành lập Ban kiểm soát đó là: Trường hợp một: Nếu số lượng cổ đông là tổ chức và số lượng cổ đông là cá nhân trên mười một nhưng không có tổ chức nào nắm giữ trên 50% cổ phần của công ty hoặc Trường hợp hai: Trong trường hợp số lượng cổ đông là cá nhân dưới mười một người nhưng có cổ đông chiếm tỷ lệ cổ phần trên 50% tức có khả năng chi phối và điều hành hoạt động của công ty thì có thành lập Ban kiểm soát hay không? Trường hợp ba: Khi thành lập, công ty cổ phần không rơi vào những trường hợp luật định phải thành lập Ban kiểm soát, nhưng nếu trong quá trình hoạt động mà công ty hội đủ các điều kiện phải thành lập thì trình tự thủ tục và thời gian để tiến hành cho hoạt động này là như thế nào? Rõ ràng, những trường hợp được nêu trên chưa được Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể, chính vì vậy trong hoạt động thực tiễn, khó tránh khỏi những cổ đông có ảnh hưởng lợi dụng thiếu sót này của Luật để thao túng hoặc gây thiệt hại cho các cổ đông khác, ngoài ra, quy định như trên của Luật Doanh nghiệp 2005 còn làm cho các nhà đầu tư suy nghĩ rằng có sự phân biệt và đối xử giữa nhà đầu tư là tổ chức và nhà đầu tư là cá nhân khi Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ quy định thành lập Ban kiểm soát khi tổ chức nắm giữ 50% cổ phần của công ty còn nếu là cổ đông là cá nhân thì không bắt buộc phải thành lập Ban kiểm soát, trong khi đó nếu nói về điều kiện để thực hiện việc thao túng và gây ảnh hưởng đối với công ty thì rõ ràng cổ đông là cá nhân có điều kiện thuận lợi hơn khi thực hiện điều này vì họ có thể nhân danh cá nhân để quyết định và tự chịu trách nhiệm đối với quyết định của mình. Còn đối với tổ chức việc quyết định một vấn đề nào đó phải mất nhiều thời gian hơn do phải đáp ứng các yêu cầu về thủ tục pháp lý như phải tổ chức
  • 30. 26 họp, thông qua biên bản nội dung cuộc họp, cũng như phải ủy quyền cho cá nhân thực hiện công việc của tổ chức đó…v…v… Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn có chế định về Ban kiểm soát, nhưng những hạn chế trên vẫn chưa có lời giải vì vậy bài toán cho sự hoàn thiện về việc thành lập Ban kiểm soát vẫn còn bõ ngõ và những bất cập được nêu ra vẫn chưa có lời giải thỏa đáng. 2.2- Về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát Theo quy định tại khoản 1 Điều 121 Luật Doanh nghiệp 2005 nếu Điều lệ công ty không có quy định khác thì Ban kiểm soát có từ ba đến năm thành viên, điều này đồng nghĩa với việc Ban kiểm soát tối thiểu phải là ba và tối đa là năm thành viên theo quy định của luật. Tuy nhiên, nếu Điều lệ công ty có quy định khác thì giải quyết như thế nào? Luật Doanh nghiệp 2005 không quy định số lượng tối thiểu cũng như số lượng tối đa thành viên Ban kiểm soát mà do Điều lệ công ty quy định, chính vì vậy, nếu Điều lệ công ty quy định số lượng thành viên Ban kiểm soát là một người thì có được hay không? Và như vậy, trong trường hợp này, sẽ không có khái niệm Trưởng ban kiểm soát theo như quy định tại khoản 2 của Điều 121 vì “các thành viên ban kiểm soát bầu một người trong số họ làm Trưởng ban kiểm soát”. Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 tại Điều 167 cũng chỉ làm rõ thêm về việc bầu Trưởng ban kiểm soát theo nguyên tắc đa số cũng như quy định cụ thể Trưởng ban kiểm soát phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp mà thôi, vì thế nếu Ban kiểm soát là một người thì họ có đương nhiên là Trưởng ban hay không thì Luật Doanh nghiệp 2005 cũng như Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 lại không quy định. Cũng như quy định về việc “Ban kiểm soát phải có hơn một nữa thành viên thường trú ở Việt Nam” cũng chỉ có giá trị pháp lý đối với những công ty có tối thiểu từ ba thành viên Ban kiểm soát trở lên. Như vậy, cơ cấu và điều kiện về thường trú tại Việt Nam chỉ được áp dụng trong trường hợp công ty có tối thiểu từ ba thành viên Ban kiểm soát, còn nếu dưới ba thành viên như quy định của Điều lệ công ty thì quy định này lại không áp dụng được. Đây cũng là một bất cập của Luật Doanh nghiệp
  • 31. 27 2005 khi quy định về cơ cấu tổ chức của Ban kiểm soát nhưng những bất cập này cũng không được Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 điều chỉnh. Nhiệm kỳ của Ban kiểm soát là năm năm và Luật không hạn chế nhiệm kỳ làm thành viên Ban kiểm soát, điều này có nghĩa thời gian tại vị dài hay ngắn của thành viên Ban kiểm soát phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả công việc cũng như uy tín của họ đối với cổ đông. Đây cũng là một điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999 khi quy định “nhiệm kỳ Ban kiểm soát do Điều lệ công ty hoặc do Đại hội đồng cổ đông quyết định”17 . 2.3- Về hoạt động của Ban kiểm soát Luật Công ty 1990, Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 đã không đưa ra khái niệm về hoạt động của Ban kiểm soát mà chỉ quy định quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát tại Điều 123 và một số điều khác của Luật Doanh nghiệp 2005, qua đó trực tiếp hay gián tiếp nêu lên các hoạt động của Ban kiểm soát. Căn cứ theo quy định tại các điều luật này thì nhận thấy hoạt động của Ban kiểm soát bao gồm hai nội dung cơ bản đó là giám sát và thẩm định các báo cáo của chủ thể quản lý và điều hành trong công ty, đây chính là hoạt động quản lý và điều hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Đối tượng trong hoạt động giám sát của Ban kiểm soát chính là những hoạt động quản lý điều hành của công ty được thực hiện thông qua các chủ thể quản lý và điều hành đó chính là Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, những người quản lý khác và người có lợi ích liên quan trong một số trường hợp cụ thể. Các hoạt động của Ban kiểm soát được thiết lập thông qua các quy định của pháp luật cũng như Điều lệ công ty. Hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần là hoạt động do các thành viên Ban kiểm soát tiến hành, mang tính độc lập, khách quan để giám sát sự quản lý, điều hành của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và những người quản lý khác trong công ty; thẩm định kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công 17 Điều 91 Luật Doanh nghiệp 1999
  • 32. 28 tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính, đảm bảo quá trình đó diễn ra theo đúng quy định của pháp luật và Điều lệ công ty, thông qua hoạt động này sẽ hạn chế rủi ro, tiêu cực, góp phần tăng cường hiệu quả trong công tác quản lý, điều hành công ty, đảm bảo lợi ích tối đa của công ty, của cổ đông công ty và những người có lợi ích liên quan. Tóm lại, thông qua quy định pháp luật về hoạt động của Ban kiểm soát cho thấy Ban kiểm soát có hai chức năng chính: Chức năng thứ nhất là giám sát hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị ,Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Đại hội đồng cổ đông (Khoản 1 Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2005). So với quy định của Luật Doanh nghiệp 1999 thì có thể khẳng định đây là điểm mới của Luật Doanh nghiệp 2005 vì Luật Doanh nghiệp 1999 không quy định về chức năng giám sát hoạt động quản lý và điều hành công ty của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, cũng như không xác định về trách nhiệm của Ban kiểm soát trước Đại hội đồng cổ đông. Luật Doanh nghiệp 2005 quy định điều này có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định rõ ràng vị trí pháp lý độc lập của Ban kiểm soát đối với các cơ quan quản lý trong công ty. Tuy nhiên, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã loại bỏ trách nhiệm của Ban kiểm soát trước Đại hội đồng cổ đông trong thực hiện các nhiệm vụ được giao khi tại khoản 1 Điều 169 Dự thảo chỉ quy định: “Ban kiểm soát thực hiện giám sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc trong việc quản lý và điều hành công ty”. Rõ ràng, đây là một bước lùi của Dự thảo so với Luật Doanh nghiệp 2005, vì nếu quy định như Dự thảo thì rõ ràng sẽ không thấy được vị trí độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát cũng như sẽ không có cơ sở để ràng buộc trách nhiệm của các thành viên Ban kiểm soát trong hoạt động của mình. Đồng thời, đây còn là kẽ hở để Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc buộc thành viên Ban kiểm soát phải thực hiện công việc theo ý của họ. Chức năng thứ hai là thẩm định các loại báo cáo bắt buộc của công ty (khoản 3 Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2005) thông qua hoạt động kiểm tra,
  • 33. 29 xem xét tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực, mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính; sổ sách kế toán, các tài liệu khác của công ty. Tuy nhiên, để Ban kiểm soát thực hiện có hiệu quả chức năng của mình thì một số quy định về quyền và nhiệm vụ của Ban kiểm soát cũng phải được sửa đổi cho phù hợp tránh tình trạng quy định chung chung làm cho thành viên Ban kiểm soát chưa xác định được các họat động cụ thể của mình cũng như cần có sự phân công và phối hợp trong khi thực thi nhiệm vụ của từng thành viên Ban kiểm soát; trách nhiệm của từng thành viên Ban kiểm soát không được quy định cụ thể, dẫn đến tình trạng “lắm sải không ai đóng cửa chùa”; vai trò của Trưởng ban kiểm soát như thế nào; các quyết định của Ban kiểm soát được thông qua ra sao đã không được Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cụ thể, vì vậy, để hoạt động của Ban kiểm soát đạt được hiệu quả nhất định thì Luật Doanh nghiệp 2005 cũng cần bổ sung quy định về nguyên tắc hoạt động của Ban kiểm soát trong công ty cổ phần, những hạn chế này không được Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 đề cập đến mặc dù trong Báo cáo Tổng kết thi hành Luật Doanh nghiệp 2005 của Ban soạn thảo dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) – Bộ Kế hoạch và đầu tư đã thừa nhận “Quy định về cơ cấu và tiêu chuẩn thành viên Ban kiểm soát chưa bảo đảm được tính độc lập của Ban kiểm soát; chưa đảm bảo để Ban kiểm soát có đủ năng lực, trình độ chuyên môn nghề nghiệp và nguồn lực để thực hiện chức năng và nhiệm vụ theo quy định. Ngoài ra, chưa có cơ chế để Ban kiểm soát sử dụng để buộc HĐQT phải thực hiện kiến nghị của mình trong trường hợp thực sự cần thiết”. 2.4- Về nhiệm vụ quyền hạn của Ban kiểm soát Ban kiểm soát thực hiện quyền của mình trên hầu hết các hoạt động quản lý, điều hành của những người quản trị trong công ty cổ phần. So với Luật Doanh nghiệp 1999 thì Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định cụ thể, rõ ràng hơn về quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát, đồng thời cũng xác lập vị trí pháp lý của Ban kiểm soát qua đó khẳng định sự độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát đối với các cơ quan quản lý trong công ty. Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát được phân chia thành các nhóm sau:
  • 34. 30 2.4.1- Quyền thẩm định kiểm tra Khi thực hiện quyền này, Ban kiểm soát có trách nhiệm thẩm định báo cáo tình hình kinh doanh, báo cáo tài chính hằng năm và sáu tháng của công ty, báo cáo đánh giá công tác quản lý của Hội đồng quản trị. Trình báo cáo thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo tình hình kinh doanh hằng năm của công ty và báo cáo đánh giá công tác quản lý của hội đồng quản trị lên Đại hội đồng cổ đông tại cuộc họp thường niên18 . Có thể thấy báo cáo của Ban kiểm soát là một “kênh thông tin” quan trọng, làm tài liệu để so sánh các báo cáo tài chính của công ty, từ đó giúp nhà đầu tư và các cơ quan quản lý Nhà nước, những người có lợi ích liên quan có cái nhìn tổng thể về hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây không phải là báo cáo bắt buộc phải nộp cho cơ quan thuế hay phải công bố thông tin bởi các báo cáo hằng năm phải nộp cho cơ quan thuế chỉ gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh báo cáo tài chính19 , chế độ công khai về thông tin công ty cổ phần 20 chỉ có báo cáo tài chính hằng năm. Chính vì hạn chế này nên những báo cáo thẩm tra của Ban kiểm soát thường là sự sao chép chứ ít có thông tin phản biện hay lập luận chỉ ra những mâu thuẩn trong báo cáo tài chính của công ty, chính vì những thiếu sót này nên tính pháp lý đối với báo cáo của Ban kiểm soát chỉ được nhìn nhận dưới góc độ nội bộ từ đó báo cáo thẩm tra của Ban kiểm soát đôi khi trở thành hình thức là tài liệu phải có cho “dày thêm” trong báo cáo tại Đại hội đồng cổ đông, hạn chế này cũng dẫn đến tình trạng là Ban kiểm soát ít có sự đầu tư, nghiên cứu đối với hoạt động thẩm định kiểm tra do vậy tính hiệu quả trong báo cáo của Ban kiểm soát không cao, từ đó làm giảm hiệu quả hoạt động của Ban kiểm soát. 18 Khoản 3 các điều 123 và 128 Luật DN 2005 19 Điểm 3.1 khoản 3 mục A-I Phần thứ hai Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006 về việc Ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp và khoản 3 Mục I phần thứ ba Quyết định số 48/2006/QĐ-BTC ngày 14/9/2006 về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa của Bộ Tài chính. 20 Khoản 1 Điều 129 Luật DN 2005
  • 35. 31 Việc quy định Ban kiểm soát kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong tổ chức công tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính21 cũng là một điểm mới đáng ghi nhận của Luật Doanh nghiệp 2005 so với Luật Doanh nghiệp 1999 , tuy nhiên quy định này lại bao hàm sự định tính nhiều hơn vì vậy, trên thực tế người điều hành công ty có nhiều lý do để biện minh và cho rằng khi thực hiện quyết định đó, họ đã đảm bảo cho những quyết định của mình là hợp lý, hợp pháp, không vụ lợi và có mức độ cẩn trọng cần thiết. Vì vậy, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ này, đòi hỏi Ban kiểm soát phải vững về chuyên môn nghiệp vụ, phải có lập trường quan điểm rõ ràng, phải có tầm nhìn bao quát trong hoạt động của công ty không chỉ trước mắt mà phải là cái nhìn chiến lược trong tương lai. Mặt khác, việc thu thập thông tin cũng như tiếp cận các tài liệu có liên quan cũng ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của báo cáo thẩm định, chính vì vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã quy định rõ ràng về: 2.4.2- Quyền được cung cấp thông tin, tiếp cận tài liệu So với Luật Doanh nghiệp 1999 khi quy định Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, các cán bộ quản lý khác phải cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin, tài liệu về hoạt động kinh doanh của công ty theo yêu cầu của Ban kiểm soát 22 thì Luật Doanh nghiệp 2005 quy định một cách cụ thể, rõ ràng, những tài liệu và phương thức cung cấp thông tin cho thành viên Ban kiểm soát giống như Hội đồng quản trị mà không cần có yêu cầu của Ban kiểm soát. Theo đó, thông báo mời họp, phiếu lấy ý kiến thành viên Hội đồng quản trị, báo cáo của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trình Hội đồng quản trị và các tài liệu khác phải được gửi cùng thời điểm và theo phương thức như đối với thành viên Hội đồng quản trị 23 . Quy định này của Luật Doanh nghiệp 2005, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Ban kiểm soát trong việc được tiếp cận 21 Khoản 2 Điều 123 Luật DN 2005 22 Điều 89 Luật DN 1999 23 Khoản 1, 2 Điều 124 Luật DN 2005
  • 36. 32 nhanh chóng, kịp thời thông tin, tài liệu, giúp cho việc thực hiện chức năng của Ban kiểm soát hiệu quả hơn. Một hạn chế của Luật Doanh nghiệp 1999 đã không được Luật Doanh nghiệp 2005 khắc phục đó là ngoài những tài liệu, thông tin được quy định tại khoản 1,2 Điều 124 thì các tài liệu khác được gửi đến Ban kiểm soát như thế nào? Có cần Ban kiểm soát phải yêu cầu hay không? Thời gian và phương thức gửi ra sao? Cũng như chế tài đối với việc không gửi, không cung cấp thông tin hoặc cung cấp không đầy đủ, không đúng thời gian, không chính xác hoặc cản trở việc tiếp nhận thông tin thì sẽ xử lý như thế nào? trách nhiệm thuộc về ai? Đây là vấn đề mà Luật Doanh nghiệp 2005 chưa quy định. Tuy nhiên, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã khắc phục một phần những hạn chế nêu trên khi khoản 2 Điều 170 quy định: “Các nghị quyết, quyết định và biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị phải được gửi đến cho các thành viên Ban kiểm soát cùng thời điểm và theo phương thức như đối với cổ đông, thành viên Hội đồng quản trị”. Như vậy, nếu Dự thảo được thông qua thì quyền được cung cấp thông tin của Ban kiểm soát sẽ được thực hiện một cách đầy đủ và cụ thể hơn, góp phần thuận lợi cho Ban kiểm soát thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. 2.4.3- Quyền kiến nghị Xuất phát từ vị trí pháp lý của Ban kiểm soát không phải là cơ quan quản lý trong công ty nên chỉ được kiến nghị những giải pháp để từ đó hoạt động quản lý và điều hành công ty được hoàn thiện hơn vì vậy, Ban kiểm soát có quyền kiến nghị Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông “các biện pháp sửa đổi, bổ sung, cải tiến cơ cấu tổ chức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty” 24 , quy định này làm cho vai trò của Ban kiểm soát trong quá trình thực thi quyền và nhiệm vụ của mình có ảnh hưởng nhất định đối với các chủ thể bị giám sát, làm cho các chủ thể này phải “vuốt mặt nể mũi” khi quyết định các vấn đề trong hoạt động của công ty. 2.4.4- Quyền yêu cầu 24 Khoản 6 Điều 123 Luật DN 2005
  • 37. 33 Khi phát hiện có thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty thì phải “ thông báo ngay bằng văn bản với Hội đồng quản trị, yêu cầu người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục” 25 . Đây là một quyền mà Luật Doanh nghiệp 1999 không quy định nhưng Luật Doanh nghiệp 2005 đã bổ sung Ban kiểm soát có quyền yêu cầu người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục. Nhưng cơ chế để thực thi quyền này như thế nào lại không được Luật Doanh nghiệp 2005 đề cập đến khi người vi phạm không chấm dứt hành vi vi phạm cũng như không đưa ra giải pháp khắc phục hành vi đó hoặc thời gian để người vi phạm chấm dứt hành vi là bao lâu cũng không được quy định cụ thể, chính vì vậy, quy định này trên thực tế rất khó được thực thi. Về lý thuyết thì khi phát hiện vi phạm, nếu Ban kiểm soát đã báo cáo Hội đồng quản trị và yêu cầu chấm dứt hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục nhưng họ không thực hiện thì Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại điểm d khoản 3 điều 97 Luật Doanh nghiệp 2005 nhưng rõ ràng quy định này không phải là giải pháp tối ưu. Ngoài quyền yêu cầu thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty chấm dứt hành vi vi phạm, Điều 107 Luật Doanh nghiệp 2005 còn cho phép Ban kiểm soát yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét, hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông, trong thời hạn chín mươi ngày kể từ ngày nhận được biên bản họp Đại hội đồng cổ đông hoặc biên bản kết quả kiểm phiếu lấy ý kiến Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp trình tự và thủ tục triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông không được thực hiện đúng theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ công ty hoặc trình tự, thủ tục ra quyết định và nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty trừ trường hợp “các quyết định được thông qua tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông với số cổ đông trực tiếp và ủy 25 Khoản 7 Điều 123 Luật DN 2005
  • 38. 34 quyền tham dự đại diện 100% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết là hợp pháp”26 . Với quy định này, thì rõ ràng, quyền giám sát của Ban kiểm soát còn “phủ sóng” đến cả các quyết định của Đại hội đồng cổ đông, điều này chứng tỏ tính độc lập trong hoạt động của Ban kiểm soát, tuy nhiên, để thực thi được quyền này thì đòi hỏi Ban kiểm soát phải được tham gia các cuộc họp của Đại hội đồng cổ đông thế nhưng việc dự họp của Ban kiểm soát lại chưa được Luật Doanh nghiệp 2005 đề cập đến, vì thế nếu trong trường hợp Điều lệ công ty quy định thành phần tham dự họp Đại hội đồng cổ đông chỉ là các cổ đông công ty - điều này đồng nghĩa với việc thành viên Ban kiểm soát không là cổ đông sẽ không được dự họp thì việc phát hiện có sai sót về thủ tục hay không cũng gặp nhiều khó khăn, vì vậy cần luật hóa quyền tham dự họp Đại hội đồng cổ đông của Ban kiểm soát là điều cần thiết. Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 đã có thay đổi quan trọng khi khoản 9 Điều 169 quy định “ Ban kiểm soát có quyền tham dự và tham gia thảo luận tại các cuộc họp Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và các cuộc họp khác của công ty”. Như vậy, Dự thảo đã khắc phục thiếu sót của Luật Doanh nghiệp 2005 khi bổ sung việc tham gia họp Đại hội đồng cổ đông của Ban kiểm soát là điều đương nhiên. Nhưng “một bước lùi” rất đáng tiết đó là Điều 151 Dự thảo đã tước đi quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài xem xét hủy bỏ quyết định hoặc một phần nội dung quyết định của Đại hội đồng cổ đông của Ban kiểm soát trong trường hợp trình tự thủ tục triệu tập họp và ra quyết định của Ðại hội đồng cổ đông không thực hiện đúng theo quy định của Luật này và Ðiều lệ công ty hoặc nội dung quyết định vi phạm pháp luật hoặc Điều lệ công ty . Nếu bỏ đi quyền của Ban kiểm soát trong việc yêu cầu Tòa án xem xét hủy bỏ các quyết định của Đại hội đồng cổ đông thì các nhà làm luật đã vô tình hạ thấp vị thế của Ban kiểm soát. Nếu Dự thảo Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn giữ chế định về Ban kiểm soát thì ít ra phải trang bị cho họ cơ chế để thực thi nhiệm vụ của mình và một trong những cơ chế đó chính là quyền yêu cầu 26 Khoản 4 Điều 104 LDN 2005
  • 39. 35 các cơ quan tài phán xem xét các quyết định của Đại hội đồng cổ đông khi những quyết định này có sự vi phạm vì bản chất của Ban kiểm soát là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho tất cả các cổ đông chứ không phải chỉ bảo vệ cho lợi ích của một nhóm cổ đông. Vì vậy, cần giữ nguyên quyền yêu cầu hủy bỏ quyết định của Đại hội đồng cổ đông như Luật Doanh nghiệp 2005 là cần thiết. 2.4.5- Quyền sử dụng tư vấn độc lập Để thực hiện nhiệm vụ, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định cho Ban kiểm soát được sử dụng tư vấn độc lập, đây là một quy định mới so với Luật Doanh nghiệp 1999. Với quy định này, Ban kiểm soát có thêm một “ kênh thông tin” quan trọng nhằm đánh giá một cách khách quan và chính xác hơn các báo cáo của Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, qua đó giúp Ban kiểm soát phát hiện kịp thời những vấn đề bất cập, thiếu sót thậm chí là trái với quy định của pháp luật trong các báo cáo nhất là trong lĩnh vực kế toán tài chính, từ đó góp phần tăng thêm giá trị cũng như tính chính xác trong các kiến nghị và kết luận của Ban kiểm soát. Quy định này cũng đã khắc phục được một tồn tại trong hoạt động thực tiễn của Ban kiểm soát đó là kỹ năng và năng lực chuyên môn của thành viên Ban kiểm soát có những hạn chế nhất định, không phải thành viên Ban kiểm soát nào cũng hội tụ đủ những kiến thức cần phải thẩm định trong các báo cáo mà họ được quyền xem xét, chính vì vậy, việc quy định quyền sử dụng tư vấn độc lập để thẩm định các báo cáo là quy định cần thiết, đảm bảo Ban kiểm soát thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền này, đòi hỏi Ban kiểm soát cũng phải có sự cân nhắc lựa chọn đơn vị tư vấn có uy tín cũng như có kinh nghiệm để thực hiện công việc một cách hiệu quả, không lãng phí. Bên cạnh quy định về quyền sử dụng tư vấn độc lập như Luật Doanh nghiệp 2005, Dự thảo lần 5 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng quy định thêm việc Ban kiểm soát được quyền sử dụng bộ phận kiểm toán nội bộ của công ty để thực hiện nhiệm vụ được giao. Đây là quy định mới của Dự thảo với mục đích là sử dụng “cái có sẵn” của công ty nhằm tiết kiệm chi phí khi phải thuê tư
  • 40. 36 vấn độc lập. Tuy nhiên, Dự thảo cần quy định đây là bộ phận trực thuộc và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban kiểm soát, có như vậy thì bộ phận này mới thật sự là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động của Ban kiểm soát. 2.4.6- Quyền yêu cầu họp Đại hội đồng cổ đông Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 đều quy định quyền yêu cầu họp Đại hội đồng cổ đông của Ban kiểm soát, tuy nhiên sự kiện pháp lý để dẫn đến việc Ban kiểm soát yêu cầu triệu tập họp thì có sự khác biệt rất lớn. Tại khoản 2 Điều 71 Luật Doanh nghiệp 1999 quy định Ban kiểm soát chỉ được yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp “ Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý hoặc Hội đồng quản trị ra quyết định vượt quá thẩm quyền được giao hoặc các trường hợp khác theo quy định tại Điều lệ công ty”. Như vậy, chỉ khi nào rơi vào những trường hợp như trên thì Ban kiểm soát mới có quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường, hay nói cách khác là phải có lý do cụ thể, rõ ràng mới làm phát sinh quyền này của Ban kiểm soát. Trong khi đó, theo quy định tại điểm d khoản 3 điều 97 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “ Ban kiểm soát có quyền yêu cầu Hội đồng quản trị triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông”. Điều này cho thấy không có giới hạn trong việc yêu cầu triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông theo yêu cầu của Ban kiểm soát. Câu hỏi được đặt ra là quy định này có dẫn đến sự lạm quyền của Ban kiểm soát khi yêu cầu họp bất thường Đại hội đồng cổ đông hay không? Về mặt lý luận khó xảy ra trường hợp này vì khi thực hiện nhiệm vụ của mình, Ban kiểm soát phải đứng trên quan điểm bảo vệ lợi ích tối đa cho cổ đông, vì vậy nếu xét những trường hợp không cần thiết phải triệu tập họp thì chắc chắn Ban kiểm soát sẽ không yêu cầu. Về thực tiễn thì hoạt động của Ban kiểm soát ít nhiều cũng phải chịu sự chi phối của Hội đồng quản trị cho nên những đề nghị “nhạy cảm” như triệu tập họp bất thường Đại hội đồng cổ đông chắc chắn phải có sự bàn bạc