SlideShare a Scribd company logo
1 of 86
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG DUY
NGHÜA Vô CñA NG¦êI QU¶N Lý C¤NG TY
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HOÀNG DUY
NGHÜA Vô CñA NG¦êI QU¶N Lý C¤NG TY
THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận
văn đảm bảo tính chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi,
cũng như độ tin cậy và trung thực. Luận văn này không nhất thiết
phản ánh quản điểm của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2015
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Duy
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Ngô Huy Cương, các
thầy cô giảng viên và cán bộ tại Bộ môn Luật Kinh doanh, Phòng
quản lý Đào tạo và Nghiên cứu Khoa học, Phòng Hành chính tổng
hợp, bộ phận thư viện cũng như các phòng ban khác trong Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng
dẫn và hỗ trợ để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hoàng Duy
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI
QUẢN LÝ CÔNG TY....................................................................... 5
1.1. Quan niệm về nghĩa vụ ..................................................................... 5
1.2. Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty....................... 8
1.2.1. Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty ..................... 8
1.2.2. Mô hình quản trị công ty...................................................................10
1.2.3. Khái niệm người quản lý công ty......................................................13
1.2.4. Khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty ................................20
1.3. Kinh nghiệm pháp lý của một số nƣớc về nghĩa vụ của ngƣời
quản lý công ty và gợi mở cho Việt Nam ......................................26
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...........................................................47
2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của
ngƣời quản lý công ty.......................................................................47
2.2. Một số đánh giá về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty theo
pháp luật Việt Nam .........................................................................60
2.2.1. Một số đánh giá về quy định pháp luật .............................................60
2.2.2. Vấn đề tồn tại trong ý thức pháp luật................................................62
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NGHĨA
VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM...........................................................................67
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về
nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty...............................................67
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ
của ngƣời quản lý công ty...............................................................72
KẾT LUẬN....................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự
CTCP: Công ty cổ phần
ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông
HĐQT: Hội đồng quản trị
HĐTV: Hội đồng thành viên
LDN: Luật Doanh nghiệp
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định cơ bản của pháp
luật về công ty hướng tới việc bảo đảm quản trị tốt công ty. Mặc dù nghĩa vụ
của người quản lý công ty có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn quản trị
công ty và trong pháp luật điều tiết các hoạt động của công ty. Song ở nước ta
cho đến nay, chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về
chế định này. Các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của người quản lý
công ty mới chỉ được giới thiệu sơ lược trong các giáo trình giảng dạy tại các
cơ sở đào tạo luật, cũng như trong một số ít ỏi các công trình nghiên cứu về
công ty hay doanh nghiệp. Do đó các qui định pháp luật về nghĩa vụ của
người quản lý công ty trong các đạo luật về doanh nghiệp được ban hành
trong nhiều năm qua kể từ khi “đổi mới” chưa hoàn toàn có tác dụng trong
thực tiễn kinh doanh và thiếu ý nghĩa pháp lý.
Xét từ thực tiễn, việc áp dụng các qui định về nghĩa vụ của người quản
lý công ty ở nước ta trong thời gian vừa qua rất hiếm khi và còn nhiều hạn
chế. Do đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, sự thúc bách của việc xây dựng một
môi trường kinh doanh lành mạnh hướng tới hội nhập và cạnh tranh quốc tế,
trên cơ sở tiếp thu phần nào đấy của kinh nghiệm nước ngoài, Luật Doanh
nghiệp năm 2014 đã có bước cải cách nhất định so với Luật Doanh nghiệp
năm 2005 liên quan tới nghĩa vụ của người quản lý công ty. Chế định này đã
được quan tâm hơn, dành nhiều dung lượng trong khuôn khổ một đạo luật
chung về doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn có thể thấy ở đó nhiều khiếm khuyết
và khó có thể đi vào đời sống có lẽ bởi thiếu một nền tảng nghiên cứu chuyên
sâu. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, hiện tượng làm ăn chụp giật và vấn đề
vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý công ty không thể không
nói là đang diễn ra khá phức tạp và gây ảnh hưởng rất xấu tới môi trường kinh
2
doanh. Vì vậy việc hoàn thiện các qui định pháp luật về nghĩa vụ của người
quản lý công ty hiện nay là một nhu cầu cấp thiết.
Bởi những lý do kể trên, tôi lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ của ngƣời quản
lý công ty theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định truyền
thống của luật công ty và được sử dụng rất nhiều trong thực tiễn tranh chấp
nội bộ công ty, nên thường được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu
về công ty nói chung và quản trị công ty nói riêng, cũng như trong quản trị
từng loại hình công ty cụ thể. Vì vậy có thể nói nghĩa vụ của người quản lý
công ty là đề tài nghiên cứu khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị
trường. Có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như như: “Business Law”
của các tác giả Keith Abbott, Norman Pendlebury và Kevin Wardman xuất
bản tại USA; “The Legal Environment of Business” của các tác giả Jethro K.
Lieberman & George J. Sieded xuất bản tại Harcourt Brace Jovanovich
Publisher, San Diego. New York. Chicago. Austin. Washington D.C. London.
Sydney. Tokyo. Toronto năm 1989; “Laws of Corporations and Other
Business Enterprises” của các tác giả Harry G. Henn & John R. Alexander
xuất bản tại St. Paul, Minn. West Publishing Co. năm 1983…
Ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về nghĩa vụ của
người quản lý công ty, điển hình là:
“Giáo trình luật thương mại – Phần chung và thương nhân” của PGS.
TS Ngô Huy Cương xuất bản tại Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013;
Các bài viết, nghiên cứu của một số học giả, ví dụ như PGS. TS Bùi
Xuân Hải “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ
góc độ Luật so sánh” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý tháng 4 năm 2005
và “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp luật công ty Việt Nam”
3
đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007 hoặc “Trách nhiệm người quản
lý theo luật công ty Việt Nam” của Lê Đức Nghĩa đăng tải trên Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp; và
Một số các luận văn cao học như “Nghĩa vụ của người quản lý công ty
theo Luật doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Nguyễn
Thị Thái Vân năm 2010, “Nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần theo
pháp luật Việt Nam” của Trần Thị Kiều Oanh năm 2013 hay “Nghĩa vụ của
người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Phan
Thị Thu Nhài năm 2014.
Các công trình này đã có những đóng góp không nhỏ cho khoa học
pháp lý và đã tạo dựng một nền tảng vững chắc cho các bước nghiên cứu tiếp
theo. Có thể thấy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài không đề cập đến
pháp luật Việt Nam và sự phù hợp của các giải pháp được tạo dựng trong
pháp luật nước ngoài với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Trong khi
đó, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa thực sự có hệ thống và đầy đủ
về vấn đề này, một số thì có mục tiêu nghiên cứu quá chuyên sâu, riêng biệt
(ví dụ như đi sâu vào nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên), hay các bài viết trên các tạp chí thì thường tập trung
vào nêu ra các vấn đề thay vì kiến nghị và xây dựng giải pháp hoặc bộ giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, một số công trình được viết cách
đây khá lâu làm phát sinh nhu cầu đánh giá, đối chiếu và so sánh khi Luật
Doanh nghiệp 2014 ra đời. Chính vì vậy đề tài này đối với pháp luật Việt
Nam hiện nay vẫn còn làm mảnh đất cần được khai phá.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn chủ trương phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam nhằm tìm
kiếm những bất cập để kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật về nghĩa vụ
của người quản lý công ty ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể việc
nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau:
4
- Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người quản lý
công ty để lấy đó làm cơ sở tìm kiếm những bất cập của pháp luật liên quan;
- Kiến nghị hoàn thiện chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty ở
Việt Nam hiện nay.
Luận văn chủ yếu nghiên cứu nghĩa vụ của người quản lý công ty trong
công ty cổ phần và phần nào đấy trong công ty trách nhiệm hữu hạn (nếu
công ty TNHH đó có mô hình quản trị có phần tách biệt tương đối về điều
hành gần gũi với công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần) theo pháp luật
về doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nhằm tiếp thu
những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia có truyền thống pháp luật lâu đời.
Luận văn cũng chú ý đến các quy định có liên quan, trong phạm vi tương tự
của các hệ thống pháp luật phát triển như Anh Mỹ, Úc, Singapore …
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở các luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và các chủ
trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế, xã hội, Luận
văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để nghiên cứu đề tài: (1) các
phương pháp chung nghiên cứu khoa học xã hội bao gồm phương pháp
phân tích, thống kê, tổng hợp, xã hội học, phương pháp lịch sử; và (2) các
phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học pháp lý bao gồm phương
pháp so sánh pháp luật, phương pháp phân tích qui phạm, phương pháp
phân tích tình huống...
5. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên
cứu chủ yếu của Luận văn được chia thành 03 chương như sau:
Chương 1. Khái quát chung về nghĩa vụ của người quản lý công ty.
Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của
người quản lý công ty
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định nghĩa vụ của
người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam
5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ
CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY
1.1. Quan niệm về nghĩa vụ
Theo Bộ luật dân sự 2005, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một
hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ hoặc thụ trái) phải chuyển giao vật,
chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc
không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
(bên có quyền hoặc trái chủ). Định nghĩa này nhắc đến các chủ thể của nghĩa
vụ và các đối tượng của nghĩa vụ như vậy là không mang tính khái quát cao
và không nhấn mạnh được bản chất của nghĩa vụ là một mối quan hệ mà
trong đó có hai loại chủ thể có lợi ích trái ngược nhau. Một bên có quyền yêu
cầu, là trái chủ và bên còn lại có nghĩa vụ, là thụ trái. Nghĩa vụ, hay trái
quyền, là mối quan hệ trong đó trái chủ có quyền yêu cầu thụ trái thực hiện
một đối tượng vì lợi ích của mình. Đối tượng đó có thể là vật hoặc hành vi
hành động hoặc hành vi không hành động, như đã miêu tả trong Điều 280 của
Bộ luật dân sự 2005. Theo PGS. TS Ngô Huy Cương, nghĩa vụ dân sự có ba
đặc điểm quan trọng [2]. Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý, đặc
trưng bởi khả năng cưỡng chế thi hành bằng quyền lực nhà nước. Hai thành tố
được pháp luật công nhận và có giá trị cưỡng bức thi hành giúp phân biệt
nghĩa vụ dân sự với nghĩa vụ tự nhiên, khi mà nghĩa vụ tự nhiên có thể được
công nhận nhưng không thể cưỡng bức thi hành. Thứ hai, nghĩa vụ là quan hệ
đối nhân. Yếu tố đối nhân có nghĩa là thay vì áp đặt một nghĩa vụ đối với mọi
người nói chung như quan hệ đối vật, quan hệ đối nhân chỉ áp đặt nghĩa vụ
đối với một người xác định. Quyền sở hữu là dạng quan hệ đối vật, có thể đối
kháng chống lại khả năng sở hữu của của tất cả mọi người trên vật thuộc sở
6
hữu của mình; trong khi đó, nghĩa vụ là quan hệ đối nhân, ví dụ như nghĩa vụ
trả tiền, trong quan hệ đó, người trái chủ chỉ có thể đòi người thụ trái trả tiền
cho mình chứ không thể đòi bất cứ ai khác. Thứ ba, nghĩa vụ là một quyền
sản nghiệp, hay nói cách khác, quan hệ tài sản. Đặc điểm này có nghĩa là
nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền, trong đó, khi người thụ trái thực hiện
nghĩa vụ thì người trái chủ sẽ được hưởng các lợi ích từ việc thực hiện đó.
Các lợi ích, theo cách thông thường nhất là tài sản, có thể trị giá được bằng
tiền. Tuy nhiên, cũng có những lợi ích khó hoặc không thể định lượng giá
trị bằng tiền bạc và trên cơ sở nhận định của nhiều luật gia Nhật Bản cho
rằng các hành vi không được trị giá thành tiền không nhất thiết thuộc phạm
trù đạo đức, Điều 399 của Bộ Luật Dân Sự của Nhật Bản có quy định rằng
đối tượng của nghĩa vụ có thể là những gì không xác định được bằng tiền.
Quan niệm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi soi chiếu vào đối tượng
nghiên cứu của luận văn này, nghĩa vụ của người quản lý công ty, sẽ được
phân tích ở phần sau.
Nguồn gốc của nghĩa vụ
Nghĩa vụ có thể được xuất phát từ ba nguồn gốc chính, đó là hành vi
pháp lý, sự kiện pháp lý và hiệu lực của luật. Hành vi pháp lý có thể bao gồm
hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, có thể hiểu là làm phát sinh
nghĩa vụ trên cơ sở ý chí của các chủ thể. Sự kiện pháp lý là những gì xảy ra
ngoài ý chí của các đương sự và làm phát sinh nghĩa vụ cho các chủ thể. Cuối
cùng, hiệu lực của luật là các trường hợp mà nhà làm luật, trên cơ sở nhu cầu
quản lý trật tự xã hội, thừa nhận các giá trị đạo đức hoặc cách thức xử sự hoặc
các nguyên nhân khác làm phát sinh nhu cầu lập pháp mà quy định nghĩa vụ
cho các chủ thể.
Phân loại nghĩa vụ
Có nhiều cách thức phân loại nghĩa vụ khác nhau dựa trên các tiêu chí
7
phân loại. Có những cách thức được phản ánh trong các đạo luật nhưng cũng
có những cách thức chỉ được sử dụng trong học thuật. Cách thức phân loại
nghĩa vụ được sử dụng trong đạo luật cũng sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến cấu
trúc các quy định liên quan. Các cách thức phân loại thường thấy nhất bao
gồm (i) phân loại theo hiệu lực; (ii) phân loại theo nguồn gốc; (iii) phân loại
theo đối tượng và (iv) phân loại theo mức độ.
Phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực cho ta các loại nghĩa vụ đạo đức, nghĩa
vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự mà trong đó, chỉ duy nhất nghĩa vụ dân sự có
hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý.
Phân loại theo nguồn gốc chia nghĩa vụ ra nghĩa vụ từ hành vi pháp lý,
nghĩa vụ từ sự kiện pháp lý và nghĩa vụ do hiệu lực của luật. Đây là cách thức
phân loại căn bản nhất thường được phản ánh trong các bộ luật dân sự của các
nước trên thế giới. Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng không nằm ngoài
số đó khi thiết lập quy chế riêng cho từng loại nguồn gốc của nghĩa vụ như:
hợp đồng, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi không có căn cứ
pháp luật và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Phân loại nghĩa vụ theo đối tượng là cách thức như được ghi nhận trong
Điều 280 của Bộ Luật Dân Sự 2005. Theo đó, nghĩa vụ có ba loại đối tượng là
(i) chuyển giao vật, (ii) hành động (thực hiện hành vi) và (iii) không hành
động (không thực hiện hành vi).
Phân loại nghĩa vụ theo mức độ. Đây là cách thức phân loại nghĩa vụ ra
đời sau, tuy nhiên lại mang ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong nghiên cứu
nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tiêu chí này phân chia nghĩa vụ thành
nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Cách thức phân loại này
không hề được đề cập trong Bộ Luật Dân Sự 2005 của Việt Nam, vốn được
xem là văn bản đặt nền tảng lí luận cho toàn bộ hệ thống luật tư. Thay vào đó,
một cách đáng ngạc nhiên, Luật Thương Mại 2005, tại Điều 79 và Điều 80 đã
8
áp dụng cách phân loại này. Theo đó, nghĩa vụ của theo kết quả công việc
được mô tả là yêu cầu bên thụ trái đạt được một kết quả nhất định theo hợp
đồng hoặc kết quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường; Trong khi đó, cách
thức ở Điều 80 yêu cầu người thụ trái thực hiện nghĩa vụ với nỗ lực và khả
năng cao nhất. Cách thức phân loại này tạo ra sự khác biệt lớn khi phải chứng
minh sự vi phạm nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ thành quả, vì người thụ trái đã
cam kết một kết quả nhất định, người trái chủ chỉ cần chứng minh rằng kết
quả không đạt được thì có nghĩa rằng người thụ trái đã vi phạm nghĩa vụ. Đối
với nghĩa vụ mẫn cán, trung thực, thay vì bắt người thụ trái phải chứng minh
mình đã thực hiện nghĩa vụ với khả năng cao nhất, gánh nặng chứng minh
thuộc về trái chủ khi phải chứng minh người thụ trái đã không thực hiện nghĩa
vụ một cách cẩn trọng và siêng năng.
Chế tài do vi phạm nghĩa vụ
Sự vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến các chế tài. Thông thường, các chế tài
này hướng đến việc bù đắp cho sự vi phạm theo một trong ba cách thức
truyền thống là (i) bồi thường thiệt hại, (ii) buộc thực hiện nghĩa vụ hoặc (iii)
buộc thực hiện nghĩa vụ thay thế.
1.2. Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty
1.2.1. Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty
Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty, trên thế giới có
hai lý thuyết nổi bật nhất, đó là lý thuyết đại diện (agency theory) và lý thuyết
người quản gia (stewardship theory).
Lý thuyết đại diện dường như chiếm ưu thế, được nghiên cứu bởi nhiều
học giả trên thế giới bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 20 cho đến tận ngày nay. Lý
thuyết đại diện cho rằng mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty là
mối quan hệ đại diện mà trong đó những người chủ sở hữu ủy quyền cho
những người quản lý công ty thực hiện việc quản lý công ty thay họ, bao gồm
9
cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty [5]. Lý
thuyết đại diện cho rằng, người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động
vì lợi ích tốt nhất của của những người chủ sở hữu công ty vì cả hai bên đều
muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Cộng hưởng với sự phân hóa giữa quyền sở
hữu và quyền quản lý trong các công ty hiện đại, sự không đồng nhất về lợi
ích giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý công ty sẽ dẫn đến nhu cầu
giám sát những người quản lý công ty. Lý thuyết này cũng phù hợp với những
nhận định thường được đề cập như bản chất của con người khi mô tả nguồn
gốc ra đời của hiến pháp và cơ chế tam quyền phân lập, đó là sự tha hóa bởi
quyền lực hay “nhân chi sơ, tính bản ác”.
Ngược lại, lý thuyết người quản gia cho rằng người quản lý công ty khi
được tự do hành động thì sẽ hành động giống như người quản gia đối với các
tài sản mà họ được trao quyền quản lý. Xuất phát từ nhận định công ty không
chỉ thuần túy hướng tới mục đích lợi nhuận mà còn có những mục tiêu cao cả
hơn, lý thuyết người quản gia cho rằng các mục tiêu này thúc đẩy người quản
lý công ty hành động tốt hơn. Chính vì vậy, lý thuyết người quản gia tập trung
vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho người quản lý công ty theo đuổi các mục
đích cao cả đó. Lý thuyết này phải gánh chịu nhiều chỉ trích do xem xét mối
quan hệ giữa công ty và người quản lý như một mối quan hệ tĩnh với nhiều
yếu tố phải cố định. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra có những
kết quả nhất định cho thấy hiệu quả quản lý được nâng cao khi người quản lý
công ty được trao nhiều quyền hơn theo lý thuyết người quản gia thay vì bị
đặt dưới con mắt quản lý, soi sét của lý thuyết đại diện [15, tr. 62].
Cá nhân tác giả luận văn thì cho rằng lý thuyết đại diện là hợp lý hơn
về mặt cơ bản, tuy nhiên, lý thuyết người quản gia cũng có những giá trị cần
xem xét và những nhân tố tích cực có thể áp dụng. Tóm tắt lại, có thể hiểu
mối quan hệ giữa người quản lý công ty với công ty là quan hệ đại diện, trong
10
đó những người quản lý công ty được ủy quyền quản trị công ty, thay mặt các
chủ sở hữu xác lập quyền và nghĩa vụ, trong đó lợi ích của hai phía là không
đồng nhất và những người quản lý công ty chỉ hành động vì lợi ích tốt nhất
của công ty trong những điều kiện xác định.
1.2.2. Mô hình quản trị công ty
Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn thường được xem là
các hình thức công ty đối vốn theo ngôn ngữ của các nước theo truyền thống
Civil Law. Tuy nhiên có thể nói công ty trách nhiệm hữu hạn là một hình
thức lai tạp giữa công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần và công ty đối
nhân điển hình là công ty hợp danh [3, tr. 162]. Song công ty trách nhiệm
hữu hạn có nhiều mô hình quản trị linh động hơn so với công ty hợp danh.
Có thể dạng công ty này có mô hình quản trị mà trong đó điều hành tương
đối tách biệt và gần gũi với một số đặc điểm của mô hình quản trị công ty cổ
phần. Vì thế phần nào đó có thể xếp nghĩa vụ của người quản lý trong hai
hình thức công ty này vào một loại nhằm mục đích của Luận văn này. Đối
với truyền thống Common Law ở Hoa Kỳ, khi nói tới công ty (corporation)
là nói tới các hình thức công ty đối vốn trong sự phân biệt với hợp danh
(partnership). Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hai loại
hình công ty phổ biến và cơ bản nhất, tồn tại ở hầu hết các nước trên thế
giới, nếu không muốn nói là ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Nhìn vào nền kinh tế thị trường, người ta thường thấy các hoạt động nổi trội
của hai loại hình công ty này. Nói cách khác chúng là các nhân tố không thể
thiếu của kinh tế thị trường. Đạo luật về công ty đầu tiên của Việt Nam ở
thời kỳ “đổi mới” là Luật Công ty năm 1990. Tại đó chỉ có hai loại hình
công ty được qui định là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.
Đó là bằng chứng không thể bác bỏ về vai trò của hai loại hình công ty này
trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường.
11
Đây là hai loại hình công ty phát triển cao, nhất là công ty cổ phần.
Chúng rất hoàn bị. Và nhiều trong số chúng đã đạt đến quy mô rất lớn cả về
tài sản, kinh doanh, cũng như nhân lực... Vì vậy khả năng chủ sở hữu đồng
thời giữ vai trò người quản lý như trong các mô hình doanh nghiệp tư nhân
hay công ty hợp danh là không khả thi, dẫn đến đòi hỏi các hình thức công ty
này phải có bộ máy quản trị chuyên nghiệp. Chính đòi hỏi này khiến cho mô
hình quản trị công ty trở nên được chú trọng và mang lại nhiều khác biệt.
Những người quản lý có thể được thuê và thực hiện công việc quản lý như
một nghề nghiệp. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn bởi lẽ lợi
ích của những người này không giống với lợi ích của những người quản lý
công ty xuất phát từ quyền sở hữu của chính họ đối với công ty, ví dụ như đối
với công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản.
Vấn đề xung đột lợi ích luôn tồn tại, ngay cả trong những công ty mà
những người quản lý đều đồng thời là chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi những
người quản lý công ty là những nhân lực được thuê từ bên ngoài, thì khả
năng xung đột lúc này càng trở nên rõ rệt hơn. Thêm vào đó, những nhân lực
thuê ngoài này lại là đối tượng chuyên nghiệp, nắm trong tay những kiến
thức chuyên sâu và được đào tạo bài bản, có hệ thống liên quan đến quản trị
công ty, và hoàn toàn có thể lạm dụng những kiến thức và kỹ năng đó để
chống lại các đồng sở hữu chủ của công ty một cách rất tinh vi [7, tr. 27].
Chính vì thế, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, kỹ lưỡng
hơn về những người quản lý này so với những người quản lý trong các loại
hình công ty khác.
Vì những lẽ đó mô hình quản trị công ty là vấn đề pháp lý quan trọng
có thể giúp cho công ty vận hành một cách an toàn hướng tới mục tiêu của
chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu. Mô hình quản trị công ty cổ phần thường
thấy ở Việt Nam bao gồm những cơ quan chính sau:
12
* Cơ quan quyền lực cao nhất – ĐHĐCĐ: Đây là cơ quan tập hợp tất
cả các cổ đông của công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất và có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty. Tuy nhiên, do
tính chất đông đảo và không chuyên nghiệp của cổ đông, ĐHĐCĐ không
thể là cơ quan hoạt động thường xuyên, quản lý các hoạt động thường ngày
của công ty mà chỉ có thể nhóm họp một số lần trong năm theo pháp luật
hoặc theo điều lệ công ty.
* Cơ quan chuyên quản lý chuyên trách - HĐQT: Cơ quan này gồm
một nhóm người, thường là cổ đông hoặc không phải là cổ đông của công ty,
được ĐHĐCĐ bỏ phiếu thành lập, chịu trách nhiệm quản lý công ty và thực
hiện những nhiệm vụ được ĐHĐCĐ giao hoặc đã được ấn định trong Điều lệ
của công ty. HĐQT cũng đồng thời đóng vai trò điều hành, điều phối các kỳ
họp của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, HĐQT cũng chỉ có thể hoạt động thường xuyên
hơn ĐHĐCĐ chứ không thể hoạt động liên tục, chính vì thế, tầng nấc quản trị
thứ ba được lập ra.
* Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này thường là tổng giám
đốc, giám đốc hoặc ban giám đốc, chịu trách nhiệm điều hành tất cả những
hoạt động kinh doanh thường ngày của công ty do Điều lệ, ĐHĐCĐ và
HĐQT giao cho.
* Cơ quan kiểm soát: Đây là cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các
hoạt động quản lý và điều hành.
Mô hình quản trị công ty TNHH bao gồm những cơ quan chính sau:
- Hội đồng thành viên: Cơ quan này có thể bao gồm các thành viên của
công ty hoặc đại diện của các thành viên công ty. Đây là cơ quan được xem
như có sự lai ghép giữa ĐHĐCĐ và HĐQT của công ty cổ phần (thẩm quyền
của hội đồng thành viên giống như ĐHĐCĐ nhưng cách thức hoạt động lại
tương đồng nhiều hơn với HĐQT). Mô hình tổ chức quản lý công ty TNHH
13
thông qua Hội đồng thành viên có thể được áp dụng cho cả công ty TNHH
nhiều thành viên lẫn công ty TNHH một thành viên.
- Chủ tịch công ty: Đây là vị trí trung tâm trong mô hình quản trị công
ty TNHH một thành viên mà đại diện của chủ sở hữu chỉ là một người.
- Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này có thể tồn tại riêng biệt
giống như trong mô hình quản trị của công ty cổ phần (thường là khi công ty
TNHH theo mô hình hội đồng thành viên) hoặc kiêm nhiệm, tinh giản (khi
công ty TNHH một thành viên áp dụng mô hình chủ tịch công ty).
- Cơ quan kiểm soát: cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các hoạt
động quản lý và điều hành cũng tương tự như trong công ty cổ phần.
Trong các mô hình quản trị hai loại hình công ty, người ta xác định
những ai là người quản lý công ty để áp đặt cho họ những nghĩa vụ của người
quản lý công ty.
1.2.3. Khái niệm người quản lý công ty
Người quản lý công ty là một khái niệm đã được đề cập trong Luật
Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 13). Trong phạm vi những người quản lý
chuyên nghiệp, những người quản lý công ty có thể bao gồm chủ tịch hội
đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên HĐQT, giám đốc hoặc tổng
giám đốc và một số chức danh khác do điều lệ công ty quy định. Các chức
danh khác có thể là kế toán trưởng, giám đốc tài chính của công ty. Họ là
cánh tay mặt và có lợi ích sát sườn với ban giám đốc hay hội đồng quản trị
của công ty. Tuy nhiên, với những chức danh như trưởng phó các bộ phận,
phòng ban hay các kiểm soát viên vốn được quy định trực thuộc bộ máy quản
lý của công ty thì lại tương đối khó xác định vì thiếu cơ sở pháp lý. Trên thực
tế, các chức danh nhỏ như vậy cũng đã có những ảnh hưởng và thẩm quyền
nhất định xác lập những quyền lợi và nghĩa vụ cho công ty, nhưng thường
không được quy định trong điều lệ công ty, vì với tư cách là người lao động
14
của công ty, những người này (hoàn toàn và dễ dàng) có thể bị thay đổi. Mặt
khác, chính vì bó hẹp vào quy định trong điều lệ, nhiều người quản lý hoàn
toàn có thể bị bỏ lọt và cũng chính là kẽ hở để họ chủ động trốn tránh trách
nhiệm. Dựa trên phân tích về mặt ngữ nghĩa của khoản 2, Điều 73, Luật
Doanh nghiệp 2005, đối với công ty TNHH, người quản lý chắc chắn bao
gồm các thành viên của hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty (tùy theo
mô hình quản lý được lựa chọn). Nhưng kiểm soát viên có thể không được
xem là người quản lý công ty khi không trực tiếp quyết định các vấn đề về
kinh doanh của công ty mà nhiệm vụ chủ yếu của họ là kiểm soát sự đúng đắn
trong hành động của những người quản lý công ty, vì lợi ích của chủ sở hữu.
Luật Doanh nghiệp 2014 (khoản 18, Điều 4) có đưa ra định nghĩa
“người quản lý doanh nghiệp”. Trong định nghĩa này bao gồm cả người quản
lý công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, và những chủ sở hữu của
doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh.
Theo pháp luật của Anh, Úc và các nước khác thuộc họ pháp luật
common law, những người quản lý công ty bao gồm 3 nhóm đối tượng sau đây:
+ Thứ nhất, người được bổ nhiệm làm người quản lý công ty (de jure
director). Đây là cách thức phổ thông. Và một người được xác định là người
quản lý theo cách này thì thường không vấp phải sự phản đối hay hoài nghi từ
những người khác.
+ Thứ hai, người tuy không được bổ nhiệm làm người quản lý công ty
nhưng hành động giống như người quản lý công ty. Đây chính là tấm lưới thứ
nhất để thâu tóm những “người quản lý thực tế” của công ty (de facto
director). Sự quy định nhóm đối tượng thứ hai này khiến cho việc bổ nhiệm
chính thức không còn có thể sử dụng như một lý lẽ hợp lý có thể nại ra để
trốn tránh nghĩa vụ của người quản lý [14, tr. 251]. Ở điểm này, cần bàn thêm
về mặt khái niệm. Thuật ngữ “director” trong tiếng Anh thường được dịch
15
sang tiếng Việt là “giám đốc” và “general director” được dịch là “tổng giám
đốc”. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, vị trị này tương ứng với vị trí CEO
(chief executive officer – thường được dịch là giám đốc điều hành) trong các
công ty của các nước phương Tây. Vị trí CEO này, theo từ điển thuật ngữ
pháp lý Black’s law dictionary, được hiểu là người quản lý có thứ hạng cao
nhất của một công ty, điều hành những công việc hàng ngày của công ty và
báo cáo với HĐQT. Vị trí này thực chất vừa giống với giám đốc vừa giống
với người đại diện theo pháp luật trong luật Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ
“director” còn bao gồm ý nghĩa thứ hai, chỉ “một người được chỉ định hoặc
bổ nhiệm vào một hội đồng để quản lý các vấn đề của công ty” hay nói cách
khác, chính là thành viên HĐQT. Chính vì thế, thuật ngữ “board of directors”
của các nước common law phải dịch là HĐQT chứ không phải là ban giám
đốc. Tóm lại, thuật ngữ “director” trong tiếng Anh phải được hiểu là “người
quản lý doanh nghiệp/công ty” thay vì bó hẹp trong phạm vi là “giám đốc”.
Trong luận văn này, khi phân tích các quy phạm pháp luật hoặc vụ việc pháp
lý của các nước thuộc họ pháp luật common law, từ “giám đốc” có thể được
sử dụng vì lí do thuận tiện và ngắn gọn khi sử dụng tiếng Việt nhưng phải
được hiểu theo nghĩa chung là “người quản lý công ty”.
+ Thứ ba, những người mà chỉ thị hoặc mong muốn của họ sẽ được
thực hiện bởi những người quản lý hoặc các bộ phận/phòng ban của công ty.
Tấm lưới cuối cùng này có mục đích thâu tóm những “người quản lý trong
bóng tối” (shadow director) [14, tr. 252]. Tấm lưới này là quan trọng nhất để
ngăn chặn bất kỳ ai có mong muốn sử dụng một công ty hoặc lợi dụng quy
định về trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị để hành động sai trái
hoặc đẩy trách nhiệm sang người khác. Một ví dụ dễ thấy trong trường hợp
này là các Hội đồng sáng lập (“HĐSL”) ở các ngân hàng thương mại mà đi
đầu là Hội đồng sáng lập ACB do ông Nguyễn Đức Kiên (thường được biết
16
đến với tên gọi “bầu Kiên”) là Phó chủ tịch, đồng thời là người được cho là
chủ nhân của “sáng kiến” này [17]. Theo Điều lệ, quy chế hoạt động và các
quy định của pháp luật Việt Nam, những thành viên của hội đồng này không
phải những người quản lý của ACB và không được pháp luật thừa nhận khi
những người này dường như chỉ làm nhiệm vụ tư vấn cho các hoạt động của
ACB. Tuy nhiên, nếu xét theo pháp luật của Úc, những người này hoàn toàn
có thể được xem là những người quản lý của công ty và được xem xét như là
một “shadow director” khi họ có thể chỉ đạo và định hướng hoạt động của các
giám đốc/người quản lý của ACB. Mặc dù không có tư cách về mặt pháp lý,
nhưng các thành viên HĐSL, bằng chính quyết định trao quyền của HĐQT
của ACB cũng như vai trò là các cổ đông lớn, hoàn toàn có thể tác động và
quyết định mọi hoạt động của ngân hàng [18]. Khi xảy ra sai phạm thì chính
các thành viên HĐQT sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân vì quy định của pháp
luật chỉ ràng buộc những đối tượng này. Thực tế đã cho thấy, với vai trò Phó
chủ tịch HĐSL, Nguyễn Đức Kiên vẫn là nhân vật quan trọng, có ảnh hưởng,
chỉ đạo và quyết định hầu hết các hoạt động của ACB [17].
Năm 1995, tại Úc, trong vụ tranh chấp giữa Standard Chartered Bank of
Australia (“SCB”) và Antico (Antico là 1 trong 3 người quản lý đồng thời của
Pioneer và Giant bị kiện). Các tình tiết thực tế khá phức tạp. Tuy nhiên, liên
quan đến vấn đề đang nghiên cứu có thể thấy như sau: SCB có một khoản nợ
phải đòi từ Giant Resources Ltd (“Giant”). Tuy nhiên, do công ty này đã phá
sản nên SCB đã tiến hành đòi công ty mẹ của Giant (“Pioneer”) với lập luận
rằng Pioneer là một “shadow director” của Giant, vì thế, phải chịu trách nhiệm
đối với khoản nợ của công ty (cụ thể là Giant) khi tình trạng phá sản của Giant
có nguyên nhân từ sự quản lý và kiểm soát tài chính mà Pioneer áp dụng lên
Giant. Thực tế, Pioneer đã bắt buộc Giant phải có báo cáo tài theo các quy
chuẩn riêng của mình cũng như áp đặt những sự quản lý tài chính, chính sách,
17
từ đó dẫn đến hậu quả thiệt hại góp phần dẫn đến tình trạng phá sản của Giant.
Nếu xét trên góc độ tương đương, pháp luật Việt Nam không có cơ sở pháp lý
để xác định và buộc “shadow director” cũng như buộc pháp nhân phải chịu
trách nhiệm của người quản lý công ty với công ty [13, tr. 399].
Mặc dù vậy, các nhà làm luật Việt Nam dường như cũng đã ý thức
được và thiết kế một điều khoản bảo vệ cho lợi ích chính đáng của công ty
con như một thực thể độc lập, khỏi nguy cơ lạm dụng của công ty mẹ. Điều
khoản này không có nhiều thay đổi từ Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 147)
sang Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 190). Điều khoản này áp đặt một cách
trực tiếp trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con, hơn là dựa trên
nguyên tắc suy đoán xem công ty mẹ có phải là “shadow director” của công
ty con hay không, mặc dù về bản chất, đều phải dựa trên phạm vi hành động
của công ty mẹ để xác định trách nhiệm có phát sinh hay không. Nội dung
Điều 190 này như sau:
1. Tùy thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ
sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con theo quy định
tương ứng của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và
công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng
theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập.
3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của
chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con phải thực
hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường
hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý
trong năm tài chính có liên quan, gây thiệt hại cho công ty con thì
công ty mẹ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.
18
4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc
can thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh quy
định tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách
nhiệm về các thiệt hại đó.
5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo
quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành viên, cổ đông
có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền nhân
danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù
thiệt hại cho công ty con.
6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại khoản
3 Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích cho công ty con
khác của cùng một công ty mẹ thì công ty con được hưởng lợi đó
phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả khoản lợi được hưởng đó
cho công ty con bị thiệt hại.
Khoản 4 của điều này cũng gợi ý rằng các nhà làm luật Việt Nam coi
người quản lý công ty là các cá nhân, khi xác định công ty mẹ và người quản
lý của công ty mẹ là 2 chủ thể độc lập sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm đối
với thiệt hại của công ty con. Mặt khác, trong các trường hợp can thiệp quá
mức vào hoạt động của công ty con, các đối tượng sau sẽ phải liên đới hoàn
trả phần thiệt hại: thứ nhất là bản thân công ty mẹ, thứ hai là những người
quản lý của công ty mẹ có liên quan đến sự can thiệp quá mức và cuối cùng là
các công ty con khác của cùng một công ty mẹ mà đã được hưởng lợi. Nhìn
vào bối cảnh tổ chức hiện tại của các tập đoàn kinh tế, có thể thấy quy định
liên đới trách nhiệm của các “công ty con” khác chưa thể bao quát hết các khả
năng xảy ra trên thực tế khi mỗi tập đoàn có thể có rất nhiều tầng bậc, không
chỉ các công ty con mà còn cả các “công ty cháu”. Trường hợp mà sự chỉ đạo
của công ty mẹ gây thiệt hại cho công ty con, nhưng công ty được hưởng lợi
19
là một công ty con khác hoặc một công ty ngang cấp với công ty mẹ thì
dường như đã tránh được phạm vi ràng buộc của quy định tại Điều 190,
khoản 6. Ví dụ như trong trường hợp một tập đoàn gồm 3 cấp công ty như
trong mô hình dưới đây:
Công ty mẹ đang xét là công ty A2, công ty con là công ty A2-2. Nếu
công ty A2 can thiệp buộc công ty A2-2 kinh doanh theo những điều kiện bất
lợi với công ty A2-1 thì theo Điều 190, khoản 6 của Luật Doanh nghiệp 2014,
công ty A2-1 cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại của công ty A2-2.
Tuy nhiên nếu công ty A2-2 lại có quan hệ kinh doanh không sinh lợi với
công ty A1 hoặc công ty A1-1, Luật Doanh nghiệp 2014 lại chưa có quy định
ràng buộc thích hợp những trường hợp như vậy.
Xét trên giác độ so sánh, quy định của pháp luật Việt Nam cũng không
được bao quát như pháp luật Úc liên quan đến căn cứ xác định trách nhiệm
của công ty mẹ. Trong khi Luật Doanh nghiệp 2014 quy định 2 trường hợp
Công ty A cấp 1
(Tập đoàn) (Holding
Company)
Công ty A2 cấp 2Công ty A1 cấp 2
Công ty A2-2 cấp 3Công ty A2-1 cấp 3Công ty A1-1 cấp 3
20
hành vi được xác định sự can thiệp ngoài thẩm quyền là (i) buộc công ty con
phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường
và (ii) buộc công ty con phải thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không
đền bù hợp lý. (tương tự như ví dụ SCB vs. Giant đã đề cập ở trên, việc kiểm
soát tài chính có thể không rơi vào 1 trong 2 nhóm trên. Ngoài ra, nhiều hoạt
động khác) Khi thực hiện hành vi kể trên gây thiệt hại thì công ty mẹ sẽ bị
buộc chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, bằng chế định liên quan đến “shadow
director” và “de facto director”, không chỉ công ty mẹ mà bất cứ tổ chức, cá
nhân nào khác khi bằng các cách thức nào đó thực hiện quyền kiểm soát và
điều hành một công ty thì đều phải có trách nhiệm hành xử một cách hợp lý,
đúng đắn và vì lợi ích của công ty.
1.2.4. Khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty
Khái niệm người quản lý công ty, thoạt tiên có vẻ đơn giản và dường
như nội hàm của nó không khác gì hơn là các nghĩa vụ của các chủ thể là
người quản lý công ty. Tuy nhiên, thực chất vấn đề không đơn giản như vậy.
Nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định được xây dựng trong luật
công ty của các nước theo truyền thống common law. Bản chất và nội dung
của chế định này không được xác định rõ ràng ngay từ khi ra đời mà được bồi
đắp theo thời gian, qua cả quá trình pháp điển hóa và xây dựng án lệ. Trong
pháp luật Việt Nam hiện nay, có thể nói rằng khái niệm này chưa tồn tại một
cách chính thức. Có thể nhận định như vậy vì nguyên nhân đầu tiên, bản chất
của các nghĩa vụ của người quản lý công ty là loại nghĩa vụ mẫn cán, trung
thực, trong khi đó, Bộ Luật Dân Sự 2005 còn chưa hề có một ý niệm nào về
cách thức phân loại nghĩa vụ theo mức độ này thì không thể nào tồn tại quy
định về loại nghĩa vụ này. Các văn bản pháp lý chuyên ngành hơn như Luật
Doanh Nghiệp thì cũng chưa hề coi “nghĩa vụ của người quản lý công ty” là
một khái niệm pháp lý cần hiểu rõ về mặt nội hàm. Luật Doanh Nghiệp 2005
21
thì sử dụng “nghĩa vụ của người quản lý công ty” như một cụm từ ghép giữa
nghĩa vụ với người quản lý công ty, trong khi Luật Doanh Nghiệp 2014 cũng
chưa hề đưa ra định nghĩa nào, thêm vào đó còn sử dụng một cách lẫn lộn
khái niệm nghĩa vụ với trách nhiệm của người quản lý công ty.
Để hiểu rõ hơn và có thể xây dựng được khái niệm nghĩa vụ của người
quản lý công ty cho pháp luật Việt Nam, trước hết cần hiểu rõ được các đặc
điểm và phân loại được nghĩa vụ của người quản lý công ty vào các cách phân
loại truyền thống của họ pháp luật civil law.
Câu hỏi trước tiên phải xem xét, đó là liệu nghĩa vụ của người quản lý
công ty có thỏa mãn ba đặc điểm cơ bản của nghĩa vụ như đã phân tích ở trên
hay không. Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý đặc trưng bởi khả năng
cưỡng chế thi hành. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là nghĩa vụ dân sự,
nhiều nội dung được quy định trong Luật Doanh nghiệp và có tính chất quy
phạm bắt buộc đối với người quản lý công ty. Thứ hai, nghĩa vụ là quan hệ
đối nhân. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là quan hệ giữa những người
quản lý công ty với công ty/chủ sở hữu công ty mà trong đó, công ty/chủ sở
hữu có quyền yêu cầu những người quản lý công ty hành động vì lợi ích của
mình. Cuối cùng, nghĩa vụ là một quan hệ tài sản, hay nói cách khác, có thể
định giá được bằng tiền. Điều này không hoàn toàn được thể hiện rõ ràng đối
với nghĩa vụ của người quản lý công ty. Lấy một ví dụ đơn giản là người quản
lý công ty có nghĩa vụ thông báo cho công ty về quyền sở hữu của mình tại
các doanh nghiệp khác. Nghĩa vụ này hoàn toàn thỏa mãn hai đặc điểm đầu
tiên, tuy nhiên, việc xác định bằng tiền giá trị của nghĩa vụ này hoặc một
khoản bồi thường phải trả nếu người quản lý công ty vi phạm nghĩa vụ này là
không dễ dàng. Ngoài ba đặc điểm trên, có thể quan sát được một số đặc điểm
khác của nghĩa vụ của người quản lý công ty. Nghĩa vụ của người quản lý
công ty là nghĩa vụ có đối tượng là hành vi, trong đó yêu cầu người quản lý
22
công ty có nghĩa vụ thực hiện hành động như tổ chức quản lý công ty hoặc
nghĩa vụ không thực hiện hành động, ví dụ như không được sử dụng thông
tin, bí quyết của công ty để tư lợi.
Về mặt phân loại, trước hết phải quan tâm đến phân loại về mức độ.
Nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể bao trùm mọi mặt hoạt động của
công ty, cộng với sự đa dạng, phức tạp của loại hình và ngành nghề kinh
doanh nên sẽ là không thỏa đáng nếu những nghĩa vụ này là nghĩa vụ thành
quả. Sẽ là không cần thiết và không thể cho bất cứ ai muốn xác định một cách
định lượng toàn bộ các kết quả cho các nghĩa vụ của người quản lý công ty.
Có lẽ vì thế, yếu tố định tính là cần thiết và chủ yếu, nghĩa vụ của người quản
lý công ty có thể xếp vào nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Về mặt hiệu lực,
nghĩa vụ của người quản lý công ty hiển nhiên là nghĩa vụ dân sự vì nếu thiếu
đi tính ràng buộc pháp lý thì những nghĩa vụ này sẽ chẳng có ý nghĩa gì vì
không một người quản lý công ty nào lại muốn giới hạn quyền lực của mình.
Phân loại nghĩa vụ của người quản lý công ty theo nguồn gốc có lẽ sẽ gặp khó
khăn. Bởi lẽ, nhiều luật gia cho rằng nghĩa vụ của người quản lý công ty là
nghĩa vụ từ hợp đồng, tuy nhiên điều này không hoàn toàn chính xác. Như sẽ
phân tích ở phần tiếp theo, mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty
được xem là quan hệ đại diện. Một cách thông thường nhất, quan hệ đại diện
được xác lập trên cơ sở hợp đồng. Tuy nhiên, truyền thống common law cũng
thừa nhận những quan hệ đại diện mà trong đó không hề có một hợp đồng đại
diện nào được xác lập. Các trường hợp đó bao gồm đại diện ngầm định
(implied agency), đại diện đương nhiên (apparent agency) và đại diện do phê
chuẩn (ratification). Đại diện ngầm định là thẩm quyền đại diện cần thiết phải
có để một người có thể thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu một người được bổ
nhiệm làm tổng giám đốc của một công ty thì người đó đã được ngầm định là
có thẩm quyền nhân danh công ty xác lập quyền lợi và nghĩa vụ. Đại diện
23
đương nhiên là các trường hợp mà hành động của người chủ ủy có thể khiến
cho bên thứ ba tin rằng một người là thụ ủy của người chủ ủy đó. Điều 146
của Bộ Luật Dân Sự 2005 có quy định giao dịch do người đại diện thực hiện
vượt quá phạm vi đại diện sẽ vẫn có hiệu lực nếu người được đại diện biết mà
không phản đối, đó chính là một dạng của đại diện đương nhiên. Tuy nhiên,
Điều 594 của Bộ Luật Dân Sự 2005 thì lại không nhìn nhận mối quan hệ đó
như một dạng thức của đại diện mà quy định rằng đó là thực hiện công việc
không có ủy quyền. Việc có được xác định là quan hệ đại diện hay không sẽ
dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau, chủ yếu liên quan đến trách nhiệm
của người được đại diện/chủ ủy đối với các quyền và nghĩa vụ được xác lập
cho họ. Cuối cùng, đại diện do phê chuẩn là trường hợp mà vào thời điểm
thực hiện công việc thì người thụ ủy không có thẩm quyền, tuy nhiên, người
chủ ủy đã bằng hành vi pháp lý đơn phương của mình, chấp nhận rằng công
việc đó có hiệu lực phát sinh quyền/nghĩa vụ đối với mình. Có thể thấy, nếu
nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ là đại diện theo hợp đồng dường như phù hợp
với những người quản lý công ty chính danh (de jure director) thông qua bổ
nhiệm thì đại diện ngầm định hoặc đương nhiên sẽ phù hợp làm phát sinh
nghĩa vụ cho những người quản lý công ty thực tế (de facto director) còn
những người quản lý công ty trong bóng tối (shadow director) chỉ có nghĩa vụ
bởi hiệu lực của luật pháp quy định. Như vậy, có thể thấy phân loại nghĩa vụ
của người quản lý công ty theo nguồn gốc dường như không có tính hiệu quả
khi không có tính chất phân tách rõ rệt.
Như vậy, sẽ là không chính xác nếu cho rằng nghĩa vụ của người quản
lý công ty mặc nhiên hoặc chỉ có nguồn gốc từ hợp đồng. Riêng liên quan đến
loại nguồn gốc này của nghĩa vụ của người quản lý công ty cũng có một số
điểm phải lưu ý. Thứ nhất, hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ của người quản
lý công ty là hợp đồng nào? Tất nhiên không thể là một dạng thức vô hình
24
như khế ước xã hội mà hợp đồng này phải được thể hiện dưới dạng thức hữu
hình cụ thể. Điều lệ công ty có lẽ phải được xét đến đầu tiên. Điều lệ của công
ty được xem như một hợp đồng giữa các thành viên, cổ đông của công ty quy
định các vấn đề quan trọng của công ty như phần vốn góp, vốn cổ phần, cơ
cấu tổ chức quản lý, thể thức ra quyết định… Điểm vướng mắc với “hợp
đồng” điều lệ này là về nguyên tắc đối nhân, hợp đồng chỉ ràng buộc các chủ
thể tham gia xác lập mối quan hệ đó. Như vậy, những người quản lý công ty
mà không phải một bên trong “hợp đồng” điều lệ thì họ có bị ràng buộc bởi
các quy tắc, nghĩa vụ trong đó? Các quy định rõ ràng, đầy đủ về nghĩa vụ của
người quản lý công ty không phải là một nội dung bắt buộc của điều lệ mà
điều lệ hoàn toàn có thể chỉ tập trung điều hòa, phân định mối quan hệ giữa
các chủ sở hữu. Trong các trường hợp đó, liệu nhận định nghĩa vụ của người
quản lý công ty có căn cứ từ điều lệ có còn chính xác? Loại hợp đồng có liên
quan thứ hai là hợp đồng lao động, thường tồn tại trong các trường hợp người
quản lý công ty được thuê. Điểm vướng mắc với hợp đồng lao động bao gồm,
nghĩa vụ của người quản lý đó sẽ chỉ xác định theo hợp đồng lao động hay
phải theo cả điều lệ và trong trường hợp quy định mâu thuẫn giữa hợp đồng
lao động và điều lệ thì ưu tiên văn bản nào.
Từ các phân tích ở trên, có thể thấy, trên các mặt cơ bản nhất, nghĩa vụ
của người quản lý công ty có thể được phân tích dưới lăng kính chung của
nghĩa vụ dân sự và cho thấy các đặc điểm tương đồng. Tuy nhiên, quy định về
nghĩa vụ dân sự của Bộ Luật Dân Sự 2005 cho thấy phần khuyết thiếu cơ bản
chính là mức độ của nghĩa vụ của người quản lý công ty. Ngoài ra, cũng phải
nhìn nhận rằng nghĩa vụ của người quản lý công ty là những nghĩa vụ cụ thể,
chi tiết hơn so với mức độ khái quát của nghĩa vụ dân sự.
Tựu chung lại, nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể được hiểu
một cách khái quát và cơ bản nhất là toàn bộ các nghĩa vụ mẫn cán, trung
25
thực có nguồn gốc hoặc phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương,
sự kiện pháp lý hoặc quy định của luật mà người quản lý công ty phải thực
hiện hoặc không được phép thực hiện với nỗ lực và khả năng cao nhất vì lợi
ích hợp pháp tối đa của công ty.
Chế tài do vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty
Cũng giống như các chế tài áp dụng chung cho sự vi phạm nghĩa vụ
dân sự, chế tài đối với việc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty cũng
nhằm mục đích đảm bảo tình trạng của người trái chủ đạt được giống như
trạng thái khi nghĩa vụ được thực hiện đầy đủ. Để làm được điều này, các chế
tài chủ yếu cũng bao gồm buộc thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại.
Trong quản lý công ty có rất nhiều nghĩa vụ tuân thủ phải thực hiện hoặc
không được thực hiện, vì thế, chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ dường như
không hẳn là một chế tài mà đã là một phần của nghĩa vụ của người quản lý
công ty khi yêu cầu tính chất tiếp diễn, thường trực của nghĩa vụ. Chính vì
vậy, chế tài bồi thường thiệt hại dường như có vai trò nổi bật hơn đối với
nghĩa vụ của người quản lý công ty. Điều này cũng có thể thấy trong quy định
của Luật Doanh nghiệp khi rất nhiều quy định trách nhiệm của người quản lý
công ty với thiệt hại của công ty do lỗi của những người này. Tuy nhiên, về
mặt chế tài đối với vi phạm của người quản lý công ty ở Việt Nam còn có một
vấn đề đáng lưu tâm khác. Đó là hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự,
khi mà những vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty và xâm phạm
khách thể được bảo vệ bởi pháp luật hình sự trong nhiều trường hợp là rất
mong manh. Trong những trường hợp đó, với những tồn tại trong ý thức pháp
luật, các cơ quan điều tra thường sốt sắng tham gia vào để xác định sai phạm,
định tội danh, áp dụng hình phạt hình sự … hơn là quan tâm đến bản chất vụ
việc có phải là vi phạm nghĩa vụ dân sự hay không, biện pháp khắc phục hậu
quả, bồi thường thiệt hại là như thế nào. Chính vì thế, hiện tượng hình sự hóa
26
các quan hệ dân sự dẫn đến một số hậu quả, một là xảy ra nhiều án oan sai khi
điều tra hình sự được tiến hành đối với những vi phạm nghĩa vụ dân sự, hai là
vấn đề khắc phục hậu quả không được coi trọng, tâm lý “đi tù là hết nợ”, lấy
hình phạt hình sự thay thế cho nghĩa vụ bồi thường dân sự.
1.3. Kinh nghiệm pháp lý của một số nƣớc về nghĩa vụ của ngƣời
quản lý công ty và gợi mở cho Việt Nam
Hệ thống pháp luật Anh quy định các nghĩa vụ chủ yếu của người quản
lý công ty trong Luật công ty năm 2006 (Companies Act 2006). Đạo luật này
pháp điển hóa và cập nhật những nghĩa vụ của người quản lý công ty vốn đã
tồn tại trước năm 2006 tại Anh dưới nhiều hình thức khác nhau như án lệ, các
quy định riêng lẻ trong các đạo luật khác nhau, luật công bình … Đạo luật yêu
cầu những người quản lý công ty, trong số các nhiệm vụ của mình, phải quan
tâm đến các yếu tố nâng cao giá trị của cổ đông (nguyên bản tiếng Anh
“enlightened shareholder value”). Chúng bao gồm lợi ích của người lao động,
sự cần thiết phải đối xử công bằng giữa các thành viên và tác động của các hoạt
động của công ty tới môi trường. Mặc dù vậy, cần lưu ý rằng những nghĩa vụ
này phải được giải thích dựa trên cơ sở các án lệ cũ mà vẫn giữ được tính liên
quan. Những nghĩa vụ luật định này cũng không thể bị nhìn nhận một cách
riêng biệt bởi vì những người quản lý công ty còn chịu sự điều chỉnh của nhiều
quy tắc, quy phạm khác, ví dụ như Luật phá sản 1986, Luật về loại bỏ người
quản lý công ty 1986 và Luật sức khỏe và an toàn lao động 1974 8, tr. 176].
Những nghĩa vụ có tính chất căn bản được pháp điển hóa trong đạo luật
này bao gồm 7 nhóm sau:
- Hành động phù hợp với thẩm quyền;
- Thúc đẩy sự thành công của công ty vì lợi ích của các thành viên,
đồng thời quan tâm đến các vấn đề được đề cập như là các yếu tố nâng cao
giá trị của cổ đông;
27
- Đưa ra những phán quyết độc lập;
- Có sự quan tâm, kỹ năng và sự cẩn trọng hợp lý;
- Không nhận các lợi ích từ bên thứ ba; và
- Công khai các lợi ích trong các giao dịch với công ty được đề xuất.
Cách phân nhóm và gọi tên có thể có những khác biệt giữa pháp luật
Anh Quốc và pháp luật Hoa Kỳ, Úc hay các quốc gia theo hệ thống thông luật
khác [12, tr. 232], tuy nhiên, về bản chất, những nội dung này là tương đồng,
bởi lẽ những giá trị được xem như chuẩn mực đạo đức của người quản lý
công ty này, ban đầu chỉ có tính chất định tính nhưng theo thời gian, ngày
càng được minh chứng rõ ràng thông qua các án lệ và những quy tắc hình
thành từ án lệ (Ví dụ như quy tắc phán đoán trong kinh doanh, học thuyết về
cơ hội kinh doanh thuộc về công ty …).
Ở đây cũng cần nói thêm về căn nguyên của sự ra đời các quy định về
nghĩa vụ của người quản lý công ty. Có hai lí do trọng yếu, thứ nhất, những
người quản lý công ty được xem như những người đại diện cho chủ sở hữu
của công ty (cổ đông, thành viên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV …), mối
quan hệ này không chỉ mang lại quyền mà cũng có thể tạo lập những nghĩa vụ
cho chủ ủy, chính vì thế, người quản lý nếu không có đủ những tiêu chuẩn cần
thiết thì hoàn toàn có thể tạo ra thua lỗ, mất tài sản đầu tư. Thứ hai, bản chất
tự nhiên của người đại diện yêu cầu họ phải có những sự tự do nhất định trong
thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền, phạm vi này càng rộng hơn trong kinh
doanh khi sự linh hoạt, nhanh nhạy là yếu tố tối cần thiết để tạo ra lợi nhuận,
từ đó, người quản lý công ty có rất nhiều cơ hội để tư lợi cho bản thân hoặc
những người mà họ mong muốn. Bởi thế, pháp luật công ty các nước đều cần
có quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của người quản lý công ty mà những
nghĩa vụ như cẩn trọng và trung thành là không thể thiếu.
28
* Fiduciary duties: nghĩa vụ mẫn cán, trung thực là bản chất của nghĩa
vụ của người quản lý công ty.
Theo thẩm phán Frankfurter trong vụ SEC v. Chenery Corp (1947) tại
Hoa Kỳ, việc nói rằng một người có nghĩa vụ mẫn cán trung thực mới chỉ là
sự bắt đầu của quá trình phân tích – hay chính là định hướng cho các câu hỏi
tiếp theo. Người được thụ hưởng nghĩa vụ đó là ai? Những nghĩa vụ cụ thể
nào được bao hàm trong phạm vi mẫn cán trung thực? Người đó đã vi phạm
nghĩa vụ đó ở khía cạnh nào? Cũng như hậu quả của vi phạm đó? Nhận định
này thường được trích dẫn mở đầu cho nhiều các công trình nghiên cứu về
loại nghĩa vụ mẫn cán trung thực nói chung cũng như nghĩa vụ của người
quản lý công ty nói riêng, để cho thấy việc xác định rõ ràng thế nào là nghĩa
vụ mẫn cán, trung thực là không hề dễ dàng.
Đây không phải là một nghĩa vụ cụ thể (như phải trao vật, trả tiền …)
mà là một tập hợp các nghĩa vụ nhất định, hình thành trên một chế định truyền
thống của pháp luật công ty ở hệ thống các nước common law. Nghĩa vụ
fiduciary của người quản lý công ty đối với công ty cũng giống như các nghĩa
vụ mẫn cán, trung thực khác, ví dụ như trong quan hệ đại diện hoặc ủy thác
(theo nghĩa của truyền thống common law là trust chứ không giống như quan
hệ ủy thác thương mại như trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp
luật có liên quan). Nghĩa vụ này dựa trên nguyên tắc, triết lý sau: nghĩa vụ
này yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ một cách tốt nhất, thay vì
yêu cầu một kết quả cụ thể. Bất cứ khi nào một người thứ nhất đặt sự tin
tưởng vào một người thứ hai và kiến thức của người thứ hai thì rất có thể đã
có một mối quan hệ tín thác như vậy đã được xác lập. Mối quan hệ đó sẽ áp
đặt lên người thứ hai nghĩa vụ phải hành động vì lợi ích tốt nhất của người
thứ nhất. Vì công ty đã được tín thác cho những người quản lý, họ phải thực
hiện/thể hiện thiện chí tối đa đối với công ty, trong cả quan hệ kinh doanh với
29
công ty lẫn khi thay mặt công ty thực hiện các giao dịch. Tuy nhiên, các nghĩa
vụ này chỉ áp dụng đối với những gì mà người quản lý công ty nhận được mà
không có sự nhất trí của công ty (được hiểu là …) thông qua các cuộc họp của
ĐHĐCĐ hoặc HĐTV. Ví dụ, những người quản lý công ty có thể kiếm lợi từ
vị trí của họ nhưng họ không được kiếm khoản lợi đó mà không có sự chấp
thuận của công ty, hành động thông qua ĐHĐCĐ hoặc HĐTV.
Lưu ý rằng:
- Mặc dù thẩm quyền của những người quản lý để ràng buộc công ty
thường yêu cầu họ hành động như một hội đồng (trong HĐQT hoặc HĐTV),
nghĩa vụ mẫn cán, trung thực là riêng rẽ, áp dụng đối với từng người quản lý
công ty, bất kể người quản lý công ty nào cũng phải hành động vì lợi ích cao
nhất của công ty, bất kể hội đồng hoặc những người quản lý khác hành động
như thế nào. Vi phạm nghĩa vụ này sẽ dẫn đến trách nhiệm của cá nhân từng
người quản lý công ty;
- Nghĩa vụ mẫn cán trung thực là nghĩa vụ của người quản lý công ty
đối với công ty (như một tổng thể tất cả các thành viên, cổ đông) chứ không
phải riêng đối với cổ đông nào.
Trong vụ Percival v.Wright (1902) tại Anh, người quản lý công ty đã
mua một số cổ phần từ một thành viên của công ty mà không tiết lộ rằng việc
đàm phán đang được thực hiện để bán toàn bộ cổ phần của công ty với một
giá cao hơn. Trên thực tế, người quản lý công ty không hề có một giao dịch
bán lại nào. Nguyên đơn là thành viên đã bán số cổ phần cho người quản lý
công ty đó đã yêu cầu tòa án hủy bỏ giao dịch với những người quản lý công
ty vì thông tin về quá trính đàm phán nói trên đã không được tiết lộ. Tuy
nhiên, tòa án đã phán quyết rằng giao dịch đó không bị hủy bỏ vì những
người quản lý công ty không có nghĩa vụ mẫn cán, trung thực đối với các cổ
đông với tư cách cá nhân [12, tr. 241].
30
Quyết định này đã phải chịu nhiều chỉ trích và những người quản lý có
liên quan, ngày nay, có thể bị buộc tội hình sự vì thực hiện giao dịch nội gián
trong các trường hợp tương tự liên quan đến chứng khoán niêm yết. Tuy nhiên,
trong Percival v. Wright – một giao dịch chứng khoán riêng lẻ thì quyết định
này không bị ảnh hưởng bởi các quy định về giao dịch nội gián 8, tr. 327].
Tuy nhiên, có những trường hợp, người quản lý công ty có nghĩa vụ
mẫn cán trung thực đối với các chủ nợ của công ty. Ví dụ như trong trường
hợp công ty mất khả năng thanh toán hoặc sắp gặp phải khó khăn tài chính
nghiêm trọng. Đơn cử như khi công ty đang trong tình trạng phá sản, nếu
những người quản lý công ty từ bỏ quyền đòi nợ công ty có đối với công ty
khác thì dĩ nhiên, sự từ bỏ này đã làm hại đến công ty (cụ thể hơn là khả năng
trả nợ của công ty) và nó sẽ bị xem là vi phạm nghĩa vụ mẫn cán trung thực
đối với không chỉ công ty, các cổ đông của công ty mà còn cả với các chủ nợ
của công ty. Điều này thực sự có ý nghĩa như thế nào? Nếu chúng ta cho rằng
những thiệt hại là do người quản lý công ty gây ra cho công ty, do đó người
quản lý phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với những tổn thất đó là đủ thì đã
bỏ qua một điểm mấu chốt vô cùng quan trọng đảm bảo sự nghiêm minh của
quy định này, đó chính là cách thức thi hành/buộc thi hành nghĩa vụ này trên
thực tế. Xét trong trường hợp đã nêu, nếu những chủ nợ không phải là đối
tượng được thụ hưởng nghĩa vụ mẫn cán, trung thực của những người quản lý
công ty thì những chủ nợ sẽ không có tư cách (i) yêu cầu những người quản lý
công ty thực hiện những nghĩa vụ này với mình hay (ii) yêu cầu tòa án buộc
những người quản lý công ty phải hành động hoặc không hành động vì lợi ích
của mình. Hay nói cách khác, không có một mối quan hệ trái vụ (trực tiếp)
nào giữa những chủ nợ và những người quản lý công ty để làm cơ sở cho
quyền yêu cầu, hậu quả là mọi hành động của những chủ nợ công ty, khi
muốn bảo vệ lợi ích của mình đều phải hành động thông qua công ty/hội đồng
31
chủ nợ, trên cơ sở yêu cầu công ty hoặc Tòa án thực hiện. Như vậy, sẽ dẫn
đến khả năng công ty không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, bỏ qua quyền
lợi của những chủ nợ nhất định, vì thực chất công ty (hay chính xác hơn là
nhóm người nắm quyền điều hành) hay Tòa án cũng đều không có lợi ích gì
từ việc ràng buộc thêm trách nhiệm cho những người quản lý công ty. Tóm
lại, nếu tồn tại một nghĩa vụ mẫn cán trung thực mà người quản lý công ty
phải thực hiện đối với chủ nợ, mối quan hệ nghĩa vụ này sẽ là động cơ và
phương thức để những chủ nợ tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình một
cách hiệu quả.
Luật Việt Nam dường như chưa có cách thức quy định như đoạn trên
vừa đề cập. Soi chiếu vào Luật Phá sản cũ và Luật Phá sản mới đều không tìm
thấy quy định nào có tính chất tương tự. Tuy nhiên, nội dung này lại được thể
hiện phần nào trong một quy định có thể được xem là độc nhất của Luật
Doanh nghiệp, đó là Điều 190, viết chủ nợ có quyền nhân danh chính mình
hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con.
Như vậy, mặc dù chưa thể hiện được nguồn gốc của quyền yêu cầu này là
nghĩa vụ của người quản lý công ty đối với chủ nợ, quy định này cho phép
chủ nợ thực hiện quyền yêu cầu chính xác đối với công ty mẹ trong bối cảnh
hành động như một người quản lý của công ty con. Tuy còn hạn chế ở phạm
vi nhỏ lẻ, quy định này cho thấy pháp luật Việt Nam có thể tiếp thu nguyên lý
này, có thể là bằng cách tiếp nhận quy định tương tự như khoản 3, Điều 172
của Luật Công ty 2006 của Anh yêu cầu người quản lý công ty hành động
trong một số trường hợp cụ thể phải cân nhắc hoặc hành động vì lợi ích của
các chủ nợ của công ty.
Điều 309 Luật Công ty 1985 của Anh quy định rằng những người quản
lý công ty trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình có nghĩa vụ coi trọng
quyền lợi của người lao động của công ty (nói chung) cũng như lợi ích của
32
các thành viên/cổ đông của công ty. Quy định này cũng tương tự với Điều
172 Luật Công ty 2006 của Anh khi liệt kê quyền lợi của người lao động như
là một trong sáu yếu tố mà người quản lý công ty phải quan tâm cùng lúc với
thành công của công ty. Chế định này cũng quy định rằng đối với nghĩa vụ
này, những người quản lý công ty phải thực hiện đối với công ty và được thi
hành cũng giống như bất kỳ nghĩa vụ mẫn cán, trung thực nào khác mà những
người quản lý công ty có với công ty. Mặc dù mối quan hệ giữa những người
quản lý công ty với các cổ đông và người lao động là khác nhau, họ có nghĩa
vụ coi trọng lợi ích của cả hai nhóm này để hoàn thành nghĩa vụ với công ty
như một chỉnh thể [13, tr. 377]. Chính vì thế, pháp luật Anh phải quy định
một cách rõ ràng cho phép người quản lý công ty hành động vì lợi ích của
người lao động mà không phải lo sợ vi phạm của họ với công ty. Tuy nhiên
điều này không có nghĩa rằng họ có thể xếp lợi ích của công ty dưới lợi ích
của người lao động, VD như kinh doanh lỗ để duy trì việc làm; Mà điều đó có
nghĩa rằng quyền lực của các thành viên công ty để phản đối những hoạt động
có thể không có lợi cho họ bị hạn chế. VD như một thương vụ mua bán/sáp
nhập có thể sẽ phải có những dàn xếp để giảm thiểu sự mất việc làm, với điều
kiện là không gây hại quá lớn cho lợi ích tổng thể của công ty.
Có thể dễ dàng nhìn thấy, về mặt quy phạm, pháp luật Việt Nam đã ghi
nhận những từ ngữ như trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, vì lợi ích hợp pháp tối
đa của công ty trong các nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tuy nhiên, ta
cũng có thể dễ dàng nhận thấy khoảng cách rất lớn về mặt hiệu quả của quy
định đó trong pháp luật Anh – Mỹ và pháp luật Việt Nam. Khoảng cách này,
có thể nói là do những nguyên nhân sau: thứ nhất, ở Việt Nam nghĩa vụ mẫn
cán, trung thực chưa phải là một lý thuyết pháp lý đầy đủ ý nghĩa như trong
hệ thống thông luật, nói cách khác, nội hàm của nghĩa vụ này trong pháp luật
Việt Nam rất mơ hồ, không thể xác định. Thứ hai, với sự ảnh hưởng lớn của
33
truyền thống civil law, pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận án lệ. Có thể nói
đây chính là nguyên nhân chính duy trì sự mơ hồ liên quan đến bản chất của
nghĩa vụ của người quản lý công ty khi thực tiễn xét xử không thể bồi đắp và
làm sáng tỏ nội hàm của nghĩa vụ đó.
* Nghĩa vụ sử dụng quyền hạn đúng mục đích được trao.
Nếu những người quản lý công ty sử dụng quyền hạn một cách không
trung thực vì những mục đích không phù hợp, ví dụ như kiếm lợi cho bản
thân bằng chi phí của công ty, họ sẽ không được xem là hành động thiện chí
vì vậy vi phạm nghĩa vụ hành xử thiện chí vì lợi ích của công ty.
Tuy nhiên, nếu người quản lý công ty hành động trung thực khi họ tin
rằng đó là vì lợi ích tối đa của công ty, họ vẫn có thể phải chịu trách nhiệm
nếu họ không sử dụng quyền hạn với đúng những mục đích mà vì thế họ được
trao quyền.
Trong vụ Hogg v. Gramhorn (1967) vì muốn ngăn chặn một vụ thâu
tóm mà họ tin rằng sẽ có hại cho công ty, các giám đốc đã phát hành cổ phần
mà mỗi phần có 10 phiếu biểu quyết cho người trustee của quỹ cấp dưỡng cho
người lao động. Cổ phần được thanh toán bằng một khoản vay không lãi suất
của công ty cho người trustee [14, tr. 241]. Tòa án đã kết luận rằng mục đích
hợp lý của phát hành cổ phần là tăng vốn, sự phát hành để ngăn chặn việc
thâu tóm là vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tuy nhiên, việc phát
hành vẫn thuộc quyền hạn của công ty, vì thế, có thể được phê chuẩn tại một
cuộc họp ĐHĐCĐ.
Mục đích phát hành sẽ được xem là không phù hợp nếu cổ phần được
phát hành chỉ nhằm mục đích duy nhất là phá bỏ tình trạng chi phối cổ phần
(bởi những cổ đông lớn) đang tồn tại trong công ty. Tuy nhiên, cổ phần được
phát hành không chỉ nhằm mục đích duy nhất là tăng vốn, ví dụ như một công
ty phát hành cổ phần cho một công ty lớn hơn để đảm bảo tính ổn định của
chính công ty phát hành.
34
Một ví dụ về việc sử dụng không đúng mục đích quyền hạn có thể được
thấy trong những trường hợp mà ở Anh Quốc được gọi là “viên thuốc độc”
hay “hàng rào cá mập”. Đó là khi những người quản lý công ty áp dụng
những biện pháp/cơ chế phòng thủ chống lại sự mua lại không mong muốn
hoặc có ý đồ thù địch hay để thay đổi quyền lực trong HĐQT. Trong vụ
Criterion Properties PLC v. Stratford UK Properties (2002), giám đốc của
công ty và một cổ đông lớn của công ty ký một hợp đồng mà yêu cầu công ty
mua lại cổ phần của họ ở giá cao hơn nếu có bất kỳ sự thay đổi nào trong việc
kiểm soát hoặc trong thành phần của HĐQT [14, tr. 219]. Người giám đốc sau
đó bị miễn nhiệm và công ty đã yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng đó
trên cơ sở cho rằng đó là sự sử dụng không đúng quyền hạn của người quản lý
công ty. Tòa án cấp cao (High Court) đã phán quyết rằng đó là sự sử dụng
không phù hợp quyền hạn và hợp đồng đó là vô hiệu. Tòa án đã cân nhắc giữa
ưu, nhược điểm của việc công ty thi hành hợp đồng và phát hiện ra rằng giá
của công ty phải trả khi mua lại cổ phần lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ sự bất
lợi nào nếu thay đổi quyền hạn trong HĐQT.
Điều 80 của Luật Công ty 1985 Anh Quốc quy định thẩm quyền chấp
thuận của công ty đối với sự phân chia cổ phần của những người quản lý công
ty và điều đó có thể tác động đến những vụ án đã được quy định, ví dụ như
trong vụ Hogg v. Cramhorn. Quy tắc này cũng được áp dụng một cách công
bằng đối với những quyền lực khác được trao cho những người quản lý công
ty mà không yêu cầu sự chấp thuận của công ty. Ví dụ như việc bắt buộc đăng
ký chuyển nhượng cổ phần. Theo đó, trong trường hợp cổ đông đăng ký
nhưng không thanh toán đủ số cổ phần đó thì người quản lý công ty có quyền
tịch thu toàn bộ số cổ phần mà cổ đông đó đã đăng ký để chuyển nhượng cho
người khác. Lưu ý rằng quyền này phải được ghi nhận rõ ràng trong điều lệ
của công ty thì mới có khả năng thi hành.
35
Nghĩa vụ sử dụng quyền hạn đúng mục đích được trao có thể nói là
nghĩa vụ có phần nội dung ngắn nhất và dễ hiểu nhất trong số các nghĩa vụ
luật định cho người quản lý công ty. Điều 171 Luật Công ty 2006 của Anh
quy định nghĩa vụ này gồm hai vế, vế thứ nhất là hành động phù hợp với quy
định của điều lệ công ty và vế thứ hai là chỉ hành động vì các mục đích mà vì
thế họ được trao quyền. Pháp luật Việt Nam đã có các quy định tương tự cho
vế thứ nhất với các quy định người quản lý công ty phải thực hiện các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của điều lệ cũng như nghị quyết của (các) chủ sở
hữu công ty hành động qua ĐHĐCĐ/HĐTV. Vế thứ hai, khi mà mục đích của
việc trao quyền cho những người quản lý công ty là một vấn đề khó làm rõ
theo pháp luật Việt Nam, cần phải xem xét kỹ lưỡng khi thực hiện quá trình
tiếp nhận pháp luật.
* Nghĩa vụ hành xử thiện chí và vì lợi ích tổng thể của công ty.
Để xem xét loại nghĩa vụ này, trước hết chúng ta cần hiểu rõ hoặc
định nghĩa được thế nào là lợi ích của một thực thể pháp lý hoặc pháp
nhân. Có một điểm rõ ràng rằng những người quản lý công ty không thể tối
đa hóa lợi nhuận kinh tế của công ty nếu bỏ qua lợi ích của các thành viên
– khi mà điều đó có thể được thực hiện một cách đơn giản nhất thông qua
giữ lại tất cả những cổ tức có thể chia. Cụm từ “lợi ích của công ty” hay
“lợi ích tổng thể của công ty” cơ bản được người Anh hiểu rằng người
quản lý công ty có nghĩa vụ quan tâm đến lợi ích của những thành viên
hiện tại và tương lai của công ty, hay nói cách khác, cụ thể hơn là họ phải
nhìn nhận công ty như một thực thể đang tồn tại và phát triển và phải cân
bằng những lợi ích dài hạn với những lợi ích trước mắt của những thành
viên đang hiện hữu. Ý tưởng này, không gì khác hơn chính là nguyên lý cốt
lõi của sự phát triển bền vững, thứ được đề cập nhiều hơn cả trong các
chuyên đề/đề tài nghiên cứu về môi trường.
36
Một điều sẽ không được coi là vì lợi ích của công ty nếu họ hành động
vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của bên thứ ba mà không xem xét đến
lợi ích của công ty. Ở khía cạnh này, pháp luật Anh đã phát triển hơn pháp
luật Việt Nam một bậc khi đưa vào yếu tố “xem xét đến lợi ích của công ty”
hơn là chỉ có một khía cạnh tư lợi hoặc vì lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
Trong vụ Re Roith (1967) một cổ đông chi phối và giám đốc của công
ty mong muốn chu cấp cho góa phụ của ông ta mà không cho cô ta sở hữu cổ
phần đó, đã dựa trên tư vấn pháp lý của luật sư, lập một hợp đồng với công ty
mà theo đó, khi cổ đông chi phối đó chết đi, cô ta sẽ được công ty cấp dưỡng
suốt đời. Khi mà mục đích duy nhất của giao dịch là vì lợi ích của người góa
phụ, hợp đồng đó không ràng buộc công ty vì người quản lý công ty đã không
có thẩm quyền ký kết hợp đồng đó khi anh ta vi phạm nghĩa vụ hành động vì
lợi ích của công ty.
Năm 2003, trong vụ Bristish Midland Tools v. Midland International
Trading, hai giám đốc của nguyên đơn chuẩn bị nghỉ hưu đã cũng với một
giám đốc nghỉ hưu trước đó thành lập một công ty đối thủ, tòa án đã kết luận
rằng họ đã vi phạm nghĩa vụ hành xử thiện chí vì lợi ích của công ty khi mà
trong lúc họ còn đương chức [14, tr. 249]. Sai phạm ở đây là việc họ đã không
có hành động thích hợp để ngăn chặn công ty đối thủ tiếp cận và mời những
người lao động của công ty chuyển sang làm việc cho công ty đó (thực tế đã
có 12 người lao động chuyển việc). Vì những người quản lý này sẽ có được
lợi ích khi những người lao động chuyển sang công ty mà họ đã thành lập,
hành vi không hành động của họ được xem là vi phạm nghĩa vụ hành động
thiện chí, vì lợi ích tổng thể của công ty cũ.
Việc từ thiện và quyên góp chính trị với giá trị đáng kể có thể đem lại
những lợi ích cho công ty khi mà nó là một thực thể đang tồn tại và phát triển,
nhưng nếu công ty đang chuẩn bị chấm dứt hoạt động thì không có lợi ích nào
37
có thể đạt được khi hành động vì lợi ích của những người bên ngoài công ty.
Trong trường hợp đó, lợi ích của công ty phải được giới hạn trong lợi ích của
các thành viên hiện tại (vì trên thực tế, khi công ty chấm dứt hoạt động, sẽ
không còn có thành viên tương lai nào hết).
Nếu sự vi phạm nghĩa vụ là dưới hình thức sử dụng sai tài sản của công
ty thì người nhận được tài sản đó và người biết về vi phạm sẽ có nghĩa vụ như
một người trustee với công ty và phải hoàn trả tài sản cho công ty.
Nghĩa vụ này trong Luật Công ty 2006 của Anh còn quy định rằng, sáu
yếu tố bắt buộc sau cũng phải được xem xét trong quá trình người quản lý
công ty thúc đẩy sự thành công của công ty:
(i) hậu quả trong dài hạn của bất kỳ quyết định nào;
(ii) lợi ích của người lao động của công ty;
(iii) quan hệ của công ty với các nhà cung cấp và khách hàng;
(iv) tác động của các hoạt động của công ty đến cộng đồng và môi trường;
(v) lợi thế của công ty khi có tiếng là có tiêu chuẩn nghề nghiệp cao; và
(vi) sự công bằng giữa các cổ đông/thành viên.
Có thể thấy, những tiêu chí này hướng đến sự phát triển bền vững, hài
hòa của công ty trong mối quan hệ với những lợi ích khác hơn là lợi nhuận.
Mặc dù vậy, những yếu tố này cũng bị đánh giá là chưa đầy đủ và tạo ra một số
gánh nặng không cần thiết cho những người quản lý công ty, đặc biệt là liên
quan đến việc chứng minh sự tuân thủ với quy định này. Pháp luật Việt Nam
hiện nay không có quy định nào liên quan đến việc người quản lý công ty phải
thúc đẩy sự thành công của công ty theo hướng phát triển mà chủ yếu chỉ là
yêu cầu tuân thủ, không gây hại hoặc không vi phạm, hay nói cách khác, là ở
dạng thức bị động. Ngoài ra, một số trong sáu tiêu chí kể trên hiện tại được coi
là trách nhiệm của doanh nghiệp chứ chưa thiết lập được mối liên hệ chặt chẽ
với nghĩa vụ hiện thực hóa những điều đó bởi người quản lý công ty.
38
* Nghĩa vụ duy trì sự tự do hành động.
Những người quản lý công ty phải đưa ra quyết định một cách độc lập.
Những người quản lý công ty không thể hợp đồng hợp pháp với nhau
hoặc với bên thứ ba để hành động/biểu quyết theo một cách thức nhất định
nếu họ được quyền biểu quyết trong các cuộc họp HĐQT. Nghĩa vụ này của
người quản lý công ty sẽ không bị xem là vi phạm nếu quyết định của họ bị
ràng buộc bởi (i) thỏa thuận của công ty hạn chế quyền quyết định của những
người quản lý công ty của mình hoặc (ii) những cách thức được cho phép
trong điều lệ công ty.
Thông thường, bên cho vay sẽ chắc chắn muốn có người đại diện của
mình tham gia HĐQT của công ty vay như một điều kiện để cho vay. Bằng
cách này, bên cho vay đó sẽ có thể can thiệp vào công việc quản trị của công
ty vay, từ đó đảm bảo các lợi ích của mình, đặc biệt là với khoản vay. Về mặt
lý thuyết, nghĩa vụ của người quản lý công ty đó sẽ là đối với công ty chứ
không phải đối với bên cho vay đã đề cử họ. Một ví dụ khác là trong các công
ty liên doanh, khi mà mỗi bên liên doanh sẽ cử một số người quản lý công ty.
Tuy nhiên, những người quản lý này phải hành động vì lợi ích tổng thể của
công ty chứ không phải vì lợi ích nhóm của bên liên doanh đã bổ nhiệm họ.
Ngoài ra, nghĩa vụ này cũng có ý nghĩa ràng buộc những người quản lý
công ty không thể từ bỏ quyền đưa ra các quyết định của mình, ví dụ như ủy
quyền mà không thể hủy ngang hoặc không thể thay đổi ý định.
Có thể nói, ở khía cạnh nào đó, nghĩa vụ duy trì tự do hành động của
người quản lý công ty có phần giống với nguyên tắc độc lập tư pháp, thẩm
phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cũng tương đồng với mục
đích đó, sự độc lập trong đưa ra phán quyết/quyết định được cho là đảm bảo
sự đánh giá là khách quan, trung thực và không thiên vị, từ đó đảm bảo được
lợi ích của công ty. Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có quy
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY
Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY

More Related Content

What's hot

Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Viết thuê báo cáo thực tập giá rẻ
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...KhoTi1
 
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...https://www.facebook.com/garmentspace
 

What's hot (20)

Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệpLuận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
Luận văn: Hợp đồng nhượng quyền thương mại tại doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
Luận văn: Pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh tại quận 7
 
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
Báo cáo thực tập Thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về ngành nghề kin...
 
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAYLuận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
Luận văn: Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo pháp luật, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viênLuận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
Luận văn: Trách nhiệm của người quản lý công ty TNHH 2 thành viên
 
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOTQuản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
Quản trị Công ty cổ phần theo mô hình không có Ban kiểm soát, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOTLuận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
Luận văn: Pháp luật về mua bán doanh nghiệp ở Việt nam, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAYLuận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
Luận văn: Pháp luật về Quản trị công ty đại chúng ở Việt Nam, HAY
 
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùngLuận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
Luận văn: Trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng
 
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lậpLuận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
Luận văn: Quy chế pháp lý của thành viên hội đồng quản trị độc lập
 
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DNĐề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
Đề tài: Pháp luật đăng ký thành lập doanh nghiệp, tư vấn thành lập DN
 
Luận văn: Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật
Luận văn: Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luậtLuận văn: Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật
Luận văn: Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật
 
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nướcLuận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp nhà nước
 
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
LUẬN VĂN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN TỪ THỰC TIỄN...
 
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nayLuận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
Luận án: Pháp luật về quản trị doanh nghiệp nhà nước hiện nay
 
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAYLuận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
Luận văn: Đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần, HAY
 
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOTLuận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
Luận văn: Pháp luật về hoạt động mua bán doanh nghiệp, HOT
 
Luận văn: Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt NamLuận văn: Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam
Luận văn: Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam
 
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
Luận án tiến sĩ luật học hoàn thiện pháp luật về kiểm soát giao dịch giữa côn...
 
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOTLuận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
Luận văn: Giải quyết xung đột pháp luật về hợp đồng, HOT
 

Similar to Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY

Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Viết thuê trọn gói ZALO 0934573149
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019PinkHandmade
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfHanaTiti
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxNhận Viết Đề Tài Trọn Gói ZALO 0932091562
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...anh hieu
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngDịch vụ Làm Luận Văn 0936885877
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Namhieu anh
 

Similar to Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY (20)

Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAYLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH tại thành phố Hà Nội, HAY
 
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
Luận án: Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn...
 
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà NộiLuận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
Luận văn: Pháp luật về công ty TNHH một thành viên tại Hà Nội
 
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
LUẬN ÁN LUẬT HỌC QUẢN TRỊ CÔNG TY LUẬT THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM_10240312052019
 
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận án: Quản trị công ty luật theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệpChế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp
 
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đQuản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
Quản trị công ty TNHH một thành viên theo Luật doanh nghiệp, 9đ
 
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdfChấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
Chấm dứt doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam hiện nay.pdf
 
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAYLuận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
Luận văn: Chấm dứt Doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam, HAY
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docxLuận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
Luận Văn Thạc Sĩ Pháp Luật Về Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Một Thành Viên.docx
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOTChế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
Chế định Ban kiểm soát của công ty theo Luật Doanh nghiệp, HOT
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt NamLuận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
Luận văn: Thủ tục phục hồi trong pháp luật phá sản ở Việt Nam
 
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
Pháp luật về công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên từ thực tiễn thành ph...
 
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệpLuận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
Luận văn: Pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp
 
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp, HAYLuận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp, HAY
Luận văn: Pháp luật về tổ chức quản lý Doanh nghiệp, HAY
 
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây DựngBáo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
Báo Cáo Thực Tập Công Tác Pháp Chế Trong Công Ty Xây Dựng
 
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt NamPháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
Pháp luật về công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620
 

More from Dịch vụ viết bài trọn gói ZALO: 0909232620 (20)

Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Tiểu Luận Chuyên Viên Chính Về Bảo Hiểm Xã Hội Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 ĐiểmDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Trị Nguồn Nhân Lực, 9 Điểm
 
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý TưởngDanh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
Danh Sách 200 Đề Tài Luận Văn Thạc Sĩ Quản Lý Văn Hóa Giúp Bạn Thêm Ý Tưởng
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quản Lý Giáo Dục Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Quan Hệ Lao Động Từ Sinh Viên Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Nuôi Trồng Thủy Sản Dễ Làm Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Sư, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phòng, Chống Hiv, Mới Nhất, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Phá Sản, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Nhà Ở, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Ngân Hàng, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới NhấtDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Môi Trường, Mới Nhất
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hộ Tịch, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hình Sự , Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Hành Chính, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Giáo Dục, Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đấu Thầu, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm CaoDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đầu Tư Công, Dễ Làm Điểm Cao
 
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá GiỏiDanh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
Danh Sách 200 Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Đất Đai, Từ Sinh Viên Khá Giỏi
 

Recently uploaded

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘIĐiện Lạnh Bách Khoa Hà Nội
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfhoangtuansinh1
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...Nguyen Thanh Tu Collection
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdfTrnHoa46
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxhoangvubaongoc112011
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...Nguyen Thanh Tu Collection
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢImyvh40253
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfTrnHoa46
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...Nguyen Thanh Tu Collection
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfNguyen Thanh Tu Collection
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh chonamc250
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...Nguyen Thanh Tu Collection
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảohoanhv296
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngYhoccongdong.com
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................TrnHoa46
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docxTHAO316680
 

Recently uploaded (20)

3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
3-BẢNG MÃ LỖI CỦA CÁC HÃNG ĐIỀU HÒA .pdf - ĐIỆN LẠNH BÁCH KHOA HÀ NỘI
 
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
GIÁO ÁN DẠY THÊM (KẾ HOẠCH BÀI DẠY BUỔI 2) - TIẾNG ANH 7 GLOBAL SUCCESS (2 CỘ...
 
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdfChuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
Chuong trinh dao tao Su pham Khoa hoc tu nhien, ma nganh - 7140247.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
ĐỀ CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT CÁC TỈNH THÀNH NĂM HỌC 2020 –...
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI LÝ LUẬN VĂN HỌC NĂM HỌC 2023-2024 - MÔN NGỮ ...
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
sách sinh học đại cương   -   Textbook.pdfsách sinh học đại cương   -   Textbook.pdf
sách sinh học đại cương - Textbook.pdf
 
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptxNhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
Nhiễm khuẩn tiêu hóa-Tiêu chảy do vi khuẩn.pptx
 
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
TỔNG HỢP ĐỀ THI CHÍNH THỨC KỲ THI TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 THPT MÔN NGỮ VĂN NĂM ...
 
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢIPHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
PHƯƠNG THỨC VẬN TẢI ĐƯỜNG SẮT TRONG VẬN TẢI
 
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdfCampbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
Campbell _2011_ - Sinh học - Tế bào - Ref.pdf
 
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
30 ĐỀ PHÁT TRIỂN THEO CẤU TRÚC ĐỀ MINH HỌA BGD NGÀY 22-3-2024 KỲ THI TỐT NGHI...
 
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdfBỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
BỘ LUYỆN NGHE VÀO 10 TIẾNG ANH DẠNG TRẮC NGHIỆM 4 CÂU TRẢ LỜI - CÓ FILE NGHE.pdf
 
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh choCD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
CD21 Exercise 2.1 KEY.docx tieng anh cho
 
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI 200 C...
 
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảoKiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
Kiểm tra cuối học kì 1 sinh học 12 đề tham khảo
 
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng ĐồngGiới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
Giới thiệu Dự án Sản Phụ Khoa - Y Học Cộng Đồng
 
Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................Đề cương môn giải phẫu......................
Đề cương môn giải phẫu......................
 
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
1.DOANNGOCPHUONGTHAO-APDUNGSTEMTHIETKEBTHHHGIUPHSHOCHIEUQUA (1).docx
 

Luân văn: Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật, HAY

  • 1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HOÀNG DUY NGHÜA Vô CñA NG¦êI QU¶N Lý C¤NG TY THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HOÀNG DUY NGHÜA Vô CñA NG¦êI QU¶N Lý C¤NG TY THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGÔ HUY CƢƠNG HÀ NỘI - 2015
  • 3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi, cũng như độ tin cậy và trung thực. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quản điểm của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2015 Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Duy
  • 4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Ngô Huy Cương, các thầy cô giảng viên và cán bộ tại Bộ môn Luật Kinh doanh, Phòng quản lý Đào tạo và Nghiên cứu Khoa học, Phòng Hành chính tổng hợp, bộ phận thư viện cũng như các phòng ban khác trong Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện, giúp đỡ, hướng dẫn và hỗ trợ để tôi có thể hoàn thành luận văn thạc sỹ này. Tác giả luận văn Nguyễn Hoàng Duy
  • 5. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY....................................................................... 5 1.1. Quan niệm về nghĩa vụ ..................................................................... 5 1.2. Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty....................... 8 1.2.1. Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty ..................... 8 1.2.2. Mô hình quản trị công ty...................................................................10 1.2.3. Khái niệm người quản lý công ty......................................................13 1.2.4. Khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty ................................20 1.3. Kinh nghiệm pháp lý của một số nƣớc về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty và gợi mở cho Việt Nam ......................................26 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ...........................................................47 2.1. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty.......................................................................47 2.2. Một số đánh giá về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam .........................................................................60 2.2.1. Một số đánh giá về quy định pháp luật .............................................60 2.2.2. Vấn đề tồn tại trong ý thức pháp luật................................................62
  • 6. Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM...........................................................................67 3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty...............................................67 3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty...............................................................72 KẾT LUẬN....................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................78
  • 7. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS: Bộ luật Dân sự CTCP: Công ty cổ phần ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông HĐQT: Hội đồng quản trị HĐTV: Hội đồng thành viên LDN: Luật Doanh nghiệp TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
  • 8. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định cơ bản của pháp luật về công ty hướng tới việc bảo đảm quản trị tốt công ty. Mặc dù nghĩa vụ của người quản lý công ty có vai trò rất quan trọng trong thực tiễn quản trị công ty và trong pháp luật điều tiết các hoạt động của công ty. Song ở nước ta cho đến nay, chưa có các công trình nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt về chế định này. Các vấn đề lý luận và thực tiễn về nghĩa vụ của người quản lý công ty mới chỉ được giới thiệu sơ lược trong các giáo trình giảng dạy tại các cơ sở đào tạo luật, cũng như trong một số ít ỏi các công trình nghiên cứu về công ty hay doanh nghiệp. Do đó các qui định pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty trong các đạo luật về doanh nghiệp được ban hành trong nhiều năm qua kể từ khi “đổi mới” chưa hoàn toàn có tác dụng trong thực tiễn kinh doanh và thiếu ý nghĩa pháp lý. Xét từ thực tiễn, việc áp dụng các qui định về nghĩa vụ của người quản lý công ty ở nước ta trong thời gian vừa qua rất hiếm khi và còn nhiều hạn chế. Do đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, sự thúc bách của việc xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh hướng tới hội nhập và cạnh tranh quốc tế, trên cơ sở tiếp thu phần nào đấy của kinh nghiệm nước ngoài, Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã có bước cải cách nhất định so với Luật Doanh nghiệp năm 2005 liên quan tới nghĩa vụ của người quản lý công ty. Chế định này đã được quan tâm hơn, dành nhiều dung lượng trong khuôn khổ một đạo luật chung về doanh nghiệp. Tuy nhiên, còn có thể thấy ở đó nhiều khiếm khuyết và khó có thể đi vào đời sống có lẽ bởi thiếu một nền tảng nghiên cứu chuyên sâu. Trong khi đó ở nước ta hiện nay, hiện tượng làm ăn chụp giật và vấn đề vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người quản lý công ty không thể không nói là đang diễn ra khá phức tạp và gây ảnh hưởng rất xấu tới môi trường kinh
  • 9. 2 doanh. Vì vậy việc hoàn thiện các qui định pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty hiện nay là một nhu cầu cấp thiết. Bởi những lý do kể trên, tôi lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định truyền thống của luật công ty và được sử dụng rất nhiều trong thực tiễn tranh chấp nội bộ công ty, nên thường được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu về công ty nói chung và quản trị công ty nói riêng, cũng như trong quản trị từng loại hình công ty cụ thể. Vì vậy có thể nói nghĩa vụ của người quản lý công ty là đề tài nghiên cứu khá phổ biến ở các nước có nền kinh tế thị trường. Có thể liệt kê một số công trình tiêu biểu như như: “Business Law” của các tác giả Keith Abbott, Norman Pendlebury và Kevin Wardman xuất bản tại USA; “The Legal Environment of Business” của các tác giả Jethro K. Lieberman & George J. Sieded xuất bản tại Harcourt Brace Jovanovich Publisher, San Diego. New York. Chicago. Austin. Washington D.C. London. Sydney. Tokyo. Toronto năm 1989; “Laws of Corporations and Other Business Enterprises” của các tác giả Harry G. Henn & John R. Alexander xuất bản tại St. Paul, Minn. West Publishing Co. năm 1983… Ở Việt Nam cũng có một số công trình nghiên cứu về nghĩa vụ của người quản lý công ty, điển hình là: “Giáo trình luật thương mại – Phần chung và thương nhân” của PGS. TS Ngô Huy Cương xuất bản tại Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013; Các bài viết, nghiên cứu của một số học giả, ví dụ như PGS. TS Bùi Xuân Hải “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999 – Nhìn từ góc độ Luật so sánh” đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý tháng 4 năm 2005 và “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề trong pháp luật công ty Việt Nam”
  • 10. 3 đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý năm 2007 hoặc “Trách nhiệm người quản lý theo luật công ty Việt Nam” của Lê Đức Nghĩa đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp; và Một số các luận văn cao học như “Nghĩa vụ của người quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp 2005 – Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Nguyễn Thị Thái Vân năm 2010, “Nghĩa vụ của người quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam” của Trần Thị Kiều Oanh năm 2013 hay “Nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên” của Phan Thị Thu Nhài năm 2014. Các công trình này đã có những đóng góp không nhỏ cho khoa học pháp lý và đã tạo dựng một nền tảng vững chắc cho các bước nghiên cứu tiếp theo. Có thể thấy, các công trình nghiên cứu ở nước ngoài không đề cập đến pháp luật Việt Nam và sự phù hợp của các giải pháp được tạo dựng trong pháp luật nước ngoài với điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay. Trong khi đó, các công trình nghiên cứu ở Việt Nam chưa thực sự có hệ thống và đầy đủ về vấn đề này, một số thì có mục tiêu nghiên cứu quá chuyên sâu, riêng biệt (ví dụ như đi sâu vào nghĩa vụ của người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên), hay các bài viết trên các tạp chí thì thường tập trung vào nêu ra các vấn đề thay vì kiến nghị và xây dựng giải pháp hoặc bộ giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật. Ngoài ra, một số công trình được viết cách đây khá lâu làm phát sinh nhu cầu đánh giá, đối chiếu và so sánh khi Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời. Chính vì vậy đề tài này đối với pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn còn làm mảnh đất cần được khai phá. 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài Luận văn chủ trương phân tích, đánh giá pháp luật Việt Nam nhằm tìm kiếm những bất cập để kiến nghị hoàn thiện chế định pháp luật về nghĩa vụ của người quản lý công ty ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể việc nghiên cứu đề tài này nhằm các mục đích sau:
  • 11. 4 - Làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người quản lý công ty để lấy đó làm cơ sở tìm kiếm những bất cập của pháp luật liên quan; - Kiến nghị hoàn thiện chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty ở Việt Nam hiện nay. Luận văn chủ yếu nghiên cứu nghĩa vụ của người quản lý công ty trong công ty cổ phần và phần nào đấy trong công ty trách nhiệm hữu hạn (nếu công ty TNHH đó có mô hình quản trị có phần tách biệt tương đối về điều hành gần gũi với công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần) theo pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam. Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu nhằm tiếp thu những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia có truyền thống pháp luật lâu đời. Luận văn cũng chú ý đến các quy định có liên quan, trong phạm vi tương tự của các hệ thống pháp luật phát triển như Anh Mỹ, Úc, Singapore … 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Dựa trên cơ sở các luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng về phát triển kinh tế, xã hội, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau để nghiên cứu đề tài: (1) các phương pháp chung nghiên cứu khoa học xã hội bao gồm phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, xã hội học, phương pháp lịch sử; và (2) các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học pháp lý bao gồm phương pháp so sánh pháp luật, phương pháp phân tích qui phạm, phương pháp phân tích tình huống... 5. Bố cục của Luận văn Ngoài phần lời nói đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu chủ yếu của Luận văn được chia thành 03 chương như sau: Chương 1. Khái quát chung về nghĩa vụ của người quản lý công ty. Chương 2. Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của người quản lý công ty Chương 3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định nghĩa vụ của người quản lý công ty theo pháp luật Việt Nam
  • 12. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI QUẢN LÝ CÔNG TY 1.1. Quan niệm về nghĩa vụ Theo Bộ luật dân sự 2005, nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (bên có nghĩa vụ hoặc thụ trái) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể (bên có quyền hoặc trái chủ). Định nghĩa này nhắc đến các chủ thể của nghĩa vụ và các đối tượng của nghĩa vụ như vậy là không mang tính khái quát cao và không nhấn mạnh được bản chất của nghĩa vụ là một mối quan hệ mà trong đó có hai loại chủ thể có lợi ích trái ngược nhau. Một bên có quyền yêu cầu, là trái chủ và bên còn lại có nghĩa vụ, là thụ trái. Nghĩa vụ, hay trái quyền, là mối quan hệ trong đó trái chủ có quyền yêu cầu thụ trái thực hiện một đối tượng vì lợi ích của mình. Đối tượng đó có thể là vật hoặc hành vi hành động hoặc hành vi không hành động, như đã miêu tả trong Điều 280 của Bộ luật dân sự 2005. Theo PGS. TS Ngô Huy Cương, nghĩa vụ dân sự có ba đặc điểm quan trọng [2]. Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý, đặc trưng bởi khả năng cưỡng chế thi hành bằng quyền lực nhà nước. Hai thành tố được pháp luật công nhận và có giá trị cưỡng bức thi hành giúp phân biệt nghĩa vụ dân sự với nghĩa vụ tự nhiên, khi mà nghĩa vụ tự nhiên có thể được công nhận nhưng không thể cưỡng bức thi hành. Thứ hai, nghĩa vụ là quan hệ đối nhân. Yếu tố đối nhân có nghĩa là thay vì áp đặt một nghĩa vụ đối với mọi người nói chung như quan hệ đối vật, quan hệ đối nhân chỉ áp đặt nghĩa vụ đối với một người xác định. Quyền sở hữu là dạng quan hệ đối vật, có thể đối kháng chống lại khả năng sở hữu của của tất cả mọi người trên vật thuộc sở
  • 13. 6 hữu của mình; trong khi đó, nghĩa vụ là quan hệ đối nhân, ví dụ như nghĩa vụ trả tiền, trong quan hệ đó, người trái chủ chỉ có thể đòi người thụ trái trả tiền cho mình chứ không thể đòi bất cứ ai khác. Thứ ba, nghĩa vụ là một quyền sản nghiệp, hay nói cách khác, quan hệ tài sản. Đặc điểm này có nghĩa là nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền, trong đó, khi người thụ trái thực hiện nghĩa vụ thì người trái chủ sẽ được hưởng các lợi ích từ việc thực hiện đó. Các lợi ích, theo cách thông thường nhất là tài sản, có thể trị giá được bằng tiền. Tuy nhiên, cũng có những lợi ích khó hoặc không thể định lượng giá trị bằng tiền bạc và trên cơ sở nhận định của nhiều luật gia Nhật Bản cho rằng các hành vi không được trị giá thành tiền không nhất thiết thuộc phạm trù đạo đức, Điều 399 của Bộ Luật Dân Sự của Nhật Bản có quy định rằng đối tượng của nghĩa vụ có thể là những gì không xác định được bằng tiền. Quan niệm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi soi chiếu vào đối tượng nghiên cứu của luận văn này, nghĩa vụ của người quản lý công ty, sẽ được phân tích ở phần sau. Nguồn gốc của nghĩa vụ Nghĩa vụ có thể được xuất phát từ ba nguồn gốc chính, đó là hành vi pháp lý, sự kiện pháp lý và hiệu lực của luật. Hành vi pháp lý có thể bao gồm hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương, có thể hiểu là làm phát sinh nghĩa vụ trên cơ sở ý chí của các chủ thể. Sự kiện pháp lý là những gì xảy ra ngoài ý chí của các đương sự và làm phát sinh nghĩa vụ cho các chủ thể. Cuối cùng, hiệu lực của luật là các trường hợp mà nhà làm luật, trên cơ sở nhu cầu quản lý trật tự xã hội, thừa nhận các giá trị đạo đức hoặc cách thức xử sự hoặc các nguyên nhân khác làm phát sinh nhu cầu lập pháp mà quy định nghĩa vụ cho các chủ thể. Phân loại nghĩa vụ Có nhiều cách thức phân loại nghĩa vụ khác nhau dựa trên các tiêu chí
  • 14. 7 phân loại. Có những cách thức được phản ánh trong các đạo luật nhưng cũng có những cách thức chỉ được sử dụng trong học thuật. Cách thức phân loại nghĩa vụ được sử dụng trong đạo luật cũng sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến cấu trúc các quy định liên quan. Các cách thức phân loại thường thấy nhất bao gồm (i) phân loại theo hiệu lực; (ii) phân loại theo nguồn gốc; (iii) phân loại theo đối tượng và (iv) phân loại theo mức độ. Phân loại nghĩa vụ theo hiệu lực cho ta các loại nghĩa vụ đạo đức, nghĩa vụ tự nhiên và nghĩa vụ dân sự mà trong đó, chỉ duy nhất nghĩa vụ dân sự có hiệu lực ràng buộc về mặt pháp lý. Phân loại theo nguồn gốc chia nghĩa vụ ra nghĩa vụ từ hành vi pháp lý, nghĩa vụ từ sự kiện pháp lý và nghĩa vụ do hiệu lực của luật. Đây là cách thức phân loại căn bản nhất thường được phản ánh trong các bộ luật dân sự của các nước trên thế giới. Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó khi thiết lập quy chế riêng cho từng loại nguồn gốc của nghĩa vụ như: hợp đồng, thực hiện công việc không có ủy quyền, được lợi không có căn cứ pháp luật và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Phân loại nghĩa vụ theo đối tượng là cách thức như được ghi nhận trong Điều 280 của Bộ Luật Dân Sự 2005. Theo đó, nghĩa vụ có ba loại đối tượng là (i) chuyển giao vật, (ii) hành động (thực hiện hành vi) và (iii) không hành động (không thực hiện hành vi). Phân loại nghĩa vụ theo mức độ. Đây là cách thức phân loại nghĩa vụ ra đời sau, tuy nhiên lại mang ý nghĩa quan trọng, đặc biệt là trong nghiên cứu nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tiêu chí này phân chia nghĩa vụ thành nghĩa vụ thành quả và nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Cách thức phân loại này không hề được đề cập trong Bộ Luật Dân Sự 2005 của Việt Nam, vốn được xem là văn bản đặt nền tảng lí luận cho toàn bộ hệ thống luật tư. Thay vào đó, một cách đáng ngạc nhiên, Luật Thương Mại 2005, tại Điều 79 và Điều 80 đã
  • 15. 8 áp dụng cách phân loại này. Theo đó, nghĩa vụ của theo kết quả công việc được mô tả là yêu cầu bên thụ trái đạt được một kết quả nhất định theo hợp đồng hoặc kết quả phù hợp với tiêu chuẩn thông thường; Trong khi đó, cách thức ở Điều 80 yêu cầu người thụ trái thực hiện nghĩa vụ với nỗ lực và khả năng cao nhất. Cách thức phân loại này tạo ra sự khác biệt lớn khi phải chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ thành quả, vì người thụ trái đã cam kết một kết quả nhất định, người trái chủ chỉ cần chứng minh rằng kết quả không đạt được thì có nghĩa rằng người thụ trái đã vi phạm nghĩa vụ. Đối với nghĩa vụ mẫn cán, trung thực, thay vì bắt người thụ trái phải chứng minh mình đã thực hiện nghĩa vụ với khả năng cao nhất, gánh nặng chứng minh thuộc về trái chủ khi phải chứng minh người thụ trái đã không thực hiện nghĩa vụ một cách cẩn trọng và siêng năng. Chế tài do vi phạm nghĩa vụ Sự vi phạm nghĩa vụ sẽ dẫn đến các chế tài. Thông thường, các chế tài này hướng đến việc bù đắp cho sự vi phạm theo một trong ba cách thức truyền thống là (i) bồi thường thiệt hại, (ii) buộc thực hiện nghĩa vụ hoặc (iii) buộc thực hiện nghĩa vụ thay thế. 1.2. Mô hình quản trị công ty và ngƣời quản lý công ty 1.2.1. Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty Về mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty, trên thế giới có hai lý thuyết nổi bật nhất, đó là lý thuyết đại diện (agency theory) và lý thuyết người quản gia (stewardship theory). Lý thuyết đại diện dường như chiếm ưu thế, được nghiên cứu bởi nhiều học giả trên thế giới bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ 20 cho đến tận ngày nay. Lý thuyết đại diện cho rằng mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty là mối quan hệ đại diện mà trong đó những người chủ sở hữu ủy quyền cho những người quản lý công ty thực hiện việc quản lý công ty thay họ, bao gồm
  • 16. 9 cả việc trao thẩm quyền để ra quyết định định đoạt tài sản của công ty [5]. Lý thuyết đại diện cho rằng, người quản lý công ty sẽ không luôn luôn hành động vì lợi ích tốt nhất của của những người chủ sở hữu công ty vì cả hai bên đều muốn tối đa hóa lợi ích của mình. Cộng hưởng với sự phân hóa giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong các công ty hiện đại, sự không đồng nhất về lợi ích giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý công ty sẽ dẫn đến nhu cầu giám sát những người quản lý công ty. Lý thuyết này cũng phù hợp với những nhận định thường được đề cập như bản chất của con người khi mô tả nguồn gốc ra đời của hiến pháp và cơ chế tam quyền phân lập, đó là sự tha hóa bởi quyền lực hay “nhân chi sơ, tính bản ác”. Ngược lại, lý thuyết người quản gia cho rằng người quản lý công ty khi được tự do hành động thì sẽ hành động giống như người quản gia đối với các tài sản mà họ được trao quyền quản lý. Xuất phát từ nhận định công ty không chỉ thuần túy hướng tới mục đích lợi nhuận mà còn có những mục tiêu cao cả hơn, lý thuyết người quản gia cho rằng các mục tiêu này thúc đẩy người quản lý công ty hành động tốt hơn. Chính vì vậy, lý thuyết người quản gia tập trung vào việc tạo điều kiện thuận lợi cho người quản lý công ty theo đuổi các mục đích cao cả đó. Lý thuyết này phải gánh chịu nhiều chỉ trích do xem xét mối quan hệ giữa công ty và người quản lý như một mối quan hệ tĩnh với nhiều yếu tố phải cố định. Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra có những kết quả nhất định cho thấy hiệu quả quản lý được nâng cao khi người quản lý công ty được trao nhiều quyền hơn theo lý thuyết người quản gia thay vì bị đặt dưới con mắt quản lý, soi sét của lý thuyết đại diện [15, tr. 62]. Cá nhân tác giả luận văn thì cho rằng lý thuyết đại diện là hợp lý hơn về mặt cơ bản, tuy nhiên, lý thuyết người quản gia cũng có những giá trị cần xem xét và những nhân tố tích cực có thể áp dụng. Tóm tắt lại, có thể hiểu mối quan hệ giữa người quản lý công ty với công ty là quan hệ đại diện, trong
  • 17. 10 đó những người quản lý công ty được ủy quyền quản trị công ty, thay mặt các chủ sở hữu xác lập quyền và nghĩa vụ, trong đó lợi ích của hai phía là không đồng nhất và những người quản lý công ty chỉ hành động vì lợi ích tốt nhất của công ty trong những điều kiện xác định. 1.2.2. Mô hình quản trị công ty Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn thường được xem là các hình thức công ty đối vốn theo ngôn ngữ của các nước theo truyền thống Civil Law. Tuy nhiên có thể nói công ty trách nhiệm hữu hạn là một hình thức lai tạp giữa công ty đối vốn điển hình là công ty cổ phần và công ty đối nhân điển hình là công ty hợp danh [3, tr. 162]. Song công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều mô hình quản trị linh động hơn so với công ty hợp danh. Có thể dạng công ty này có mô hình quản trị mà trong đó điều hành tương đối tách biệt và gần gũi với một số đặc điểm của mô hình quản trị công ty cổ phần. Vì thế phần nào đó có thể xếp nghĩa vụ của người quản lý trong hai hình thức công ty này vào một loại nhằm mục đích của Luận văn này. Đối với truyền thống Common Law ở Hoa Kỳ, khi nói tới công ty (corporation) là nói tới các hình thức công ty đối vốn trong sự phân biệt với hợp danh (partnership). Công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn là hai loại hình công ty phổ biến và cơ bản nhất, tồn tại ở hầu hết các nước trên thế giới, nếu không muốn nói là ở tất cả các hệ thống pháp luật trên thế giới. Nhìn vào nền kinh tế thị trường, người ta thường thấy các hoạt động nổi trội của hai loại hình công ty này. Nói cách khác chúng là các nhân tố không thể thiếu của kinh tế thị trường. Đạo luật về công ty đầu tiên của Việt Nam ở thời kỳ “đổi mới” là Luật Công ty năm 1990. Tại đó chỉ có hai loại hình công ty được qui định là công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Đó là bằng chứng không thể bác bỏ về vai trò của hai loại hình công ty này trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường.
  • 18. 11 Đây là hai loại hình công ty phát triển cao, nhất là công ty cổ phần. Chúng rất hoàn bị. Và nhiều trong số chúng đã đạt đến quy mô rất lớn cả về tài sản, kinh doanh, cũng như nhân lực... Vì vậy khả năng chủ sở hữu đồng thời giữ vai trò người quản lý như trong các mô hình doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh là không khả thi, dẫn đến đòi hỏi các hình thức công ty này phải có bộ máy quản trị chuyên nghiệp. Chính đòi hỏi này khiến cho mô hình quản trị công ty trở nên được chú trọng và mang lại nhiều khác biệt. Những người quản lý có thể được thuê và thực hiện công việc quản lý như một nghề nghiệp. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn bởi lẽ lợi ích của những người này không giống với lợi ích của những người quản lý công ty xuất phát từ quyền sở hữu của chính họ đối với công ty, ví dụ như đối với công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản. Vấn đề xung đột lợi ích luôn tồn tại, ngay cả trong những công ty mà những người quản lý đều đồng thời là chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi những người quản lý công ty là những nhân lực được thuê từ bên ngoài, thì khả năng xung đột lúc này càng trở nên rõ rệt hơn. Thêm vào đó, những nhân lực thuê ngoài này lại là đối tượng chuyên nghiệp, nắm trong tay những kiến thức chuyên sâu và được đào tạo bài bản, có hệ thống liên quan đến quản trị công ty, và hoàn toàn có thể lạm dụng những kiến thức và kỹ năng đó để chống lại các đồng sở hữu chủ của công ty một cách rất tinh vi [7, tr. 27]. Chính vì thế, đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn, kỹ lưỡng hơn về những người quản lý này so với những người quản lý trong các loại hình công ty khác. Vì những lẽ đó mô hình quản trị công ty là vấn đề pháp lý quan trọng có thể giúp cho công ty vận hành một cách an toàn hướng tới mục tiêu của chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu. Mô hình quản trị công ty cổ phần thường thấy ở Việt Nam bao gồm những cơ quan chính sau:
  • 19. 12 * Cơ quan quyền lực cao nhất – ĐHĐCĐ: Đây là cơ quan tập hợp tất cả các cổ đông của công ty. ĐHĐCĐ là cơ quan quyền lực cao nhất và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của công ty. Tuy nhiên, do tính chất đông đảo và không chuyên nghiệp của cổ đông, ĐHĐCĐ không thể là cơ quan hoạt động thường xuyên, quản lý các hoạt động thường ngày của công ty mà chỉ có thể nhóm họp một số lần trong năm theo pháp luật hoặc theo điều lệ công ty. * Cơ quan chuyên quản lý chuyên trách - HĐQT: Cơ quan này gồm một nhóm người, thường là cổ đông hoặc không phải là cổ đông của công ty, được ĐHĐCĐ bỏ phiếu thành lập, chịu trách nhiệm quản lý công ty và thực hiện những nhiệm vụ được ĐHĐCĐ giao hoặc đã được ấn định trong Điều lệ của công ty. HĐQT cũng đồng thời đóng vai trò điều hành, điều phối các kỳ họp của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên, HĐQT cũng chỉ có thể hoạt động thường xuyên hơn ĐHĐCĐ chứ không thể hoạt động liên tục, chính vì thế, tầng nấc quản trị thứ ba được lập ra. * Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này thường là tổng giám đốc, giám đốc hoặc ban giám đốc, chịu trách nhiệm điều hành tất cả những hoạt động kinh doanh thường ngày của công ty do Điều lệ, ĐHĐCĐ và HĐQT giao cho. * Cơ quan kiểm soát: Đây là cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các hoạt động quản lý và điều hành. Mô hình quản trị công ty TNHH bao gồm những cơ quan chính sau: - Hội đồng thành viên: Cơ quan này có thể bao gồm các thành viên của công ty hoặc đại diện của các thành viên công ty. Đây là cơ quan được xem như có sự lai ghép giữa ĐHĐCĐ và HĐQT của công ty cổ phần (thẩm quyền của hội đồng thành viên giống như ĐHĐCĐ nhưng cách thức hoạt động lại tương đồng nhiều hơn với HĐQT). Mô hình tổ chức quản lý công ty TNHH
  • 20. 13 thông qua Hội đồng thành viên có thể được áp dụng cho cả công ty TNHH nhiều thành viên lẫn công ty TNHH một thành viên. - Chủ tịch công ty: Đây là vị trí trung tâm trong mô hình quản trị công ty TNHH một thành viên mà đại diện của chủ sở hữu chỉ là một người. - Cơ quan quản lý thường xuyên: Cơ quan này có thể tồn tại riêng biệt giống như trong mô hình quản trị của công ty cổ phần (thường là khi công ty TNHH theo mô hình hội đồng thành viên) hoặc kiêm nhiệm, tinh giản (khi công ty TNHH một thành viên áp dụng mô hình chủ tịch công ty). - Cơ quan kiểm soát: cơ quan theo dõi, kiểm tra, thẩm định các hoạt động quản lý và điều hành cũng tương tự như trong công ty cổ phần. Trong các mô hình quản trị hai loại hình công ty, người ta xác định những ai là người quản lý công ty để áp đặt cho họ những nghĩa vụ của người quản lý công ty. 1.2.3. Khái niệm người quản lý công ty Người quản lý công ty là một khái niệm đã được đề cập trong Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 13). Trong phạm vi những người quản lý chuyên nghiệp, những người quản lý công ty có thể bao gồm chủ tịch hội đồng thành viên, chủ tịch công ty, thành viên HĐQT, giám đốc hoặc tổng giám đốc và một số chức danh khác do điều lệ công ty quy định. Các chức danh khác có thể là kế toán trưởng, giám đốc tài chính của công ty. Họ là cánh tay mặt và có lợi ích sát sườn với ban giám đốc hay hội đồng quản trị của công ty. Tuy nhiên, với những chức danh như trưởng phó các bộ phận, phòng ban hay các kiểm soát viên vốn được quy định trực thuộc bộ máy quản lý của công ty thì lại tương đối khó xác định vì thiếu cơ sở pháp lý. Trên thực tế, các chức danh nhỏ như vậy cũng đã có những ảnh hưởng và thẩm quyền nhất định xác lập những quyền lợi và nghĩa vụ cho công ty, nhưng thường không được quy định trong điều lệ công ty, vì với tư cách là người lao động
  • 21. 14 của công ty, những người này (hoàn toàn và dễ dàng) có thể bị thay đổi. Mặt khác, chính vì bó hẹp vào quy định trong điều lệ, nhiều người quản lý hoàn toàn có thể bị bỏ lọt và cũng chính là kẽ hở để họ chủ động trốn tránh trách nhiệm. Dựa trên phân tích về mặt ngữ nghĩa của khoản 2, Điều 73, Luật Doanh nghiệp 2005, đối với công ty TNHH, người quản lý chắc chắn bao gồm các thành viên của hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty (tùy theo mô hình quản lý được lựa chọn). Nhưng kiểm soát viên có thể không được xem là người quản lý công ty khi không trực tiếp quyết định các vấn đề về kinh doanh của công ty mà nhiệm vụ chủ yếu của họ là kiểm soát sự đúng đắn trong hành động của những người quản lý công ty, vì lợi ích của chủ sở hữu. Luật Doanh nghiệp 2014 (khoản 18, Điều 4) có đưa ra định nghĩa “người quản lý doanh nghiệp”. Trong định nghĩa này bao gồm cả người quản lý công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, và những chủ sở hữu của doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Theo pháp luật của Anh, Úc và các nước khác thuộc họ pháp luật common law, những người quản lý công ty bao gồm 3 nhóm đối tượng sau đây: + Thứ nhất, người được bổ nhiệm làm người quản lý công ty (de jure director). Đây là cách thức phổ thông. Và một người được xác định là người quản lý theo cách này thì thường không vấp phải sự phản đối hay hoài nghi từ những người khác. + Thứ hai, người tuy không được bổ nhiệm làm người quản lý công ty nhưng hành động giống như người quản lý công ty. Đây chính là tấm lưới thứ nhất để thâu tóm những “người quản lý thực tế” của công ty (de facto director). Sự quy định nhóm đối tượng thứ hai này khiến cho việc bổ nhiệm chính thức không còn có thể sử dụng như một lý lẽ hợp lý có thể nại ra để trốn tránh nghĩa vụ của người quản lý [14, tr. 251]. Ở điểm này, cần bàn thêm về mặt khái niệm. Thuật ngữ “director” trong tiếng Anh thường được dịch
  • 22. 15 sang tiếng Việt là “giám đốc” và “general director” được dịch là “tổng giám đốc”. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, vị trị này tương ứng với vị trí CEO (chief executive officer – thường được dịch là giám đốc điều hành) trong các công ty của các nước phương Tây. Vị trí CEO này, theo từ điển thuật ngữ pháp lý Black’s law dictionary, được hiểu là người quản lý có thứ hạng cao nhất của một công ty, điều hành những công việc hàng ngày của công ty và báo cáo với HĐQT. Vị trí này thực chất vừa giống với giám đốc vừa giống với người đại diện theo pháp luật trong luật Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ “director” còn bao gồm ý nghĩa thứ hai, chỉ “một người được chỉ định hoặc bổ nhiệm vào một hội đồng để quản lý các vấn đề của công ty” hay nói cách khác, chính là thành viên HĐQT. Chính vì thế, thuật ngữ “board of directors” của các nước common law phải dịch là HĐQT chứ không phải là ban giám đốc. Tóm lại, thuật ngữ “director” trong tiếng Anh phải được hiểu là “người quản lý doanh nghiệp/công ty” thay vì bó hẹp trong phạm vi là “giám đốc”. Trong luận văn này, khi phân tích các quy phạm pháp luật hoặc vụ việc pháp lý của các nước thuộc họ pháp luật common law, từ “giám đốc” có thể được sử dụng vì lí do thuận tiện và ngắn gọn khi sử dụng tiếng Việt nhưng phải được hiểu theo nghĩa chung là “người quản lý công ty”. + Thứ ba, những người mà chỉ thị hoặc mong muốn của họ sẽ được thực hiện bởi những người quản lý hoặc các bộ phận/phòng ban của công ty. Tấm lưới cuối cùng này có mục đích thâu tóm những “người quản lý trong bóng tối” (shadow director) [14, tr. 252]. Tấm lưới này là quan trọng nhất để ngăn chặn bất kỳ ai có mong muốn sử dụng một công ty hoặc lợi dụng quy định về trách nhiệm của thành viên hội đồng quản trị để hành động sai trái hoặc đẩy trách nhiệm sang người khác. Một ví dụ dễ thấy trong trường hợp này là các Hội đồng sáng lập (“HĐSL”) ở các ngân hàng thương mại mà đi đầu là Hội đồng sáng lập ACB do ông Nguyễn Đức Kiên (thường được biết
  • 23. 16 đến với tên gọi “bầu Kiên”) là Phó chủ tịch, đồng thời là người được cho là chủ nhân của “sáng kiến” này [17]. Theo Điều lệ, quy chế hoạt động và các quy định của pháp luật Việt Nam, những thành viên của hội đồng này không phải những người quản lý của ACB và không được pháp luật thừa nhận khi những người này dường như chỉ làm nhiệm vụ tư vấn cho các hoạt động của ACB. Tuy nhiên, nếu xét theo pháp luật của Úc, những người này hoàn toàn có thể được xem là những người quản lý của công ty và được xem xét như là một “shadow director” khi họ có thể chỉ đạo và định hướng hoạt động của các giám đốc/người quản lý của ACB. Mặc dù không có tư cách về mặt pháp lý, nhưng các thành viên HĐSL, bằng chính quyết định trao quyền của HĐQT của ACB cũng như vai trò là các cổ đông lớn, hoàn toàn có thể tác động và quyết định mọi hoạt động của ngân hàng [18]. Khi xảy ra sai phạm thì chính các thành viên HĐQT sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân vì quy định của pháp luật chỉ ràng buộc những đối tượng này. Thực tế đã cho thấy, với vai trò Phó chủ tịch HĐSL, Nguyễn Đức Kiên vẫn là nhân vật quan trọng, có ảnh hưởng, chỉ đạo và quyết định hầu hết các hoạt động của ACB [17]. Năm 1995, tại Úc, trong vụ tranh chấp giữa Standard Chartered Bank of Australia (“SCB”) và Antico (Antico là 1 trong 3 người quản lý đồng thời của Pioneer và Giant bị kiện). Các tình tiết thực tế khá phức tạp. Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu có thể thấy như sau: SCB có một khoản nợ phải đòi từ Giant Resources Ltd (“Giant”). Tuy nhiên, do công ty này đã phá sản nên SCB đã tiến hành đòi công ty mẹ của Giant (“Pioneer”) với lập luận rằng Pioneer là một “shadow director” của Giant, vì thế, phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ của công ty (cụ thể là Giant) khi tình trạng phá sản của Giant có nguyên nhân từ sự quản lý và kiểm soát tài chính mà Pioneer áp dụng lên Giant. Thực tế, Pioneer đã bắt buộc Giant phải có báo cáo tài theo các quy chuẩn riêng của mình cũng như áp đặt những sự quản lý tài chính, chính sách,
  • 24. 17 từ đó dẫn đến hậu quả thiệt hại góp phần dẫn đến tình trạng phá sản của Giant. Nếu xét trên góc độ tương đương, pháp luật Việt Nam không có cơ sở pháp lý để xác định và buộc “shadow director” cũng như buộc pháp nhân phải chịu trách nhiệm của người quản lý công ty với công ty [13, tr. 399]. Mặc dù vậy, các nhà làm luật Việt Nam dường như cũng đã ý thức được và thiết kế một điều khoản bảo vệ cho lợi ích chính đáng của công ty con như một thực thể độc lập, khỏi nguy cơ lạm dụng của công ty mẹ. Điều khoản này không có nhiều thay đổi từ Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 147) sang Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 190). Điều khoản này áp đặt một cách trực tiếp trách nhiệm của công ty mẹ đối với công ty con, hơn là dựa trên nguyên tắc suy đoán xem công ty mẹ có phải là “shadow director” của công ty con hay không, mặc dù về bản chất, đều phải dựa trên phạm vi hành động của công ty mẹ để xác định trách nhiệm có phát sinh hay không. Nội dung Điều 190 này như sau: 1. Tùy thuộc vào loại hình pháp lý của công ty con, công ty mẹ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với tư cách là thành viên, chủ sở hữu hoặc cổ đông trong quan hệ với công ty con theo quy định tương ứng của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. 2. Hợp đồng, giao dịch và quan hệ khác giữa công ty mẹ và công ty con đều phải được thiết lập và thực hiện độc lập, bình đẳng theo điều kiện áp dụng đối với các chủ thể pháp lý độc lập. 3. Trường hợp công ty mẹ can thiệp ngoài thẩm quyền của chủ sở hữu, thành viên hoặc cổ đông và buộc công ty con phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường hoặc thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý trong năm tài chính có liên quan, gây thiệt hại cho công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đó.
  • 25. 18 4. Người quản lý của công ty mẹ chịu trách nhiệm về việc can thiệp buộc công ty con thực hiện hoạt động kinh doanh quy định tại khoản 3 Điều này phải liên đới cùng công ty mẹ chịu trách nhiệm về các thiệt hại đó. 5. Trường hợp công ty mẹ không đền bù cho công ty con theo quy định tại khoản 3 Điều này thì chủ nợ hoặc thành viên, cổ đông có sở hữu ít nhất 1% vốn điều lệ của công ty con có quyền nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con. 6. Trường hợp hoạt động kinh doanh như quy định tại khoản 3 Điều này do công ty con thực hiện đem lại lợi ích cho công ty con khác của cùng một công ty mẹ thì công ty con được hưởng lợi đó phải liên đới cùng công ty mẹ hoàn trả khoản lợi được hưởng đó cho công ty con bị thiệt hại. Khoản 4 của điều này cũng gợi ý rằng các nhà làm luật Việt Nam coi người quản lý công ty là các cá nhân, khi xác định công ty mẹ và người quản lý của công ty mẹ là 2 chủ thể độc lập sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại của công ty con. Mặt khác, trong các trường hợp can thiệp quá mức vào hoạt động của công ty con, các đối tượng sau sẽ phải liên đới hoàn trả phần thiệt hại: thứ nhất là bản thân công ty mẹ, thứ hai là những người quản lý của công ty mẹ có liên quan đến sự can thiệp quá mức và cuối cùng là các công ty con khác của cùng một công ty mẹ mà đã được hưởng lợi. Nhìn vào bối cảnh tổ chức hiện tại của các tập đoàn kinh tế, có thể thấy quy định liên đới trách nhiệm của các “công ty con” khác chưa thể bao quát hết các khả năng xảy ra trên thực tế khi mỗi tập đoàn có thể có rất nhiều tầng bậc, không chỉ các công ty con mà còn cả các “công ty cháu”. Trường hợp mà sự chỉ đạo của công ty mẹ gây thiệt hại cho công ty con, nhưng công ty được hưởng lợi
  • 26. 19 là một công ty con khác hoặc một công ty ngang cấp với công ty mẹ thì dường như đã tránh được phạm vi ràng buộc của quy định tại Điều 190, khoản 6. Ví dụ như trong trường hợp một tập đoàn gồm 3 cấp công ty như trong mô hình dưới đây: Công ty mẹ đang xét là công ty A2, công ty con là công ty A2-2. Nếu công ty A2 can thiệp buộc công ty A2-2 kinh doanh theo những điều kiện bất lợi với công ty A2-1 thì theo Điều 190, khoản 6 của Luật Doanh nghiệp 2014, công ty A2-1 cũng phải chịu trách nhiệm đối với thiệt hại của công ty A2-2. Tuy nhiên nếu công ty A2-2 lại có quan hệ kinh doanh không sinh lợi với công ty A1 hoặc công ty A1-1, Luật Doanh nghiệp 2014 lại chưa có quy định ràng buộc thích hợp những trường hợp như vậy. Xét trên giác độ so sánh, quy định của pháp luật Việt Nam cũng không được bao quát như pháp luật Úc liên quan đến căn cứ xác định trách nhiệm của công ty mẹ. Trong khi Luật Doanh nghiệp 2014 quy định 2 trường hợp Công ty A cấp 1 (Tập đoàn) (Holding Company) Công ty A2 cấp 2Công ty A1 cấp 2 Công ty A2-2 cấp 3Công ty A2-1 cấp 3Công ty A1-1 cấp 3
  • 27. 20 hành vi được xác định sự can thiệp ngoài thẩm quyền là (i) buộc công ty con phải thực hiện hoạt động kinh doanh trái với thông lệ kinh doanh bình thường và (ii) buộc công ty con phải thực hiện hoạt động không sinh lợi mà không đền bù hợp lý. (tương tự như ví dụ SCB vs. Giant đã đề cập ở trên, việc kiểm soát tài chính có thể không rơi vào 1 trong 2 nhóm trên. Ngoài ra, nhiều hoạt động khác) Khi thực hiện hành vi kể trên gây thiệt hại thì công ty mẹ sẽ bị buộc chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, bằng chế định liên quan đến “shadow director” và “de facto director”, không chỉ công ty mẹ mà bất cứ tổ chức, cá nhân nào khác khi bằng các cách thức nào đó thực hiện quyền kiểm soát và điều hành một công ty thì đều phải có trách nhiệm hành xử một cách hợp lý, đúng đắn và vì lợi ích của công ty. 1.2.4. Khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty Khái niệm người quản lý công ty, thoạt tiên có vẻ đơn giản và dường như nội hàm của nó không khác gì hơn là các nghĩa vụ của các chủ thể là người quản lý công ty. Tuy nhiên, thực chất vấn đề không đơn giản như vậy. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là một chế định được xây dựng trong luật công ty của các nước theo truyền thống common law. Bản chất và nội dung của chế định này không được xác định rõ ràng ngay từ khi ra đời mà được bồi đắp theo thời gian, qua cả quá trình pháp điển hóa và xây dựng án lệ. Trong pháp luật Việt Nam hiện nay, có thể nói rằng khái niệm này chưa tồn tại một cách chính thức. Có thể nhận định như vậy vì nguyên nhân đầu tiên, bản chất của các nghĩa vụ của người quản lý công ty là loại nghĩa vụ mẫn cán, trung thực, trong khi đó, Bộ Luật Dân Sự 2005 còn chưa hề có một ý niệm nào về cách thức phân loại nghĩa vụ theo mức độ này thì không thể nào tồn tại quy định về loại nghĩa vụ này. Các văn bản pháp lý chuyên ngành hơn như Luật Doanh Nghiệp thì cũng chưa hề coi “nghĩa vụ của người quản lý công ty” là một khái niệm pháp lý cần hiểu rõ về mặt nội hàm. Luật Doanh Nghiệp 2005
  • 28. 21 thì sử dụng “nghĩa vụ của người quản lý công ty” như một cụm từ ghép giữa nghĩa vụ với người quản lý công ty, trong khi Luật Doanh Nghiệp 2014 cũng chưa hề đưa ra định nghĩa nào, thêm vào đó còn sử dụng một cách lẫn lộn khái niệm nghĩa vụ với trách nhiệm của người quản lý công ty. Để hiểu rõ hơn và có thể xây dựng được khái niệm nghĩa vụ của người quản lý công ty cho pháp luật Việt Nam, trước hết cần hiểu rõ được các đặc điểm và phân loại được nghĩa vụ của người quản lý công ty vào các cách phân loại truyền thống của họ pháp luật civil law. Câu hỏi trước tiên phải xem xét, đó là liệu nghĩa vụ của người quản lý công ty có thỏa mãn ba đặc điểm cơ bản của nghĩa vụ như đã phân tích ở trên hay không. Thứ nhất, nghĩa vụ là một quan hệ pháp lý đặc trưng bởi khả năng cưỡng chế thi hành. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là nghĩa vụ dân sự, nhiều nội dung được quy định trong Luật Doanh nghiệp và có tính chất quy phạm bắt buộc đối với người quản lý công ty. Thứ hai, nghĩa vụ là quan hệ đối nhân. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là quan hệ giữa những người quản lý công ty với công ty/chủ sở hữu công ty mà trong đó, công ty/chủ sở hữu có quyền yêu cầu những người quản lý công ty hành động vì lợi ích của mình. Cuối cùng, nghĩa vụ là một quan hệ tài sản, hay nói cách khác, có thể định giá được bằng tiền. Điều này không hoàn toàn được thể hiện rõ ràng đối với nghĩa vụ của người quản lý công ty. Lấy một ví dụ đơn giản là người quản lý công ty có nghĩa vụ thông báo cho công ty về quyền sở hữu của mình tại các doanh nghiệp khác. Nghĩa vụ này hoàn toàn thỏa mãn hai đặc điểm đầu tiên, tuy nhiên, việc xác định bằng tiền giá trị của nghĩa vụ này hoặc một khoản bồi thường phải trả nếu người quản lý công ty vi phạm nghĩa vụ này là không dễ dàng. Ngoài ba đặc điểm trên, có thể quan sát được một số đặc điểm khác của nghĩa vụ của người quản lý công ty. Nghĩa vụ của người quản lý công ty là nghĩa vụ có đối tượng là hành vi, trong đó yêu cầu người quản lý
  • 29. 22 công ty có nghĩa vụ thực hiện hành động như tổ chức quản lý công ty hoặc nghĩa vụ không thực hiện hành động, ví dụ như không được sử dụng thông tin, bí quyết của công ty để tư lợi. Về mặt phân loại, trước hết phải quan tâm đến phân loại về mức độ. Nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể bao trùm mọi mặt hoạt động của công ty, cộng với sự đa dạng, phức tạp của loại hình và ngành nghề kinh doanh nên sẽ là không thỏa đáng nếu những nghĩa vụ này là nghĩa vụ thành quả. Sẽ là không cần thiết và không thể cho bất cứ ai muốn xác định một cách định lượng toàn bộ các kết quả cho các nghĩa vụ của người quản lý công ty. Có lẽ vì thế, yếu tố định tính là cần thiết và chủ yếu, nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể xếp vào nghĩa vụ mẫn cán, trung thực. Về mặt hiệu lực, nghĩa vụ của người quản lý công ty hiển nhiên là nghĩa vụ dân sự vì nếu thiếu đi tính ràng buộc pháp lý thì những nghĩa vụ này sẽ chẳng có ý nghĩa gì vì không một người quản lý công ty nào lại muốn giới hạn quyền lực của mình. Phân loại nghĩa vụ của người quản lý công ty theo nguồn gốc có lẽ sẽ gặp khó khăn. Bởi lẽ, nhiều luật gia cho rằng nghĩa vụ của người quản lý công ty là nghĩa vụ từ hợp đồng, tuy nhiên điều này không hoàn toàn chính xác. Như sẽ phân tích ở phần tiếp theo, mối quan hệ giữa công ty và người quản lý công ty được xem là quan hệ đại diện. Một cách thông thường nhất, quan hệ đại diện được xác lập trên cơ sở hợp đồng. Tuy nhiên, truyền thống common law cũng thừa nhận những quan hệ đại diện mà trong đó không hề có một hợp đồng đại diện nào được xác lập. Các trường hợp đó bao gồm đại diện ngầm định (implied agency), đại diện đương nhiên (apparent agency) và đại diện do phê chuẩn (ratification). Đại diện ngầm định là thẩm quyền đại diện cần thiết phải có để một người có thể thực hiện nhiệm vụ của mình. Nếu một người được bổ nhiệm làm tổng giám đốc của một công ty thì người đó đã được ngầm định là có thẩm quyền nhân danh công ty xác lập quyền lợi và nghĩa vụ. Đại diện
  • 30. 23 đương nhiên là các trường hợp mà hành động của người chủ ủy có thể khiến cho bên thứ ba tin rằng một người là thụ ủy của người chủ ủy đó. Điều 146 của Bộ Luật Dân Sự 2005 có quy định giao dịch do người đại diện thực hiện vượt quá phạm vi đại diện sẽ vẫn có hiệu lực nếu người được đại diện biết mà không phản đối, đó chính là một dạng của đại diện đương nhiên. Tuy nhiên, Điều 594 của Bộ Luật Dân Sự 2005 thì lại không nhìn nhận mối quan hệ đó như một dạng thức của đại diện mà quy định rằng đó là thực hiện công việc không có ủy quyền. Việc có được xác định là quan hệ đại diện hay không sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau, chủ yếu liên quan đến trách nhiệm của người được đại diện/chủ ủy đối với các quyền và nghĩa vụ được xác lập cho họ. Cuối cùng, đại diện do phê chuẩn là trường hợp mà vào thời điểm thực hiện công việc thì người thụ ủy không có thẩm quyền, tuy nhiên, người chủ ủy đã bằng hành vi pháp lý đơn phương của mình, chấp nhận rằng công việc đó có hiệu lực phát sinh quyền/nghĩa vụ đối với mình. Có thể thấy, nếu nguồn gốc phát sinh nghĩa vụ là đại diện theo hợp đồng dường như phù hợp với những người quản lý công ty chính danh (de jure director) thông qua bổ nhiệm thì đại diện ngầm định hoặc đương nhiên sẽ phù hợp làm phát sinh nghĩa vụ cho những người quản lý công ty thực tế (de facto director) còn những người quản lý công ty trong bóng tối (shadow director) chỉ có nghĩa vụ bởi hiệu lực của luật pháp quy định. Như vậy, có thể thấy phân loại nghĩa vụ của người quản lý công ty theo nguồn gốc dường như không có tính hiệu quả khi không có tính chất phân tách rõ rệt. Như vậy, sẽ là không chính xác nếu cho rằng nghĩa vụ của người quản lý công ty mặc nhiên hoặc chỉ có nguồn gốc từ hợp đồng. Riêng liên quan đến loại nguồn gốc này của nghĩa vụ của người quản lý công ty cũng có một số điểm phải lưu ý. Thứ nhất, hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ của người quản lý công ty là hợp đồng nào? Tất nhiên không thể là một dạng thức vô hình
  • 31. 24 như khế ước xã hội mà hợp đồng này phải được thể hiện dưới dạng thức hữu hình cụ thể. Điều lệ công ty có lẽ phải được xét đến đầu tiên. Điều lệ của công ty được xem như một hợp đồng giữa các thành viên, cổ đông của công ty quy định các vấn đề quan trọng của công ty như phần vốn góp, vốn cổ phần, cơ cấu tổ chức quản lý, thể thức ra quyết định… Điểm vướng mắc với “hợp đồng” điều lệ này là về nguyên tắc đối nhân, hợp đồng chỉ ràng buộc các chủ thể tham gia xác lập mối quan hệ đó. Như vậy, những người quản lý công ty mà không phải một bên trong “hợp đồng” điều lệ thì họ có bị ràng buộc bởi các quy tắc, nghĩa vụ trong đó? Các quy định rõ ràng, đầy đủ về nghĩa vụ của người quản lý công ty không phải là một nội dung bắt buộc của điều lệ mà điều lệ hoàn toàn có thể chỉ tập trung điều hòa, phân định mối quan hệ giữa các chủ sở hữu. Trong các trường hợp đó, liệu nhận định nghĩa vụ của người quản lý công ty có căn cứ từ điều lệ có còn chính xác? Loại hợp đồng có liên quan thứ hai là hợp đồng lao động, thường tồn tại trong các trường hợp người quản lý công ty được thuê. Điểm vướng mắc với hợp đồng lao động bao gồm, nghĩa vụ của người quản lý đó sẽ chỉ xác định theo hợp đồng lao động hay phải theo cả điều lệ và trong trường hợp quy định mâu thuẫn giữa hợp đồng lao động và điều lệ thì ưu tiên văn bản nào. Từ các phân tích ở trên, có thể thấy, trên các mặt cơ bản nhất, nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể được phân tích dưới lăng kính chung của nghĩa vụ dân sự và cho thấy các đặc điểm tương đồng. Tuy nhiên, quy định về nghĩa vụ dân sự của Bộ Luật Dân Sự 2005 cho thấy phần khuyết thiếu cơ bản chính là mức độ của nghĩa vụ của người quản lý công ty. Ngoài ra, cũng phải nhìn nhận rằng nghĩa vụ của người quản lý công ty là những nghĩa vụ cụ thể, chi tiết hơn so với mức độ khái quát của nghĩa vụ dân sự. Tựu chung lại, nghĩa vụ của người quản lý công ty có thể được hiểu một cách khái quát và cơ bản nhất là toàn bộ các nghĩa vụ mẫn cán, trung
  • 32. 25 thực có nguồn gốc hoặc phát sinh từ hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương, sự kiện pháp lý hoặc quy định của luật mà người quản lý công ty phải thực hiện hoặc không được phép thực hiện với nỗ lực và khả năng cao nhất vì lợi ích hợp pháp tối đa của công ty. Chế tài do vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty Cũng giống như các chế tài áp dụng chung cho sự vi phạm nghĩa vụ dân sự, chế tài đối với việc vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty cũng nhằm mục đích đảm bảo tình trạng của người trái chủ đạt được giống như trạng thái khi nghĩa vụ được thực hiện đầy đủ. Để làm được điều này, các chế tài chủ yếu cũng bao gồm buộc thực hiện nghĩa vụ và bồi thường thiệt hại. Trong quản lý công ty có rất nhiều nghĩa vụ tuân thủ phải thực hiện hoặc không được thực hiện, vì thế, chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ dường như không hẳn là một chế tài mà đã là một phần của nghĩa vụ của người quản lý công ty khi yêu cầu tính chất tiếp diễn, thường trực của nghĩa vụ. Chính vì vậy, chế tài bồi thường thiệt hại dường như có vai trò nổi bật hơn đối với nghĩa vụ của người quản lý công ty. Điều này cũng có thể thấy trong quy định của Luật Doanh nghiệp khi rất nhiều quy định trách nhiệm của người quản lý công ty với thiệt hại của công ty do lỗi của những người này. Tuy nhiên, về mặt chế tài đối với vi phạm của người quản lý công ty ở Việt Nam còn có một vấn đề đáng lưu tâm khác. Đó là hiện tượng hình sự hóa các quan hệ dân sự, khi mà những vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty và xâm phạm khách thể được bảo vệ bởi pháp luật hình sự trong nhiều trường hợp là rất mong manh. Trong những trường hợp đó, với những tồn tại trong ý thức pháp luật, các cơ quan điều tra thường sốt sắng tham gia vào để xác định sai phạm, định tội danh, áp dụng hình phạt hình sự … hơn là quan tâm đến bản chất vụ việc có phải là vi phạm nghĩa vụ dân sự hay không, biện pháp khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại là như thế nào. Chính vì thế, hiện tượng hình sự hóa
  • 33. 26 các quan hệ dân sự dẫn đến một số hậu quả, một là xảy ra nhiều án oan sai khi điều tra hình sự được tiến hành đối với những vi phạm nghĩa vụ dân sự, hai là vấn đề khắc phục hậu quả không được coi trọng, tâm lý “đi tù là hết nợ”, lấy hình phạt hình sự thay thế cho nghĩa vụ bồi thường dân sự. 1.3. Kinh nghiệm pháp lý của một số nƣớc về nghĩa vụ của ngƣời quản lý công ty và gợi mở cho Việt Nam Hệ thống pháp luật Anh quy định các nghĩa vụ chủ yếu của người quản lý công ty trong Luật công ty năm 2006 (Companies Act 2006). Đạo luật này pháp điển hóa và cập nhật những nghĩa vụ của người quản lý công ty vốn đã tồn tại trước năm 2006 tại Anh dưới nhiều hình thức khác nhau như án lệ, các quy định riêng lẻ trong các đạo luật khác nhau, luật công bình … Đạo luật yêu cầu những người quản lý công ty, trong số các nhiệm vụ của mình, phải quan tâm đến các yếu tố nâng cao giá trị của cổ đông (nguyên bản tiếng Anh “enlightened shareholder value”). Chúng bao gồm lợi ích của người lao động, sự cần thiết phải đối xử công bằng giữa các thành viên và tác động của các hoạt động của công ty tới môi trường. Mặc dù vậy, cần lưu ý rằng những nghĩa vụ này phải được giải thích dựa trên cơ sở các án lệ cũ mà vẫn giữ được tính liên quan. Những nghĩa vụ luật định này cũng không thể bị nhìn nhận một cách riêng biệt bởi vì những người quản lý công ty còn chịu sự điều chỉnh của nhiều quy tắc, quy phạm khác, ví dụ như Luật phá sản 1986, Luật về loại bỏ người quản lý công ty 1986 và Luật sức khỏe và an toàn lao động 1974 8, tr. 176]. Những nghĩa vụ có tính chất căn bản được pháp điển hóa trong đạo luật này bao gồm 7 nhóm sau: - Hành động phù hợp với thẩm quyền; - Thúc đẩy sự thành công của công ty vì lợi ích của các thành viên, đồng thời quan tâm đến các vấn đề được đề cập như là các yếu tố nâng cao giá trị của cổ đông;
  • 34. 27 - Đưa ra những phán quyết độc lập; - Có sự quan tâm, kỹ năng và sự cẩn trọng hợp lý; - Không nhận các lợi ích từ bên thứ ba; và - Công khai các lợi ích trong các giao dịch với công ty được đề xuất. Cách phân nhóm và gọi tên có thể có những khác biệt giữa pháp luật Anh Quốc và pháp luật Hoa Kỳ, Úc hay các quốc gia theo hệ thống thông luật khác [12, tr. 232], tuy nhiên, về bản chất, những nội dung này là tương đồng, bởi lẽ những giá trị được xem như chuẩn mực đạo đức của người quản lý công ty này, ban đầu chỉ có tính chất định tính nhưng theo thời gian, ngày càng được minh chứng rõ ràng thông qua các án lệ và những quy tắc hình thành từ án lệ (Ví dụ như quy tắc phán đoán trong kinh doanh, học thuyết về cơ hội kinh doanh thuộc về công ty …). Ở đây cũng cần nói thêm về căn nguyên của sự ra đời các quy định về nghĩa vụ của người quản lý công ty. Có hai lí do trọng yếu, thứ nhất, những người quản lý công ty được xem như những người đại diện cho chủ sở hữu của công ty (cổ đông, thành viên, chủ sở hữu công ty TNHH MTV …), mối quan hệ này không chỉ mang lại quyền mà cũng có thể tạo lập những nghĩa vụ cho chủ ủy, chính vì thế, người quản lý nếu không có đủ những tiêu chuẩn cần thiết thì hoàn toàn có thể tạo ra thua lỗ, mất tài sản đầu tư. Thứ hai, bản chất tự nhiên của người đại diện yêu cầu họ phải có những sự tự do nhất định trong thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền, phạm vi này càng rộng hơn trong kinh doanh khi sự linh hoạt, nhanh nhạy là yếu tố tối cần thiết để tạo ra lợi nhuận, từ đó, người quản lý công ty có rất nhiều cơ hội để tư lợi cho bản thân hoặc những người mà họ mong muốn. Bởi thế, pháp luật công ty các nước đều cần có quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm của người quản lý công ty mà những nghĩa vụ như cẩn trọng và trung thành là không thể thiếu.
  • 35. 28 * Fiduciary duties: nghĩa vụ mẫn cán, trung thực là bản chất của nghĩa vụ của người quản lý công ty. Theo thẩm phán Frankfurter trong vụ SEC v. Chenery Corp (1947) tại Hoa Kỳ, việc nói rằng một người có nghĩa vụ mẫn cán trung thực mới chỉ là sự bắt đầu của quá trình phân tích – hay chính là định hướng cho các câu hỏi tiếp theo. Người được thụ hưởng nghĩa vụ đó là ai? Những nghĩa vụ cụ thể nào được bao hàm trong phạm vi mẫn cán trung thực? Người đó đã vi phạm nghĩa vụ đó ở khía cạnh nào? Cũng như hậu quả của vi phạm đó? Nhận định này thường được trích dẫn mở đầu cho nhiều các công trình nghiên cứu về loại nghĩa vụ mẫn cán trung thực nói chung cũng như nghĩa vụ của người quản lý công ty nói riêng, để cho thấy việc xác định rõ ràng thế nào là nghĩa vụ mẫn cán, trung thực là không hề dễ dàng. Đây không phải là một nghĩa vụ cụ thể (như phải trao vật, trả tiền …) mà là một tập hợp các nghĩa vụ nhất định, hình thành trên một chế định truyền thống của pháp luật công ty ở hệ thống các nước common law. Nghĩa vụ fiduciary của người quản lý công ty đối với công ty cũng giống như các nghĩa vụ mẫn cán, trung thực khác, ví dụ như trong quan hệ đại diện hoặc ủy thác (theo nghĩa của truyền thống common law là trust chứ không giống như quan hệ ủy thác thương mại như trong Luật Thương mại 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan). Nghĩa vụ này dựa trên nguyên tắc, triết lý sau: nghĩa vụ này yêu cầu người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ một cách tốt nhất, thay vì yêu cầu một kết quả cụ thể. Bất cứ khi nào một người thứ nhất đặt sự tin tưởng vào một người thứ hai và kiến thức của người thứ hai thì rất có thể đã có một mối quan hệ tín thác như vậy đã được xác lập. Mối quan hệ đó sẽ áp đặt lên người thứ hai nghĩa vụ phải hành động vì lợi ích tốt nhất của người thứ nhất. Vì công ty đã được tín thác cho những người quản lý, họ phải thực hiện/thể hiện thiện chí tối đa đối với công ty, trong cả quan hệ kinh doanh với
  • 36. 29 công ty lẫn khi thay mặt công ty thực hiện các giao dịch. Tuy nhiên, các nghĩa vụ này chỉ áp dụng đối với những gì mà người quản lý công ty nhận được mà không có sự nhất trí của công ty (được hiểu là …) thông qua các cuộc họp của ĐHĐCĐ hoặc HĐTV. Ví dụ, những người quản lý công ty có thể kiếm lợi từ vị trí của họ nhưng họ không được kiếm khoản lợi đó mà không có sự chấp thuận của công ty, hành động thông qua ĐHĐCĐ hoặc HĐTV. Lưu ý rằng: - Mặc dù thẩm quyền của những người quản lý để ràng buộc công ty thường yêu cầu họ hành động như một hội đồng (trong HĐQT hoặc HĐTV), nghĩa vụ mẫn cán, trung thực là riêng rẽ, áp dụng đối với từng người quản lý công ty, bất kể người quản lý công ty nào cũng phải hành động vì lợi ích cao nhất của công ty, bất kể hội đồng hoặc những người quản lý khác hành động như thế nào. Vi phạm nghĩa vụ này sẽ dẫn đến trách nhiệm của cá nhân từng người quản lý công ty; - Nghĩa vụ mẫn cán trung thực là nghĩa vụ của người quản lý công ty đối với công ty (như một tổng thể tất cả các thành viên, cổ đông) chứ không phải riêng đối với cổ đông nào. Trong vụ Percival v.Wright (1902) tại Anh, người quản lý công ty đã mua một số cổ phần từ một thành viên của công ty mà không tiết lộ rằng việc đàm phán đang được thực hiện để bán toàn bộ cổ phần của công ty với một giá cao hơn. Trên thực tế, người quản lý công ty không hề có một giao dịch bán lại nào. Nguyên đơn là thành viên đã bán số cổ phần cho người quản lý công ty đó đã yêu cầu tòa án hủy bỏ giao dịch với những người quản lý công ty vì thông tin về quá trính đàm phán nói trên đã không được tiết lộ. Tuy nhiên, tòa án đã phán quyết rằng giao dịch đó không bị hủy bỏ vì những người quản lý công ty không có nghĩa vụ mẫn cán, trung thực đối với các cổ đông với tư cách cá nhân [12, tr. 241].
  • 37. 30 Quyết định này đã phải chịu nhiều chỉ trích và những người quản lý có liên quan, ngày nay, có thể bị buộc tội hình sự vì thực hiện giao dịch nội gián trong các trường hợp tương tự liên quan đến chứng khoán niêm yết. Tuy nhiên, trong Percival v. Wright – một giao dịch chứng khoán riêng lẻ thì quyết định này không bị ảnh hưởng bởi các quy định về giao dịch nội gián 8, tr. 327]. Tuy nhiên, có những trường hợp, người quản lý công ty có nghĩa vụ mẫn cán trung thực đối với các chủ nợ của công ty. Ví dụ như trong trường hợp công ty mất khả năng thanh toán hoặc sắp gặp phải khó khăn tài chính nghiêm trọng. Đơn cử như khi công ty đang trong tình trạng phá sản, nếu những người quản lý công ty từ bỏ quyền đòi nợ công ty có đối với công ty khác thì dĩ nhiên, sự từ bỏ này đã làm hại đến công ty (cụ thể hơn là khả năng trả nợ của công ty) và nó sẽ bị xem là vi phạm nghĩa vụ mẫn cán trung thực đối với không chỉ công ty, các cổ đông của công ty mà còn cả với các chủ nợ của công ty. Điều này thực sự có ý nghĩa như thế nào? Nếu chúng ta cho rằng những thiệt hại là do người quản lý công ty gây ra cho công ty, do đó người quản lý phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với những tổn thất đó là đủ thì đã bỏ qua một điểm mấu chốt vô cùng quan trọng đảm bảo sự nghiêm minh của quy định này, đó chính là cách thức thi hành/buộc thi hành nghĩa vụ này trên thực tế. Xét trong trường hợp đã nêu, nếu những chủ nợ không phải là đối tượng được thụ hưởng nghĩa vụ mẫn cán, trung thực của những người quản lý công ty thì những chủ nợ sẽ không có tư cách (i) yêu cầu những người quản lý công ty thực hiện những nghĩa vụ này với mình hay (ii) yêu cầu tòa án buộc những người quản lý công ty phải hành động hoặc không hành động vì lợi ích của mình. Hay nói cách khác, không có một mối quan hệ trái vụ (trực tiếp) nào giữa những chủ nợ và những người quản lý công ty để làm cơ sở cho quyền yêu cầu, hậu quả là mọi hành động của những chủ nợ công ty, khi muốn bảo vệ lợi ích của mình đều phải hành động thông qua công ty/hội đồng
  • 38. 31 chủ nợ, trên cơ sở yêu cầu công ty hoặc Tòa án thực hiện. Như vậy, sẽ dẫn đến khả năng công ty không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, bỏ qua quyền lợi của những chủ nợ nhất định, vì thực chất công ty (hay chính xác hơn là nhóm người nắm quyền điều hành) hay Tòa án cũng đều không có lợi ích gì từ việc ràng buộc thêm trách nhiệm cho những người quản lý công ty. Tóm lại, nếu tồn tại một nghĩa vụ mẫn cán trung thực mà người quản lý công ty phải thực hiện đối với chủ nợ, mối quan hệ nghĩa vụ này sẽ là động cơ và phương thức để những chủ nợ tự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình một cách hiệu quả. Luật Việt Nam dường như chưa có cách thức quy định như đoạn trên vừa đề cập. Soi chiếu vào Luật Phá sản cũ và Luật Phá sản mới đều không tìm thấy quy định nào có tính chất tương tự. Tuy nhiên, nội dung này lại được thể hiện phần nào trong một quy định có thể được xem là độc nhất của Luật Doanh nghiệp, đó là Điều 190, viết chủ nợ có quyền nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty con đòi công ty mẹ đền bù thiệt hại cho công ty con. Như vậy, mặc dù chưa thể hiện được nguồn gốc của quyền yêu cầu này là nghĩa vụ của người quản lý công ty đối với chủ nợ, quy định này cho phép chủ nợ thực hiện quyền yêu cầu chính xác đối với công ty mẹ trong bối cảnh hành động như một người quản lý của công ty con. Tuy còn hạn chế ở phạm vi nhỏ lẻ, quy định này cho thấy pháp luật Việt Nam có thể tiếp thu nguyên lý này, có thể là bằng cách tiếp nhận quy định tương tự như khoản 3, Điều 172 của Luật Công ty 2006 của Anh yêu cầu người quản lý công ty hành động trong một số trường hợp cụ thể phải cân nhắc hoặc hành động vì lợi ích của các chủ nợ của công ty. Điều 309 Luật Công ty 1985 của Anh quy định rằng những người quản lý công ty trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình có nghĩa vụ coi trọng quyền lợi của người lao động của công ty (nói chung) cũng như lợi ích của
  • 39. 32 các thành viên/cổ đông của công ty. Quy định này cũng tương tự với Điều 172 Luật Công ty 2006 của Anh khi liệt kê quyền lợi của người lao động như là một trong sáu yếu tố mà người quản lý công ty phải quan tâm cùng lúc với thành công của công ty. Chế định này cũng quy định rằng đối với nghĩa vụ này, những người quản lý công ty phải thực hiện đối với công ty và được thi hành cũng giống như bất kỳ nghĩa vụ mẫn cán, trung thực nào khác mà những người quản lý công ty có với công ty. Mặc dù mối quan hệ giữa những người quản lý công ty với các cổ đông và người lao động là khác nhau, họ có nghĩa vụ coi trọng lợi ích của cả hai nhóm này để hoàn thành nghĩa vụ với công ty như một chỉnh thể [13, tr. 377]. Chính vì thế, pháp luật Anh phải quy định một cách rõ ràng cho phép người quản lý công ty hành động vì lợi ích của người lao động mà không phải lo sợ vi phạm của họ với công ty. Tuy nhiên điều này không có nghĩa rằng họ có thể xếp lợi ích của công ty dưới lợi ích của người lao động, VD như kinh doanh lỗ để duy trì việc làm; Mà điều đó có nghĩa rằng quyền lực của các thành viên công ty để phản đối những hoạt động có thể không có lợi cho họ bị hạn chế. VD như một thương vụ mua bán/sáp nhập có thể sẽ phải có những dàn xếp để giảm thiểu sự mất việc làm, với điều kiện là không gây hại quá lớn cho lợi ích tổng thể của công ty. Có thể dễ dàng nhìn thấy, về mặt quy phạm, pháp luật Việt Nam đã ghi nhận những từ ngữ như trung thực, cẩn trọng, tốt nhất, vì lợi ích hợp pháp tối đa của công ty trong các nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tuy nhiên, ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy khoảng cách rất lớn về mặt hiệu quả của quy định đó trong pháp luật Anh – Mỹ và pháp luật Việt Nam. Khoảng cách này, có thể nói là do những nguyên nhân sau: thứ nhất, ở Việt Nam nghĩa vụ mẫn cán, trung thực chưa phải là một lý thuyết pháp lý đầy đủ ý nghĩa như trong hệ thống thông luật, nói cách khác, nội hàm của nghĩa vụ này trong pháp luật Việt Nam rất mơ hồ, không thể xác định. Thứ hai, với sự ảnh hưởng lớn của
  • 40. 33 truyền thống civil law, pháp luật Việt Nam chưa thừa nhận án lệ. Có thể nói đây chính là nguyên nhân chính duy trì sự mơ hồ liên quan đến bản chất của nghĩa vụ của người quản lý công ty khi thực tiễn xét xử không thể bồi đắp và làm sáng tỏ nội hàm của nghĩa vụ đó. * Nghĩa vụ sử dụng quyền hạn đúng mục đích được trao. Nếu những người quản lý công ty sử dụng quyền hạn một cách không trung thực vì những mục đích không phù hợp, ví dụ như kiếm lợi cho bản thân bằng chi phí của công ty, họ sẽ không được xem là hành động thiện chí vì vậy vi phạm nghĩa vụ hành xử thiện chí vì lợi ích của công ty. Tuy nhiên, nếu người quản lý công ty hành động trung thực khi họ tin rằng đó là vì lợi ích tối đa của công ty, họ vẫn có thể phải chịu trách nhiệm nếu họ không sử dụng quyền hạn với đúng những mục đích mà vì thế họ được trao quyền. Trong vụ Hogg v. Gramhorn (1967) vì muốn ngăn chặn một vụ thâu tóm mà họ tin rằng sẽ có hại cho công ty, các giám đốc đã phát hành cổ phần mà mỗi phần có 10 phiếu biểu quyết cho người trustee của quỹ cấp dưỡng cho người lao động. Cổ phần được thanh toán bằng một khoản vay không lãi suất của công ty cho người trustee [14, tr. 241]. Tòa án đã kết luận rằng mục đích hợp lý của phát hành cổ phần là tăng vốn, sự phát hành để ngăn chặn việc thâu tóm là vi phạm nghĩa vụ của người quản lý công ty. Tuy nhiên, việc phát hành vẫn thuộc quyền hạn của công ty, vì thế, có thể được phê chuẩn tại một cuộc họp ĐHĐCĐ. Mục đích phát hành sẽ được xem là không phù hợp nếu cổ phần được phát hành chỉ nhằm mục đích duy nhất là phá bỏ tình trạng chi phối cổ phần (bởi những cổ đông lớn) đang tồn tại trong công ty. Tuy nhiên, cổ phần được phát hành không chỉ nhằm mục đích duy nhất là tăng vốn, ví dụ như một công ty phát hành cổ phần cho một công ty lớn hơn để đảm bảo tính ổn định của chính công ty phát hành.
  • 41. 34 Một ví dụ về việc sử dụng không đúng mục đích quyền hạn có thể được thấy trong những trường hợp mà ở Anh Quốc được gọi là “viên thuốc độc” hay “hàng rào cá mập”. Đó là khi những người quản lý công ty áp dụng những biện pháp/cơ chế phòng thủ chống lại sự mua lại không mong muốn hoặc có ý đồ thù địch hay để thay đổi quyền lực trong HĐQT. Trong vụ Criterion Properties PLC v. Stratford UK Properties (2002), giám đốc của công ty và một cổ đông lớn của công ty ký một hợp đồng mà yêu cầu công ty mua lại cổ phần của họ ở giá cao hơn nếu có bất kỳ sự thay đổi nào trong việc kiểm soát hoặc trong thành phần của HĐQT [14, tr. 219]. Người giám đốc sau đó bị miễn nhiệm và công ty đã yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu hợp đồng đó trên cơ sở cho rằng đó là sự sử dụng không đúng quyền hạn của người quản lý công ty. Tòa án cấp cao (High Court) đã phán quyết rằng đó là sự sử dụng không phù hợp quyền hạn và hợp đồng đó là vô hiệu. Tòa án đã cân nhắc giữa ưu, nhược điểm của việc công ty thi hành hợp đồng và phát hiện ra rằng giá của công ty phải trả khi mua lại cổ phần lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ sự bất lợi nào nếu thay đổi quyền hạn trong HĐQT. Điều 80 của Luật Công ty 1985 Anh Quốc quy định thẩm quyền chấp thuận của công ty đối với sự phân chia cổ phần của những người quản lý công ty và điều đó có thể tác động đến những vụ án đã được quy định, ví dụ như trong vụ Hogg v. Cramhorn. Quy tắc này cũng được áp dụng một cách công bằng đối với những quyền lực khác được trao cho những người quản lý công ty mà không yêu cầu sự chấp thuận của công ty. Ví dụ như việc bắt buộc đăng ký chuyển nhượng cổ phần. Theo đó, trong trường hợp cổ đông đăng ký nhưng không thanh toán đủ số cổ phần đó thì người quản lý công ty có quyền tịch thu toàn bộ số cổ phần mà cổ đông đó đã đăng ký để chuyển nhượng cho người khác. Lưu ý rằng quyền này phải được ghi nhận rõ ràng trong điều lệ của công ty thì mới có khả năng thi hành.
  • 42. 35 Nghĩa vụ sử dụng quyền hạn đúng mục đích được trao có thể nói là nghĩa vụ có phần nội dung ngắn nhất và dễ hiểu nhất trong số các nghĩa vụ luật định cho người quản lý công ty. Điều 171 Luật Công ty 2006 của Anh quy định nghĩa vụ này gồm hai vế, vế thứ nhất là hành động phù hợp với quy định của điều lệ công ty và vế thứ hai là chỉ hành động vì các mục đích mà vì thế họ được trao quyền. Pháp luật Việt Nam đã có các quy định tương tự cho vế thứ nhất với các quy định người quản lý công ty phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của điều lệ cũng như nghị quyết của (các) chủ sở hữu công ty hành động qua ĐHĐCĐ/HĐTV. Vế thứ hai, khi mà mục đích của việc trao quyền cho những người quản lý công ty là một vấn đề khó làm rõ theo pháp luật Việt Nam, cần phải xem xét kỹ lưỡng khi thực hiện quá trình tiếp nhận pháp luật. * Nghĩa vụ hành xử thiện chí và vì lợi ích tổng thể của công ty. Để xem xét loại nghĩa vụ này, trước hết chúng ta cần hiểu rõ hoặc định nghĩa được thế nào là lợi ích của một thực thể pháp lý hoặc pháp nhân. Có một điểm rõ ràng rằng những người quản lý công ty không thể tối đa hóa lợi nhuận kinh tế của công ty nếu bỏ qua lợi ích của các thành viên – khi mà điều đó có thể được thực hiện một cách đơn giản nhất thông qua giữ lại tất cả những cổ tức có thể chia. Cụm từ “lợi ích của công ty” hay “lợi ích tổng thể của công ty” cơ bản được người Anh hiểu rằng người quản lý công ty có nghĩa vụ quan tâm đến lợi ích của những thành viên hiện tại và tương lai của công ty, hay nói cách khác, cụ thể hơn là họ phải nhìn nhận công ty như một thực thể đang tồn tại và phát triển và phải cân bằng những lợi ích dài hạn với những lợi ích trước mắt của những thành viên đang hiện hữu. Ý tưởng này, không gì khác hơn chính là nguyên lý cốt lõi của sự phát triển bền vững, thứ được đề cập nhiều hơn cả trong các chuyên đề/đề tài nghiên cứu về môi trường.
  • 43. 36 Một điều sẽ không được coi là vì lợi ích của công ty nếu họ hành động vì lợi ích của bản thân hoặc vì lợi ích của bên thứ ba mà không xem xét đến lợi ích của công ty. Ở khía cạnh này, pháp luật Anh đã phát triển hơn pháp luật Việt Nam một bậc khi đưa vào yếu tố “xem xét đến lợi ích của công ty” hơn là chỉ có một khía cạnh tư lợi hoặc vì lợi ích của tổ chức, cá nhân khác. Trong vụ Re Roith (1967) một cổ đông chi phối và giám đốc của công ty mong muốn chu cấp cho góa phụ của ông ta mà không cho cô ta sở hữu cổ phần đó, đã dựa trên tư vấn pháp lý của luật sư, lập một hợp đồng với công ty mà theo đó, khi cổ đông chi phối đó chết đi, cô ta sẽ được công ty cấp dưỡng suốt đời. Khi mà mục đích duy nhất của giao dịch là vì lợi ích của người góa phụ, hợp đồng đó không ràng buộc công ty vì người quản lý công ty đã không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đó khi anh ta vi phạm nghĩa vụ hành động vì lợi ích của công ty. Năm 2003, trong vụ Bristish Midland Tools v. Midland International Trading, hai giám đốc của nguyên đơn chuẩn bị nghỉ hưu đã cũng với một giám đốc nghỉ hưu trước đó thành lập một công ty đối thủ, tòa án đã kết luận rằng họ đã vi phạm nghĩa vụ hành xử thiện chí vì lợi ích của công ty khi mà trong lúc họ còn đương chức [14, tr. 249]. Sai phạm ở đây là việc họ đã không có hành động thích hợp để ngăn chặn công ty đối thủ tiếp cận và mời những người lao động của công ty chuyển sang làm việc cho công ty đó (thực tế đã có 12 người lao động chuyển việc). Vì những người quản lý này sẽ có được lợi ích khi những người lao động chuyển sang công ty mà họ đã thành lập, hành vi không hành động của họ được xem là vi phạm nghĩa vụ hành động thiện chí, vì lợi ích tổng thể của công ty cũ. Việc từ thiện và quyên góp chính trị với giá trị đáng kể có thể đem lại những lợi ích cho công ty khi mà nó là một thực thể đang tồn tại và phát triển, nhưng nếu công ty đang chuẩn bị chấm dứt hoạt động thì không có lợi ích nào
  • 44. 37 có thể đạt được khi hành động vì lợi ích của những người bên ngoài công ty. Trong trường hợp đó, lợi ích của công ty phải được giới hạn trong lợi ích của các thành viên hiện tại (vì trên thực tế, khi công ty chấm dứt hoạt động, sẽ không còn có thành viên tương lai nào hết). Nếu sự vi phạm nghĩa vụ là dưới hình thức sử dụng sai tài sản của công ty thì người nhận được tài sản đó và người biết về vi phạm sẽ có nghĩa vụ như một người trustee với công ty và phải hoàn trả tài sản cho công ty. Nghĩa vụ này trong Luật Công ty 2006 của Anh còn quy định rằng, sáu yếu tố bắt buộc sau cũng phải được xem xét trong quá trình người quản lý công ty thúc đẩy sự thành công của công ty: (i) hậu quả trong dài hạn của bất kỳ quyết định nào; (ii) lợi ích của người lao động của công ty; (iii) quan hệ của công ty với các nhà cung cấp và khách hàng; (iv) tác động của các hoạt động của công ty đến cộng đồng và môi trường; (v) lợi thế của công ty khi có tiếng là có tiêu chuẩn nghề nghiệp cao; và (vi) sự công bằng giữa các cổ đông/thành viên. Có thể thấy, những tiêu chí này hướng đến sự phát triển bền vững, hài hòa của công ty trong mối quan hệ với những lợi ích khác hơn là lợi nhuận. Mặc dù vậy, những yếu tố này cũng bị đánh giá là chưa đầy đủ và tạo ra một số gánh nặng không cần thiết cho những người quản lý công ty, đặc biệt là liên quan đến việc chứng minh sự tuân thủ với quy định này. Pháp luật Việt Nam hiện nay không có quy định nào liên quan đến việc người quản lý công ty phải thúc đẩy sự thành công của công ty theo hướng phát triển mà chủ yếu chỉ là yêu cầu tuân thủ, không gây hại hoặc không vi phạm, hay nói cách khác, là ở dạng thức bị động. Ngoài ra, một số trong sáu tiêu chí kể trên hiện tại được coi là trách nhiệm của doanh nghiệp chứ chưa thiết lập được mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ hiện thực hóa những điều đó bởi người quản lý công ty.
  • 45. 38 * Nghĩa vụ duy trì sự tự do hành động. Những người quản lý công ty phải đưa ra quyết định một cách độc lập. Những người quản lý công ty không thể hợp đồng hợp pháp với nhau hoặc với bên thứ ba để hành động/biểu quyết theo một cách thức nhất định nếu họ được quyền biểu quyết trong các cuộc họp HĐQT. Nghĩa vụ này của người quản lý công ty sẽ không bị xem là vi phạm nếu quyết định của họ bị ràng buộc bởi (i) thỏa thuận của công ty hạn chế quyền quyết định của những người quản lý công ty của mình hoặc (ii) những cách thức được cho phép trong điều lệ công ty. Thông thường, bên cho vay sẽ chắc chắn muốn có người đại diện của mình tham gia HĐQT của công ty vay như một điều kiện để cho vay. Bằng cách này, bên cho vay đó sẽ có thể can thiệp vào công việc quản trị của công ty vay, từ đó đảm bảo các lợi ích của mình, đặc biệt là với khoản vay. Về mặt lý thuyết, nghĩa vụ của người quản lý công ty đó sẽ là đối với công ty chứ không phải đối với bên cho vay đã đề cử họ. Một ví dụ khác là trong các công ty liên doanh, khi mà mỗi bên liên doanh sẽ cử một số người quản lý công ty. Tuy nhiên, những người quản lý này phải hành động vì lợi ích tổng thể của công ty chứ không phải vì lợi ích nhóm của bên liên doanh đã bổ nhiệm họ. Ngoài ra, nghĩa vụ này cũng có ý nghĩa ràng buộc những người quản lý công ty không thể từ bỏ quyền đưa ra các quyết định của mình, ví dụ như ủy quyền mà không thể hủy ngang hoặc không thể thay đổi ý định. Có thể nói, ở khía cạnh nào đó, nghĩa vụ duy trì tự do hành động của người quản lý công ty có phần giống với nguyên tắc độc lập tư pháp, thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Cũng tương đồng với mục đích đó, sự độc lập trong đưa ra phán quyết/quyết định được cho là đảm bảo sự đánh giá là khách quan, trung thực và không thiên vị, từ đó đảm bảo được lợi ích của công ty. Pháp luật doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa có quy