SlideShare a Scribd company logo
1 of 80
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THU HÀ
GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢU THU HÀ
GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA HÀNH VI GÓP VỐN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 0107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng
HÀ NỘI – 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả
Lƣu Thu Hà
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................6
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.......................................................6
2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................7
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn............................8
4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................9
5. Bố cục của Luận văn....................................................................................10
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU
QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓPVỐN THÀNH LẬP CÔNG TY......11
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty................................................................................11
1.1.1. Khái quát chung về công ty....................................................................11
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn ..........14
1.1.3. Các hình thức góp vốn ...........................................................................20
1.1.4. Định giá tài sản góp vốn........................................................................38
1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn.............................................................41
1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty..........................45
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ
HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50
2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả
pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................50
2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập
công ty ..............................................................................................................50
2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty....52
2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất............................................55
2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty ..............................................................................................57
2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty..............................................................................................57
2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp
vốn thành lập công ty .......................................................................................59
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY ........................................63
3.1. Các định hướng hoàn thiện .......................................................................63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu
quả của hành vi góp vốn thành lập công ty......................................................69
KẾT LUẬN.....................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................77
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự
kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có
sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để
vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số
lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của
xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế.
Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt
ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005.
Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt.
Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu
tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành
sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt
động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để
tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các
mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn.
Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành
công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy
động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới,
Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh
sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập
công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý
Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.
7
Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của
các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của
họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh.
Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó
trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa
chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật
Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản
xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học
pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể,
góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong
khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang
cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại.
Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như
sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, London-
Sydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations,
West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of
Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn.
West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn
đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis
Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993.
Tình hình nghiên cứu trong nước
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận
văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên
8
việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn
những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình
nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao
gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và
Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển,
Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải,
Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo
trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện
quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ
chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5)
Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1:
Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh
vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước
ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn
Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo
Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10)
Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên
Hòa, 2006.
Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác
giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề
pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn
thiện chế định pháp luật này.
Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
9
+ Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ
hành vi góp vốn;
+ Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp
lý của nó;
+ Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý
rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về
góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực
khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ
kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành
pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông
qua lý luận.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch
sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích
quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp,
thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình
hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy
phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá
thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định
của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật.
10
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu
nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành
với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu…
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội
dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi
góp vốn thành lập công ty.
Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty.
Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp
vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công
11
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ
PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY
1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của
hành vi góp vốn thành lập công ty
1.1.1. Khái quát chung về công ty
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty
Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị
trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai
hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành
một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được
lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một
hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề
nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định
trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay
gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân
là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân
thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương
nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là
thương nhân pháp nhân.
Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định:
Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi
thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ
nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ.
Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và
công ty có các đặc điểm như sau:
Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân.
12
Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách
biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo
ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập
nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong
các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận
văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ
sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ
sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty.
Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong
cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp
luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình
tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về
doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này
cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ
thể quan trọng của pháp luật.
Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân.
Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã
phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi
thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng
ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở
đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi
thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích
sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện
nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học
phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này.
13
Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn
bởi pháp luật.
Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công
ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ
sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn,
thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa
công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào
điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy.
1.1.1.2. Phân loại công ty
Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty
thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân
chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách
thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn
không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách
phân loại này.
Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên
công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công
ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi
loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải
nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận.
Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học.
Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự
liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc
điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm
vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên
chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu
trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá
14
nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty
hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty
hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và
loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty.
Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty
đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới
phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công
ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu
hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên
của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công
ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ
hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ
phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và
loại có hai thành viên trở lên).
Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế
độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp
vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức
công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của
hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý
của nó có những điểm chung nhất định.
1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn
1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty
Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay
hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong
nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao
quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại
những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một
người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình
15
hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn
về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt
Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163,
Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản
góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh
nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để
tạo thành vốn của công ty.
Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty
thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà
chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ.
Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần.
Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật
chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình
thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ).
Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của
người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn.
Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc
về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc
sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản
nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là
do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền
mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho
việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ
trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty.
Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc
đồng sở hữu chủ của công ty đó.
16
1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty
Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là
hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm
phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể
kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của
những người góp vốn.
Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay
một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là
hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu
theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần
vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21].
Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho
công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã
đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp
công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào
công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông
đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện
thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên
góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra
sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty.
Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của
công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều
người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn
nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng
xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng
với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có
khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không
17
thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ
thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó
cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng
người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp
vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt
lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi
các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản
lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả
kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công
ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng
thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27].
Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài
sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất
pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở
hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm
phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát
sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo
tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người
mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty.
Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ
pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty
và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay
cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán
hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay
quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được
bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ
quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể
chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và
quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần
18
tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó
nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi
tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại
quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không
phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được
thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài
sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và
quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công
ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty
không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28].
1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty
Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến
định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì
vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo
những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp
cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh
doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do
vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp
2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài
có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của
Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1).
Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên
để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành
lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh
nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau:
19
“2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam,
trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ
những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp
của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc
hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công
việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham
nhũng.
Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký
thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký
kinh doanh.
3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này,
trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
20
4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần,
góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định
của Luật này:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng
tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn
vị mình;
b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a
khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ
hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục
đích sau đây:
a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ
quan, đơn vị;
b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của
pháp luật về ngân sách nhà nước;
c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị”
(Điều 18).
Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt
Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng,
chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước.
1.1.3. Các hình thức góp vốn
Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân
loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó
chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức
góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ
đối tượng của hành vi góp vốn.
Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của
các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.
21
Song theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm
hai loại là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về
mặt phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của
các quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp
vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp
2005 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu
sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các qui
định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền đề
cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật chất
liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới quyền tài
sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các vật
quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất.
Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không
có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản
đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự
thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có
thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện
các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân
sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài
sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển
giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp
vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn
bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp
vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền hưởng
dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ.
Ngoài việc góp vốn bằng tài sản, người ta còn góp vốn bằng công sức
và bằng tri thức. Đây là hai hai khái niệm không hẳn nằm ngoài khái niệm tài
sản. Các khái niệm này có sự giao thoa. Một người có thể không đưa tài sản
cụ thể nào vào công ty với tính cách là góp vốn, mà người đó có thể thực hiện
22
một công việc nào đó mà công ty cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình hoặc đóng góp những hiểu biết mà công ty không thể không
cần đến trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cung cấp một
công việc và việc cung cấp một tri thức có qui chế pháp lý riêng biệt với việc
cung cấp một tài sản cụ thể trong việc thành lập một công ty. Sau đây lần lượt
nghiên cứu các hình thức góp vốn cụ thể.
1.1.3.1. Góp vốn bằng tiền
Góp vốn bằng tiền là việc cá nhân hay tổ chức chuyển một khoán
tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những giấy tờ có giá trị như ngân
phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công ty, và đổi lại phần
vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được thực hiện
xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình
thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài
khoản trung gian...
Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi
trong công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của
cả nền kinh tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn
khoản tiền cam kết góp được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với
công ty. Việc góp vốn hay trả nợ vốn có thể thực hiện bằng các phương thức
thanh toán theo qui định của pháp luật hay sự thỏa thuận của các bên.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh phương
thức góp vốn bằng tiền mặt đòi hỏi phải đóng đủ rồi mới được thành lập công
ty bởi các hình thức công ty này không được phát hành cổ phiếu. Với công ty
cổ phần, phương thức góp vốn bằng tiền mặt không đòi hỏi những người tham
gia đăng ký góp vốn phải đóng đủ ngay phần của mình trước khi công ty phải
đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đóng góp trước một phần bởi hình thức công
ty này có phát hành cổ phần. Số cổ phần còn lại sẽ được mua nốt trong một
khoảng thời gian nhất định sau khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Về
phương cách kiểm soát, pháp luật của nhiều nước, sau khi tiến hành góp vốn
23
theo phương thức này, các sáng lập viên phải có trách nhiệm gửi toàn bộ số
tiền đó thu được vào một tài khoản ngân hàng phong tỏa hoặc gửi tại nơi ký
thác. Luật Công ty 1990 cũng đã từng có quy định góp vốn phải gửi vào tài
khoản phong tỏa. Hiện tại, việc chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa chỉ áp
dụng đối với công ty cổ phần khi phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ
chứ không áp dụng cho trường hợp góp vốn thành lập công ty, vấn đề này phụ
thuộc vào thỏa thuận của các cổ đông khi sáng lập công ty cổ phần.
1.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật
Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật
mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích, hoặc động sản do bản
chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp vốn thành lập công
ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp vốn thành lập
công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân sự đáp
ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật
chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là
những vật con người có thể chiếm giữ được [17, tr. 31].
Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật
đó để lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn
công ty có được quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy
định: “việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền
đối với vật và giao vật cho công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu,
người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán đảm bảo đối với
người mua” (Điều 1843 - 3).
Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải
được xác định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường
hợp chất lượng của vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định chất lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố
hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không
có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của
24
vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của
vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán đối với người mua thì thành viên
góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng bộ và đúng chủng loại, cung
cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử dụng vật đó, đảm bảo
quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh chấp.
Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên
sang công ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, phải cam kết thực hiện nghĩa vụ
dân sự, vì theo quan điểm pháp lý dân sự thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản
thường gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở
hữu phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên
cam kết góp vốn mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên
với công ty. Trong đó, nếu công ty chưa đăng ký kinh doanh thì quyền yêu
cầu là quyền của các thành viên khác đối với thành viên cam kết góp vốn thực
hiện nghĩa vụ của họ. Thời điểm này chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản
của công ty vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ
thành viên sang công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức
thừa nhận về mặt pháp lý tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Tức là, việc công ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công
ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là công ty phải có khả năng hưởng quyền
và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng hiện vật không
thể thực hiện được với công ty không có tư cách pháp nhân.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp
luật, của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản
hiện vật từ thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác
nhau. Vật được giao theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không
có thỏa thuận về phương thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một
lần, giao trực tiếp công ty. Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển
đến địa điểm giao vật và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối
với vật.
25
1.1.3.3. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Hiến pháp 2013 tại Điều 53 qui định:
“Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển,
vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư,
quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý”.
Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý
rất khác so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà
nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể
góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhà nước ta đã tạo ra cho người sử dụng đất
những quyền năng nhất định, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng
đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động sản do bản chất. Thông thường
có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn bằng hiện vật. Nhưng Nhà
nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất với từng mảnh đất
cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý khác
nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy phải xếp việc góp vốn bằng quyền sử
dụng đất thành một hình thức góp vốn riêng so với góp vốn bằng vật. Việc
góp vốn thành lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều
kiện sau: (i) có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp;
(iii) quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong
thời hạn sử dụng đất.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu
tiền thuê đất hàng năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt
Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có
quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình
gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản xuất trong thời hạn thuê đất [26]
Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi quyền sử dụng đất phải
thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như một tài sản.
26
Quyền sử dụng đất mà các bên đem góp vốn phải được định giá, các bên có
thể thỏa thuận định giá và cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó
hoặc thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp.
Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký do vậy sau khi
thỏa thuận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì đến thời điểm góp vốn bên
góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho công ty
và công ty là chủ thể đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Kể từ thời điểm công ty hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất thì
việc chuyển quyền sử dụng đất cho công ty được hoàn thành. [26].
Từ những phân tích trên cho thấy ở nước ta, với việc chỉ có một hình thức sở
hữu về đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và không công nhận sở
hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sử dụng đất được đưa ra như một tài sản đặc
thù và việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tư cách là một bất động sản
vô hình cũng có những đặc thù riêng.
1.1.3.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng
Góp vốn bằng quyền hưởng dụng là một hình thức góp vốn bằng
quyền. Góp vốn bằng quyền có phần phức tạp hơn so với góp vốn bằng tiền
và góp vốn bằng hiện vật, không chỉ vì sự tính toán giá trị của nó, mà còn vì
sự phân loại nó. Trước hết, việc phân loại tài sản thành tài sản hữu hình và tài
sản vô hình dẫn đến phân chia việc góp vốn bằng tài sản thành góp vốn bằng
hiện vật và góp vốn bằng quyền, hay nói cách khác, góp vốn bằng tài sản hữu
hình và góp vốn bằng tài sản vô hình, ngoài việc góp vốn bằng tiền. Việc
phân chia cách góp vốn như vậy làm nảy sinh ra vấn đề cần lưu ý. Như trên
đã khẳng định, góp vốn bằng vật có thực là việc chuyển quyền sở hữu vật cho
công ty mà trong khi quyền sở hữu được xem như một vật quyền. Do đó,
phân biệt thế nào giữa góp vốn bằng quyền sở hữu và góp vốn bằng các quyền
khác mà trong đó có cả các vật quyền ngoài quyền sở hữu? [22, tr. 119].
Quyền sở hữu là quyền thống trị đối với vật nên để công ty có quyền
thống trị hoàn toàn với vật đó thì việc chuyển nhượng quyển sở hữu đó là
điều kiện bắt buộc. Do tính chất thống trị của quyển sở hữu đối với vật, nên
27
người ta tách góp vốn bằng việc chuyển nhượng quyền sở hữu (một vật
quyền) ra khỏi việc góp vốn bằng các quyền khác, kể cả quyển sở hữu trí tuệ
để có thể thiết lập được các quy chế pháp lý thích hợp với từng loại.
Góp vốn bằng quyền lại có thể được phân chia thành góp vốn bằng quyền
hưởng dụng, quyền sở hữu trí tuệ và góp vốn bằng sản nghiệp thương mại.
Nếu phân biệt quyền sở hữu đối với vật thành ba quyền gồm: quyền sử
dụng (usus), quyền thu lợi (fructus) và quyền định đoạt (abusus), thì quyền
hưởng dụng ở đây chỉ bao gồm hai thành tố là: quyền sử dụng và quyền thu
lợi để được gọi là usufruct. Vì vậy người ta thường tách góp vốn bằng quyền
hưởng dụng đối với vật ra khỏi việc góp vốn bằng vật, bởi người góp vốn vào
công ty chỉ cho công ty được sử dụng vật và thu lợi từ đó. Công ty không có
quyền quyết định số phận của vật.
Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được
các quyền lợi tương ứng trong công ty. Từ đó có thể thấy việc góp vốn bằng
quyền hưởng dụng có những đặc điểm giống với việc cho thuê tài sản. Chẳng
hạn, Bộ luật Dân sự Pháp quy định:
“Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải đảm bảo
với công ty như người cho thuê đối với người thuê. Tuy nhiên, nếu vật để
hưởng dụng là vật cùng loại hoặc vật được thay thế trong thời gian hoạt động
của công ty, thì người góp vốn chuyển cho công ty quyền sở hữu vật với điều
kiện được trả lại đúng số lượng, chất lượng và giá trị tương đương. Trong
trường hợp này, người góp vốn phải đảm bảo những điều kiện quy định tại
đoạn trước” [Điều 1843 – 3, đoạn 4].
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật chịu ảnh hưởng từ Bộ luật dân sự
Pháp quy định người góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải thực hiện những
nghĩa vụ của người cho thuê tài sản (Điều thứ 1207, đoạn 2). Với tinh thần
này, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật tại Điều thứ 1439, đoạn hai cũng có quy
định tương tự. Điều 127, Bộ luật Dân sự 1972 của chính quyền Sài Gòn (cũ)
cũng quy định như vậy. Điều đó có nghĩa là người góp vốn bằng quyền hưởng
28
dụng phải bảo đảm cho công ty được hưởng dụng yên ổn. Trừ khi có thoả
thuận khác, người góp vốn phải bảo dưỡng, sửa chữa tài sản để tài sản luôn
luôn ở trong tình trạng có thể sử dụng được như mục đích đề ra khi cam kết
góp vốn. Cần xác định rằng, người góp vốn vẫn giữ quyền sở hữu đối với vật
và gánh chịu rủi ro. Khác với việc góp vốn bằng hiện vật, việc góp vốn bằng
quyền hưởng dụng có hệ quả là khi công ty giải thể, thì người góp vốn được
nhận lại vật đó trước khi phân chia tài sản của công ty, bởi người này không
chuyển giao quyền định đoạt đối với vật cho công ty.
Bản chất của quyền hưởng dụng là tài sản vô hình. Tuy nhiên việc xem
nó là động sản vô hình hay bất động sản vô hình phụ thuộc vào tài sản là đối
tượng của nó là động sản hay bất động sản.
Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam tại Điều 175 gọi hai loại hoa lợi
trên là “hoa lợi” và “lợi tức”. Cách gọi như vậy gây khó khăn cho trường hợp
gọi chung cho cả hai loại này và không cho thấy bản chất thật hay gốc gác
pháp lý của hai loại này. Người góp vốn bằng quyền hưởng dụng chuyển giao
quyền hưởng dụng đối với vật cho công ty và giữ lại quyền định đoạt đối với
vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được
các quyền lợi tương ứng trong công ty [18, tr. 31].
Tài sản góp vốn là quyền hưởng dụng thì phần vốn góp chính là giá trị
được tính bằng quyền hưởng dụng đối với tài sản. Thành viên góp vốn bằng
quyền hưởng dụng phải giao tài sản cho công ty đúng số lượng, chất lượng,
chủng loại, tình trạng và đúng thời điểm, địa điểm thỏa thuận và cung cấp
những thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó. Thành viên góp vốn bằng
quyền hưởng dụng phải bảo đảm tài sản trong tình trạng như đã thỏa thuận,
phù hợp với mục đích sử dụng trong suốt thời gian góp vốn. Thành viên góp
vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho
bên thuê. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản mà
công ty không được sử dụng tài sản ổn định thì công ty có quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
29
Trong trường hợp thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng chậm
giao tài sản thì công ty có thể gia hạn giao tài sản và yêu cầu bối thường thiệt
hại nếu có. Nếu tài sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì công ty
có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa chữa và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.
Như vậy, góp vốn bằng quyền hưởng dụng là việc cá nhân hay tổ chức
chuyển quyền hưởng dụng tài sản của mình cho công ty để được hưởng các
quyền lợi đối với công ty, trong đó thành viên đem góp vốn vẫn là người chủ
sở hữu tài sản và công ty có quyền thu hoa lợi từ tài sản đó [18, tr. 32].
1.1.3.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại
Sản nghiệp có thể được xem xét dưới các giác độ khác nhau. Nếu xem
xét dưới khía cạnh giá trị, sản nghiệp được hiểu là một tổng thể các quan hệ
pháp luật về tài sản, là tập hợp các tài sản có và tài sản nợ của một chủ thể chứ
không đơn thuần là một bộ sưu tập đồ vật. Bất kỳ yếu tố nào của tài sản nợ
cũng được đảm bảo bằng toàn bộ tài sản có và ngược lại bất kỳ yếu tố nào của
tài sản có cũng có thể được dùng để thanh toán toàn bộ tài sản nợ [24, tr. 191].
Tài sản thuộc sản nghiệp là tập hợp tất cả những tài sản thuộc về chủ sở
hữu, hay đúng hơn đó là tập hợp tất cả những quyền tài sản có cùng một chủ
thể. Tuy nhiên, các quyền tài sản chỉ được xem là các yếu tố của một sản
nghiệp khi các quyền đó có thể được định giá bằng tiền. Do đó, các quyền
không định giá được bằng tiền được gọi là các quyền không có tính chất tài
sản hay là quyền nhân thân (ví dụ như quyền đối với tên họ; quyền được tôn
trọng danh dự, nhân phẩm; quyền bầu cử; quyền khiếu nại, tố cáo…).
Các quyền tài sản tạo thành một tập hợp sản nghiệp và tập hợp này tồn
tại độc lập với các quyền tài sản đó. Tài sản có thể được mua bán, sử dụng,
hao mòn, thậm chí biến mất nhưng sản nghiệp vẫn được duy trì. Do đó, một
chủ nợ không có bảo đảm chỉ có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ
một tài sản nào của người mắc nợ ở thời điểm kê biên mà sẽ không có quyền
này đối với những tài sản đã chuyển nhượng trước khi nợ đến hạn đòi. Mặt
30
khác, cần chú ý rằng sản nghiệp không chỉ là tài sản hiện có mà còn bao gồm
cả những tài sản sẽ có của chủ sở hữu.
Tài sản nợ thuộc về sản nghiệp là tất cả những nghĩa vụ tài sản của một
người, hay nói một cách đơn giản hơn đó là những gì còn lại của khối tài sản
sau khi đã trừ đi các giá trị của các nghĩa vụ tài sản. Trong kinh tế học, có
khái niệm tài sản có ròng (actif net) của sản nghiệp. Khi các tài sản có ròng có
giá trị dương, ta nói sản nghiệp có khả năng thanh toán; và ngược lại, nếu đó
là một giá trị âm, đồng nghĩa với việc sản nghiệp không có khả năng thanh
toán những nghĩa vụ có liên quan. Mặc dù vậy, dù có khả năng thanh toán hay
không, sản nghiệp luôn luôn tồn tại.
Xét trên các hình thức biểu hiện, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ khác
nhau để chỉ sản nghiệp thương mại như “cửa hàng thương mại”, “cơ sở kinh
doanh”. Sản nghiệp thương mại không phải là bản thân doanh nghiệp mà chỉ
là một trong các nhân tố của doanh nghiệp. Sản nghiệp thương mại bao gồm
cả những yếu tố hữu hình (như hàng hóa, máy móc, xe cộ, các vật dụng khác)
và cả những yếu tố vô hình (như mạng lưới khách hàng, mạng lưới cung cấp
ứng dụng dịch vụ, quyền thuê mượn tài sản, tên thương mại, thương danh,
biển hiệu, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mẫu mã …). Các yếu tố vô
hình của sản nghiệp thương mại bao gồm:
Mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ là kết quả của những
nỗ lực phát huy tài năng và sự khéo léo của thương nhân nhằm thu hút khách
hàng để tiêu thụ hàng hóa mà mình sản xuất. Sự phát triển của mạng lưới tiêu
thụ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan
(tình hình kinh tế xã hội của quốc gia và khu vực; thị hiếu và nhu cầu của
người tiêu dùng, thời điểm kinh doanh, tốc độ đô thị hóa, điều kiện tự nhiên,
môi trường ...) cũng như yếu tố chủ quan (sự nhạy bén và linh hoạt của chính
sách tiếp thị, uy tín của thương hiệu, ý chí của bạn hàng …).
Tên thương mại – là danh hiệu dùng trong giao dịch của thương nhân.
Tên thương mại là một yếu tổ của sản nghiệp thương mại và có thể chuyển
31
nhượng. Ở các nước có nền kinh tế thương mại phát triển, có một số tên
thương mại được định giá cao. Ví dụ như Cocacola, Toyota, Google…
Biển hiệu là dấu hiệu gắn liền với cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giúp
phân biệt cơ sở này với cơ sở khác. Cũng như tên thương mại, biển hiệu chỉ
có thể là đối tượng của quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ khi thương nhân
được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Pháp luật Việt Nam hiện hành
chỉ mới dự liệu các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu biển hiệu trong tập quán
và trong các quy phạm địa phương trong khi nhu cầu này trên thực tế của dân
sự là rất lớn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cũng như chính
sách chống cạnh tranh không lành mạnh đã được ghi nhận trong pháp luật
Việt Nam thời gian gần đây [22, tr. 219].
Như vậy, sản nghiệp thương mại không đơn thuần chỉ bao gồm các tài
sản là vật có thực mà nó còn là những tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vì
vậy, người ta không thể coi việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại như là
góp vốn bằng vật. Đồng thời, sản nghiệp thương mại mặc dù các yếu tố của
quyền sử hữu trí tuệ nhưng nó lại bao gồm cả các tài vật. Chình vì vậy, người
ta thường tách việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại thành một mục riêng
khác với việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ.
Việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại gần giống với việc bán sản
nghiệp thương mại và phải được các bên thỏa thuận bằng văn bản liệt kê rõ
từng mục. Điều đó có nghĩa là việc bán sản nghiệp thương mại là việc chuyển
nhượng tổng thể các yếu tố của sản nghiệp thương mại cho người khác mà
trong đó nhất thiết phải có yếu tố khách hàng, bởi khách hàng là thành tố
chính của một sản nghiệp thương mại. Tuy nhiên, bởi nhiều yếu tố khác nhau
cả vô hình và hữu hình mà có thể tách ra một cách độc lập, nên việc không
liệt kê yếu tố nào vào văn bản hợp đồng, thì yếu tố ấy coi như không bị bán.
Ngoài ra việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại còn lệ thuộc vào các quy
tắc bán sản nghiệp thương mại được quy định trong luật thương mại.
1.1.3.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
32
Luật Doanh nghiệp 2014 có qui định rành mạch về góp vốn bằng quyền
sở hữu trí tuệ rằng:
“Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với
giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở
hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói
trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35, khoản 2).
Theo Luật sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả
và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối
với giống cây trồng. Những hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế,
quyền tác giả (bản quyền), nhãn hiệu và bí mật thương mại.
Quyền tác giả hay bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn
và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền
chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, kiến trúc, các tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị. Các chương trình máy tính và bản ghi âm, ghi hình cũng
được bảo hộ bằng quyền tác giả. Chỉ tác giả hay những người được tác giả
trao quyền – chẳng hạn như nhà xuất bản – mới có toàn quyền khiếu nại về
bản quyền. Tuy nhiên cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì
quyền đó cũng có giới hạn. Ví dụ như người ta có thể sao chép một tác phẩm
với mục đích học tập, phê bình, đưa tin hay giảng dạy.
Sáng chế là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, người có sáng chế hay
người đã tạo ra một phát minh được cấp bằng sáng chế. Bằng sáng chế có thể
coi là một hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là cá nhân nhà
phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát minh được toàn
quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một phát
minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định – hầu
hết các nước quy định là 20 năm – để đổi lại việc nhà phát minh phải công bố
chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
33
Bí mật thương mại bao gồm bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng
trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích
kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại.
Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm,
chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm
tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu
về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược
quảng cáo và quy trình phân phối. Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại
về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy
nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại
đòi hỏi chính bản thân chủ thể phải có các biện pháp bảo vệ bí mật.
Nhãn hiệu hàng hóa là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt
để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể
sản xuất hoặc cung cấp. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và
tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải
được đăng ký thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được gia
hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của
công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá, nghĩa là việc bảo
hộ nhãn hiệu là không thời hạn [29, 42].
Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu trí tuệ đa dạng khác như chỉ dẫn
địa lý, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu trang trí của các vật dụng cũng được bảo
hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ như
đối với sáng chế về kiểu dáng. Và quyền sở hữu trí tuệ còn có những loại hình
đặc biệt là các giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên
miền trên internet ...
Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản vô hình tuyệt đối bao gồm:
quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật thương
mại, nhãn hiệu hàng hóa và các loại sở hữu trí tuệ khác như: chỉ dẫn địa lý,
kiểu dáng công nghiệp, tên miền internet, phần góp vốn trong công ty có tư
cách pháp nhân và một số yếu tố của sản nghiệp thương mại không thể nhận
34
biết được bằng giác quan mà phải thông qua những ý niệm về những mối
quan hệ pháp luật gữia người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người
thứ ba. Thông qua việc khai thác những loại tài sản vô hình này, người ta có
thể thu về những lợi ích vật chất nhất định khi sử dụng chúng.
Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu
tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép
chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ
của chúng ta như tài sản thông thường và việc góp vốn thành lập công ty
bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng giống như việc góp vốn bằng những tài sản
khác. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả
bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép. Việc góp vốn bằng các
tài sản này buộc người góp vốn phải bảo đảm cho công ty khai thác tái sản để
đem lại các lợi ích phát sinh từ đó. Ngược lại người góp vốn có quyền lợi
tương ứng trong công ty. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, do tài sản trí tuệ có
yếu tố rất động và vô hình, nên việc góp vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự thỏa
thuận của các thành viên và bị điều tiết bởi pháp luật về sở hữu trí tuệ [22, tr.
182 - 183].
1.1.3.7. Góp vốn bằng tri thức
Trong nền kinh tế tri thức, người ta thường nhắc đến các yếu tố lớn
nhất đang làm biến đổi các nước trên thế giới. Đó là chủ nghĩa tư bản tài
chính (finance capitalism), chủ nghĩa tư bản tri thức (knowlege capitalism) và
chủ nghĩa tư bản xã hội (social capitalism) mà tại đó chủ nghĩa tư bản được
hiểu là một cuộc vận động làm phát sinh ra các ý tưởng mới và đưa chúng vào
các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực thương mại. Vậy góp vốn bằng tri
thức là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp, hậu công nghiệp
hay kinh tế tri thức.
Ngày nay người ta thường nhấn mạnh tài sản trí tuệ hay sở hữu trí tuệ.
Chúng được xem là một bộ phận quan trọng của tri thức. Điều đó có nghĩa là
khái niệm tài sản và khái niệm tri thức có sự giao thoa, nhưng không trùng
35
khít với nhau. Nếu định nghĩa tri thức trên phương diện hành vi có thể quan
sát được, thì tri thức là khả năng của một cá nhân hay của một nhóm thực
hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm
tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể
được điển chế hóa và có thể sao chép hoặc có thể ở dạng ẩn không thể sao
chép khi ở trong đầu của các cá nhân hoặc các chu trình hoạt động của các
doanh nghiệp. Những tri thức ẩn không thể điển chế hóa được, nên khó có thể
mua và bán. Chúng khác với bốn loại tài sản trí tuệ là nhãn hiệu thương mại,
giấy chứng nhận sáng chế, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký
mà được xem là tài sản vì có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao
trong giao lưu dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Tri thức ẩn được biểu hiện ở vốn nhân lực và tổ chức, nên mang đến
cách thức góp vốn khác với cách thức góp vốn bằng tài sản. Khi nghiên cứu
về kinh tế tri thức, người ta nhận định: khả năng tri thức “ngầm” quan trọng
nhất có lẽ là khả năng học hỏi liên tục và đạt tới những kỹ năng mới. Do đó,
góp vốn bằng tri thức, cụ thể như tri thức ẩn, là góp vốn bằng chính khả năng
như nghiên cứu thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh, các phản ứng nhạy
bén với thị trường... [22, tr. 184 - 186].
Có thể lấy một ví dụ thực tế cho việc góp vốn bằng tri thức là một Thầy
giáo giỏi có uy tín tham gia thành lập trường tư cùng với các thành viên khác.
Thầy giáo hoàn toàn có quyền cam kết sẽ làm việc cho trường trong một thời
gian. Trong thời gian đó, danh tiếng và tri thức của thầy này sẽ làm lợi cho
trường rất nhiều, có thể nói là có ý nghĩa quyết định với việc trường tư này có
thể tồn tại được hay không. Do đó, việc thầy giáo này được nhận lại một phần
quyền trong trường dưới dạng vốn góp là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, khi đã
gắn danh tiếng của mình với trường đó, thầy này cũng có nhu cầu tham gia
quản lý nhà trường đó để có thể đảm bảo trường sẽ hoạt động một cách quy củ
và danh tiếng của mình gắn với trường đó sẽ không bị tổn hại. Tóm lại, việc
36
góp vốn bằng tri thức và danh tiếng chính là giải pháp hợp lý nhất để ràng buộc
quyền và nghĩa vụ của các bên, ở đây là giữa thầy giáo và nhà trường.
Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra với hình thức góp vốn này là người
góp vốn bằng tri thức phải đảm bảo việc mang tri thức của mình ra phục vụ
một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích công ty, có nghĩa là người đó phải
thực hiện một nghĩa vụ mẫn cán và trung thực cho trái chủ là công ty do chính
người đó cam kết lập ra.
Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức – một khả năng trừu tượng, sẽ
mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính giá trị phần vốn góp để
chia sẻ quyền lợi trong công ty; chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người
góp vốn. Những khó khăn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự đánh giá và thỏa
thuận các các thành viên công ty. Tại đây cần nhấn mạnh, tri thức khi được
góp vốn hoàn toàn không biến khỏi các thành viên góp nó, có nghĩa là nó chỉ
tồn tại nơi các thành viên và càng được sử dụng thì càng được củng cố và
phát triển. Vậy việc bảo đảm cho sự độc quyền sử dụng tri thức đó của công
ty là một vấn đề lớn cần tới sự trung thực của người góp vốn. Sự tin tưởng lẫn
nhau, hợp tác với nhau là một yêu cầu có tính thiết yếu trong nền kinh tế hậu
công nghiệp và kinh tế tri thức hiện nay. Vì vậy, mặc dù chưa nhận thức một
cách đầy đủ, đúng đắn, nhưng ý tưởng người có chuyên môn và người có tài
sản cùng nhau góp vốn làm ăn dưới hình thức công ty hợp danh theo pháp
luật Việt Nam là đã hướng tới một phần nào quan niệm này.
1.1.3.8. Góp vốn bằng công sức
Như trên đã nghiên cứu, thỏa thuận trong các hợp đồng góp vốn thành
lập công ty là một căn cứ làm phát sinh ra nghĩa vụ của các thành viên công
ty. Và đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: chuyển giao quyền sở hữu, làm hoặc
không làm một công việc nào đó. Vì vậy, cam kết thực hiện những hành vi cụ
thể có thể trị giá được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được
xem là góp vốn. Vì vậy cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có có thể có
giá trị được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp
37
vốn. Có quan niệm cho rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp
vốn bằng một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải công việc của
người thừa hành, vì công ty có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy là công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có
thể được đóng góp vào công ty để người góp vốn trở thành một trong những
ông chủ của nó, vì công ty dễ dàng mua được công sức lao động như vậy với
giá hợp lý mà không phải trả thêm lãi và chia sẻ quyền lực quản lý của thành
viên khác trong công ty. Nhưng tại đây có hai trường hợp cần lưu ý: một là,
công sức được bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm; hai là, người góp
vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác khi công ty dự định
thành lập là một công ty đối nhân. Trường hợp thứ nhất có thể nhầm lẫn với
góp vốn bằng tri thức. Tuy nhiên, nếu thành tố tri thức ít hơn so với lao công,
thì có thể nói, việc góp vốn đó là góp vốn bằng công việc. Đối với trường hợp
này, công ty đối vốn có thể cũng cần, chẳng hạn người lái xe giỏi, thông thạo
được ở nhiều thành phố góp vốn bằng khả năng này của mình. Trường hợp
thứ hai tùy thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các thành viên [24, tr. 71].
Thừa nhận việc góp vốn bằng công sức là hướng tới yếu tố hiệu quả
của việc góp vốn, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí, và bảo đảm cho công sức
lao động xã hội. Cũng giống với góp vốn bằng tri thức, việc góp vốn bằng lao
công khiến cho người góp vốn bị ràng buộc nghĩa vụ mẫn cán và trung thực.
Do đó, nó cũng có hậu quả tương tự với góp vốn bằng tri thức.
Bộ luật Dân sự Pháp qui định: Phần góp vốn bằng công sức lao động
không được tính vào vốn của công ty (không trị giá được bằng tiền), nhưng
người góp vốn bằng công lao động được nhận cổ phần của công ty, có quyền
chia lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ.
Như vậy, phần vốn góp bằng công sức nếu có được định giá thì cũng
không được tính vào vốn điều lệ của công ty. Tuy nhiên, người góp vốn bằng
công sức vẫn được hưởng quyền lợi tương ứng với giá trị được định giá của
công sức.
38
1.1.4. Định giá tài sản góp vốn
Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí
quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp.
Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 qui định:
“1. Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi,
vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá
chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng tiền Việt Nam.
2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ
đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức định giá
chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá
thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập
chấp thuận.
Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế
tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp
thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản
góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm
đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế.
3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, hội đồng thành
viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, hội đồng quản
trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một
tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên
nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh
nghiệp chấp thuận.
Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế
tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên hội đồng
thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành
viên hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số
chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
39
điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại
do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế” (Điều 37).
Các quy định này cho thấy đối tượng là tài sản của hành vi góp vốn vào
công ty phải được định giá, nếu các tài sản đó không phải là tiền. Trên cơ sở
đinh giá như vậy, vốn điều lệ của công ty mới được xác định rõ ràng, quyền
lợi của các bên được bảo đảm đúng mức.
Định giá tài sản vào thời điểm góp vốn thành lập công ty. Theo đó, khi
xuất hiện đối tượng tài sản cần phải được định giá, tất cả thành viên sáng lập
cùng nhau bàn bạc, thống nhất để quyết định giá trị tài sản.
Trong thực tế hoạt động định giá tài sản góp vốn, để tìm được sự nhất
trí cho việc xác định giá trị tài sản không hề đơn giản. Do đó, việc định giá tài
sản cần có sự hợp tác cao giữa những người có thẩm quyền định giá để đi đến
một mức giá cụ thể, phản ánh xác thực về hiện trạng tài sản mà nhà đầu tư
thấy rõ là hợp lý, đảm bảo không gây ra tranh chấp.
Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn mà Luật doanh nghiệp đề ra suy
cho cùng cũng là trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, cho công ty
tiếp nhận vốn và cả bên thứ ba. Tất cả thành viên là người định giá tài sản là
vốn góp. Một tổ chức định giá chuyên nghiệp có thể có thẩm quyền định giá
theo yêu cầu của các viên.
Quy định trên đã xác định việc định giá tài sản góp vốn ở hai thời điểm
thành lập công ty và khi công ty đang hoạt động chỉ khác nhau ở thẩm quyền
định giá còn trách nhiệm và chu trình định giá là hoàn toàn giống nhau.
Những người có thẩm quyền có thể sẽ trực tiếp tiến hành hoặc thuê những
công ty kiểm toán hay các tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản. Nếu
những người có thẩm quyền trực tiếp định giá tài sản góp vốn thì họ phải
thành lập Hội đồng định giá. Và tùy thuộc vào thời điểm tài sản được đem
góp vào công ty, thành phần Hội đồng định giá sẽ khác nhau.
40
Trong quá trình hoạt động, Hội đồng định giá được áp dụng cho ba loại
hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm, công ty hợp danh lần lượt là Hội
đồng quản trị, Hội đồng thành viên và tất cả các thành viên hợp danh.
Quyết định giá trị tài sản góp vốn sẽ được Hội đồng quản trị công ty cổ
phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả các thành viên
hợp danh công ty hợp danh bàn bạc trong cuộc họp. Và việc định giá tài sản
để tiếp nhận thành viên đồng nghĩa với sửa đổi Điều lệ chỉ được thông qua
khi đáp ứng được tỉ lệ luật định. Luật cũng quy định công ty có thể thuê tổ
chức định giá chuyên nghiệp để định giá tài sản góp vốn. Quy định của Luật
doanh nghiệp về thẩm quyền định giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty
định giá tài sản góp vốn.
Đối với trường hợp công ty tự tiến hành định giá tài sản góp vốn, tất cả
thành viên liên đới chịu trách nhiệm về giá trị tài sản. Họ phải cùng thỏa
thuận để định đoạt giá trị của tài sản góp vốn. Khi xảy ra việc tài sản góp vốn
được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, theo
quy định của luật doanh nghiệp, cả người góp vốn và người định giá phải góp
đủ số vốn như đã được định giá. Đây là một quy định cần được xem xét trên
cả hai phương diện: một là các bên đã không ý thức được giá trị thực của tài
sản, hai là các bên đã cố tình định giá cao hơn giá trị thực tế. Tuy nhiên, dù ở
trường hợp nào, khi gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải đặt ra trách
nhiệm bồi thường. Song luật doanh nghiệp chưa xác định rõ tỉ lệ trách nhiệm
giữa bên góp vốn và người định giá trong vấn đề này, vì điều đó mà tranh
chấp có thể xảy ra.
Trường hợp công ty thuê tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản
thì trách nhiệm được nói đến ở đây thuộc về bên được thuê định giá tài sản.
Quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được xác định trong hợp đồng. Tổ chức
được thuê định giá tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định tài
sản trước khách hàng của mình.
41
Quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với giá trị phần góp vốn, do đó định
giá tài sản chính xác, sát với giá trị thực tế sẽ bảo vệ tối đa quyền lợi của nhà
đầu tư, tạo tâm lý an tâm khi đầu tư kinh doanh.
1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn
Như đã phân tích, một trong những nghĩa vụ căn bản của thành viên
công ty là nghĩa vụ góp vốn. Điều đó có nghĩa là khi đã cam kết góp vốn
thành lập công ty, thành viên đã tự ràng buộc mình trở thành thụ trái hay con
nợ của công ty. Cần nhấn mạnh rằng các phần vốn góp của các thành viên đều
trở thành sản nghiệp của công ty do chính họ tạo dựng nên. Vì vậy, công ty –
một pháp nhân riêng biệt – là trái chủ của chính những người chủ của mình.
Việc góp vốn bằng tiền, nếu thành viên góp vốn không góp đúng hạn thì sẽ
trở thành con nợ đối với công ty. Công ty có quyền đòi nợ với thành viên đã
vi phạm nghĩa vụ góp vốn và yêu cầu trả lãi số tiền đó kể từ ngày phải đóng
góp và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có.
Việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền
đối với vật và giao cho công ty sử dụng. Người góp vốn phải đảm bảo đối với
công ty như người bán bảo đảm đối với người mua. Nghĩa là việc góp vốn
bằng hiện vật giống như việc bán tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi từ
công ty. Vậy nếu người bán vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì sẽ bị xử lý giống
như người bán vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán vật. Cụ thể: Trường
hợp người góp vốn giao vật ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì công ty có
quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) đối với
phần chưa giao đúng số lượng hoặc định thời gian để người góp vốn giao tiếp
phần còn thiếu, nếu người góp vốn không giao được tiếp số lượng vật còn
thiếu thì công ty có quyền xác định lại giá trị vốn góp của người đó và yêu
cầu bồi thường thiệt hại nếu có [22, tr. 189].
Trong trường hợp góp vốn giao vật không đồng bộ làm cho mục đích
sử dụng của vật không đạt được hiệu quả thì công ty có quyền nhận vật và
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY
Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY

More Related Content

What's hot

What's hot (20)

Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệuLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu
 
Luận án: Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, HAYLuận án: Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, HAY
Luận án: Pháp luật thế chấp quyền sử dụng đất ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAYLuận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
 
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOTLuận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
Luận văn: Chứng cứ trong tố tụng theo pháp luật Việt Nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOTLuận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
Luận văn: Pháp luật về quản trị công ty cổ phần, HOT
 
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt NamLuận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
 
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự, HOT
 
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOTLuận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
Luận văn: Năng lực hành vi dân sự của cá nhân theo pháp luật, HOT
 
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sảnLuận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
Luận văn: Quản lý và xử lý tài sản phá sản theo luật phá sản
 
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệpLuận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
Luận văn: Quản trị công ty cổ phần theo pháp luật doanh nghiệp
 
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DNĐề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
 
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóaLuận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
Luận văn: Trách nhiệm do vi phạm Hợp đồng mua bán hàng hóa
 
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOTLuận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
Luận văn: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự, HOT
 
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOTĐề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
Đề tài: Hiệu lực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, HOT
 
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAYLuận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Quản lý đối với người không quốc tịch ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAYLuận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
Luận văn thạc sĩ: Đương sự trong vụ án dân sự, HAY
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
 
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAYLuận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
Luận văn: Giải quyết vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, HAY
 
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOTLuận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
 
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệpChế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
 

Similar to Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY

Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfHanaTiti
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...KhoTi1
 

Similar to Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY (20)

Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAYĐề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
Đề tài: Pháp luật về doanh nghiệp trong công nghiệp hóa, HAY
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
 
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAYPHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
 
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt NamLuận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp ở Việt Nam
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đLuận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đ
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với người quản lí, 9đ
 
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công ty
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công tyLuận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công ty
Luận văn: Giải quyết tranh chấp giữa cổ đông với quản lý công ty
 
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí TuệKhóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
Khóa luận tốt nghiệp luật về Quyền Sở Hữu Trí Tuệ
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.docPháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
Pháp Luật Việt Nam Về Góp Vốn Thành Lập Doanh Nghiệp.doc
 
Đề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp
Đề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệpĐề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp
Đề tài: Pháp luật quản lý vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAYLuận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
Luận văn: Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ, HAY
 
Luận văn: Giám sát hoạt động sử dụng vốn trong công ty, HOT
Luận văn: Giám sát hoạt động sử dụng vốn trong công ty, HOTLuận văn: Giám sát hoạt động sử dụng vốn trong công ty, HOT
Luận văn: Giám sát hoạt động sử dụng vốn trong công ty, HOT
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864

Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO 0917193864 (20)

200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
200 de tai khoa luạn tot nghiep nganh tam ly hoc
 
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành khách sạn,10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngân hàng, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ngữ văn, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ ô tô, 10 điểm
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản lý giáo dục mầm non, mới nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhấtDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ quản trị rủi ro, hay nhất
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏiDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tài chính ngân hàng, từ sinh viên giỏi
 
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểmDanh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
Danh sách 200 đề tài luận văn thạc sĩ tiêm chủng mở rộng, 10 điểm
 
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhuadanh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
danh sach 200 de tai luan van thac si ve rac nhua
 
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay NhấtKinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
Kinh Nghiệm Chọn 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Trị Hay Nhất
 
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểmKho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
Kho 200 Đề Tài Bài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Kế Toán, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại họcKho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Ngành Thủy Sản, từ các trường đại học
 
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tửKho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
Kho 200 đề tài luận văn ngành thương mại điện tử
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành điện tử viễn thông, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Giáo Dục Tiểu Học
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhấtKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành luật, hay nhất
 
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểmKho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
Kho 200 đề tài luận văn tốt nghiệp ngành quản trị văn phòng, 9 điểm
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin HọcKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Sư Phạm Tin Học
 
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập KhẩuKho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
Kho 200 Đề Tài Luận Văn Tốt Nghiệp Ngành Xuất Nhập Khẩu
 

Recently uploaded

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxnhungdt08102004
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNguyễn Đăng Quang
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...Nguyen Thanh Tu Collection
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxendkay31
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...hoangtuansinh1
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líDr K-OGN
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdftohoanggiabao81
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...ThunTrn734461
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhvanhathvc
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa2353020138
 

Recently uploaded (19)

Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docxTrích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
Trích dẫn trắc nghiệm tư tưởng HCM5.docx
 
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdfNQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
NQA Lợi ích Từ ISO và ESG Tăng Trưởng và Bền Vững ver01.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
BỘ ĐỀ KIỂM TRA CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO CẤU TRÚC ĐỀ MIN...
 
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
10 ĐỀ KIỂM TRA + 6 ĐỀ ÔN TẬP CUỐI KÌ 2 VẬT LÝ 11 - KẾT NỐI TRI THỨC - THEO C...
 
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
BỘ ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptxChàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
Chàm - Bệnh án (da liễu - bvdlct ctump) .pptx
 
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
Thong bao 337-DHPY (24.4.2024) thi sat hach Ngoai ngu dap ung Chuan dau ra do...
 
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
Sáng kiến “Sử dụng ứng dụng Quizizz nhằm nâng cao chất lượng ôn thi tốt nghiệ...
 
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh líKiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
Kiểm tra chạy trạm lí thuyết giữa kì giải phẫu sinh lí
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
SÁNG KIẾN “THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG INFOGRAPHIC TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ 11 (BỘ SÁCH K...
 
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
Sáng kiến Dạy học theo định hướng STEM một số chủ đề phần “vật sống”, Khoa họ...
 
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdfSơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
Sơ đồ tư duy môn sinh học bậc THPT.pdf
 
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ ...
 
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
ôn tập lịch sử hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoabài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
bài 5.1.docx Sinh học di truyền đại cương năm nhất của học sinh y đa khoa
 

Luận văn: Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LƢU THU HÀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 0107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. Ngô Huy Cƣơng HÀ NỘI – 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tác giả Lƣu Thu Hà
  • 4. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................6 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.......................................................6 2. Tình hình nghiên cứu đề tài............................................................................7 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn............................8 4. Phương pháp nghiên cứu................................................................................9 5. Bố cục của Luận văn....................................................................................10 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓPVỐN THÀNH LẬP CÔNG TY......11 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................................................11 1.1.1. Khái quát chung về công ty....................................................................11 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn ..........14 1.1.3. Các hình thức góp vốn ...........................................................................20 1.1.4. Định giá tài sản góp vốn........................................................................38 1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn.............................................................41 1.2. Hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty..........................45 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY50 2.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty................................................50 2.1.1. Thực trạng các qui định của pháp luật Việt Nam về góp vốn thành lập công ty ..............................................................................................................50 2.1.2. Những hạn chế của pháp luật hiện hành về góp vốn thành lập công ty....52 2.1.3. Quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất............................................55 2.2. Thực trạng các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty ..............................................................................................57 2.2.1. Các qui định của pháp luật về hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn
  • 5. thành lập công ty..............................................................................................57 2.2.2. Những hạn chế của các qui định pháp luật về hậu quả pháp lý của góp vốn thành lập công ty .......................................................................................59 Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY ........................................63 3.1. Các định hướng hoàn thiện .......................................................................63 3.2. Kiến nghị hoàn thiện các qui định pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn thành lập công ty......................................................69 KẾT LUẬN.....................................................................................................75 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................77
  • 6. 6 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt sau sự kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nền kinh tế nước ta có sự phát triển đáng kể. Khu vực kinh tế nhà nước đang được cải tổ mạnh mẽ để vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, linh động và làm quen dần với cạnh tranh quốc tế. Số lượng các công ty được thành lập ngày càng nhiều đáp ứng các nhu cầu của xã hội, tạo ra nhiều việc làm và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Đứng trước tình hình đó, hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp đang được đặt ra, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung toàn diện Luật Doanh nghiệp 2005. Trong việc thành lập công ty, vốn góp là một vấn đề pháp lý then chốt. Thực tế cho thấy kinh doanh bao giờ cũng gắn với vốn. Vốn là yếu tố đầu tiên, có vai trò quyết định, có nghĩa là không có vốn thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Một công ty chỉ có thể được thành lập và đi vào hoạt động khi có sự đóng góp tài sản của thành viên hoặc các thành viên của nó để tạo thành vốn của công ty. Việc góp vốn vào các loại hình doanh nghiệp, các mô hình khác nhau tạo nên qui chế pháp lý khác nhau đối với người góp vốn. Trong một chừng mực nào đó, Luật Doanh nghiệp 2005 đã có những thành công nhất định trong việc tạo sự đa dạng các hình thức kinh doanh nhằm huy động các nguồn vốn. Tuy nhiên, đứng trước các cơ hội và thách thức mới, Luật Doanh nghiệp 2005 đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, thiếu sót cần chỉnh sửa để một mặt tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho việc góp vốn thành lập công ty, mặt khác tăng cường tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về các hình thức góp vốn vào doanh nghiệp.
  • 7. 7 Góp vốn còn là một vấn đề pháp lý cơ bản để xác định quyền lợi của các thành viên công ty. Nó không những đáp ứng các quyền lợi tương ứng của họ, mà còn tạo ra sự tin tưởng và an toàn liên quan tới đầu tư và kinh doanh. Xuất phát từ nhận thức tầm quan trọng của góp vốn và các hậu quả của nó trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong các vấn đề pháp lý, tác giả lựa chọn “Góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tình hình nghiên cứu ngoài nước Góp vốn là một vấn đề kinh tế và pháp lý gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó nó không phải là một vấn đề mới đối với khoa học pháp lý, cũng như khoa học kinh tế. Thế nhưng trong những hoàn cảnh cụ thể, góp vốn vẫn cần phải được nghiên cứu trong nhiều phương diện. Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khác nhau về vấn đề này, nhất là trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên hiếm khi thấy có những nghiên cứu cụ thể cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhất là trong một hệ thống pháp luật đang cần hoàn thiện bởi sự bất cập và mâu thuẫn, chồng chéo một cách đáng ngại. Có một số công trình tiêu biểu trên thế giới liên quan tới đề tài Luận văn như sau: (1) Peter Fearns, Business Studies, Hodder & Stoughton, London- Sydney- Auckland, 1992; (2) Robert W. Hamilton, The Law of Corporations, West Publishing Co., 1991; (3) Harry G. Henn & John R. Alexander, Laws of Corporations and Other Business Enterprises, Third Edition, St. Paul, Minn. West Publishing Co., 1983; (4) Friedrich Kuebler, Juergen Simon, Mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng hoà Liên bang Đức, Nxb Pháp lý, 1992; (5) Francis Lemeunier, Nguyên lý và thực hành luật thương mại, luật kinh doanh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1993. Tình hình nghiên cứu trong nước Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong nước liên quan tới đề tài Luận văn. Đó là các công trình hết sức có giá trị lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên
  • 8. 8 việc gắn chặt góp vốn với vấn đề pháp lý trong giai đoạn hiện nay vẫn còn những vấn đề pháp lý nhỏ để Luận văn có thể khai thác. Một số công trình nghiên cứu trong nước tiêu biểu phải kể đến (nhưng không thể kể hết), bao gồm: (1) Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại – Phần chung và Thương nhân, Nxb. Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2013; (2) Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng Thọ và Nguyễn Tân, Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I vàg Quyển II, Sài Gòn, 1972; (3) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại- Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007; (4) Viện quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Công ti Vision & Associates, và Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp 2005; (5) Nguyễn Như Phát (Chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997; (6) Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình luật kinh tế- Tập 1: Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tích- Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006; (7) Dự án VIE/94/003, Báo cáo chuyên đề về các lĩnh vực khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam; (8) Bùi Ngọc Cường, Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; (9) Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung, Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh, 2009: (10) Nguyễn Mạnh Bách, Các công ty thương mại, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, Biên Hòa, 2006. Trên cơ sở kế thừa các thành tựu của các công trình nghiên cứu này, tác giả đi sâu vào nghiên cứu vấn đề pháp lý phát sinh liên quan tới hành vi góp vốn. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của Luận văn Luận văn có mục tiêu chủ yếu là làm rõ về mặt lý luận những vấn đề pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn thành lập công ty và kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật này. Luận văn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
  • 9. 9 + Nghiên cứu lý luận về góp vốn và các hậu quả pháp lý phát sinh từ hành vi góp vốn; + Đánh giá pháp luật Việt Nam hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của nó; + Kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan. Vì góp vốn và hậu quả của hành vi góp vốn là một lĩnh vực pháp lý rộng. Do đó Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận pháp luật về góp vốn thành lập công ty, tức là các giao dịch về góp vốn thành lập công ty mà không nghiên cứu góp vốn vào các lĩnh vực khác, và cũng không phân tích việc góp vốn thành lập công ty dưới giác độ kinh tế, văn hóa, xã hội. Luận văn không đi sâu vào nghiên cứu việc thi hành pháp luật trong lĩnh vực này mà chỉ phân tích các qui phạm hiện hành thông qua lý luận. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phương pháp mà luận án sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật. Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích quy định của pháp luật hiện hành về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
  • 10. 10 Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật doanh nghiệp. Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu… 5. Bố cục của Luận văn Ngoài phần Mục lục, Lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chủ yếu của Luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về góp vốn và hệ quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 2: Thực trạng pháp luật việt nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty. Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công
  • 11. 11 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA HÀNH VI GÓP VỐN THÀNH LẬP CÔNG TY 1.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty 1.1.1. Khái quát chung về công ty 1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của công ty Công ty là loại một loại thương nhân xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Theo quan niệm truyền thống, công ty được hiểu là sự liên kết của hai hay nhiều cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định theo mục tiêu chung đã được lựa chọn. Như vậy công ty là một loại thương nhân chuyên tiến hành một hoặc một số hành vi thương mại nhất định và coi các hành vi đó là nghề nghiệp của mình. Lưu ý rằng hành vi hoặc các hành vi này được xác định trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà pháp luật Việt Nam hiện nay gọi là ngành nghề kinh doanh. Theo PGS. TS. Ngô Huy Cương, thương nhân là chủ thể thông thường của luật thương mại và được chia thành thương nhân thể nhân (cá nhân kinh doanh – ví dụ như doanh nghiệp tư nhân) và thương nhân pháp nhân (có nghĩa là các công ty) [22, tr. 69]. Vậy trước hết công ty là thương nhân pháp nhân. Thương nhân, theo PGS. TS. Ngô Huy Cương có hai yếu tố xác định: Thứ nhất, chuyên tiến hành các hành vi thương mại; và thứ hai, lấy hành vi thương mại làm nghề nghiệp thường xuyên của mình, mà trong đó yếu tố thứ nhất được xem là điều kiện cần, và yếu tố thứ hai được xem là điều kiện đủ. Từ các phân tích ở trên ta có thể hiểu: Công ty là thương nhân pháp nhân và công ty có các đặc điểm như sau: Đặc điểm thứ nhất: Công ty là pháp nhân.
  • 12. 12 Cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy công ty là một thực thể tách biệt với thành viên của nó, có nghĩa người thành lập công ty có mục đích tạo ra một thực thể tách biệt với mình, và thực thể này có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ riêng biệt so với quyền và nghĩa vụ của người thành lập nên nó. Vì vậy công ty mang đầy đủ các dấu hiệu của một pháp nhân. Trong các dấu hiệu này, có một dấu hiệu quan trọng liên hệ trực tiếp với đề tài Luận văn là công ty có tài sản riêng, khác với tài sản của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của nó. Tài sản này trước hết được tạo lập bởi hành vi góp vốn của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu của công ty. Như vậy công ty là chủ thể của pháp luật. Các mối quan hệ bên trong cũng như bên ngoài của công ty được pháp luật điều chỉnh. Chẳng hạn pháp luật qui định công ty có quyền sở hữu và sử dụng vốn đúng mục đích; phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng tài sản của mình; và tự danh mình tham gia các quan hệ pháp luật… Luật Doanh nghiệp 2014 định nghĩa về doanh nghiệp mà trong đó có công ty rằng: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh” (Điều 4, khoản 7). Định nghĩa này cho thấy doanh nghiệp (hay công ty) mang dáng dấp của pháp nhân - một chủ thể quan trọng của pháp luật. Đặc điểm thứ hai: Công ty là thương nhân. Công ty là chủ thể thông thường của luật thương mại bởi như trên đã phân tích công ty chuyên tiến hành các hành vi thương mại và lấy hành vi thương mại là nghề nghiệp thường xuyên của mình. Công ty có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh, có nghĩa là đăng ký việc làm nghề thương mại của mình. Ở đây cần lưu ý hành vi thương mại có điểm khác với hành vi dân sự. Hành vi thương mại nói đơn giản là hành vi do thương nhân thực hiện nhằm mục đích sinh lời. Còn hành vi dân sự là hành vi do các chủ thể của pháp luật thực hiện nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên sự phân biệt này là một vấn đề khoa học phức tạp mà khó có thể lý giải trong phạm vi của Luận văn này.
  • 13. 13 Đặc điểm thứ ba: Việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bị giới hạn bởi pháp luật. Các hình thức góp vốn thành lập công ty và việc sở hữu vốn của công ty luôn luôn được pháp luật quan tâm và điều tiết. Vốn ban đầu hình thành từ sự đóng góp của thành viên hoặc các thành viên. Thông qua việc góp vốn, thành viên đổi lại quyền lợi trong công ty và quyền chi phối công ty. Hơn nữa công ty luôn có sự tác động lớn tới cộng đồng bởi khả năng cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ, và khả năng huy động vốn từ bên ngoài. Pháp luật xen vào điều tiết việc góp vốn và sở hữu vốn của công ty bởi các lý do như vậy. 1.1.1.2. Phân loại công ty Ở các nước theo truyền thống Civil Law, người ta thường chia công ty thành hai loại: công ty dân sự và công ty thương mại. Nguồn gốc của sự phân chia này là việc có sự phân loại giữa luật dân sự và luật thương mại. Cách thức phân loại này không được thể hiện rõ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn không đề cập tới công ty dân sự do đó không xuất phát nghiên cứu từ cách phân loại này. Căn cứ vào tính chất liên kết, chế độ chịu trách nhiệm của thành viên công ty và ý chí của nhà làm luật, mà dưới góc độ pháp lý người ta chia công ty thành hai loại hình chính là công ty đối nhân và công ty đối vốn. Trong mỗi loại này lại được phân chia thành các hình thức công ty cụ thể. Tuy nhiên phải nói rằng cách phân loại này cũng không mấy rõ ràng, gây ra nhiều tranh luận. Mặc dù vậy nó vẫn có những điểm đáng lưu ý về mặt khoa học. Công ty đối nhân là hình thức công ty mà việc thành lập dựa trên sự liên kết chặt chẽ bởi độ tin cậy về nhân thân của các thành viên tham gia. Đặc điểm cơ bản của công ty đối nhân là các thành viên liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty hoặc ít nhất cũng phải có một thành viên chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ty. Các thành viên chịu trách nhiệm vô hạn đều có tư cách thương nhân và phải chịu thuế thu nhập cá
  • 14. 14 nhân. Có hai loại hình công ty đối nhân cơ bản là công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Công ty hợp danh là công ty mà tất cả các thành viên đều phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợi của công ty. Còn công ty hợp vốn đơn giản có hai loại thành viên: một loại chịu trách nhiệm vô hạn; và loại khác chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của công ty. Công ty đối vốn ra đời muộn hơn so với công ty đối nhân. Công ty đối vốn không quan tâm tới nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm tới phần vốn góp. Có một điểm đặc biệt khác so với công ty đối nhân là ở công ty đối vốn tất cả các thành viên của công ty đều có chế độ trách nhiệm hữu hạn. Do cơ cấu thành lập công ty chỉ quan tâm tới vốn góp mà thành viên của công ty đối vốn thường có số lượng lớn. Cũng do thành viên của công ty đối vốn có số lượng lớn nên nó thường được pháp luật qui định chặt chẽ hơn về quản trị và vận hành. Có hai loại công ty đối vốn là: công ty cổ phần; và công ty trách nhiệm hữu hạn (bao gồm loại có một thành viên và loại có hai thành viên trở lên). Công ty đối nhân và công ty đối vốn khác nhau tương đối nhiều về chế độ pháp lý đối với vốn của công ty, nhất là hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Trong mỗi phân loại lớn đó lại có những phân loại nhỏ hơn (hình thức công ty) có sự khác biệt ít nhiều về chế độ góp vốn và hậu quả pháp lý của hành vi góp vốn. Tuy nhiên tựu trung lại vấn đề góp vốn và hậu quả pháp lý của nó có những điểm chung nhất định. 1.1.2. Khái niệm về góp vốn và bản chất pháp lý của hành vi góp vốn 1.1.2.1. Khái niệm góp vốn thành lập công ty Góp vốn thường được người Việt Nam hiểu là việc một người đưa hay hùn tiền bạc hay tài sản vào một công cuộc kinh doanh nhất định và mong nhận được lợi ích từ đó. Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại những lợi ích từ việc góp vốn đó. Góp vốn thành lập công ty là việc một người chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình
  • 15. 15 hoặc cùng với người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn về nguyên tắc là tất cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản (Điều 163, Bộ luật Dân sự 2005). Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài sản góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo khoản 4, Điều 4 Luật Doanh nghiệp, tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty. Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà chủ sở hữu hoặc chủ sở hữu chung của công ty góp vào vốn điều lệ. Lợi ích mà người góp vốn nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần. Các phần vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật chất như các tài sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình thành từ hoạt động sáng tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ). Phần vốn góp hiểu là kết quả của sự chuyển một phần giá trị tài sản cụ thể của người góp vốn vào công ty để đổi lấy một phần giá trị khác trừu tượng hơn. Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai tài sản độc lập và thuộc về hai sản nghiệp của hai chủ thể khác nhau. Phần vốn góp là tài sản thuộc sản nghiệp của nguời góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài sản thuộc sản nghiệp của công ty nhận tài sản góp vốn . Về mặt pháp lý, vốn của công ty là do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền mà các thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho việc đầu tư. Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ cóa thể lấy nợ trên số tài sản hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty. Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc đồng sở hữu chủ của công ty đó.
  • 16. 16 1.1.2.2. Bản chất pháp lý của hành vi góp vốn thành lập công ty Từ khái niệm trên ta có thể nhận thấy bản chất pháp lý của góp vốn là hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn, làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty (một thực thể kinh doanh) thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của những người góp vốn. Công ty thường được xem xét trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý. Trên phương diện kinh tế, công ty được xem là một doanh nghiệp hay một thực thể kinh doanh. Và trên phương diện pháp lý, công ty được xem là hành vi pháp lý hay hành vi thương mại. Do đó phần vốn góp cũng được hiểu theo nghĩa kinh tế và nghĩa pháp lý, có nghĩa là cần xem xét khái niệm phần vốn góp từ phương diện kinh tế và từ phương diện pháp lý [14, tr. 21]. Nếu xét trên phương diện kinh tế, góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động kinh doanh theo mục đích đã đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ trong trường hợp công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên, một cổ đông góp vào công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành viên đó, cổ đông đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được thực hiện thông qua giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành viên góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty. Quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều lệ của công ty. Ở khía cạnh kinh tế, việc góp vốn hay hùn vốn cũng là việc nhiều người cùng góp nguồn lực của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tưởng kinh doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng xuyên suốt lịch sử hình thành và phát triển của công ty trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc góp vốn thành lập công ty có khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp của mình chứ không
  • 17. 17 thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh doanh nào cụ thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn góp đó cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp vốn có thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt lớn của công ty đối vốn so với công ty đối nhân. Một vấn đề kinh tế khác khi các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là việc thực hiện quyền quản lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ đem đến hiệu quả kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản lý trong công ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp của từng thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông. [14, tr. 25 - 27]. Nếu xét trên phương diện pháp lý, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản để đổi lấy quyền lợi đối với công ty. Nói tóm lại góp vốn về bản chất pháp lý là một hành vi pháp lý. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của công ty đối với tài sản góp vốn đó, và làm phát sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với phần vốn góp vào công ty theo tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu của người góp vốn (người mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công ty. Có thể lý giải cụ thể rằng: thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối ứng giữa người góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi cũng khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tài sản ở chỗ khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản hay quyền hưởng dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một thứ quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu, quyền lợi công ty. Quyền lợi này có thể chuyển đổi thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức công ty và quy chế riêng có thể có. Quyền sở hữu công ty này là quyền sở hũu một phần
  • 18. 18 tài sản của công ty tương ứng với tỷ lệ góp vốn và số cổ phần mà người đó nắm giữ. Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi tài sản giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại quyền lợi từ công ty. Đặc biệt trong công ty cổ phần thì các cổ phần không phải là một vật xác định hay quyền lợi gắn với vật đó mà người sở hữu được thừa hưởng. Cổ phần thực chất chỉ là một tờ giấy nhưng nó ghi nhận quyền tài sản quan trọng ràng buộc giữa cổ đông và công ty, đó là quyền quản lý và quyền thu lợi từ lợi tức của công ty. Như vậy, cổ phần luôn luôn gắn với công ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất đi [14, tr. 27 – 28]. 1.1.2.3. Quyền góp vốn thành lập công ty Hiến pháp 2013 tuyên bố: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Điều 33). Với nguyên tắc hiến định này, có thể hiểu mọi người đều có quyền góp vốn thành lập công ty. Vì vậy việc hạn chế góp vốn thành lập công ty chỉ có thể được thực hiện theo những điều kiện nhất định. Hiến pháp 2013 qui định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo qui định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Điều 14, khoản 2). Quyền tự do kinh doanh được xếp vào các quyền con người và quyền cơ bản của công dân. Do vậy việc hạn chế nó phải tuân thủ các điều kiện hiến định. Luật Doanh nghiệp 2014 khẳng định: “Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này” (Điều 18, khoản 1). Điều này đã cụ thể hóa nguyên tắc hiến định về tự do kinh doanh. Tuy nhiên để bảo vệ cộng đồng trước những tác động tiêu cực của hành vi góp vốn thành lập công ty và bảo vệ chính các công ty trước sự lạm dụng, Luật Doanh nghiệp 2014 có những qui định hạn chế góp vốn thành lập công ty như sau:
  • 19. 19 “2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức; c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng. Trong trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. 3. Tổ chức, cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
  • 20. 20 4. Tổ chức, cá nhân sau đây không được mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này: a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; b) Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. 5. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình theo điểm a khoản 2 và điểm a khoản 4 Điều này là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần vào ít nhất một trong các mục đích sau đây: a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên của cơ quan, đơn vị; b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị” (Điều 18). Các qui định hạn chế này làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao gồm bảo đảm cạnh tranh lành mạnh; chống tham nhũng, chụp giật; và chống làm suy yếu hiệu lực của quản lý nhà nước. 1.1.3. Các hình thức góp vốn Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại các hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn – đó chính là tài sản, công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức góp vốn dường như phụ thuộc vào một qui chế pháp lý khác nhau xuất phát từ đối tượng của hành vi góp vốn. Khác với Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam, các Bộ luật Dân sự của các nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản.
  • 21. 21 Song theo quan niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm hai loại là vật và quyền. Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về mặt phạm vi. Hiện rất hiếm thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của các quốc gia. Thế nhưng tài sản là đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp 2005 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng không thể không có các thiếu sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra khỏi khuôn khổ của các qui định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam nơi đã đặt ra tiền đề cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt Nam “vật chất liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới quyền tài sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các vật quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất. Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không có tài sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể đem góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự thỏa thuận cụ thể trong các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có thể thuộc bất kể dạng nào: vật chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện các tài sản này phải là các tài sản có thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp vốn đó là một hành vi chuyển giao tài sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung có liên quan tới việc chuyển giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia các hình thức góp vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như góp vốn bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền. Góp vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền hưởng dụng, sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài việc góp vốn bằng tài sản, người ta còn góp vốn bằng công sức và bằng tri thức. Đây là hai hai khái niệm không hẳn nằm ngoài khái niệm tài sản. Các khái niệm này có sự giao thoa. Một người có thể không đưa tài sản cụ thể nào vào công ty với tính cách là góp vốn, mà người đó có thể thực hiện
  • 22. 22 một công việc nào đó mà công ty cần thiết trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc đóng góp những hiểu biết mà công ty không thể không cần đến trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc cung cấp một công việc và việc cung cấp một tri thức có qui chế pháp lý riêng biệt với việc cung cấp một tài sản cụ thể trong việc thành lập một công ty. Sau đây lần lượt nghiên cứu các hình thức góp vốn cụ thể. 1.1.3.1. Góp vốn bằng tiền Góp vốn bằng tiền là việc cá nhân hay tổ chức chuyển một khoán tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những giấy tờ có giá trị như ngân phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công ty, và đổi lại phần vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được thực hiện xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài khoản trung gian... Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của cả nền kinh tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn khoản tiền cam kết góp được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với công ty. Việc góp vốn hay trả nợ vốn có thể thực hiện bằng các phương thức thanh toán theo qui định của pháp luật hay sự thỏa thuận của các bên. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hay công ty hợp danh phương thức góp vốn bằng tiền mặt đòi hỏi phải đóng đủ rồi mới được thành lập công ty bởi các hình thức công ty này không được phát hành cổ phiếu. Với công ty cổ phần, phương thức góp vốn bằng tiền mặt không đòi hỏi những người tham gia đăng ký góp vốn phải đóng đủ ngay phần của mình trước khi công ty phải đăng ký kinh doanh mà chỉ cần đóng góp trước một phần bởi hình thức công ty này có phát hành cổ phần. Số cổ phần còn lại sẽ được mua nốt trong một khoảng thời gian nhất định sau khi công ty chính thức đi vào hoạt động. Về phương cách kiểm soát, pháp luật của nhiều nước, sau khi tiến hành góp vốn
  • 23. 23 theo phương thức này, các sáng lập viên phải có trách nhiệm gửi toàn bộ số tiền đó thu được vào một tài khoản ngân hàng phong tỏa hoặc gửi tại nơi ký thác. Luật Công ty 1990 cũng đã từng có quy định góp vốn phải gửi vào tài khoản phong tỏa. Hiện tại, việc chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa chỉ áp dụng đối với công ty cổ phần khi phát hành thêm cổ phần để tăng vốn điều lệ chứ không áp dụng cho trường hợp góp vốn thành lập công ty, vấn đề này phụ thuộc vào thỏa thuận của các cổ đông khi sáng lập công ty cổ phần. 1.1.3.2. Góp vốn bằng hiện vật Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng quyền sở hữu đối với vật mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích, hoặc động sản do bản chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp vốn thành lập công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp vốn thành lập công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân sự đáp ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là những vật con người có thể chiếm giữ được [17, tr. 31]. Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật đó để lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn công ty có được quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền đối với vật và giao vật cho công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu, người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán đảm bảo đối với người mua” (Điều 1843 - 3). Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải được xác định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp chất lượng của vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chất lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy định về chất lượng thì chất lượng của
  • 24. 24 vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán đối với người mua thì thành viên góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng bộ và đúng chủng loại, cung cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử dụng vật đó, đảm bảo quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh chấp. Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên sang công ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, phải cam kết thực hiện nghĩa vụ dân sự, vì theo quan điểm pháp lý dân sự thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản thường gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu phải chịu rủi ro xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên cam kết góp vốn mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên với công ty. Trong đó, nếu công ty chưa đăng ký kinh doanh thì quyền yêu cầu là quyền của các thành viên khác đối với thành viên cam kết góp vốn thực hiện nghĩa vụ của họ. Thời điểm này chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ thành viên sang công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức thừa nhận về mặt pháp lý tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tức là, việc công ty trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa là công ty phải có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ. Điều này cho thấy việc góp vốn bằng hiện vật không thể thực hiện được với công ty không có tư cách pháp nhân. Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp luật, của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản hiện vật từ thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác nhau. Vật được giao theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không có thỏa thuận về phương thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một lần, giao trực tiếp công ty. Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển đến địa điểm giao vật và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối với vật.
  • 25. 25 1.1.3.3. Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất Hiến pháp 2013 tại Điều 53 qui định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý rất khác so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Nhà nước ta đã tạo ra cho người sử dụng đất những quyền năng nhất định, trong đó có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động sản do bản chất. Thông thường có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn bằng hiện vật. Nhưng Nhà nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất với từng mảnh đất cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ pháp lý khác nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy phải xếp việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất thành một hình thức góp vốn riêng so với góp vốn bằng vật. Việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp; (iii) quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong thời hạn sử dụng đất. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê tại các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản xuất trong thời hạn thuê đất [26] Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi quyền sử dụng đất phải thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như một tài sản.
  • 26. 26 Quyền sử dụng đất mà các bên đem góp vốn phải được định giá, các bên có thể thỏa thuận định giá và cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp. Ở Việt Nam, quyền sử dụng đất là tài sản phải đăng ký do vậy sau khi thỏa thuận góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì đến thời điểm góp vốn bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải chuyển quyền sử dụng đất cho công ty và công ty là chủ thể đăng ký để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Kể từ thời điểm công ty hoàn thành việc đăng ký quyền sử dụng đất thì việc chuyển quyền sử dụng đất cho công ty được hoàn thành. [26]. Từ những phân tích trên cho thấy ở nước ta, với việc chỉ có một hình thức sở hữu về đất đai là sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý và không công nhận sở hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sử dụng đất được đưa ra như một tài sản đặc thù và việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất với tư cách là một bất động sản vô hình cũng có những đặc thù riêng. 1.1.3.4. Góp vốn bằng quyền hưởng dụng Góp vốn bằng quyền hưởng dụng là một hình thức góp vốn bằng quyền. Góp vốn bằng quyền có phần phức tạp hơn so với góp vốn bằng tiền và góp vốn bằng hiện vật, không chỉ vì sự tính toán giá trị của nó, mà còn vì sự phân loại nó. Trước hết, việc phân loại tài sản thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình dẫn đến phân chia việc góp vốn bằng tài sản thành góp vốn bằng hiện vật và góp vốn bằng quyền, hay nói cách khác, góp vốn bằng tài sản hữu hình và góp vốn bằng tài sản vô hình, ngoài việc góp vốn bằng tiền. Việc phân chia cách góp vốn như vậy làm nảy sinh ra vấn đề cần lưu ý. Như trên đã khẳng định, góp vốn bằng vật có thực là việc chuyển quyền sở hữu vật cho công ty mà trong khi quyền sở hữu được xem như một vật quyền. Do đó, phân biệt thế nào giữa góp vốn bằng quyền sở hữu và góp vốn bằng các quyền khác mà trong đó có cả các vật quyền ngoài quyền sở hữu? [22, tr. 119]. Quyền sở hữu là quyền thống trị đối với vật nên để công ty có quyền thống trị hoàn toàn với vật đó thì việc chuyển nhượng quyển sở hữu đó là điều kiện bắt buộc. Do tính chất thống trị của quyển sở hữu đối với vật, nên
  • 27. 27 người ta tách góp vốn bằng việc chuyển nhượng quyền sở hữu (một vật quyền) ra khỏi việc góp vốn bằng các quyền khác, kể cả quyển sở hữu trí tuệ để có thể thiết lập được các quy chế pháp lý thích hợp với từng loại. Góp vốn bằng quyền lại có thể được phân chia thành góp vốn bằng quyền hưởng dụng, quyền sở hữu trí tuệ và góp vốn bằng sản nghiệp thương mại. Nếu phân biệt quyền sở hữu đối với vật thành ba quyền gồm: quyền sử dụng (usus), quyền thu lợi (fructus) và quyền định đoạt (abusus), thì quyền hưởng dụng ở đây chỉ bao gồm hai thành tố là: quyền sử dụng và quyền thu lợi để được gọi là usufruct. Vì vậy người ta thường tách góp vốn bằng quyền hưởng dụng đối với vật ra khỏi việc góp vốn bằng vật, bởi người góp vốn vào công ty chỉ cho công ty được sử dụng vật và thu lợi từ đó. Công ty không có quyền quyết định số phận của vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được các quyền lợi tương ứng trong công ty. Từ đó có thể thấy việc góp vốn bằng quyền hưởng dụng có những đặc điểm giống với việc cho thuê tài sản. Chẳng hạn, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Nếu góp vốn bằng quyền hưởng dụng, người góp vốn phải đảm bảo với công ty như người cho thuê đối với người thuê. Tuy nhiên, nếu vật để hưởng dụng là vật cùng loại hoặc vật được thay thế trong thời gian hoạt động của công ty, thì người góp vốn chuyển cho công ty quyền sở hữu vật với điều kiện được trả lại đúng số lượng, chất lượng và giá trị tương đương. Trong trường hợp này, người góp vốn phải đảm bảo những điều kiện quy định tại đoạn trước” [Điều 1843 – 3, đoạn 4]. Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ 1931, Bộ luật chịu ảnh hưởng từ Bộ luật dân sự Pháp quy định người góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải thực hiện những nghĩa vụ của người cho thuê tài sản (Điều thứ 1207, đoạn 2). Với tinh thần này, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật tại Điều thứ 1439, đoạn hai cũng có quy định tương tự. Điều 127, Bộ luật Dân sự 1972 của chính quyền Sài Gòn (cũ) cũng quy định như vậy. Điều đó có nghĩa là người góp vốn bằng quyền hưởng
  • 28. 28 dụng phải bảo đảm cho công ty được hưởng dụng yên ổn. Trừ khi có thoả thuận khác, người góp vốn phải bảo dưỡng, sửa chữa tài sản để tài sản luôn luôn ở trong tình trạng có thể sử dụng được như mục đích đề ra khi cam kết góp vốn. Cần xác định rằng, người góp vốn vẫn giữ quyền sở hữu đối với vật và gánh chịu rủi ro. Khác với việc góp vốn bằng hiện vật, việc góp vốn bằng quyền hưởng dụng có hệ quả là khi công ty giải thể, thì người góp vốn được nhận lại vật đó trước khi phân chia tài sản của công ty, bởi người này không chuyển giao quyền định đoạt đối với vật cho công ty. Bản chất của quyền hưởng dụng là tài sản vô hình. Tuy nhiên việc xem nó là động sản vô hình hay bất động sản vô hình phụ thuộc vào tài sản là đối tượng của nó là động sản hay bất động sản. Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam tại Điều 175 gọi hai loại hoa lợi trên là “hoa lợi” và “lợi tức”. Cách gọi như vậy gây khó khăn cho trường hợp gọi chung cho cả hai loại này và không cho thấy bản chất thật hay gốc gác pháp lý của hai loại này. Người góp vốn bằng quyền hưởng dụng chuyển giao quyền hưởng dụng đối với vật cho công ty và giữ lại quyền định đoạt đối với vật. Để đổi lại việc cho công ty hưởng dụng vật, người góp vốn nhận được các quyền lợi tương ứng trong công ty [18, tr. 31]. Tài sản góp vốn là quyền hưởng dụng thì phần vốn góp chính là giá trị được tính bằng quyền hưởng dụng đối với tài sản. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải giao tài sản cho công ty đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng và đúng thời điểm, địa điểm thỏa thuận và cung cấp những thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm tài sản trong tình trạng như đã thỏa thuận, phù hợp với mục đích sử dụng trong suốt thời gian góp vốn. Thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng phải bảo đảm quyền sử dụng tài sản ổn định cho bên thuê. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với tài sản mà công ty không được sử dụng tài sản ổn định thì công ty có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
  • 29. 29 Trong trường hợp thành viên góp vốn bằng quyền hưởng dụng chậm giao tài sản thì công ty có thể gia hạn giao tài sản và yêu cầu bối thường thiệt hại nếu có. Nếu tài sản thuê không đúng chất lượng như thỏa thuận thì công ty có quyền yêu cầu bên cho thuê sửa chữa và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Như vậy, góp vốn bằng quyền hưởng dụng là việc cá nhân hay tổ chức chuyển quyền hưởng dụng tài sản của mình cho công ty để được hưởng các quyền lợi đối với công ty, trong đó thành viên đem góp vốn vẫn là người chủ sở hữu tài sản và công ty có quyền thu hoa lợi từ tài sản đó [18, tr. 32]. 1.1.3.5. Góp vốn bằng sản nghiệp thương mại Sản nghiệp có thể được xem xét dưới các giác độ khác nhau. Nếu xem xét dưới khía cạnh giá trị, sản nghiệp được hiểu là một tổng thể các quan hệ pháp luật về tài sản, là tập hợp các tài sản có và tài sản nợ của một chủ thể chứ không đơn thuần là một bộ sưu tập đồ vật. Bất kỳ yếu tố nào của tài sản nợ cũng được đảm bảo bằng toàn bộ tài sản có và ngược lại bất kỳ yếu tố nào của tài sản có cũng có thể được dùng để thanh toán toàn bộ tài sản nợ [24, tr. 191]. Tài sản thuộc sản nghiệp là tập hợp tất cả những tài sản thuộc về chủ sở hữu, hay đúng hơn đó là tập hợp tất cả những quyền tài sản có cùng một chủ thể. Tuy nhiên, các quyền tài sản chỉ được xem là các yếu tố của một sản nghiệp khi các quyền đó có thể được định giá bằng tiền. Do đó, các quyền không định giá được bằng tiền được gọi là các quyền không có tính chất tài sản hay là quyền nhân thân (ví dụ như quyền đối với tên họ; quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm; quyền bầu cử; quyền khiếu nại, tố cáo…). Các quyền tài sản tạo thành một tập hợp sản nghiệp và tập hợp này tồn tại độc lập với các quyền tài sản đó. Tài sản có thể được mua bán, sử dụng, hao mòn, thậm chí biến mất nhưng sản nghiệp vẫn được duy trì. Do đó, một chủ nợ không có bảo đảm chỉ có quyền yêu cầu kê biên và bán đấu giá bất kỳ một tài sản nào của người mắc nợ ở thời điểm kê biên mà sẽ không có quyền này đối với những tài sản đã chuyển nhượng trước khi nợ đến hạn đòi. Mặt
  • 30. 30 khác, cần chú ý rằng sản nghiệp không chỉ là tài sản hiện có mà còn bao gồm cả những tài sản sẽ có của chủ sở hữu. Tài sản nợ thuộc về sản nghiệp là tất cả những nghĩa vụ tài sản của một người, hay nói một cách đơn giản hơn đó là những gì còn lại của khối tài sản sau khi đã trừ đi các giá trị của các nghĩa vụ tài sản. Trong kinh tế học, có khái niệm tài sản có ròng (actif net) của sản nghiệp. Khi các tài sản có ròng có giá trị dương, ta nói sản nghiệp có khả năng thanh toán; và ngược lại, nếu đó là một giá trị âm, đồng nghĩa với việc sản nghiệp không có khả năng thanh toán những nghĩa vụ có liên quan. Mặc dù vậy, dù có khả năng thanh toán hay không, sản nghiệp luôn luôn tồn tại. Xét trên các hình thức biểu hiện, người ta sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ sản nghiệp thương mại như “cửa hàng thương mại”, “cơ sở kinh doanh”. Sản nghiệp thương mại không phải là bản thân doanh nghiệp mà chỉ là một trong các nhân tố của doanh nghiệp. Sản nghiệp thương mại bao gồm cả những yếu tố hữu hình (như hàng hóa, máy móc, xe cộ, các vật dụng khác) và cả những yếu tố vô hình (như mạng lưới khách hàng, mạng lưới cung cấp ứng dụng dịch vụ, quyền thuê mượn tài sản, tên thương mại, thương danh, biển hiệu, bằng sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, mẫu mã …). Các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại bao gồm: Mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ là kết quả của những nỗ lực phát huy tài năng và sự khéo léo của thương nhân nhằm thu hút khách hàng để tiêu thụ hàng hóa mà mình sản xuất. Sự phát triển của mạng lưới tiêu thụ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ lệ thuộc rất nhiều vào yếu tố khách quan (tình hình kinh tế xã hội của quốc gia và khu vực; thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng, thời điểm kinh doanh, tốc độ đô thị hóa, điều kiện tự nhiên, môi trường ...) cũng như yếu tố chủ quan (sự nhạy bén và linh hoạt của chính sách tiếp thị, uy tín của thương hiệu, ý chí của bạn hàng …). Tên thương mại – là danh hiệu dùng trong giao dịch của thương nhân. Tên thương mại là một yếu tổ của sản nghiệp thương mại và có thể chuyển
  • 31. 31 nhượng. Ở các nước có nền kinh tế thương mại phát triển, có một số tên thương mại được định giá cao. Ví dụ như Cocacola, Toyota, Google… Biển hiệu là dấu hiệu gắn liền với cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm giúp phân biệt cơ sở này với cơ sở khác. Cũng như tên thương mại, biển hiệu chỉ có thể là đối tượng của quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ khi thương nhân được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ mới dự liệu các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu biển hiệu trong tập quán và trong các quy phạm địa phương trong khi nhu cầu này trên thực tế của dân sự là rất lớn, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cũng như chính sách chống cạnh tranh không lành mạnh đã được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam thời gian gần đây [22, tr. 219]. Như vậy, sản nghiệp thương mại không đơn thuần chỉ bao gồm các tài sản là vật có thực mà nó còn là những tài sản vô hình của doanh nghiệp. Vì vậy, người ta không thể coi việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại như là góp vốn bằng vật. Đồng thời, sản nghiệp thương mại mặc dù các yếu tố của quyền sử hữu trí tuệ nhưng nó lại bao gồm cả các tài vật. Chình vì vậy, người ta thường tách việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại thành một mục riêng khác với việc góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ. Việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại gần giống với việc bán sản nghiệp thương mại và phải được các bên thỏa thuận bằng văn bản liệt kê rõ từng mục. Điều đó có nghĩa là việc bán sản nghiệp thương mại là việc chuyển nhượng tổng thể các yếu tố của sản nghiệp thương mại cho người khác mà trong đó nhất thiết phải có yếu tố khách hàng, bởi khách hàng là thành tố chính của một sản nghiệp thương mại. Tuy nhiên, bởi nhiều yếu tố khác nhau cả vô hình và hữu hình mà có thể tách ra một cách độc lập, nên việc không liệt kê yếu tố nào vào văn bản hợp đồng, thì yếu tố ấy coi như không bị bán. Ngoài ra việc góp vốn bằng sản nghiệp thương mại còn lệ thuộc vào các quy tắc bán sản nghiệp thương mại được quy định trong luật thương mại. 1.1.3.6. Góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ
  • 32. 32 Luật Doanh nghiệp 2014 có qui định rành mạch về góp vốn bằng quyền sở hữu trí tuệ rằng: “Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35, khoản 2). Theo Luật sở hữu trí tuệ thì quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Những hình thức sở hữu trí tuệ chủ yếu là bằng sáng chế, quyền tác giả (bản quyền), nhãn hiệu và bí mật thương mại. Quyền tác giả hay bản quyền là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng. Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, kiến trúc, các tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị. Các chương trình máy tính và bản ghi âm, ghi hình cũng được bảo hộ bằng quyền tác giả. Chỉ tác giả hay những người được tác giả trao quyền – chẳng hạn như nhà xuất bản – mới có toàn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có giới hạn. Ví dụ như người ta có thể sao chép một tác phẩm với mục đích học tập, phê bình, đưa tin hay giảng dạy. Sáng chế là đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, người có sáng chế hay người đã tạo ra một phát minh được cấp bằng sáng chế. Bằng sáng chế có thể coi là một hợp đồng giữa một bên là toàn thể xã hội và một bên là cá nhân nhà phát minh. Theo các điều khoản của hợp đồng này, nhà phát minh được toàn quyền ngăn chặn người khác không được áp dụng, sử dụng và bán một phát minh đã được cấp bằng sáng chế trong một khoảng thời gian nhất định – hầu hết các nước quy định là 20 năm – để đổi lại việc nhà phát minh phải công bố chi tiết phát minh của mình cho công chúng.
  • 33. 33 Bí mật thương mại bao gồm bất cứ thông tin nào có thể được sử dụng trong việc điều hành doanh nghiệp và có giá trị lớn trong việc tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai hay trong thực tại đều được coi là bí mật thương mại. Ví dụ về bí mật thương mại có thể là công thức sản xuất ra các sản phẩm, chẳng hạn như công thức sản xuất Coca-Cola; việc thu thập thông tin nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một doanh nghiệp, chẳng hạn như cơ sở dữ liệu về danh sách khách hàng; bí mật thương mại thậm chí gồm cả chiến lược quảng cáo và quy trình phân phối. Khác với bằng sáng chế, bí mật thương mại về lý thuyết được bảo vệ vô thời hạn và không cần thủ tục đăng ký gì. Tuy nhiên, bí mật thương mại thường dễ bị lộ và việc bảo vệ bí mật thương mại đòi hỏi chính bản thân chủ thể phải có các biện pháp bảo vệ bí mật. Nhãn hiệu hàng hóa là chỉ số chỉ dẫn thương mại, là dấu hiệu phân biệt để xác định một loại hàng hóa hay dịch vụ do một cá nhân hay công ty cụ thể sản xuất hoặc cung cấp. Nhãn hiệu đặc biệt quan trọng khi người sản xuất và tiêu dùng ở cách xa nhau. Ở hầu hết các nước trên thế giới, nhãn hiệu cần phải được đăng ký thì mới có thể bảo hộ được và việc đăng ký cần phải được gia hạn. Thế nhưng trong khi bản quyền và bằng sáng chế tự hết hạn thì tên của công ty phục vụ khách hàng tốt sẽ ngày càng trở nên có giá, nghĩa là việc bảo hộ nhãn hiệu là không thời hạn [29, 42]. Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu trí tuệ đa dạng khác như chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng mỹ thuật hay kiểu trang trí của các vật dụng cũng được bảo hộ theo nhiều cách khác nhau. Nhiều kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ như đối với sáng chế về kiểu dáng. Và quyền sở hữu trí tuệ còn có những loại hình đặc biệt là các giống cây trồng mới, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, tên miền trên internet ... Như vậy, quyền sở hữu trí tuệ là một tài sản vô hình tuyệt đối bao gồm: quyền sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả, bằng sáng chế, bí mật thương mại, nhãn hiệu hàng hóa và các loại sở hữu trí tuệ khác như: chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiệp, tên miền internet, phần góp vốn trong công ty có tư cách pháp nhân và một số yếu tố của sản nghiệp thương mại không thể nhận
  • 34. 34 biết được bằng giác quan mà phải thông qua những ý niệm về những mối quan hệ pháp luật gữia người có quyền khai thác lợi ích của tài sản và người thứ ba. Thông qua việc khai thác những loại tài sản vô hình này, người ta có thể thu về những lợi ích vật chất nhất định khi sử dụng chúng. Do sở hữu trí tuệ cũng có nhiều đặc tính của sở hữu cá nhân và sở hữu tài sản thực sự nên những quyền lợi gắn liền với sở hữu trí tuệ cho phép chúng ta có thể mua, bán, cấp phép hay thậm chí là cho không sở hữu trí tuệ của chúng ta như tài sản thông thường và việc góp vốn thành lập công ty bằng quyền sở hữu trí tuệ cũng giống như việc góp vốn bằng những tài sản khác. Luật về sở hữu trí tuệ cho phép chủ sở hữu, người phát minh và tác giả bảo vệ tài sản của mình trước việc sử dụng trái phép. Việc góp vốn bằng các tài sản này buộc người góp vốn phải bảo đảm cho công ty khai thác tái sản để đem lại các lợi ích phát sinh từ đó. Ngược lại người góp vốn có quyền lợi tương ứng trong công ty. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, do tài sản trí tuệ có yếu tố rất động và vô hình, nên việc góp vốn phụ thuộc rất nhiều vào sự thỏa thuận của các thành viên và bị điều tiết bởi pháp luật về sở hữu trí tuệ [22, tr. 182 - 183]. 1.1.3.7. Góp vốn bằng tri thức Trong nền kinh tế tri thức, người ta thường nhắc đến các yếu tố lớn nhất đang làm biến đổi các nước trên thế giới. Đó là chủ nghĩa tư bản tài chính (finance capitalism), chủ nghĩa tư bản tri thức (knowlege capitalism) và chủ nghĩa tư bản xã hội (social capitalism) mà tại đó chủ nghĩa tư bản được hiểu là một cuộc vận động làm phát sinh ra các ý tưởng mới và đưa chúng vào các sản phẩm và dịch vụ trong lĩnh vực thương mại. Vậy góp vốn bằng tri thức là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp, hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức. Ngày nay người ta thường nhấn mạnh tài sản trí tuệ hay sở hữu trí tuệ. Chúng được xem là một bộ phận quan trọng của tri thức. Điều đó có nghĩa là khái niệm tài sản và khái niệm tri thức có sự giao thoa, nhưng không trùng
  • 35. 35 khít với nhau. Nếu định nghĩa tri thức trên phương diện hành vi có thể quan sát được, thì tri thức là khả năng của một cá nhân hay của một nhóm thực hiện, hoặc chỉ dẫn, xui khiến những người khác thực hiện các quy trình nhằm tạo ra các sự chuyển hóa có thể dự báo được của các vật liệu. Tri thức có thể được điển chế hóa và có thể sao chép hoặc có thể ở dạng ẩn không thể sao chép khi ở trong đầu của các cá nhân hoặc các chu trình hoạt động của các doanh nghiệp. Những tri thức ẩn không thể điển chế hóa được, nên khó có thể mua và bán. Chúng khác với bốn loại tài sản trí tuệ là nhãn hiệu thương mại, giấy chứng nhận sáng chế, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp đã đăng ký mà được xem là tài sản vì có thể trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Tri thức ẩn được biểu hiện ở vốn nhân lực và tổ chức, nên mang đến cách thức góp vốn khác với cách thức góp vốn bằng tài sản. Khi nghiên cứu về kinh tế tri thức, người ta nhận định: khả năng tri thức “ngầm” quan trọng nhất có lẽ là khả năng học hỏi liên tục và đạt tới những kỹ năng mới. Do đó, góp vốn bằng tri thức, cụ thể như tri thức ẩn, là góp vốn bằng chính khả năng như nghiên cứu thị trường, tổ chức sản xuất, kinh doanh, các phản ứng nhạy bén với thị trường... [22, tr. 184 - 186]. Có thể lấy một ví dụ thực tế cho việc góp vốn bằng tri thức là một Thầy giáo giỏi có uy tín tham gia thành lập trường tư cùng với các thành viên khác. Thầy giáo hoàn toàn có quyền cam kết sẽ làm việc cho trường trong một thời gian. Trong thời gian đó, danh tiếng và tri thức của thầy này sẽ làm lợi cho trường rất nhiều, có thể nói là có ý nghĩa quyết định với việc trường tư này có thể tồn tại được hay không. Do đó, việc thầy giáo này được nhận lại một phần quyền trong trường dưới dạng vốn góp là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, khi đã gắn danh tiếng của mình với trường đó, thầy này cũng có nhu cầu tham gia quản lý nhà trường đó để có thể đảm bảo trường sẽ hoạt động một cách quy củ và danh tiếng của mình gắn với trường đó sẽ không bị tổn hại. Tóm lại, việc
  • 36. 36 góp vốn bằng tri thức và danh tiếng chính là giải pháp hợp lý nhất để ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên, ở đây là giữa thầy giáo và nhà trường. Như vậy, vấn đề quan trọng đặt ra với hình thức góp vốn này là người góp vốn bằng tri thức phải đảm bảo việc mang tri thức của mình ra phục vụ một cách mẫn cán và trung thực cho lợi ích công ty, có nghĩa là người đó phải thực hiện một nghĩa vụ mẫn cán và trung thực cho trái chủ là công ty do chính người đó cam kết lập ra. Tuy nhiên, việc góp vốn bằng tri thức – một khả năng trừu tượng, sẽ mang lại khó khăn trên nhiều phương diện như: tính giá trị phần vốn góp để chia sẻ quyền lợi trong công ty; chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ của người góp vốn. Những khó khăn này lệ thuộc hoàn toàn vào sự đánh giá và thỏa thuận các các thành viên công ty. Tại đây cần nhấn mạnh, tri thức khi được góp vốn hoàn toàn không biến khỏi các thành viên góp nó, có nghĩa là nó chỉ tồn tại nơi các thành viên và càng được sử dụng thì càng được củng cố và phát triển. Vậy việc bảo đảm cho sự độc quyền sử dụng tri thức đó của công ty là một vấn đề lớn cần tới sự trung thực của người góp vốn. Sự tin tưởng lẫn nhau, hợp tác với nhau là một yêu cầu có tính thiết yếu trong nền kinh tế hậu công nghiệp và kinh tế tri thức hiện nay. Vì vậy, mặc dù chưa nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn, nhưng ý tưởng người có chuyên môn và người có tài sản cùng nhau góp vốn làm ăn dưới hình thức công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam là đã hướng tới một phần nào quan niệm này. 1.1.3.8. Góp vốn bằng công sức Như trên đã nghiên cứu, thỏa thuận trong các hợp đồng góp vốn thành lập công ty là một căn cứ làm phát sinh ra nghĩa vụ của các thành viên công ty. Và đối tượng của nghĩa vụ bao gồm: chuyển giao quyền sở hữu, làm hoặc không làm một công việc nào đó. Vì vậy, cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có thể trị giá được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp vốn. Vì vậy cam kết thực hiện những hành vi cụ thể có có thể có giá trị được bằng tiền theo quan niệm của luật nghĩa vụ cũng được xem là góp
  • 37. 37 vốn. Có quan niệm cho rằng, góp vốn bằng công lao hay việc làm phải là góp vốn bằng một công việc điều khiển, chỉ huy mà không phải công việc của người thừa hành, vì công ty có nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên. Tuy nhiên, có thể nhận thấy là công sức lao động không có gì đặc biệt sẽ khó có thể được đóng góp vào công ty để người góp vốn trở thành một trong những ông chủ của nó, vì công ty dễ dàng mua được công sức lao động như vậy với giá hợp lý mà không phải trả thêm lãi và chia sẻ quyền lực quản lý của thành viên khác trong công ty. Nhưng tại đây có hai trường hợp cần lưu ý: một là, công sức được bỏ ra có thành tố tri thức hoặc kinh nghiệm; hai là, người góp vốn bằng công sức được tin tưởng hơn những người khác khi công ty dự định thành lập là một công ty đối nhân. Trường hợp thứ nhất có thể nhầm lẫn với góp vốn bằng tri thức. Tuy nhiên, nếu thành tố tri thức ít hơn so với lao công, thì có thể nói, việc góp vốn đó là góp vốn bằng công việc. Đối với trường hợp này, công ty đối vốn có thể cũng cần, chẳng hạn người lái xe giỏi, thông thạo được ở nhiều thành phố góp vốn bằng khả năng này của mình. Trường hợp thứ hai tùy thuộc hoàn toàn vào sự lựa chọn của các thành viên [24, tr. 71]. Thừa nhận việc góp vốn bằng công sức là hướng tới yếu tố hiệu quả của việc góp vốn, đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí, và bảo đảm cho công sức lao động xã hội. Cũng giống với góp vốn bằng tri thức, việc góp vốn bằng lao công khiến cho người góp vốn bị ràng buộc nghĩa vụ mẫn cán và trung thực. Do đó, nó cũng có hậu quả tương tự với góp vốn bằng tri thức. Bộ luật Dân sự Pháp qui định: Phần góp vốn bằng công sức lao động không được tính vào vốn của công ty (không trị giá được bằng tiền), nhưng người góp vốn bằng công lao động được nhận cổ phần của công ty, có quyền chia lãi và tài sản có, đồng thời cũng phải chịu lỗ. Như vậy, phần vốn góp bằng công sức nếu có được định giá thì cũng không được tính vào vốn điều lệ của công ty. Tuy nhiên, người góp vốn bằng công sức vẫn được hưởng quyền lợi tương ứng với giá trị được định giá của công sức.
  • 38. 38 1.1.4. Định giá tài sản góp vốn Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp. Vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 qui định: “1. Tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá và được thể hiện thành Đồng tiền Việt Nam. 2. Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được đa số các thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Trường hợp tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá; đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế. 3. Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thoả thuận định giá hoặc do một tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp thuận. Trường hợp nếu tài sản góp vốn được định giá cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn, chủ sở hữu, thành viên hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, thành viên hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá trị được định và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời
  • 39. 39 điểm kết thúc định giá; đồng thời, liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do việc cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế” (Điều 37). Các quy định này cho thấy đối tượng là tài sản của hành vi góp vốn vào công ty phải được định giá, nếu các tài sản đó không phải là tiền. Trên cơ sở đinh giá như vậy, vốn điều lệ của công ty mới được xác định rõ ràng, quyền lợi của các bên được bảo đảm đúng mức. Định giá tài sản vào thời điểm góp vốn thành lập công ty. Theo đó, khi xuất hiện đối tượng tài sản cần phải được định giá, tất cả thành viên sáng lập cùng nhau bàn bạc, thống nhất để quyết định giá trị tài sản. Trong thực tế hoạt động định giá tài sản góp vốn, để tìm được sự nhất trí cho việc xác định giá trị tài sản không hề đơn giản. Do đó, việc định giá tài sản cần có sự hợp tác cao giữa những người có thẩm quyền định giá để đi đến một mức giá cụ thể, phản ánh xác thực về hiện trạng tài sản mà nhà đầu tư thấy rõ là hợp lý, đảm bảo không gây ra tranh chấp. Nguyên tắc định giá tài sản góp vốn mà Luật doanh nghiệp đề ra suy cho cùng cũng là trên cơ sở bảo đảm quyền lợi cho nhà đầu tư, cho công ty tiếp nhận vốn và cả bên thứ ba. Tất cả thành viên là người định giá tài sản là vốn góp. Một tổ chức định giá chuyên nghiệp có thể có thẩm quyền định giá theo yêu cầu của các viên. Quy định trên đã xác định việc định giá tài sản góp vốn ở hai thời điểm thành lập công ty và khi công ty đang hoạt động chỉ khác nhau ở thẩm quyền định giá còn trách nhiệm và chu trình định giá là hoàn toàn giống nhau. Những người có thẩm quyền có thể sẽ trực tiếp tiến hành hoặc thuê những công ty kiểm toán hay các tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản. Nếu những người có thẩm quyền trực tiếp định giá tài sản góp vốn thì họ phải thành lập Hội đồng định giá. Và tùy thuộc vào thời điểm tài sản được đem góp vào công ty, thành phần Hội đồng định giá sẽ khác nhau.
  • 40. 40 Trong quá trình hoạt động, Hội đồng định giá được áp dụng cho ba loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiệm, công ty hợp danh lần lượt là Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên và tất cả các thành viên hợp danh. Quyết định giá trị tài sản góp vốn sẽ được Hội đồng quản trị công ty cổ phần, Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn, tất cả các thành viên hợp danh công ty hợp danh bàn bạc trong cuộc họp. Và việc định giá tài sản để tiếp nhận thành viên đồng nghĩa với sửa đổi Điều lệ chỉ được thông qua khi đáp ứng được tỉ lệ luật định. Luật cũng quy định công ty có thể thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp để định giá tài sản góp vốn. Quy định của Luật doanh nghiệp về thẩm quyền định giá đã tạo điều kiện thuận lợi cho công ty định giá tài sản góp vốn. Đối với trường hợp công ty tự tiến hành định giá tài sản góp vốn, tất cả thành viên liên đới chịu trách nhiệm về giá trị tài sản. Họ phải cùng thỏa thuận để định đoạt giá trị của tài sản góp vốn. Khi xảy ra việc tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn, theo quy định của luật doanh nghiệp, cả người góp vốn và người định giá phải góp đủ số vốn như đã được định giá. Đây là một quy định cần được xem xét trên cả hai phương diện: một là các bên đã không ý thức được giá trị thực của tài sản, hai là các bên đã cố tình định giá cao hơn giá trị thực tế. Tuy nhiên, dù ở trường hợp nào, khi gây thiệt hại cho người khác thì vẫn phải đặt ra trách nhiệm bồi thường. Song luật doanh nghiệp chưa xác định rõ tỉ lệ trách nhiệm giữa bên góp vốn và người định giá trong vấn đề này, vì điều đó mà tranh chấp có thể xảy ra. Trường hợp công ty thuê tổ chức kinh tế có chức năng định giá tài sản thì trách nhiệm được nói đến ở đây thuộc về bên được thuê định giá tài sản. Quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được xác định trong hợp đồng. Tổ chức được thuê định giá tài sản sẽ phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định tài sản trước khách hàng của mình.
  • 41. 41 Quyền lợi của nhà đầu tư gắn liền với giá trị phần góp vốn, do đó định giá tài sản chính xác, sát với giá trị thực tế sẽ bảo vệ tối đa quyền lợi của nhà đầu tư, tạo tâm lý an tâm khi đầu tư kinh doanh. 1.1.5. Xử lý vi phạm nghĩa vụ góp vốn Như đã phân tích, một trong những nghĩa vụ căn bản của thành viên công ty là nghĩa vụ góp vốn. Điều đó có nghĩa là khi đã cam kết góp vốn thành lập công ty, thành viên đã tự ràng buộc mình trở thành thụ trái hay con nợ của công ty. Cần nhấn mạnh rằng các phần vốn góp của các thành viên đều trở thành sản nghiệp của công ty do chính họ tạo dựng nên. Vì vậy, công ty – một pháp nhân riêng biệt – là trái chủ của chính những người chủ của mình. Việc góp vốn bằng tiền, nếu thành viên góp vốn không góp đúng hạn thì sẽ trở thành con nợ đối với công ty. Công ty có quyền đòi nợ với thành viên đã vi phạm nghĩa vụ góp vốn và yêu cầu trả lãi số tiền đó kể từ ngày phải đóng góp và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có. Việc góp vốn bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền đối với vật và giao cho công ty sử dụng. Người góp vốn phải đảm bảo đối với công ty như người bán bảo đảm đối với người mua. Nghĩa là việc góp vốn bằng hiện vật giống như việc bán tài sản cho công ty để đổi lấy quyền lợi từ công ty. Vậy nếu người bán vi phạm nghĩa vụ góp vốn thì sẽ bị xử lý giống như người bán vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán vật. Cụ thể: Trường hợp người góp vốn giao vật ít hơn số lượng đã thỏa thuận thì công ty có quyền nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường thiệt hại (nếu có) đối với phần chưa giao đúng số lượng hoặc định thời gian để người góp vốn giao tiếp phần còn thiếu, nếu người góp vốn không giao được tiếp số lượng vật còn thiếu thì công ty có quyền xác định lại giá trị vốn góp của người đó và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có [22, tr. 189]. Trong trường hợp góp vốn giao vật không đồng bộ làm cho mục đích sử dụng của vật không đạt được hiệu quả thì công ty có quyền nhận vật và